BuddhaSasana Home Page Vấn đề ăn
chay, ăn mặn trong đạo Phật Phật giáo và vấn
V.A. Gunasekara Giới thiệu: Tiến sĩ
Victor A. Gunesekara là một cư sĩ người Úc gốc Tích Lan.
Ông là giáo sư của Đại học Queensland, và là Tổng thư
ký Hội Phật Giáo bang Queensland, Úc châu. Ông viết nhiều
sách về đạo Phật và đã được xuất bản ở Úc,
Singapore, và Sri Lanka. -ooOoo- Nội dung 1. Ghi chú tựa đề. 1. Ghi chú tựa đề Bài viết này xuất
hiện lần đầu tiên trên tạp chí Vìmamsà của Hội Phật
Giáo Queensland vào tháng 10 năm 1983. Rồi sau đó được in
lại trên Tạp chí Người Phật Tử Trẻ (Young Buddhist) tại
Singapore. Sau đó lại được phát hành trên loạt bài về
Phật Giáo của Hội Phật Giáo Queensland, và các bản in không
còn lưu hành nữa. Xét thấy có nhiều người rất quan tâm
đến chủ đề này chúng tôi lại cho tái xuất bản trong
một tập sách nhỏ. Ðây cũng là cơ hội
để có thể thực hiện một số thay đổi văn phong, thêm vào
một vài tư liệu bổ sung và cước chú. Tuy nhiên, không có
thay đổi nào về các luận cứ trình bài trong tập sách. 2. Luật Tam Tịnh Nhục của
Đức Phật Ăn chay là một sự
thực hành đang phát triển trong xã hội hiện đại và một
số người nhiệt tình mới nổi lên đã chỉ tay phê phán
nhắm vào Ðức Phật là nguời đã sử dụng thịt như được
ghi chép lại, và nhắm cả tới những Phật tử hiện đại
đã sử dụng thịt. Ðây cũng là cơ hội đáng để chúng
ta nghiên cứu lại thái độ của Ðức Phật về việc sử
dụng thịt cá. Trước tiên chúng ta sẽ nói rõ giới luật
Ðức Phật đã để lại có liên quan đến việc sử dụng
thịt cá, và rồi sẽ điều tra nghiên cứu các bài phân tích
về giới luật này. Mặc dù giới luật của Ðức Phật đã
được công bố rất nhiều lần, có rất ít bàn luận về
lý lẽ cơ bản của qui luật này. Chính vì điều đó mà bài
viết này được tạo ra. Có đôi điều gây
tranh cãi về thành phần món ăn cuối cùng, "sùkaramaddava",
mà Ðức Phật đã dùng. Một số người (tin theo lời bình
luận của ngài Buddhaghosa - Phật Âm) cho là Ngài đã dùng
thịt heo, một số người khác (tin theo trường phái Bắc Tông
- Mahayana) lại cho đó là dược liệu hay chỉ là một loại
nấm rừng. Tuy nhiên còn có một số sự kiện khác được
ghi lại về Ðức Phật cũng như các Tỳ Kheo tiên khởi đã
ăn thịt. Chi tiết cổ xưa nhất liên quan đến vụ này được
ghi trong câu chuyện viết về việc "cải đạo"của
vị Tướng Quân Siha đã được ghi trong Luật Tạng (Mahàvagga,
VI, 31-2). Vị tướng quân này đã mời Ðức Phật và các
vị Tỳ Kheo của ngài dùng một bữa trai Tăng trong đó
thịt đã được cúng duờng. Những người Kỳ-na giáo vốn
đã được hưởng sự bảo trợ đặc biệt của viên tướng
này từ trước, đã lan truyền câu chuyện là vị Tướng Quân
Siha đã giết một "con vật béo" (thùla pasu) vào
dịp đó và chính Ðức Phật đã cố ý tham dự bữa tiệc
đó, và như thế, Ngài đã phạm phải một hành vi gây hậu
quả nghiệp chướng nghiêm trọng (pàticcakamma). Trong
thực tế, con vật đã không được giết mổ chỉ để dành
riêng cho dịp đó, nhưng thịt đã được mua ở chợ. Ðức
Phật đã tận dụng cơ hội này, Ngài đã đề ra một
giới luật có liên quan đến việc sử dụng thịt và cá. Ðức Phật đã nói
với chư tăng: "Quý thầy không được cố ý sử dụng
thịt đã được giết mổ chỉ dành riêng cho quý thầy; Như
Lai chỉ cho phép sử dụng thịt và cá không bị phiền trách
[1] trong ba trường hợp sau đây: không thấy, không nghe và
không nghi ngờ cả " (Luật I, 233). Chúng tôi sẽ đề
cập đến giới luật này khi nói về luật Tam Tịnh Nhục
của Ðức Phật quy định về ăn thịt [2]. Ba điều kiện này
đòi hỏi không được chứng kiến công việc giết mổ, không
được nghe nói thịt đó được giết mổ (để cung cấp
cho người trong cuộc), và ngay cả khi không có thông tin như
vậy thì cũng không có gì phải nghi ngờ về hai trường
hợp trên (nghĩa là mắt, tai và tâm ý phải thõa mãn được
"sự vô can" về món thịt đó). Với sự căn bản của
luật Tam tịnh nhục đó, các kinh văn Pàli đã phân biệt có
hai loại thịt, gọi là "uddissakatamasa" và "pavattamasa".
Danh từ thứ nhất - uddissakatamasa - được dùng để
chỉ loại thịt được giết mổ chỉ dành riêng cho một người
tiêu thụ nào đó. Loại thịt này không được luật Tam
tịnh nhục cho phép ăn. Cho dù không xác minh, một tiêu
chuẩn thô sơ có thể dùng để xác định loại thịt này là
do người giết mổ đã có ý định rõ ràng chỉ dành riêng
cho một người cá biệt nào đó sử dụng, và nếu như người
đó sử dụng thì không những người đó cùng chia sẻ
thịt không mà thôi, mà còn chia sẻ cả những hậu quả
nghiệp chướng gắn liền với việc cung cấp loại thịt đó.
Danh từ thứ hai được dùng để chỉ một loại thịt khác
được phép dùng - pavattamasa - theo nghĩa đen được
hiểu là "loại thịt đã sẵn có" (bà Horner, Hội
Thánh điển Pàli, dịch là "thịt có sẵn trong
tay"). Từ đó, đã có một số vụ tranh cãi để xem
những loại thịt nào thuộc vào loại "loại thịt đã
sẵn có". Một số người giải thích cho là đó là
loại thịt những con vật bị giết một cách tình cờ, hay
bị các con vật khác giết chết. Nhưng trong thực tế nó
gồm cả thịt được bán ở ngoài thị trường. Ðiều này
được làm rõ bằng một sự kiện ghi chép trong tạng
Luật, kể về bà Suppiyà sai tớ gái ra chợ để mua thịt
về (nấu súp cho một vị sư ốm nặng) và người đầy
tớ gái về cho bà biết là không thể kiếm đuợc loại
thịt đã giết mổ sẵn vì "hôm nay không phải là ngày
giết mổ". Ðiều này cho thấy thịt giết mổ bán ở
ngoài chợ được coi như là loại thịt pavatta-masa, và
do đó là loại thịt được phép sử dụng. Loại thịt này
được xem như là "vô can". Vì loại này thuộc
dạng nghiệp chướng trung hòa đối với người tiêu dùng
(nhưng đương nhiên người giết mổ và cung cấp phải
chịu trách nhiệm nghiệp chướng). Chúng ta sẽ đề cập đến
hai loại thịt này như là "thịt nghiệp tác"
(karmically effective) và "thịt nghiệp trơ"
(karmically neutral, "thịt có nghiệp trung tính, vô
can") [3]. Một phiên bản ngắn về sự kiện này đã
được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh. Trong kinh Jivaka thuộc
Trung Bộ Kinh, cùng một giới luật như trên đã được
giải thích cho y sĩ Jivaka. Bài kinh này đã xác định với
nhiều lời lẽ về những nghiệp ác đi kèm theo việc vi
phạm giới luật Tam Tịnh Nhục. Giới luật này đã được
tái khẳng định khi Ðức Phật đã từ khước lời yêu
cầu của Đề-bà-đạt-đa để đem việc ăn chay vào giới
luật tu sĩ [4]. Cũng ghi nhận rằng luật tam Tịnh Nhục cũng
thấy các tạng Luật của các bộ phái nguyên thủy khác, như
bộ phái Pháp Tạng và Hữu Bộ (tuy nhiên không thấy viết
trong kinh tạng của họ). Vi thế, có thể xem luật Tam Tịnh
là một giới luật đích thực của Ðức Phật. Sự phân biệt giữa
hai loại thịt nghiệp tác và nghiệp trơ được dựa trên
những cơ sở đạo đức. Tuy nhiên cũng còn có những luận
cứ khác cho việc ăn chay, sẽ được đề cập đến trong
phần 4 dưới đây. Ðức Phất cũng đã gán cho tầm quan
trọng ít nhất vào một trong những lý do đó. Dựa trên
những cơ sở này mà thịt của mười sinh vật sau đây bị
cấm sử dụng, đó là: thịt người, thịt voi, ngựa, chó,
rắn, sư tử, cọp, beo, gấu và linh cẩu. Những bản văn
chỉ đơn giản công bố những loại thịt đó là không
"thích hợp" mà không đưa ra những phân tích chi
tiết tại sao mười loại thịt lại là loại thịt bị
cấm. Nhưng chúng ta có thể đoán rằng cấm như vậy vì đã
được công chúng đồng ý như thế. [5] Dựa theo quan điểm
loại thịt nghiệp trơ mới được phép sử dụng trong
cộng đồng Phật giáo, Ðức Phật đã yêu cầu không được
sử dụng bất kỳ loại thịt nào mà không tìm hiểu rõ ràng
căn nguyên ("na ca bhikkhave appativekkhitvà masam
paribhunjitabbam"). Thiếu hiểu biết không thể là lý
do để tự bào chữa được nếu như một loại thịt sai
quy định đã được sử dụng. Ðây là trách nhiệm của người
sử dụng để xác định loại thịt nào là thích hợp để
tiêu dùng. Những giới luật được đề ra chủ yếu liên
quan đến các vị tăng ni, nhưng cũng được áp dụng rộng
rãi cho toàn thể cộng đồng Phật tử, tu sĩ lẫn cư sĩ. Ngày nay, lối hành trì
tại các quốc gia Nam Tông không giống nhau. Nhìn chung tại
Sri Lanka, các nhà sư chỉ được dùng cá trong các bữa ăn,
mặc dù số các nhà sư ăn chay đang gia tăng. Tại Thái Lan,
dường như người ta thường cúng dường các món có thịt
trong các bữa ăn của các vị sư. 3. Quan điểm các tôn giáo khác
về việc ăn thịt. Những quan điểm của
Ðức Phật về ăn thịt phải được xét đến trong khung
cảnh thời đại của Ngài. Các bản văn tôn giáo Ấn độ
sớm nhất, như Vệ-đà, lại không cấm sử dụng thịt hay
giết mổ súc vật. Thực vậy, một số lớn các nghi thức
sát tế đã trở thành qui luật, đặc biệt là nghi thức tàn
nhẫn Asvamedha đã dần dà được thừa nhận là cách tỏ rõ
sức mạnh của các nhà cầm quyền đang gia tăng. Thoạt đầu mang tính
thăm dò, chính những người Upanishads đã đề ra nguyên
tắc "không gây tổn thương" (ahimsà - vô
hại) vào cuộc sống tôn giáo Ấn độ. Nhưng ngay cả nghi
thức sát tế cho các thần linh cũng được cho phép, tuy nhiên
không phải trên qui mô được thừa nhận dưới thời Vệ-dà
sau này. Nơi những người Upanishads đầu tiên, như Chandogya,
lại cho phép sử dụng thịt đặc biệt nếu một phần
thịt đó đã được cúng cho các vị thần linh. Chỉ sau
thời Đức Phật, một số người theo đạo Hindu (Ấn độ
giáo, Bà-la-môn giáo) mới chấp nhận việc ăn chay như một
luật chung. Nhưng giới luật này cũng không phổ biến mấy
và một số giáo phái Hindu như những người theo việc thờ
cúng Tara lại dính líu đến nghi thức giết mổ và sử
dụng thịt. Tuy nhiên đa số tín đồ Hindu lại là người
ăn chay, hay ít nhất cũng tránh sử dụng một vài loại
thịt, như là thịt bò. Chính nơi các người
Kỳ-na giáo, chúng ta thấy rõ sự khẳng định đặc biệt
đối với nguyên tắc vô hại - ahimsà. Họ nghiêm
cấm giết hại tất cả các hình thức sự sống, ngay cả
những sinh vật cực nhỏ. Toàn bộ nền đạo đức của người
Kỳ-na bao gồm hàng loạt những giới luật và các điểu
khoản liên quan đến qui luật Ahimsà. Thực vậy, tám
điều kiêng cữ cơ bản (mùlaguna) người cư sĩ
Kỳ-na thường phải tuân thủ liên quan đến kiêng cữ:
thịt, rượu, mật, và năm loại quả vải đặc trưng. Bảy
loại thức ăn sau bị cấm sử dụng vì có thể tìm thấy
một số sinh vật nhỏ sống trong đó. Thêm vào đó, toàn
bộ một loạt những giới luật khác cũng phải được tuân
thủ, thí dụ như không được dùng bữa sau khi mặt trời
lặn (vì bếp lửa nấu ăn có thể thu hút một số côn trùng
đến thiêu thân.) và không được uống nước chưa được
lọc (rất có thể trong nước đó có chứa một ít sinh
vật). Những người thường dân Kỳ-na còn loại bỏ cả công
việc trồng tỉa ra khỏi những nghề tạo"sinh kế hợp
lý" của họ, vì canh nông cũng đưa đến phá hoại sự
sống. Rất nhiều người chỉ làm nghề thương mại và đổi
chác. Các giới luật dành cho các tu sĩ đạo Kỳ-na (muni)
còn nghiêm khắc hơn nhiều. Một số giáo phái còn tránh không
cả mặc quần áo vì sợ có thể hủy diệt các loại ký
sinh trùng sống trên thân thể con người. Một số các tu sĩ
khác còn thi hành việc tuyệt thực đến chết (sallekhana)
vì không có loại thực phẩm nào có thể thực sự không gây
hại đến các thú vật. (xin đọc phần dưới đây bàn về
những luận chứng về ăn chay). Trong số các Phật
tử, một số nhóm theo phái Bắc Tông hết mực tán dương
việc ăn chay. Ðã thấy xuất hiện trong kinh Đại Niết-bàn
phiên bản chữ Sanskrit, lời tuyên bố sau đây được gán
cho là do Ðức Phật nói: "Như Lai ra lệnh toàn thể các
đệ tử từ nay về sau không còn được tham gia vào các
bữa ăn có thịt." Dĩ nhiên, lời tuyên bố này không
thấy xuất hiện trong phiên bản tiếng Pàli của bài kinh có
cùng tên. Một điều được biết rõ ràng là có nhiều tuyên
bố khác nữa cũng đã được thêm vào bản kinh Sanskrit này
dựa vào uy tín của Ðức Phật sau khi Ngài đã qua đời.
Sự kết án việc ăn thịt được thấy trong các kinh điển
khác của Bắc Tông, như trong phiên bản của họ về kinh
Phạm Võng, và quan trọng hơn là kinh Lăng Già. Trong chương
Tám của kinh này đã được dành trọn vẹn cho vấn đề ăn
thịt, và có đến 24 luận cứ được đưa ra chống lại
việc ăn thịt. Một vài luận cứ tiêu biểu được viện
dẫn chống lại việc ăn thịt trong kinh Lăng Già là: 1. Những thú vật
hiện nay có thể là bạn bè họ hàng với chúng ta trong quá
khứ. Trong kinh này, Đức
Phật đã chỉ vẽ cho Bồ Tát Đại Huệ như sau:"Không
có loại thịt nào lại tinh khiết, xét theo ba cách thức sau
đây: không được dự tính trước, không được yêu cầu,
và không bi ép buộc; chính vì vậy mà nên tránh không ăn
thịt." Thật rõ ràng đây là
câu trả lời của phái Bắc Tông về luật Tam Tịnh Nhục
của Ðức Phật đã đề ra trong kinh Pàli và trong kinh điển
của các bộ phái nguyên thủy khác. Nhưng ba điều kiện đề
cập đến ở trên không ăn khớp với những điều kiện đã
được Ðức Phật qui định trong các kinh điển Pàli. Cho dù
có rất nhiều lời phê phán trong kinh điển về việc ăn
thịt, những người theo phái Bắc Tông nhìn chung trong thực
tế cũng vẫn tiêu thụ thịt. Đặc biệt điều này hoàn toàn
đúng nơi các Phật tử Tây Tạng. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã
đưa ra lời biện hộ cho rằng đó là vì đất đai và khí
hậu tại Tây Tạng khô cằn và khắc nghiệt, không có lợi
cho việc trồng tỉa. Nhưng điều này cũng là do những ảnh
hưởng của môn phái Mật Tông trong đó, thịt và cá là hai
trong số 5 loại "thịt" mà người thuộc phái Mật
tông thường ham mê thích thú. Như chúng ta đã thấy,
phái Nam Tông cố gắng tuân giữ giới luật của Ðức
Phật. Duy chỉ có một ngoại lệ đáng chú ý nhất đó là
cuộc ly khai của Ðề Bà Ðạt Ða, trong đó Ðức Phật đã
thẳng thắng từ khước ngay việc đưa ăn chay thành giới
luật. Tuy vậy một số tàn dư của của cuộc ly khai bởi
Ðề Bà Ðạt Ða vẫn thấy xuất hiện nơi một vài phái Tàpasa
trong Nam Tông. [6] Các tôn giáo thờ độc
thần đã xuất hiện tại vùng Trung Ðông (Do thái giáo, Ky-tô
giáo và Hồi giáo) đã không phát triển nền đạo đức
"vô hại" cho loài súc vật. Cả Do thái giáo lẫn
Hồi giáo đều qui định dùng súc vật làm tế cho Thượng
đế. Và họ còn qui định cả cách thức giết thịt súc
vật làm thức ăn cho con người (một cách thức thường
rất dã man). Theo Kinh Thánh, ngay sau khi tạo dựng nên trời
đất muôn vật, Thượng đế đã ra lệnh cho con người
phải ăn rau đậu, tuy nhiên huấn thị này không tồn tại
được lâu và đã bị hủy bỏ sau cơn "Lụt đại
hồng thủy" thần thoại. Giờ đây, con người được
phép giết và ăn thịt kèm theo một số giới hạn thật là
kỳ quặc có liên quan đến việc gây đổ máu. Ðó là cơ
bản của một phương pháp giết mổ dã man được người
Do thái và người Hồi giáo sử dụng. Kinh thánh Do thái và
Ky-tô giáo thừa nhận sự "thống trị" mà Thượng
đế đã đặt lên thú vật và môi trường, và đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng trong lịch sử. Chúng ta sẽ thấy
Phật giáo giữ một vị thế trung dung giữa lý tưởng Vô
hại của Kỳ-na giáo và sự bỏ rơi hoàn toàn trong vị
thế của Do thái - Ky-tô - Hồi giáo. 4. Phân tích
về giới luật của Ðức Phật.
Ðâu là lý lẽ căn
bản của giới luật Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật về
việc ăn thịt? Không thể cho là bàn tay của người tiêu
thụ loại "thịt nghiệp trơ" là hoàn toàn tinh
khiết, đặc biệt nếu như ta ra chợ mua thứ thịt đó như
trường hợp của hầu hết những người tiêu thụ. Chính vì
luật thị trường cho thấy là nếu không có cầu thì cũng
không có cung [7]. Vấn đề ở đây là mức độ can dự vào
hành vi sát sinh nếu là thịt thuộc bất kỳ loại nào được
tiêu thụ (ngoại trừ khi con vật bị được giết một cách
vô tình, hoặc con vật chết một cách tự nhiên.) Chúng ta có
thể xác định được nhiều mức độ can dự của người
tiêu thụ với hành vi sát sinh: * Mức độ trực tiếp
nhất là khi người tiêu thụ trực tiếp giết con vật để
lấy thịt sử dụng. * Mức độ can dự
thứ hai là khi người làm công của ai đó dưới quyền
trực tiếp của người tiêu thụ được yêu cầu thực
hiện việc sát sinh đó. Các chi tiết khác nhau về mức độ
can dự này là: khi người tiêu thụ dùng bữa với món
thịt do người bạn gửi tặng hay một người trong gia đình
lần lượt hoặc trực tiếp sát sinh hoặc tạo cớ cho con
vật trực tiếp bị giết. Cả hai mức độ can dự nêu trên
đều nằm ngoài phạm vi Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật và
đều bị nghiêm cấm đối với cộng đồng Phật tử. * Mức độ can dự
thứ ba là khi người tiêu thụ mua thịt ở chợ. Hình như
đức Phật đã xem mức độ này là phù hợp với luật Tam
Tịnh Nhục của Ngài, và mức độ này được xem như
"nghiệp trơ" hay "nghiệp trung tính". Những
lý do thừa nhận mức độ dính líu thứ ba này với hành động
sát sinh đã không được trực tiếp bàn đến trong Thánh điển.
Cho nên, các lý do đó chỉ được phỏng đoán từ vị thế
của đức Phật nói chung. Đó là lý lẽ chúng tôi hy vọng
sẽ được trình bày trong chương này. Trước hết, tương
quan nơi mức độ can dự này trong việc sát sinh đối với
giới luật đầu tiên trong Phật giáo (kiềm chế không được
sát sinh) phải được khai triển. Nghiệp gắn liền với
những hành vi lựa chọn tuyệt đối. Thực vậy, người đồ
tể chỉ giết súc vật đề bán thịt mà thôi, nếu như người
tiêu thụ không mua thịt, chắc hẳn người đó đã không
giết mổ. Nhưng để thực hiện được điều đó, người
đồ tể đã thực hiện một sự lựa chọn tuyệt đối. Không
có cưởng bách nào đối với người đó để trở thành đồ
tể, cũng như người làm nghề nướng bánh hay ngưòi sản
xuất chân nến. Nếu không có người cung cấp và bán thịt
thì người tiêu thụ, nếu như họ muốn tiếp tục sử
dụng thịt, sẽ buộc phải tự mình là chuyện sát sanh, như
vậy họ phải gánh chịu trách nhiệm nghiệp chướng. Chính
vì thiếu sự thúc bách về phía người tiêu thụ, đã
thực sự giải thoát người tiêu thụ thịt khỏi toàn bộ
trách nhiệm nghiệp chướng về hành vi sát sanh, khiến cho
người này có thể mua thịt ngay tại chợ. Thế nên Ðức
Phật đã chủ trương một cách hợp lý cả giới luật đầu
tiên của Phật giáo và giới luật Tam Tịnh Nhục về việc
ăn thịt để cả hai không dẫn đến xung khắc. Luận chứng thuyết
phục nhất về giới luật của Ðức Phật chính là toàn
bộ sự hiện hữu của cõi Ta-bà đều có dính líu đến sát
sanh, bằng cách nầy hay cách khác. Như sẽ được trình bày
ở phần kế tiếp, việc cung cấp thực phẩm cho người ăn
chay cũng có can dự đến việc tiêu diệt sự sống, đôi
khi còn sâu rộng hơn cả việc cung cấp các sản phẩm có
chứa thịt. Một thực tế phủ phàng là cả người ăn chay
lẫn người ăn thịt - từ ngay chính sự hiện diện của
họ trong cõi Ta-bà này - đều tạo ra sự giết hại những
dạng sinh vật khác nhau. Thực vậy, ta không thể nào sinh
tồn mà không gây tàn phá cho sự sống (như các vị tu sĩ
Kỳ-na giáo đã nhận thức được). Ðiều căn bản nhất nơi
giáo lý của Ðức Phật chính là toàn bộ sự hiện hữu luân
hồi đều dính líu đến một vài hình thức giết hại.
Ðó chính là khía cạnh của đau khổ (dukkha), một thực
tế luôn luôn tồn tại khắp nơi. Thay vì phải cố gắng vô
vọng để kết thúc mọi hình thức sát sanh, và biến thế
giới trở nên hoàn hảo theo kiểu đó, Ðức Phật đã tạo
ra một lối thoát khỏi cõi Ta-bà và mọi khiếm khuyết
của nó. Ðiều này bao gồm sự xa lánh những hình thức thô
sơ của tội lỗi, kể cả việc tránh sử dụng "thịt
nghiệp tác", cùng với việc phát triển những yếu tố
khác của Bát Chánh Ðạo. Ðức Phật còn nhấn
mạnh đến những khiếm khuyết luân lý nghiêm trọng hơn là
việc ăn thịt. Một bài kinh điển hình về vấn đề này là
kinh Àmagandha trong Kinh Tập, một trong các quyển kinh nguyên
sơ nhất của bộ Thánh điển Pàli. Trong bài kinh này, một
nhân vật Bà-la-môn ăn chay trường khuyết danh đã đối
diện với Ðức Phật, và ông ta tuyên bố những tội ác
về việc sử dụng thịt và cá. Danh từ "àmagandha"
theo nghĩa đen có nghĩa là mùi hôi thối của thịt cá, và cũng
được dùng để ám chỉ sự ô uế. Trong khi trả lời ông
ta, Ðức Phật đã thốt ra một số vần thơ liệt kê ra
sự ô uế thực sự đang hủy hoại tư cách đạo đức,
chứ không phải là việc ăn thịt cá. Ở phần cuối của
mỗi đoạn kinh, Ngài đều thốt ra cùng một điệp khúc:
"... đấy chính là thứ mùi hôi thối tạo hủy hoại,
chứ không phải chỉ là việc sử dụng thịt mà thôi."
("esàmagandho ni hi mamsabhojanam"). Cách tiếp cận vấn đề
của Ðức Phật được minh chức nơi học thuyết Darwin. Ông
Darwin cho rằng muôn loài vạn vật đều xung đột liên tục
với nhau và chỉ có loài nào mạnh nhất mới tồn tại được.
Theo học thuyết này thì sự sống còn của bất kỳ một
chủng loại nào đều gây ra sự hủy hoại cho bất kỳ
chủng loại nào khác đang tranh dành lấy cùng một không
gian sinh học có giới hạn. Sự sống còn và sự sinh sôi
nảy nở của nhân loại cần thiết phải dính líu đến
sự hủy diệt của vô số sinh vật khác, bất kể chế độ
ăn uống của nhân loại có tên là ăn chay hay ăn mặn. 5.
Những luận chứng về ăn chay
Kế đến, chúng ta
phải xem xét đến ý nghĩa đạo đức và những tác động
khác của chủ nghĩa ăn rau đậu. Có nhiều luận chứng được
đưa ra về vấn đề ăn chay, trong số đó những luận
chứng sau đây cần phải cứu xét: luận chứng đạo đức,
sinh học, sinh thái, và văn hóa - xã hội. * Xét theo quan điểm tôn
giáo thì luận chứng đạo đức là quan trọng nhất và sẽ
được đề cập đến đầu tiên. Nhiều người ăn chay
rất thích thú dùng cơ sở đạo đức cao. Họ cho là khẩu
phần ăn của họ không liên quan gì đến sát sinh và gây đau
khổ cho thú vật, hoặc cho dù nếu có liên quan đi chăng
nữa thì nếu họ chấp nhận chế độ không ăn chay thì
mức độ gây đau khổ cho súc vật và sát sinh sẽ còn lớn
hơn. Tuy nhiên, một thực tế đơn giản là nền nông
nghiệp thương mại, vốn là căn bản cho khẩu phần ăn
chay, sẽ không thể thực thi được nếu không có sự hủy
diệt sự sống. Ngay cả chỉ một hành động cày đất thôi
thì cũng đã hủy hoại cuộc sống của nhiều côn trùng
sống trong đất, nhưng hình thức sát sinh chính yếu lại
xuất hiện từ nhu cầu bảo vệ mùa màng và vụ thu hoạch
khỏi côn trùng, dã thú và một số thú vật phá hoại khác.
Chúng ta chỉ cần ngẫm nghĩ đến việc giết hại toàn bộ
các loài heo rừng, thỏ rừng, kăng-ga-ru v.v... cho mục đích
này. Các loại thuốc độc, cạm bẫy, và những bệnh dịch
cho chính con người gây ra đã tạo ra những sự hủy diệt
chết chóc tàn bạo và khủng khiếp. Những con ốc sên, châu
chấu, các con giòi, cào cào, và nhiều côn trùng khác đã
bị hủy diệt bằng các chất thuốc trừ sâu cực mạnh, và
con số phải lên đến hàng triệu. Ngay cả số chuột bị
tiêu diệt để bảo vệ những kho chứa ngũ cốc khỏi bị
chúng phá hoại thì còn lớn hơn con số đoàn gia súc bị
giết mổ để phục vụ cho những người sử dụng thịt.
Thật thế, có thể tranh luận là con số thú vật và côn trùng
bị giết hại để làm ra một bữa ăn trung bình cho người
ăn chay còn lớn hơn con số súc vật bị giết để làm ra
một bữa ăn cho người ăn thịt với cùng một giá trị
dinh dưỡng. Nếu quả đúng như thế, sự chấp nhận khẩu
phần ăn chay thực sự có thể gia tăng số sinh vật bị
giết trong quy trình sản xuất thực phẩm. Còn nữa, nhiều người
ăn chay còn dùng các sản phẩm lấy từ gia súc như sữa.
Trong khi xem ra các sản phẩm này "nhân đạo" vì không
phải sử dụng đến sát sinh, nhưng thực chất không phải
là như vậy. Giả sử như mọi người đều bỏ không dùng
thịt nữa và chỉ duy trì uống sữa mà thôi. Một hậu
quả chắc chắn sẽ xảy ra ngay đó là các con bò đực sẽ
bị giết ngay từ lúc mới sinh (trừ một số được giữ
lại để dùng vào mục đích lấy giống), trừ phi các bò
đực không có giá trị sản xuất lại được lưu giữ và
điều này rất khó xảy ra. Sữa là sản phẩm đuợc thiên
nhiên dành cho các con bê con, và việc ép buộc dành riêng
cho con người lại là một vấn đề luân lý gây tranh cãi.
Một điều lạ kỳ cần lưu ý là một số người ăn chay
nghiêm khắc nhất, như nhóm Hare Krishna, lại là những người
rất thích dùng các loại sản phẩm lấy ra từ sữa . Hình
như họ không nhìn ra sự mâu thuẩn đạo đức liên quan đến
những thói quen ăn uống của họ. Giới luật Tam Tịnh
Nhục của Ðức Phật, tuy không phải là giới luật hoàn
chỉnh nhất, bởi vì không có giới luật nào mà tuyệt đối
hoàn chỉnh, nhưng ít nhất cũng tránh được những vấn
nạn luân lý đã làm bối rối người ăn chay vì lý do đạo
đức. * Luận chứng sinh học
cho chủ nghĩa ăn rau đậu có giá trị hơn luận chứng đạo
đức. Một điều rất rõ ràng là cơ thể con người không
được thiết kế để tồn tại chỉ nhờ vào thịt (như là
kinh Lăng Già khẳng định). Hai khía cạnh cơ thể học con
người cho thấy thực phẩm chay là thực phẩm thích hợp
cho con người. Ðầu tiên là cấu tạo của răng con người
(trong đó răng hàm lại quan trọng hơn là răng cửa) và
một khía cạnh khác nữa là ruột con người chiếm một
tỷ lệ chiều dài, dài hơn là cơ thể con người. Những loài
thú ăn thịt có răng cửa sắc bén để xé thịt, và có
bộ ruột ngắn hơn để cho lượng thịt bị thối rữa
nhiễm trùng có thể được tống ra khỏi cơ thể càng nhanh
càng tốt. Cơ thể con người ta thường giống hơn với loài
vật ăn cỏ, nhưng không hoàn toàn là loại ăn cỏ vì chúng
lại có một cấu trúc dạ dày khắc hẳn. Thực ra, cơ thể
con người là một sự thỏa hiệp giữa loài ăn cỏ thuần
túy và loài ăn thịt thuần túy -- do đó, con người là
một loài ăn tạp. Còn nữa, hiệu quả gây tác hại từ
việc sử dụng các sản phẩm động vật (thí dụ
Cholesterol) đã không được cân bằng do thiếu hụt các
chất đạm cao trong các thức ăn chay. Sau khi cân nhắc kỹ,
thì luận chứng sinh học xem ra có phần thiên về ăn chay hơn
là ăn thịt. * Luận chứng sinh thái
cũng có phần thiên về ăn chay. Thịt là một cách thức
thiếu hiệu quả để chuyển đổi toàn bộ năng lượng thành
thực phẩm. Thật dễ dàng và rẻ tiền hơn nhiều để
chuyển đổi năng lượng thành sinh khối (biomass) rất thích
hợp cho con người tiêu thụ trực tiếp hơn là một cách gián
tiếp sau khi đưa sinh khối đó vào thú vật và rồi lại tiêu
thụ thịt thú vật. Sản xuất hàng loạt gia súc (gà, heo, bò)
có thể dẫn đến hoặc là phá hủy toàn bộ những cánh
rừng nguyên sinh để tạo đồng cỏ chăn nuôi, hoặc là
với phương pháp nuôi gà công nghiệp dẫn đến sự tàn
nhẫn cùng cực, thải ra lượng khí mêtan v.v... Sự gây
giống chọn lọc ở các trại chăn nuôi súc vật và việc
sử dụng hóa chất và các chất kích thích hóc-môn để làm
tăng trọng có thể tạo ra những hậu quả phụ thuộc không
ngờ được trong một số lãnh vực khác. Nhưng cũng cần
phải được đề cập đến ở đây là việc chuyển đổi
sang chế độ ăn chay sẽ không nhất thiết có thể cải
thiện được môi trường sinh thái. Ðiều cần thiết chính
là giảm gia tăng dân số và áp dụng những tiêu chuẩn sinh
sống lâu bền mà không gây tác hại đến môi trường. * Luận chứng văn hóa
- xã hội lại dính líu đến luận chứng thẩm mỹ thuộc
về những gì xã hội cho là thích hợp để ăn. Các qui
luật xã hội rất khác biệt nhau về khía cạnh này. Ða
số các xã hội đều loại bỏ tục ăn thịt người và không
cho phép tiêu thụ xác chết thối rữa và ăn xác các súc
vật chết. Tại hầu hết các quốc gia Tây phương và nơi
tiểu lục địa Ấn độ đã có một sự chống đối ăn
thịt các thú vật yêu chuộng (chó, mèo) hay các loài bò sát.
Tuy nhiên không có sự ngăn cấm như vậy tại một vài nơi
khác ở Phi Châu và vùng Viễn Ðông (mặc dù ở Trung Hoa vào
năm 511 Tây lịch, Lương Vũ Đế đã ra lệnh cấm ăn
thịt). Thực ra, không có gì khác nhau trong việc tiêu thụ
thịt của một loại thú vật này và tránh ăn thịt của
loại khác. Nhưng xét dưới khía cạnh thẩm mỹ và văn hóa,
ta thấy có khác biệt đáng kể. Chắc chắn là các thực
phẩm chay thì hay hơn so với các sản phẩm về thịt xét dưới
góc độ thẩm mỹ, cho dù sản phẩm thịt được đóng gói
để dễ nhìn hơn. 6. Kết
luận.
Những luận chứng trên
đây không nên xem như là cách bào chữa cho việc ăn thịt.
Ðiều chúng tôi quan tâm là cố suy đoán về những lý lẽ
căn bản đàng sau giới luật Tam Tịnh Nhục vốn đã được
Ðức Phật đặt ra, và phản bác lời chỉ trích rằng
giới luật của Ðức Phật hàm chứa một mâu thuẫn luân lý
với những phần giáo lý khác của Ðức Phật, vì Ngài đã
từng nhấn mạnh đến lòng từ bi và giới luật cấm sát
sanh. Có nhiều luận chứng
có tính thuyết phục về việc ăn chay, quan trọng nhất là
về khía cạnh sinh học, môi sinh và xã hội mà chúng tôi đã
xác định ở phần trên. Luận chứng đạo đức mà nhiều
người ăn chay chấp nhận, để cho là có đạo đức còn
cao hơn cả điều Ðức Phật đã dạy, đã được cho thấy
là không có giá trị. Thật ra, nếu chúng ta chuyển từ ăn
thịt sang ăn rau đậu, vẫn không cần thiết phải có sự sút
giảm về số lượng sát sanh và tàn nhẫn liên quan đến
việc cung cấp thực phẩm. Chỉ có những loại sinh vật khác
có thể phải chịu đau khổ. Cũng còn có một quan
điểm đạo đức rất thú vị cần được giải quyết. Toàn
bộ những thú vật bị giết để cung cấp thịt đã được
cố ý gây giống và chăn nuôi cho mục tiêu này (thí dụ: gà
công nghiệp, heo và đàn bò thịt). Nếu không có nhu cầu
về thịt, thì điều đơn giản là chúng sẽ không còn tồn
tại nữa. Như vậy, loại bỏ việc ăn thịt về lâu về dài
sẽ không "cứu" được bất kỳ loại gia súc nào
khi mà chúng không còn được gây giống nữa. Vấn đề là
dựa trên căn bản đạo đức nào để quyết định duy trì
sự sống cho một số loài gia súc trong một thời gian có
giới hạn hay là hoàn toàn chấm dứt sự hiện hữu của chúng.
Không có người tiêu thụ thịt thì hầu hết các súc vật
không bị giết mổ vì thực phẩm sẽ không còn hiện hữu
nữa. Chúng ta sẽ không xem xét khía cạnh đạo đức khó khăn
của câu hỏi này. Yêu cầu của Ðức
Phật chỉ nhằm đạt đến sự điều độ trong ăn uống (mattamuta
ca bhattasmi). Dù các chế độ ăn uống có thể là ăn
chay hay ăn thịt thì việc ăn uống nên phải được hạn
chế tới mức tối thiểu, chỉ cần thiết để giữ cho các
chức năng cơ thể tiếp tục họat động. Giới luật không
được ăn sau giờ ngọ có liên quan với qui luật giữ điều
độ trong việc ăn uống. Nhưng cho dù có cẩn thận đến đâu
trong chế độ ăn uống, cũng không có cách nào duy trì thể
xác chúng ta ổn định về mặt thể chất mà lại không gây
tác hại cho một số sinh vật khác. Vì có phụ thuộc lẫn
nhau giữa các sinh vật, sự sống còn của bất cứ một
loại sinh vật nào - kể cả loài người chúng ta nữa -
chắc chắn đưa đến sự tàn phá những dạng thức khác
của sự sống Ngay cả nếu như không
có qui định bao trùm về ăn thịt trong trong giáo lý của Ðức
Phật, giới luật Tam Tịnh Nhục mà Ngài đã đề ra vẫn có
giá trị đáng kể. Ðức Phật quan tâm đến việc đặt ra
một giới luật thực tiễn có thể hài hòa được vấn đề
nan giải liên quan đến việc sống trong cõi Ta-bà và cho phép
những sinh dạng khác được hiện hữu. Sự kiện mà luật
Tam Tịnh Nhục không là một quy luật lý tưởng không phản
ảnh vào Đức Phật, mà là phản ảnh của một thực
trạng của thế giới Ta-bà nầy, liên quan đến sự tác
hại đến các sinh vật khác. Giải pháp tối hậu của Đức
Phật có lẽ là một phương cách duy nhất để vấn đề này
được giải quyết ổn thỏa. Giải pháp đó là vạch ra
một hướng đi để thoát ra khỏi sự hiện hữu này, có
nghĩa là vạch ra con đường đưa đến Niết-bàn. Ghi Chú 1. Chữ
"parisuddha" được dịch sát nghĩa nhất có thể là
"blameless - không chê được, không khiển trách được",
đúng hơn là dịch "pure - tinh khiết. Đó cũng là cách
dịch mà bà Horner thích dùng (bà đã dịch tạng Luật cho Pàli
Text Society). Nó có nghĩa là một đặc tính nghiệp chướng
về thịt rất quan trọng, không phải là sự tinh khiết
của thịt về các khía cạnh khác. 2. Chữ "meat -
thịt" được dùng để chỉ tất cả các loại thực
phẩm có xuất xứ từ loài vật. Cho dù là cá, thịt hay là
gia cầm (gà, vịt, chim), từ góc độ luân lý đạo đức không
hề có sự khác biệt cơ bản nào giữa các loại thịt đó. 3. Mối tương quan
giữa ăn thịt và nghiệp đã không được Ðức Phật xác
định cụ thể. Sự phân biệt chúng ta bàn luận ở đây
phải được xem xét một cách cẩn thận. Ngay cả những
việc tiêu thụ những thứ mà chúng ta qui cho là loại thịt
"nghiệp trơ" (hay "nghiệp chướng vô can",
"nghiệp trung tính", karmically neutral) có thể tạo
nghiệp xấu tùy thuộc vào các sát-na tâm đi kèm với việc
sử dụng loại thịt đó. Tuy nhiên, tiêu thụ loại thịt
"nghiệp tác" (karmically effective) thì luôn luôn sẽ có
nghiệp quả xấu, còn tiêu thụ loại thịt "nghiệp trơ"
thì có thể có hoặc không có nghiệp quả xấu. Trong cả
hai trường hợp, không thể có nghiệp quả tốt. 4. Giới luật về ăn
chay là giới luật thứ năm trong danh sách mà Đề-bà-đạt-đa
đã đề nghị với Ðức Phật. Đề-bà-đạt-đa là một người
lập nên phong trào Tàpasa trong Phật giáo và những giới
luật đặc biệt của ông ta có liên quan đến những cách hành
trì mang tính khổ hạnh khắc nghiệt (sống trong rừng, chỉ
mặc y rách, v.v...) Ðức Phật đã bác bỏ tất cả các đề
nghị của Đề-bà-đạt-đa. Và cũng chính vì liên quan đến
vấn đề này mà Ngài đã tái khẳng định lại giới luật
Tikoiparisuddha (về vấn đề này, xin đọc cuốn "Western
Buddhism and a Theravada Heterodoxy" của tác giả). 5. Nhìn chung, Ðức
Phật thường có khuynh hướng chấp nhận những phong tục xã
hội đang thịnh hành, chỉ trừ khi có gì mâu thuẫn với
những nguyên lý giáo pháp của Ngài. Trong trường hợp này,
không cần thiết phải có những thay đổi hiện hành. Thật
thú vị khi ghi nhận rằng trong 10 con vật lại không có con
bò đực hay bò cái trong đó. Sau này bò cái lại trở thành
một trong những vật cấm kỵ lớn nhất trong Ấn độ giáo.
Có lẽ ở vào thời Ðức Phật, khía cạnh Ấn độ giáo
(Hinhduism) này chưa được phát triển và sự quan trọng
của nó sau này mới được thừa nhận. 6. Về vấn đề này,
xin đọc cuốn "Western Buddhism and a Theravada
Heterodoxy" của tác giả. 7. Luận chứng cho là súc
vật đã chết khi chúng ta mua thịt là không có cơ sở. Ða
số những người bán thịt và các cửa hàng bán thịt đều
bán hết số lượng hàng tồn kho. Khi đã hoàn tất bán lượng
hàng đó, người buôn lại đặt thêm hàng hóa để thay
thế số lượng hàng đã bán ra. Như thế, khi gà được làm
thịt đã bán hết thì nhà buôn lại viết đơn đặt hàng
để nhiều con gà khác được giết để thay vào số thịt
gà đã bán. Nguyên tác:
"Buddhism and Vegetarianism - The Rationale for the Buddha's View
on the Consumption of Meat", V.A. Gunesekara. Tỳ kheo Thiện
Minh dịch. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02
| 03 | 04 | 05
| 06 | 07 | 08
| 09 | 10 [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Phân tích quan điểm của Đức
Phật về việc sử dụng thịt
2. Luật tam tịnh nhục của Ðức Phật.
3. Quan điểm các tôn giáo khác về việc ăn thịt.
4. Phân tích về giới luật của Ðức Phật.
5. Những luận chứng về ăn chay
6. Kết luận.
2. Chính cha mẹ và họ hàng chúng ta có thể được tái
sinh là một con vật trong cuộc sống mai sau.
3. Theo lý lẽ thông thường thì không có lý do gì để
cấm dùng thịt một số loài vật, đang khi đó lại không
cấm sử dụng tất cả các loại thịt khác.
4. Thịt luôn được xem là ô uế vì nó luôn luôn bị
nhiễm các chất phóng uế của thân xác
5. Viễn cảnh bị giết thịt có thể khiến cho thú vật
phải kinh hoàng.
6. Toàn bộ thịt chẳng là gì khác hơn là xác chết thối
rữa.
7. Việc dùng thịt có thể kiến cho người sử dụng trở
nên độc ác và gợi cảm nhục dục.
8. Theo bản chất tự nhiên, con người không phải là con
vật ăn thịt.
updated: 06-04-2002