Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 01

PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập I

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

4. CHƯƠNG ANIYATA

 

 

Bạch chư đại đức, hai điều aniyata này được đưa ra đọc tụng.

 

 

4. 1. ĐIỀU HỌC ANIYATA THỨ NHẤT

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đ́nh và đi đến nhiều gia đ́nh ở thành Sāvatthī. Vào lúc bấy giờ, người con gái của gia đ́nh hộ độ đại đức Udāyi đă được gả cho người con trai của gia đ́nh nọ. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đă mặc y, cầm y bát, đi đến gia đ́nh ấy, sau khi đến đă hỏi mọi người rằng: - “Cô gái tên (như vầy) ở đâu?” - “Thưa ngài, cô ấy đă được gả cho người con trai của gia đ́nh kia rồi.

 

2. Và gia đ́nh ấy cũng là người hộ độ cho đại đức Udāyi. Sau đó, đại đức Udāyi đă đi đến gia đ́nh ấy, sau khi đến đă hỏi mọi người rằng: - “Cô gái tên (như vầy) ở đâu? - “Thưa ngài, cô ấy ngồi ở pḥng trong. Khi ấy, đại đức Udāyi đă đi đến gặp người con gái ấy, sau khi đến đă cùng với người con gái ấy, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, tùy lúc th́ tâm sự, tùy lúc th́ nói Pháp.[1]

 

3. Vào lúc bấy giờ, bà Visākhā mẹ của Migāra có nhiều con trai, có nhiều cháu trai,[2] có các con trai không bệnh tật, có các cháu trai không bệnh tật, được xem là điều đại kiết tường. Trong những dịp tế lễ, hội hè, đ́nh đám, dân chúng thường ưu tiên mời bà Visākhā mẹ của Migāra dự tiệc. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra được thỉnh mời nên đă đi đến gia đ́nh ấy. Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đă nh́n thấy đại đức Udāyi cùng với người con gái ấy, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, sau khi nh́n thấy đă nói với đại đức Udāyi điều này: - “Thưa ngài, điều này là không thích hợp, là không đúng đắn. Là việc ngài đại đức cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động. Thưa ngài, mặc dầu ngài đại đức không có ước muốn ǵ đến chuyện ấy, tuy nhiên những người không có niềm tin th́ khó mà thuyết phục lắm.”

 

4. Tuy được bà Visākhā mẹ của Migāra nói như thế, đại đức Udāyi đă không lưu tâm đến. Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đă ra về và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động?”

 

5. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động, có nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy sau khi thấy rồi tố cáo vị ấy với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika, hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya. (Nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi th́ nên được hành xử với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika, hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào th́ nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy. Đây là điều aniyata.

 

6. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lăo.

 

Với: cùng chung.

 

Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và người nữ.

 

Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai. Kín đáo đối với mắt nghĩa là không thể nh́n thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên. Kín đáo đối với tai nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) b́nh thường.

 

Chỗ ngồi được che khuất là không được che khuất bởi bức tường, hoặc bởi cánh cửa, hoặc bởi tấm màn, hoặc bởi tấm vách chắn, hoặc bởi cội cây, hoặc bởi cột nhà, hoặc bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật ǵ.

 

Thuận tiện cho hành động: là có thể thực hiện việc đôi lứa.

 

Ngồi: Khi người nữ đang ngồi th́ vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần, khi vị tỳ khưu đang ngồi th́ người nữ ngồi gần hoặc nằm gần, hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm.

 

Có lời nói đáng tin cậy nghĩa là người nữ đă chứng Thánh Quả, đă thông suốt Tứ Diệu Đế, đă hiểu rơ Tam Học: Giới, Định, Tuệ.[3]

 

Nữ cư sĩ nghĩa là người nữ đă đi đến nương nhờ đức Phật, đă đi đến nương nhờ Giáo Pháp, đă đi đến nương nhờ Hội Chúng.

 

Sau khi thấy: sau khi đă nh́n thấy.

 

(Cô ấy) có thể tố cáo với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika, hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya. (Nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi th́ nên được hành xử với một tội nào đó trong ba tội: hoặc là với tội pārājika, hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào th́ nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đă ngồi nhưng tôi đă không thực hiện việc đôi lứa” th́ nên hành xử theo việc ngồi.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đă không ngồi nhưng đă nằm” th́ nên hành xử theo việc nằm.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă ngồi và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đă không ngồi nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă nằm và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă nằm và đang thực hiện việc đôi lứa với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đă nằm nhưng tôi đă không thực hiện việc đôi lứa” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă ngồi” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đă ngồi nhưng tôi đă không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă nằm” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă nằm và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đă nằm nhưng tôi đă không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă ngồi” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức cùng với người nữ, một nam một nữ đă ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă nằm” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức cùng với người nữ, một nam một nữ đă nằm xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă ngồi” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Tội aniyata: không chắc chắn là tội pārājika, hay là tội saṅghādisesa, hay là tội pācittiya.

 

7. Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ nên hành xử theo việc ngồi. Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ không nên hành xử.

 

Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ nên hành xử theo việc ngồi. Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ không nên hành xử.”

 

Dứt điềuhọc aniyata thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 

4. 2. ĐIỀU HỌC ANIYATA THỨ NH̀

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán việc cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành động” nên đă cùng với chính người con gái ấy, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, tùy lúc th́ tâm sự, tùy lúc th́ nói Pháp. Đến lần thứ nh́, bà Visākhā mẹ của Migāra được thỉnh mời nên đă đi đến gia đ́nh ấy. Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đă nh́n thấy đại đức Udāyi cùng với chính người con gái ấy, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, sau khi nh́n thấy đă nói với đại đức Udāyi điều này: - “Thưa ngài, điều này là không thích hợp, là không đúng đắn. Là việc ngài đại đức cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo. Thưa ngài, mặc dầu ngài đại đức không có ước muốn ǵ đến chuyện ấy, tuy nhiên những người không có niềm tin th́ khó mà thuyết phục lắm.” Tuy được bà Visākhā mẹ của Migāra nói như thế, đại đức Udāyi đă không lưu tâm đến.

 

2. Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đă ra về và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Hơn nữa, khi chỗ ngồi là không được che khuất, không thuận tiện cho hành động, nhưng thích hợp để nói với người nữ bằng những lời thô tục. Vị tỳ khưu nào ở chỗ ngồi có h́nh thức như thế cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy sau khi thấy rồi tố cáo vị ấy với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya. (Nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi th́ nên hành xử với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào th́ nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy. Đây cũng là điều aniyata.

 

3. Hơn nữa, khi chỗ ngồi là không được che khuất: là không được che khuất bởi bức tường, hoặc bởi cánh cửa, hoặc bởi tấm màn, hoặc bởi tấm vách chắn, hoặc bởi cội cây, hoặc bởi cột nhà, hoặc bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật ǵ.

 

Không thuận tiện cho hành động: là không thể thực hiện việc đôi lứa.

 

Nhưng thích hợp để thốt ra với người nữ bằng những lời thô tục: là có thể nói với người nữ bằng những lời thô tục.

 

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Ở chỗ ngồi có h́nh thức như thế: ở chỗ ngồi y như thế ấy.

 

Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có trí suy xét, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.

 

Với: cùng chung.

 

Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và người nữ.

 

Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.Kín đáo đối với mắt nghĩa là không thể nh́n thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên. Kín đáo đối với tai nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) b́nh thường.

 

Ngồi: Khi người nữ đang ngồi th́ vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần, khi vị tỳ khưu đang ngồi th́ người nữ ngồi gần hoặc nằm gần, hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm.

 

Có lời nói đáng tin cậy: nghĩa là người nữ đă chứng Thánh Quả, đă thông suốt Tứ Diệu Đế, đă hiểu rơ Tam Học: Giới, Định, Tuệ.

 

Nữ cư sĩ nghĩa là người nữ đă đi đến nương nhờ đức Phật, đă đi đến nương nhờ Giáo Pháp, đă đi đến nương nhờ Hội Chúng.

 

Sau khi thấy: sau khi đă nh́n thấy.

 

(Cô ấy) có thể tố cáo với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya, (nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi th́ nên được hành xử với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào th́ nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đă ngồi nhưng tôi đă không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă nằm” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức đă nằm và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đă nằm nhưng tôi đă không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă ngồi” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă nghe được rằng ngài đại đức đă ngồi và đang nói với người nữ bằng những lời thô tục,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đă ngồi nhưng tôi đă không nói với người nữ bằng những lời thô tục” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă nằm” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă nghe được rằng ngài đại đức đă nằm và đang nói với người nữ bằng những lời thô tục,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đă nằm nhưng tôi đă không nói bằng những lời thô tục” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă ngồi” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức cùng với người nữ, một nam một nữ đă ngồi ở chỗ kín đáo,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă nằm” th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không ngồi nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Nếu cô ấy tố cáo như vầy: “Tôi đă thấy ngài đại đức cùng với người nữ, một nam một nữ đă nằm ở chỗ kín đáo,” và vị ấy thú nhận điều ấy th́ nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă ngồi” th́ nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đă không nằm nhưng đă đứng” th́ không nên hành xử.

 

Đây cũng là: được gọi như thế v́ có liên quan đến điều trước.

 

Tội aniyata: không chắc chắn là tội saṅghādisesa, hay là tội pācittiya.

 

4. Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ nên hành xử theo việc ngồi. Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ không nên hành xử.

 

Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội th́ nên hành xử theo tội vi phạm. Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ nên hành xử theo việc ngồi. Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội th́ không nên hành xử.”

 

Dứt điều học aniyata thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

 

5. Bạch chư đại đức, hai điều aniyata đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

--ooOoo--

 

 

TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY

 

(Nơi) thuận tiện cho hành động, và tương tợ y như thế về nơi không thuận tiện. (Hai) điều học aniyata đă khéo được quy định bởi đức Phật tối thượng như thế ấy.

 

Dứt Chương Aniyata.

 

--ooOoo--

 

 

 

5. CHƯƠNG NISSAGGIYA

 

 

Bạch chư đại đức, ba mươi điều nissaggiya pācittiya này được đưa ra đọc tụng.

 

 

5. 1. PHẨM Y

 

5. 1. 1. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ KAṬHINA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, ở tháp thờ Gotamaka. Vào lúc bấy giờ, ba y đă được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Ba y đă được đức Thế Tôn cho phép” nên đi vào làng với ba y nọ, mặc ở trong tu viện với ba y khác, và đi xuống tắm với ba y khác nữa. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng y phụ trội?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng y phụ trội, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại sử dụng y phụ trội vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào sử dụng y phụ trội th́ phạm tội nissaggiya pācittiya.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

[Sự quy định căn bản]

 

2. Vào lúc bấy giờ, có y phụ trội phát sanh đến đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda có ư định dâng y ấy đến đại đức Sāriputta. Và đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa. Khi ấy, đại đức Ānanda đă khởi ư điều này: “Điều học đă được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được sử dụng y phụ trội’ và y phụ trội này đă được phát sanh đến ta. Và ta có ư định dâng y này đến đại đức Sāriputta mà đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta sẽ đi đến đây?” - “Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.” Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép cất giữ[4] y phụ trội tối đa mười ngày. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

 “Khi vấn đề y đă được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đă hết hiệu lực, y phụ trội được cất giữ tối đa mười ngày. Vượt quá hạn ấy th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.[5]

 

[Sự quy định lần hai]

 

3. Khi vấn đề y đă được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đă được làm xong, hoặc là đă bị mất, hoặc là đă bị hư hỏng, hoặc là đă bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đă bị tan vỡ.

 

Khi Kaṭhina đă hết hiệu lực: là đă hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề,[6] hoặc là đă hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.[7]

 

Tối đa mười ngày: là được cất giữ nhiều nhất là mười ngày.

 

Y phụ trội nghĩa là chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.

 

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y[8] (có kích thước) tối thiểu[9] cần phải chú nguyện để dùng chung.

 

Vượt quá hạn ấy th́ (y ấy) nên được xả bỏ: Đến lúc hừng đông ngày thứ mười một th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, y này của tôi đă quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm đủ năng lực, và y đă xả bỏ nên được cho lại:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đă được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại y này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”

 

4. Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nhiều vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, y này của tôi đă quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đại đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm đủ năng lực, và y đă xả bỏ nên được cho lại:

 

Xin chư đại đức hăy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đă được xả bỏ đến chư đại đức. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, chư đại đức nên cho lại y này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”

 

5. Vị tỳ khưu ấy nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đại đức, y này của tôi đă quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến đại đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ấy và y đă xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại đại đức y này.”

 

6. Khi quá hạn mười ngày, nhận biết là đă quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đă được chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đă được chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đă được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đă bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đă bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đă bị cháy, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đă bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya. Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là đă quá hạn, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, nhận biết là chưa quá hạn th́ vô tội.

 

7. Trong thời hạn mười ngày, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (những người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

8. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không cho lại y đă được xả bỏ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên không cho lại y đă được xả bỏ; vị nào không cho lại th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

Dứt điều học thứ nhất về kaṭhina.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 2. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀ VỀ KAṬHINA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi đă trao y tận tay các tỳ khưu rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y (y vai trái).[10] Các y ấy được để lại lâu ngày trở nên mốc meo. Các tỳ khưu đem phơi nắng các y ấy. Đại đức Ānanda trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đă nh́n thấy các tỳ khưu ấy đang phơi nắng các y ấy, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này các đại đức, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă kể lại sự việc ấy cho đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu sau khi trao y tận tay các tỳ khưu lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y?” Sau đó, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi trao y tận tay các tỳ khưu rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy, sau khi trao y tận tay các tỳ khưu, lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Khi vấn đề y đă được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đă hết hiệu lực, nếu vị tỳ khưu xa ĺa (một trong) ba y dầu chỉ một đêm th́ phạm tội nissaggiya pācittiya.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

[Sự quy định căn bản]

 

2. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ở thành Kosambī bị bệnh. Các thân quyến đă phái người đưa tin đến gặp vị tỳ khưu ấy (nói rằng): - “Ngài đại đức hăy đi đến. Chúng tôi sẽ hộ độ.” Các tỳ khưu cũng đă nói như vầy: - “Này đại đức, hăy đi. Các thân quyến sẽ hộ độ đại đức.” Vị ấy đă nói như vầy: - “Này các đại đức, điều học đă được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Không được xa ĺa ba y;’ và tôi th́ bị bệnh nên không thể mang theo ba y mà ra đi được. Tôi sẽ không đi.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

3. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép ban cho sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y đối với tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - ‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y.’ Nên được thỉnh cầu lần thứ nh́. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y đến vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y. Hội chúng ban cho sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y đến vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc ban cho sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y đến vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Sự đồng ư về việc không phạm tội v́ xa ĺa ba y đă được hội chúng ban cho vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Khi vấn đề y đă được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đă hết hiệu lực, nếu vị tỳ khưu xa ĺa (một trong) ba y dầu chỉ một đêm th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya, ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu.

 

[Sự quy định lần hai]

 

4. Khi vấn đề y đă được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đă được làm xong, hoặc là đă bị mất, hoặc là đă bị hư hỏng, hoặc là đă bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đă bị tan vỡ.

 

Khi Kaṭhina đă hết hiệu lực: là đă hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề, hoặc là đă hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.

 

Nếu vị tỳ khưu xa ĺa ba y dầu chỉ một đêm: Nếu đă xa ĺa hoặc là y hai lớp, hoặc là thượng y, hoặc là y nội dầu chỉ một đêm.

 

Ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ư của các tỳ khưu.

 

Th́ (y ấy) nên được xả bỏ: Đến lúc hừng đông th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đă xa ĺa qua đêm giờ cần được xả bỏ, ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

5. Làng một địa hạt, nhiều địa hạt; gia trang một địa hạt, nhiều địa hạt; trang trại một địa hạt, nhiều địa hạt; nhà mái nhọn một địa hạt, nhiều địa hạt; ṭa nhà vuông một địa hạt, nhiều địa hạt; ṭa nhà lớn một địa hạt, nhiều địa hạt; ṭa nhà dài một địa hạt, nhiều địa hạt; chiếc thuyền một địa hạt, nhiều địa hạt; đoàn xe một địa hạt, nhiều địa hạt; cánh đồng một địa hạt, nhiều địa hạt; ruộng lúa một địa hạt, nhiều địa hạt; khu vườn một địa hạt, nhiều địa hạt; trú xá một địa hạt, nhiều địa hạt; gốc cây một địa hạt, nhiều địa hạt; khoảng không gian một địa hạt, nhiều địa hạt.

 

6. Làng một địa hạt nghĩa là làng thuộc về một gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y ở trong làng th́ nên hiện diện trong làng. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở tại nhà nào th́ nên hiện diện tại nhà đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.[11]

 

7. Làng thuộc về nhiều gia đ́nh và được rào lại, y đă được để ở tại nhà nào th́ nên hiện diện tại nhà đó: ở trong pḥng hội họp, hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Khi đi đến pḥng hội họp, sau khi đă để y ở trong tầm tay th́ nên hiện diện ở trong pḥng hội họp hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Sau khi đă để y ở trong pḥng hội họp, nên hiện diện ở trong pḥng hội họp hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở tại nhà nào th́ nên hiện diện tại nhà đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

8. Gia trang thuộc về một gia đ́nh là được rào lại và có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Sau khi đă để y ở trong gia trang th́ nên hiện diện trong gia trang. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

9. Gia trang thuộc về nhiều gia đ́nh là được rào lại và có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

10. Trang trại thuộc về một gia đ́nh và được rào lại, có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Sau khi đă để y ở trong trang trại th́ nên hiện diện trong trang trại. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

11. Trang trại thuộc về nhiều gia đ́nh và được rào lại, có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

12. Nhà mái nhọn thuộc về một gia đ́nh: Sau khi đă để y ở trong nhà mái nhọn th́ nên hiện diện trong nhà mái nhọn. Nhà mái nhọn thuộc về nhiều gia đ́nh là có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

13. Ṭa nhà vuông thuộc về một gia đ́nh: Sau khi đă để y ở trong ṭa nhà vuông th́ nên hiện diện trong ṭa nhà vuông. Ṭa nhà vuông thuộc về nhiều gia đ́nh là có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

14. Ṭa nhà lớn thuộc về một gia đ́nh: Sau khi đă để y ở trong ṭa nhà lớn th́ nên hiện diện trong ṭa nhà lớn. Ṭa nhà lớn thuộc về nhiều gia đ́nh là có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

15. Ṭa nhà dài thuộc về một gia đ́nh: Sau khi đă để y ở trong khu nhà dài th́ nên hiện diện trong khu nhà dài. Ṭa nhà dài thuộc về nhiều gia đ́nh là có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Y đă được để ở trong căn pḥng nào th́ nên hiện diện ở trong căn pḥng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

16. Chiếc thuyền thuộc về một gia đ́nh: Sau khi đă để y ở trong chiếc thuyền th́ nên hiện diện trong chiếc thuyền. Chiếc thuyền thuộc về nhiều gia đ́nh là có nhiều căn pḥng, nhiều hậu pḥng. Y đă được để ở trong hậu pḥng nào th́ nên hiện diện trong hậu pḥng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

17. Đoàn xe thuộc về một gia đ́nh: Sau khi đă để y ở trong đoàn xe th́ không nên rời xa phía trước hoặc phía sau quá bảy abbhantara,[12] không nên xa rời phía bên hông quá một abbhantara. Đoàn xe thuộc về nhiều gia đ́nh: Sau khi đă để y ở trong đoàn xe th́ không nên rời xa khỏi tầm tay.

 

18. Cánh đồng thuộc về một gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y ở bên trong cánh đồng th́ nên hiện diện bên trong cánh đồng. (Nếu) không được rào lại th́ không nên rời khỏi tầm tay. Cánh đồng thuộc về nhiều gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y ở bên trong cánh đồng th́ nên hiện diện bên trong cánh đồng hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại th́ không nên rời khỏi tầm tay.

 

19. Ruộng lúa thuộc về một gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y bên trong ruộng lúa th́ nên hiện diện bên trong ruộng lúa. (Nếu) không được rào lại th́ không nên rời khỏi tầm tay. Ruộng lúa thuộc về nhiều gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y ở bên trong ruộng lúa th́ nên hiện diện ở nơi ngưỡng cửa hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại th́ không nên rời khỏi tầm tay.

 

20. Khu vườn thuộc về một gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y ở bên trong khu vườn th́ nên hiện diện ở bên trong khu vườn. (Nếu) không được rào lại th́ không nên rời khỏi tầm tay. Khu vườn thuộc về nhiều gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y ở bên trong khu vườn th́ nên hiện diện ở nơi ngưỡng cửa hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại th́ không nên rời khỏi tầm tay.

 

21. Trú xá thuộc về một gia đ́nh và được rào lại, sau khi đă để y ở bên trong trú xá th́ nên hiện diện bên trong trú xá. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở tại trú xá nào th́ nên hiện diện tại trú xá ấy, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Trú xá thuộc về nhiều gia đ́nh và được rào lại, y đă được để ở tại trú xá nào th́ nên hiện diện tại trú xá ấy hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đă được để ở tại trú xá nào th́ nên hiện diện tại trú xá ấy hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

 

22. Gốc cây thuộc về một gia đ́nh là toàn bộ bóng râm được chiếu xuống vào lúc nửa ngày (giữa trưa). Sau khi đă để y ở bên trong bóng râm th́ nên hiện diện bên trong bóng râm. Gốc cây thuộc về nhiều gia đ́nh th́ không nên rời khỏi tầm tay.

 

23. Khoảng không gian một địa hạt nghĩa là không ở trong thôn làng, ở trong rừng, khoảng không gian xung quanh bảy abbhantara là một địa hạt,[13] từ đó trở đi là nhiều địa hạt.

 

24. Khi đă xa ĺa, nhận biết là đă xa ĺa, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu. Khi đă xa ĺa, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu. Khi đă xa ĺa, (lầm) tưởng là chưa xa ĺa, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu. Khi chưa nguyện xả, (lầm) tưởng là đă nguyện xả, ... Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đă phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đă bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đă bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đă bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đă bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu. Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bị xa ĺa, (lầm) tưởng là đă bị xa ĺa, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bị xa ĺa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bị xa ĺa, nhận biết là chưa bị xa ĺa th́ vô tội.

 

25. Vị nguyện xả vào thời điểm rạng đông, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (những người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy do sự thân thiết, với sự đồng ư của các tỳ khưu, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ nh́ về kaṭhina.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 3. ĐIỀU HỌC THỨ BA VỀ KAṬHINA

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y ngoài hạn kỳ đă phát sanh đến vị tỳ khưu nọ. Y ấy trong khi được may cho vị ấy th́ không đủ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy căng y ấy ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các trú xá đă nh́n thấy vị tỳ khưu ấy sau khi căng y ấy ra đang vuốt tới vuốt lui cho thẳng, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này tỳ khưu, v́ sao ngươi lại căng y ấy ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng vậy?” - “Bạch ngài, y ngoài thời hạn này đă phát sanh đến con, trong khi được may lại không đủ. Chính v́ thế nên con căng y này ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng.” - “Này tỳ khưu, ngươi có sự mong mỏi về y không?” - “Bạch Thế Tôn, thưa có.” Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép sau khi thọ lănh y ngoài hạn kỳ th́ được giữ lại với sự mong mỏi về y.”

 

2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cho phép sau khi thọ lănh y ngoài hạn kỳ th́ được giữ lại với sự mong mỏi về y” nên khi thọ lănh y ngoài hạn kỳ th́ giữ lại hơn một tháng. Các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y. Đại đức Ānanda trong khi đi dạo quanh các trú xá đă nh́n thấy các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y, sau khi nh́n thấy đă nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, các y đă được buộc thành đống treo ở sào máng y là của vị nào vậy?” - “Này đại đức, chúng là các y ngoài hạn kỳ của chúng tôi đă được giữ lại với sự mong mỏi về y.” - “Này các đại đức, vậy các y này đă được giữ lại bao lâu rồi?” - “Này đại đức, hơn một tháng.” Đại đức Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu sau khi thọ lănh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng?” Sau đó, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi thọ lănh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy sau khi thọ lănh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Khi vấn đề y đă được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đă hết hiệu lực, lại có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến vị tỳ khưu, vị tỳ khưu đang mong muốn th́ nên thọ lănh. Sau khi thọ lănh nên bảo thực hiện ngay lập tức, và nếu không đủ th́ vị tỳ khưu ấy nên giữ lại y ấy tối đa một tháng khi có sự mong mỏi làm cho đủ phần thiếu hụt; nếu giữ lại quá hạn ấy mặc dầu có sự mong mỏi, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

3. Khi vấn đề y đă được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đă được làm xong, hoặc là đă bị mất, hoặc là đă bị hư hỏng, hoặc là đă bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đă bị tan vỡ.

 

Khi Kaṭhina đă hết hiệu lực: là đă hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề, hoặc là đă hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.

 

Y ngoài hạn kỳ nghĩa là khi Kaṭhina không thành tựu th́ được phát sanh trong mười một tháng, khi Kaṭhina thành tựu th́ được phát sanh trong bảy tháng; (y) được dâng xác định trong thời gian trên th́ (y) ấy gọi là y ngoài hạn kỳ.

 

Phát sanh: là phát sanh từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vải quăng bỏ,[14] hoặc từ vật sở hữu của bản thân.[15]

 

Đang mong muốn: vị đang ước muốn th́ nên thọ lănh.

 

Sau khi thọ lănh nên bảo thực hiện ngay lập tức: nên bảo thực hiện trong mười ngày.

 

Nếu không đủ: trong khi được may th́ không đủ (y chưa hoàn thành).

 

Vị tỳ khưu ấy nên giữ lại y ấy tối đa một tháng: nên giữ lại nhiều nhất là một tháng.

 

Làm cho đủ phần thiếu hụt: với mục đích làm cho đủ phần thiếu hụt.

 

Khi có sự mong mỏi: là sự mong mỏi (y) từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vải quăng bỏ, hoặc từ vật sở hữu của bản thân.

 

Nếu giữ lại quá hạn ấy mặc dầu có sự mong mỏi: Khi y căn bản được phát sanh ngày ấy (và) y mong mỏi được phát sanh (cùng ngày) th́ nên bảo thực hiện trong mười ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai ngày rồi y mong mỏi được phát sanh th́ nên bảo thực hiện trong mười ngày. ... Khi y căn bản được phát sanh ba ngày ... được phát sanh bốn ngày ... được phát sanh năm ngày ... được phát sanh sáu ngày ... được phát sanh bảy ngày ... được phát sanh tám ngày ... được phát sanh chín ngày ... được phát sanh mười ngày rồi y mong mỏi được phát sanh th́ nên bảo thực hiện trong mười ngày.

 

Khi y căn bản được phát sanh mười một ngày ... được phát sanh mười hai ngày ... được phát sanh mười ba ngày ... được phát sanh mười bốn ngày ... được phát sanh mười lăm ngày ... được phát sanh mười sáu ngày ... được phát sanh mười bảy ngày ... được phát sanh mười tám ngày ... được phát sanh mười chín ngày ... được phát sanh hai mươi ngày rồi y mong mỏi được phát sanh th́ nên bảo thực hiện trong mười ngày.

 

Khi y căn bản được phát sanh hai mươi mốt ngày th́ nên bảo thực hiện trong chín ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi hai ngày ... được phát sanh hai mươi ba ngày ... được phát sanh hai mươi bốn ngày ... được phát sanh hai mươi lăm ngày ... được phát sanh hai mươi sáu ngày ... được phát sanh hai mươi bảy ngày ... được phát sanh hai mươi tám ngày ... được phát sanh hai mươi chín ngày rồi y mong mỏi được phát sanh th́ nên bảo thực hiện trong một ngày. Khi y căn bản được phát sanh ba mươi ngày rồi y mong mỏi được phát sanh, th́ ngay trong ngày ấy (y căn bản) nên được chú nguyện để dùng riêng, nên được chú nguyện để dùng chung, nên được phân phát. Nếu vị không chú nguyện để dùng riêng, hoặc không chú nguyện để dùng chung, hoặc không phân phát, đến lúc hừng đông vào ngày thứ ba mươi mốt th́ (y căn bản) phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân.

 

Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y ngoài hạn kỳ này của tôi đă quá hạn một tháng cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

4. Khi y căn bản được phát sanh là khác phẩm chất rồi y mong mỏi được phát sanh và c̣n lại nhiều đêm, không nên bảo thực hiện trái với ước muốn.[16]

 

5. Khi quá hạn một tháng, nhận biết là đă quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn một tháng, có sự hoài nghi, ... Khi quá hạn một tháng, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, ... Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đă được chú nguyện để dùng riêng, ... Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đă được chú nguyện để dùng chung, ... Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đă được phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đă bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đă bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đă bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đă bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya.

 

6. Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn một tháng, (lầm) tưởng là đă quá hạn, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn một tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn một tháng, nhận biết là chưa quá hạn th́ vô tội.

 

7. Trong thời hạn một tháng, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (những người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ ba về kaṭhina.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 4. ĐIỀU HỌC VỀ Y CŨ

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, người vợ cũ của đại đức Udāyi đă xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Cô ấy thường xuyên đi đến gặp đại đức Udāyi. Đại đức Udāyi cũng thường xuyên đi gặp tỳ khưu ni ấy. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi nhận phần phân phối vật thực ở nơi có sự hiện diện của tỳ khưu ni ấy. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đă mặc y, cầm y bát, rồi đi đến gặp tỳ khưu ni ấy, sau khi đến đă để lộ ra vật kín phía trước (mặt) tỳ khưu ni ấy rồi đă ngồi xuống chỗ ngồi. Tỳ khưu ni ấy cũng đă để lộ ra vật kín phía trước (mặt) đại đức Udāyi rồi đă ngồi xuống chỗ ngồi. Khi ấy, đại đức Udāyi bị khởi dục nên đă suy tưởng đến vật kín của tỳ khưu ni ấy. Tinh dịch của vị ấy đă xuất ra.

 

2. Khi ấy, đại đức Udāyi đă nói với tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này sư tỷ, hăy đi và đem lại nước. Tôi sẽ giặt y nội.” - “Thưa ngài, hăy trao lại. Chính tôi sẽ giặt.” Rồi đă dùng miệng nuốt vào một phần tinh dịch ấy, c̣n một phần đă đưa vào vật kín. Do việc ấy, cô ấy đă mang thai. Các tỳ khưu ni đă nói như vầy: - “Tỳ khưu ni này không có Phạm hạnh, cô có thai.” - “Này các ni sư, tôi không phải là không có Phạm hạnh,” rồi đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ngài đại đức Udāyi lại bảo tỳ khưu ni giặt y cũ?” Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại bảo tỳ khưu ni giặt y cũ?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Udāyi, nghe nói ngươi bảo tỳ khưu ni giặt y cũ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” - “Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.” - “Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ làm hài ḷng hay không làm hài ḷng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi lại bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt y cũ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, hoặc bảo nhuộm, hoặc bảo đập giũ y cũ th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

(Người nữ) Không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.

 

Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.

 

Y cũ nghĩa là đă được mặc một lần, đă được khoác lên một lần.

 

Vị chỉ thị rằng: “Hăy giặt” th́ phạm tội dukkaṭa. (Y) đă được giặt th́ phạm vào nissaggiya. Vị chỉ thị rằng: “Hăy nhuộm” th́ phạm tội dukkaṭa. (Y) đă được nhuộm th́ phạm vào nissaggiya. Vị chỉ thị rằng: “Hăy đập giũ” th́ phạm tội dukkaṭa. Khi (Y) đă được vỗ vào một lần bằng bàn tay hoặc bằng cây gỗ th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân.

 

4. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y cũ này của tôi đă được bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

5. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt y cũ th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm y cũ th́ phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo đập giũ y cũ th́ phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm, bảo đập giũ y cũ th́ phạm hai tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya.

 

6. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm y cũ th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. ―(như trên)― vị bảo nhuộm, bảo đập giũ y cũ th́ phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. ―(như trên)― vị bảo nhuộm, bảo giặt y cũ th́ phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. ―(như trên)― vị bảo nhuộm, bảo đập giũ, bảo giặt y cũ th́ phạm hai tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya.

 

7. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ y cũ th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ, bảo giặt y cũ ―(như trên)― vị bảo đập giũ, bảo nhuộm ―(như trên)― vị bảo đập giũ, bảo giặt, bảo nhuộm y cũ th́ phạm hai tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya.

 

8. Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, ―(như trên)― Vị bảo giặt y cũ của vị khác th́ phạm tội dukkaṭa. Vị bảo giặt tấm lót ngồi (tọa cụ), tấm trải nằm (ngọa cụ) th́ phạm tội dukkaṭa. Vị bảo cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng giặt th́ phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến ―(như trên)― th́ vô tội.

 

9. Khi vị (tỳ khưu ni) là thân quyến đang giặt có vị (tỳ khưu ni) thứ nh́ không phải là thân quyến (phụ giúp), vị (tỳ khưu ni) giặt khi chưa được nói, vị bảo giặt (y) chưa được sử dụng, bị bảo giặt vật dụng khác ngoại trừ y, (vị bảo) cô ni tu tập sự, (vị bảo) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về y cũ.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 5. ĐIỀU HỌC VỀ NHẬN LĂNH Y

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā trú ngụ tại thành Sāvatthī. Khi ấy vào buổi sáng, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Sāvatthī để khất thực. Sau khi đă đi khất thực trong thành Sāvatthī, trong lúc đi khất thực trở về sau bữa ăn, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă đi đến khu rừng Andha để nghỉ trưa. Sau khi đi sâu vào trong khu rừng Andha, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă ngồi nghỉ trưa ở gốc cây nọ. Vào lúc bấy giờ, bọn trộm cướp khi hành sự được hoàn tất đă giết chết con ḅ cái, lấy phần thịt, rồi đi vào khu rừng Andha. Thủ lănh bọn cướp đă nh́n thấy tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đang ngồi nghỉ trưa ở tại gốc cây nọ, sau khi nh́n thấy (nghĩ rằng): “Nếu lũ con trai và đàn em của ta nh́n thấy, chúng sẽ quấy rầy vị tỳ khưu ni này” nên đă rẽ sang lối khác. Sau đó, vị thủ lănh bọn cướp ấy đă lấy các miếng thịt ngon nhất ở phần thịt đă được nấu chín, dùng lá buộc thành gói, rồi treo lên ở thân cây không xa tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā nói rằng: “Vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào nh́n thấy th́ hăy lấy đi vật thí này” rồi đă bỏ đi. Trong khi thủ lănh bọn cướp ấy đang nói lời nói này, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă xuất khỏi thiền định và nghe được. Sau đó, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă cầm lấy phần thịt ấy và đi về ni viện. Sau đó, khi trải qua đêm ấy tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă sửa soạn phần thịt ấy, buộc lại thành gói ở thượng y, rồi đă bay lên không trung và hiện ra ở Veḷuvana.

 

2. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đă đi vào làng để khất thực. Đại đức Udāyi là vị ở lại canh giữ trú xá. Khi ấy, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đă nói với đại đức Udāyi điều này: - “Thưa ngài, đức Thế Tôn ở đâu?” - “Này sư tỷ, đức Thế Tôn đă đi vào làng để khất thực.” - “Thưa ngài, xin hăy dâng phần thịt này đến đức Thế Tôn.” - “Này sư tỷ, đức Thế Tôn được hài ḷng về cô với phần thịt. Nếu cô có thể biếu tôi cái y nội th́ tôi cũng có thể được hài ḷng như vậy với cái y nội.” - “Thưa ngài, quả thật chúng tôi thân phận là người nữ có lợi lộc khó khăn. Và đây là cái y thứ năm cuối cùng[17] của tôi; tôi sẽ không cho.” - “Này sư tỷ, cũng giống như người đă cho con voi th́ nên biếu luôn các sợi dây nài; này sư tỷ, tương tợ y như thế cô đă dâng đức Thế Tôn phần thịt th́ hăy biếu tôi cái y nội.” Khi ấy, tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā trong khi bị nài ép bởi đại đức Udāyi nên đă cho cái y nội rồi đi về ni viện. Các tỳ khưu ni trong lúc tiếp rước y bát của tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă nói với tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā điều này: - “Thưa ni sư, y nội của cô đâu rồi?” Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ngài đại đức Udāyi lại nhận lănh y từ tay tỳ khưu ni? Là người nữ có lợi lộc thật khó khăn!” Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.

 

3. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại nhận lănh y của tỳ khưu ni?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Udāyi, nghe nói ngươi nhận lănh y của tỳ khưu ni, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” - “Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.” - “Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ đúng hay không đúng đối với người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi lại nhận lănh y từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào nhận lănh y từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

[Sự quy định căn bản]

 

4. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lănh y trao đổi của các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các ngài đại đức lại không nhận lănh y trao đổi của chúng tôi?” Các tỳ khưu đă nghe được các tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép nhận lănh vật trao đổi của năm hạng là tỳ khưu, tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, sa di, sa di ni. Này các tỳ khưu, Ta cho phép nhận lănh vật trao đổi của năm hạng này. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

 “Vị tỳ khưu nào nhận lănh y từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya ngoại trừ sự trao đổi.

 

[Sự quy định thứ hai]

 

5. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

(Người nữ) Không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.

 

Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.

 

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

 

Ngoại trừ sự trao đổi: trừ ra sự trao đổi.

 

6. Vị nhận lănh, trong lúc thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đă được nhận lănh từ tay của tỳ khưu ni không phải là thân quyến, ngoại trừ sự trao đổi, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

7. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị nhận lănh y từ tay th́ phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ sự trao đổi. Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, vị nhận lănh y từ tay th́ phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ sự trao đổi. Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị nhận lănh y từ tay th́ phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ sự trao đổi. Vị nhận lănh y từ tay của cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa, ngoại trừ sự trao đổi. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến ―(như trên)― th́ vô tội.

 

8. Của vị (tỳ khưu ni) là thân quyến, sự trao đổi vật lớn bằng vật nhỏ hoặc là vật nhỏ bằng vật lớn, vị tỳ khưu lấy do sự thân thiết, lấy trong một thời hạn, lấy vật phụ tùng khác ngoại trừ y, của cô ni tu tập sự, của sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về nhận lănh y.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 6. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC YÊU CẦU NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ THÂN QUYẾN

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya là rành rẽ về thuyết giảng Giáo Pháp. Vào lúc bấy giờ, có người con trai nhà đại phú nọ đă đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Upananda con trai ḍng Sakya rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người con trai nhà đại phú ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đại đức Upananda con trai ḍng Sakya chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người con trai nhà đại phú ấy đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Thưa ngài, xin ngài nói ra nhu cầu mà chúng tôi có khả năng để dâng đến ngài đại đức tức là vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.” - “Này đạo hữu, nếu đạo hữu có ư định bố thí th́ hăy dâng một trong hai[18] tấm vải này.”

 

2. - “Thưa ngài, thật là kỳ cục cho các người con trai gia đ́nh danh giá chúng tôi lại đi chỉ mặc một tấm vải! Thưa ngài, xin chờ đợi đến khi tôi đi về nhà, khi đă về nhà rồi tôi sẽ gởi đến hoặc là một trong hai tấm vải này, hoặc là đẹp hơn hai tấm này.” Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă nói với người con trai nhà đại phú ấy điều này: - “Này đạo hữu, nếu ngươi có ư định bố thí th́ hăy dâng một trong hai tấm vải này.” - “Thưa ngài, thật là kỳ cục cho các người con trai gia đ́nh danh giá chúng tôi lại đi chỉ mặc một tấm vải! Thưa ngài, xin chờ đợi đến khi tôi đi về nhà, khi đă về nhà rồi tôi sẽ gởi đến hoặc là một trong hai tấm vải này, hoặc là đẹp hơn hai tấm này.” - “Này đạo hữu, ngươi nói lời thỉnh cầu mà không chịu bố thí, việc ǵ khiến ngươi không có ư định bố thí lại nói lời thỉnh cầu vậy?” Khi ấy, người con trai nhà đại phú ấy trong lúc bị nài ép bởi đại đức Upananda con trai ḍng Sakya nên đă cho một tấm vải rồi đi. Dân chúng sau khi nh́n thấy người con trai nhà đại phú ấy đă nói điều này: - “Này công tử, sao ngài lại đi đến chỉ mặc một tấm vải?”

 

3. Khi ấy, người con trai nhà đại phú ấy đă kể lại sự việc ấy cho những người ấy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ ǵ mà thực hiện sự thỉnh cầu đúng pháp đối với những người này! Tại sao trong lúc được người con trai nhà đại phú thực hiện sự thỉnh cầu đúng pháp, các vị ấy lại lấy đi tấm vải choàng?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya lại yêu cầu người con trai nhà đại phú về y?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Upananda, nghe nói ngươi yêu cầu người con trai nhà đại phú về y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” - “Này Upananda, là thân quyến của ngươi hay không phải là thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là thân quyến.” - “Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ đúng hay không đúng đối với người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi lại yêu cầu người con trai nhà đại phú về y? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

 Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

[Sự quy định căn bản]

 

4. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu đi đường xa từ Sāketa đến Sāvatthī. Giữa đường, bọn cướp đă xuất hiện và đă cướp bóc các vị tỳ khưu ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y,” trong lúc ngần ngại đă không yêu cầu rồi lơa thể như thế đi đến thành Sāvatthī và đảnh lễ các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đại đức, các đạo sĩ lơa thể này tốt thật, những người này đảnh lễ các tỳ khưu.”

 

 Các vị ấy đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi không phải là đạo sĩ lơa thể, chúng tôi là tỳ khưu.” Các tỳ khưu đă nói với đại đức Upāli điều này: - “Này đại đức Upāli, hăy xét hỏi những người này đi.” Trong lúc được xét hỏi bởi đại đức Upāli, các vị ấy đă kể lại sự việc ấy.

 

5. Khi ấy, đại đức Upāli sau khi xét hỏi các tỳ khưu ấy đă nói với các tỳ khưu điều này: - “Này các đại đức, những vị này là những vị tỳ khưu, hăy cho y đến những vị ấy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại lơa thể mà đi đến? Sao không dùng cỏ che kín lại rồi mới nên đi đến?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

6. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép vị có y bị cướp đoạt hoặc vị có y bị hư hỏng được yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y. (Ta cho phép) khi đi đến trú xứ đầu tiên, nếu nơi ấy hội chúng có y thuộc về trú xá, hoặc vải lót giường, hoặc vải trải nền, hoặc bao nệm, th́ được lấy vật ấy và choàng lên (nghĩ rằng): “Khi nhận được y, ta sẽ gởi lại.” Nếu hội chúng không có y thuộc về trú xá, hoặc vải lót giường, hoặc vải trải nền, hoặc bao nệm, th́ nên dùng cỏ hoặc lá che kín lại rồi mới nên đi đến; nhưng không nên lơa thể mà đi đến, vị nào đi đến th́ phạm tội dukkaṭa. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp này là vị tỳ khưu có y bị cướp đoạt hoặc là có y bị hư hỏng. Đây là duyên cớ trong trường hợp này.

 

[Sự quy định lần hai]

 

7. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.

 

Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

 

Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.

 

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

 

Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.

 

Y bị cướp đoạt nghĩa là y của vị tỳ khưu bị các vị vua, hoặc những kẻ trộm, hoặc những kẻ vô lại cướp đoạt, hoặc bị bất cứ những ai cướp đoạt.

 

Y bị hư hỏng nghĩa là y của vị tỳ khưu bị lửa đốt cháy, hoặc bị nước cuốn trôi, hoặc bị các con chuột hoặc các con mối gặm nhấm, hoặc là cũ kỷ v́ sử dụng. Vị yêu cầu, trong lúc thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa, ngoại trừ có duyên cớ. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đă được yêu cầu từ gia chủ không phải là thân quyến ngoại trừ có duyên cớ, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

8. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị yêu cầu y th́ phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ có duyên cớ. Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, vị yêu cầu y th́ phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ có duyên cớ. Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị yêu cầu y th́ phạm tội nissaggiya pācittiya, ngoại trừ có duyên cớ. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến th́ vô tội.

 

9. Khi có duyên cớ, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về việc yêu cầu người không phải là thân quyến.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 7. ĐIỀU HỌC VỀ VƯỢT QUÁ SỐ Y ẤY

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến gặp các tỳ khưu là những vị có y bị cướp đoạt rồi nói như vầy: - “Này các đại đức, đức Thế Tôn đă cho phép vị có y bị cướp đoạt hoặc là vị có y bị hư hỏng được yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y. Này các đại đức, vậy chúng ta hăy yêu cầu về y.” - “Này các đại đức, thôi đi. Chúng tôi đă nhận được y rồi.” - “Này các đại đức, chúng tôi yêu cầu v́ nhu cầu của các đại đức.” - “Này các đại đức, các vị hăy yêu cầu.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi đến các gia chủ không phải là thân quyến và đă nói điều này: - “Này các đạo hữu, các vị tỳ khưu mới đi đến là những vị có y bị cướp đoạt, hăy dâng y cho các vị ấy,” rồi đă yêu cầu nhiều y.

 

2. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ đang ngồi ở nơi hội họp đă nói với người đàn ông khác điều này: - “Quư ông, các vị tỳ khưu mới đi đến là những vị có y bị cướp đoạt, tôi đă dâng y cho các vị ấy.” Vị kia cũng đă nói như vầy: - “Tôi cũng đă dâng rồi.” Một người khác cũng đă nói như vầy: - “Tôi cũng đă dâng rồi.” Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y? Các Sa-môn Thích tử sẽ làm việc buôn bán vải hay sẽ lập nên gian hàng?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

3. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại không biết sự chừng mực và yêu cầu nhiều y vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Nếu vị ấy được nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến thỉnh cầu để đem lại với nhiều y, vị tỳ khưu ấy nên chấp nhận y trong số ấy với mức tối đa là y nội và thượng y, nếu chấp nhận vượt quá số ấy th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

4. Nếu vị ấy: là vị tỳ khưu có y bị đánh cướp.

 

Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.

 

Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

 

Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.

 

Với nhiều y: với các y có số lượng nhiều.

 

Thỉnh cầu để đem lại: là (nói rằng): “Ngài thích bao nhiêu xin nhận lấy bấy nhiêu.”

 

Vị tỳ khưu ấy nên chấp nhận y trong số ấy với mức tối đa là y nội và thượng y: Nếu ba (y) bị hư hỏng th́ nên chấp nhận hai (y), hai (y) bị hư hỏng th́ nên chấp nhận một (y), một (y) bị hư hỏng th́ không nên chấp nhận.

 

Nếu chấp nhận vượt quá số ấy: Vị yêu cầu vượt quá số ấy, trong lúc thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đă được yêu cầu vượt quá số ấy từ gia chủ không phải là thân quyến, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

5. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị yêu cầu y vượt quá số ấy th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị yêu cầu y vượt quá số ấy th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến th́ vô tội.

 

6. Trong khi mang đi (nói rằng): “Tôi sẽ mang lại phần c̣n thừa,” (các thí chủ) dâng cho (nói rằng): “Phần c̣n lại là của chính ngài,” (các thí chủ) dâng không v́ nguyên nhân (y) bị cướp đoạt, (các thí chủ) dâng không v́ nguyên nhân (y) bị hư hỏng, của các thân quyến, của những người đă nói lời thỉnh cầu, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về vượt quá số y ấy.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 8. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ (SỐ TIỀN) ĐĂ ĐƯỢC CHUẨN BỊ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ đă nói với người vợ điều này: - “Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.” Khi người đàn ông ấy đang nói lời này, có vị tỳ khưu nọ là vị hành pháp khất thực đă nghe được. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Này đại đức Upananda, ngài có phước báu lớn lao. Ở chỗ kia, có người đàn ông nọ đă nói với người vợ điều này: ‘Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.’” - “Này đại đức, người ấy là người hộ độ cho tôi.” Sau đó, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă đi đến gặp người đàn ông ấy, sau khi đến đă nói với người đàn ông ấy điều này: - “Này đạo hữu, nghe nói đạo hữu có ư định dâng y đến tôi, có đúng không vậy?” - “Thưa ngài, tôi cũng có khởi ư như vầy: ‘Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.’” - “Này đạo hữu, nếu quả thật đạo hữu có ư định dâng y đến tôi th́ hăy dâng y có h́nh thức như vầy. Tôi được dâng y mà tôi sẽ không sử dụng th́ tôi sẽ làm ǵ với y ấy?”

 

2. Sau đó, người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ ǵ mà dâng y cho những người này! V́ sao ngài đại đức Upananda khi chưa được tôi thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y?” Các tỳ khưu đă nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Upananda, nghe nói ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” “Này Upananda, là thân quyến của ngươi hay không phải là thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là thân quyến.” “Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ đúng hay không đúng đối với người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp có số tiền mua y của nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến đă được chuẩn bị dành riêng cho vị tỳ khưu: ‘Với số tiền mua y này sau khi mua y tôi sẽ dâng y đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Quả thật là tốt, với số tiền mua y này ông hăy mua y có h́nh thức như vầy và như vầy rồi dâng cho tôi;’ v́ sự mong muốn y tốt đẹp, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

3. Dành riêng cho vị tỳ khưu: v́ nhu cầu của vị tỳ khưu, sau khi nghĩ đến vị tỳ khưu rồi có ư định dâng vị tỳ khưu.

 

Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.

 

Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

 

Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.

 

Số tiền mua y nghĩa là vàng, hoặc là tiền vàng, hoặc là ngọc trai, hoặc là ngọc ma-ni, hoặc là đá quư, hoặc là pha lê, hoặc là vải vóc, hoặc là chỉ sợi, hoặc là bông vải.

 

Với số tiền mua y này: với (số tiền) đă được sẵn sàng.

 

Sau khi mua y: sau khi trao đổi.

 

Tôi sẽ dâng: tôi sẽ cho.

 

Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy: vị tỳ khưu ấy là vị tỳ khưu mà số tiền mua y đă được chuẩn bị dành riêng cho.

 

Chưa được thỉnh cầu trước: chưa được nói trước rằng: “Thưa ngài, ngài có nhu cầu với loại y như thế nào?” “Tôi sẽ mua y như thế nào cho ngài?”

 

Lại đi đến: sau khi đi đến nhà, sau khi đi đến gặp ở bất cứ nơi nào.

 

Đưa ra sự căn dặn về y: (Y) hăy dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.

 

Với số tiền mua y này: với (số tiền) đă được sẵn sàng.

 

Có h́nh thức như vầy và như vầy: là dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.

 

Sau khi mua: sau khi trao đổi.

 

(Đạo hữu) hăy dâng cho: hăy trao cho.

 

V́ sự mong muốn y tốt đẹp: có ao ước vật tốt, có ao ước vật giá cao.

 

4. (Gia chủ) mua (y) dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng theo lời nói của vị ấy. Trong lúc thực hiện th́ (vị ấy) phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gia chủ không phải là thân quyến và đă đưa ra sự căn dặn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

5. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến th́ vô tội.

 

6. Của các thân quyến, của những người đă nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bảo mua (y) giá thấp đối với người có ư định mua (y) giá cao, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ nhất về (số tiền) đă được chuẩn bị.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 9. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀ VỀ (SỐ TIỀN) ĐĂ ĐƯỢC CHUẨN BỊ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ đă nói với người đàn ông khác điều này: - “Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.” Người kia cũng đă nói như vầy: - “Tôi cũng sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.” Có vị tỳ khưu nọ là vị hành pháp khất thực đă nghe được cuộc nói chuyện này của những người đàn ông ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Này đại đức Upananda, ngài có phước báu lớn lao. Ở chỗ kia, có người đàn ông nọ đă nói với người đàn ông khác điều này: ‘Tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.’ Người kia cũng đă nói như vầy: ‘Tôi cũng sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.’” - “Này đại đức, họ là những người hộ độ cho tôi.”

 

2. Sau đó, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă đi đến gặp những người đàn ông ấy, sau khi đến đă nói với những người đàn ông ấy điều này: - “Này các đạo hữu, nghe nói các đạo hữu có ư định dâng các y đến tôi, có đúng không vậy?” - “Thưa ngài, chúng tôi cũng có khởi ư như vầy: ‘Chúng tôi sẽ dâng các y đến ngài đại đức Upananda.’” - “Này các đạo hữu, nếu quả thật các đạo hữu có ư định dâng các y đến tôi th́ nên dâng y có h́nh thức như vầy. Tôi được dâng những y mà tôi sẽ không sử dụng th́ tôi sẽ làm ǵ với các y ấy?”

 

3. Khi ấy, những người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ ǵ mà dâng các y cho những người này! Tại sao ngài đại đức Upananda khi chưa được chúng tôi thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y?” Các tỳ khưu đă nghe được những người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y?”

 

4. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Upananda, nghe nói ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” - “Này Upananda, là các thân quyến của ngươi hay không phải là các thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là các thân quyến.” - “Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ đúng hay không đúng đối với những người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp có các số tiền mua y khác nhau của hai nam gia chủ hoặc (của hai) nữ gia chủ không phải là các thân quyến đă được chuẩn bị dành riêng cho vị tỳ khưu: ‘Với các số tiền mua y khác nhau này sau khi mua các y khác nhau chúng tôi sẽ dâng các y đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Quả thật là tốt, với các số tiền mua y này quư ông hăy mua y có h́nh thức như vầy và như vầy rồi hăy dâng cho tôi, cả hai là với một (y);’ v́ sự mong muốn y tốt đẹp, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

5. Dành riêng cho vị tỳ khưu: v́ nhu cầu của vị tỳ khưu, sau khi nghĩ đến vị tỳ khưu rồi có ư định dâng vị tỳ khưu.

 

Của hai: của cả hai.

 

Không phải là các thân quyến nghĩa là những người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.

 

(Các) nam gia chủ nghĩa là bất cứ những người nam nào sống trong căn nhà.

 

(Các) nữ gia chủ nghĩa là bất cứ những người nữ nào sống trong căn nhà.

 

Các số tiền mua y nghĩa là nhiều vàng, hoặc là các tiền vàng, hoặc là các ngọc ma-ni, hoặc là các ngọc trai, hoặc là các đá quư, hoặc là các pha lê, hoặc là nhiều vải vóc, hoặc là nhiều chỉ sợi, hoặc là nhiều bông vải.

 

Với các số tiền mua y này: với (các số tiền) đă được sẵn sàng.

 

Sau khi mua y: sau khi trao đổi.

 

Chúng tôi sẽ dâng: chúng tôi sẽ cho.

 

Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy: vị tỳ khưu ấy là vị tỳ khưu mà các số tiền mua y đă được chuẩn bị dành riêng cho.

 

Chưa được thỉnh cầu trước: chưa được nói trước rằng: “Thưa ngài, ngài có nhu cầu với loại y như thế nào?” “Chúng tôi sẽ mua y như thế nào cho ngài?”

 

Lại đi đến: sau khi đi đến nhà, sau khi đi đến gặp ở bất cứ nơi nào.

 

Đưa ra sự căn dặn về y: (Y) hăy dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.

 

Với các số tiền mua y này: với (các số tiền) đă được sẵn sàng.

 

Có h́nh thức như vầy và như vầy: là dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng.

 

Sau khi mua: sau khi trao đổi.

 

(Quư ông) hăy dâng đến: (quư ông) hăy trao cho.

 

Cả hai là với một (y): luôn cả hai người là với một (y).

 

V́ sự mong muốn y tốt đẹp: có ao ước vật tốt, có ao ước vật giá cao.

 

6. Họ mua (y) dài, hoặc rộng, hoặc chắc, hoặc mịn màng theo lời nói của vị ấy. Trong lúc thực hiện th́ (vị ấy) phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các gia chủ không phải là các thân quyến và đă đưa ra sự căn dặn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

7. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến th́ vô tội.

 

8. Của các thân quyến, của những người đă nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bảo mua (y) giá thấp đối với những người có ư định mua (y) giá cao, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ nh́ về (số tiền) đă được chuẩn bị.

 

--ooOoo--

 

 

5. 1. 10. ĐIỀU HỌC VỀ ĐỨC VUA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần, là người hộ độ cho đại đức Upananda con trai ḍng Sakya, đă phái sứ giả đem tiền mua y đến đại đức Upananda con trai ḍng Sakya (bảo rằng): - “Hăy mua y với số tiền mua y này rồi dâng y đến ngài đại đức Upananda.” Sau đó, người sứ giả ấy đă đi đến đại đức Upananda con trai ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Thưa ngài, số tiền mua y này được dành riêng cho đại đức đă được mang lại. Xin đại đức hăy nhận lănh tiền mua y.” Khi được nói như thế, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă nói với người sứ giả ấy điều này: - “Này đạo hữu, chúng tôi không nhận lănh tiền mua y và chúng tôi chỉ nhận lănh y đúng phép vào lúc hợp thời.” Khi được nói như thế, người sứ giả ấy đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Vậy có ai là người phục vụ cho đại đức không?” Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đă đi đến tu viện do công việc cần làm nào đó. Khi ấy, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă nói với người sứ giả ấy điều này: - “Này đạo hữu, chính nam cư sĩ này là người phục vụ cho các tỳ khưu.” Sau đó, khi đă dặn ḍ nam cư sĩ ấy, người sứ giả ấy đă đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Thưa ngài, người phục vụ mà đại đức chỉ ra đă được tôi dặn ḍ. Đại đức hăy đi đến lúc đúng thời, người ấy sẽ dâng y cho ngài.”

 

2. Vào lúc bấy giờ, vị quan đại thần ấy đă phái sứ giả đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya (nhắn rằng): - “Thưa ngài, xin hăy sử dụng y ấy. Chúng tôi muốn y ấy được ngài đại đức sử dụng.” Khi ấy, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă không nói với nam cư sĩ ấy điều ǵ cả. Đến lần thứ nh́, vị quan đại thần ấy đă phái sứ giả đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya (nhắn rằng): - “Thưa ngài, xin hăy sử dụng y ấy. Chúng tôi muốn y ấy được ngài đại đức sử dụng.” Đến lần thứ nh́, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă không nói với nam cư sĩ ấy điều ǵ cả. Đến lần thứ ba, vị quan đại thần ấy đă phái sứ giả đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya (nhắn rằng): - “Thưa ngài, xin hăy sử dụng y ấy. Chúng tôi muốn y ấy được ngài đại đức sử dụng.”

 

3. Vào lúc bấy giờ là ngày hội họp của thị trấn. Và thị trấn đă thực hiện quy định là: “Ai đi đến trễ bị phạt năm mươi tiền.” Khi ấy, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă đi đến gặp nam cư sĩ ấy, sau khi đến đă nói với nam cư sĩ ấy điều này:

 

- “Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về y.” - “Thưa ngài, xin hăy chờ cho ngày hôm nay. Hôm nay là ngày hội họp của thị trấn. Và thị trấn đă thực hiện quy định là: ‘Ai đi đến trễ bị phạt năm mươi tiền.’” - “Này đạo hữu, hăy dâng y cho tôi ngay hôm nay,” rồi đă nắm lấy dây thắt lưng (của người ấy).” Khi ấy, nam cư sĩ ấy trong lúc bị đại đức Upananda con trai ḍng Sakya ép buộc nên đă mua y cho đại đức Upananda con trai ḍng Sakya và đă đi đến trễ. Dân chúng đă nói với nam cư sĩ ấy điều này: - “Này ông, v́ sao ông lại đi đến trễ? Ông đă bị mất năm mươi tiền.”

 

4. Khi ấy, nam cư sĩ ấy đă kể lại sự việc ấy cho những người ấy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ ǵ mà phục vụ cho những người này! V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya khi được nam cư sĩ nói rằng: ‘Thưa ngài, xin hăy chờ cho ngày hôm nay’ lại không chờ đợi?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya khi được nam cư sĩ nói rằng: ‘Thưa ngài, xin hăy chờ cho ngày hôm nay’ lại không chờ đợi?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi khi được nam cư sĩ nói rằng: ‘Thưa ngài, xin hăy chờ cho ngày hôm nay’ lại không chờ đợi, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi khi được nam cư sĩ nói rằng: ‘Thưa ngài, xin hăy chờ cho ngày hôm nay’ lại không chờ đợi? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp đức vua, hoặc quan triều đ́nh, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ phái sứ giả đem số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hăy mua y với số tiền mua y này rồi hăy dâng đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Nếu người sứ giả ấy đi đến gặp vị tỳ khưu ấy và nói như vầy: ‘Thưa ngài, số tiền mua y này được dành riêng cho đại đức đă được mang lại. Xin đại đức hăy nhận lănh tiền mua y.’ Người sứ giả ấy nên được vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Này đạo hữu, chúng tôi không nhận lănh tiền mua y và chúng tôi chỉ nhận lănh y đúng phép vào lúc hợp thời.’ Nếu người sứ giả ấy nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: ‘Vậy có ai là người phục vụ cho đại đức không?’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y nên chỉ ra người phục vụ là người phụ việc chùa hoặc là nam cư sĩ: ‘Này đạo hữu, đây chính là người phục vụ cho các tỳ khưu.’ Nếu người sứ giả ấy sau khi đă dặn ḍ người phục vụ ấy rồi đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Thưa ngài, người phục vụ mà đại đức đă chỉ ra đă được tôi dặn ḍ. Đại đức hăy đi đến lúc đúng thời, người ấy sẽ dâng y cho ngài.’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y sau khi đi đến gặp người phục vụ ấy rồi nên thông báo nên nhắc nhở hai hoặc ba lần: ‘Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về y.’

 

 Trong khi thông báo nhắc nhở hai hoặc ba lần, nếu đạt được y ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không đạt được th́ nên đứng với trạng thái im lặng bốn lần, năm lần, tối đa là sáu lần. Trong khi đứng với trạng thái im lặng bốn lần, năm lần, tối đa là sáu lần, nếu đạt được y ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không đạt được rồi ra sức vượt quá số lần ấy và đạt được y ấy th́ (y ấy) phạm vào nissaggiya và (vị ấy) phạm tội pācittiya. Nếu không đạt được th́ tiền mua y đă được mang lại là của nơi nào th́ nên đích thân đi đến nơi ấy, hoặc nên phái sứ giả đi đến (nói rằng): ‘Này quư vị, các người đă gởi đến số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu nào, số tiền ấy không có được chút ǵ lợi ích cho vị tỳ khưu ấy. Quư vị hăy thâu hồi lại vật của ḿnh, chớ để vật của quư vị bị mất mát. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.”

 

5. Dành riêng cho vị tỳ khưu: v́ nhu cầu của vị tỳ khưu, sau khi nghĩ đến vị tỳ khưu rồi có ư định dâng vị tỳ khưu.

 

Đức vua nghĩa là người nào cai trị vương quốc.

 

Quan triều đ́nh nghĩa là người nào nhận lănh bữa ăn và tiền lương của đức vua.

 

Bà-la-môn nghĩa là Bà-la-môn do sự sanh ra.

 

Gia chủ nghĩa là trừ ra các vị vua, các quan triều đ́nh, các Bà-la-môn; những người c̣n lại gọi là gia chủ.

 

Số tiền mua y nghĩa là vàng, hoặc là tiền vàng, hoặc là ngọc trai, hoặc ngọc là ma-ni.

 

Với số tiền mua y này: với (số tiền) đă được sẵn sàng.

 

Sau khi mua y: sau khi trao đổi.

 

Hăy dâng đến: hăy trao cho.

 

Nếu người sứ giả ấy đi đến gặp vị tỳ khưu ấy và nói như vầy: ‘Thưa ngài, số tiền mua y này được dành riêng cho đại đức đă được mang lại. Xin đại đức hăy nhận lănh tiền mua y.’ Người sứ giả ấy nên được vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Này đạo hữu, chúng tôi không nhận lănh tiền mua y và chúng tôi chỉ nhận lănh y đúng phép vào lúc hợp thời.’ Nếu người sứ giả ấy nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: ‘Vậy có ai là người phục vụ cho đại đức không?’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y nên chỉ ra người phục vụ là người phụ việc chùa hoặc là nam cư sĩ: ‘Này đạo hữu, đây chính là người phục vụ cho các tỳ khưu.’ Không nên nói: ‘Hăy trao cho người ấy;’ hoặc ‘Người ấy sẽ cất giữ;’ hoặc ‘Người ấy sẽ trao đổi;’ hoặc ‘Người ấy sẽ mua.’

 

Nếu người sứ giả ấy sau khi đă dặn ḍ người phục vụ ấy rồi đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Thưa ngài, người phục vụ mà đại đức đă chỉ ra đă được tôi dặn ḍ. Đại đức hăy đi đến lúc đúng thời, người ấy sẽ dâng y cho ngài.’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y sau khi đi đến gặp người phục vụ ấy rồi nên thông báo, nên nhắc nhở hai hoặc ba lần: ‘Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về y.’ Không nên nói: ‘Hăy dâng y cho tôi;’ ‘Hăy mang lại y cho tôi;’ ‘Hăy trao đổi y cho tôi;’ ‘Hăy mua y cho tôi.’ Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu đạt được (y), như thế việc này là tốt đẹp.

 

Nếu không đạt được th́ sau khi đi đến nơi ấy nên đứng với trạng thái im lặng. Không nên ngồi xuống chỗ ngồi. Không nên thọ nhận vật thực. Không nên thuyết Pháp. Nếu được hỏi: ‘Ngài đă đi đến v́ lư do ǵ?’ Nên nói rằng: ‘Này đạo hữu, ngươi hăy biết lấy.’ Nếu ngồi xuống chỗ ngồi, hoặc thọ nhận vật thực, hoặc thuyết Pháp, th́ làm hỏng việc đứng. Lần thứ nh́, nên đứng. Lần thứ ba, nên đứng. Sau khi thông báo bốn lần, nên đứng bốn lần. Sau khi thông báo năm lần, nên đứng hai lần. Sau khi thông báo sáu lần th́ không nên đứng. Nếu không đạt được rồi ra sức vượt quá số lần ấy và đạt được y ấy, trong lúc thực hiện th́ (vị ấy) phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đă đạt được do sự thông báo quá ba lần và đứng quá sáu lần, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

 

Nếu không đạt được th́ tiền mua y đă được mang lại là của nơi nào th́ nên đích thân đi đến nơi ấy hoặc nên phái sứ giả đi đến (nói rằng): “Này quư vị, các người đă gởi đến số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu nào, số tiền ấy không có được chút ǵ lợi ích cho vị tỳ khưu ấy. Quư vị hăy thâu hồi lại vật của ḿnh, chớ để vật của quư vị bị mất mát.”

 

Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy: Đây là điều hợp lư trong trường hợp ấy.

 

6. Với sự thông báo hơn ba lần, với việc đứng hơn sáu lần, nhận biết là đă vượt quá, vị đạt được th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Với sự thông báo hơn ba lần, với việc đứng hơn sáu lần, có sự hoài nghi, vị đạt được th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Với sự thông báo hơn ba lần, với việc đứng hơn sáu lần, (lầm) tưởng là chưa đủ, vị đạt được th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Với sự thông báo chưa đủ ba lần, với việc đứng chưa đủ sáu lần, (lầm) tưởng là đă vượt quá, phạm tội dukkaṭa. Với sự thông báo chưa đủ ba lần, với việc đứng chưa đủ sáu lần, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Với sự thông báo chưa đủ ba lần, với việc đứng chưa đủ sáu lần, nhận biết là chưa đủ th́ vô tội.

 

7. Với sự thông báo ba lần, với việc đứng sáu lần, với sự thông báo chưa đủ ba lần, với việc đứng chưa đủ sáu lần, (người ấy) dâng khi chưa được thông báo, thí chủ dâng sau khi thông báo, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về đức vua.

 

Phẩm Y là thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 

TÓM LƯỢC PHẦN NÀY

 

 Kaṭhina đă hết hiệu lực có ba điều, việc giặt, và việc nhận lănh, ba điều nữa về không phải là thân quyến, của cả hai, và bởi người sứ giả.

 

--ooOoo--

 


 

[1] Xem xét khi nào không có ai qua lại th́ hỏi han chuyện gia đ́nh: “Chắc là cô hạnh phúc? Chắc là cô không bị mệt nhọc? Chắc là cô không bị đói?” v.v... Khi nào có ai đi lại gần th́ nói Pháp: “Nên thọ bát quan trai giới. Nên dâng thức ăn theo thẻ.” v.v... (VinA. iii, 631).

[2] Ngài Buddhaghosa giải thích là bà Visākhā có 10 người con trai và 10 người con gái. Mỗi người con trai hoặc gái có 20 người con. Tổng cộng bà có hơn 420 người con cháu (VinA. iii, 631).

[3] Hai từ abhisametāvinīviññātasāsanā được ghi nghĩa theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa (Vin.A. iii, 632).

[4] Động từ dhāreti có nghĩa chính là “mang, mặc, v.v...” nhưng để phù hợp với ngữ cảnh từ dịch Việt đă được biến đổi ít nhiều như là “cất giữ, sử dụng, v.v...”

[5] Nissaggiya pācittiya có hai phần: nissaggiya liên quan đến đồ vật cần được xả bỏ, pācittiya là tội ưng đối trị.

[6] Tám tiêu đề (mātikā) về sự hết hiệu lực của Kaṭhina: do sự ra đi, do (y) được hoàn tất, do tự ḿnh quyết định, do bị mất, do nghe được (tin), do sự tan vỡ của niềm mong mỏi, do sự vượt qua ranh giới, do sự hết hiệu lực cùng một lúc (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VII, trang 116).

[7] Hội chúng thực hiện hành sự thâu hồi khiến Kaṭhina hết hiệu lực (ND).

[8] Sáu loại y: “Này các tỳ khưu, ta cho phép sáu loại y: loại bằng sợi lanh, loại bằng bông vải, loại bằng tơ lụa, loại bằng sợi len, loại bằng gai thô, loại bằng chỉ bố” (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VII, trang 183).

[9] Chú nguyện để dùng chung: “Này các tỳ khưu, Ta cho phép chú nguyện để dùng chung y (có kích thước) tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn” (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VIII, trang 213).

[10] santaruttara = sa+antara+uttara = sa+antaravāsaka+uttarasaṅga = với+y nội+thượng y (y vai trái).

[11] Ngài Buddhaghosa giải thích là 1 hatthapāsa (tầm tay) = 2,5 ratana (VinA. iii, 652), và 1 ratana = 2 vidatthiyo (gang tay), 1 vidatthi = 12 lần bề rộng của ngón tay (VibhA. 343). Tài liệu The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho biết = 1 hatthapāsa = 1,25 mét.

[12] Ngài Buddhaghosa giải thích 1 abbhantara là 28 hattha (cánh tay) (VinA. iii, 654). Từ điển của Childers giải thích hattha là chiều dài tính từ cùi chỏ của cánh tay đến đầu ngón tay út. Tài liệu The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho biết khoảng cách của 7 abbhantara = 98 mét (Như vậy 1 abbhantara = 14 mét, 1 hattha = 0,5 mét).

[13] Tức là ṿng tṛn bán kính 7 abbhantara (= 98 mét), lấy chỗ để y làm tâm điểm (ND).

[14] Vải quăng bỏ (paṃsukūla) được phát sanh lên do nhiều cách thức. Một trong những cách thức đă được các tỳ khưu thời ấy áp dụng là đi vào mộ địa nhặt lấy các vải quấn tử thi đem về giặt sạch, cắt may thành y, nhuộm màu, v.v... (ND).

[15] Ngài Buddhaghosa giải thích “từ vật sở hữu của bản thân” là phát sanh lên do bông vải, chỉ sợi, v.v... của bản thân (VinA. iii, 659).

[16] Ngài Buddhaghosa giải thích như sau: “Nếu y căn bản là mịn và y mong mỏi là thô không thể kết hợp với nhau, và c̣n lại nhiều đêm nhưng vẫn không đủ cho đến hết tháng th́ không nên cho thực hiện y trái với ước muốn, lại c̣n bị sự chê bai nữa. Nên chờ cho đến khi nhận lănh y mong mỏi khác nữa rồi cho thực hiện trong khoảng thời gian (cho phép). Cũng nên chú nguyện y mong mỏi làm vải phụ tùng (parikkhāracoḷaṃ). Nếu y căn bản là thô và y mong mỏi là mịn th́ nên chú nguyện y căn bản làm vải phụ tùng, rồi lấy y mong mỏi làm y căn bản, và giữ lại. Bằng phương thức này th́ đạt được lại cả tháng ấy để giữ lại y” (VinA. iii, 659). Có thể hiểu lời giải thích trên như sau: Trong ṿng hai mươi ngày đầu tính từ lúc y căn bản được phát sanh, nếu y mong mỏi được phát sanh th́ số ngày để giữ y căn bản không c̣n đủ ba mươi ngày (mà chỉ c̣n mười ngày, phù hợp với thời gian cất giữ của y mới được phát sanh chỉ được tối đa là mười ngày). Như vậy, hoặc là hy vọng trong mười ngày c̣n lại sẽ có thêm y mong mỏi khác cùng loại, hoặc là chú nguyện y mong mỏi thành vải phụ tùng để y căn bản có thể tiếp tục giữ được đủ ba mươi ngày. Trường hợp y mong mỏi là tốt hơn th́ có thể lấy y mong mỏi mới phát sanh làm y căn bản và nguyện y căn bản làm vải phụ tùng, như thế sẽ được tính đủ ba mươi ngày.

[17] Ngoài ba y như các tỳ khưu là y hai lớp (saṅghāṭi), thượng y (uttarasagaṃ), và y nội (antaravāsakaṃ), tỳ khưu ni c̣n có thêm hai y nữa là áo lót (saṃkaccikaṃ) và vải choàng tắm (udakasāṭikaṃ). Xin xem Cullavagga - Tiểu Phẩm, TTPV tập 7, chương X, trang 515.

[18] Ito: nghĩa là “từ đây” ám chỉ vải đang được mặc trên người ấy. Theo câu chuyện, được biết người ấy đang mặc hai tấm vải nên ghi lại như trên (ND).

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 |

<Mục Lục><Đầu Trang>