Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 01

PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập I

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

2. 3. ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ BA

  

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự ở thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) tử thi, ngợi khen về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) tử thi thế nầy thế khác cho các tỳ khưu bằng nhiều phương thức.

 

2. Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta muốn thiền tịnh trong nửa tháng. Không ai đến gặp Ta ngoại trừ một vị mang lại vật thực.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Các vị tỳ khưu ấy đă trả lời đức Thế Tôn. Và quả thật không có vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực.

 

3. Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Quả thật, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) tử thi, ngợi khen về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) tử thi thế nầy thế khác bằng nhiều phương thức,” rồi các vị ấy sống chuyên chú gắn bó vào việc tu tập về (đề mục) tử thi với nhiều động cơ khác nhau.

 

4. Các vị ấy bị khổ sở, xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của ḿnh. Cũng giống như người nữ hoặc người nam c̣n trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội đầu bị khổ sở, xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người chết máng vào cổ; tương tợ như thế, các vị tỳ khưu ấy trong khi bị khổ sở, xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của ḿnh, (một số) tự ḿnh đoạt lấy mạng sống của chính ḿnh, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika rồi nói như vầy: - “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hăy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và b́nh bát này sẽ thuộc về ngươi.”

 

5. Sau đó, Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika được trả công bằng các y và b́nh bát đă đoạt lấy mạng sống nhiều vị tỳ khưu rồi cầm cây gươm đẫm máu đi đến ḍng sông Vaggumudā. Khi ấy, trong lúc chùi rửa cây gươm đẫm máu Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika đă có sự ăn năn, đă có nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đă có cho ta! Thật là điều lợi ích đă không có cho ta! Ta đă đạt được điều xấu! Ta đă không đạt được điều tốt! Quả thật ta đă gây ra nhiều điều bất thiện là việc ta đă đoạt lấy mạng sống của các vị tỳ khưu có giới hạnh có thiện pháp!”

 

6. Khi ấy, có vị Thiên nhân nọ là tùy tùng của Ma Vương đă đi đến ở trên mặt nước (nhưng mặt nước sông) vẫn không bị làm chao động và đă nói với Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika điều này: - “Này kẻ thiện nhân, tốt lắm, tốt lắm! Này kẻ thiện nhân, điều lợi ích đă có cho ngươi! Này kẻ thiện nhân, ngươi đă đạt được điều tốt! Này kẻ thiện nhân, ngươi đă tạo nhiều phước báu là việc ngươi đă giải thoát cho những kẻ chưa được giải thoát!”

 

7. Khi ấy, Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika (nghĩ rằng): “Họ nói điều lợi ích đă có cho ta! Họ nói ta đă đạt được điều tốt! Họ nói ta đă tạo nhiều phước báu! Họ nói ta giải thoát cho những kẻ chưa được giải thoát!” rồi cầm cây gươm bén đi đến từng trú xá một, từng pḥng một nói như vầy: - “Vị nào chưa giải thoát? Ta giải thoát cho vị nào đây?”

 

Tại nơi ấy, các tỳ khưu nào chưa ĺa tham ái, các vị ấy vào thời điểm ấy trở nên sợ hăi, thân run rẩy, lông dựng đứng. C̣n các tỳ khưu nào đă ĺa tham ái, các vị ấy vào lúc ấy là không sợ hăi, thân không run rẩy, lông không dựng đứng.

 

8. Rồi Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika trong một ngày đă đoạt mạng một vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng hai vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng ba vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng bốn vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng năm vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng mười vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng hai mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng ba mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng bốn mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng năm mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đă đoạt mạng sáu mươi vị tỳ khưu.

 

9. Sau đó, khi trải qua nửa tháng ấy, đức Thế Tôn đă xuất khỏi thiền tịnh và bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, có phải hội chúng tỳ khưu dường như bị ít đi?”

 

10. - “Bạch ngài, sở dĩ như thế là v́ đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) tử thi, ngợi khen về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) tử thi thế nầy thế khác cho các tỳ khưu bằng nhiều phương thức. Và bạch ngài, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): ‘Quả thật, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) tử thi, ngợi khen về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) tử thi, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) tử thi thế nầy thế khác bằng nhiều phương thức,’ rồi các vị ấy sống chuyên chú gắn bó vào việc tu tập về (đề mục) tử thi do nhiều động cơ khác nhau. Các vị ấy bị khổ sở, xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của ḿnh. Cũng giống như người nữ hoặc người nam c̣n trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội đầu bị khổ sở, xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người chết máng vào cổ; tương tợ như thế, các tỳ khưu ấy trong khi bị khổ sở, xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của ḿnh (một số) tự ḿnh đoạt lấy mạng sống của chính ḿnh, (một số) đoạt mạng lẫn nhau, (một số) đi đến gặp Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika rồi nói như vầy: ‘Này đạo hữu, tốt thay ngươi hăy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và b́nh bát này sẽ thuộc về ngươi.’ Bạch ngài, rồi Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika được trả công bằng các y và b́nh bát trong một ngày đă đoạt mạng một vị tỳ khưu, ―(như trên)― trong một ngày đă đoạt mạng sáu mươi vị tỳ khưu. Bạch ngài, lành thay xin đức Thế Tôn hăy chỉ dạy phương pháp khác theo đó hội chúng tỳ khưu này có thể đạt được trí giải thoát.”

 

11. - “Này Ānanda, vậy th́ có bao nhiêu tỳ khưu sống gần thành Vesālī, ngươi hăy triệu tập tất cả các vị ấy ở pḥng hội họp.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Đại đức Ānanda đă đáp lời đức Thế Tôn. Rồi có bao nhiêu tỳ khưu sống gần thành Vesālī, đại đức Ānanda đă triệu tập tất cả các vị ấy ở pḥng hội họp rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, hội chúng tỳ khưu đă được triệu tập. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy suy tính bây giờ là thời điểm của việc ǵ.”

 

12. Sau đó, đức Thế Tôn đă đi đến pḥng hội họp, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập, được làm cho tăng trưởng, là thanh tịnh, cao quư, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức và làm tịnh lặng các pháp ác và bất thiện đă sanh hoặc chưa sanh khởi. Này các tỳ khưu, cũng giống như cơn mưa lớn sái mùa vào tháng cuối của mùa nóng làm biến mất ngay lập tức và làm lắng xuống các bụi bặm đă bốc lên; này các tỳ khưu, tương tợ như thế định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập, được làm cho tăng trưởng, là thanh tịnh, cao quư, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức và làm tịnh lặng các pháp ác và bất thiện đă sanh hoặc chưa sanh khởi.

 

13. Và này các tỳ khưu, thế nào là định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập? Thế nào là được làm cho tăng trưởng, là thanh tịnh, cao quư, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức và làm tịnh lặng các pháp ác và bất thiện đă sanh hoặc chưa sanh khởi?

 

14. Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm, vị ấy thở ra; có niệm, vị ấy thở vào:[1]

 

Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết: “Tôi thở ra dài;” hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: “Tôi thở vào dài,” hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận biết: “Tôi thở ra ngắn;” hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: “Tôi thở vào ngắn.”[2]Nhận biết rơ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở ra[3] vị ấy thực tập, “Nhận biết rơ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rơ hỷ, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rơ hỷ, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rơ lạc, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rơ lạc, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rơ các thành phần của tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rơ các thành phần của tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rơ tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rơ tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được hân hoan, ―(như trên)― “Tâm được định tĩnh, ―(như trên)― “Tâm được giải thoát, ―(như trên)― “ Quán xét về vô thường, ―(như trên)― “Quán xét về ly tham, ―(như trên)― “Quán xét về đoạn diệt, ―(như trên)― “Quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập.

 

Này các tỳ khưu, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập như thế, được làm cho tăng trưởng như thế, được thanh tịnh, cao quư, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức và làm tịnh lặng các pháp ác và bất thiện đă sanh hoặc chưa sanh khởi.”

 

15. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu (một số) tự ḿnh đoạt lấy mạng sống của chính ḿnh, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: ‘Này đạo hữu, tốt thay ngươi hăy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và b́nh bát này sẽ thuộc về ngươi,’ có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những tỳ khưu ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ấy lại tự ḿnh đoạt lấy mạng sống của chính ḿnh, lại đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, lại đi đến gặp Sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: ‘Này đạo hữu, tốt thay ngươi hăy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và b́nh bát này sẽ thuộc về ngươi’ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào cố ư đoạt lấy mạng sống con người hoặc t́m cách đem lại vũ khí cho người ấy; vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

[Sự quy định căn bản]

 

1. Vào lúc bấy giờ, có người nam cư sĩ nọ bị bệnh. Vợ của người ấy th́ đẹp dáng, đáng nh́n, khả ái. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đem ḷng say đắm người đàn bà ấy. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă bàn bạc rằng: - “Này các đại đức, nếu người nam cư sĩ ấy c̣n sống th́ chúng ta sẽ không đạt được người đàn bà ấy. Này các đại đức, vậy chúng ta hăy ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ ấy.”

 

2. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi đến gặp người nam cư sĩ ấy, sau khi đến đă nói với người nam cư sĩ ấy điều này: - “Này cư sĩ, quả thật ngươi có điều tốt đă làm, có điều thiện đă làm, sự sợ hăi lúc lâm chung đă được khắc phục, có điều ác không làm, điều tàn bạo không làm, điều tội lỗi không làm. Ngươi đă làm điều tốt đẹp, ngươi đă không làm điều ác, vậy th́ c̣n ǵ cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ngươi c̣n tốt hơn sự sống vậy. Khi chết đi từ chỗ này, khi tan ră thân xác và chết đi, ngươi sẽ được sanh về cảnh giới tốt đẹp là cơi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng, được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ngươi sẽ măn nguyện.

 

3. Khi ấy, người nam cư sĩ ấy (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đă nói sự thật bởi v́ ta là người có điều tốt đă làm, có điều thiện đă làm, sự sợ hăi lúc lâm chung đă được khắc phục, có điều ác không làm, điều tàn bạo không làm, điều tội lỗi không làm. Ta đă làm điều tốt đẹp, ta đă không làm điều ác, vậy th́ c̣n ǵ cho ta với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ta c̣n tốt hơn sự sống vậy. Từ chỗ này, khi tuổi thọ đă hết, khi tan ră thân xác và chết đi, ta sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cơi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ta sẽ măn nguyện.”

 

 Và vị ấy đă ăn các thức ăn không hợp, đă nhai các vật nhai không hợp, đă nếm các thức nếm không hợp, đă uống các thức uống không hợp. Khi vị ấy đă ăn các thức ăn không hợp, đă nhai các vật nhai không hợp, đă nếm các thức nếm không hợp, và đă uống các thức uống không hợp, bệnh nặng đă phát khởi. Chính v́ cơn bệnh ấy, vị ấy đă từ trần.

 

4. Vợ của vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có Sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đă bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đă bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đă không c̣n! Phạm hạnh của các vị này đă không c̣n! Các vị này đă ca ngợi lợi ích của sự chết đến chồng của tôi. Chồng của tôi đă bị giết chết bởi các vị này.”

 

5. Những người khác cũng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có Sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đă bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đă bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đă không c̣n! Phạm hạnh của các vị này đă không c̣n! Các vị này đă ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ. Người nam cư sĩ đă bị giết chết bởi các vị này.”

 

6. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ?”

 

7. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đă ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào cố ư đoạt lấy mạng sống con người, hoặc t́m cách đem lại vũ khí cho người ấy, hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết, hoặc xúi giục đưa đến sự chết: - ‘Này người ơi, c̣n ǵ cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ngươi c̣n tốt hơn sự sống!’ Vị có tâm ư và có tâm tư như thế rồi bằng nhiều phương thức ca ngợi lợi ích của sự chết hoặc xúi giục đưa đến sự chết, vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.

 

[Sự quy định lần hai]

 

8. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Cố ư: là sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ư định, sau khi đă suy nghĩ, sau khi đă khẳng định.

 

Con người nghĩa là vật ǵ ở khoảng giữa thời gian từ lúc tâm đầu tiên được sanh lên (tức là) thức đầu tiên hiện hữu trong bụng mẹ cho đến lúc chết; vật ấy gọi là con người.

 

Đoạt lấy mạng sống: cắt đứt mạng quyền, làm hủy hoại, làm tổn hại sự tiếp nối.

 

Hoặc t́m cách đem lại vũ khí cho người ấy: là thanh gươm, là cây giáo, là mũi tên, là cọc nhọn, là dùi cui, là tảng đá, là cây kiếm, là thuốc độc, hoặc là dây thừng.

 

Hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự nguy hiểm trong sự sống và nói khen ngợi về sự chết.

 

Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hăy mang lại cây kiếm, hoặc hăy nhai thuốc độc, hoặc hăy dùng dây thừng treo lên rồi chết đi.”

 

Này người ơi: Đây là lối nói xưng hô “Này người ơi!”

 

C̣n ǵ cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, Cuộc sống nghĩa là tội lỗi. So với cuộc sống của những người giàu, cuộc sống của những người nghèo là tội lỗi. So với cuộc sống của những người có tài sản, cuộc sống của những người không có tài sản là tội lỗi. So với cuộc sống của chư Thiên, cuộc sống của loài người là tội lỗi. Mạng sống xấu xa nghĩa là đối với người bị cụt tay, đối với người bị cụt chân, đối với người bị cụt tay và chân, đối với người bị đứt tai, đối với người bị đứt mũi, đối với người bị đứt tai và mũi (nói rằng): “C̣n ǵ với sự tội lỗi này, với mạng sống xấu xa này, sự chết đối với ngươi c̣n tốt hơn sự sống!”

 

Có tâm ư như thế: Ư nào tâm nấy, tâm nào ư nấy.

 

Có tâm tư: có sự suy tưởng về sự chết, có sự suy tư về sự chết, có sự suy nghĩ về sự chết

 

Bằng nhiều phương thức: bằng nhiều cách khác nhau.

 

Ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự bất hạnh trong mạng sống và nói lời khen ngợi về sự chết: “Khi chết đi từ chỗ này, khi tan ră thân xác, ngươi sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cơi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ngươi sẽ măn nguyện.”

 

Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hăy mang lại cây kiếm, hoặc hăy nhai thuốc độc, hoặc hăy dùng dây thừng treo lên rồi chết đi, hoặc nhảy vào khe nứt, vào hố sâu, hoặc xuống vực thẳm.”

 

Vị này cũng: được đề cập liên quan đến các vị trước đây.

 

Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như tảng đá lớn bị bể làm hai không thể gắn liền lại được, tương tợ như thế vị tỳ khưu cố ư đoạt lấy mạng sống con người th́ không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử; v́ thế được gọi là ‘vị phạm tội pārājika.’

 

 Không được cộng trú: cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, v́ thế được gọi là ‘không được cộng trú.’

 

*****

 

[Tiêu đề hướng dẫn]

 

1. Tự ḿnh, bằng cách khẳng định, bằng người đưa tin, bằng người đưa tin theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin không theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin đă đi rồi quay trở lại, hiện diện nghĩ là không hiện diện, không hiện diện nghĩ là hiện diện, hiện diện nghĩ là hiện diện, không hiện diện nghĩ là không hiện diện, ca ngợi bằng thân, ca ngợi bằng lời nói, ca ngợi bằng thân và bằng lời nói, ca ngợi bằng người đưa tin, ca ngợi bằng chữ khắc, cái hố đào, sự trợ giúp, việc để bên cạnh, dược phẩm, sự đem lại cảnh sắc, sự đem lại cảnh thinh, sự đem lại cảnh khí, sự đem lại cảnh vị, sự đem lại cảnh xúc, sự đem lại cảnh pháp, sự chỉ bảo, sự dạy dỗ, hành động theo sự quy định, hành động theo dấu hiệu.

 

2. Tự ḿnh: vị đích thân giết bằng (cách sử dụng) thân thể (tay, chân, nắm đấm, đầu gối, v.v...), hoặc bằng vật dính liền với thân thể (gươm, dao, v.v...), hoặc bằng vật được phóng ra (ví dụ mũi tên).

 

3. Bằng cách khẳng định: sau khi khẳng định rồi ra lệnh rằng: “Ngươi hăy đâm như vầy, hăy đánh như vầy, hăy giết như vầy.”

 

4. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt lấy mạng sống của người ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.

 

5. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt lấy mạng sống của người khác th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị giết người phạm tội pārājika.

 

6. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt lấy mạng sống của người ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.

 

7. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt lấy mạng sống của người khác th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị giết người phạm tội pārājika.

 

8. Vị tỳ khưu (A)[4] chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hăy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hăy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy’” th́ vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa. Vị (nào) nói cho vị khác th́ vị (nói) ấy phạm tội dukkaṭa. Vị giết người (D) đồng ư th́ vị khởi xướng (A) phạm tội thullaccaya; vị ấy (D) đoạt lấy mạng sống của người ấy th́ tất cả đều phạm tội pārājika.

 

9. Vị tỳ khưu (A) chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hăy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hăy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy’” th́ vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa. Vị ấy (B) chỉ thị vị khác (D) th́ vị ấy (B) phạm tội dukkaṭa. Vị giết người (D) đồng ư th́ vị ấy (D) phạm tội dukkaṭa; vị ấy (D) đoạt lấy mạng sống của người ấy th́ vị khởi xướng (A) vô tội, vị truyền chỉ thị (B) và vị giết người (D) phạm tội pārājika.

 

10. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia đi rồi quay trở lại (nói rằng): “Tôi không thể đoạt lấy mạng sống người ấy.” Vị ấy lại chỉ thị thêm: “Khi nào ngươi có thể th́ khi ấy ngươi hăy đoạt lấy mạng sống người ấy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.

 

11. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận nhưng không nói rơ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.

 

12. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rơ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tôi đă được ngài chỉ thị” rồi đoạt lấy mạng sống người ấy th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị giết người phạm tội pārājika.

 

13. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rơ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tốt thôi” rồi ngưng lại th́ cả hai vô tội.

 

14. Hiện diện, nghĩ là không hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” th́ phạm tội dukkaṭa. Không hiện diện, nghĩ là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” th́ phạm tội dukkaṭa. Hiện diện, nghĩ là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” th́ phạm tội dukkaṭa. Không hiện diện, nghĩ là không hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” th́ phạm tội dukkaṭa.

 

15. Ca ngợi bằng thân nghĩa là làm cử chỉ bằng thân rằng: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cơi trời” th́ phạm tội dukkaṭa. (Vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

16. Ca ngợi bằng lời nói nghĩa là nói ra bằng lời nói rằng: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cơi trời” th́ phạm tội dukkaṭa. (Vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

17. Ca ngợi bằng thân và bằng lời nói nghĩa là làm cử chỉ bằng thân và nói ra bằng lời nói rằng: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cơi trời” th́ phạm tội dukkaṭa. (Vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

18. Ca ngợi bằng người đưa tin nghĩa là nói ra lời chỉ dẫn cho người đưa tin: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cơi trời” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nghe lời chỉ dẫn của người đưa tin, (vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

19. Ca ngợi bằng chữ khắc nghĩa là khắc chữ: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cơi trời” th́ phạm tội dukkaṭa với mỗi mẫu tự. (Vị kia) sau khi nh́n thấy chữ khắc (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

20. Cái hố đào nghĩa là đào cái hố dành cho người (nghĩ rằng): “Sau khi rơi xuống sẽ chết” th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đă bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho vị kia) th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. Đào cái hố không có chỉ định (nghĩ rằng): “Bất cứ ai rơi xuống sẽ chết” th́ phạm tội dukkaṭa. (Nếu) con người rơi vào đó th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đă bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho vị kia) th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. (Nếu) Dạ-xoa, ngạ quỷ, hoặc thú có dạng người rơi vào đó th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đă bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho kẻ ấy) th́ phạm tội dukkaṭa; (kẻ ấy) chết đi th́ phạm tội thullaccaya. (Nếu) con thú rơi vào đó th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đă bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho con thú) th́ phạm tội dukkaṭa; (con thú) chết đi th́ phạm tội pācittiya.

 

21. Sự trợ giúp nghĩa là trong sự trợ giúp vị đặt vũ khí, hoặc thoa thuốc độc, hoặc làm cho yếu đi, hoặc đem để ở chỗ khe nứt hay ở hố sâu hoặc nơi vực thẳm (nghĩ rằng): “Với việc này, sau khi rơi xuống sẽ chết” th́ phạm tội dukkaṭa. Do vũ khí, hoặc do thuốc độc, hoặc do bị rơi xuống khiến cảm thọ khổ sanh khởi (cho vị kia) th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

22. Việc để bên cạnh nghĩa là đem lại gần bên hoặc là thanh gươm, hay là cây giáo, hoặc là mũi tên, hay là cọc nhọn, hoặc là dùi cui, hay là tảng đá, hoặc là cây kiếm, hay là thuốc độc, hoặc là dây thừng (nghĩ rằng): “(Người ấy) sẽ chết bằng vật này” th́ phạm tội dukkaṭa. (Vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ chết bằng vật ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

23. Dược phẩm nghĩa là cho bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật, hoặc đường mía (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vật này sẽ bị chết” th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đang nếm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi (cho vị kia) th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

24. Sự đem lại cảnh sắc nghĩa là đem lại cảnh sắc trái ư, dễ sợ, khủng khiếp (nghĩ rằng): “Sau khi nh́n thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nh́n thấy cảnh sắc ấy, (vị kia) bị hoảng hốt th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh sắc hợp ư, dễ thương, đáng yêu (nghĩ rằng): “Sau khi nh́n thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị thất vọng v́ không đạt được và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nh́n thấy cảnh sắc ấy, (vị kia) bị thất vọng v́ không đạt được th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

25. Sự đem lại cảnh thinh nghĩa là đem lại cảnh thinh trái ư, dễ sợ, khủng khiếp (nghĩ rằng): “Sau khi nghe được âm thanh này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nghe được âm thanh ấy, (vị kia) bị hoảng hốt th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh thinh hợp ư, dễ thương, đáng yêu (nghĩ rằng): “Sau khi nghe được âm thanh này (người ấy) sẽ bị thất vọng v́ không đạt được và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nghe được âm thanh ấy, (vị kia) bị thất vọng v́ không đạt được th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

26. Sự đem lại cảnh khí nghĩa là đem lại cảnh khí trái ư, ghê tởm, khó chịu (nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này, do sự ghê tởm và do sự chán ghét (người ấy) sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi ngửi mùi ấy, do sự ghê tởm và do sự chán ghét (vị kia) có cảm thọ khổ sanh khởi th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh khí hợp ư (nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này (người ấy) sẽ bị thất vọng v́ không đạt được và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi ngửi mùi ấy, (vị kia) bị thất vọng v́ không đạt được th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

27. Sự đem lại cảnh vị nghĩa là đem lại cảnh vị trái ư, ghê tởm, khó chịu (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này, do sự ghê tởm và do sự chán ghét (người ấy) sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nếm vị ấy, do sự ghê tởm và do sự chán ghét (vị kia) có cảm thọ khổ sanh khởi th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh vị hợp ư (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này (người ấy) sẽ bị thất vọng v́ không đạt được và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nếm vị ấy, (vị kia) bị thất vọng v́ không đạt được th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

28. Sự đem lại cảnh xúc nghĩa là đem lại cảnh xúc trái ư, gây đau đớn, thô cứng (nghĩ rằng): “Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Khi (vị kia) đụng chạm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh xúc hợp ư, gây khoái lạc, mềm mại (nghĩ rằng): “Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ bị thất vọng v́ không đạt được và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đụng chạm vật ấy, (vị kia) bị thất vọng v́ không đạt được th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

29. Sự đem lại cảnh pháp nghĩa là thuyết bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và sẽ chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nghe được điều ấy, (vị kia) bị hoảng hốt th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika. (Vị) thuyết bài giảng về cơi trời của nghiệp lành (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị tác động rồi chết đi” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi nghe được điều ấy, (vị kia) bị tác động (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

30. Sự chỉ bảo nghĩa là khi được hỏi, vị nói rằng: “Nên chết như vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cơi trời” th́ phạm tội dukkaṭa. (Vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách chỉ bảo ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

31. Sự dạy dỗ nghĩa là khi không được hỏi, vị nói rằng: “Nên chết như vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cơi trời” th́ phạm tội dukkaṭa. (Vị kia nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách dạy dỗ ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ th́ phạm tội thullaccaya; (vị kia) chết đi th́ phạm tội pārājika.

 

32. Hành động theo sự quy định nghĩa là lập nên sự quy định rằng: “Hăy đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy, hoặc là trước bữa ăn, hoặc là sau bữa ăn, hoặc là ban đêm, hoặc là ban ngày” th́ phạm tội dukkaṭa; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy th́ cả hai phạm tội pārājika; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau giờ hẹn ấy th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị giết người phạm tội pārājika.

 

33. Hành động theo dấu hiệu nghĩa là lập nên dấu hiệu rằng: “Tôi sẽ nháy mắt, hoặc là tôi sẽ nhướng mày, hoặc là tôi sẽ ngẩng đầu lên, ngươi hăy đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy th́ cả hai phạm tội pārājika; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau dấu hiệu ấy th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị giết người phạm tội pārājika.

 

34. Vị không cố ư, vị không biết, vị không có ư muốn gây tử vong, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt tụng phẩm thứ nhất về tội pārājika v́ giết người.

 

--ooOoo--

 

 

 CHUYỆN DẪN GIẢI

 

 

KỆ NGÔN TÓM LƯỢC

 

Việc ca ngợi, vị đang ngồi xuống, cái chày và cối giă, chuyện các vị già xuất gia, mắc nghẹn thịt, thuốc độc.

 

Ba chuyện làm nền đất, ba chuyện khác về gạch, lưỡi ŕu, và luôn cả khung gỗ, giàn giáo, leo xuống, vị bị té.

 

Hơ nóng, mũi, xoa bóp, việc tắm, và thoa dầu, trong khi nâng dậy, và xô ngă, chết bởi v́ cơm, nước.

 

Có thai với nhân t́nh, và người có hai vợ, giết chết hai mẹ con, cả hai không bị chết, chà xát, đốt nóng, không sanh, c̣n sanh sản.

 

Thọt lét, sự trả thù, Dạ-xoa, quỷ dữ tợn, và vị phái người đi, tưởng vị ấy rồi giết, giảng về cơi trời và địa ngục.

 

Ba chuyện về cây cối ở Āḷavi, ba chuyện khác về lửa, chớ làm cho khổ sở, không theo cách của ngài, (cho uống) sữa c̣n bơ, và giấm mặn.

 

*****

 

1. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu v́ ḷng trắc ẩn đă ca ngợi lợi ích của sự chết đến vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng chúng ta đă phạm tội pārājika?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (1)

 

2. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ trong lúc ngồi xuống đă đè lên đứa bé trai được phủ bởi tấm màn ở trên chiếc ghế và gây ra tử vong. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, khi chưa xem xét không nên ngồi xuống ở chỗ ngồi; vị nào ngồi xuống th́ phạm tội dukkaṭa.” (2)

 

3. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ, trong lúc sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà, khi cái chày được đưa lên th́ đă cầm lấy một cái chày. Cái chày thứ hai đă rơi xuống và chạm mạnh vào đỉnh đầu của đứa bé trai nọ. Đứa bé đă chết đi. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không cố ư.” - “Này tỳ khưu, không cố ư th́ vô tội.” (3)

 

4. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà đă bước lên vật dụng là cối giă khiến (chúng) quay tṛn rồi chạm mạnh vào đứa bé trai nọ và gây ra tử vong. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không cố ư th́ vô tội.” (4)

 

5. Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đă nói với người cha điều này: - “Thưa cha, hăy đi. Hội chúng chờ đợi cha,” rồi đă nắm lấy ở lưng và đẩy tới. Người cha đă té xuống và chết đi. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không có ư muốn gây tử vong.” - “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (5)

 

6. Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đă nói với người cha điều này: - “Thưa cha, hăy đi. Hội chúng chờ đợi cha,” rồi đă nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ư muốn gây tử vong. Người cha đă té xuống và chết đi. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (6)

 

7. Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đă nói với người cha điều này: - “Thưa cha, hăy đi. Hội chúng chờ đợi cha,” rồi đă nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ư muốn gây tử vong. Người cha đă té xuống và không bị chết. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.”(7)

 

8. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đă bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác đă vỗ vào cổ của vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đă rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (8)

 

9. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đă bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác có ư muốn gây tử vong đă vỗ vào cổ của vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đă rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (9)

 

10. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đă bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác có ư muốn gây tử vong đă vỗ vào cổ của vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đă rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (10)

 

11. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ sau khi nhận được vật thực có thuốc độc đă mang trở về và dâng các tỳ khưu nếm thử trước. Các tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không biết (có độc).” - “Này tỳ khưu, vị không biết th́ vô tội.” (11)

 

12. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn thử nghiệm đă trao thuốc độc cho vị tỳ khưu khác. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con có ư muốn thử nghiệm.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (12)

 

13. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa đá lên. Viên đá được vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về đă chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không cố ư th́ vô tội.” (13)

 

14. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa đá lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ư muốn gây tử vong nên đă thả viên đá ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (14)

 

15. Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)― Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (15)

 

16. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi xây dựng bức tường của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa gạch lên. Viên gạch được vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về đă chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không cố ư th́ vô tội.” (16)

 

17. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi xây dựng bức tường của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa gạch lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ư muốn gây tử vong nên đă thả viên gạch ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (17-18)

 

18. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi xây dựng công tŕnh mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa lưỡi ŕu lên. Lưỡi ŕu được vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về đă chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không cố ư th́ vô tội.” (19)

 

19. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi xây dựng công tŕnh mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa lưỡi ŕu lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ư muốn gây tử vong nên đă thả lưỡi ŕu ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (20-21)

 

20. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi xây dựng công tŕnh mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa khung gỗ lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về khiến khung gỗ chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không cố ư th́ vô tội.” (22)

 

21. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi xây dựng công tŕnh mới. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đă đưa khung gỗ lên. Khung gỗ được vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy vụng về đă chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (23-24)

 

22. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi trong khi xây dựng công tŕnh mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỳ khưu nọ đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, hăy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.” Vị ấy đă đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đă bị té xuống và chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không có ư muốn gây tử vong.” “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (25)

 

23. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi trong khi xây dựng công tŕnh mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỳ khưu nọ có ư muốn gây tử vong đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, hăy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.” Vị ấy đă đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đă bị té xuống và chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―đứng ở chỗ ấy] đă bị té xuống và không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (26-27)

 

24. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị tỳ khưu khác đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, hăy leo xuống từ chỗ này.” Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đă bị té xuống và chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (28)

 

25. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị tỳ khưu khác có ư muốn gây tử vong đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, hăy leo xuống từ chỗ này.” Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đă bị té xuống và chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] đă bị té xuống và không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (29-30)

 

26. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đă leo lên đỉnh núi Gijjhakūṭa và trong khi lao xuống vách núi đă chạm người đan giỏ nọ và đă gây ra tử vong. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên lao ḿnh xuống; vị nào lao xuống th́ phạm tội dukkaṭa.” (31)

 

27. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi leo lên núi Gijjhakūṭa đă ném đá để đùa giỡn. Viên đá đă chạm vào người chăn ḅ nọ và gây ra tử vong. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên ném đá để đùa giỡn; vị nào ném th́ phạm tội dukkaṭa.” (32)

 

28. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă hơ nóng vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (33)

 

29. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă hơ nóng vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (34-35)

 

30. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỳ khưu đă cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (36)

 

31. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (37-38)

 

32. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă xoa bóp vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (39)

 

33. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă xoa bóp vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (40-41)

 

34. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă tắm cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (42)

 

35. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă tắm cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (43-44)

 

36. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă thoa dầu cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (45)

 

37. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă thoa dầu cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (46-47)

 

38. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă đỡ vị ấy đứng dậy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (48)

 

39. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă đỡ vị ấy đứng dậy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (49-50)

 

40. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă làm vị ấy ngă xuống. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (51)

 

41. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă làm vị ấy ngă xuống. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (52-53)

 

42. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă cho vị ấy thức ăn. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (54)

 

43. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă cho vị ấy thức ăn. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (55-56)

 

44. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă cho vị ấy thức uống. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (57)

 

45. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ư muốn gây tử vong đă cho vị ấy thức uống. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (58-59)

 

46. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ có chồng đi vắng đă mang thai với t́nh nhân. Cô ấy đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm sẩy thai đi.” “Này chị gái, tốt thôi!” rồi đă cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đă chết đi. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (60)

 

47. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai vợ, một cô không sanh sản một cô c̣n sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con th́ sẽ trở thành chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm sẩy thai đi.” “Này chị gái, tốt thôi!” rồi đă cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đă chết đi. Người mẹ đă không bị chết. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (61)

 

48. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai vợ, một cô không sanh sản một cô c̣n sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con th́ sẽ trở thành chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm sẩy thai đi.” “Này chị gái, tốt thôi!” rồi đă cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Người mẹ đă chết đi. Đứa bé trai đă không bị chết. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (62)

 

49. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai vợ, một cô không sanh sản một cô c̣n sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con th́ sẽ trở thành chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm sẩy thai đi.” “Này chị gái, tốt thôi!” rồi đă cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Cả hai đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Cả hai đă không bị chết. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (63-64)

 

50. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm sẩy thai đi.” “Này chị gái, như thế th́ hăy tự chà xát.” Cô ấy đă chà xát và đă làm sẩy thai. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (65)

 

51. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm sẩy thai đi.” “Này chị gái, như thế th́ hăy đốt nóng.” Cô ấy đă đốt nóng và đă làm sẩy thai. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (66)

 

52. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà không sanh sản nọ đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm cho tôi có thể sanh sản.” “Này chị gái, tốt thôi!” rồi đă cho cô ấy thuốc. Cô ấy đă chết đi. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (67)

 

53. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà c̣n sanh sản nọ đă nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia đ́nh điều này: - “Thưa ngài, ngài hăy t́m thuốc làm cho tôi không c̣n sanh sản.” “Này chị gái, tốt thôi!” rồi đă cho cô ấy thuốc. Cô ấy đă chết đi. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (68)

 

54. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă làm cho vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư cười bằng cách dùng ngón tay thọt lét. Vị tỳ khưu ấy trong khi rối loạn không thở ra được nên đă chết đi. Các vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika.” (69)

 

55. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ gây chuyện” rồi chạm mạnh vào vị tỳ khưu nhóm Lục Sư khiến vị ấy chết đi. Các vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika.” (70)

 

 56. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là thầy chữa bệnh tà ma đă đoạt lấy mạng sống của loài Dạ-xoa. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (71)

 

57. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă phái vị tỳ khưu khác đến trú xá có Dạ-xoa dữ tợn. Các Dạ-xoa đă đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (72)

 

58. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn gây tử vong đă phái vị tỳ khưu khác đến trú xá có Dạ-xoa dữ tợn. Các Dạ-xoa đă đoạt mạng vị ấy. ―(như trên)―[đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Các Dạ-xoa đă không đoạt mạng vị ấy. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (73-74)

 

59. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng có thú dữ. Các thú dữ đă đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (75)

 

60. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn gây tử vong đă phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng có thú dữ. Các thú dữ đă đoạt mạng vị ấy. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Các thú dữ đă không đoạt mạng vị ấy. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (76-77)

 

61. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng có cướp. Các kẻ cướp đă đoạt mạng vị ấy. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (78)

 

62. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn gây tử vong đă phái vị tỳ khưu khác đến khu rừng có cướp. Các kẻ cướp đă đoạt mạng vị ấy. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Các kẻ cướp đă không đoạt mạng vị ấy. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (79-80)

 

63. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nhận ra người ấy rồi đă đoạt mạng người ấy, nhận ra người ấy rồi đă đoạt mạng người khác, nhận ra người khác rồi đă đoạt mạng người ấy, nhận ra người khác rồi đă đoạt mạng người khác. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (81-84)

 

64. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị tỳ khưu khác đă đánh vào vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (85)

 

65. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị tỳ khưu khác có ư muốn gây tử vong đă đánh vào vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Vị tỳ khưu ấy đă không bị chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (86-87)

 

66. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ thuyết về cơi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đă chết đi. Vị (tỳ khưu) ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (88)

 

67. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn gây tử vong thuyết về cơi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Người ấy bị tác động đă không bị chết. Vị (tỳ khưu) ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (89-90)

 

68. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ thuyết về địa ngục của kẻ đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt và đă chết. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (91)

 

69. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn gây tử vong thuyết về địa ngục của kẻ đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt và đă chết. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Người ấy bị hoảnghốt và đă không bị chết. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (92-93)

 

70. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Āḷavi chặt cây trong khi làm công tŕnh mới. Có vị tỳ khưu nọ đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, hăy đứng ở chỗ này rồi chặt.” Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt th́ cây đă ngă xuống và giết chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (94)

 

71. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Āḷavi chặt cây trong khi làm công tŕnh mới. Có vị tỳ khưu nọ có ư muốn gây tử vong đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, hăy đứng ở chỗ này rồi chặt.” Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt th́ cái cây đă ngă xuống và giết chết. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] cây đă ngă xuống và không giết chết. Vị kia đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (95-96)

 

72. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đă chết đi. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị không có ư muốn gây tử vong th́ vô tội.” (97)

 

73. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư có ư muốn gây tử vong đă nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đă chết đi. ―(như trên)― [đă phạm tội pārājika.” Vào lúc bấy giờ, ―(như trên)―] Dân chúng bị đốt cháy đă không bị chết. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (98-99)

 

74. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến pháp trường đă nói với viên xử tử kẻ cướp điều này: - “Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hăy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.” - “Thưa ngài, tốt thôi!” rồi đă đoạt lấy mạng sống bằng một nhát. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (100)

 

75. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến pháp trường đă nói với viên xử tử kẻ cướp điều này: - “Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hăy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.” - “Tôi sẽ không làm theo lời nói của ngài” rồi đă đoạt lấy mạng sống kẻ ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (101)

 

76. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bị đứt ĺa tay chân được các thân quyến vây quanh tại nhà của thân quyến. Có vị tỳ khưu nọ đă nói với những người ấy điều này: - “Này các đạo hữu, các vị có muốn cái chết cho người này không?” - “Thưa ngài, đúng vậy. Chúng tôi muốn.” - “Như thế th́ hăy cho uống sữa c̣n bơ.” Họ đă cho người ấy uống sữa c̣n bơ. Người ấy đă chết đi. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (102)

 

77. Vào lúc bấy giờ, có người nam nọ bị đứt ĺa tay chân được thân quyến vây quanh tại nhà của gia đ́nh. Có tỳ khưu ni nọ đă nói với những người ấy điều này: - “Này các vị, có muốn cái chết cho anh ta không?” - “Vâng, ni sư. Chúng tôi muốn.” - “Vậy hăy cho uống giấm mặn.” Họ đă cho anh ta uống giấm mặn. Anh ta đă chết. Vị ni ấy đă có nỗi nghi hoặc. Sau đó, tỳ khưu ni ấy đă kể lại việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă kể lại việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni ấy đă phạm tội pārājika.” (103)

 

Điều pārājika thứ ba được đầy đủ.

 

--ooOoo--

 

 

2. 4. CHƯƠNG PĀRĀJIKA THỨ TƯ

  

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu đồng quan điểm, thân thiết đă vào mùa (an cư) mưa ở bờ sông Vaggumudā. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực.

 

2. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư rằng: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. C̣n chúng ta có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau, vậy bằng phương thức nào chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực?”

 

3. Một số vị đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng ta hăy quyết định làm công cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.

 

4. Một số vị đă nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc ǵ lại quyết định làm công cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hăy đưa tin tức cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.

 

5. Một số vị đă nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc ǵ lại quyết định làm công cho các người tại gia? Việc ǵ lại đưa tin tức cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hăy nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: ‘Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt nhị thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tam thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tứ thiền, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhập Lưu, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị Bất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị A-la-hán, vị tỳ khưu như vầy có ba Minh, vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí;’ như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.” - “Này các đại đức, chính điều này là tốt hơn hết tức là việc chúng ta nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia.”

 

6. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: - “Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, ―(như trên)― vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí.”

 

7. Khi ấy, những người dân ấy (nghĩ rằng): “Quả thật điều lợi ích đă có cho chúng ta! Quả thật chúng ta đă đạt được điều tốt! Chúng ta có được các tỳ khưu như vầy trong số các tỳ khưu có giới có thiện pháp vào mùa (an cư) mưa! Quả thật từ trước đến nay chúng ta không có các tỳ khưu như vầy vào mùa (an cư) mưa!” Họ dâng đến các tỳ khưu những vật thực loại mềm mà họ không ăn bởi chính ḿnh, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ dâng đến các tỳ khưu những vật thực loại cứng ―(như trên)― những thức nếm ―(như trên)― những thức uống mà họ không uống bởi chính ḿnh, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă có sắc tướng, căn quyền sung măn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh.

 

8. Điều này đă là thông lệ cho các tỳ khưu trải qua mùa (an cư) mưa là đi đến diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy trải qua ba tháng mùa (an cư) mưa đă thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía Vesālī. Theo tuần tự các vị đă đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

 

9. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương th́ ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân; trái lại các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā th́ có sắc tướng, căn quyền sung măn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Điều này đă là thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến.

 

10. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau, chắc hẳn đă sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực?” - “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau đă sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.” Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề.

 

11. Chư Phật Thế Tôn hỏi các tỳ khưu bởi hai lư do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, các ngươi có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau, đă sống mùa (an cư) mưa được thoải mái và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực như thế nào?” Khi ấy, các tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, các ngươi có thực chứng không?” - “Bạch Thế Tôn, không thực chứng.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, tại sao các ngươi v́ lư do bao tử lại nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia? Này những kẻ rồ dại, thà các ngươi bị mổ banh bụng bởi dao giết trâu sắc bén c̣n là điều cao thượng, chớ v́ lư do bao tử mà nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia là không (cao thượng). Điều ấy có lư do như thế nào? Này những kẻ rồ dại, bởi v́ do nguyên nhân kia[5] các ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không v́ nguyên nhân kia, khi tan ră thân xác và chết đi, các ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cơi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này những kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[6] khi tan ră thân xác và chết đi, các ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cơi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

 

12. - “Này các tỳ khưu, đây là năm kẻ cướp lớn được biết đến ở thế gian? Thế nào là năm?

 

(1) Này các tỳ khưu, ở đây có kẻ cướp lớn khởi ư như vầy: ‘Đến khi nào được tháp tùng bởi một trăm hay một ngàn, ta sẽ vừa đi quanh làng mạc phố thị kinh thành vừa giết vừa ra lệnh giết, vừa chém vừa ra lệnh chém, vừa hành hạ vừa ra lệnh hành hạ.’ Một thời gian sau, được tháp tùng bởi một trăm hay một ngàn, kẻ ấy vừa đi quanh làng mạc phố thị kinh thành vừa giết vừa ra lệnh giết, vừa chém vừa ra lệnh chém, vừa hành hạ vừa ra lệnh hành hạ. Này các tỳ khưu, tương tợ như thế, ở đây có hạng ác tỳ khưu khởi ư như vầy: ‘Đến khi nào được tùy tùng bởi một trăm hay một ngàn, ta sẽ đi quanh làng mạc phố thị kinh thành và được tiếp rước, được cung kính, được nể sợ, được cúng dường, được tôn trọng, và có được lợi lộc về các vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh của các gia chủ và các bậc xuất gia.’ Một thời gian sau, được tùy tùng bởi một trăm hay một ngàn, vị ấy đi quanh làng mạc phố thị kinh thành và được tiếp rước, được cung kính, được nể sợ, được cúng dường, được tôn trọng, và có được lợi lộc về các vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh của các gia chủ và các bậc xuất gia. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ nhất được biết đến ở thế gian.

 

 (2) Này các tỳ khưu, hơn nữa ở đây có hạng ác tỳ khưu sau khi đă học tập Pháp và Luật được công bố bởi Như Lai lại xem là của chính bản thân. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ nh́ được biết đến ở thế gian.

 

(3) Này các tỳ khưu, hơn nữa ở đây có hạng ác tỳ khưu bôi nhọ vị trong sạch, có Phạm hạnh, đang thực hành Phạm hạnh thanh tịnh bằng điều phi Phạm hạnh không có nguyên cớ. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ ba được biết đến ở thế gian.

 

(4) Này các tỳ khưu, hơn nữa ở đây có hạng ác tỳ khưu chiêu dụ mua chuộc các người tại gia bằng các trọng vật là các vật dụng chủ yếu của hội chúng như là tu viện, vùng đất của tu viện, trú xá, vùng đất của trú xá, gường, ghế, nệm, gối, chum đồng, chậu đồng, hũ đồng, vại đồng, ŕu, búa, cuốc, xẻng, lưỡi đục, dây leo, tre, cỏ muñja, cỏ pabbaja, cỏ tiṇa, đất sét, đồ gỗ, đồ gốm. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ tư được biết đến ở thế gian.

 

(5) Này các tỳ khưu, trong thế gian bao gồm cơi chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, và loài người, kẻ cướp lớn đứng hàng đầu là kẻ khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng. Điều ấy có lư do thế nào? Này các tỳ khưu, các ngươi đă ăn thức ăn của xứ sở theo lối trộm cướp.

 

Vị tuyên bố thế này, bản thân như thế khác,

ăn cơm kiểu dối lường, như cờ gian bạc lận.

 

Nhiều kẻ cổ quấn y, ác pháp, không thu thúc,

kẻ ác v́ nghiệp ác, phải sanh vào địa ngục.[7]

 

Kẻ ác giới buông lung thà ăn vào sắt cục,

cháy đỏ có lửa ngọn, hơn đồ ăn xứ sở.”[8]

 

13. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khiển trách các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi chưa biết rơ về pháp thượng nhân, là pháp thể nhập của bản thân, là pháp thuộc về trí tuệ và sự thấy biết xứng đáng bậc Thánh, lại tuyên bố rằng: ‘Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.’ Sau đó vào lúc khác, trong khi được hỏi hay trong khi không được hỏi, vị đă phạm tội có ước muốn được trong sạch lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă không biết như vầy lại nói biết, đă không thấy lại nói thấy, tôi đă nói điều phù phiếm, điều dối trá;’ vị ấy cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

[Sự quy định căn bản]

 

14. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu trong khi không thấy tưởng là đă thấy, trong khi không đạt tưởng là đă đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đă đắc chứng, trong khi không chứng ngộ tưởng là đă chứng ngộ, đă nói một cách thái quá về trí giải thoát. Một thời gian sau, các vị lại có tâm thiên về tham ái, lại có tâm lại thiên về sân hận, lại có tâm lại thiên về si mê. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc rằng: “Điều học đă được đức Thế Tôn quy định; và chúng ta trong khi không thấy tưởng là đă thấy, trong khi không đạt tưởng là đă đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đă đắc chứng, trong khi không chứng ngộ tưởng là đă chứng ngộ, đă nói một cách thái quá về trí giải thoát, phải chăng chúng ta đă phạm tội pārājika?” Các vị ấy đă kể lại sự việc ấy cho đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

15. “Này Ānanda, có các vị tỳ khưu trong khi không thấy tưởng là đă thấy, trong khi không đạt tưởng là đă đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đă đắc chứng, trong khi không chứng ngộ tưởng là đă chứng ngộ, đă nói với sự tự tin thái quá về trí giải thoát; điều ấy vốn không thuộc về trường hợp này. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi chưa biết rơ về pháp thượng nhân, là pháp thể nhập của bản thân, là pháp thuộc về trí tuệ và sự thấy biết xứng đáng bậc Thánh, lại tuyên bố rằng: ‘Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.’ Sau đó vào lúc khác, trong khi được hỏi hay trong khi không được hỏi, vị đă phạm tội có ước muốn được trong sạch lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă không biết như vầy lại nói biết, đă không thấy lại nói thấy, tôi đă nói điều phù phiếm, điều dối trá,’ ngoại trừ v́ sự tự tin thái quá; vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.

 

[Sự quy định lần hai]

 

16. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― [đă được tu lên bậc trên ... bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư]. Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Trong khi chưa biết rơ: là không có, không thực chứng, trong khi không tự biết, trong khi không hiểu, trong khi không thấy thiện pháp ở nơi ḿnh (lại nói): “Tôi có thiện pháp.”

 

Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự chứng ngộ về Quả, sự dứt bỏ phiền năo, sự không c̣n bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng.

 

Là pháp thể nhập của bản thân: hoặc là thể nhập các thiện pháp ấy vào bản thân, hoặc là thể nhập bản thân vào các thiện pháp ấy.

 

Trí tuệ: là ba Minh.

 

Thấy biết: điều ǵ là trí tuệ điều ấy là sự thấy biết. Điều ǵ là sự thấy biết điều ấy là trí tuệ.

 

Tuyên bố: vị nói ra đến người nữ, hoặc đến người nam, hoặc đến người tại gia, hoặc đến vị xuất gia.

 

 Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy: Tôi biết các pháp này, tôi thấy các pháp này, các pháp này có ở tôi, các pháp này được thuần thục ở tôi, và tôi thuần thục trong các pháp này.

 

Sau đó vào lúc khác: được thực hiện trong giây phút nào, th́ đă trải qua giây phút ấy, khoảng thời gian ấy, thời điểm ấy.

 

Trong khi được hỏi: Sự việc ǵ đă cho biết th́ đang được hỏi về việc ấy: “Điều ǵ đă được đại đức đắc chứng? Được đại đức đắc chứng như thế nào? Được đại đức đắc chứng vào lúc nào? Được đại đức đắc chứng ở đâu? Các phiền năo nào đă được đại đức dứt bỏ? Đại đức đă đạt được các pháp nào?”

 

Trong khi không được hỏi: không được bất cứ ai đề cập đến.

 

Vị đă phạm tội: vị có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, rồi khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng th́ phạm tội pārājika.

 

Có ước muốn được trong sạch: hoặc là có ước muốn trở thành người gia chủ, hoặc là có ước muốn trở thành nam cư sĩ, hoặc là có ước muốn trở thành người phụ việc cho tu viện, hoặc là có ước muốn trở thành vị sa di.

 

Này các đại đức, tôi đă không biết như vầy lại nói biết, đă không thấy lại nói thấy: Tôi không biết các pháp này, tôi không thấy các pháp này, các pháp này có ở tôi, các pháp này được thuần thục ở tôi, và tôi thuần thục trong các pháp này.

 

Tôi đă nói điều phù phiếm, điều dối trá: Điều phù phiếm đă được tôi nói ra, điều dối trá đă được tôi nói ra, điều không thực đă được tôi nói ra, trong lúc tôi không biết tôi lại nói ra.

 

Ngoại trừ v́ sự tự tin thái quá: trừ ra sự tự tin thái quá.

 

Vị này cũng: được đề cập liên quan đến các vị trước đây.

 

Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như cây thốt nốt bị chặt ở ngọn không thể tăng trưởng được nữa, tương tợ như thế vị tỳ khưu có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, khi đă khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng, th́ không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử; v́ thế, được gọi là ‘vị phạm tội pārājika.’

 

Không được cộng trú: cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, v́ thế được gọi là ‘không được cộng trú.’

 

Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự chứng ngộ về Quả, sự dứt bỏ phiền năo, sự không c̣n bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng.

 

Thiền: là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.

 

Sự giải thoát: là vô phiền năo giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát.[9]

 

Định: là vô phiền năo định, vô tướng định, vô nguyện định.

 

Sự chứng đạt: là sự chứng đạt về vô phiền năo, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện.

 

Trí tuệ: là ba Minh.

 

Sự tu tập về Đạo: là bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần.

 

Sự chứng ngộ về Quả: là sự chứng ngộ quả Nhập Lưu, sự chứng ngộ quả Nhất Lai, sự chứng ngộ quả Bất Lai, sự chứng ngộ quả vị A-la-hán.

 

Sự dứt bỏ phiền năo: là sự dứt bỏ tham ái, sự dứt bỏ sân, sự dứt bỏ si.

 

Sự không c̣n bị che lấp của tâm: nghĩa là tâm không c̣n bị che lấp bởi tham ái, tâm không c̣n bị che lấp bởi sân, tâm không c̣n bị che lấp bởi si.

 

Sự thỏa thích ở nơi thanh vắng: là sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với sơ thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với nhị thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tam thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tứ thiền.

 

*****

 

1. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

2. Với bốn yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm.

 

3. Với năm yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi.

 

4. Với sáu yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát.

 

5. Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

6. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

7. Với bốn yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm.

 

8. Với năm yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi.

 

9. Với sáu yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát.

 

10. Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

11. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

12. Với bốn yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm.

 

13. Với năm yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi.

 

14. Với sáu yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát.

 

15. Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

16. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

17. Với bốn yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm.

 

18. Với năm yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi.

 

19. Với sáu yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát.

 

20. Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

21. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

22. Với bốn yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm.

 

23. Với năm yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi.

 

24. Với sáu yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát.

 

25. Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

26. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

27. Với bốn yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm.

 

28. Với năm yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi.

 

29. Với sáu yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát.

 

30. Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

(Phần sơ thiền này đă được giải chi tiết như thế nào,

toàn bộ nên được giải chi tiết như thế).

 

31. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... Tôi đă chứng được nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ... Tôi có đạt tứ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ tứ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

32. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được vô phiền năo giải thoát ... vô tướng giải thoát ... vô nguyện giải thoát ... Tôi có đạt vô nguyện giải thoát ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

33. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được vô phiền năo định ... vô tướng định ... vô nguyện định ... Tôi có đạt vô nguyện định ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ vô nguyện định” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

34. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sự chứng đạt về vô phiền năo ... sự chứng đạt về vô tướng ... sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có đạt sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sự chứng đạt về vô nguyện” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

35. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được ba Minh, ... Tôi có đạt ba Minh ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ ba Minh” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

36. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được bốn sự thiết lập niệm ... bốn chánh cần ... bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có đạt bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ bốn nền tảng của thần thông” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

37. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được năm quyền ... năm lực ... Tôi có đạt năm lực ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ năm lực” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

38. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được bảy giác chi ... Tôi có đạt bảy giác chi ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ bảy giác chi” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

39. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có đạt Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ Thánh Đạo tám chi phần” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

40. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được quả Nhập Lưu ... quả Nhất Lai ... quả Bất Lai ... phẩm vị A-la-hán ... Tôi có đạt phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

41. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă từ bỏ tham ái, đă quăng bỏ tham ái, đă thoát khỏi tham ái, đă dứt bỏ tham ái, đă xa rời tham ái, đă khai trừ tham ái, đă đoạn trừ tham ái” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

42. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă từ bỏ sân, đă quăng bỏ sân, đă thoát khỏi sân, đă dứt bỏ sân, đă xa rời sân, đă khai trừ sân, đă đoạn trừ sân bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

43. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă từ bỏ si, đă quăng bỏ si, đă thoát khỏi si, đă dứt bỏ si, đă xa rời si, đă khai trừ si, đă đoạn trừ si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

44. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

45. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

46. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

47. Với bốn yếu tố ―(như trên)― Với năm yếu tố ―(như trên)― Với sáu yếu tố ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

Dứt phần đơn giản.

 

*****

 

1. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và nhị thiền, ... Tôi có đạt sơ thiền và nhị thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và nhị thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

2. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và tam thiền, ... Tôi có đạt sơ thiền và tam thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và tam thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

3. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và tứ thiền, ... Tôi có đạt sơ thiền và tứ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và tứ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

4. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và vô phiền năo giải thoát ... sơ thiền và vô tướng giải thoát ... sơ thiền và vô nguyện giải thoát ... Tôi có đạt sơ thiền và vô nguyện giải thoát ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

5. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và vô phiền năo định ... sơ thiền và vô tướng định ... sơ thiền và vô nguyện định ... Tôi có đạt sơ thiền và vô nguyện định ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và vô nguyện định” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

6. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và sự chứng đạt về vô phiền năo ... sơ thiền và sự chứng đạt về vô tướng ... sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có đạt sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

7. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và ba Minh ... Tôi có đạt sơ thiền và ba Minh ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và ba Minh” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

8. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và bốn sự thiết lập niệm ... sơ thiền và bốn chánh cần ... sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có đạt sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

9. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và năm quyền ... sơ thiền và năm lực ... Tôi có đạt sơ thiền và năm lực ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và năm lực” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

10. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và bảy giác chi ... Tôi có đạt sơ thiền và bảy giác chi ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và bảy giác chi” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

11. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có đạt sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

12. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền và quả Nhập Lưu ... sơ thiền và quả Nhất Lai ... sơ thiền và quả Bất Lai ... sơ thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có đạt sơ thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

13. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền ... Tôi có đạt sơ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền ... và tôi đă từ bỏ tham ái ... và tôi đă từ bỏ sân ... và tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

14. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền ... Tôi có đạt sơ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ sơ thiền ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

Dứt sự luân phiên từng phần.

 

*****

 

1. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được nhị thiền và tam thiền ... Tôi có đạt nhị thiền và tam thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ nhị thiền và tam thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

2. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được nhị thiền và tứ thiền ... Tôi có đạt nhị thiền và tứ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ nhị thiền và tứ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

3. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được nhị thiền và vô phiền năo giải thoát ... và vô tướng giải thoát ... và vô nguyện giải thoát ... và vô phiền năo định ... và vô tướng định ... và vô nguyện định ... và sự chứng đạt về vô phiền năo ... và sự chứng đạt về vô tướng ... và sự chứng đạt về vô nguyện ... và ba Minh ... và bốn sự thiết lập niệm ... và bốn chánh cần ... và bốn nền tảng của thần thông ... và năm quyền ... và năm lực ... và bảy giác chi ... và Thánh Đạo tám chi phần ... và quả Nhập Lưu ... và quả Nhất Lai ... và quả Bất Lai ... và phẩm vị A-la-hán ―(như trên)―Tôi có đạt nhị thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ nhị thiền và phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

4. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được nhị thiền ... Tôi có đạt nhị thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ nhị thiền ... và tôi đă từ bỏ tham ái ... và tôi đă từ bỏ sân ... và tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

5. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được nhị thiền và sơ thiền ... Tôi có đạt nhị thiền và sơ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ nhị thiền và sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

Sự luân phiên kết hợp.

 

Sau khi thực hiện mỗi một nhân tố như thế,

sự luân phiên kết hợp nên được tiến hành viên măn.

 

*****

 

1. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được tam thiền và tứ thiền ... ... tam thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có đạt tam thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ tam thiền và phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

2. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được tam thiền ... Tôi có đạt tam thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ tam thiền ... và tôi đă từ bỏ tham ái ... và tôi đă từ bỏ sân ... và tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

3. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được tam thiền và sơ thiền ... tam thiền và nhị thiền ... Tôi có đạt tam thiền và nhị thiền ... Tôi có trú ... Tôi đă chứng ngộ nhị thiền và sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

4. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được sơ thiền ... nhị thiền ... tam thiền ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt tứ thiền ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ tứ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

5. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được vô phiền năo giải thoát, ... vô tướng giải thoát, ... vô nguyện giải thoát ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt vô nguyện giải thoát ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

6. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được vô phiền năo định, vô tướng định, và vô nguyện định ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt vô nguyện định ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ vô nguyện định” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

7. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được sự chứng đạt về vô phiền năo, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sự chứng đạt về vô nguyện ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ sự chứng đạt về vô nguyện” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

8. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được ba Minh ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt ba Minh ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ ba Minh” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

9. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt bốn nền tảng của thần thông ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ bốn nền tảng của thần thông” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

10. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được năm quyền ... năm lực ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt năm lực ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ năm lực” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

11. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được bảy giác chi ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt bảy giác chi ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ bảy giác chi” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

12. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được Thánh Đạo tám chi phần ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt Thánh Đạo tám chi phần ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ Thánh Đạo tám chi phần” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

13. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt phẩm vị A-la-hán ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

14. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... và tôi chứng ... và tôi đă chứng được sơ thiền ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sơ thiền ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―

 

15. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ... vô phiền năo giải thoát ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” bị phạm tội pārājika: ... Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

Dứt phần một nhân tố.

 

*****

 

16. Phần hai nhân tố, phần ba nhân tố, phần bốn nhân tố, phần năm nhân tố, phần sáu nhân tố, phần bảy nhân tố, phần tám nhân tố, phần chín nhân tố, phần mười nhân tố nên được thực hiện. Theo cách các từ ngữ đă được tŕnh bày, phần một nhân tố nên được triển khai. Phần một nhân tố đă được giải chi tiết như thế nào, phần hai nhân tố cũng nên được giải chi tiết y như thế.

 

1. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng ... Tôi chứng ... Tôi đă chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền năo giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền năo định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền năo, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán, ―(như trên)― Tôi đă từ bỏ tham ái, tôi đă từ bỏ sân, tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: ―(như trên)― Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

Dứt phần tất cả các nhân tố.

 

Dứt phần giảng về các trường hợp đơn giản.

 

*****

 

1. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng sơ thiền” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya.

 

2. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng sơ thiền” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng tam thiền ... tứ thiền ... vô phiền năo giải thoát ... vô tướng giải thoát ... vô nguyện giải thoát ... vô phiền năo định ... vô tướng định ... vô nguyện định ... sự chứng đạt về vô phiền năo ... sự chứng đạt về vô tướng ... sự chứng đạt về vô nguyện ... ba Minh ... bốn sự thiết lập niệm ... bốn chánh cần ... bốn nền tảng của thần thông ... năm quyền ... năm lực ... bảy giác chi ... Thánh Đạo tám chi phần ... quả Nhập Lưu ... quả Nhất Lai ... quả Bất Lai ... phẩm vị A-la-hán ... Tôi đă từ bỏ tham ái ... Tôi đă từ bỏ sân ... Tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

Dứt sự luân phiên từng phần

của một nhân tố theo lời phát biểu của người nói.

 

*****

 

1. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng tam thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya.

 

2. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya.

 

3. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya ―(như trên)― đă che giấu ư định.

 

Sự luân phiên kết hợp của một nhân tố

theo lời phát biểu của người nói.

 

*****

 

PHẦN NHÂN TỐ ĐƯỢC TÓM LƯỢC

 

1. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya.

 

2. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya.

 

Dứt phần một nhân tố

theo lời phát biểu của người nói.

 

 

3. Phần hai nhân tố, phần ba nhân tố, phần bốn nhân tố, phần năm nhân tố, phần sáu nhân tố, phần bảy nhân tố, phần tám nhân tố, phần chín nhân tố, phần mười nhân tố nên được thực hiện y như thế.

 

*****

 

ĐÂY LÀ PHẦN TẤT CẢ CÁC NHÂN TỐ

 

1. Với ba yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền năo giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền năo định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền năo, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán ... Tôi đă từ bỏ tham ái ... Tôi đă từ bỏ sân ... Tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” lại cố t́nh nói điều dối trá, (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya ―(như trên)― đă che giấu ư định.

 

2. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền năo giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền năo định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền năo, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán, tôi đă từ bỏ tham ái, tôi đă từ bỏ sân, tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya.

 

3. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tôi đă chứng tam thiền, tứ thiền, ―(như trên)― Tâm của tôi không bị che lấp bởi si ―(như trên)― và tôi đă chứng sơ thiền” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya.

 

4. Với ba yếu tố, vị có ư định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si, và tôi đă chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, ―(như trên)― Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái” lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội thullaccaya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

Phần tất cả các nhân tố.

 

Dứt phần giản lược về

sự luân phiên theo lời phát biểu của người nói.

 

Dứt phần giảng về trường hợp ‘Có ư định nói.’

 

*****

 

1. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đă chứng, chứng, đă chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt, có trú sơ thiền, sơ thiền đă được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói.’

 

2. Với bốn yếu tố ... Với năm yếu tố ... Với sáu yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đă chứng, chứng, đă chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt, có trú sơ thiền, sơ thiền đă được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

3. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đă chứng ... chứng ... đă chứng được nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ... vô phiền năo giải thoát ... vô tướng giải thoát ... vô nguyện giải thoát ... vô phiền năo định ... vô tướng định ... vô nguyện định ... sự chứng đạt về vô phiền năo ... sự chứng đạt về vô tướng ... sự chứng đạt về vô nguyện ... ba Minh ... bốn sự thiết lập niệm ... bốn chánh cần ... bốn nền tảng của thần thông ... năm quyền ... năm lực ... bảy giác chi ... Thánh Đạo tám chi phần ... quả Nhập Lưu ... quả Nhất Lai ... quả Bất Lai ... phẩm vị A-la-hán ... Vị tỳ khưu ấy có đạt phẩm vị A-la-hán ... có trú ... phẩm vị A-la-hán đă được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa.

 

4. Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu ấy đă từ bỏ tham ái ... đă từ bỏ sân ... đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa.

 

5. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu ấy có tâm không bị che lấp bởi tham ái ... có tâm không bị che lấp bởi sân ... có tâm không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

6. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đă chứng ... chứng... đă chứng được sơ thiền ... nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ở nơi thanh vắng ... vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

7. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị nào đă thọ dụng trú xá của đạo hữu, vị nào đă thọ dụng y của đạo hữu, vị nào đă thọ dụng vật thực của đạo hữu, vị nào đă thọ dụng chỗ trú ngụ của đạo hữu, vị nào đă thọ dụng thuốc men trị bệnh của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

 

8. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “ Trú xá của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị nào, y của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị nào, vật thực của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị nào, chỗ trú ngụ của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị nào, thuốc men trị bệnh của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị nào, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

 

9. Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Vị nào đạo hữu đă đi đến và đă dâng y, đă dâng vật thực, đă dâng chỗ trú ngụ, đă dâng thuốc men trị bệnh, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đă nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đă được ta nói,’ đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.

 

Dứt mười lăm phần giản lược.

 

Dứt phần giảng về các trường hợp liên quan đến vật dụng.

 

Dứt phần giản lược về sự luân phiên của các Pháp Thượng Nhân.

 

*****

 

 

10. V́ sự tự tin thái quá, vị không có ư định khoác lác, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

--ooOoo--

 

 

CHUYỆN DẪN GIẢI

 

 

KỆ NGÔN TÓM LƯỢC

 

Do tự tin thái quá, trong rừng, đồ ăn khất thực, thầy tế độ, oai nghi, các sự trói buộc, nơi vắng vẻ, trú xá, các pháp (thượng nhân), được hộ độ.

 

Không phải là việc khó, tinh tấn, tử thần, sợ hăi, này đại đức, sự ân hận, chơn chánh, với sự tinh tấn, với sự gắn bó, đưa đến sự thành tựu, rồi có hai câu chuyện về cảm thọ.

 

Bà-la-môn năm chuyện, ba chuyện vị đề cập trí giải thoát, ngụ nhà, các dục đă ngăn chặn, thỏa thích, và ra đi.

 

Bộ xương và miếng thịt, hai chuyện kẻ giết ḅ, cục thịt kẻ bẫy chim, không da người hàng thịt, cây gươm kẻ mổ heo, cây lao thợ săn nai, mũi tên người xử án, cây kim kẻ dạy thú.

 

Người đâm thọc bị khâu, mang tinh hoàn quan ṭa, ch́m hố kẻ ngoại t́nh, Bà-la-môn quỷ quyệt là kẻ bị ăn phân.

 

Không da gái lăng loàn, gớm ghiếc bà bói toán, thị héo hon tàn tạ, đổ than hồng t́nh địch, đầu cụt kẻ trảm tù.

 

Tỳ khưu, tỳ khưu ni, ni tập sự, sa di, rồi vị sa di ni, đă xuất gia trong Luật của Phật Kassapa chúng đă làm ác nghiệp.

 

Ḍng sông Tapodā, thành Rājagaha, chiến trận (Licchavi), và chuyện rồng lặn hụp, tỳ khưu Sobhita là vị A-la-hán nhớ được năm trăm kiếp.

 

*****

 

1. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ do sự tự tin thái quá đă nói về trí giải thoát. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Điều học đă được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đă phạm tội pārājika?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, do sự tự tin thái quá th́ vô tội.” (1)

 

2. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ cư ngụ ở trong rừng sau khi đă mong mỏi rằng: “Như vầy th́ dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đă kính trọng vị ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên cư ngụ ở trong rừng sau khi đă mong mỏi; vị nào cư ngụ th́ phạm tội dukkaṭa.” (2)

 

3. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực sau khi đă mong mỏi rằng: “Như vầy th́ dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đă kính trọng vị ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên đi khất thực sau khi đă mong mỏi; vị nào đi th́ phạm tội dukkaṭa.” (3)

 

4. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, tất cả các đệ tử của thầy tế độ của chúng ta đều là các vị A-la-hán.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con có ư định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.”[10] (4)

 

5. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, tất cả các học tṛ của thầy tế độ của chúng ta đều có đại thần lực, có đại oai lực.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con có ư định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (5)

 

6. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi kinh hành sau khi đă mong mỏi rằng: ―(như trên)― đứng yên sau khi đă mong mỏi rằng: ―(như trên)― ngồi xuống sau khi đă mong mỏi rằng: ―(như trên)― nằm xuống sau khi đă mong mỏi rằng: “Như vầy th́ dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đă kính trọng vị ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên nằm xuống sau khi đă mong mỏi; vị nào nằm xuống th́ phạm tội dukkaṭa.” (6-9)

 

7. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác về pháp thượng nhân đến vị tỳ khưu khác. Vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này đại đức, những sự trói buộc của tôi cũng đă được dứt bỏ.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (10)

 

8. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị tỳ khưu biết được tâm người khác đă phản bác vị tỳ khưu ấy rằng: - “Này đại đức, chớ có nói như thế. Điều ấy đại đức không có.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (11)

 

9. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị Thiên nhân đă phản bác vị tỳ khưu ấy rằng: - “Thưa ngài, chớ có nói như thế. Điều ấy ngài không có.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (12)

 

10. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă nói với nam cư sĩ nọ điều này: - “Này đạo hữu, vị tỳ khưu sống trong trú xá của đạo hữu là vị A-la-hán.” Và vị tỳ khưu ấy sống trong trú xá của người ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con có ư định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.”1 (13)

 

11. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă nói với nam cư sĩ nọ điều này: - “Này đạo hữu, vị tỳ khưu mà ngươi hộ độ bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh là vị A-la-hán.” Và người ấy đang hộ độ vị tỳ khưu ấy bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con có ư định khoác lác.” “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (14)

 

12. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, không phải là việc khó để nói lên trí giải thoát.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh Văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh Văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đă phạm tội pārājika?” Rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không có ư định khoác lác.” “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (15)

 

13. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đă được ra sức.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (16)

 

14. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, chớ có sợ hăi!” - “Này các đại đức, tôi không sợ hăi thần chết.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (17)

 

15. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, chớ có sợ hăi!” - “Này các đại đức, có lẽ vị nào có sự ân hận th́ vị ấy mới sợ hăi.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (18)

 

16. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự hành tŕ chơn chánh.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (19)

 

17. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đă được ra sức.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.”[11] (20)

 

18. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” - “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự kiên tŕ gắn bó.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (21)

 

19. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?” - “Này các đại đức, người nào khác th́ không thể chịu đựng nổi.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (22)

 

20. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đă nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?” “Này các đại đức, phàm nhân th́ không thể chịu đựng nổi.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con có ư định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (23)

 

21. Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đă thỉnh mời các tỳ khưu và đă nói điều này: - “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hăy ngự đến.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này gọi chúng ta bằng từ A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.” (24)

 

22. Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đă thỉnh mời các tỳ khưu và đă nói điều này: - “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hăy ngồi xuống.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hăy thọ thực.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hăy được hài ḷng.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hăy ra đi.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này lại đối xử với chúng ta bằng danh xưng A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.” (25-28)

 

23. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này đại đức, tôi cũng đă đoạn tận các lậu hoặc.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (29)

 

24. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này đại đức, các pháp này cũng được t́m thấy ở tôi.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (30)

 

25. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này đại đức, tôi cũng thành thục các pháp này.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (31)

 

26. Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đă nói với vị tỳ khưu nọ điều này: - “Thưa ngài, hăy đến và ngụ ở gia đ́nh.” - “Này các đạo hữu, người như tôi không thể ngụ ở gia đ́nh.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (32)

 

27. Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đă nói với vị tỳ khưu nọ điều này: - “Thưa ngài, hăy đến và thọ dụng các dục.” - “Này các đạo hữu, các dục của tôi đă được ngăn chặn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (33)

 

28. Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đă nói với vị tỳ khưu nọ điều này: - “Thưa ngài, xin hăy thỏa thích.” - “Này các đạo hữu, tôi được thỏa thích với sự thỏa thích tối thượng.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh Văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh Văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đă phạm tội pārājika?” Rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không có ư định khoác lác.” “Này tỳ khưu, vị không có ư định khoác lác th́ vô tội.” (34)

 

29. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đă vào mùa (an cư) mưa ở trú xứ nọ sau khi thỏa thuận rằng: - “Vị nào sẽ rời trú xứ này trước tiên, chúng ta sẽ biết vị ấy là ‘vị A-la-hán.’” Có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Hăy để cho các vị biết ta là ‘vị A-la-hán,’” rồi đă rời trú xứ ấy trước tiên. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (35)

 

30. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna cư ngụ tại núi Gijjhakūṭa. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Mahāmoggallāna đă mặc y cầm y bát đi đến gặp đại đức Lakkhaṇa, sau khi đến đă nói với đại đức Lakkhaṇa điều này: - “Này đại đức Lakkhaṇa, chúng ta hăy đi vào thành Rājagaha để khất thực.” - “Này đại đức, xin vâng.” Đại đức Lakkhaṇa đă trả lời đại đức Mahāmoggallāna.

 

31. Sau đó, trong khi đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ đại đức Mahāmoggallāna đă mỉm cười. Khi ấy, đại đức Lakkhaṇa đă nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này: - “Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân ǵ duyên ǵ đưa đến việc mỉm cười vậy?” - “Này đại đức Lakkhaṇa, không phải là thời điểm của câu hỏi này, hăy hỏi ta câu hỏi này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.”

 

32. Sau đó, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna đă đi khất thực ở trong thành Rājagaha, sau bữa ăn khi đi khất thực trở về đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Lakkhaṇa đă nói với đại đức Mahā-moggallāna điều này: - “Ở đây, đại đức Mahāmoggallāna, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ đă mỉm cười. Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân ǵ duyên ǵ đưa đến việc mỉm cười vậy?” “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy bộ xương đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng[12] lăn xả lao vào bộ xương ấy, rứt ra các phần ở khoảng giữa các xương sườn; bộ xương ấy đă rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đă khởi ư điều này: ‘Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có Dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự h́nh thành bản ngă lại là như thế này!’” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”

 

33. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với trí biết như thật! Bởi v́ là Thinh Văn th́ sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây Ta đă thấy chúng sanh ấy, tuy nhiên Ta đă không nói ra. Và nếu Ta nói ra điều ấy th́ những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta th́ việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là kẻ giết trâu ḅ ở ngay trong thành Rājagaha này. Kẻ ấy, do quả của nghiệp ấy, sau khi đă bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đă gánh chịu sự h́nh thành bản ngă có h́nh thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đă nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (36)

 

34. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy miếng thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào miếng thịt ấy day nghiến, rứt ra; miếng thịt ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là kẻ giết trâu ḅ ở ngay trong thành Rājagaha này.” (37)

 

35. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy cục thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cục thịt ấy, day nghiến, rứt ra; cục thịt ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là kẻ bẫy chim ở ngay trong thành Rājagaha này.” (38)

 

36. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người đàn ông không có lớp da (bao bọc)[13] đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đă rên rỉ khổ sở.” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là người hàng thịt ở ngay trong thành Rājagaha này.” (39)

 

37. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người có lông là các cây gươm đang đi trong hư không. Những cây gươm ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là người mổ heo ở ngay trong thành Rājagaha này.” (40)

 

38. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người có lông là các cây lao đang đi trong hư không. Những cây lao ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là người thợ săn nai ở ngay trong thành Rājagaha này.” (41)

 

39. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người có lông là các mũi tên đang đi trong hư không. Những mũi tên ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là người tra khảo ở ngay trong thành Rājagaha này.” (42)

 

40. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là người đánh xe ở ngay trong thành Rājagaha này.” (43)

 

41. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy đă đi vào đầu của người ấy rồi đi ra từ miệng, đă đi vào miệng rồi đi ra từ ngực, đă đi vào ngực rồi đi ra từ bụng, đă đi vào bụng rồi đi ra từ hai đùi, đă đi vào hai đùi rồi đi ra từ hai cẳng chân, đă đi vào hai cẳng chân rồi đi ra từ hai bàn chân; người ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là kẻ nói lời đâm thọc ở ngay trong thành Rājagaha này.” (44)

 

42. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người h́nh thù quỷ sứ đang đi trong hư không. Trong lúc đi, người ấy đặt hai tinh hoàn ở trên vai rồi đi. Trong khi ngồi xuống, người ấy ngồi xuống trên chính hai tinh hoàn ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là quan xử án[14] ở ngay trong thành Rājagaha này.” (45)

 

43. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người bị ch́m đến tận đầu ở trong hố phân ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là kẻ phạm tội ngoại t́nh ở ngay trong thành Rājagaha này.” (46)

 

44. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người bị ch́m đến tận đầu ở trong hố phân, đang ăn phân bằng hai bàn tay ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là kẻ Bà-la-môn quỷ quyệt ở ngay trong thành Rājagaha này. Trong thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, kẻ ấy đă thỉnh mời hội chúng tỳ khưu bữa ăn. Sau khi cho người đổ đầy các máng phân và thông báo thời giờ, kẻ ấy đă nói điều này: - ‘Này các ngài, hăy ăn rồi hăy mang đi theo ư thích.’” (47)

 

45. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người đàn bà không có lớp da (bao bọc) đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đă là gái lăng loàn ở ngay trong thành Rājagaha này. (48)

 

46. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người đàn bà hôi thối gớm ghiếc đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đă là bà bói toán ở ngay trong thành Rājagaha này.” (49)

 

47. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy người đàn bà bị thiêu đốt, héo hon, tàn tạ; cô ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đă là đệ nhất hoàng hậu của đức vua Kāliṅga. Bà ta lộ vẻ ghen tương đă dùng chậu than cháy đỏ trút lên người t́nh địch.” (50)

 

48. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy thi thể không đầu đang đi trong hư không, c̣n các con mắt và miệng th́ ở trên ngực của người ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đă là người xử tử bọn trộm cướp tên Hārika ở ngay trong thành Rājagaha này.” (51)

 

49. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy vị tỳ khưu đang đi trong hư không, y hai lớp của vị ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, b́nh bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân h́nh cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị ấy đă rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy đă là vị ác tỳ khưu ở vào thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa.” (52)

 

50. “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đă nh́n thấy vị tỳ khưu ni ―(như trên)― đă nh́n thấy vị ni tu tập sự ―(như trên)― đă nh́n thấy vị sa di ―(như trên)― đă nh́n thấy vị sa di ni đang đi trong hư không, y hai lớp[15] của vị ni ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, b́nh bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân h́nh cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị ni ấy đă rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đă khởi ư điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có Dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự h́nh thành bản ngă lại là như thế này!” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”

 

Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với trí biết như thật! Bởi v́ là Thinh Văn th́ sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây Ta đă thấy vị sa di ni ấy, tuy nhiên Ta đă không nói ra. Và nếu Ta nói ra th́ những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta th́ việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, vị sa di ni ấy đă là ác sa di ni ở vào thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa. Vị ni ấy, do quả của nghiệp ấy, đă bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đă gánh chịu sự h́nh thành bản ngă có h́nh thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đă nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (53-56)

 

51. Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đă nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, ḍng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tṛn nở rộ.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các đại đức, ḍng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tṛn nở rộ?’ Vả lại ḍng sông Tapodā này là nóng bỏng và trôi chảy. Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này các tỳ khưu, ḍng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tṛn nở rộ. Này các tỳ khưu, tuy nhiên ḍng sông Tapodā này đi qua giữa hai đại địa ngục, v́ thế ḍng sông Tapodā này trở nên nóng bỏng và trôi chảy. Này các tỳ khưu, Moggallāna đă nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (57)

 

52. Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, trong lúc giao chiến với các vị Licchavi, đă bị đánh tan tác. Sau đó, khi đă gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đă đánh bại các vị Licchavi. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: “Các vị Licchavi đă bị đức vua đánh tan tác.” Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đă nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, đức vua đă bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: ‘Các vị Licchavi đă bị đức vua đánh tan tác.’” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các đại đức, đức vua đă bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: Các vị Licchavi đă bị đức vua đánh tan tác’? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trước tiên đức vua đă bị các vị Licchavi đánh tan tác. Sau đó, khi đă gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đă đánh bại các vị Licchavi. Này các tỳ khưu, Moggallāna đă nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (58)

 

54. Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đă nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, được thể nhập định bất thối, tôi đây ở nơi bờ sông Sappinikā đă nghe tiếng động của các con rồng đang hụp xuống rồi trồi lên và gầm lên tiếng rống.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Làm sao đại đức Mahāmoggallāna, được thể nhập định bất thối, lại có thể nghe tiếng động? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, có loại định này và vị ấy chưa được thuần thục lắm. Này các tỳ khưu, Moggallāna đă nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (59)

 

55. Khi ấy, đại đức Sobhita đă nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Sobhita lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp’? Đại đức Sobhita khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, Sobhita đă sống kiếp sống ấy, và kiếp sống ấy chính là một kiếp sống của Sobhita. Này các tỳ khưu, Sobhita đă nói sự thật. Này các tỳ khưu, Sobhita không phạm tội.” (60)

 

Điều pārājika thứ tư được đầy đủ.

 

--ooOoo--

 

 

Bạch chư đại đức, bốn điều pārājika đă được đọc tụng xong. Vị tỳ khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này th́ không đạt được sự cộng trú cùng với các vị tỳ khưu,[16] trước đây như thế nào th́ sau này là như vậy;[17] (vị ấy) là vị phạm tội pārājika không được cộng trú.

 

Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức ở đây được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

Dứt Điều Học Pārājika.

 

--ooOoo--

 

 

TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY

 

Bốn điều pārājika là: việc đôi lứa, vật không được cho, mạng người, pháp thượng nhân. Sự việc nên được phân tích, không c̣n sự nghi vấn.

 

Dứt Chương Pārājika.

 

--ooOoo--

 


 


[1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Assāso ti bahi nikkhamanavāto. Passāso ti anto pavisanavāto = Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên trong” (VinA. ii, 408). Như thế assasati là thở ra, passasati là thở vào. Nếu hiểu như vậy th́ phương pháp Ānāpānassati hay “Niệm hơi thở” nên được tŕnh bày và tu tập theo thứ tự hơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào.

[2] Trong bốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là pajānāti (biết rơ) và có liên từ “” (hay là, hoặc là) xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là sikkhati (thực tập, thực hành, học tập).

[3] Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, sabbakāya nên được hiểu là phần đầu, phần giữa, và phần cuối của toàn bộ hơi thở ra mỗi khi thở ra, hoặc toàn bộ hơi thở vào mỗi khi thở vào (VinA. ii, 411)

[4] A, B, C, D được thêm vào cho dễ hiểu dựa theo Chú Giải (VinA. ii, 448-450).

[5] Là việc bị mổ banh bụng ra bởi con dao bén của kẻ giết trâu ḅ (ND).

[6] Là việc nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia (ND).

[7] Kinh Pháp Cú, câu 307.

[8] Kinh Pháp Cú, câu 308.

[9] Vô phiền năo giải thoát (suññato vimokkho) là nội tâm không c̣n tham sân si, vô tướng giải thoát (animitto vimokkho) là nội tâm không c̣n các biểu hiện của tham sân si, vô nguyện giải thoát (appaṇihito vimokkho) là không c̣n trạng thái mong mỏi tham sân si (VinA. ii, 492).

[10] Vị ấy v́ chưa đề cập rơ ràng bản thân là A-la-hán (ahan ti avuttatā) nên không phạm tội pārājika (VinA. ii, 503).

[11] Câu chuyện này được lập lại y như câu chuyện (16) ở trên.

[12] Ngài Buddhaghosa giải thích các chim kên kên, chim quạ, chim ưng này là các Dạ-xoa có dạng chim, “yakkhagijjhā yakkhakākā yakkhakulalā” (VinA. ii, 507).

[13] Ngài Buddhaghosa giải thích về người không có lớp da bao bọc là do việc người này đă giết các con dê rồi lột da nên bị quả báu không có lớp da bao bọc (VinA. ii, 509).

[14] Người này tuy là quan xử án nhưng nhận hối lộ ở nơi kín đáo rồi xử án thiên lệch nên bị trả quả phải phơi bày vật kín ra (VinA. ii, 510).

[15] Có thể đây là một lầm lẫn trong lúc gom các đoạn văn trùng lặp lại với nhau v́ các vị ni tu tập sự, sa di, sa di ni không có y hai lớp (saṅghāṭi). Chỉ tỳ khưu và tỳ khưu ni mới có y này.

[16] Không đạt được sự cộng trú cùng với các vị tỳ khưu nghĩa là vị ấy không c̣n được tham dự các lễ Uposatha (lễ Bố Tát), lễ Pavāraṇā (lễ Tự Tứ), việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và các loại hành sự của hội chúng (VinA. ii, 516).

[17] Trước đây như thế nào th́ sau này là như vậy (yathā pure tathā pacchā) nghĩa là trước đây c̣n tại gia chưa tu lên bậc trên sự cách biệt đối với các vị tỳ khưu như thế nào, bây giờ sau khi phạm tội pārājika th́ phải theo đúng như thế ấy (VinA. ii, 516).

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 |

<Mục Lục><Đầu Trang>