TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 03
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU NI
ẤN BẢN 2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
Bạch chư đại đức ni, ba mươi điều nissaggiya pācittiya này được đưa ra đọc tụng.
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ nhiều b́nh bát. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nh́n thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc tích trữ nhiều b́nh bát? Không lẽ các tỳ khưu ni sẽ làm việc buôn bán b́nh bát hay sẽ lập nên gian hàng gốm sứ?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại thực hiện việc tích trữ b́nh bát?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ b́nh bát, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại thực hiện việc tích trữ b́nh bát vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào thực hiện việc tích trữ b́nh bát th́ (b́nh bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
B́nh bát nghĩa là có hai loại b́nh bát: b́nh bát sắt và b́nh bát đất. B́nh bát có ba dạng: b́nh bát cỡ lớn, b́nh bát cỡ vừa, b́nh bát cỡ nhỏ. B́nh bát cỡ lớn nghĩa là chứa được một nửa āḷhaka cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. B́nh bát cỡ vừa nghĩa là chứa được một nāḷika cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. B́nh bát cỡ nhỏ nghĩa là chứa được một pattha cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Lớn hơn các cỡ ấy không phải là b́nh bát, nhỏ hơn không phải là b́nh bát.
Thực hiện việc tích trữ: (b́nh bát) chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.
Nên được xả bỏ: Đến lúc rạng đông th́ phạm vào nissaggiya, (b́nh bát ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch chư đại đức ni, b́nh bát này của tôi đă qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực. B́nh bát đă xả bỏ nên được cho lại:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. B́nh bát này thuộc về tỳ khưu ni tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đă được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại b́nh bát này đến tỳ khưu ni tên (như vầy).”
Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến nhiều tỳ khưu ni, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Thưa các đại đức ni, b́nh bát này của tôi đă qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đại đức ni.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực. B́nh bát đă xả bỏ nên được cho lại:
“Xin các đại đức ni hăy lắng nghe tôi. B́nh bát này thuộc về tỳ khưu ni tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đă được xả bỏ đến các đại đức ni. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức ni, các đại đức ni nên cho lại b́nh bát này đến tỳ khưu ni tên (như vầy).”
Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu ni, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Thưa ni sư, b́nh bát này của tôi đă qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến ni sư.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni ấy, b́nh bát đă xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại ni sư b́nh bát này.”
Khi đă qua đêm, nhận biết là đă qua đêm, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi đă qua đêm, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi đă qua đêm, (lầm) tưởng là chưa qua đêm, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đă chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đă chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đă được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đă bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đă bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị vỡ, (lầm) tưởng là đă bị vỡ, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đă bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya.
B́nh bát là vật vi phạm nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa qua đêm, (lầm) tưởng là đă qua đêm, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa qua đêm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa qua đêm, nhận biết là chưa qua đêm th́ vô tội.
Trong lúc rạng đông vị ni chú nguyện để dùng riêng, vị ni chú nguyện để dùng chung, vị ni phân phát, (b́nh bát) bị mất trộm, bị hư hỏng, bị vỡ, (các người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy đi do sự thân thiết, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư không cho lại b́nh bát đă được xả bỏ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên không cho lại b́nh bát đă được xả bỏ; vị ni nào không cho lại th́ phạm tội dukkaṭa.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu ni, khi trải qua mùa (an cư) mưa ở trú xứ thôn làng, đă đi đến thành Sāvatthī. (Các vị ni ấy) có đầy đủ các pháp thực hành, đầy đủ oai nghi, (nhưng) mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu. Các cư sĩ sau khi nh́n thấy các tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Các tỳ khưu ni này có đầy đủ các pháp thực hành, đầy đủ oai nghi, (nhưng) mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu. Các tỳ khưu ni này sẽ bị rách rưới,” rồi đă dâng y ngoài hạn kỳ đến hội chúng tỳ khưu ni. Tỳ khưu ni Thullanandā đă xác định rằng: - “Kaṭhina của chúng tôi đă được thành tựu, (vậy là) y trong thời hạn,” rồi đă bảo phân chia. Các cư sĩ sau khi nh́n thấy các tỳ khưu ni ấy đă nói điều này: - “Có phải các ni sư cũng đă lănh được y?” - “Này các đạo hữu, chúng tôi không được lănh y. Ni sư Thullanandā đă xác định rằng: ‘Kaṭhina của chúng tôi đă được thành tựu, (vậy là) y trong thời hạn,’ rồi đă bảo phân chia.” Các cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao ni sư Thullanandā lại xác định y ngoài hạn kỳ là: ‘Y trong thời hạn’ rồi bảo phân chia?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại xác định y ngoài hạn kỳ là: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā xác định y ngoài hạn kỳ là: ‘Y trong thời hạn’ rồi bảo phân chia, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại xác định y ngoài hạn kỳ là: ‘Y trong thời hạn’ rồi bảo phân chia? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào xác định y ngoài hạn kỳ là: ‘Y trong thời hạn’ rồi bảo phân chia th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Y ngoài hạn kỳ nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu th́ được phát sanh trong mười một tháng, khi Kaṭhina được thành tựu th́ được phát sanh trong bảy tháng; (y) được dâng xác định trong thời gian trên th́ (y) ấy gọi là y ngoài hạn kỳ.
Vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, y này của tôi đă được bảo chia phần sau khi xác định y ngoài hạn kỳ là ‘Y trong thời hạn,’ giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Y ngoài hạn kỳ, nhận biết là y ngoài hạn kỳ, vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Y ngoài hạn kỳ, có sự hoài nghi, vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Y ngoài hạn kỳ, (lầm) tưởng là y trong thời hạn, vị ni xác định: “Y trong thời hạn” rồi bảo phân chia th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Y trong thời hạn, (lầm) tưởng là y ngoài hạn kỳ, phạm tội dukkaṭa. Y trong thời hạn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Y trong thời hạn, nhận biết là y trong thời hạn th́ vô tội.
Đối với y ngoài hạn kỳ vị ni nhận biết là y ngoài hạn kỳ rồi bảo phân chia, đối với y trong thời hạn vị ni nhận biết là y trong thời hạn rồi bảo phân chia, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với vị tỳ khưu ni nọ rồi đă sử dụng. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đă xếp y ấy lại rồi để riêng. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, cái y đă được tôi trao đổi với cô, cái y ấy đâu rồi?” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đă đem y ấy lại và đưa cho tỳ khưu ni Thullanandā thấy. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, hăy nhận lại y của cô đi. Y này là của tôi. Y nào của cô là của chính cô, y nào của tôi là của chính tôi. Hăy đưa đây, y này là của tôi. Hăy mang đi y của ḿnh,” rồi đă giật lại. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā sau khi trao đổi y với tỳ khưu ni rồi giật lại?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với vị tỳ khưu ni rồi giật lại, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với tỳ khưu ni rồi giật lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào khi đă trao đổi y với tỳ khưu ni sau đó lại nói như vầy: ‘Này ni sư, hăy nhận lấy y của cô. Y này là của tôi. Y nào của cô là của chính cô, y nào của tôi là của chính tôi. Hăy đưa đây, y này là của tôi. Hăy mang đi y của ḿnh’ rồi giật lại hoặc bảo giật lại th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
4. Với vị tỳ khưu ni: với vị tỳ khưu ni khác.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Khi đă trao đổi: sau khi trao đổi (y) lớn bằng (y) nhỏ hoặc là (y) nhỏ bằng (y) lớn.
Giật lại: vị ni tự ḿnh giật lại th́ phạm vào nissaggiya pācittiya.
Bảo giật lại: vị ni ra lệnh người khác th́ phạm tội dukkaṭa. Được ra lệnh một lần, (vị nghe lệnh) giật lại nhiều lần th́ phạm (chỉ một) nissaggiya. Nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, y này của tôi sau khi trao đổi với tỳ khưu ni rồi đă giật lại, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Người nữ đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị ni sau khi trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sau khi trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sau khi trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại th́ phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị ni sau khi trao đổi vật dụng khác rồi giật lại hoặc bảo giật lại th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni sau khi trao đổi y hoặc vật dụng khác với người nữ chưa tu lên bậc trên rồi giật lại hoặc bảo giật lại th́ phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Vị ni kia cho, hoặc vị ni lấy đi trong khi có sự thân thiết với vị ni kia, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā bị bệnh. Khi ấy, có nam cư sĩ nọ đă đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Thưa ni sư, có phải ni sư không được khoẻ? Vật ǵ cần được mang lại?” - “Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về bơ lỏng.” Sau đó, nam cư sĩ ấy đă mang lại một đồng kahāpaṇa bơ lỏng từ nhà của chủ tiệm buôn nọ rồi dâng cho tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói như vầy: - “Này đạo hữu, tôi không có nhu cầu về bơ lỏng. Tôi có nhu cầu về dầu ăn.” Khi ấy, nam cư sĩ ấy đă đi đến gặp người chủ tiệm buôn ấy, sau khi đến đă nói với người chủ tiệm buôn ấy điều này: - “Này ông, nghe nói ni sư không có nhu cầu về bơ lỏng mà có nhu cầu về dầu ăn. Hăy nhận lấy bơ lỏng của ông và hăy cho tôi dầu ăn.” - “Này ông, nếu chúng tôi nhận lại hàng hóa đă được bán ra th́ khi nào hàng hoá của chúng tôi mới bán ra được? Với việc mua bơ lỏng th́ bơ lỏng đă được mang đi. Ông hăy mang đến phần mua của dầu ăn rồi dầu ăn sẽ được mang đi.”[1] Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao ni sư Thullanandā sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào sau khi yêu cầu vật khác lại yêu cầu vật khác nữa th́ (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Sau khi yêu cầu vật khác: sau khi yêu cầu bất cứ vật ǵ.
Lại yêu cầu vật khác nữa: vị ni yêu cầu vật khác trừ ra vật ấy. Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, vật này của tôi là vật khác nữa đă được yêu cầu sau khi đă yêu cầu vật khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Vật khác, nhận biết là vật khác, vị ni yêu cầu vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Vật khác, có sự hoài nghi, vị ni yêu cầu vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Vật khác, (lầm) tưởng không phải là vật khác, vị ni yêu cầu vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là vật khác, (lầm) tưởng là vật khác, phạm tội dukkaṭa. Không phải là vật khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là vật khác, nhận biết không phải là vật khác th́ vô tội.
Vị ni yêu cầu thêm chính vật khác, vị ni (nhận vật khác rồi) yêu cầu thêm vật khác nữa, sau khi cho thấy sự lợi ích rồi yêu cầu,[2] vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā bị bệnh. Khi ấy, có nam cư sĩ nọ đă đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Thưa ni sư, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này đạo hữu, sức khoẻ không khá. Mọi việc không được thuận tiện.” - “Thưa ni sư, tôi sẽ để lại ở nhà của chủ tiệm buôn kia một đồng kahāpaṇa. Ni sư muốn vật ǵ ở tiệm buôn kia th́ hăy bảo mang lại vật ấy.” Tỳ khưu ni Thullanandā đă bảo cô ni tu tập sự nọ rằng: - “Này cô ni tu tập sự, hăy đi rồi mang lại một đồng kahāpaṇa dầu ăn từ nhà của chủ tiệm buôn kia.”
Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đă mang lại một đồng kahāpaṇa dầu ăn từ nhà của chủ tiệm buôn ấy và dâng cho tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói như vầy: - “Này cô ni tu tập sự, tôi không có nhu cầu về dầu ăn. Tôi có nhu cầu về bơ lỏng.” Khi ấy, cô ni tu tập sự ấy đă đi đến gặp người chủ tiệm buôn ấy, sau khi đến đă nói với người chủ tiệm buôn ấy điều này: - “Này đạo hữu, nghe nói ni sư không có nhu cầu về dầu ăn mà có nhu cầu về bơ lỏng. Hăy nhận lấy dầu ăn của ông và hăy cho tôi bơ lỏng.” - “Thưa sư cô, nếu chúng tôi nhận lại hàng hóa đă được bán ra th́ khi nào hàng hoá của chúng tôi mới bán ra được? Với việc mua dầu ăn th́ dầu ăn đă được mang đi. Sư cô hăy mang đến phần mua của bơ lỏng rồi bơ lỏng sẽ được mang đi.”
2. Khi ấy, cô ni tu tập sự ấy đă đứng khóc lóc. Các tỳ khưu ni đă nói với cô ni tu tập sự ấy điều này: - “Này cô ni tu tập sự, v́ sao cô lại khóc lóc?” Khi ấy, cô ni tu tập sự ấy đă kể lại sự việc cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào sau khi bảo sắm vật khác lại bảo sắm vật khác nữa th́ (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Sau khi bảo sắm vật khác: sau khi bảo sắm bất cứ vật ǵ.
Lại bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật ấy. Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, vật này của tôi là vật khác nữa đă được bảo sắm sau khi đă bảo sắm vật khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Vật khác, nhận biết là vật khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Vật khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Vật khác, (lầm) tưởng không phải là vật khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya.
Không phải là vật khác, (lầm) tưởng là vật khác, phạm tội dukkaṭa. Không phải là vật khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là vật khác, nhận biết không phải là vật khác th́ vô tội.
Vị ni bảo sắm thêm chính vật khác, vị ni (nhận vật khác rồi) bảo sắm thêm vật khác nữa, sau khi cho thấy sự lợi ích rồi bảo sắm, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về y của hội chúng tỳ khưu ni đă để lại phần tài vật ở nhà của người buôn vải nọ rồi đă đi đến gặp các tỳ khưu ni và đă nói điều này: - “Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về y đă được để lại ở nhà của người buôn vải kia. Từ nơi ấy, các ni sư hăy bảo mang y lại rồi chia phần.” Với phần tài vật ấy, các tỳ khưu ni đă bảo sắm dược phẩm cho bản thân rồi thọ dụng. Các cư sĩ biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác th́ (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Bằng phần tài vật đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đă được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về hội chúng: của hội chúng, không phải của nhóm, không phải của một tỳ khưu ni.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đă được dâng theo ư định (của thí chủ). Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, vật này của tôi là vật khác nữa đă được bảo sắm bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Sau khi nhận lại vật đă được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí.
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác th́ vô tội.
Vị ni sử dụng phần c̣n lại (sau khi đă bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ư các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về y của hội chúng tỳ khưu ni đă để lại phần tài vật ở nhà của người buôn vải nọ rồi đă đi đến gặp các tỳ khưu ni và đă nói điều này: - “Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về y đă được để lại ở nhà của người buôn vải kia. Từ nơi ấy, các ni sư hăy bảo mang y lại rồi chia phần.” Các tỳ khưu ni sau khi tự ḿnh yêu cầu rồi đă bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy và thọ dụng. Các cư sĩ biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác th́ (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Bằng phần tài vật đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đă được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về hội chúng: của hội chúng, không phải của nhóm, không phải của một tỳ khưu ni.
Do tự ḿnh yêu cầu: sau khi tự ḿnh yêu cầu.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đă được dâng theo ư định (của thí chủ). Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, vật này của tôi là vật khác nữa đă được bảo sắm do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về hội chúng đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Sau khi nhận lại vật đă được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí.
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác th́ vô tội.
Vị ni sử dụng phần c̣n lại (sau khi đă bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ư các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni thường trú ở căn pḥng của phường hội nọ bị thiếu thốn về cháo. Khi ấy, phường hội ấy sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về cháo của các tỳ khưu ni đă để lại phần tài vật ở nhà của chủ tiệm buôn nọ rồi đă đi đến gặp các tỳ khưu ni và đă nói điều này: - “Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về cháo đă được để lại ở nhà của người chủ hiệu buôn kia. Từ nơi ấy, các ni sư hăy bảo mang gạo đến rồi bảo nấu cháo và thọ dụng.” Các tỳ khưu ni đă bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy rồi thọ dụng. Khi ấy phường hội ấy biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác th́ (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Bằng phần tài vật đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đă được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về nhóm: của nhóm, không phải của hội chúng, không phải của một tỳ khưu ni.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đă được dâng theo ư định (của thí chủ). Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, vật này của tôi là vật khác nữa đă được bảo sắm bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Sau khi nhận lại vật đă được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí (cho bản thân).
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác th́ vô tội.
Vị ni sử dụng phần c̣n lại (sau khi đă bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ư các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni thường trú ở căn pḥng của phường hội nọ bị thiếu thốn về cháo. Khi ấy, phường hội ấy sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về cháo của các tỳ khưu ni đă để lại phần tài vật ở nhà của chủ tiệm buôn nọ rồi đă đi đến gặp các tỳ khưu ni và đă nói điều này: - “Thưa các ni sư, phần tài vật cho nhu cầu về cháo đă được để lại ở nhà của người chủ hiệu buôn kia. Từ nơi ấy, các ni sư hăy bảo mang gạo đến rồi bảo nấu cháo và thọ dụng.” Các tỳ khưu ni sau khi tự ḿnh yêu cầu rồi đă bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy và thọ dụng. Phường hội ấy biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác th́ (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Bằng phần tài vật đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đă được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về nhóm: của nhóm, không phải của hội chúng, không phải của một tỳ khưu ni.
Do tự ḿnh yêu cầu: sau khi tự ḿnh yêu cầu.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đă được dâng theo ư định (của thí chủ). Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, vật này của tôi là vật khác nữa đă được bảo sắm do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về nhóm đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Sau khi nhận lại vật đă được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí.
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác th́ vô tội.
Vị ni sử dụng phần c̣n lại (sau khi đă bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ư các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc ḷng, tự tin, rành rẽ về nói Pháp thoại. Nhiều người thăm viếng tỳ khưu ni Thullanandā. Vào lúc bấy giờ, căn pḥng của tỳ khưu ni Thullanandā bị hư hoại. Dân chúng đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Thưa ni sư, tại sao pḥng ở này của ni sư bị hư hoại?” - “Này các đạo hữu, không có các thí chủ, không có các nhân công.” Khi ấy, những người ấy sau khi gom lại sự tự nguyện (hùn phước) cho nhu cầu về pḥng ở của tỳ khưu ni Thullanandā rồi đă dâng lên phần tài vật thuộc về tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā đă tự ḿnh yêu cầu và đă bảo sắm dược phẩm bằng phần tài vật ấy rồi thọ dụng. Dân chúng biết được rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao ni sư Thullanandā lại bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào bảo sắm vật khác nữa do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác th́ (vật khác nữa ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Bằng phần tài vật đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác: đă được dâng nhắm đến nhu cầu của việc khác.
Thuộc về cá nhân: của một tỳ khưu ni, không phải của hội chúng, không phải của nhóm.
Do tự ḿnh yêu cầu: sau khi tự ḿnh yêu cầu.
Bảo sắm vật khác nữa: vị ni bảo sắm vật khác trừ ra vật đă được dâng theo ư định (của thí chủ). Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, vật này của tôi là vật khác nữa đă được bảo sắm do tự ḿnh yêu cầu bằng phần tài vật thuộc về cá nhân đă được chỉ định về việc khác cho nhu cầu của việc khác giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là không thuộc về nhu cầu của việc khác, vị ni bảo sắm vật khác nữa th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Sau khi nhận lại vật đă được xả bỏ, nên sử dụng như là vật bố thí.
Không thuộc về nhu cầu của việc khác, (lầm) tưởng là thuộc về nhu cầu của việc khác, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không thuộc về nhu cầu của việc khác, nhận biết là không thuộc về nhu cầu của việc khác th́ vô tội.
Vị ni sử dụng phần c̣n lại (sau khi đă bảo sắm đủ vật kia), vị ni sử dụng sau khi hỏi ư các người chủ, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc ḷng, tự tin, rành rẽ về nói Pháp thoại. Khi ấy vào mùa lạnh, đức vua Pasenadi xứ Kosala sau khi khoác lên tấm choàng len đắt giá đă đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đă đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā rồi ngồi xuống ở một bên. Tỳ khưu ni Thullanandā đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại.
Sau đó, khi đă được tỳ khưu ni Thullanandā chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Thưa ni sư, có nhu cầu về vật ǵ xin ni sư cứ nói.” - “Tâu đại vương, nếu ngài có ư định bố thí đến tôi th́ hăy dâng tấm choàng len này.” Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đă dâng tỳ khưu ni Thullanandā tấm choàng len rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
2, Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các tỳ khưu ni này ham muốn quá độ, không tự biết đủ! Tại sao lại yêu cầu đức vua tấm choàng len?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng len?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā yêu cầu đức vua tấm choàng len, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng len vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni, trong khi bảo sắm tấm choàng loại dày, nên bảo sắm tối đa là bốn kaṃsa. Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
3. Tấm choàng loại dày nghĩa là bất cứ loại tấm choàng nào vào mùa đông.
Trong khi bảo sắm: trong khi yêu cầu.
Nên bảo sắm tối đa là bốn kaṃsa: nên bảo sắm vật trị giá là mười sáu kahāpaṇa.[3]
Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy: vị ni yêu cầu vượt quá trị giá ấy, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, tấm choàng loại dày này của tôi đă được bảo sắm vượt quá bốn kaṃsa, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Hơn bốn kaṃsa, nhận biết là hơn, vị ni bảo sắm th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Hơn bốn kaṃsa, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Hơn bốn kaṃsa, (lầm) tưởng là kém, vị ni bảo sắm th́ phạm tội nissaggiya pācittiya.
Kém bốn kaṃsa, (lầm) tưởng là hơn, phạm tội dukkaṭa. Kém bốn kaṃsa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Kém bốn kaṃsa, nhận biết là kém th́ vô tội.
Vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa là bốn kaṃsa, vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa kém bốn kaṃsa, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bảo sắm vật có giá trị thấp đối với người có ư định bảo sắm vật giá trị cao, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười một.
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc ḷng, tự tin, rành rẽ về nói Pháp thoại. Khi ấy vào mùa nóng, đức vua Pasenadi xứ Kosala sau khi khoác lên tấm choàng sợi lanh đắt giá đă đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, sau khi đến đă đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā rồi ngồi xuống ở một bên. Tỳ khưu ni Thullanandā đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được tỳ khưu ni Thullanandā chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Thưa ni sư, có nhu cầu về vật ǵ xin ni sư cứ nói.” - “Tâu đại vương, nếu ngài có ư định bố thí đến tôi th́ hăy dâng tấm choàng sợi lanh này.” Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đă dâng tỳ khưu ni Thullanandā tấm choàng sợi lanh rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ tỳ khưu ni Thullanandā, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
2. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các tỳ khưu ni này ham muốn quá độ, không tự biết đủ! Tại sao lại yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại yêu cầu đức vua tấm choàng sợi lanh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni, trong khi bảo sắm tấm choàng loại nhẹ, nên bảo sắm tối đa là hai kaṃsa rưỡi. Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
3. Tấm choàng loại nhẹ nghĩa là bất cứ loại tấm choàng nào vào mùa nóng.
Trong khi bảo sắm: trong khi yêu cầu.
Nên bảo sắm tối đa là hai kaṃsa rưỡi: nên bảo sắm vật trị giá là mười kahāpaṇa.
Nếu bảo sắm vượt quá trị giá ấy: vị ni yêu cầu vượt quá trị giá ấy, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, tấm choàng loại dày này của tôi đă được bảo sắm vượt quá hai kaṃsa rưỡi, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Hơn hai kaṃsa rưỡi, nhận biết là hơn, vị ni bảo sắm th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Hơn hai kaṃsa rưỡi, có sự hoài nghi, vị ni bảo sắm th́ phạm tội nissaggiya pācittiya. Hơn hai kaṃsa rưỡi, (lầm) tưởng là kém, vị ni bảo sắm th́ phạm tội nissaggiya pācittiya.
Kém hai kaṃsa rưỡi, (lầm) tưởng là hơn, phạm tội dukkaṭa. Kém hai kaṃsa rưỡi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Kém hai kaṃsa rưỡi, nhận biết là kém th́ vô tội.
Vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa là hai kaṃsa rưỡi, vị ni bảo sắm (vật trị giá) tối đa kém hai kaṃsa rưỡi, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bảo sắm vật có giá trị thấp đối với người có ư định bảo sắm vật giá trị cao, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười hai.
--ooOoo--
B́nh bát, ngoài hạn kỳ và trong thời hạn, trao đổi, và yêu cầu, sau khi bảo sắm, có nhu cầu vật khác nữa, thuộc về hội chúng, (của) nhóm, tự ḿnh yêu cầu, thuộc về cá nhân, (trị giá) bốn kaṃsa, và hai kaṃsa rưỡi.
--ooOoo--
Bạch chư đại đức ni, ba mươi điều nissaggiya pācittiya[4] đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Chư đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt các điều Nissaggiya.
--ooOoo--
[1] Người chủ hiệu buôn có ư chỉ trích tỳ khưu ni Thullanandā nên đă nói: “mang đến ... mang đi.” Nếu chỉ trích người cận sự nam th́ phải nói: “mang đi ... mang đến” (ND).
[2] Ư nghĩa của phần không phạm tội được ngài Buddhaghosa giải thích như sau: Vật được dâng chưa đủ nên phải yêu cầu thêm nữa, ngoài vật đă được dâng vị ni c̣n cần thêm vật thứ hai nên yêu cầu, giải thích sự cần thiết phải có thêm vật thứ hai rồi yêu cầu (VinA. iv, 917).
[3] kahāpaṇa là đơn vị tiền tệ thời bấy giờ. Cũng nên nhắc lại rằng vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni trộm cắp vật trị giá 5 māsaka = 1 pāda = ¼ kahāpaṇa là phạm tội cực nặng pārājika. (ND).
[4] Theo lời giải thích của Ngài Buddhaghosa: Tỳ khưu và tỳ khưu ni đều có 30 điều nissaggiya pācittiya. Phần của tỳ khưu ni gồm có 12 điều quy định riêng đă được tŕnh bày ở trên, c̣n 18 được quy định chung đă được tŕnh bày ở giới bổn của tỳ khưu: Phần Y bỏ ra hai điều là điều 4 (bảo giặt y) và điều 5 (thọ lănh y từ tay tỳ khưu ni) rồi thêm vào hai điều là điều 2 (phân chia y) và điều 3 (trao đổi y rồi giật lại) ở trên là đủ mười; Phần Tơ Tằm bỏ ra bảy điều học đầu rồi thay thế bằng bảy điều ở trên đây từ điều 4-10 rồi cộng thêm vào 3 điều c̣n lại của tỳ khưu là đủ mười; Phần B́nh Bát bỏ ra 3 điều là điều 1 (cất giữ b́nh bát), điều 4 (y choàng tắm mưa), và điều 9 (ngụ ở rừng) rồi thêm vào điều đầu tiên ở trên (tích trữ b́nh bát) và hai điều sau cùng (tấm choàng loại dày và loại nhẹ) là đủ mười; như vậy tổng cộng là 30 điều học (VinA. iv, 919).
<Mục Lục><Đầu Trang>