BuddhaSasana Home Page Vấn đề ăn
chay, ăn mặn trong đạo Phật Ðạo Phật và vấn
Tỳ kheo Ajahn Jagaro Giới thiệu: Tỳ kheo
Jagaro là người Úc gốc Ý. Ông xuất gia, tu học với ngài
thiền sư Ajahn Chah, vùng Đông Bắc Thái Lan. Ông trở về
Úc năm 1982 và đã tích cực giúp thành lập tu viện
Bodhinyana (Giác Minh) tại bang Tây Úc. Ông hoàn tục, trở
về đời cư sĩ năm 1995 và sang định cư ở New York, Hoa
Kỳ. Tại đó, với thế danh là John Cianciosi, ông tiếp
tục đóng góp Phật sự, hướng dẫn các khóa thiền và
viết các bài pháp luận cho các nội san địa phương. Bài
viết dưới đây dựa theo một buổi thuyết pháp năm 1994
tại Úc, khi ông còn là tu sĩ. -ooOoo- T
Chúng ta thường thấy
điều này lập đi lập lại trong mọi hình thức của cuộc
sống. Hầu hết các vụ xung đột mà chúng ta can dự trong
đời sống đều phát xuất từ bất đồng ý kiến với
một số quan điểm về những việc nào đó. Những xung đột
này xẩy ra là do chúng ta quá gắn bó với những quan kiến
và nhận thức của ta. Lẽ tất nhiên, chúng
ta cần có những quan kiến, chúng ta không thể sống mà không
có chúng. Quan kiến là cách thức chúng ta nhìn sự vật xung
quanh, là cách chúng ta am hiểu đôi điều gì đó, là sở thích
liên quan đến những lựa chọn đa dạng về mọi vấn đề.
Ðây là điều rất tự nhiên. Bao lâu chúng ta còn có khả năng
suy nghĩ, nhận thức hay bị chi phối cách này cách khác, chúng
ta sẽ có quan kiến riêng, và với một số vấn đề nào đó,
những quan kiến này lại hết sức mạnh mẽ và cứng
nhắc. Chủ nghĩa ăn rau đậu,
hay "ăn chay", là một vấn đề thuộc loại này.
Tối nay, tôi sẽ trình bày một đề tài để suy gẫm. Tôi
không có ý định ngồi đây để đưa ra lời cuối cùng
về đạo Phật và chủ nghĩa ăn chay. Ðó không phải là ý
định của tôi, cũng không phải là phong cách của một
Phật tử. Sự hiểu biết của tôi là từ kinh nghiệm của
tôi, từ nhận thức của tôi, và từ sự suy tư của tôi. Các
bạn có thể đồng ý hay không đồng ý với tôi . Ðiều đó
không thành vấn đề, khi nào các bạn vẫn còn suy tư rõ ràng
về đề tài này và tự rút ra kết luận cho chính mình. Tôi
giữ một vị thế trung hòa vì tôi không cho là đề tài đặc
biệt này lại chỉ đơn giản có thể hiểu được bằng các
từ ngữ trắng hay đen. Tôi giữ vị thế của một Phật
tử như theo tôi hiểu. Căn bản kinh điển Chúng ta hãy bắt đầu
với một câu hỏi hết sức cơ bản: Theo tất cả những gì
chúng ta có thể thẩm định được, "ăn chay" có
phải là điều kiện tiên quyết để trở thành Phật tử
theo giáo lý của Đức Phật hay không? Tôi phải nói ngay là:
Không. Theo các bản kinh của đạo Phật, ăn chay không phải
là một điều kiện tiên quyết để trở thành Phật tử. Có người nói, "Vâng,
làm sao ông biết được Ðức Phật đã dạy gì nào?"
Ðúng vậy, tôi không thể biết được bằng chính kinh
nghiệm cá nhân của mình; nếu tôi đã gặp Ðức Phật vào
thời của Ngài, bây giờ tôi cũng không nhớ hết. Vậy thì
chúng ta phải dựa vào điều gì đây? Chúng ta phải dựa vào
những kinh điển đã được truyền lại cho chúng ta qua bao
thế kỷ nay. Chúng ta có tin vào các bản kinh đó hay không là
tùy ở thái độ chúng ta có chấp nhận chúng như là những
bản ghi chép chính xác về những lời giảng dạy của Ngài
hay không. Theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, chúng ta
có được các bản kinh, gọi là Thánh điển Pali. Có rất
nhiều quyển kinh: như tạng Luật, bao gồm các giới luật dành
cho các vị Tăng Ni, tạng Kinh, bao gồm các bài thuyết
giảng của Đức Phật, và cuối cùng là tạng Vi Diệu Pháp,
là hệ thống triết học và tâm lý Phật giáo được phát
triển từ những bản văn cơ bản trên. Ða số các học
giả đều đồng ý rằng tạng Vi Diệu Pháp, "giáo lý
cao cấp", được phát triển sau này bởi các vị luận
sư từ các bài kinh căn bản, như là một hệ thống phân tích
để dễ giải thích và cũng để dùng trong các buổi tranh
luận. Tóm lại, có ba bộ
tạng kinh điển. Những nghiên cứu của tôi chỉ giới hạn
vào tạng Luật và tạng Kinh, là những quyển sách ghi chép
về giới luật và các bài thuyết giảng. Từ những nghiên
cứu học hỏi, tôi có được một niềm tin tưởng rất
lớn rằng những gì được trình bày trong những kinh điển
này đều mô tả chính xác những gì Ðức Phật đã giảng
dạy. Tuy nhiên, tôi không dám khẳng định là từng chữ
trong các kinh điển đó đều giống y như lời của Ðức
Phật. Ðã có một vài thay đổi, thêm thắt qua thời gian,
nhưng điều cốt lõi vẫn còn đó. Điều quan yếu là các
bản văn này là một hồ sơ ghi nhận chính xác và thành
thật những gì Đức Phật đã giảng. Nền tảng cho lý luận
của tôi chỉ đơn giản dựa trên thực tế là: những người
truyền lại cho ta và kiểm chứng những giáo lý này đều là
những đệ tử, những vị Tăng Ni đã hết lòng kính trọng
Ðức Phật, y hệt như chư Tăng ngày nay, và tôi không nghĩ
là có nhiều người dám cố ý thay đổi những lời giảng
dạy của Ðức Phật. Rất ít khi có vị tăng ni nào lại dám
sẵn sàng thực hiện điều đó. Bất kỳ thay đổi nào,
nếu có xảy ra, cũng chỉ đơn giản là những phương cách
thiết thực giúp cho việc tụng đọc được thuận lợi hơn
mà thôi. Rất có thể đã có những thay đổi vô ý, nhưng tôi
không tin các văn bản đó đều đã bị cố ý hủy hoại,
nhất định không thể có trong một đường lối nghiêm
trọng. Ðiều này đã được
xác minh đặc biệt đối với các quyển Giới Luật Tu Sĩ.
Qua nhiều thời đại, Phật giáo được truyền bá một cách
chậm chạp, từ vùng thung lũng sông Hằng xuyên suốt Ấn Độ,
tiến về hướng Nam đến Sri Lanka, băng qua Miến Điện và
Thái Lan, rồi tiến về hướng Bắc đến Tây Tạng và
cuối cùng là đến Trung Hoa. Qua nhiều thế kỷ, đạo Phật
bắt đầu chia chẻ thành nhiều trường phái. Một vài trường
phái phát triển mạnh mẽ tại nhiều miền khác nhau ở Ấn
Độ và tại nhiều địa phương xa xôi khác, và như vậy các
trường phái này có rất ít hay hầu như không có liên lạc
với nhau. Tuy nhiên, khi so sánh bản Giới Luật, chúng ta
thấy được những điểm tương đồng rõ rệt giữa các trường
phái khác nhau này. Vì các bộ Luật rất tương đồng với
nhau, ắt hẳn các bộ đó phải có cùng một nguồn gốc
nhất định. Thế nên, có đủ lý
do mà tin tưởng vào những tài liệu chúng ta gọi là Thánh
điển Pali và chấp nhận thánh điển đó là đại diện giáo
lý của Ðức Phật. Trong bất kỳ tình huống nào, đây chính
là bằng chứng hiển nhiên ta phải xử lý, bởi vì chẳng có
ai hiện diện ở đây có thể nói, "Tôi đã nghe Ðức
Phật nói khác như vậy." Những kinh điển đó là đại
diện có thẩm quyền nhất hay minh định nhất cho những
lời giảng dạy của Ðức Phật. Nếu chúng ta nghiên
cứu các kinh điển này một cách cẩn thận, chúng ta sẽ không
tìm thấy huấn thị nào dành cho cả cư sĩ lẫn tu sĩ về
vấn đề ăn chay. Cũng không có bất kỳ đề cập nào về
ăn chay như là lời giáo huấn Phật giáo dành cho các vị tăng
ni hoặc cư sĩ. Nếu như Đức Phật đã qui định ăn chay là
điều kiện tiên quyết để trở thành Phật tử, chắc
chắn Ngài phải đề cập đến ở đâu đó trong kinh điển.
Nhưng ngược lại, chúng ta có thấy một số trường hợp
Đức Phật có nói đến thực phẩm, đặc biệt các giới
luật có liên quan đến chư tăng, cho thấy là, vào thời đức
Phật, đôi khi các vị chư tăng cũng ăn thịt. Nếu các bạn kiên
nhẫn với tôi, tôi có thể trình bày cho các bạn một số
chứng cớ lịch sử. Trong các bản kinh điển này, đặc
biệt là trong tạng Luật, có nhiều đoạn trích dẫn về các
vị chư tăng được và không được phép làm gì. Có nhiều
giới luật qui định về thức ăn thức uống; có những
giới luật đề cập đến đủ thứ linh tinh liên quan đến
thực phẩm, một số qui định xem ra rất lạ thường. Nếu
như các vị sư bắt buộc phải là người "ăn chay trường"
thì những qui định này hình như hoàn toàn vô tác dụng
hoặc vô nghĩa. Thí dụ như có một
giới luật cấm các vị sư không được ăn thịt một số
các con vật như: thịt ngựa, thịt voi, thịt chó, thịt
rắn, thịt hổ, thịt báo và thịt gấu. Có hàng tá các
loại thịt mà Đức Phật đã chỉ định cấm các vị tăng
ni không được sử dụng. Việc Ngài ra luật nghiêm cấm các
vị Tăng Ni không được dùng một số loại thịt đó cho
thấy là họ có thể sử dụng các loại thịt khác. Cũng có một giới
luật khác: khi có một vị sư bị bệnh, và vì ông bị đau
quá nặng, có một môn đệ phụ nữ rất sùng đạo đã đến
hỏi xem nhà sư đã bị đau như vậy bao giờ chưa và nhà sư
dùng thứ gì để chữa trị? Có lẽ nhà sư bị đau dạ dày,
và ông cho biết lần trước ông cũng đã bị như vậy và có
người đem đến cho ông một ít "nước sốt thịt"
để giúp làm dịu cơn đau. Thế là người phụ nữ sùng đạo
liền chạy ra chợ tìm mua một ít thịt để làm nước
sốt thịt cho nhà sư dùng. Tuy nhiên hôm đó lại là ngày
Bố-tát, nên không thể kiếm đâu ra thịt. Có một truyền
thống tại Ấn Độ là không giết mổ thú vật vào những
ngày kể trên. Vì quá mộ đạo, người phụ nữ này đã
quyết định không thể để cho nhà sư phải tiếp tục
chịu đau khổ, thế nên bà ta cắt ngay một miếng thịt
của chính mình và làm món nước sốt thịt. Rồi bà đem món
đó lại cho nhà sư, dâng cho ông, và hình như nhà sư đã dùng
món nước sốt thịt đó và đã bình phục. Khi Ðức Phật
nghe được điều này, Ngài đã đưa ra một giới luật nghiêm
cấm các vị chư tăng không được ăn thịt người. Thật là
may (cho tu sĩ chúng tôi) khi có được giới luật đó! Cho nên,
đây sẽ là một giới luật lạ lùng, hoàn toàn vô nghĩa lý,
nếu như đã có qui định là các vị chư tăng không bao
giờ được dùng thịt. Còn có nhiều thí dụ
tương tự như thế, trong tạng Luật và tạng Kinh. Khi Đức
Phật nghe biết người ta tố cáo các vị chư tăng của Ngài
gây ra sự giết hại thú vật vì họ ăn thịt, Ngài đã
khẳng định không phải như vậy. Thế rồi Ngài công bố
ba điều kiện (tam tịnh nhục), theo đó các vị sư không
được ăn thịt là: nếu như họ đã nhìn thấy, đã nghe
được hoặc nghi ngờ là con vật đó được giết mổ đặc
biệt để cúng dường họ, trong các trường hợp này các
vị tăng ni phải từ chối, không nhận thực phẩm đó. Còn
các trường họp khác, khi các vị chư tăng đi khất thực,
thông thường họ phải nhìn vào bình bát khất thực của mình
và nhận bất cứ món gì được dâng cúng với tấm lòng
biết ơn, không được tỏ vẻ thích thú hay khó chịu gì
cả. Tuy nhiên, nếu một vị sư biết, nghe và nghi ngờ là
con vật đó bị giết lấy thịt chỉ để nuôi các vị sư,
thì họ phải từ chối, không nhận thực phẩm đó. Còn có nhiều ví dụ
khác nữa mà tôi không nêu ra đây, rải rác đây đó trong
kinh điển cho thấy là không nhất thiết đòi hỏi các vị
chư tăng và các cư sĩ phải là người ăn chay. Hơn thế nữa, chúng ta
có thể nhận thấy qua lịch sử đạo Phật, không có quốc
gia Phật giáo nào lại áp dụng việc ăn chay thành phổ
biến cho mọi công dân Phật tử. Ðiều này cho thấy việc
ăn chay không được thực hiện ngay từ lúc ban đầu. Mặc
dù một số tu sĩ Bắc Tông ăn chay - nhất là người Trung
Hoa, Việt Nam và một vài người Nhật Bản - đa số các cư
sĩ thì không ăn chay. Về mặt lịch sử từ thuở ban đầu
cho đến ngày nay, nhìn chung, các Phật Tử không phải là
những người ăn chay nghiêm khắc. Ðiều này hỗ trợ cho
kết luận rút ra từ việc khảo sát kinh điển là không bao
giờ có một điều kiện tiên quyết nào đòi hỏi những người
muốn trở thành Phật tử phải là người ăn chay. Tuy nhiên ta cũng có
thể tranh luận với nhau, và điều này thường hay xảy ra,
đặc biệt nơi các vị chư tăng ăn chay, cũng như các cư sĩ,
cho là kinh điển có thể đã bị sửa đổi. Họ biện
luận là chính Đức Phật đã dạy phải ăn chay, nhưng các
vị chư tăng (kết tập kinh điển) muốn ăn thịt nên đã
cố tình thay đổi một số điều có liên quan đến vấn đề
ăn chay trong toàn bộ tất cả các bản văn. Lúc đó, họ đã
không có máy vi tính để chỉ gõ vào cụm từ "có liên
quan đến thịt" và có được danh sách liệt kê các đoạn
kinh về vấn đề đó. Ngay từ đầu, khi kinh điển được
truyền tải qua lời truyền khẩu và đã có rất nhiều các
vị chư tăng tham gia vào công việc này. Không ai trong họ có
được một "đĩa mềm" để có thể thực hiện
được việc thay đổi đó trong vòng nửa giờ đồng hồ.
Thật không dễ gì thực hiện được điều đó, vì có quá
nhiều điểm tham khảo rải rác khắp trong kinh điển. Bạn
có thể thay đổi một điểm ở chỗ này nhưng rồi điều
đó có thể mâu thuẫn với các điểm qui chiếu khác. Các
vị tu sĩ khó có thể đạt được một mức độ thuần
nhất nếu họ phải thay đổi vô số điểm quy chiếu trong
toàn bộ kinh điển. Vì thế cho nên tôi nghĩ lập luận cho
là các vị chư tăng muốn ăn thịt đã thay đổi sai lạc
kinh điển là hoàn toàn không có cơ sở. Tôi nghĩ là kinh điển
là chính xác. Tôi nghĩ Ðức Phật đã không đưa ra một điều
kiện tiên quyết nào cho bất kỳ ai muốn trở thành đệ
tử của Ngài. Tôi cũng không nghĩ là Ngài đã đề ra một
giới luật (về ăn chay) như vậy để huấn luyện các vị
chư tăng. Một điểm gây tranh cãi
nữa lại nổi lên về giáo lý của Ðức Phật, vì một
trong những học giới cho tất cả những ai muốn trở thành
đệ tử của ngài là họ không được giết hại (sát sinh)
bất kỳ sinh vật nào. Giới luật đầu tiên dành cho một
Phật tử là: Panatipata veramani sikkhapadam samadiyami
(Tôi nguyện gìn giữ học giới là không giết hại bất
kỳ sinh vật nào). Ðây là công việc tu tập cho mỗi vị tăng,
ni, sa di, bạch y, nam và nữ cư sĩ, và là căn bản cho sự
tu tập đức tính vô hại. Dường như có một
sự không nhất quán, dường như không cân bằng, nhưng đây
chỉ đơn giản là do không suy nghĩ rõ ràng về vấn đề
thảo luận. Rõ ràng là Ðức Phật đã thấy sự khác biệt
rộng lớn nơi hai việc luyện tập này - việc luyện tập
không giết hại (sát sanh) và việc luyện tập có liên quan
đến chế độ ăn uống. Chúng hoạt động trong các cấp độ
khác nhau. Ðức Phật rất thực
tế. Khi Ngài đề ra những học giới, Ngài chỉ đề ra
những giới luật nào mọi người có thể tuân theo, có
thể gìn giữ được. Thí dụ như, Ngài đã không đưa ra
một giới luật tu tập cấm bạn không được ăn uống quá
độ. Các nhà sư phải sống nhờ khất thực và Ngài đã đề
ra rất nhiều giới luật có liên quan đến ăn uống cho các
vị chư tăng - họ chỉ được phép ăn vào buổi sáng (trước
ngọ), khi ăn họ không được gây tiếng động với thức
ăn nhai trong miệng hay húp xì xụp, họ không được làm rơi
vãi cơm, họ không được vét bát, không được nhìn ngó
xung quanh. Tuy nhiên Ngài không đưa ra giới luật cấm không
được ăn quá độ. Các bạn có thể ăn cho căng đầy
bụng mà vẫn không phạm luật. Bạn có thể nghĩ rằng đáng
lẽ Ðức Phật phải đặt ra một giới luật về vấn đề
này. Sao lại không nhỉ, trong khi Ngài đã lập ra đủ mọi
thứ luật lệ? Đó chính là vì tùy ở mỗi người nhằm
tự rèn luyện chính mình để ăn uống sao cho điều độ.
Ðó chính là điều bạn phải tự lãnh lấy trách nhiệm để
tự rèn luyện dần dần, nhưng không nhất thiết phải bắt
đầu bằng một giới luật. Có một điểm khác
biệt rất lớn giữa ăn thịt và giết hại (sát sanh) thú
vật, cho dù có thể tranh luận là khi chúng ta ăn thịt, chúng
ta gián tiếp ủng hộ việc giết hại thú vật. Chắc chúng
ta phải cân nhắc một vài điều, và tôi sẽ trở lại điều
này với nhiều chi tiết hơn. Tuy nhiên có một sự khác
biệt rất lớn giữa hai điều trên, là vì việc giết hại
(sát sanh) thú vật được quy vào sự cố ý cướp
đi khỏi thú vật sự sống của chúng hay cố ý
gây ra hoặc trực tiếp bảo ai đó giết chết con vật. Ðiều
này là điều giới luật đầu tiên nhắm tới - sự cố ý
hay tác ý giết chết một con vật. Ðó là mục đích ở phía
sau hành động. Có ý định, có mục đích và có cả việc
tiến hành thực hiện hành động của mục tiêu đó trong
việc giết hại (sát sanh). Nếu bạn lái xe của
bạn đến đây vào buổi tối hôm nay, tôi đoan chắc là
bạn đã giết chết một số sinh vật nào đó - bạn thử
nhìn xem trên kính chắn gió của xe bạn, chắc hẳn đó có
một số côn trùng chết dính trên đó. Khi chúng tôi đi xe
từ tu viện, nơi tôi đang sống tại huyện Serpentine đến
thành phố Perth, cách xa khoảng 60 kilômét, kính chắn gió trên
xe ô tô phủ đầy một lớp các côn trùng chết dính trên
đó, đặc biệt vào buổi sáng và buổi tối. Tôi biết khi
tôi bước vào xe và nhờ một người lái xe đưa tôi tới
một nơi nào đó, chắc chắn sẽ có một số côn trùng bị
chết như vậy. Tôi biết điều này, nhưng đó không phải là
ý định của tôi để vào xe và được chở đi. Tôi không
nói, "Chúng ta hãy lái xe đi chơi và xem có bao nhiêu côn
trùng đã bị giết chết." Nếu đó là ý định của tôi,
thì tôi đã thực hiện "sát sanh", sát sanh một cách
cố ý. Nhưng chúng ta không làm thế. Chúng ta chỉ bước vào
xe và lái từ A đến B với một mục đích rõ ràng khác. Có
lẽ một số côn trùng sẽ bị giết chết, nhưng không
phải chúng ta có ý định giết chúng. Ðó không phải là
giết hại (sát sanh) - có sự chết xảy ra nhưng bạn không
tạo ra nghiệp sát sanh. Giới luật này là nền tảng mọi công
việc tu trì trong Phật Giáo "không gây hại cho ai"
(vô hại): bạn tự hạn chế không cố ý sát sanh. Khi người ta ăn thịt,
ý định của họ là gì nhỉ? Có bao nhiêu người ăn thịt
mà lại có ý định giết chết con bò, con heo hay con cừu?
Nếu như ý định của họ khi ăn thịt của họ là giết
chết thêm nhiều bò, thì rất có thể hành vi ăn thịt đó
gần giống với sát sanh. Nếu bạn xem xét lý do tại sao người
ta thực sự ăn thịt, bạn sẽ thấy có nhiều lý do khác
nhau. Tại sao những người sống ở những xã hội nguyên sơ,
quê mùa tại vùng Ðông Bắc Thái Lan là nơi tôi đã sống
một thời gian, và ở đó đa số là những người theo đạo
Phật nhưng họ lại vẫn ăn thịt? Họ ăn ếch, châu chấu,
kiến càng, trứng kiến... và ăn đủ mọi thứ khác trên đời.
Tại sao thế? Là vì để có được chất đạm, vì họ
cần phải sống còn, họ cần phải có thứ gì để ăn, và
kiếm được thức ăn là điều vô cùng khó khăn. Một người
sống trong hang động thì họ ăn thứ gì nhỉ? Họ ăn bất
kỳ thứ gì họ có thể có được. Do bản năng cơ bản là
để sinh tồn, họ ăn bất kỳ thứ gì có được. Ðó là
điều có nhiều liên quan đến những gì chúng ta ăn - bản
năng cơ bản của sinh tồn. Nó còn tùy thuộc vào những gì
có sẵn. Thế rồi lại còn có
ảnh hưởng văn hóa nữa, cách thức vị giác của bạn được
hình thành là do bạn đã được nuôi dưỡng ra sao. Nếu
bạn quen dùng một số thực phẩm nào đó, bạn sẽ cảm
thấy thoải mái khi ăn loại thức ăn đó. Chính vì vậy mà
bạn thích mua thức ăn đó. Ðó là loại thực phẩm bạn đã
biết cách nấu nướng ra sao. Tại sao đa số người Úc
lại là người "không-ăn-chay"? Họ ăn thịt là
bởi vì đó là điều họ đã quen ăn. Ðó là một phần
tạo ra nền văn hóa Úc. Chính vì thế khi mà
phần lớn những người ăn thịt không ăn chay, không phải
vì họ có ý muốn giết hại thú vật. Ðó chỉ là điều
họ đã quen ăn ngay từ thuở nhỏ. Ðó chính là một phần
nền văn hóa của họ, chính là vì họ đã biết cách nấu
món ăn đó, và họ biết cách ăn món đó ra sao. Ðiều đó
thích hợp với họ, chính vì vậy mà họ ăn thịt. Bạn có thể cho như
vậy là kém hiểu biết (vô minh). Vâng, đa số chúng ta đều
vô minh, đa số chúng ta chỉ có được những mục tiêu
hết sức giới hạn trong toàn bộ qui trình hiểu biết,
lựa chọn và khả năng; đa số chúng ta sống theo những gì
đã được định sẵn. Không cần thiết phải là như vậy,
nhưng đó lại là cách thức sinh hoạt của đa số chúng ta. Điều quan trọng là chúng
ta có thể phân biệt được như vậy. Ăn thịt không đồng
nghĩa với giết hại sinh vật, vì ý định khác nhau. Ðức
Phật đã đề ra giới luật này, là tự kiềm chế không
cố ý giết hại bất kỳ sinh vật nào, như là một bước
đầu tiên hướng tới việc tôn trọng sự sống, của cả
con người lẫn của loài vật. Ðó mới chỉ là bước đầu,
chứ chưa phải là điểm đến. Và đa số chúng ta cũng không
thể thực hiện được ngay cả điều đó. Có bao nhiêu người
trên trái đất này đã thực sự kiềm chế để không
giết chết các sinh vật nào? Rất có thể chúng ta phải rơi
vào một trận chiến lý tưởng để xem vì lý do gì mọi người
nên "ăn-chay-trường", nhưng bạn phải thừa nhận
một thực tế là tuyệt đại đa số những người trên hành
tinh này vẫn chưa đạt đến mức độ "không cố ý sát
sanh". Chỉ cần họ đạt đến được mức độ đó thôi,
thì mọi sự có thể tốt đẹp hơn rất nhiều. Tầm nhìn
của Ðức Phật hết sức thực tiễn, nên Ngài đã dạy
rằng tất cả chúng ta ít nhất là hãy bắt đầu ở mức
độ này trước đã. Đến đây, tôi đã trình
bày những lý lẽ tại sao Phật giáo lại không ép buộc
phải ăn chay. Thế thì Phật giáo có khuyến khích mọi người
ăn thịt chăng? Trong kinh điển, chúng ta không đọc được
ở đoạn nào Ðức Phật nói, "Hãy ăn nhiều thịt, điều
đó rất tốt cho quý vị". Chúng ta cũng không tìm thấy
đoạn nào Ngài nói, "Hãy mang thịt đến cho con người."
Không có đoạn kinh nào khuyến khích cúng dường nhiều
thịt đến cho chư tăng. Kinh điển chắc chắn không khuyến
khích ăn thịt; không có đoạn nào nói như vậy cả, không
có một đề nghị nào tương tự như vậy. Như thế, chúng
ta phải hiểu thế nào đây? Ðơn giản là mỗi cá nhân chúng
ta hãy xem xét cẩn thận vấn đề này, và tự rút ra những
kết luận cho chính mình và nhận trách nhiệm về những
kết luận đó. Những
cứu xét về mặt luân lý Giờ thì chúng ta phải
xét xem ăn chay có thích hợp với giáo lý của Ðức Phật
không. Tôi có thể nói là hoàn toàn thích hợp. Ăn chay là công
việc thực hành hết sức bổ ích cho những ai đang phát
triển hai điều kiện mà mỗi Phật tử nên cố gắng đạt
đến, đó là lòng bi mẫn và trí tuệ. Ðó là điều chúng
ta nỗ lực tu dưỡng qua con đường tâm linh. Lòng từ bi có
nghĩa là cảm thông với, cảm thông vì, nhạy cảm với
những đau khổ của người khác. Kết quả đương nhiên do
việc phát triển lòng bi mẫn là chúng ta không muốn sát
sanh, chúng ta không muốn làm tổn thương đến người khác, Với trí tuệ, chúng ta
bắt đầu nhận thức rõ là hành động của chúng ta không
chỉ gây ra những hậu quả trực tiếp, nhưng còn gây ra
cả những hậu quả gián tiếp nữa. Ðây chính là sự
hiểu biết đang khởi hiện. Tôi thường luôn viện dẫn
một trong những luật tự nhiên cơ bản, gọi là Duyên Sinh
hay Phát Sinh Có Ðiều Kiện. "Khi cái nầy có, cái kia
sẽ có" (có khói, phải có lửa). Nói cách khác, một
số điều kiện nào đó sẽ duyên sinh những kết quả nào
đó. Khi trí hiểu biết của chúng ta phát triển rõ ràng hơn
và ý thức được nhiều hơn, chúng ta sẽ nhận ra mối tương
quan này. Bất luận điều gì chúng ta làm, đều gây ra
những hậu quả. Ngay cả cách thức chúng ta đang sống cũng
làm phát sinh những nguyên nhân và hậu quả. Chúng ta bắt
đầu nhận thức rõ đây là một luật tự nhiên cơ bản, và
chúng ta bắt đầu ý thức nhiều hơn cách thức chúng ta đang
sống ra sao, kèm theo những hậu quả gắn với các hành động
của chúng ta. Một khi ta cảm thông và khôn ngoan hơn, chúng
ta sẽ bắt đầu định hướng cuộc sống của chúng ta để
đến chỗ "vô hại" hơn, hay là làm giảm bớt đau
khổ và thiệt hại trong cuộc sống. Ðến đây chúng ta hãy
xem xét vấn đề này trên một bình diện rộng hơn là
việc chỉ ăn rau đậu, bởi vì chủ đề "Phật giáo và
Chủ nghĩa ăn chay" quá hạn hẹp. Chúng ta không thể
thảo luận về chủ nghĩa ăn chay giống như là một điều
gì đó riêng rẽ lẻ loi một mình. Có rất nhiều vấn đề
liên quan đến đề tài này, ăn chay dính dáng đến cả môi
sinh, nghĩa là mọi lãnh vực trong cuộc sống. Có lẽ chúng
ta phải đặt tên cho đề tài này lại là: "Phật giáo
và Môi sinh", hay "Phật giáo và Đời sống"
mới đúng. Một khi chúng ta nhận
thức được rằng bất kể chúng ta sống ra sao cũng đều gây
ra những hậu quả, thế thì ảnh hưởng nào sẽ nảy sinh
do cách chúng ta sống? Chúng ta thẩm định như thế nào về
những gì những gì chúng ta đang làm? Mọi việc làm, mọi
lời nói của chúng ta đều gây ra hậu quả, vì chúng ta là
bộ phận của một hệ thống. Mỗi người đang ngồi đây
đều là một bộ phận của một hệ thống, của toàn bộ
vũ trụ.. Chỉ có một hệ thống và chính bạn là một
phần của hệ thống đó. Mọi hành vi của bạn đều tác
động đến vũ trụ này. Bạn có thể nghĩ,
"Tôi làm được gì mà ảnh hưởng đến sự chuyển động
của các hành tinh và các giải ngân hà?" Có lẽ rất ít
tác dụng, nhưng theo nguyên lý tương quan tương tác, thì
mọi hành vi bạn thực hiện đều ảnh hưởng đến tất
cả mọi thứ khác. Nếu các bạn không thể nhận ra điều
đó trong toàn khối của nó, thì chắc hẳn bạn có thể nhìn
ra được điều đó trong căn phòng này. Bất kỳ điều gì
bạn làm ở đây tối nay đều ảnh hưởng đến mọi người
khác. Ðiều gì tôi làm đang ảnh hưởng đến bạn đó. Ðiều
chúng ta đang làm sẽ ảnh hưởng đến bên ngoài kia. Bất
kỳ điều gì chúng ta làm đều có ảnh hưởng về lâu về
dài đến mọi sự việc khác. Vậy thì khi chúng ta ăn
thịt, cũng sẽ tất yếu gây ra những hậu quả. Những
hậu quả đó là gì? Chúng ta đang trực tiếp hỗ trợ cho
một kỹ nghệ mà công việc sản xuất của họ là chăn nuôi
súc vật, thường thì với những điều kiện vô cùng
khủng khiếp, chỉ với một mục tiêu đó là giết mổ.
Thịt được bán trong những gói nhỏ gọn, để chúng ta mua
và ăn. Ý định của chúng ta khi nấu và ăn món thịt không
phải là giết hại (sát sanh) thú vật - tôi không nghĩ ai
trong chúng ta lại có ý định đó, tuy nhiên, qua hành vi mua,
nấu và ăn, chúng ta vẫn gián tiếp hỗ trợ cho việc giết
hại (sát sanh) con vật đó. Đây không phải là hành vi sát
sanh, mà là hỗ trợ cho hành vi sát sanh đó. Hiểu như vậy, một
số cá nhân có thể quyết định không hỗ trợ cho hành vi
sát sanh. Họ không muốn là một phần của sự giết hại
đó, họ muốn tách ra ngoài hệ thống giết hại đó. Nếu
có một lý do vì sao người Phật tử nên có quyết định
chỉ ăn toàn rau đậu, quyết định đó nên đặt cơ sở trên
viễn tượng này. Chỉ có một lý do hợp lý nhất, tốt
nhất, đó là lòng bi mẫn - nghĩa là không muốn gây đau
khổ cho bất kỳ một ai ngoài sự bắt buộc. Ăn chay là một vấn đề
chọn lựa và trách nhiệm của mỗi cá nhân, không thể là
sự ép buộc, nhưng rất đáng khen và rất phù hợp với giáo
lý của Ðức Phật. Thế nhưng, bạn chỉ dừng lại ở đó
thôi sao? Hiện giờ bạn có thanh tịnh chưa? Bạn vừa trở
thành một người ăn chay, nhưng bạn đã là người "vô
tội vạ" chưa? Bàn tay của bạn đã sạch chưa? Tôi xin báo cho bạn
biết bao lâu bạn còn sống trên hành tinh này, bao lâu bạn
còn là thành viên của hệ thống đó, bàn tay của bạn sẽ
không bao giờ thanh sạch cả. Khi bạn ăn bất kỳ món gì,
bạn luôn luôn góp phần tạo ra cái chết và sự tàn phá,
cho dù bạn có làm gì đi chăng nữa. Bạn có thể ăn toàn
rau đậu, nhưng bạn vẫn góp phần tạo ra sự tàn phá vì
bạn là một phần của hệ thống này. Bạn không thể
trốn thoát. Bạn đang ngồi trên ghế, thế thì ghế từ đâu
mà ra? Ghế lại kê trên tấm thảm, thảm từ đâu mà có? Còn
điện khí, máy điều hòa, căn nhà này, xe ô tô, xe lửa, xe
buýt, tất cả những thứ đó từ đâu mà ra? Tất cả
những thứ đó đều có tương quan với nhau. Vạn vật đều
có quan hệ với nhau. Chúng ta luôn dự phần vào toàn bộ
một hệ thống, và khi nào chúng ta còn sống trên đời này,
chúng ta luôn luôn dự phần đóng góp vào đó. Chúng ta sử
dụng máy điều hòa, chúng ta sử dụng điện năng, điều
đó có nghĩa là chúng ta đang hỗ trợ cho công việc xây
dựng các đập nước, dẫn đến tàn phá nhiều cánh rừng.
Không còn gì phải nghi ngờ nữa. Các bạn ai cũng đang mặc
y phục, đang đi giầy, có phải không? Nếu không đi giầy
da thì bạn đi giầy nhựa. Thế ai chế tạo ra giầy nhựa?
Hẳn phải là các công ty hóa chất, các công ty này cũng là
đã là nơi chế ra bom na-pan và các chất độc. Các bạn đang
hỗ trợ cho họ đấy! Như tôi đã nói, việc
huấn luyện tu sĩ là phải biết chấp nhận những gì người
khác cho mình và không đòi hỏi điều gì đặc biệt cả.
Hầu hết các thực phẩm chúng tôi nhận được là đồ
chay, nhung không phải là tất cả (nghĩa là cũng có đồ
thịt cá). Chính vì thế mà tôi vẫn có thể bị kết án là
đóng góp (vào việc sát hại). Tôi phải thú nhận là bàn
tay của tôi không trong sạch gì cả. Ngay cả nếu như tôi là
người ăn chay, như tôi có thể hành trì trong đa số thời
gian sống, thì bàn tay của tôi vẫn không trong sạch. Thế
bạn nghĩ hoa quả và rau đậu từ đâu mà có? Làm sao
những vườn rau lại sạch bóng không còn bất kỳ thứ cây
rừng và bụi rậm nào cả? Cây rừng và bụi rậm đó đã
biến đi đâu? Các cánh đồng bao la trồng lúa mì, ngô bắp
và cây ăn trái ... điều gì đã xảy đến với những cánh
rừng nguyên sinh ngày xưa? Chúng đã biến mất với những
luống cầy và thuốc hóa học xịt liên tục. Chúng ta đang
hưởng một lượng rau quả tuyệt vời. Nhưng để có
những giỏ rau quả tuyệt vời đó, các bạn đã phải xử
lý một số sâu bọ côn trùng. Ở mức độ cá nhân,
nếu bạn thực sự có lòng từ bi, nếu bạn thực sự khôn
ngoan, bạn có thể phục vụ tận khả năng của bạn để
giảm thiểu sự tổn hại. Nhưng khi bạn xét rằng hiện đang
có 6 tỷ người trên hành tinh này, đó là một lượng người
khổng lồ để nuôi ăn và nuôi mặc, thì như thế chắc
hẳn đã tạo ra biết bao nhiêu là sự hủy hoại, trực
tiếp hay gián tiếp. Ðời sống là như thế đó! Những gì tôi đang trình
bày ở đây không dựa trên thuyết định mệnh. Những điều
đó chỉ đơn giản giúp chúng ta ý thức được thực tế mà
thôi. Trong hiện trạng này, tất cả chúng ta có thể và
phải xem xét cẩn thận điều gì chúng ta đang làm, chúng ta
đang sống ra sao, chúng ta đang tiêu thụ những gì. Chúng ta
đang góp phần vào cái chết và sự hủy hoại ra sao? Ðây
không chỉ là chuyện ăn chay. Thật đáng trân trọng biết
bao nếu ta ăn chay một cách thích hợp, và như tôi đã trình
bày, là phải hợp với giáo lý của Ðức Phật, nhưng còn
phải làm nhiều việc hơn thế. Bước đi
thận trọng và dè dặt. Ngay cả nếu như chúng
ta không ăn chay, chúng ta cũng còn rất nhiều điều phải làm.
Ngày nay chúng ta đang bắt đầu hiểu ra vấn đề. Chúng ta
không thể tiếp tục tiêu thụ nhiều hơn, không thể đòi
hỏi nhiều hơn nữa, ước muốn có được đủ thứ, càng
nhiều càng tốt và không thể kỳ vọng ở cái hành tinh
hữu hạn này với những tài nguyên hữu hạn của nó có
thể cung cấp cho chúng ta đủ mọi thứ. Một trong những
lời dạy căn bản của Ðức Phật đó là hãy bằng lòng
với những điều nhỏ bé. Ðiều này không có nghĩa là hãy
nhịn đói đến chết, đó là chỉ vấn đề hài lòng,
biết đủ, với những gì bạn đang có, đừng để liên
tục bị ám ảnh kiếm được càng nhiều càng tốt, đây chính
là hội chứng của xã hội tiêu thụ ngày nay, có phải không?
Ða số chúng ta, những người trong xã hội Tây Phương đều
đau khổ về điều đó. Tôi có một thiền sinh
người Mỹ luôn phàn nàn than trách vì ở đây, tại nước
Úc này, các loại thức ăn quá hạn chế. Cô ta nói,
"Ở đây quý vị chỉ có ba loại sô-cô-la, trong khi đó
ở Mỹ, chúng tôi có đến 20 loại khác nhau". Hai mươi
loại sô-cô-la và một trăm hai mươi thứ kem lạnh khác nhau
để lựa chọn - thật là một thành tựu tuyệt vời của
nhân loại, là tột đỉnh của văn minh con người! Ðây chính
là tiêu thụ chủ nghĩa, trong đó có chứa các cụm từ
"thêm nữa đi", "nữa đi, nữa đi, và nữa đi".
Lúc nào cũng đòi thêm nữa, mà không thấy nhấn mạnh vào
chữ "mãn nguyện, hài lòng, vừa đủ". Các bạn có thể nhận
ra xã hội này sẽ đi về đâu, với hội chứng con ma đói
- ngạ quỷ - luôn luôn muốn có được nhiều hơn, không bao
giờ biết thỏa mãn. Nó đang hủy diệt toàn bộ hành tinh này.
Hành tình này rất hữu hạn, các hậu quả đó sẽ rộng
lớn vô cùng. Một con ma đói chắc là không mấy nguy hiểm,
nhưng nếu một khi chúng ta đạt đến hàng triệu con ma đói
đó, lòng ham muốn có được càng nhiều càng tốt này sẽ
thiêu rụi toàn bộ hành tinh chúng ta. Nó đang tàn phá thế
giới với một mức độ đáng báo động. Ðức Phật đã chỉ ra
một nguyên lý căn bản, đó là: - lòng tham thủ là
nguồn phát sinh ra đủ mọi vấn đề, và chẳng bao giờ có
thể thỏa mãn nếu cứ chạy theo nó. Sự mãn
nguyện, thỏa mãn với những nhu cầu tối thiểu là vô cùng
hệ trọng. Ðương nhiên đây phải là một phán đoán của
riêng mỗi cá nhân. Ðức Phật không thể ngồi xuống đây
và dạy: "Tôi chỉ phân phối có 20 gam phô-mai cho mỗi
người mỗi ngày mà thôi." Ðiều đó thật là khôi hài!
Ðức Phật là một nhân vật đã được giác ngộ và Ngài
cũng muốn mọi người được giác ngộ giống như Ngài, và
trở nên có trách nhiệm hơn. Ðức Phật không tước trách
nhiệm khỏi bạn bao giờ, điều này tùy thuộc vào mỗi cá
nhân. Ngài chỉ đưa ra những hướng dẫn mà mỗi người chúng
ta phải tận dụng lấy, qua suy gẫm về cuộc sống của mình.
Hãy cân nhắc những gì chúng ta đang làm, những hậu quả
của chúng, và nhận lãnh trách nhiệm. Chúng ta đang sẵn sàng
từ bỏ bao nhiêu? Mỗi người trong chúng ta đều phải tìm
cho ra giới hạn của mình. Ðối với một số người có
thể là một chiếc xe ô tô, với người khác có thể là
hai chiếc. Một số người khác có lẽ chỉ muốn có mỗi
một chiếc xe đạp mà thôi. Ðây chính là thẫm định nhu
cầu của mỗi người chúng ta. Chúng ta càng nhấn
mạnh đến lòng từ bi và hiểu biết những hậu quả của
các hành động, chúng ta càng có thể thực hiện được
những sự chọn lựa đúng đắn, để đơn giản hóa, để
phát triển thêm lòng mãn nguyện và hiểu được thế nào là
điều độ (tiết độ). Điều này còn quan trọng hơn là
chỉ biết có ăn chay. Ăn chay chỉ là một yếu tố, một khía
cạnh trong một bức tranh toàn cảnh. Toàn cảnh còn rộng
lớn hơn rất nhiều, vì phải đề cập đến số lượng chúng
ta tiêu thụ, ngay cả hoa quả, rau đậu, quần áo, giầy dép,
năng lượng, không khí, nhiên liệu và đủ thứ khác... vì
mọi nhu cầu tiêu dùng đều gây ra hủy diệt. Ðây là cách sống
của đạo Phật: hãy bắt đầu vun trồng lòng từ bi và
hiểu biết, và từ đó ta bắt đầu định hướng lại
cuộc sống chúng ta bằng cách thực hiện những lựa chọn
đúng đắn. Tùy mỗi cá nhân chúng ta quyết định xem mình
phải tiến tới bao xa, bước những bước đi rất thận
trọng trên hành tinh này, để cho cuộc sống chúng ta không
phải là nguyên nhân của biết bao nhiêu sự hủy diệt không
cần thiết. Đây là một sự kiện
cá nhân. Các bạn không làm được gì tốt nếu bạn đi vòng
quanh và chỉ tay điểm mặt người khác rồi đòi hỏi họ
phải ngưng, "Quí vị nên ngưng dùng các loại giấy vệ
sinh được tẩy trắng (vì chúng phá hoại môi sinh), nếu không
thì chúng tôi sẽ bắt bỏ tù quý vị". Nếu xã hội
tiến tới điểm cực đoan này, thì cấm đoán sản phẩm đó
cũng là một điều tốt, nhưng bạn không thể làm như thế
cho đến khi nào có đủ số người thông hiểu và tán đồng
nhu cầu cần phải làm như thế. Mục đích chính của đạo
Phật là luôn luôn khuyến khích lòng từ bi và trí tuệ.
Từ đó, mọi việc khác sẽ xảy đến tương hợp với sự
đáp ứng của từng cá nhân và sự hiểu biết trách nhiệm
của từng người. Các bạn có thể nhận
ra lý do tại sao tôi tin tưởng rằng Ðức Phật lại không
chủ trương bó buộc các Phật tử phải ăn chay, vì đó không
phải là cách thức Ngài tiếp cận vấn đề. Mối bận tâm
chính của Ngài là đề ra một tiêu chuẩn cơ bản, nhưng
ngay cả tiêu chuẩn đó cũng là tự nguyện. Từ đó, tùy
ở bạn có nên tuân thủ theo hay không. Tùy ở mỗi cá nhân,
qua lời dạy của Ngài, mà trở nên từ bi hơn, khôn ngoan hơn,
nhận lấy trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình. Cho dù
bạn có hay không có đề ra một luật lệ nào, điều quan
trọng là người ta có tuân thủ theo luật đó hay không. Ðường
hướng của Ðức Phật, mục đính chính của giáo lý của
Ngài, là khuyến khích để mọi người hiểu biết hơn, từ
bi hơn, giúp mỗi cá nhân có thể thực hiện được những
sự lựa chọn thích hợp - không chỉ trong việc ăn chay, nhưng
còn trong nhiều việc khác nữa. Ăn chay là một sự
lựa chọn rất cao thượng, nhưng sự lựa chọn đó phải
phát xuất từ một vị thế đúng - phát xuất từ lòng bi
mẫn và sự hiểu biết. Sau khi có một sự lựa chọn như
vậy, xin đừng làm ô uế nó qua lòng ác cảm đối với
những người không ăn chay. Bởi vì nếu như thế, sự tốt
lành phát sinh từ việc lựa chọn đó sẽ trở nên băng
hoại, và cách này hay cách khác bạn sẽ trở nên tệ hơn
những người không ăn chay. Chúng ta thực hiện sự lựa
chọn này xuất phát từ lòng từ bi. Nếu chúng ta ở vào
vị thế phải giải thích (về sự chọn lựa), chúng ta
giải thích cho người khác theo lý trí và lô-gích, không
phải bằng cách chỉ trích họ vì họ không ăn chay. Tôi kính trọng những
người ăn chay. Họ có hành động rất cao thượng; đó là
một cử chỉ xuất ly. Ăn chay chỉ là chuyện nhỏ nhưng cao
thượng, và rất hòa hợp với những lời dạy của Ðức
Phật về lòng bi mẫn và sự hiểu biết. Nhưng không được
dừng lại ở đó. Ngay cả khi bạn không ăn chay, cũng xin đừng
nghĩ là không còn gì để cho bạn thực hiện được nữa.
Có rất nhiều điều để cho bạn thực hiện trong cuộc
sống này, trong cách nói năng của bạn, trong hành động
của bạn, trong mọi sự việc. Xin hãy là người hành động
thận trọng, xin hãy là người không tạo thêm đau khổ cho
nhân loại và cho mọi sinh linh trên hành tinh này. Một khi chúng
ta có ý định nỗ lực đi theo chiều hướng đúng đắn đó,
chúng ta là những đệ tử tốt của Ðức Phật. Mỗi người
chúng ta phải bước đi với nhịp chân của chính mình. Nguyên tác:
"Buddhism and Vegetarianism", Ajahn Jagaro (1994). Tỳ kheo
Thiện Minh dịch. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02
| 03 | 04 | 05 | 06
| 07 | 08 | 09
| 10 [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
updated: 11-04-2002