TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 03
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU NI
ẤN BẢN
2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
Bạch chư đại đức ni, một trăm sáu mươi sáu điều pācittiya này được đưa ra đọc tụng.
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu ni được nam cư sĩ nọ thỉnh cầu về tỏi (nói rằng): “Các ni sư nào có nhu cầu về tỏi, tôi dâng tỏi.” Và người canh ruộng được ra lệnh rằng: “Nếu các tỳ khưu ni đi đến, hăy dâng cho mỗi một vị tỳ khưu ni hai ba bó.” Vào lúc bấy giờ, trong thành Sāvatthī có lễ hội. Tỏi đă được đem lại bao nhiêu đều không c̣n. Các tỳ khưu ni đă đi đến nam cư sĩ ấy và đă nói điều này: - “Này đạo hữu, có nhu cầu về tỏi.” - “Thưa các ni sư, không có. Tỏi đă được đem lại bao nhiêu đều hết cả. Xin hăy đi đến ruộng.” Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến ruộng đă không biết chừng mực và đă bảo mang đi nhiều tỏi. Người canh ruộng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến ruộng lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được người canh ruộng ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Ngài đă nói Pháp thoại rồi đă bảo các tỳ khưu rằng:
3. - “Này các tỳ khưu, vào thời quá khứ tỳ khưu ni Thullanandā đă là vợ của người Bà-la-môn nọ và có ba người con gái là Nandā, Nandavatī, và Sundarīnandā. Này các tỳ khưu, khi ấy người Bà-la-môn ấy sau khi qua đời đă sanh vào bào thai của con chim thiên nga nọ. Các lông của con chim ấy đă là hoàn toàn bằng vàng. Nó đă cho các cô ấy mỗi người một lông chim.
Này các tỳ khưu, khi ấy tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Con chim thiên nga này cho chúng ta mỗi người một lông chim” nên đă nắm lấy con chim thiên nga chúa ấy và đă vặt trụi lông. Bộ lông của con chim ấy trong khi được mọc lại có màu trắng. Này các tỳ khưu, lúc bấy giờ tỳ khưu ni Thullanandā cũng v́ quá tham lam khiến vàng đă bị tiêu tan; giờ đây tỏi sẽ bị mất đi.
“Vật ǵ đă được nhận lănh th́ nên hoan hỷ với vật ấy, bởi v́ quá tham lam nên kẻ ác đă nắm lấy thiên nga chúa, khiến cho vàng đă bị tiêu tan.”
Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách tỳ khưu ni Thullanandā bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào nhai tỏi th́ phạm tội pācittiya.”
4. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Tỏi nghĩa là (loại thảo mộc) thuộc về xứ Magadha được đề cập đến. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.
Tỏi, nhận biết là tỏi, vị ni nhai phạm tội pācittiya. Tỏi, có sự hoài nghi, vị ni nhai phạm tội pācittiya. Tỏi, (lầm) tưởng không phải tỏi, vị ni nhai phạm tội pācittiya.
Không phải tỏi, (lầm) tưởng là tỏi, vị ni nhai phạm tội dukkaṭa. Không phải tỏi, có sự hoài nghi, vị ni nhai phạm tội dukkaṭa. Không phải tỏi, nhận biết không phải tỏi, vị ni nhai th́ vô tội.
Trong trường hợp củ hành, củ hành đỏ, củ hành tây, lá hẹ, nấu chung với xúp, nấu chung với thịt, nấu chung với dầu ăn, rau cải trộn, hương vị làm ngon miệng, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sau khi cạo lông ở chỗ kín rồi lơa thể tắm chung với các cô gái điếm ở một bến tắm nơi ḍng sông Aciravatī. Các cô gái điếm phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại cạo lông ở chỗ kín, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được các cô gái điếm ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại cạo lông ở chỗ kín?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư cạo lông ở chỗ kín, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại cạo lông ở chỗ kín vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào cạo lông ở chỗ kín th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Chỗ kín nghĩa là hai nách và chỗ tiểu tiện.
Cạo: vị ni cạo (nhổ) chỉ một sợi lông th́ phạm tội pācittiya. Vị ni dầu cạo (nhổ) nhiều sợi lông cũng phạm (chỉ một) tội pācittiya.
V́ nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có hai tỳ khưu ni bị bực bội bởi sự không được thỏa thích nên đi vào pḥng trong rồi thực hiện việc đập vỗ bằng ḷng bàn tay. Các tỳ khưu ni đă chạy lại v́ tiếng động ấy rồi đă nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này các ni sư, v́ sao các cô lại làm điều nhơ nhớp cùng với người nam vậy?” - “Này các ni sư, chúng tôi không làm điều nhơ nhớp cùng với người nam.” Rồi đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc đập vỗ bằng ḷng bàn tay?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni thực hiện việc đập vỗ bằng ḷng bàn tay, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc đập vỗ bằng ḷng bàn tay vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Khi thực hiện việc đập vỗ bằng ḷng bàn tay th́ phạm tội pācittiya.”
3. Việc đập vỗ bằng ḷng bàn tay nghĩa là trong lúc ưng thuận sự xúc chạm, vị ni đánh (đập, vỗ) vào chỗ tiểu tiện mặc dầu chỉ bằng cánh hoa sen th́ phạm tội pācittiya.
V́ nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có người nọ trước đây là cung nữ của đức vua đă xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Có tỳ khưu ni nọ bị bực bội bởi sự không được thỏa thích đă đi đến gặp vị tỳ khưu ni ấy, sau khi đến đă nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, đức vua lâu lâu mới đến với cô, cô chịu đựng bằng cách nào?” - “Này ni sư, với gậy ngắn bằng nhựa cây.” - “Này ni sư, gậy ngắn bằng nhựa cây ấy là ǵ?” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đă giải thích gậy ngắn bằng nhựa cây cho vị tỳ khưu ni nọ. Sau đó, vị tỳ khưu ni nọ sau khi áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây rồi không nhớ để rửa và đă quăng bỏ ở một góc. Các tỳ khưu ni khi nh́n thấy vật bị các con ruồi bu quanh đă nói như vầy: - “Việc làm này là của ai?” Cô ni nọ đă nói như vầy: - “Việc làm này là của tôi.”
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni lại áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni lại áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“(Trường hợp) gậy ngắn bằng nhựa cây th́ phạm tội pācittiya.”
3. Gậy ngắn bằng nhựa cây nghĩa là làm bằng nhựa cây, làm bằng gỗ, làm bằng bột gạo, làm bằng đất sét.
Áp dụng: Trong khi ưng thuận sự xúc chạm, vị ni đưa vào chỗ đường tiểu cho dù chỉ là cánh hoa sen th́ phạm tội pācittiya.
V́ nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng ḍng Sakya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, bà Mahāpajāpatī Gotamī đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở phía dưới gió (nói rằng): - “Bạch Thế Tôn, người nữ có mùi thối.” Khi ấy, đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Các tỳ khưu ni hăy áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước” rồi đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpatī Gotamī bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Mahāpajāpatī Gotamī đă đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
2. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép việc làm sạch sẽ bằng nước đến các tỳ khưu ni.” Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ (nghĩ rằng): “Việc làm sạch sẽ bằng nước đă được đức Thế Tôn cho phép” rồi trong khi áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu nên đă gây ra vết thương ở chỗ đường tiểu. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
3. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni lại áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni lại áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni trong khi áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước nên áp dụng tối đa hai lóng tay; vượt quá giới hạn ấy th́ phạm tội pācittiya.”
4. Việc làm sạch sẽ bằng nước nghĩa là việc rửa ráy chỗ đường tiểu được đề cập đến.
Trong khi áp dụng: trong khi rửa.
Nên áp dụng tối đa hai lóng tay: nên áp dụng tối đa hai khớp ở hai ngón tay.
Vượt quá giới hạn ấy: trong khi ưng thuận sự xúc chạm, vị ni vượt quá cho dù khoảng cách mảnh bằng sợi tóc th́ phạm tội pācittiya.
Khi hơn hai lóng tay, nhận biết là đă hơn, vị ni áp dụng th́ phạm tội pācittiya. Khi hơn hai lóng tay, có sự hoài nghi, vị ni áp dụng th́ phạm tội pācittiya. Khi hơn hai lóng tay, (lầm) tưởng là kém, vị ni áp dụng th́ phạm tội pācittiya.
Khi kém hai lóng tay, (lầm) tưởng là đă hơn, phạm tội dukkaṭa. Khi kém hai lóng tay, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi kém hai lóng tay, nhận biết là kém th́ vô tội.
Vị ni áp dụng tối đa hai lóng tay, vị ni áp dụng tối đa kém hai lóng tay, v́ nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần tên là Ārohanta đă xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người vợ cũ của vị ấy cũng đă xuất gia ở nơi các tỳ khưu ni. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ấy nhận phần phân phát bữa ăn khi có sự hiện diện của tỳ khưu ni ấy. Sau đó, trong lúc vị tỳ khưu ấy đang thọ thực, vị tỳ khưu ni ấy đă đứng gần với nước uống và quạt rồi nói chuyện thế tục là nói về chuyện đùa giỡn lúc c̣n tại gia.[1] Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă xua đuổi vị tỳ khưu ni ấy (nói rằng): - “Này sư tỷ, chớ làm như thế. Điều ấy không được phép.” - “Trước đây, ông đă làm tôi như vầy và như vầy. Bây giờ, chỉ chừng ấy ông lại không chịu.” Rồi đă đổ tô nước uống lên đầu và đă dùng quạt đánh.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni lại đánh tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni đánh vị tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni lại đánh tỳ khưu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Trong khi vị tỳ khưu đang thọ thực, vị tỳ khưu ni nào đứng gần với nước uống hoặc với quạt th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
(Đối với) vị tỳ khưu: (đối với) người nam đă tu lên bậc trên.
Đang thọ thực: đang thọ thực loại vật thực mềm nào đó thuộc về năm loại vật thực mềm.
Nước uống nghĩa là bất cứ loại nước uống nào.
Quạt nghĩa là bất cứ loại quạt nào.
Đứng gần: vị ni đứng trong khoảng tầm tay th́ phạm tội pācittiya.
Người nam đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị ni đứng gần với nước và quạt th́ phạm tội pācittiya. Người nam đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni đứng gần với nước và quạt th́ phạm tội pācittiya. Người nam đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni đứng gần với nước và quạt th́ phạm tội pācittiya.
Vị ni sau khi rời xa khỏi tầm tay rồi đứng th́ phạm tội dukkaṭa. Trong lúc (vị tỳ khưu) đang nhai vật thực cứng, vị ni đứng gần th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni đứng gần người nam chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa. Người nam chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nam chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nam chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Vị ni dâng, vị ni bảo (người khác) dâng, vị ni ra lệnh cho người (nữ) chưa tu lên bậc trên, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ trong khi mùa thu hoạch, các tỳ khưu ni sau khi yêu cầu lúa c̣n nguyên hạt rồi mang đi đến thành phố. Tại trạm gác cổng, (lính gác nói rằng): - “Thưa các ni sư, hăy đóng góp phần,” đă giữ lại rồi đă thả ra. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến chỗ ngụ và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu lúa c̣n nguyên hạt?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni yêu cầu lúa c̣n nguyên hạt, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu lúa c̣n nguyên hạt vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào yêu cầu, hoặc bảo yêu cầu, hoặc xay, hoặc bảo xay, hoặc giă, hoặc bảo giă, hoặc nấu, hoặc bảo nấu lúa c̣n nguyên hạt rồi thọ thực th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Lúa c̣n nguyên hạt nghĩa là lúa gạo sāli, lúa gạo, lúa mạch, lúa ḿ, kê, đậu, hạt kudrūsaka (bắp?).
(Sau khi) yêu cầu: sau khi tự ḿnh yêu cầu.
(Sau khi) bảo yêu cầu: sau khi bảo người khác yêu cầu.
(Sau khi) xay: sau khi tự ḿnh xay.
(Sau khi) bảo xay: sau khi bảo người khác xay.
(Sau khi) giă: sau khi tự ḿnh giă.
(Sau khi) bảo giă: sau khi bảo người khác giă.
(Sau khi) nấu: sau khi tự ḿnh nấu.
(Sau khi) bảo nấu: sau khi bảo người khác nấu. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.
V́ nguyên nhân bệnh, vị ni yêu cầu rau cải, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ là lính được đức vua trả lương (nghĩ rằng): “Ta sẽ cầu xin tiền lương bằng số ấy” rồi đă gội đầu và đi đến hoàng cung nương theo chỗ ngụ của các tỳ khưu ni. Có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đại tiện vào vật đựng rồi trong khi đổ bỏ phía bên kia bức tường đă làm rơi lên trên đầu của người Bà-la-môn ấy. Khi ấy, người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Những bà cạo đầu khả ố này không phải là nữ Sa-môn. Tại sao lại đổ vật đựng chất thải lên đầu? Ta sẽ đốt cháy chỗ ngụ của mấy bà này.” Rồi đă cầm lấy cây lửa đi vào ni viện. Có nam cư sĩ nọ đang đi ra khỏi ni viện đă nh́n thấy người Bà-la-môn ấy cầm cây lửa đang đi vào ni viện, sau khi nh́n thấy đă nói với người Bà-la-môn ấy điều này: - “Này ông, v́ sao ông lại cầm cây lửa và đi vào ni viện?” - “Này ông, những bà cạo đầu khả ố này đổ vật đựng chất thải lên đầu tôi. Tôi sẽ đốt cháy chỗ ngụ của mấy bà này.” - “Này ông, hăy đi. Điều này là điều may mắn. Và ông sẽ đạt được số tiền lương ấy là một ngàn.” Khi ấy, người Bà-la-môn ấy đă gội đầu rồi đi đến hoàng cung và đă đạt được số tiền lương ấy là một ngàn.
2. Sau đó, nam cư sĩ ấy đă đi vào ni viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni rồi đă chê trách. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân phía bên kia bức tường?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đổ bỏ phân phía bên kia bức tường, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân phía bên kia bức tường vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ phân hoặc nước tiểu hoặc rác rến hoặc thức ăn thừa phía bên kia bức tường hoặc phía bên kia hàng rào th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Phân nghĩa là chất thải được đề cập đến.
Nước tiểu nghĩa là nước thải được đề cập đến.
Rác rến nghĩa là rác quét dọn được đề cập đến.
Thức ăn thừa nghĩa là các vật được nhai thừa, hoặc các mẩu xương, hoặc nước dơ được đề cập đến.
Bức tường nghĩa là có ba loại tường: tường gạch, tường đá, tường gỗ.
Hàng rào nghĩa là có ba loại hàng rào: hàng rào gạch, hàng rào đá, hàng rào gỗ.
Phía bên kia bức tường: phía đối nghịch của bức tường.
Phía bên kia hàng rào: phía đối nghịch của hàng rào.
Đổ bỏ: vị ni tự ḿnh đổ bỏ th́ phạm tội pācittiya.
Bảo đổ bỏ: vị ni ra lệnh người khác đổ bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đổ nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Vị ni đổ bỏ sau khi đă xem xét, vị ni đổ bỏ nơi không phải là lối đi, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, ruộng lúa mạch của người Bà-la-môn nọ là kề bên chỗ ngụ của các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa ở trong ruộng. Khi ấy, người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại làm dơ ruộng lúa mạch của chúng tôi?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ phân hoặc nước tiểu hoặc rác rến hoặc thức ăn thừa lên cỏ cây xanh th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là vị ‘tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Phân nghĩa là chất thải được đề cập đến.
Nước tiểu nghĩa là nước thải được đề cập đến.
Rác rến nghĩa là rác quét dọn được đề cập đến.
Thức ăn thừa nghĩa là các vật được nhai thừa, hoặc các mẩu xương, hoặc nước dơ được đề cập đến.
Cỏ cây xanh nghĩa là loại hạt và rau cải nào được trồng để làm thực phẩm sử dụng cho loài người.
Đổ bỏ: vị ni tự ḿnh đổ bỏ th́ phạm tội pācittiya.
Bảo đổ bỏ: vị ni ra lệnh người khác đổ bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đổ nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Cỏ cây xanh, nhận biết là cỏ cây xanh, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ th́ phạm tội pācittiya. Cỏ cây xanh, có sự hoài nghi, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ th́ phạm tội pācittiya. Cỏ cây xanh, (lầm) tưởng không phải là cỏ cây xanh, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ th́ phạm tội pācittiya.
Không phải là cỏ cây xanh, (lầm) tưởng là cỏ cây xanh, phạm tội dukkaṭa. Không phải là cỏ cây xanh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là cỏ cây xanh, nhận biết không phải là cỏ cây xanh th́ vô tội.
Vị ni đổ bỏ ở ruộng đă được đổ bỏ (rác), vị ni đổ bỏ sau khi xin phép các người chủ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tại thành Rājagaha có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đă đi để xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại đi để xem vũ ca tấu nhạc, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem vũ ca tấu nhạc?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đi để xem vũ ca tấu nhạc, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem vũ ca tấu nhạc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào đi để xem vũ hoặc ca hoặc tấu nhạc th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Vũ nghĩa là bất cứ loại vũ ǵ.
Ca nghĩa là bất cứ bài ca ǵ.
Tấu nhạc nghĩa là bất cứ loại tấu nhạc ǵ (trống, kèn, đờn, v.v...).
Vị ni đi để xem th́ phạm tội dukkaṭa. Đứng tại chỗ ấy rồi nh́n hoặc lắng nghe th́ phạm tội pācittiya. Sau khi rời khỏi tầm nh́n, vị ni lại nh́n hoặc lắng nghe lần nữa th́ phạm tội pācittiya. Vị ni đi để xem mỗi một (môn biểu diễn) th́ phạm tội dukkaṭa. Đứng tại chỗ ấy rồi nh́n hoặc lắng nghe th́ phạm tội pācittiya. Sau khi rời khỏi tầm nh́n, vị ni lại nh́n hoặc lắng nghe lần nữa th́ phạm tội pācittiya.
Vị ni đứng ở trong tu viện rồi nh́n thấy hoặc nghe, sau khi đi đến chỗ đứng hoặc chỗ ngồi hoặc chỗ nằm của vị tỳ khưu ni th́ họ vũ hoặc họ ca hoặc họ tấu nhạc, vị ni nh́n thấy hoặc nghe trong khi đi ngược chiều, khi có việc cần phải làm vị ni đi rồi nh́n thấy hoặc nghe, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Tỏi là thứ nhất.
--ooOoo--
Tỏi, việc cạo (nhổ) lông, và việc đập vỗ bằng ḷng bàn tay, gậy ngắn (bằng nhựa cây), việc làm sạch sẽ, vị (tỳ khưu) đang ăn, với lúa c̣n nguyên hạt, hai điều về rác rến, và việc nh́n xem.”
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học tṛ của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đă đi đến thành Sāvatthī v́ công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy cùng người nam ấy một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở trong bóng tối ban đêm không có đèn.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở trong bóng tối ban đêm không có đèn?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở trong bóng tối ban đêm không có đèn, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở trong bóng tối ban đêm không có đèn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nữ với một nam đứng chung hoặc chuyện tṛ ở trong bóng tối ban đêm không có đèn th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Trong bóng tối ban đêm: khi mặt trời đă lặn.
Không có đèn: không có ánh sáng.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nữ với một nam: là chỉ có người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Hoặc chuyện tṛ: vị ni đứng chuyện tṛ trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ với Dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người th́ phạm tội dukkaṭa.
Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nh́, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học tṛ của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đă đi đến thành Sāvatthī v́ công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán cùng người nam một nữ với một nam đứng chung chuyện tṛ ở trong bóng tối ban đêm không có đèn” nên cùng chính người nam ấy một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở chỗ được che khuất.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở chỗ được che khuất?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở chỗ được che khuất, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở chỗ được che khuất vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nữ với một nam đứng chung hoặc chuyện tṛ ở chỗ được che khuất th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Chỗ được che khuất nghĩa là chỗ được che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật ǵ.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nữ với một nam: là chỉ có người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Hoặc chuyện tṛ: vị ni đứng chuyện tṛ trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ với Dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người th́ phạm tội dukkaṭa.
Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nh́, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học tṛ của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đă đi đến thành Sāvatthī v́ công việc cần làm nào đó.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán cùng người nam một nữ với một nam đứng chung chuyện tṛ ở chỗ được che khuất” nên đă cùng chính người nam ấy một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở khoảng trống.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở khoảng trống?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở khoảng trống, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung và chuyện tṛ ở khoảng trống vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nữ với một nam đứng chung hoặc chuyện tṛ ở khoảng trống th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Khoảng trống nghĩa là không bị che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc là không bị che khuất bởi bất cứ vật ǵ.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng chung.
Một nữ với một nam: là chỉ có người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Hoặc chuyện tṛ: vị ni đứng chuyện tṛ trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ với Dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người th́ phạm tội dukkaṭa.
Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nh́, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ , vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā cùng người nam một nữ với một nam đứng chung, chuyện tṛ ở đường có xe cộ, ở ngơ cụt, ở giao lộ, lại c̣n thầm th́ vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́ nữa.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung, chuyện tṛ ở đường có xe cộ, ở ngơ cụt, ở giao lộ, lại c̣n thầm th́ vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́ nữa?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cùng người nam một nữ với một nam đứng chung, chuyện tṛ ở đường có xe cộ, ở ngơ cụt, ở giao lộ, lại c̣n thầm th́ vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́ nữa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cùng người nam một nữ với một nam đứng chung, chuyện tṛ ở đường có xe cộ, ở ngơ cụt, ở giao lộ, lại c̣n thầm th́ vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́ nữa? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào ở đường có xe cộ, hoặc ở ngơ cụt, hoặc ở giao lộ cùng người nam một nữ với một nam hoặc đứng chung, hoặc chuyện tṛ, hoặc thầm th́ vào tai, hoặc đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́ th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Đường có xe cộ nghĩa là đường có xe kéo hàng được đề cập đến.
Ngơ cụt nghĩa là họ đi vào bằng chính lối nào th́ đi ra bằng chính lối đó.
Giao lộ nghĩa là nơi ngă tư đường được đề cập đến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nữ với một nam: là chỉ có người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Hoặc chuyện tṛ: vị ni đứng chuyện tṛ trong tầm tay của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Hoặc thầm th́ vào tai: vị ni nói vào lỗ tai của người nam th́ phạm tội pācittiya.
Hoặc đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́: vị ni có ư định hành xử sai nguyên tắc rồi đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́ th́ phạm tội dukkaṭa. Khi vị ni (kia) đang rời khỏi tầm nh́n hoặc tầm nghe th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đă rời khỏi th́ phạm tội pācittiya. Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ với Dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người th́ phạm tội dukkaṭa.
Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nh́, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác vị ni đứng chung hoặc chuyện tṛ, vị ni không có ư định hành xử sai nguyên tắc, vị ni đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nh́ khi có việc cần làm,[2] vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có tỳ khưu ni nọ là vị thường tới lui với các gia đ́nh và là vị nhận bữa ăn thường kỳ của gia đ́nh nọ. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ni ấy đă mặc y cầm y bát rồi đi đến gia đ́nh ấy, sau khi đến đă ngồi xuống ở chỗ ngồi[3] rồi đă ra đi không thông báo các chủ nhân.
Người nữ nô tỳ của gia đ́nh ấy trong lúc quét nhà đă bỏ chỗ ngồi ấy bên trong cái thùng. Trong khi không nh́n thấy chỗ ngồi ấy, mọi người đă nói với tỳ khưu ni ấy điều này: - “Thưa ni sư, chỗ ngồi ấy đâu rồi?” - “Này các đạo hữu, tôi không nh́n thấy chỗ ngồi ấy.” - “Thưa ni sư, hăy đưa ra chỗ ngồi ấy.” Họ đă chê trách và đă ngưng lại bữa ăn thường kỳ. Sau đó, những người ấy trong khi làm sạch sẽ nhà đă nh́n thấy chỗ ngồi ấy ở bên trong cái thùng nên đă xin lỗi vị tỳ khưu ni ấy và thiết lập lại bữa ăn thường kỳ.
2. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đ́nh trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo các chủ nhân?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đ́nh trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo các chủ nhân, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đ́nh trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo các chủ nhân vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đ́nh trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo các chủ nhân th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Trước bữa ăn nghĩa là từ lúc mặt trời mọc cho đến giữa trưa.
Gia đ́nh nghĩa là có bốn loại gia đ́nh: gia đ́nh Sát-đế-lỵ, gia đ́nh Bà-la-môn, gia đ́nh thương buôn, và gia đ́nh hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đă đến nơi ấy.
Chỗ ngồi nghĩa là chỗ của tư thế kiết già được đề cập đến.
(Sau khi) ngồi xuống: sau khi ngồi xuống ở nơi ấy.
Ra đi không thông báo các chủ nhân: không thông báo người có trí suy xét ở gia đ́nh ấy. Trong khi vượt qua mái che mưa th́ phạm tội pācittiya. Ở ngoài trời, trong khi vượt qua vùng lân cận th́ phạm tội pācittiya.
Khi chưa thông báo, nhận biết là chưa thông báo, vị ni ra đi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa thông báo, có sự hoài nghi, vị ni ra đi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa thông báo, (lầm) tưởng là đă thông báo, vị ni ra đi th́ phạm tội pācittiya.
Không phải là chỗ của tư thế kiết già th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đă thông báo, (lầm) tưởng là chưa thông báo, phạm tội dukkaṭa. Khi đă thông báo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă thông báo, nhận biết là đă thông báo th́ vô tội.
Vị ni đi khi đă thông báo, ở chỗ ngồi không thể di động, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đ́nh sau bữa ăn không hỏi ư các chủ nhân rồi ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi.[4] Mọi người trong khi khiêm tốn đối với tỳ khưu ni Thullanandā nên không ngồi xuống cũng không nằm xuống. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao ni sư Thullanandā sau khi đi đến các gia đ́nh sau bữa ăn không hỏi ư các chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā sau khi đi đến các gia đ́nh sau bữa ăn không hỏi ư các chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đ́nh sau bữa ăn không hỏi ư các chủ nhân rồi ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đ́nh sau bữa ăn không hỏi ư các chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đ́nh sau bữa ăn không hỏi ư các chủ nhân rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Sau bữa ăn nghĩa là khi đă quá giữa trưa cho đến khi mặt trời lặn.
Gia đ́nh nghĩa là có bốn loại gia đ́nh: gia đ́nh Sát-đế-lỵ, gia đ́nh Bà-la-môn, gia đ́nh thương buôn, và gia đ́nh hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đă đến nơi ấy.
Không hỏi ư các chủ nhân: người nào là chủ nhân ở gia đ́nh ấy th́ không hỏi người ấy để cho phép.
Chỗ ngồi nghĩa là chỗ của tư thế kiết già được đề cập đến.
Ngồi xuống: vị ni ngồi xuống trên chỗ ấy th́ phạm tội pācittiya.
Nằm xuống: vị ni nằm xuống trên chỗ ấy th́ phạm tội pācittiya.
Khi chưa hỏi ư, nhận biết là chưa hỏi ư, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa hỏi ư, có sự hoài nghi, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa hỏi ư, (lầm) tưởng là đă hỏi ư, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi th́ phạm tội pācittiya.
Không phải là chỗ của tư thế kiết già th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đă hỏi ư, (lầm) tưởng là chưa hỏi ư, phạm tội dukkaṭa. Khi đă hỏi ư, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă hỏi ư, nhận biết là đă hỏi ư th́ vô tội.
Vị ni có hỏi ư rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi, ở chỗ được quy định thường xuyên, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu ni trong khi đi đến thành Sāvatthī trong xứ Kosala nhằm lúc chiều tối đă ghé vào ngôi làng nọ và đi đến gia đ́nh Bà-la-môn nọ xin chỗ ngụ. Khi ấy, người nữ Bà-la-môn đă nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này các ni sư, hăy chờ đến khi ông Bà-la-môn về.” Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Đến khi ông Bà-la-môn về” rồi đă trải ra chỗ nằm; một số đă ngồi xuống một số đă nằm xuống. Sau đó, người Bà-la-môn ấy đă trở về vào ban đêm và đă nói với người nữ Bà-la-môn điều này: - “Các cô này là ai?” - “Thưa ông, là các tỳ khưu ni.” - “Mấy người hăy lôi những bà cạo đầu khả ố này ra.” Rồi đă cho người lôi ra khỏi nhà.
2. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến thành Sāvatthī và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đ́nh vào lúc trời tối không hỏi ư các chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đ́nh vào lúc trời tối không hỏi ư các chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đ́nh vào lúc trời tối không hỏi ư các chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đ́nh vào lúc trời tối không hỏi ư các chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Lúc trời tối nghĩa là khi mặt trời đă lặn cho đến lúc rạng đông.
Gia đ́nh nghĩa là có bốn loại gia đ́nh: gia đ́nh Sát-đế-lỵ, gia đ́nh Bà-la-môn, gia đ́nh thương buôn, và gia đ́nh hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đă đến nơi ấy.
Không hỏi ư các chủ nhân: người nào là chủ nhân ở gia đ́nh ấy th́ không hỏi ư người ấy để cho phép.
Chỗ nằm nghĩa là ngay cả tấm trải nằm bằng lá.
(Sau khi) trải ra: sau khi tự ḿnh trải ra.
(Sau khi) bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra.
Ngồi xuống: vị ni ngồi xuống trên chỗ ấy th́ phạm tội pācittiya.
Nằm xuống: vị ni nằm xuống trên chỗ ấy th́ phạm tội pācittiya.
Khi chưa hỏi ư, nhận biết là chưa hỏi ư, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa hỏi ư, có sự hoài nghi, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa hỏi ư, (lầm) tưởng là đă hỏi ư, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống th́ phạm tội pācittiya.
Khi đă hỏi ư, (lầm) tưởng là chưa hỏi ư, phạm tội dukkaṭa. Khi đă hỏi ư, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă hỏi ư, nhận biết là đă hỏi ư th́ vô tội.
Vị ni có hỏi ư sau đó trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni học tṛ của Bhaddā Kāpilānī phục vụ Bhaddā Kāpilānī rất nghiêm chỉnh. Bhaddā Kāpilānī đă nói với các tỳ khưu ni điều này: - “Này các ni sư, tỳ khưu ni này phục vụ tôi rất nghiêm chỉnh. Tôi sẽ cho cô này y.” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác rằng: - “Này ni sư, nghe nói tôi không phục vụ sư thầy nghiêm chỉnh. Nghe nói sư thầy sẽ không cho tôi y.”
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Do hiểu sai: do được hiểu cách khác.
Do xét đoán sai: do được xét đoán cách khác.
Với vị khác: vị ni than phiền với vị đă tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya.
Người nữ đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị ni than phiền th́ phạm tội pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni than phiền th́ phạm tội pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng chưa tu lên bậc trên, vị ni than phiền th́ phạm tội pācittiya.
Vị ni than phiền với người nữ chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trong khi không nh́n thấy đồ đạc của bản thân đă nói với tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī điều này: - “Này ni sư, ni sư có nh́n thấy đồ đạc của chúng tôi không?” Tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Chẳng lẽ chính tôi là nữ đạo tặc hay sao? Chẳng lẽ chính tôi là kẻ không biết xấu hổ hay sao? Những ni sư nào trong khi không nh́n thấy đồ đạc của bản thân những vị ni ấy đă nói với tôi như vầy: ‘Này ni sư, ni sư có nh́n thấy đồ đạc của chúng tôi không?’ Này các ni sư, nếu tôi lấy đồ đạc của các cô, tôi không c̣n là nữ Sa-môn, tôi bị tiêu hoại Phạm hạnh, tôi bị sanh vào địa ngục. C̣n cô nào đă nói sai trái về tôi như thế, ngay cả cô ấy cũng hăy không c̣n là nữ Sa-môn, hăy bị tiêu hoại Phạm hạnh, hăy bị sanh vào địa ngục.”
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Caṇḍakāḷī lại nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī lại nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào nguyền rủa bản thân hoặc người khác về địa ngục hoặc về Phạm hạnh th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Bản thân: đối với cá nhân ḿnh.
Người khác: vị đă tu lên bậc trên.
Vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh th́ phạm tội pācittiya.
Người nữ đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh th́ phạm tội pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh th́ phạm tội pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh th́ phạm tội pācittiya.
Vị ni nguyền rủa về sự sanh làm loài thú hoặc về cảnh giới ngạ quỷ hoặc về phần số xui của loài người th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni nguyền rủa người nữ chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Vị ni (nói để) đề cập đến ư nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni lại tự đánh đấm chính ḿnh rồi khóc lóc. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Caṇḍakāḷī lại tự đánh đấm chính ḿnh rồi khóc lóc?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī tự đánh đấm chính ḿnh rồi khóc lóc, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī lại tự đánh đấm chính ḿnh rồi khóc lóc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào tự đánh đấm chính ḿnh rồi khóc lóc th́ phạm tội pācittiya.”
2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Chính ḿnh: đối với cá nhân ḿnh.
Vị ni đánh đấm, khóc lóc th́ phạm tội pācittiya. Vị ni đánh đấm, không khóc lóc th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni khóc lóc không đánh đấm th́ phạm tội dukkaṭa.
Bị tác động do sự mất mát về thân quyến hoặc do sự mất mát về vật dụng hoặc do sự bất hạnh v́ bệnh hoạn vị ni khóc lóc không đánh đấm, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Bóng Tối là thứ nh́.
--ooOoo--
Trong bóng tối, ở chỗ được che khuất, ở khoảng trống, ở giao lộ, hai điều về không hỏi ư, lúc trời tối, và có sự hiểu sai, về địa ngục, vị ni đă đánh đấm.”
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu ni lơa thể tắm chung với các cô gái điếm ở một bến tắm nơi ḍng sông Aciravatī. Các cô gái điếm đă chế giễu các tỳ khưu ni ấy rằng: - “Các bà đại đức ơi, có được cái ǵ cho các bà với việc thực hành Phạm hạnh trong lúc đang c̣n quá trẻ vậy? Chớ không phải các dục lạc là nên được thụ hưởng hay sao? Khi nào trở nên già cả, khi ấy các bà sẽ thực hành Phạm hạnh, như thế các bà sẽ vơ được cả hai mối lợi.” Trong khi bị các cô gái điếm chế giễu, các tỳ khưu ni đă xấu hổ. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi về chỗ ngụ và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu ni v́ mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ―(như trên)― và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào lơa thể tắm th́ phạm tội pācittiya.”
2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Lơa thể tắm: vị ni không quấn y hoặc không choàng y rồi tắm. Trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Khi hoàn tất việc tắm th́ phạm tội pācittiya.
Vị ni có y (choàng tắm) bị cướp đoạt, hoặc vị ni có y (choàng tắm) bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm của các tỳ khưu ni đă được đức Thế Tôn cho phép. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm đă được đức Thế Tôn cho phép,” rồi đă mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước, trong lúc để ḷng tḥng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Trong khi cho thực hiện vải choàng tắm, vị tỳ khưu ni nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy th́ (vải choàng tắm) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya.”
3. Vải choàng tắm nghĩa là vật mà vị ni quấn vào rồi tắm.
Trong khi cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm. Nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ.[5] Nếu vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được th́ nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya.
Vị tự ḿnh hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong th́ phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong th́ phạm tội pācittiya. Vị tự ḿnh hoàn tất phần những người khác chưa làm xong th́ phạm tội pācittiya. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong th́ phạm tội pācittiya.
Vị tự làm hoặc bảo làm v́ nhu cầu của vị khác th́ phạm tội dukkaṭa. Được làm bởi người khác, vị ni có được rồi sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa.
Vị ni làm theo kích thước, vị ni làm nhỏ hơn, do người khác làm quá kích thước sau khi có được th́ cắt bớt rồi sử dụng, vị ni làm mái che hoặc thảm trải nền hoặc tấm vách chắn hoặc nệm hoặc gối kê, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, y bằng vải y đắt giá của vị tỳ khưu ni nọ đă được làm xấu xí, đă được may vụng về. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, vải y này của cô tuyệt đẹp nhưng y đă được làm xấu xí, đă được may vụng về.” - “Này ni sư, tôi tháo rời ra, có phải cô sẽ may lại?” - “Này ni sư, đúng vậy. Tôi sẽ may lại.” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đă tháo rời y ấy rồi đă trao cho tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Ta sẽ may lại, ta sẽ may lại” nhưng không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào khi đă tháo rời hoặc bảo tháo rời y của vị tỳ khưu ni, vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại, ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Của vị tỳ khưu ni: của vị tỳ khưu ni khác.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.
Khi đă tháo rời: sau khi tự ḿnh tháo rời.
(Sau khi) bảo tháo rời: sau khi bảo người khác tháo rời.
Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại: khi không có trở ngại.
Vẫn không may lại: không tự ḿnh may lại.
Không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại: không chỉ thị người khác.
Ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày: trừ ra trong bốn ngày hoặc năm ngày. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ không may lại, ta sẽ không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm th́ phạm tội pācittiya.
Người nữ đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đă tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Người nữ đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni ấy khi đă tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Người nữ đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đă tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Vị ni ấy khi đă tháo rời hoặc bảo tháo rời vật phụ tùng khác sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại th́ phạm tội dukkaṭa ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Vị ni ấy khi đă tháo rời hoặc bảo tháo rời y hoặc vật phụ tùng khác của người nữ chưa tu lên bậc trên sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại th́ phạm tội dukkaṭa ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Trong khi có trở ngại, vị ni đă tầm cầu nhưng không có được (thời gian), trong khi làm vị ni ấy vượt quá bốn ngày hoặc năm ngày, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y. Các y ấy được để lại lâu ngày trở nên mốc meo. Các tỳ khưu ni đem phơi nắng các y ấy. Các tỳ khưu ni đă nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này các ni sư, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?” Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp: đến ngày thứ năm vị ni không quấn hoặc không trùm hoặc không phơi nắng năm y, vị ni vượt quá ngày thứ năm th́ phạm tội pācittiya.[6]
Khi đă vượt quá năm ngày, nhận biết là đă vượt quá, phạm tội pācittiya. Khi đă vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội pācittiya. Khi đă vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là chưa vượt quá, phạm tội pācittiya.
Khi chưa vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là đă vượt quá, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa vượt quá năm ngày, nhận biết là chưa vượt quá th́ vô tội.
Vào ngày thứ năm vị ni quấn hoặc trùm hoặc phơi nắng năm y, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đi khất thực đă trải ra tấm y bị đẩm ướt rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ khưu ni khác đă choàng lên y ấy rồi đi vào làng để khất thực. Vị ni kia đi ra đă hỏi các tỳ khưu ni rằng: - “Này các ni sư, các vị có nh́n thấy y của tôi không?” Các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc ấy cho vị tỳ khưu ni ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao vị tỳ khưu ni trùm y của tôi mà không hỏi ư?” Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà không hỏi ư?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni trùm y của vị tỳ khưu ni mà không hỏi ư, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà không hỏi ư vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào sử dụng y thiết thân (của vị ni khác) th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Y thiết thân nghĩa là y nào đó trong năm y của người nữ đă tu lên bậc trên. Vị ni quấn hoặc trùm y chưa được vị ni kia cho, hoặc chưa hỏi ư vị ni kia th́ phạm tội pācittiya.
Người nữ đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị ni sử dụng y thiết thân (của vị ni kia) th́ phạm tội pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sử dụng y thiết thân (của vị ni kia) th́ phạm tội pācittiya. Người nữ đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sử dụng y thiết thân (của vị ni kia) th́ phạm tội pācittiya.
Vị ni sử dụng y thiết thân của người nữ chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Vị ni kia cho, hoặc sau khi hỏi ư vị ni kia rồi quấn hoặc trùm lên, vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, gia đ́nh hộ độ cho tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Thưa ni sư, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” Tỳ khưu ni Thullanandā đă gây chướng ngại (nói rằng): - “Các người có nhiều phận sự, có nhiều công việc cần phải làm.” Vào lúc bấy giờ, ngôi nhà của gia đ́nh ấy bị cháy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao ni sư Thullanandā lại gây chướng ngại việc bố thí của chúng tôi khiến chúng tôi bị xa ĺa cả hai là tài sản và phước báu?”
2. Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào gây chướng ngại lợi lộc về y của nhóm th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Nhóm nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Gây chướng ngại: vị gây chướng ngại (hỏi rằng): “Các người có thể bố thí y này như thế nào?” th́ phạm tội pācittiya. Vị gây chướng ngại vật phụ tùng khác th́ phạm tội dukkaṭa. Vị gây chướng ngại y hoặc vật phụ tùng khác của nhiều vị tỳ khưu ni hoặc của một vị tỳ khưu ni hoặc của người nữ chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa.
Vị ni cản trở sau khi chỉ rơ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến hội chúng tỳ khưu ni. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni có ư định phân chia y ấy nên tụ hội lại. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni học tṛ của tỳ khưu ni Thullanandā đang đi vắng. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này các ni sư, các tỳ khưu ni đang đi vắng, trong khi ấy y sẽ không được chia.” Rồi đă ngăn cản sự phân chia y đúng Pháp. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Trong khi ấy y sẽ không được chia” nên đă ra đi. Đến khi các tỳ khưu ni học tṛ trở về lại, tỳ khưu ni Thullanandā đă bảo phân chia y ấy.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng pháp?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự phân chia y đúng pháp, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự phân chia y đúng pháp th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Sự phân chia y đúng pháp nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi phân chia.
Ngăn cản: vị ni ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể phân chia y này như thế nào?” th́ phạm tội pācittiya.
Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị ni ngăn cản th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị ni ngăn cản th́ vô tội.
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp th́ vô tội.
Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rơ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā cho y của Sa-môn đến các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các nhà ảo thuật, các người đánh trống (bảo rằng): - “Hăy nói lời khen ngợi về ta ở đám đông.” Các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các nhà ảo thuật, các người đánh trống đă nói lời khen ngợi về tỳ khưu ni Thullanandā ở đám đông rằng: - “Ni sư Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc ḷng, tự tin, rành rẽ về nói Pháp thoại. Hăy bố thí đến ni sư. Hăy phục vụ cho ni sư.”
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại cho y của Sa-môn đến người nam tại gia?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cho y của Sa-môn đến người nam tại gia, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cho y của Sa-môn đến người nam tại gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào cho y của Sa-môn đến người nam tại gia hoặc nam du sĩ ngoại đạo hoặc nữ du sĩ ngoại đạo th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Người nam tại gia nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Nam du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nam thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu và sa di.
Nữ du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, và sa di ni.
Y của Sa-môn nghĩa là đề cập đến việc làm thành đúng phép đă được thực hiện. Vị ni cho th́ phạm tội pācittiya.
Vị ni cho đến cha mẹ, vị ni cho mượn (trong thời hạn), vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, gia đ́nh hộ độ của tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Thưa ni sư, nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trải qua mùa (an cư) mưa có ư định phân chia y nên đă tụ họp lại. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này các ni sư, hăy chờ đợi. Có niềm hy vọng về y cho hội chúng tỳ khưu ni.” Các tỳ khưu ni đă nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này: - “Này ni sư, hăy đi và t́m hiểu về y ấy.” Tỳ khưu ni Thullanandā đă đi đến gặp gia đ́nh ấy, sau khi đến đă nói với những người ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hăy dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” - “Thưa ni sư, chúng tôi không thể dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.” Tỳ khưu ni Thullanandā đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Niềm hy vọng về y không chắc chắn nghĩa là lời nói đă được phát ra rằng: “Nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y.”
Thời hạn về y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu th́ tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu th́ năm tháng.
Để cho vượt quá thời hạn về y: khi Kaṭhina không được thành tựu, vị ni để cho vượt quá ngày cuối cùng của mùa mưa th́ phạm tội pācittiya. Khi Kaṭhina được thành tựu, vị ni để cho vượt quá ngày Kaṭhina hết hiệu lực th́ phạm tội pācittiya.
Khi y không chắc chắn, nhận biết là y không chắc chắn, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y th́ phạm tội pācittiya. Khi y không chắc chắn, có sự hoài nghi, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y th́ phạm tội dukkaṭa. Khi y không chắc chắn, (lầm) tưởng là được chắc chắn, vị ni để cho vượt quá thời hạn về y th́ vô tội.
Khi y được chắc chắn, (lầm) tưởng là không chắc chắn, phạm tội dukkaṭa. Khi y được chắc chắn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi y được chắc chắn, nhận biết là được chắc chắn th́ vô tội.
Vị ni cản trở sau khi chỉ rơ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có ngôi trú xá dành cho hội chúng đă được nam cư sĩ nọ cho xây dựng. Vào dịp lễ của ngôi trú xá ấy, người ấy có ư định dâng y ngoài hạn kỳ đến cả hai hội chúng. Vào lúc bấy giờ, kaṭhina của cả hai hội chúng đă được thành tựu. Khi ấy, nam cư sĩ ấy đă đi đến gặp hội chúng và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thâu hồi Kaṭhina. Và này các tỳ khưu, Kaṭhina nên được thâu hồi như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
2. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thâu hồi Kaṭhina. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng thâu hồi Kaṭhina. Đại đức nào đồng ư với việc thâu hồi Kaṭhina xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Kaṭhina đă được hội chúng thâu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
3. Sau đó, nam cư sĩ ấy đă đi đến gặp hội chúng tỳ khưu ni và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Sẽ có y cho chúng ta” nên đă ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại không cho sự thâu hồi Kaṭhina của chúng tôi?” Các tỳ khưu ni đă nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
4. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp th́ phạm tội pācittiya.”
5. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là vị ‘tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi thâu hồi.
Ngăn cản: vị ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể thâu hồi Kaṭhina này như thế nào?” th́ phạm tội pācittiya.
Đúng pháp, nhận biết là đúng pháp, vị ni ngăn cản th́ phạm tội pācittiya. Đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản th́ phạm tội dukkaṭa. Đúng pháp, (lầm) tưởng là sai pháp, vị ni ngăn cản th́ vô tội.
Sai pháp, (lầm) tưởng là đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Sai pháp, nhận biết là sai pháp th́ vô tội.
Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rơ sự lợi ích, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Lơa Thể là thứ ba.
--ooOoo--
Lơa thể, vải choảng tắm, sau khi tháo ra, năm ngày, (y) thiết thân, của nhóm, việc phân chia, (y của) Sa-môn, không chắc chắn, và với việc (thâu hồi) Kaṭhina.”
--ooOoo--
[1] accāvadati: đă được dịch là “lăng mạ” theo ngữ cảnh ở trang 34, nay được ghi nghĩa khác nương theo Chú Giải (VinA. iv, 922).
[2] Khi có việc cần làm là nhằm mục đích hoàn thành công việc rút thẻ cho bữa trai phạn, v.v... hoặc mục đích sắp xếp lại sự bề bộn ở trong trú xá (VinA. iv, 927).
[3] Từ āsanaṃ có nghĩa Việt “chỗ ngồi, hành động ngồi,” nhưng ở ngữ cảnh này là một loại chỗ ngồi gọn gàng, có thể di chuyển được, dường như là “một loại đệm lót ngồi” (ND).
[4] Tuy đây cũng là āsanaṃ nhưng lớn hơn v́ có thể nằm xuống (ND).
[5] Nếu tính gang tay của đức Thiện Thệ theo kích thước của người b́nh thường là 0,25 cm th́ kích thước vải choàng tắm của tỳ khưu ni là 1 m x 0,5 m. Vải choảng tắm mưa của các tỳ khưu lớn hơn: 1,50 m x 0, 625 m (ND).
[6] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng cứ mỗi y là tính một tội pācittiya (VinA. iv, 929).
<Mục Lục><Đầu Trang>