Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 03

PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU NI

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

4. 8. PHẨM THIẾU NỮ

4. 8. 1. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi. Các cô ấy không có khả năng chịu đựng đối với sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài ḅ sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đă sanh khởi.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi vậy? Này các tỳ khưu, thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng đối với sự lạnh, sự nóng, ―(như trên)― có khuynh hướng không cam chịu (các cảm thọ) ... chết người (thuộc về cơ thể đă sanh khởi). Này các tỳ khưu, thiếu nữ đă đủ hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng đối với sự lạnh, sự nóng, ―(như trên)― có khuynh hướng cam chịu (các cảm thọ) ... chết người (thuộc về cơ thể đă sanh khởi). Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ chưa đủ hai mươi tuổi th́ phạm tội pācittiya.

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Chưa đủ hai mươi tuổi nghĩa là chưa đạt đến hai mươi tuổi.

Thiếu nữ nghĩa là sa di ni được đề cập đến.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Khi chưa đủ hai mươi tuổi, nhận biết là chưa đủ hai mươi tuổi, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ th́ phạm tội dukkaṭa. Khi chưa đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là đă tṛn đủ, vị ni tiếp độ th́ vô tội.

Khi đă tṛn đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ hai mươi tuổi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă tṛn đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă tṛn đủ hai mươi tuổi, nhận biết là đă tṛn đủ th́ vô tội.

Vị ni (lầm) tưởng là đă tṛn đủ rồi tiếp độ (thiếu nữ) chưa đủ hai mươi tuổi, vị ni nhận biết là đă tṛn đủ rồi tiếp độ (thiếu nữ) đă tṛn đủ hai mươi tuổi, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ nhất.

--ooOoo--

4. 8. 2. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc đúng phép hay không đúng phép.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, Ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến thiếu nữ mười tám tuổi. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Thiếu nữ mười tám tuổi ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.” Nên được thỉnh cầu lần thứ nh́. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

2. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Đây là lời đề nghị.

3. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Đại đức ni nào đồng ư việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi xin im lặng; vị ni nào không đồng ư có thể nói lên.

Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đă được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ mười tám tuổi. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

4. Thiếu nữ mười tám tuổi ấy nên được nói rằng: “Cô hăy nói như vầy: Tôi xin thọ tŕ việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm. ―(như trên)― Tôi xin thọ tŕ việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.” Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm th́ phạm tội pācittiya.

5. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Tṛn đủ hai mươi tuổi nghĩa là đă đạt đến hai mươi tuổi.

Thiếu nữ nghĩa là vị sa di ni được đề cập đến.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đă ban cho bị hư hoại.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

Vị ni tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ hai.

--ooOoo--

4. 8. 3. ĐIỀU HỌC THỨ BA

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đă nói như vầy: - “Này các cô ni tu tập sự, hăy đi đến. Hăy nhận biết việc này, hăy bố thí vật này, hăy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hăy làm vật này thành đúng phép.” Các cô ni ấy đă nói như vầy: - “Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự. Chúng tôi là các tỳ khưu ni.”

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, Ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi ấy đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.” Nên được thỉnh cầu lần thứ nh́. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

3. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề nghị.

4. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni nào đồng ư việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ư có thể nói lên.

Sự chấp thuận về việc tiếp độ đă được hội chúng ban cho đến cô ni tên (như vầy) là thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

5. Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận th́ phạm tội pācittiya.

6. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Tṛn đủ hai mươi tuổi nghĩa là đă đạt đến hai mươi tuổi.

Thiếu nữ nghĩa là vị sa di ni được đề cập đến.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Đă thực hành việc học tập nghĩa là đă thực hành việc học tập về sáu pháp.

Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

Vị ni tiếp độ thiếu nữ tṛn đủ hai mươi tuổi đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đă được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ ba.

--ooOoo--

4. 8. 4. ĐIỀU HỌC THỨ TƯ

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên). Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc đúng phép hay không đúng phép. Các vị ni đệ tử cũng ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc đúng phép hay không đúng phép. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên)?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên), có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên) th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Chưa đủ mười hai năm (thâm niên) nghĩa là chưa đạt đến mười hai năm (tỳ khưu ni).

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Vị ni tiếp độ khi tṛn đủ mười hai năm (thâm niên), vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ tư.

--ooOoo--

4. 8. 5. ĐIỀU HỌC THỨ NĂM

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) tiếp độ khi chưa được hội chúng chấp thuận. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc đúng phép hay không đúng phép. Các vị ni đệ tử cũng ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc đúng phép hay không đúng phép.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) lại tiếp độ khi chưa được hội chúng chấp thuận?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) tiếp độ khi chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) lại tiếp độ khi chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, Ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên). Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu ni đă tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) là tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ.” Nên được thỉnh cầu lần thứ nh́. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng nên xác định vị tỳ khưu ni ấy rằng: “Vị tỳ khưu ni này có kinh nghiệm, có liêm sỉ.” Nếu là vị ni ngu dốt không có liêm sỉ th́ không nên ban cho. Nếu là vị ni ngu dốt có liêm sỉ th́ không nên ban cho. Nếu là vị ni có kinh nghiệm không có liêm sỉ th́ không nên ban cho. Nếu là vị ni có kinh nghiệm có liêm sỉ th́ nên ban cho. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

3. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị ni này tên (như vầy) là tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên). Đây là lời đề nghị.

4. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị ni này tên (như vầy) là tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên). Đại đức ni nào đồng ư việc ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) xin im lặng; vị ni nào không đồng ư có thể nói lên.

Sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đă được hội chúng ban cho đến vị ni tên (như vầy) là tỳ khưu ni tṛn đủ mười hai năm (thâm niên). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

5. Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) khi chưa được hội chúng chấp thuận mà tiếp độ th́ phạm tội pācittiya.

6. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) nghĩa là đă đạt đến mười hai năm (tỳ khưu ni).

Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ th́ phạm tội pācittiya.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

Vị ni tiếp độ khi tṛn đủ mười hai năm (thâm niên) và được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ năm.

--ooOoo--

4. 8. 6. ĐIỀU HỌC THỨ SÁU

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī đi đến hội chúng và thỉnh cầu sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni đă xác định tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī rằng: “Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ” rồi đă không ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ. Tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī đă trả lời rằng: “Tốt thôi!” Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu ni đă ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến các tỳ khưu ni khác. Tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Chằng lẽ chính tôi là kẻ ngu dốt, chính tôi là kẻ không có liêm sỉ hay sao? Bởi v́ hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc ban phép tiếp độ đến các tỳ khưu ni khác mà không ban cho đến chính tôi.”

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Caṇḍakāḷī khi được nói rằng: ‘Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ’ đă trả lời: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī khi được nói rằng: ‘Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ’ đă trả lời: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī khi được nói rằng: ‘Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ’ đă trả lời: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào khi được nói rằng: ‘Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ’ đă trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán th́ phạm tội pācittiya.

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô được ban phép tiếp độ: ‘Này ni sư, vẫn chưa phải lúc cho cô ban phép tu lên bậc trên.’ Khi đă trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ sau đó lại tiến hành việc phê phán th́ phạm tội pācittiya.

Vị ni phê phán (hội chúng) đang hành động theo thói thường v́ ưa thích, v́ sân hận, v́ si mê, v́ sợ hăi; vị ni bị điên; ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ sáu.

--ooOoo--

4. 8. 7. ĐIỀU HỌC THỨ BẢY

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có cô ni tu tập sự nọ đă đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā và cầu xin sự tu lên bậc trên. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với cô ni tu tập sự ấy rằng: - “Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô.” Rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ. Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô’ lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô’ rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô’ lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô,’ vị ni ấy sau đó không có trở ngại ǵ vẫn không tiếp độ và cũng không ra sức cho việc tiếp độ th́ phạm tội pācittiya.

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Này cô ni, nếu cô sẽ dâng y cho ta, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô: như thế th́ ta sẽ ban phép tu lên bậc trên cho cô.

Vị ni ấy sau đó không có trở ngại ǵ: khi không có sự nguy hiểm.

Không tiếp độ: không tự ḿnh tiếp độ.

Không ra sức cho việc tiếp độ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm th́ phạm tội pācittiya.

Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ bảy.

--ooOoo--

4. 8. 8. ĐIỀU HỌC THỨ TÁM

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có cô ni tu tập sự nọ đă đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā và cầu xin sự tu lên bậc trên. Tỳ khưu ni Thullanandā đă nói với cô ni tu tập sự ấy rằng: - “Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô.” Rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ. Sau đó, cô ni tu tập sự ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô’ lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô’ rồi không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô’ lại không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào sau khi đă nói với cô ni tu tập sự rằng: ‘Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm, như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô,’ vị ni ấy sau đó không có trở ngại ǵ vẫn không tiếp độ và cũng không ra sức cho việc tiếp độ th́ phạm tội pācittiya.

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Này cô ni, nếu cô sẽ hầu cận ta hai năm: Nếu cô sẽ phục vụ hai năm (tṛn đủ).

Như thế th́ ta sẽ tiếp độ cho cô: như thế th́ ta sẽ ban phép tu lên bậc trên cho cô.

Vị ni ấy sau đó không có trở ngại ǵ: khi không có sự nguy hiểm.

Không tiếp độ: không tự ḿnh tiếp độ.

Không ra sức cho việc tiếp độ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không tiếp độ cũng không ra sức cho việc tiếp độ,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm th́ phạm tội pācittiya.

Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ tám.

--ooOoo--

4. 8. 9. ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác). Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác)?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác), có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự là người thân cận với đàn ông, thân cận với thanh niên, là kẻ nhẫn tâm, là nguồn gây sầu khổ (cho người khác) th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Đàn ông nghĩa là người nam đă đạt đến hai mươi tuổi.

Thanh niên nghĩa là người nam chưa đạt đến hai mươi tuổi.

Thân cận nghĩa là thân cận bằng thân và khẩu không được đúng đắn.

Nhẫn tâm nghĩa là đề cập đến sự giận dữ.

Nguồn gây sầu khổ (cho người khác) nghĩa là người làm sanh khởi khổ đau, đem đến sự buồn rầu cho những người khác.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Vị ni trong lúc không biết rồi tiếp độ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ chín.

--ooOoo--

4. 8. 10. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự chưa được cha mẹ và người chồng cho phép. Cha mẹ và người chồng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa được chúng tôi cho phép?” Các tỳ khưu ni đă nghe được cha mẹ và người chồng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa được cha mẹ và người chồng cho phép?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự chưa được cha mẹ và người chồng cho phép, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa được cha mẹ và người chồng cho phép vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự chưa được cha mẹ hoặc người chồng cho phép th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Cha mẹ nghĩa là đề cập đến các bậc sanh thành.

Người chồng nghĩa là đă được đám cưới với người đó.

Chưa được cho phép: không có hỏi ư.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Vị ni trong lúc không biết rồi tiếp độ, vị ni sau khi xin phép rồi tiếp độ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười.

--ooOoo--

4. 8. 11. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI MỘT

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng: “Ta sẽ tiếp độ cô ni tu tập sự” rồi đă triệu tập các vị tỳ khưu trưởng lăo lại, sau khi nh́n thấy nhiều vật thực loại cứng loại mềm lại giải tán các vị tỳ khưu trưởng lăo (nói rằng): - “Thưa các ngài đại đức, tôi sẽ không tiếp độ cho cô ni tu tập sự lúc này.” Rồi đă triệu tập Devadatta, Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto rồi tiếp độ cô ni tu tập sự. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ni sư Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa?”[1] ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni Thullanandā lại tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ cô ni tu tập sự với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

3. Với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa: với tập thể đă bị cách ly.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ đă thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Vị ni tiếp độ với tập thể không bị cách ly, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười một.

--ooOoo--

4. 8. 12. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI HAI

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ hàng năm, chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nh́n thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm khiến chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ hàng năm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hàng năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ hàng năm th́ phạm tội pācittiya.

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Hàng năm: mỗi năm.

Tiếp độ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Vị ni tiếp độ cách năm, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười hai.

--ooOoo--

4. 8. 13. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI BA

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ hai người trong một năm; theo như thế ấy chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nh́n thấy rồi tương tợ y như thế phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm; theo như thế ấy chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ hai người trong một năm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ hai người trong một năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ hai người trong một năm th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Trong một năm: trong (thời hạn) một năm.

Tiếp độ hai người: cho tu lên bậc trên hai người.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ hai người” rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Vị ni tiếp độ một người trong một năm,[2] vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười ba.

Phẩm Thiếu Nữ là thứ tám.

--ooOoo--

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Hai điều về thiếu nữ, và (chưa được chấp thuận) bởi hội chúng, mười hai năm (thâm niên), và do vị được chấp thuận, thôi đi (chưa phải lúc), (dâng) y, hai năm (hầu cận), vị ni thân cận, và (chưa cho phép) bởi chồng, các vị đang chịu hành phạt parivāsa, hàng năm, và với việc tiếp độ hai người.”

--ooOoo--

 

4. 9. PHẨM DÙ DÉP

4. 9. 1. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sử dụng dù dép. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại sử dụng dù dép, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại sử dụng dù dép?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sử dụng dù dép, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại sử dụng dù dép vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào sử dụng dù dép th́ phạm tội pācittiya.

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

2. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ bị bệnh. Không có dù dép vị ni ấy không được thoải mái. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép dù dép đối với vị tỳ khưu ni bị bệnh. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh sử dụng dù dép th́ phạm tội pācittiya.

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Không bị bệnh nghĩa là không có dù dép vị ni ấy vẫn thoải mái.

Bị bệnh nghĩa là không có dù dép vị ni ấy không được thoải mái.

nghĩa là có ba loại dù: dù trắng, dù bằng sậy, dù bằng lá được buộc theo ṿng tṛn.

Sử dụng: Vị ni sử dụng dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya.

Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni sử dụng dù dép th́ phạm tội pācittiya. Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni sử dụng dù dép th́ phạm tội pācittiya. Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni sử dụng dù dép th́ phạm tội pācittiya.

Vị ni sử dụng dù không (sử dụng) dép th́ phạm tội dukkaṭa. Vị ni sử dụng dép không (sử dụng) dù th́ phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh th́ vô tội.

 

Vị ni bị bệnh, vị ni mang trong tu viện, (mang) trong vùng phụ cận tu viện, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ nhất.

--ooOoo--

4. 9. 2. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư di chuyển bằng xe. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại di chuyển bằng xe, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại di chuyển bằng xe?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư di chuyển bằng xe, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại di chuyển bằng xe vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào di chuyển bằng xe th́ phạm tội pācittiya.

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

2. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ bị bệnh không thể đi bằng chân. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép xe đối với tỳ khưu ni bị bệnh. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh di chuyển bằng xe th́ phạm tội pācittiya.

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Không bị bệnh nghĩa là vị ni ấy có thể đi bằng chân.

Bị bệnh nghĩa là vị ni ấy không thể đi bằng chân.

Xe nghĩa là xe ḅ, xe kéo, xe hàng, xe ngựa, kiệu khiêng, ghế khiêng.

Di chuyển: Vị ni di chuyển (bằng xe) dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya.

Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni di chuyển bằng xe th́ phạm tội pācittiya. Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni di chuyển bằng xe th́ phạm tội pācittiya. Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni di chuyển bằng xe th́ phạm tội pācittiya.

Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh th́ vô tội.

Vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ nh́.

--ooOoo--

4. 9. 3. ĐIỀU HỌC THỨ BA

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ thường lui tới với gia đ́nh của người đàn bà nọ. Khi ấy, người đàn bà ấy đă nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Thưa ni sư, xin hăy trao vật trang sức ở hông này cho người đàn bà tên này.” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Nếu ta dùng b́nh bát đựng rồi đi th́ ta sẽ không nhớ” nên đă buộc vào rồi đi. Khi cô ni ấy ở trên đường lộ, sợi chỉ bị đứt khiến (các vật kết vào) bị văng tung toé. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại mang vật trang sức ở hông, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Vị tỳ khưu ni ấy trong khi bị những người ấy chế giễu đă xấu hổ. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă đi về chỗ ngụ và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ―(như trên)―, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni lại mang vật trang sức ở hông?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni mang vật trang sức ở hông, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni lại mang vật trang sức ở hông vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào mang vật trang sức ở hông th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Vật trang sức ở hông nghĩa là bất cứ loại ǵ quàng ở hông.

Mang: Vị ni mang vào dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya.

Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni mang băng vải buộc ở hông, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ ba.

--ooOoo--

4. 9. 4. ĐIỀU HỌC THỨ TƯ

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đeo đồ trang sức của phụ nữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại đeo đồ trang sức của phụ nữ, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đeo đồ trang sức của phụ nữ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đeo đồ trang sức của phụ nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đeo đồ trang sức của phụ nữ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào đeo đồ trang sức của phụ nữ th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Đồ trang sức của phụ nữ nghĩa là vật đeo ở đầu, vật đeo ở cổ, vật đeo ở cánh tay, vật đeo ở bàn chân, vật đeo ở hông.

Đeo: Vị ni đeo vào dầu chỉ một lần (cũng) phạm tội pācittiya.

Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ tư.

--ooOoo--

4. 9. 5. ĐIỀU HỌC THỨ NĂM

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng vật thơm có màu sắc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại tắm bằng vật thơm có màu sắc, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng vật thơm có màu sắc?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng vật thơm có màu sắc, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng vật thơm có màu sắc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tắm bằng vật thơm có màu sắc th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Vật thơm nghĩa là bất cứ vật ǵ có mùi thơm.

(Vật) có màu sắc nghĩa là bất cứ vật ǵ có màu sắc.

Tắm: Vị ni tắm, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Khi hoàn tất việc tắm phạm tội pācittiya.

Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ năm.

--ooOoo--

4. 9. 6. ĐIỀU HỌC THỨ SÁU

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng bă dầu mè có tẩm hương. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại tắm bằng bă dầu mè có tẩm hương, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng bă dầu mè có tẩm hương?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư tắm bằng bă dầu mè có tẩm hương, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại tắm bằng bă dầu mè có tẩm hương vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào tắm bằng bă dầu mè có tẩm hương th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Có tẩm hương nghĩa là bất cứ vật ǵ có tẩm hương thơm.

Bă dầu mè nghĩa là xác hạt mè được đề cập đến.

Tắm: Vị ni tắm, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Khi hoàn tất việc tắm th́ phạm tội pācittiya.

 

Do nguyên nhân bị bệnh, vị ni tắm bằng bă dầu mè loại b́nh thường, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ sáu.

--ooOoo--

4. 9. 7. ĐIỀU HỌC THỨ BẢY

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể). Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nh́n thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể), giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể)?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể), có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể), vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu ni nào bảo tỳ khưu ni xoa bóp và chà xát (cơ thể) th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

(Bởi) vị tỳ khưu ni: (bởi) vị tỳ khưu ni khác.

Bảo xoa bóp: Vị ni bảo xoa bóp th́ phạm tội pācittiya.

Bảo chà xát: Vị ni bảo thoa dầu (toàn thân) th́ phạm tội pācittiya.

Vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ bảy.

--ooOoo--

4. 9. 8-10. ĐIỀU HỌC THỨ TÁM-CHÍN-MƯỜI

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni bảo cô ni tu tập sự xoa bóp và chà xát (cơ thể). ―(như trên)― bảo sa di ni xoa bóp và chà xát (cơ thể). ―(như trên)― bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể). Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nh́n thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể), giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể)?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể), có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể) vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào bảo người nữ tại gia xoa bóp và chà xát (cơ thể) th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm.

Sa di ni nghĩa là người nữ có liên quan đến mười điều học.

Người nữ tại gia nghĩa là đề cập đến người nữ ở gia đ́nh.

Bảo xoa bóp: Vị ni bảo xoa bóp th́ phạm tội pācittiya.

Bảo chà xát: Vị ni bảo thoa dầu (toàn thân) th́ phạm tội pācittiya.

V́ nguyên nhân bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Các điều học thứ tám-chín-mười.

--ooOoo--

4. 9. 11. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI MỘT

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa hỏi ư. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa hỏi ư?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa hỏi ư, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa hỏi ư vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào ngồi xuống trên chỗ ngồi ở phía trước vị tỳ khưu khi chưa hỏi ư th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Phía trước vị tỳ khưu: Phía trước người nam đă tu lên bậc trên.

Khi chưa hỏi ư: sau khi không xin phép.

Ngồi xuống trên chỗ ngồi: vị ni ngồi xuống cho dầu ở trên mặt đất cũng phạm tội pācittiya.

Khi chưa được hỏi ư, nhận biết là chưa được hỏi ư, vị ni ngồi xuống trên chỗ ngồi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa được hỏi ư, có sự hoài nghi, vị ni ngồi xuống trên chỗ ngồi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa được hỏi ư, (lầm) tưởng là đă được hỏi ư, vị ni ngồi xuống trên chỗ ngồi th́ phạm tội pācittiya.

Khi đă được hỏi ư, (lầm) tưởng là chưa được hỏi ư, phạm tội dukkaṭa. Khi đă được hỏi ư, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă được hỏi ư, nhận biết là đă được hỏi ư th́ vô tội.

Vị ni hỏi ư rồi ngồi xuống trên chỗ ngồi, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười một.

--ooOoo--

4. 9. 12. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI HAI

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni hỏi câu hỏi đến vị tỳ khưu chưa được thỉnh ư trước. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ư trước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ư trước, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ư trước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào hỏi câu hỏi ở vị tỳ khưu chưa được thỉnh ư trước th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Chưa được thỉnh ư: không có hỏi ư.

Vị tỳ khưu: người nam đă tu lên bậc trên.

Hỏi câu hỏi: Sau khi đă thỉnh ư trước về Kinh, vị ni hỏi Luật hoặc Vi Diệu Pháp th́ phạm tội pācittiya. Sau khi đă thỉnh ư trước về Luật, vị ni hỏi Kinh hoặc Vi Diệu Pháp th́ phạm tội pācittiya. Sau khi đă thỉnh ư trước về Vi Diệu Pháp, vị ni hỏi Luật hoặc Kinh th́ phạm tội pācittiya.

Khi chưa hỏi ư, nhận biết là chưa hỏi ư, vị ni hỏi câu hỏi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa hỏi ư, có sự hoài nghi, vị ni hỏi câu hỏi th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa hỏi ư, (lầm) tưởng là đă hỏi ư, vị ni hỏi câu hỏi th́ phạm tội pācittiya.

Khi đă hỏi ư, (lầm) tưởng là chưa hỏi ư, phạm tội dukkaṭa. Khi đă hỏi ư, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă hỏi ư, nhận biết là đă hỏi ư th́ vô tội.

Vị ni hỏi sau khi đă thỉnh ư, vị ni hỏi bất cứ phạm vi nào sau khi đă thỉnh ư không giới hạn (phạm vi câu hỏi), vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười hai.

--ooOoo--

4. 9. 13. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI BA

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ không mặc áo lót[3] đă đi vào làng khất thực. Khi vị ni ấy đang ở trên đường lộ, các cơn gió xoáy đă hất tung y hai lớp lên. Dân chúng đă la lớn lên rằng: - “Ngực và bụng của ni sư đẹp!” Vị tỳ khưu ni ấy trong khi bị dân chúng chế giễu đă xấu hổ. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă đi về chỗ ngụ và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu ni không mặc áo lót lại đi vào làng?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni không mặc áo lót đi vào làng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ni không mặc áo lót lại đi vào làng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu ni nào không mặc áo lót đi vào làng th́ phạm tội pācittiya.

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Không mặc áo lót: thiếu đi áo lót.

Áo lót nghĩa là nhằm mục đích che kín phần dưới xương đ̣n (ở cổ) và phần trên lỗ rún.

Đi vào làng: Vị ni trong lúc vượt qua hàng rào của làng được rào lại th́ phạm tội pācittiya. Vị ni trong lúc đi vào vùng phụ cận của làng không được rào lại th́ phạm tội pācittiya.

Vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, vị ni bị bệnh, khi bị thất niệm, trong lúc không biết, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười ba.

Phẩm Dù Dép là thứ chín.

--ooOoo--

Bạch chư đại đức ni, một trăm sáu mươi sáu điều pācittiya đă được đọc tụng xong.[4] Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Chư đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

--ooOoo--

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Dù, và xe, vật trang sức ở hông, đồ nữ trang, vật thơm, bă dầu mè, vị tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, và vị sa di ni, với người nữ tại gia, khi chưa hỏi ư, việc thỉnh ư trước, với vị không mặc áo lót là mười ba.”

--ooOoo--

TÓM LƯỢC CÁC PHẨM

Tỏi, và bóng tối, lơa thể, và liên quan việc nằm chung, (nhà) triển lăm, tu viện, và sản phụ, thiếu nữ, dù và dép.

Dứt phần nhỏ nhặt.

--ooOoo--

 

5. CÁC ĐIỀU PĀṬIDESANĪYA

Bạch chư đại đức ni, tám điều pāṭidesanīya này được đưa ra đọc tụng.

5. 1. ĐIỀU HỌC PĀṬIDESANĪYA THỨ NHẤT

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ư? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

3. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu ni bị bệnh. Các tỳ khưu ni thăm hỏi bệnh t́nh đă nói với các tỳ khưu ni bị bệnh điều này: - “Này các ni sư, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các ni sư, trước đây chúng tôi yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đă cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại nên không yêu cầu, v́ thế chúng tôi không được thoải mái.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ni bị bệnh được yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”

4. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Không bị bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có bơ lỏng.

Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có bơ lỏng.

Bơ lỏng nghĩa là bơ lỏng từ loài ḅ, hoặc là bơ lỏng từ loài dê, hoặc là bơ lỏng từ loài trâu, hoặc bơ lỏng từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng).[5]

Vị ni không bị bệnh yêu cầu cho nhu cầu của bản thân, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. (Nghĩ rằng): “Với sự đạt được, ta sẽ thọ dụng” rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pāṭidesanīya.

Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng th́ phạm tội pāṭidesanīya. Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng th́ phạm tội pāṭidesanīya. Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni yêu cầu bơ lỏng rồi thọ dụng th́ phạm tội pāṭidesanīya.

Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh th́ vô tội.

Vị ni bị bệnh, sau khi bị bệnh rồi yêu cầu th́ hết bệnh và thọ dụng, vị ni thọ dụng phần c̣n lại của vị ni bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học Pāṭidesanīya thứ nhất.

--ooOoo--

5. 2-8. ĐIỀU HỌC PĀṬIDESANĪYA THỨ HAI - THỨ TÁM

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư yêu cầu dầu ăn rồi thọ dụng. ―(như trên)― yêu cầu mật ong rồi thọ dụng. ―(như trên)― yêu cầu đường mía rồi thọ dụng. ―(như trên)― yêu cầu cá rồi thọ dụng. ―(như trên)― yêu cầu thịt rồi thọ dụng. ―(như trên)― yêu cầu sữa tươi rồi thọ dụng. ―(như trên)― yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ư? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

 “Vị tỳ khưu ni nào yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

3. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu ni bị bệnh. Các tỳ khưu ni thăm hỏi bệnh t́nh đă nói với các tỳ khưu ni bị bệnh điều này: - “Này các ni sư, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các ni sư, trước đây chúng tôi yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đă cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại nên không yêu cầu, v́ thế chúng tôi không được thoải mái.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ni bị bệnh được yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào không bị bệnh yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng, vị tỳ khưu ni ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức ni, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”

4. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Không bị bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có sữa đông. Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có sữa đông. Dầu ăn nghĩa là dầu mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa mật ong, dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú. Mật ong nghĩa là mật của loài ong. Đường mía nghĩa là được sản xuất từ cây mía. nghĩa là loài di chuyển trong nước được đề cập đến. Thịt nghĩa là thịt của các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng). Sữa tươi nghĩa là sữa tươi từ loài ḅ, hoặc là sữa tươi từ loài dê, hoặc là sữa tươi từ loài trâu, hoặc là sữa tươi từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng). Sữa đông nghĩa là sữa đông của chính các loài thú ấy.

Vị ni không bị bệnh yêu cầu cho nhu cầu của bản thân, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. (Nghĩ rằng): “Với sự đạt được, ta sẽ thọ dụng” rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pāṭidesanīya.

Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng th́ phạm tội pāṭidesanīya. Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng th́ phạm tội pāṭidesanīya. Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị ni yêu cầu sữa đông rồi thọ dụng th́ phạm tội pāṭidesanīya.

Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh th́ vô tội.

Vị ni bị bệnh, sau khi bị bệnh rồi yêu cầu th́ hết bệnh và thọ dụng, vị ni thọ dụng phần c̣n lại của vị ni bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học Pāṭidesanīya thứ tám.

--ooOoo--

5. Bạch chư đại đức ni, tám điều pāṭidesanīya đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Chư đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Dứt các điều Pāṭidesanīya.

--ooOoo--

 

6. CÁC ĐIỀU SEKHIYA

Bạch chư đại đức ni, các pháp sekhiyā này được đưa ra đọc tụng.

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư quấn y (nội) ḷng tḥng phía trước và phía sau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại quấn y (nội) ḷng tḥng phía trước và phía sau giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại quấn y (nội) ḷng tḥng phía trước và phía sau?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư quấn y (nội) ḷng tḥng phía trước và phía sau, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại quấn y (nội) ḷng tḥng phía trước và phía sau vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

“‘Ta sẽ mặc y (nội) tṛn đều’ là việc học tập nên được thực hành.”

3. Nên mặc y nội cho tṛn đều với việc che kín ở ṿng bụng nơi lỗ rún và ṿng đầu gối. Vị ni nào mặc y nội ḷng tḥng ở phía trước hoặc phía sau do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.

Vị ni không cố ư, khi thất niệm, vị ni không biết, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu ni đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước?” Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

3. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các tỳ khưu ni lại đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

“‘Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước’ là việc học tập nên được thực hành.”

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

4. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni bị bệnh ngần ngại khi đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ni bị bệnh được đại tiện, tiểu tiện, và khạc nhổ ở trong nước. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này như vầy:

“‘Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước khi không bị bệnh’ là việc học tập nên được thực hành.”

5. Vị ni không bệnh không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước. Vị ni nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ ở trong nước do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.

Vị ni không cố ư, khi thất niệm, vị ni không biết, vị ni bị bệnh, sau khi thực hiện trên đất rồi xối nước, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni có tâm bị rối loạn, vị ni bị thọ khổ hành hạ, vị ni vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

Điều học thứ mười lăm.

--ooOoo--

Bạch chư đại đức ni, các pháp sekhiya đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Chư đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Dứt Các Điều Sekhiya.

--ooOoo--

 

7. CÁC PHÁP DÀN XẾP TRANH TỤNG

Bạch chư đại đức ni, bảy pháp dàn xếp tranh tụng này được đưa ra đọc tụng.

1. Nhằm đưa đến sự dàn xếp, nhằm đưa đến sự giải quyết các sự tranh tụng đă sanh khởi hoặc chưa sanh khởi, nên áp dụng cách hành xử Luật với sự hiện diện, nên áp dụng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, nên áp dụng cách hành xử Luật khi không điên cuồng, nên phán xử theo sự thừa nhận, thuận theo số đông, theo tội của vị ấy, cách dùng cỏ che lấp.

2. Bạch chư đại đức ni, bảy pháp dàn xếp tranh tụng đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Chư đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Dứt các Pháp Dàn Xếp Tranh Tụng.

--ooOoo--

3. Bạch chư đại đức ni, phần mở đầu đă được đọc tụng, tám điều pārājika đă được đọc tụng, mười bảy điều saṅghādisesa đă được đọc tụng, ba mươi điều nissaggiya pācittiya đă được đọc tụng, một trăm sáu mươi sáu điều pācittiya đă được đọc tụng, tám điều pāṭidesanīya đă được đọc tụng, các pháp sekhiyā đă được đọc tụng, bảy pháp dàn xếp tranh tụng đă được đọc tụng. Bấy nhiêu của đức Thế Tôn ấy đă được truyền lại trong giới bổn, đă được đầy đủ trong giới bổn, được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng. Chính tất cả (chư đại đức ni) nên học tập các điều học ấy với sự hợp nhất, thân thiện, không căi cọ.

Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni được chấm dứt.

BỘ PĀCITTIYAPĀḶI ĐƯỢC CHẤM DỨT.

--ooOoo--


 

[1] Các vị tỳ khưu có tên ở trên có liên quan đến tội saṅghādisesa thứ 10 và 11 của tỳ khưu về việc chia rẽ hội chúng và xu hướng theo kẻ đă chia rẽ hội chúng (ND).

[2] Tổng hợp điều học này và điều học trước th́ hai năm chỉ có thể tiếp độ một người (ND).

[3] Áo lót là một trong năm thứ y của tỳ khưu ni: Y hai lớp (saṅghāṭi), thượng y (uttarāsaṅgo), y nội (antaravāsako), áo lót (saṅkaccikaṃ), vải choàng tắm (udakasāṭikā). Năm thứ y này cần phải có khi tu lên bậc trên (Cullavagga - Tiểu Phẩm tập 2, TTPV tập 07, chương X, trang 515).

[4] Lời giải thích của ngài Buddhaghosa về 166 điều học pācittiya của tỳ khưu ni được tóm lược như sau: Tổng số giới pācittiya của tỳ khưu ni là 166 điều, và đă được tŕnh bày ở đây là 96 điều và 70 điều c̣n lại là những điều đă quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni được tŕnh bày ở Bhikkhuvibhaṅga - Phân Tich Giới Tỳ khưu. Trong số 92 điều ưng đối trị của tỳ khưu, thay v́ t́m 70 điều là phần quy định chung, chúng ta sẽ bớt đi 22 điều quy định riêng cho tỳ khưu gồm có: 10 điều thuộc phần giáo giới (21-30), 4 điều thuộc phần vật thực: Trường hợp vật thực thỉnh sau (33), thọ thực thức ăn không phải là đồ thừa (35), mời thức ăn không phải là đồ thừa rồi buộc tội (36), yêu cầu các loại vật thực thượng hạng (39); thêm vào 8 điều nữa là: Bố thí đến tu sĩ ngoại đạo (41), che giấu tội xấu xa (64), cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi (65), hẹn ḥ rồi đi chung đường xa với người nữ (67), đi vào hậu cung của đức vua (83), vào làng lúc sái thời chưa thông báo vị tỳ khưu hiện diện (85), tọa cụ (89), y choàng tắm mưa (92). Tổng cộng là 22 điều (VinA, iv, 947-948).

[5] Thịt của mười loài thú vị tỳ khưu không được dùng gồm có: thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó, thịt rắn, thịt sư tử, thịt hổ, thịt beo, thịt gấu, thịt chó sói (Mahāvagga - Đại Phẩm tập 2, TTPV 05, chương VI, trang 37-42).

 

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 |

<Mục Lục><Đầu Trang>