|
 |
Chánh Pháp và
Hạnh Phúc
Hòa thượng
Thích Minh Châu |
 |
1.
ĐỨC PHẬT CỦA CHÚNG TA
I. Đức Phật với mục
đích duy nhât cứu khổ, độ sinh
Đức Phật, dầu ở trong cung điện, thụ hưởng nhiều dục lạc, nhưng Ng ài
thấy được sự đau khổ sanh, lão, bệnh,
tử đè nặng trên kiếp sống con người.
Nên Ngài đã từ bỏ ngai vàng, xuất gia,
tìm cho được phương pháp cứu khổ cho
loài Người, cho chúng sinh. Kinh Thánh Cầu (số 26, Trung Bộ Kinh I, 163)
nêu rõ: "Chưa thành Chánh Đẳng Giác, khi còn
là Bồ tát, Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị
sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết
Bàn; tự mình bị già... tự mình bị bệnh... tự mình bị
chết... tự mình bị sầu... tự mình bị uế nhiễm...
Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già... bị bệnh...
bị chết... bị sầu... Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị uế
nhiễm, hãy tìm cầu cái không uế nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết Bàn". Khi Ngài thành Đạo, dưới cây bồ
đề, tức là Ngài đã tìm ra
được pháp môn, giúp Ngài
đoạn trừ được sự đau khổ về sanh, già,
bệnh, chết. Trong đó Ngài thuyết pháp
độ sanh, tức là Ngài thuyết pháp môn
cứu khổ, mà Ngài đã chứng ngộ, chỉ vì
mục đích trừ khổ, đem lại an lạc cho chúng
sinh. Trọn đời Ngài, từ khi xuất gia, cho
đến khi nhập Niết Bàn, Ngài không bao
giờ quên mục đích cứu khổ, độ sanh của Ngài.
Lời dạy sau này làm nổi bật tâm trạng của một bậc
Đạo sư canh cánh bên lòng trách nhiệm
cứu khổ độ sanh của Ngài: "Này
các Tỳ kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ (Trung Bộ
Kinh I, 140)". Lời dạy này đức Phật nhắc
đi nhắc lại nhiều lần, trong kinh điển của Ngài.
Ngài được diễn tả như một bậc Đạo sư, luôn
luôn đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh: "Một vị hữu tình
không bị si chi phối, đã sanh ra ở
đời, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích,
vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người (Trung Bộ Kinh
I, 83)". Tôn giả Udàyi trong khi Thiền tịnh
độc cư, nói lên lời tán thán
đức Phật: “Thế Tôn thật sự là vị
đã đoạn
trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị
đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng
ta. Thế Tôn thật sự là vị đã
đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta.
Thế Tôn thật sự là vị đã
đem lại nhiều thiện pháp cho chúng ta (Trung
Bộ Kinh II, 448A)". Lời khích lệ của đức
Phật cho 60 vị A-la-hán đầu tiên, khuyên du hành
để thuyết pháp độ sanh, nói lên tâm
nguyện từ bi cứu khổ, độ sanh của Ngài:
"Này các Tỳ kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc
cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người
(Tương Ưng Bộ Kinh I, 128)". Một lời tuyên bố nữa, rất
đặc biệt của Ngài, nói lên thái
độ không tranh chấp hơn thua của Ngài
đối với bất cứ một ai. Ngài thuyết
pháp chỉ với mục đích duy nhất là làm
vơi nhẹ sự đau khổ của mọi loài chúng
sinh: "Này các Tỳ kheo, Ta không tranh chấp với
đời, chỉ có đời tranh chấp với Ta. Này
các Tỳ kheo, người nói pháp không tranh chấp với một ai ở
đời" (Tương Ưng Bộ Kinh
III, 165). Do vậy, hình ảnh bậc Đạo sư
của chúng ta là hình ảnh của một vị luôn luôn ung dung tự tại,
không âu lo, không sợ hãi, không phiền não, ngày
đêm chỉ nuôi dưỡng lòng từ, thương xót
chúng sinh, như đã
được diễn tả trong bài kệ sau
đây:
"Khi thức không âu lo,
Khi ngủ chẳng sợ hãi,
Ngày đêm không khởi lên,
Phiền não bận lòng Ta.
Ta không thấy tai hại
Một chỗ nào trên đời.
Do vậy Ta nằm ngủ,
Tâm từ thương chúng sinh." (TƯBK I, 136)
Như vậy Từ bi cứu khổ chúng sinh là động
lực chính khiến Ngài xuất gia, tầm
đạo, chứng đạo và thuyết pháp là sợi chỉ
đỏ thông suốt qua đời Ngài từ khi
Đản sanh đến nhập Niết Bàn, là cốt lõi
của 45 năm hoằng hóa độ sanh. Và cũng
vì vậy, đức Phật của chúng ta được tôn xưng là
đức Từ Phụ, vị cha lành muôn thuở, và
đạo Ngài
được đề cao là đạo Từ bi cứu khổ.
II. Ngang qua kinh nghiệm bản thân, Ngài tìm ra con
đường giải thoát cho mình và cho mọi
người.
Đức Phật l à vị Đạo sư đã tự
mình tìm ra được pháp môn giải thoát ngang
qua kinh nghiệm bản thân, không có ai truyền dạy cho Ngài, không có
ai ban phép cho Ngài, không phải do thần khởi, cũng không phải là hiện
thân hay hóa thân của một đấng thần linh nào.
Ngài là một người như chúng ta, nhưng chính nhờ tự lực cá nhân, tìm ra
được con đường giải thoát.
Sau đây, là những kinh nghiệm
được ghi lại về đời sống đầy dục lạc, khi đức
Phật còn là Thái tử, thái độ đức Phật
đối với vấn đề sanh, lão, bệnh, tử và
đối với ba sự kiêu mạn của tuổi trẻ, không bệnh và của sự sống:
"Này các Tỳ kheo, Ta được nuôi dưỡng tế
nhị, tối thắng nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này
các Tỳ kheo, trong nhà Vương phụ Ta, các hồ nước
được xây lên, trong một hồ có hoa sen
xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một
hồ có hoa sen trắng. Tất cả phục vụ cho Ta. Không một chiên
đàn nào Ta dùng, này các Tỳ kheo, là
không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là áo
cánh, bằng vải Kàsi là nội y, bằng vải Kàsi là thượng y.
Đêm và ngày một lọng trắng
được che chở cho Ta để tránh xúc chạm lạnh,
nóng, bụi, cỏ, hay sương. Này các Tỳ kheo, ba lâu
đài được
xây dựng cho Ta, một cho mùa đông, một
cho mùa hạ, một cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỳ kheo, tại lâu
đài mùa mưa, trong 4 tháng,
được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không
có xuống lầu. Với Ta, này các Tỳ kheo,
được đầy đủ về sự giàu sang như vậy,
được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, Ta suy nghĩ rằng: "Kẻ phàm
phu ít nghe tự mình bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác
bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy: "Ta
cũng bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác già, Ta có thể
bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng
đáng cho Ta". Sau khi quán sát về Ta
như vậy, này các Tỳ kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ
được đoạn trừ hoàn toàn. Kẻ phàm phu
ít nghe tự mình bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, khi thấy người khác bị
bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy: "Ta
cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, khi thấy người khác bệnh, Ta có
thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng
đáng cho Ta". Sau khi quán sát về Ta
như vậy, này các Tỳ kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh
được đoạn trừ hoàn toàn. Kẻ phàm phu
ít nghe tự mình bị chết, không vượt khỏi chết, thấy người khác bị chết,
lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy: "Ta cũng bị
chết, không vượt qua khỏi chết, khi thấy người khác bị chết, ta có thể bực
phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng
đáng cho ta”. Sau khi quán sát về ta như vậy
này các Tỳ kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống
được đoạn trừ hoàn toàn" (Tăng
Chi Bộ Kinh I, 162-163)".
Ở đoạn kinh trên, chúng ta thấy rõ
đức Phật của chúng ta khi còn làm Thái
tử, được hưởng thụ dục lạc ở đời không để các
dục lạc ấy làm cho say đắm si mê,
vẫn ý thức được rằng sanh, già, bệnh,
chết vẫn đang đè nặng trên kiếp sống
của con người, và nhờ vậy đoạn trừ được ba sự
kiêu mạn: kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ, kiêu mạn của không
bệnh trong không bệnh, kiêu mạn của sự sống trong sự sống.
Chính nhờ ở kinh nghiệm bản thân về những dục lạc ở
đời, chính nhờ quan sát sáng suốt về thực
trạng của già, bệnh, chết của chính mình và tất cả mọi người, nên
đức Phật của chúng ta vượt qua sự kiêu
mạn của tuổi trẻ, của không bệnh, của sự sống,
để sau này từ bỏ tất cả, xuất gia tu
đạo.
Khi Ngài quyết định từ bỏ ngai vàng,
châu báu, vợ đẹp, con thơ, tầm đạo giải
thoát, chúng ta được nghe đức Phật kể qua sự học đạo của Ngài với
Alàra Kàlama và Udaka Ràmaputta, hai vị ngoại
đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ, và sau này, là kinh nghiệm bản thân
của đức Phật, khi học đạo với Alàra
Kàlama như kinh Thánh Cầu (Trung Bộ Kinh I, 164B)
đã khéo chép: "Này các Tỳ kheo, rồi Ta
đi đến chỗ Alàra Kàlama ở, sau khi
đến, Ta nói với Alàra Kàlama: "Hiền
giả Kàlama, cho đến mức độ nào, ngài
tự tu, tự chứng, tự đạt và tuyên bố
pháp này?" Này các Tỳ kheo, được nói như vậy,
Alàra Kàlama tuyên bố về vô sở hữu xứ. Rồi này các Tỳ kheo, Ta suy
nghĩ: "Không phải chỉ Alàra Kàlama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin; không
phải chỉ Alàra Kàlama tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn; không phải chỉ Alàra
Kàlama có niệm, Ta cũng có niệm; không phải chỉ Alàra Kàlama có
định, Ta cũng có định; không phải chỉ Alàra
Kàlama có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho
được pháp mà Alàra Kàlama, sau khi tự
tri, tự chứng, tự đạt, đã tuyên bố".
Rồi này các Tỳ kheo, không bao lâu, Ta tự tri, tự chứng, tự
đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Này
các Tỳ kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng
đến nhàm chán,
đoạn diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ,
Niết Bàn, mà chỉ đưa đến chứng đạt vô
sở hữu xứ”. Như vậy, này các Tỳ kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và
nhàm chán pháp ấy, Ta bỏ đi.”
Tiếp đến là nếp sống khổ hạnh,
đức Phật tự mình hành trì luôn trong 6
năm, dựa trên kinh nghiệm bản thân của
Ngài. Đoạn văn sau đây diễn tả hạnh ăn ít của
Ngài, chính hạnh này khiến Thế Tôn gầy mòn, chỉ còn da bọc lấy
xương như đã
được diễn tả trong các bức tượng Tuyết sơn,
khắc ghi lại sự khổ hạnh đặc biệt của
đức Thế Tôn:
"Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta
trở thành như những cọng cỏ, hay những
đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít,
bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc
đà. Vì Ta
ăn quá ít, xương sống của Ta phô bày giống như một chuỗi banh. Vì
Ta ăn quá ít, xương sườn gầy mòn của
Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát. Vì Ta
ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của
Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt; giống như ánh nước long lanh nằm sâu
thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn
quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo,
khô cằn như trái bí đắng màu trắng cắt trước khi chín, bị cơn gió
nóng làm cho nhăn nheo khô cằn”. "Này
Sàriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", chính xương sống bị Ta nắm
lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì
Ta ăn quá ít, nên này Sàriputta, da
bụng của Ta đến bám chặt lấy xương sống. Này
Sàriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện”, hay
“đi tiểu tiện”, thì Ta ngã gục, úp mặt xuống
đất. Vì Ta
ăn quá ít, này Sàriputta, nếu Ta muốn
xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục, rụng khỏi
thân Ta". (Kinh Sử Tử Hống, Trung Bộ Kinh I, 80).
Đức Phật của chúng ta đ ã tự mình hành trì khổ hạnh, và sáu năm
hành trì không có kết quả, Ngài cương quyết từ bỏ khổ hạnh và bắt
đầu hướng đến hành Thiền, như
đoạn kinh sau nêu rõ: "Này
Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: Ta biết trong khi phụ thân Ta thuộc
dòng dõi Sakka đang cày, và Ta
đang ngồi dưới bóng mát, dưới cây Diêm
Phù Đề, Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và
trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ."
Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này,
có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Và này
Aggivessana, tiếp theo niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây
là đạo lộ đưa đến giác ngộ”. (Trung Bộ
Kinh I, 240B).
Từ kinh nghiệm bản thân này, đức Phật từ
bỏ khổ hạnh, hành trì Thiền định,
chứng được Thiền thứ nhất, Thiền thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư,
chứng được Túc mạng minh, Thiên nhãn minh.
Đức Phật dạy tiếp: "Và với tâm
định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta hướng tâm
đến lậu tận trí. Ta biết như thật: "Đây
là Khổ"; Ta biết như thật: "Đây là
Khổ tập"; Ta biết như thật: "Đây là
Khổ diệt"; Ta biết như thật: "Đây là
Con đường đưa đến khổ diệt". Ta biết
như thật: "Đây là các lậu hoặc"; Ta
biết như thật: "Đây là lậu hoặc tập
khởi"; Ta biết như thật: "Đây là sự
diệt trừ các lậu hoặc"; Ta biết như
thật: "Đây là con
đường đưa đến lậu hoặc diệt”. Nhờ hiểu biết
như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy,
khởi lên trí hiểu biết: "Ta đã giải
thoát". Ta biết: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm
đã làm. Không còn trở lui trạng thái
này nữa." (Trung Bộ Kinh I, 248).
Như vậy, cũng với kinh nghiệm bản thân, từ bỏ khổ hạnh, tu tập Thiền
định, phát triển trí tuệ, bậc Đạo Sư của
chúng ta thành tựu Chánh Đẳng Giác và
trở thành đức Phật. Ở đây, chúng ta thấy rõ,
bậc Đạo Sư không nhờ một đấng thần linh nào
mách bảo, hộ trì, hướng dẫn. Hoàn toàn do kinh nghiệm bản thân, do tự lực
cá nhân, Ngài đã tự mình tìm
được con đường giải thoát, tự mình
thực hành con đường ấy để được giải thoát và
giảng dạy lại cho chúng ta con đường tự lực
tự cường, đưa đến giải thoát giác ngộ. Chúng ta có thể nói, đối với các tư
tường ngoại đạo đương thời, Ngài tự thân tầm học và chứng
đắc. Nói đến khổ hạnh và hành Thiền,
Ngài tự thân hành trì khổ hạnh và Thiền định.
Nói đến giác ngộ, giải thoát, Ngài tự thân phát triển Ba minh
để cuối cùng tự mình giác ngộ giải
thoát. Nói một cách khác, Ngài chỉ dạy những gì Ngài
đã thân kinh nghiệm và pháp môn Giới,
Định, Tuệ là kết tinh của những năm
tháng, tự tu, tự chứng và tự giác ngộ. Do vậy chúng ta không lạ gì
khi Thế Tôn hoan nghinh lời chỉ trích phê bình của Sunakkhatta, mà Ngài
xem như là phản ảnh trung thực nhất, đối với
pháp Ngài giảng dạy: "Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy
tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm và thuyết cho
một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng
thượng có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ
đau”. (Trung Bộ I, 69)
III. Vị trí có một không hai của đức Phật
Đề cập đến bậc Đạo Sư của chúng ta, chúng ta cần nhấn mạnh đến vị trí
có một không hai của đức Phật, vị trí n ày cho chúng ta thấy không
thể có một đức Phật thứ hai trong suốt hiện
kiếp đức Phật tại thế.
Tăng Chi Bộ Kinh Tập I, trang 37 ghi chép:
"Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có
được, trong một thế giới có hai vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, không trước không sau, xuất hiện một lần; sự kiện này
không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các Tỳ kheo, trong một thế
giới chỉ có một vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác,
xuất hiện; sự kiện này có xảy ra".
Như vậy chúng ta có thể nói, trong kiếp hiện tại, tại thế giới này chỉ
có một đức Phật, không có hai đức Phật. Có
thể có sáu đức Phật quá khứ như đức Phật Tỳ-bà-thi,
đức Phật Thi-khí v.v… Nhưng
thuộc vào kiếp quá khứ, không thuộc kiếp hiện tại, và có
đức Phật Di-Lặc nhưng thuộc vào kiếp
tương lai, không thuộc kiếp hiện tại. Như vậy vị trí của
đức Phật Thích-ca Mâu-ni thật là
độc nhất vô nhị, ngay trong hiện kiếp của
thời đại chúng ta, và trong thế giới mà chúng ta
đang sống. Từ nơi vị trí độc nhất vô nhị này,
Tăng Chi Bộ kinh tập I trang 29 nói rõ
thêm:
"Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở
đời, là xuất hiện một người không hai,
không có đồng bạn, không có so sánh, không có
tương tự, không có đối phần, không có người ngang bằng, bậc tối
thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, một người này,
khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một
người không hai, không đồng bạn, không có so
sánh, không có tương tự, không có người ngang hàng, không có ngang
bằng, không có đặt ngang bằng, bậc tối
thượng giữa các loài hai chân".
Như vậy đức Phật không có một ai có thể
sánh bằng, không có tương tự đưa đến một vấn đế mới, đức Phật đứng trên
vị trí gì để trở thành một bậc tối
thượng ở đời không ai có thể sánh bằng. Trung
Bộ kinh III trang 110 nói lên địa vị
tối thượng này của đức Phật:
"Không có một vị Tỳ kheo, này Bà-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn,
một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã
thành tựu. Này Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con
đường trước đây chưa được hiện khởi, làm
cho biết con đường trước đây chưa từng được
biết, nói lên con đường trước đây chưa
từng được nói, là bậc hiểu đạo, biết
đạo và thiện xảo về đạo”.
Với đoạn kinh trên, chúng ta thấy
vị trí độc nhất vô nhị của đức Phật mà
Ngài là vị đã làm khởi dậy,
đã làm cho biết,
đã nói lên con
đường trước
đây chưa từng được ai khám phá. Con đường ấy
là gì?
Chính là tiến trình giác ngộ giải thoát mà chính tự Ngài
đầu tiên khám phá ra, tự mình tu tập
con đường ấy và tự mình giác ngộ nhờ
đã đi trên
con đường ấy. Tiến trình ấy là một
tiến trình gồm có 5 giai đoạn, bắt đầu từ
Giới rồi đến Định, Tuệ, Giải thoát, và Giải thoát tri kiến. Con
đường ấy đã
được cô đọng một cách tuyệt diệu thành
con đường Thánh mười ngành bắt
đầu từ Chánh tri kiến và kết thúc bằng
Chánh định, Chánh trí và Chánh giải
thoát.
Từ nơi đây chúng ta không có lấy làm
lạ khi thỉnh thoảng đức Phật rống lên
tiếng rống con sư tử, tiếng rống nói lên thế ưu việt của Chánh pháp, như
được diễn tả trong Trung Bộ kinh, tập I,
trang 63: "Này các Tỳ kheo, chỉ ở
đây (tức chỉ trong Pháp và Luật do đức
Phật thiết lập) là có đệ nhất Sa-môn,
ở đây là có đệ nhị Sa-môn, ở đây là
có đệ tam Sa-môn, ở đây là có
đệ tứ Sa-môn. Các ngoại đạo khác không có
Sa-môn”.
Tiếng rống con sư tử này xác nhận rằng chỉ có tiến trình Giới,
Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến,
được cô đọng trong con đường Thánh mười ngành do
đức Phật thiết lập mới đào tạo ra
được đệ nhất Sa-môn, tức là các vị Dự
lưu, các đệ nhị Sa-môn tức là các vị
Nhất lai, các đệ tam Sa-môn tức là các
vị Bất lai, các đệ tứ Sa-môn tức là
các vị A-la-hán.
Từ nơi lời xác chứng có tính cách quyết
định dứt khoát này, chúng ta mới hiểu câu trả lời của
đức Phật nói với Upaka, một du sĩ ngoại đạo đã
hỏi đức Phật là ai, khi
đức Phật đi từ Bồ đề đạo tràng
đến vườn Lộc Uyển, để thuyết pháp cho Kiều
Trần Như với bốn người bạn. Khi Upaka gặp đức Phật với các căn trong sáng,
vị du sĩ ngoại đạo liền hỏi: “Các căn của Hiền giả thật sáng suốt, màu
da của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này Hiền giả, vì mục
đích gì Hiền giả xuất gia? Ai là bậc
Đạo Sư của Hiền giả?"
Đức Phật liền trả lời vời bài kệ:
"Ta không có Đạo Sư!
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới nhân thiên,
Không có ai bằng Ta!"
(Trung Bộ Kinh tập I, trang 171)
Câu trả lời này khiến cho nhớ đến câu
"Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc
tôn”, được xem là
đức Phật tuyên bố khi Ngài
đản sanh và
đi bảy bước. Và câu này cũng
được diễn theo truyền thống Pàli với
lời tuyên bố, như đã
được ghi trong Trường Bộ Kinh I, trang 151:
"Ta là bậc Tối tôn ở đời. Ta là
bậc Trưởng thượng ở đời. Ta là bậc Tối
thượng ở đời. Nay là
đời sống cuối cùng của Ta. Nay Ta
không còn tái sanh nữa". Như vậy hai lời tuyên bố tuy từ hai truyền
thống khác nhau, nhưng cùng nói lên địa vị
độc tôn đức Phật. Đây không phải là lời tuyên bố ngạo mạn nhưng có
thể bị hiểu lầm. Thực sự chỉ là một lời tuyên bố nói lên vị trí có một
không hai của đức Phật, là một vị
đã tự mình khám phá và giảng dạy
đạo lý giải thoát và giác ngộ. Lời
tuyên bố này cũng nói lên vị trí có một không hai của Chánh pháp, tức là
tiến trình giải thoát giác ngộ Giới, Định,
Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến. Chính tiến trình này
đã được
đức Phật thân chứng và dạy lại cho các
đệ tử Tỳ kheo, Tỳ kheo ni của Ngài tu học
để được chứng quả A-la-hán như Ngài.
Với đức Phật, tự mình
đã giác ngộ, khi Ngài mới thành Chánh
giác, Ngài khởi lên một tư tưởng rất khiêm tốn. "Thật là khó khăn,
sống không cung kính, không vâng lời. Vậy Ta hãy
đảnh lễ, cung kính và sống y chỉ vào
Sa-môn hay Bà-la-môn ... Với mục đích làm
cho đầy đủ giới uẩn chưa đầy đủ, làm
cho đầy đủ định uẩn chưa đầy đủ ...
làm cho đầy đủ tuệ uẩn chưa đầy đủ ...
làm cho đầy đủ giải thoát uẩn chưa đầy đủ. Ta
hãy cung kính, đảnh lễ và sống
y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn. Nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong
thế giới chư Thiên, ác ma và Phạm thiên, giữa quần chúng Sa-môn và
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào
khác với Giới, với Định, với Tuệ và
với Giải thoát đầy đủ hơn Ta mà Ta có
thể cung kính đảnh lễ và sống y chỉ.
Rồi này các Tỳ kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Với Pháp này mà Ta
đã chân chính giác ngộ. Ta hãy cung
kính đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy".
Như vậy đức Phật với tâm tư khiêm
tốn muốn tìm một Sa-môn hay Bà-la-môn để
nương tựa y chỉ, nhưng cuối cùng phải nương tựa và y chỉ vào Chánh
pháp. Thái độ này của
đức Phật giải thích vì sao
đức Phật khuyên Tôn giả Ananda chớ có
sầu muộn khi đức Phật nhập diệt, vì
các đệ tử Phật luôn luôn có Chánh pháp lãnh
đạo, có Chánh pháp làm chỗ y chỉ, có
Chánh pháp làm chỗ nương tựa. Đức Phật có thể
xem là vị Giáo chủ khuyên chúng ta không nên nương tựa ỷ lại cá
nhân. Ngài chỉ khuyên chúng ta nên y chỉ vào Chánh pháp, nên tương tựa
Chánh pháp.
IV. Đức Phật với thần thông.
Một vấn đề được đặt ra cho chúng ta là
đức Phật có thần thông hay không? Chính đức
Phật giúp chúng ta trả lời thẳng câu này, khi Ngài bị Sunakkhatta
chỉ trích là không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng
đáng bậc Thánh, đức Phật xác nhận trong Đại
Kinh Sư Tử Hống (Trung Bộ I, trang 69) rằng Ngài
đầy đủ 4 pháp truyền thống, tức là 10
danh hiệu, Thần túc thông, Thiên nhĩ thông, và Tha tâm thông. Ngài lại
đủ 10 Như Lai lực, được diễn tả như sau: “Như
Lai như thật biết sự kiện có xảy ra là có xảy ra, sự kiện không xảy
ra là không xảy ra. Như Lai như thật biết quả báo tùy thuộc sở do, tùy
thuộc sở nhân của các hạnh nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại. Như Lai như
thật biết con đường đưa đến tất cả cảnh giới.
Như Lai như thật biết thế giới với nhiều chủng loại sai biệt. Như Lai như
thật biết chí hướng sai biệt của mọi loài hữu tình. Như Lai như
thật biết các căn thượng hạ của loài
Người, của các loài hữu tình. Như Lai như thật biết sự tạp nhiễm, sự thanh
tịnh, sự xuất khởi của các Thiền chứng về Thiền, về Giải thoát, về
Định. Như Lai nhớ đến các đời sống quá khứ,
với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống và sự chết của các
chúng sinh. Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu
hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng
đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát."
Như vậy Như Lai xác chứng Ngài chứng được sáu
thần thông: Thần Túc thông, Thiên nhĩ thông và Lậu tận thông. Hơn
nữa, Ngài còn chứng được bốn vô sở úy, tức là
bốn điều không sợ hãi. Ngài
đã chứng
được Chánh đẳng Chánh giác. Ngài không có sợ hãi có Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, ác ma, Phạm thiên, chư Thiên và loài Người có thể
đến chất vấn chỉ trích Ngài là chưa
chứng được Chánh đẳng Chánh giác. Ngài
đã đoạn
trừ bốn lậu hoặc. Ngài không có sợ hãi có một ai có thể chất vấn,
chỉ trích Ngài là những pháp được Ngài
tuyên bố là chướng ngại pháp, thật sự khi thực hành là không có gì trở
ngại cả. Ngài không có sợ hãi có một ai có thể chỉ trích chất vấn Ngài
đúng pháp rằng Ngài thuyết giảng không
đưa đến một mục tiêu
đặc biệt, không có khả năng hướng thượng,
không có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ
đau”.
Như vậy đức Phật xác chứng Ngài có
được bốn pháp truyền thống, chứng được mười
Như Lai lực và bốn pháp vô sở úy. Ngài có
đầy đủ sáu Thần thông và hơn thế nữa.
Tuy vậy, theo dõi 45 năm thuyết pháp độ sanh
của Ngài, được ghi chép trong kinh
tạng Pàli, chúng ta nhận thấy Ngài sử dụng Thần thông rất dè dặt,
rất hạn chế. Ví dụ trong Tăng Chi I, trang
78, đức Phật có mặt ở Thắng Lâm (Jetavana), theo lời yêu cầu của
chư Thiên, hiện ra ở Đông Viên
(Pubbàràma). Một lần Thế Tôn trên con đường
đến Kusinara, đi đến sông Hằng. Lúc bấy giờ sông Hằng tràn ngập
nước đến bờ bên kia
đến nỗi con quạ đứng trên bờ có thể
uống nước được. Có người đang đi tìm
thuyền, có người đang đi tìm phao, có
người cột bè để đi qua bờ bên kia. Thế
Tôn mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay
được co lại, hay co lại cánh tay được duỗi ra biến mất từ bờ bên
này và hiện ra bờ bên kia với chúng Tỳ kheo (Trường Bộ Kinh III, 89).
Trong suốt năm tập Nikàya, kể cả
hàng chục bài kinh, kinh nào cũng diễn tả đức
Phật đi bộ từ làng này qua làng khác, từ thị trấn này qua thị trấn
khác, trước khi vào nhà, vào tịnh xá thời lấy nước rửa chân. Có một lần
đức Phật đi đến vườn Gosinga (Trung Bộ
Kinh I, trang 205) để thăm Tôn giả Anuruddha,
Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, nhưng người giữ vườn không biết
Ngài là đức Phật nên ngăn
không cho vào. Một lần nữa, ngồi nói chuyện với Tôn giả Pukkusati
suốt nửa đêm trong ngôi nhà một người
thợ gốm, Pukkusati cũng không biết người đối
diện là đức Phật. Trong nhiệm vụ hoằng
hóa độ sinh của Ngài, chúng ta thấy
đức Phật đã lựa chọn một phương pháp rất
đặc biệt, như được ghi chép trong kinh
Kevaddha (Trường Bộ Kinh II, trang 211). Kenvaddha yêu cầu
đức Phật dạy cho Tỳ kheo hiện pháp
thần thông để nhiếp phục dân chúng ở Nalanda.
Thế Tôn từ chối không chấp nhận và dạy rằng trong ba pháp thần
thông: Thần túc thông, Tha tâm thông, và Giáo hóa thần thong, Ngài chỉ lựa
chọn Giáo hóa thần thông. Thần túc thông có thể do một loại bùa chú tên
Gandhàrì tác thành. Tha tâm thông có thể do bùa chú tên Maniko tác thành
nên đức Phật không có chấp nhận hai loại Thần
thông này. Ngài chỉ chấp nhận giáo hóa thần thông
được diễn tả như sau: “Ở đời có vị Tỳ kheo
giáo hóa như sau: “Hãy suy tư như thế này, chớ suy tư như thế kia.
Hãy tác ý như thế này, chớ tác ý như thế kia. Hãy từ bỏ
điều này, hãy chứng
đạt và an trú
điều kia". "Như vậy gọi là giáo hóa
thần thông" (trang 214). Chính đức Phật đã
lựa chọn giáo hóa thần thông để hóa độ chúng
sinh, trong suốt 45 năm dài
thuyết pháp. Lý do cũng rất dễ hiểu: Thần túc thông, Tha tâm thông do bùa
chú tạo thành, vừa có hại cho người sử dụng, vừa có hại cho người chứng
kiến. Còn Giáo hóa thần thông đòi hỏi
người nghe phải suy gẫm, phải suy tư, phải cân nhắc nghĩa lý, rồi
đem ra tự mình hành trì và cuối cùng
đạt được giải thoát.
Nói tóm lại, ngài không dùng pháp lạ để
mê hoặc quần chúng, để làm chóa
mắt người chứng kiến. Ngài đặt nặng vào
khả năng suy tư, tìm hiểu, cân nhắc,
chọn lựa, tự mình tự lực dùng Giới, dùng
Định, dùng Tuệ, nghĩa là tự lực hành trì
đúng quy luật giải thoát để được giải thoát,
đúng quy luật giác ngộ để được giác ngộ.
V. Thế Tôn với vị trí con người.
Để t ìm hiểu hơn nữa về bậc Đạo Sư,
chúng ta cần phải ý thức rõ ràng đức
Phật là ai, đức Phật đã tự diễn
tả mình như thế nào, và đức Phật đã
được các đệ tử của mình và các ngoại
đạo đề cao như thế nào. Những tư liệu
này sẽ giúp chúng ta hiểu được đức Phật rõ
ràng chính xác hơn và đánh giá được những
đóng góp mà bậc Đạo Sư đã
đem lại cho loài Người. Một vấn
đề có thể làm nhiều người thắc mắc
trong quá khứ cũng như trong hiện tại là đức
Phật là ai? Ngài là Thiên thần chăng,
Thiên nhân chăng, là người như
chúng ta chăng? Kinh Tăng Chi tập II, A,
trang 51 ghi chép như sau: “Bà-la-môn Dona thấy dấu chân
đức Phật có dấu bánh xe (Pháp luân) với đầy
đủ tất cả chi tiết khi đức Phật đi trên con
đường giữa Ukkattha và Setabbya, liền
suy nghĩ đây không phải là dấu chân
của loài Người, nên đến gần đức Phật và
hỏi: "Có phải Ngài là vị Tiên, Ngài sẽ là Càn-thát-bà, Ngài sẽ là Dạ-xoa,
Ngài sẽ là loài Người?" Với bốn câu hỏi này,
đức Phật tuần tự trả lời: “Ta sẽ không phải là Tiên, Ta sẽ không
phải là Càn-thát-bà, Ta sẽ không phải là Dạ-xoa, Ta không phải là Người".
Câu trả lời làm cho Bà-la-môn Dona ngạc nhiên, và chúng ta cũng dễ
hiểu, vì nếu đức Phật trả lời: “Ta sẽ là
chư Thiên, hay Ta sẽ là loài Người, tức đức
Phật còn phải tái sinh, còn phải sinh tử luân hồi nên
đức Phật mới trả lời như thế”. Câu trả lời ấy
làm cho Bà-la-môn Dona ngạc nhiên khiến phải hỏi tiếp: "Vậy sở hành
của Ngài là gì, và Tôn giả sẽ là gì?" Đức
Phật trả lời rất là đặc biệt:
"Này Bà-la-môn, đối với những ai chưa đoạn
tận các lậu hoặc, Ta có thể là chư Thiên với các lậu hoặc
đã đoạn
tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như cây tala,
được làm cho không thể hiện hữu,
được là cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Này Bà-la-môn, đối với những ai
chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, Ta có thể là
Dạ-xoa, Ta có thể là loài Người, với các lậu hoặc
đã đoạn
tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như cây tala,
được làm cho không thể hiện hữu, dược
làm cho không thể sanh khởi trong tương lai".
Như vậy tùy thuộc chúng sinh được đề cập
đến, đối với những chúng sinh là chư Thiên chưa
đoạn tận các lậu hoặc đức Phật có thể là
chư Thiên nhưng với các lậu hoặc đã
đoạn tận, không còn sanh tử luân hồi.
Đối với loài Người chưa
đoạn tận các lậu hoặc, đức Phật có thể là
Người, nhưng là một con người đã
đoạn tận các lậu hoặc. Nói một cách khác, dầu
thuộc loại chúng sinh hữu tình nào
đang còn có lậu hoặc, đang sanh tử
luân hồi, đức Phật có thể là chúng sinh ấy, nhưng với các lậu hoặc
đã đoạn
tận. Chúng ta là người, đức Phật đối
với chúng ta là người. Chỉ có sự sai khác,
đức Phật là người
đã đoạn
tận các lậu hoặc, còn chúng ta là người nhưng chưa
đoạn tận các lậu hoặc.
Rồi đức Phật dùng một thí dụ xác
định rõ ràng vị trí của Ngài trong thế
giới loài Người:
"Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, bông sen hồng hay bông sen trắng
sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước và
đứng thẳng, không bị nước thấm ướt. Cũng vậy,
này Bà-la-môn, sanh ra trong đời lớn lên
trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị
đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì".
Tiếp đến, đức Phật tự xác chứng vị trí của
mình khi Ngài nói với Tôn giả Sàriputta: "Những ai nói về Ta một
cách chân chánh sẽ nói như sau: "Một vị hữu tình không bị si chi phối,
đã sanh ra ở
đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng
sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người". (Trung Bộ Kinh I, 83)
Tiếp đến là lời một vị
đệ tử đã chứng quả A-la-hán nói lên
lời tán thán bậc Đạo Sư của mình: "Thế
Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp
để giác ngộ. Thế Tôn đã
điều phục, Ngài thuyết pháp
để điều phục. Thế Tôn đã tịch tịnh,
Ngài thuyết pháp để tịch tịnh. Thế Tôn đã
vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế
Tôn đã chứng Niết Bàn, Ngài thuyết pháp
để chứng Niết Bàn" (Trung Bộ Kinh
I, trang 237). Như vậy, trong thế giới loài Người,
đức Phật là con người như chúng ta,
chỉ khác chúng ta còn các lậu hoặc. Đức Phật
không còn các lậu hoặc nữa. Đức Phật đã
giác ngộ, đã
điều phục, đã tịch tịnh,
đã vượt qua,
đã chứng Niết Bàn; còn chúng ta chưa
giác ngộ, chưa điều phục, chưa tịch tịnh,
chưa vượt qua, chưa chứng Niết Bàn.
Một điểm rất đặc biệt về đức Phật của
chúng ta là đức Phật
đặt lòng tin nơi con người có khả năng
tự mình giải thoát và giác ngộ, có khả năng
phân biệt được thiện ác, chánh tà. Trong kinh Kàlàmasutta, Tăng
Chi I, 212, đức Phật khuyên trong mười trường hợp chớ nên tin: "Chớ
có tin vì nghe truyền thuyết (anussava); chớ có tin vì theo truyền thống
(pàramparaya); chớ có tin vì nghe người ta nói (itikinyaya); chớ có tin vì
kinh tạng truyền tụng (pitakasampadànena); chớ có tin vì nhân lý luận
(siêu hình) (takkehetu); chớ có tin sau khi suy tư một vài dữ kiện
(àkàraparivitakkena); chớ có tin theo thiên kiến
định kiến (ditthinijhàna khanti); chớ
có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình".
Khi nghe đức Phật bác bỏ cả mười trường hợp
đáng tin như vậy, chúng ta tự nghĩ chúng ta còn tin ai và tin cái
gì nữa. Không tin truyền thống, không tin truyền thuyết, không tin kinh
tạng truyền tụng, … , không tin vì vị Sa-môn là bậc
Đạo Sư của mình.
Đến đây đức Phật khuyến giáo thật nhẹ
nhàng. Chúng ta hãy tin ở chúng ta, tin ở nơi lý trí phán xét, phân biệt
con người của chúng ta". Đức Phật khuyên:
"Nhưng này các Kàlàma, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này bất
thiện, các pháp này có tội, các pháp này bị các người có trí chỉ trích,
các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa
đến bất hạnh khổ đau” thời này
Kàlàma, các ngươi hãy từ bỏ chúng". Này các Kàlàma, khi nào tự mình biết
rõ như sau: "Các pháp này là thiện; các pháp này là không có tội; các pháp
này được người có trí tán thán; các pháp này
nếu được thực hiện và chấp nhận
đưa đến an lạc và hạnh phúc", thời này
Kàlàma, hãy chứng đạt và an trú".
Như vậy, đức Phật luôn đứng trên vị
trí con người để hóa độ chúng sinh và
đặt lòng tin tưởng vào khả năng
con người có thể phân biệt thiện ác, chánh tà, có khả năng
tự giải thoát, tự giác ngộ như Ngài đã
tự mình giác ngộ, giải thoát. Về sau, có xu hướng thần thông hóa
đức Phật, thần thánh hóa đức Phật, biến đức
Phật thành một bị biểu hiện thần thông
để hóa độ chúng sinh, thành một vị thần ban phước giáng họa. Sự tha
hóa đức Phật khỏi vị trí con người được khéo
thực hiện, dần dần đức Phật rời khỏi địa vị bậc Đạo Sư, với thân giáo,
khẩu giáo, giáo hóa chúng sinh để trở thành một vị Thánh ngồi trên
khám thờ được hàng triệu người lễ bái
cầu khấn, ban phước giáng họa. Chúng tôi ghi sau
đây hai đoạn kinh trích từ kinh tạng Pali,
một đoạn diễn tả lúc đức Phật bệnh, một đoạn diễn tả lúc Ngài
đã già. Những
đoạn này chứng tỏ
đức Phật dầu đã thành Phật, giác ngộ
giải thoát, nhưng Ngài vẫn còn thân hữu dư y nên vẫn bị bệnh, vẫn bị già,
như một con người thường, chỉ có một điều
khác là khi Ngài bị bệnh, khi Ngài bị già, Ngài không có sầu muộn,
than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất
tỉnh, vì Ngài dầu còn thân bệnh, nhưng không còn tâm bệnh nữa.
Kinh Tương ưng, tập V, trang 159 chép:
"Trong khi Thế Tôn an cư vào mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên,
những cảm thọ khốc liệt, gần như chết tiếp diễn. Ở
đây, Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác,
không có than vãn... Rồi Thế Tôn với sức tinh tấn, nhiếp
phục trọng bệnh ấy, lưu giữ thọ hành và sống..."
Cũng kinh Tương ưng, tập V, trang 229 chép:
"Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau
khi đến đảnh lễ Thế Tôn với tay xoa bóp chân tay cho Thế Tôn, thưa rằng:
“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế
Tôn, màu da Thế Tôn nay không còn thanh tịnh trong sáng, tay chân
rã rời nhăn nhíu, thân được thấy còm
về phía trước, và các căn đang bị đổi khác”.
–“Này Ananda sự thể là vậy. Tánh già nằm trong tuổi trẻ. Tánh chết
nằm trong sự sống... Như vậy màu da không còn thanh tịnh trong
sáng, tay chân rã rời, nhăn nheo, thân được
thấy còm về phía trước, và các căn
đang bị đổi khác..."
Với hai đoạn kinh này, chúng ta
thấy đức Phật thật sự là người như
chúng ta, có già, có bệnh, có chết, chỉ khác Ngài là một con người
đã đoạn
trừ các lậu hoặc, đã diệt tận tham, sân, si, không còn rơi vào sanh
tử luân hồi.
VI. Thế Tôn với vị trí bậc Đạo Sư.
Nay chúng ta bước qua vị trí bậc Đạo Sư để
tìm hiểu đức Phật, và chính
đức Phật được tôn xưng là bậc
Đạo Sư loài Trời và loài Người (Satthà
devamanussanam). Đức Phật sở dĩ chiếm một địa
vị ưu thế so sánh với các ngoại đạo đương thời là vì Ngài là vị
đầu tiên
để lại cho chúng ta một truyền thống kế thừa rất đặc biệt, khác với các
ngoại đạo cổ xưa, và truyền thống ấy mãi cho
đến ngày nay, sau hơn hai ngàn năm
có mặt trên thế giới này, vẫn còn được
tôn trọng tiếp nối và truyền thừa. Kinh Makhàdeva. Trung Bộ Kinh
II, trang 75, đề cập đến truyền thống của vua
Makkhàdeva, vị vua này khi sợi tóc bạc
đầu tiên hiện ra trên đầu mình,
Ngài liền giao ngôi báu cho hoàng tử, tự mình xuất gia tu
đạo. Vua Makkhàdeva lại dặn hoàng tử
lên ngôi trị vì cho đến khi sợi tóc bạc đầu
tiên mọc lên thời liền trao ngôi báu cho con trai của mình, còn
mình thời xuất gia tu đạo. Vua Makkhàdeva
dặn dò phải giữ gìn truyền thống này đừng cho
gián đoạn. Tuy vậy truyền thống của vua Makkhàdeva
được truyền đến vua Nemi là vị vua
cuối cùng gìn giữ truyền thống này. Con của vua Nemi là Kalara Janaka lại
không tiếp tục truyền thống này; không chịu xuất gia khi sợi tóc bạc
đầu tiên mọc trên
đỉnh đầu mình và do vậy truyền thống
của Makkhàdeva bị chấm dứt. Nhưng truyền thống của
đức Phật lại khác. Chính đức Phật xác nhận
như sau trong Trung Bộ Kinh I, trang 82A:
"Này Ananda, truyền thống ấy của Makhàdeva không
đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch
tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Và Ananda, thế nào là truyền thống
tốt đẹp được Ta thiết lập và truyền
thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt,
tịch tịnh, thương trí, giác ngộ, Niết Bàn? Chính là Thánh
đạo Tám ngành này, tức là Chánh tri
kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm, Chánh định.
Này Ananda đây là truyền thống tốt
đẹp được Ta thiết lập, và truyền thống
ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch
tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Này Ananda, về vấn
đề này Ta nói như sau: "Truyền thống
tốt đẹp này do Ta thiết lập, hãy tiếp
tục duy trì. Các ông chớ có thành người tối hậu sau Ta". Này Ananda, khi
hai người còn tồn tại, và có sự đứt đoạn,
người ấy là người tối hậu vậy. Này Ananda, Ta nói với ông: "Truyền
thống tốt đẹp này do Ta thiết lập các
ông hãy tiếp tục duy trì". Truyền thống kế thừa mà
đức Phật đã
để lại cho chúng ta, chúng ta đã tiếp
tục thừa kế trải hơn 2.000 năm lịch sử, và
cho đến nay, truyền thống kế thừa ấy vẫn được
tiếp tục.
Trong khi các bậc Đạo Sư khác, giới không
thanh tịnh, mạng sống không thanh tịnh, thuyết pháp không thanh tịnh, trả
lời pháp không thanh tịnh, thời bậc Đạo sư của chúng Ta thật là
tuyệt diệu về cả năm phương diện này,
như Tăng Chi II, quyển B miêu tả: "Này
Moggallàna, Ta có giới thanh tịnh và Ta tự rõ biết: "Giới của Ta thanh
tịnh, trong sáng không có uế nhiễm. Các đệ tử
không có che chở Ta về giới. Mạng sống của Ta thanh tịnh trong sáng, không
có uế nhiễm. Các đệ tử Ta không có che chở Ta về mạng sống. Ta không có
chờ đợi các đệ tử che chở Ta về mạng sống. “Thuyết pháp của Ta thanh tịnh,
Ta tự rõ biết: "Thuyết pháp của Ta thanh tịnh trong sáng, không có
uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về
thuyết pháp. Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về thuyết pháp”. Các
câu trả lời của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Các câu trả lời của
ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm. Các
đệ tử không có che chở Ta về các câu trả
lời”. Tri kiến của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Tri kiến của Ta
thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm. Các dệ tử không có che chở Ta
về tri kiến, Ta không có chờ đợi các đệ tử
che chở Ta về tri kiến””.
Một sự đóng góp rất đặc biệt của đức Phật
trong vị trí bậc Đạo Sư của mình là thành lập hai hội chúng: Hội
chúng xuất gia là hội chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, và hội chúng tại gia là
hội chúng nam Cư sĩ và nữ Cư sĩ. Về hội chúng xuất gia, Ngài chế
đặt một số giới luật căn bản để bảo đảm một
đời sống thật sự hòa hợp nhất trí, giới thiệu pháp môn Giới,
Định, Tuệ, hướng dẫn các đệ tử xuất gia tu
học, thoát ly gia đình, thoát ly sự ràng buộc của dục vọng, trọn
đời hành trì Phạm hạnh, cuối cùng
chứng đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát,
vượt khỏi sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết.
Đức Phật là vị Giáo chủ
đầu tiên thiết lập Giáo hội Tăng
già cho phép phái nữ xuất gia và xác chứng các Tỳ kheo ni có khả năng
chứng được quả A-la-hán tối thượng, không khác gì nam giới. Trải
hơn 2500 năm Giáo hội vẫn còn tồn tại,
tuy có một vài sự thay đổi không đồng bộ.
Đối với hội chúng tại gia, nam Cư sĩ, nữ Cư sĩ đức Phật dạy thọ ba quy
y, năm giới, từ bỏ mười ác hạnh, th ành tựu mười thiện hạnh, có
quyền thọ hưởng các dục nhưng không đi đến
say đắm đam mê, làm các công đức. Lời
giáo huấn của Ngài rất rõ ràng. Muốn sống hạnh phúc, phải sống theo
giới luật của người tại gia, thâu hoạch tài sản
đúng pháp do tự cánh tay, tự mình
đổ mồ hôi làm ra,
đặc biệt là phải làm các hạnh lành.
Những lời dạy này của đức Phật mãi cho
đến nay vẫn được các Phật tử hành trì
và được xem là mẫu mực tốt
đẹp cho một đời sống văn minh đạo đức.
Một đặc điểm nữa của bậc Đạo Sư chúng ta là
Ngài có một lòng ưu ái rất đặc biệt đối với
các đệ tử của Ngài, luôn luôn sách tấn họ tận lực tu hành: Như
được thấy trong các đoạn kinh sau đây (Trung
Bộ Kinh III, 96): "Này Ananda, những gì bậc
Đạo Sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn,
mưu tìm hạnh phúc cho các đệ tử, những
điều ấy đã
được Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta
đối với người. Này Ananda
đây là những gốc cây.
Đây là khoảng nhà trống. Hãy tu Thiền,
này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau.
Đây là lời dạy của Ta cho các ông".
Một ưu điểm trong sứ mệnh hoằng pháp độ
sanh của đức Phật là Ngài luôn luôn giữ
đúng vị trí của một bậc Đạo Sư đối với các đệ
tử. Trong kinh Ganaka Moggallàna, Bà-la-môn Ganaka hỏi
đức Phật: “Có phải khi Sa-môn Gotama giảng
dạy như vậy, tất cả đệ tử của Ngài đều
chứng được cứu cánh Niết Bàn?" Đức
Phật đã trả lời là một số chứng được
cứu cánh Niết Bàn, một số không chứng
được. Ganaka bèn hỏi: "Do nhân gì, duyên gì, trong khi có Niết Bàn,
trong khi có một con đường đưa đến Niết Bàn,
trong khi có một Tôn giả Gotama được Tôn giả
là bậc chỉ đường, tuy vậy các đệ tử
Tôn giả Gotama được Tôn giả khuyến giáo, bảo vệ giảng dạy như vậy, mà
một số chứng được cứu cánh Niết Bàn và
một số không chứng được?”
Đức Phật trả lời một cách rất nhẹ nh àng, khiêm tốn, nhưng cũng
rất thiết thực và tuyệt diệu. Ngài giữ đúng
vị trí của bậc Đạo Sư đối với các đệ
tử: "Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi có một Niết Bàn, có một
con đường đưa đến Niết Bàn, và trong
khi có mặt Ta là người chỉ đường. Nhưng các
đệ tử của Ta được Ta khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng
được cứu cánh Niết Bàn một số không chứng
được. Ở đây, này Bà-la-môn, Ta làm gì
được? Như Lai chỉ là người chỉ
đường” (Trung Bộ Kinh III, trang
l05).
Câu trả lời của đức Phật vừa nói lên
trách nhiệm của một bậc Đạo Sư là
trình bày giảng dạy con đường giải
thoát giác ngộ, chứ không phải thay thế đệ tử
tu hành giúp cho các đệ tử. Thái độ
đức Phật trong tư cách của một bậc Đạo Sư cũng nói lên lòng tin
tưởng của mình đối với khả năng hiểu biết và
tu chứng của mình đối với khả năng hiểu biết
và tu chứng của các đệ tử của mình.
Ngài chỉ dạy con đường, các dệ tử phải tự mình
dấn bước trên con đường ấy. Không những đức
Phật đóng đúng vị trí bậc Đạo Sư đối với các đệ tử. Ngài còn
đặt ra những tiêu chuẩn
để hướng dẫn các đệ tử phải tìm thầy
học đạo như thế nào
để có thể được giải thoát giác ngộ, như đã
trình bày trong kinh Khu rừng, Trung Bộ Kinh I, trang l08:
"Vị Tỳ kheo đệ tử cần phải suy tư như sau:
“Ta sống gần người này, các niệm chưa an trú
được an trú, tâm chưa định tĩnh được định
tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn
đoạn trừ, được đoạn trừ, và vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa
được thành
đạt được thành
đạt, và những vật dụng này cần thiết
cho một đời sống xuất gia phải được sắm đủ,
như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật
dụng này nhận được một cách không khó khăn”.
Chư Tỳ kheo, vị Tỳ kheo ấy cần phải trọn đời theo sát người này,
không được bỏ
đi, dầu cho có bị xua đuổi”.
Như vậy tiêu chuẩn của một bậc Đạo sư lý
tưởng đối với các đệ tử, một mặt phải đem lại những vật dụng vật chất cần
thiết để nuôi đưỡng người đệ tử, một mặt phải đáp ứng nhu cầu giải thoát
giác ngộ của người đệ tử “Niệm chưa an trú được an trú, tâm chưa được định
tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa hoàn toàn
đoạn trừ
được hoàn toàn đoạn trừ”.
Như vậy đoạn này trình bày rõ ràng
những tiêu chuẩn để người đệ tử lựa chọn bậc
Đạo sư, và bổn phận bậc Đạo sư cần
phải làm đối với đệ tử.
Kinh Đại Không, Trung Bộ Kinh III,
trang 267 lại minh định rõ ràng hơn
những tiêu chuẩn, một đệ tử Thanh văn nghĩ là
hợp lý xứng đáng để đi theo một bậc Đạo sư
dầu cho bị hắt hủi. Nếu bậc Đạo sư có khả năng giảng dạy Khế kinh và
Phúng tụng v.v... thật chưa xứng đáng
cho một đệ tử bám sát theo vị Đạo sư dầu cho bị hắt hủi vì rằng:
"Trong một thời gian dài, các pháp đã
được các người nghe, thọ trì,
đọc lớn tiếng, suy tư với ý, khéo thấu hiểu
với Chánh trí. Nhưng này Ananda, đối
với những lời nói nào khắc khổ, khai tâm,
đưa đến nhất hướng ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, Niết Bàn, như là Thiểu dục luận, Tri túc luận,
Độc cư luận, Bất chúng hội luận, Tinh cần
luận, Giới luận, Định luận, Tuệ luận, Giải thoát luận, Giải thoát trí kiến
luận. Này Ananda, do nhân duyên những loại thuyết luận như vậy,
thật xứng đáng cho một Thanh văn đệ tử bám
sát vị Đạo sư dầu cho bị hất hủi. Nói một cách rõ ràng hơn, chỉ có
bậc Đạo sư dạy cho các đệ tử đạt được Thiểu
dục, Tri túc, Độc cư, Bất chúng hội, Tinh cần, Giới, Định, Tuệ, Giải
thoát, Giải thoát tri kiến mới thật xứng đáng cho người đệ tử trọn đời
theo vị ấy dầu cho bị hất hủi. Và chúng ta có thể nói một bậc
Đạo sư đáp ứng được những tiêu chuẩn
như trên sẽ không bao giờ hất hủi một vị đệ
tử nhiệt thành như vậy. Cũng trong kinh
Đại Không,
đức Phật yêu cầu các
đệ tử đối
với Ngài nên đối xử với tâm thân hữu,
không với tâm thù nghịch, vì như vậy các
đệ tử sẽ được hạnh phúc lâu dài: "Và
như thế nào, là các đệ tử đối xử vị Đạo sư
với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu?...". "Ở
đây này Ananda, vị
Đạo sư vì lòng từ mẫn thuyết pháp cho
các đệ tử, mong cầu hạnh phúc cho các đệ tử,
vì lòng từ mẫn nói rằng: "Đây là
hạnh phúc cho các ông, đây là an lạc
cho các ông". Nhưng các đệ tử của vị ấy không
chịu nghe theo, không chịu lóng tai, chú tâm vào hướng khác
(annan), ngược lại, họ đi xa lời giảng dạy
của vị Đạo sư. Này Ananda, như vậy là các
đệ tử đối xử với bậc
Đạo sư, với tâm thù nghịch, không với
tâm thân hữu. Và như thế nào này Ananda, là các
đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thân
hữu, không với tâm thù nghịch? Ở đây,
này Ananda vị Đạo sư với lòng từ mẫn
nói rằng: "Đây là an lạc cho các ông".
Các đệ tử của vị ấy chịu nghe theo, chịu lóng
tai, không chú tâm vào hướng khác, và không ngược lại
đi xa lời dạy của bậc Đạo sư. Này
Ananda, như vậy là các đệ tử đối xử với bậc
Đạo sư với tâm thân hữu, không phải với tâm thù nghịch. Do vậy, này
Ananda, như vậy hãy đối xử với Ta với tâm
thân hữu, chớ với tâm thù nghịch và như vậy sẽ là hạnh phúc, là an
lạc lâu dài cho các ông".
Đến đây, đức Phật tuy ên bố rõ ràng là Ngài không sách tấn các
đệ tử của Ngài như người thợ gốm
đối với đồ gốm chưa nung, chưa dược nung chín
vì sợ các đồ gốm chưa được nung sẽ bị
bể và đức Phật tuyên bố: "Ta sẽ
nói hết lời chỉ trích này đến lời chỉ trích
khác, hết lời tán thán này đến lời tán
thán khác”, nghĩa là các đệ tử nào
xứng đáng bị rầy la thời Ngài rầy là
thẳng thắn, không nhân nhượng. Và những đệ tử
nào xứng đáng được tán thán thời bậc
Đạo sư của chúng ta nói lên những lời tán thán, không có tiếc lời.
Và Ngài giải thích vì sao Ngài có thái độ như
vậy. “Vì cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ tồn tại lâu dài (yo sàro so
thassati)". Bậc Đạo sư dạy cho các đệ tử đạt
cho được lõi cây của Phạm hạnh, không dừng lại ở giác cây, vỏ
trong, vỏ ngoài và cành lá của Phạm hạnh, vì chỉ khi nào
đạt được lõi cây Phạm hạnh, nghĩa là
thật sự giác ngộ và giải thoát, khi ấy vị đệ
tử mới đạt được cứu cánh của sự tu hành hoàn toàn
được hạnh phúc an lạc lâu dài. Thật sự
chúng ta có một bậc Đạo sư tha thiết mong cho
các đệ tử của mình, xuất gia cũng như tại gia,
được chân hạnh phúc. Và hạnh phúc lâu
dài chỉ đến với những vị thật sự giải thoát,
thật sự giác ngộ.
Như vậy, chúng ta đã lần lượt trình
bày về "Đức Phật của chúng ta” dưới sáu đặc
điểm:
1. Đức Phật với mục đích duy nhất cứu
khổ, độ sanh.
2. Ngang qua kinh nghiệm bản thân, Ngài tìm ra con
đường giải thoát cho mình và cho mọi
loài.
3. Vị trí có một không hai của đức Phật.
4. Đức Phật với thần thông.
5. Đức Phật với vị trí con người.
6. Đức Phật với vị trí là một
bậc Đạo sư.
Với sáu đặc điểm trên, và dựa trên
những tư liệu kinh tạng Pali, chúng tôi chỉ có thể xem là tạm
đủ để trình bày một vài
đặc điểm về thân thế và sự nghiệp của
bậc "Đạo sư của chúng ta”. Hình ảnh
dầu cho chưa đầy đủ này cũng giúp
chúng ta thấy rõ, đức Phật luôn luôn đứng trên
vị trí con người để tầm đạo, học đạo, tu tập
Thiền quán và chứng ngộ đạo quả và
hoằng pháp độ
sanh. Không bao giờ Ngài cầu khẩn thần linh ban phước, thần khởi, Ngài
hoàn toàn dựa vào tín lực, tấn lực, niệm lực,
định lực và tuệ lực của con người ở trong Ngài
để tìm ra
được phương pháp giải thoát giác ngộ.
Cũng vậy, trong nhiệm vụ độ sanh, Ngài
hoàn toàn dựa trên tâm lý con người, hướng dẫn con người hướng thượng,
giúp con người thoát khỏi các cám dỗ của dục vọng hạ liệt làm hại phẩm giá
con người, giúp con người
vươn lên đạt được những tâm lý hướng
thượng, bằng phương pháp Thiền định, Thiền quán và cuối cùng dùng
trí tuệ để đoạn tận khổ đau. Chúng ta có thể
nói đức Phật là một con người toàn diện, sử dụng toàn diện khả năng
con người để được giác ngộ giải thoát.
(Bài giảng nhân mùa Phật
Đản,
Phật lịch 2539 - 1995 tại Thiền Viện Vạn Hạnh)
2. VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CÓ
TRÍ, CỦA TRÍ TUỆ TRONG
ĐẠO PHẬT
Mục đích của
đạo Phật là diệt khổ và
đem vui cho mọi loài, nhưng phải là
người có trí mới biết được con đường đưa đến
an lạc và hạnh phúc. Mục đích của đạo
Phật là giải thoát và giác ngộ, và chỉ có trí tuệ (Pannà) mới là
phương tiện duy nhất đưa loài Người
đến bờ giải thoát và giác ngộ.
Do vậy vai trò của người có trí và vai trò của trí tuệ chiếm cứ vị trí
then chốt trong mọi lời dạy của đức Bổn Sư
chúng ta. Và chúng ta có thể nói đạo
Phật là đạo của người có trí, là
đạo của tuệ giác để tìm cho dược một
định nghĩa thỏa đáng cho đạo Phật.
Trước hết chúng ta nên phân biệt giữa người có trí thức như thông
thường được hiểu và người có trí tuệ
như đạo Phật thường định nghĩa. Người có trí
thức là người có thể có một tri thức uyên bác về một vấn
đề gì, có thể phân tích trình bày vấn
đề ấy một cách khúc chiết và triệt
để, nhưng người ấy là người chỉ có
biết chớ không có hành, và người ấy đối với
vấn đề ấy vẫn có thể bị chi phối, không
được tự tại. Ví như một người có thể
hiểu biết rất nhiều về vấn đề rượu, hiểu rượu
gồm có những chất liệu gì, tác động
của rượu đến với cơ thể như thế nào, các sự nguy hại của rượu như
thế nào. Người ấy gọi là người có trí thức về rượu nhưng người ấy vẫn uống
rượu, vẫn bị say ruợu, vẫn bị rượu chi phối. Như vậy, người ấy chưa có trí
tuệ về rượu. Trái lại, một người hiểu rõ được
rượu là gì, biết rõ được sự nguy hại
của rượu, lại có khả năng không bị rượu chi phối, không uống rượu, không
nghiện rượu, không say rượu, vượt ra khỏi sự chi phối của rượu. Như vậy
người ấy được xem là người có trí tuệ về rượu. Có người hỏi, nếu có
người không có tri thức về rượu, nhưng không uống rượu, người ấy có
được xem là có trí tuệ không, lẽ dĩ
nhiên là không. Người ấy vẫn hưởng được những
lợi ích do không uống rượu đưa đến, như không say rượu, không nghiện rượu
do cử chỉ không uống rượu của mình. Nhưng rất có thể, trong một
trường hợp đặc biệt nào
đó, vì thiếu khả năng
đối trị với sự cám dỗ của rượu, vị ấy sẽ bắt đầu uống rượu, đi đến say
rượu và nghiện rượu. Với sự phân biệt này chúng ta mới hiểu
được định nghĩa người có trí như đã
được đức Phật định nghĩa rất rộng rãi
trong những lời dạy của Ngài.
Tăng I, trang 113 nêu rõ sự sai
khác một trời một vực giữa người ngu và người trí: "Thành tựu ba pháp,
người ngu được biết đến. Thế nào là
ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Thành tựu ba pháp, người trí
được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm
thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện" .
Một sự sai khác rõ rệt nữa giữa người ngu và kẻ trí là
đối với các cảm thọ. Người ngu khi gặp khổ
thọ về thân, thời sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh.
Đức Phật ví dụ như người rơi vào vực thẳm, không
đứng trên bờ, không
đạt chỗ chân đứng an toàn. Còn bậc
trí, đối với khổ thọ về thân, thời “Không sầu
muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không đi đến bất
tỉnh”. Như vậy đức Phật dạy vị ấy được gọi là: "Bậc Thánh
đệ tử nghe nhiều đã
đứng trên bờ vực thẳm,
đã đạt
tới chỗ chân đứng an toàn". (Tương IV, 212). Bậc
Đạo Sư lại nói thêm. Người ngu si nghe
ít, khi cảm xúc khổ thọ, thời sầu muộn, than van...
đi đến bất tỉnh, như vậy cảm thọ hai loại cảm
thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm.
Đức Phật ví như người bị bắn trúng hai mũi tên,
vừa đau khổ về thân vừa đau khổ về tâm. Lại
nữa, người ngu si ít nghe, khi cảm xúc khổ thọ, cảm thấy sân hận nên
sân tùy miên tồn tại và tăng trưởng. Vị ấy tìm
sự xuất ly khỏi khổ thọ bằng cách hoan hỷ dục lạc, do không tìm
được một xuất ly nào khác. Do hoan hỷ
dục lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọ tồn
tại và tùy tăng. Vị ấy không như thật
biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
của các cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên
đối với bất khổ bất lạc thọ tồn tại và tùy tăng.
Như vậy, nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ
bất lạc thọ, vị ấy cảm giác như người bị trói buộc. Ở đây, đức Phật dạy:
“Người ngu si nghe ít, bị trói buộc bởi sanh, già, bệnh, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi
đau khổ”. (Trang 213-214).
Còn đối với bậc Thánh đệ tử nghe nhiều,
khi cảm xúc khổ thọ, không có sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi
đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm giác một cảm thọ, tức cảm thọ về thân, không
cảm thọ về tâm. Đức Phật ví như người bị bắn bởi một mũi tên, chỉ
đau khổ về thân, không đau khổ về tâm. Lại
nữa, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không cảm thấy sân
hận nên sân tùy miên không tồn tại tăng
trưởng. Vị ấy tìm được sự xuất ly ra
khỏi khổ thọ, ngoài dục lạc. Vị ấy không hoan hỷ dục lạc, nên tham
tùy miên đối với dục lạc không có tồn tại,
không có tùy tăng. Vị ấy như thật tuệ
tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly
của những cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tuy miên
đối với bất khổ bất lạc thọ không tồn tại, không có tùy tăng.
Như vậy, vị Thánh đệ tử nghe nhiều ấy cảm
giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có như
người bị trói buộc. Ở đây, đức Phật
dạy: “Vị Thánh đệ tử nghe nhiều, không bị trói buộc bởi sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói người ấy không bị trói buộc bởi
đau khổ”. (Trang 214-215).
Được hỏi sự sai khác giữa người ngu v à bậc Hiền trí,
đối với các thân do vô minh che đậy, do ái
phược ràng buộc khởi lên quan điểm có
thân này, có danh sắc ở ngoài. Do duyên thân này, có sáu xúc xứ và
có cảm thọ lạc khổ. Vậy có sự sai khác gì giữa bậc Hiền trí và kẻ ngu?
Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, bị vô
minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân này
của người ngu được sanh khởi. Vô minh ấy,
người ngu không đoạn tận. Tham ái ấy người ngu không tận trừ. Vì cớ
sao? Này các Tỳ kheo, người ngu sống Phạm hạnh không phải vì chân chánh
đoạn tận khổ đau. Do vậy, người ngu, khi thân
hoại mạng chung, đi đến một thân khác. Do đi đến một thân khác, vị ấy
không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Ta nói
rằng vị ấy không thoát khổ đau”. (Tương ưng
II, 28-29).
"Và này các Tỳ kheo, bị vô minh che đậy,
bị tham ái trói buộc, thân người Hiền trí được sanh khởi. Vô minh ấy người
Hiền trí đoạn tân. Tham ái ấy, người Hiền trí tận trừ. Vì cớ sao?
Này các Tỳ kheo, người Hiền trí sống Phạm hạnh, vì chân chánh tận trừ khổ
đau. Do vậy người Hiền trí khi thân hoại mạng
chung không đi đến một thân khác. Do không đi đến một thân khác, vị ấy
giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng
vị ấy thoát khỏi đau khổ”. (Tương II, 28-29).
Một phân biệt tế nhị nữa là người có trí ưa thích im lặng như biển lớn,
như cái gì đầy tràn, như ao
đầy nước, còn kẻ ngu thì ồn ào như khe
núi, như cái gì trống rỗng, như ghè vơi nước:
"Hãy học các dòng nước
Từ khe núi vực sâu;
Nước khe núi chảy ồn,
Biển lớn đầy im lặng.
Cái gì trống kêu to,
Cái gì đầy yên lặng,
Ngu như ghè vơi nước,
Bậc trí như ao đầy” (Tiểu Bộ I ,
106)
Có người hỏi vì sao bậc có Trí sống Phạm hạnh rừng sâu,
ăn một ngày một bữa, lại có dung sắc
thù diệu, còn kẻ ngu lại héo mòn, như lau xanh rời cành.
Đức Phật trả lời với bài kệ:
"Thường sống trong rừng núi,
Bậc Thánh sống Phạm hạnh
Một ngày ăn một bữa,
Sao sắc chúng thù diệu?
Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp đên,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy sắc thù diệu.
Do mong việc sắp tới,
Do tham việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh rời cành". " (Tương Ưng I, 6)
Một số sự sai biệt nữa giữa người ngu kẻ trí
được khéo diễn tả trong một số bài kệ
sau đây:
"Người ngu si thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật,
Người trí không phóng dật,
Như giữ tài sản quý". (Pháp Cú 26)
"Người trí dẹp buông lung
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Bậc trí không âu lo,
Nhìn chúng sinh sầu muộn,
Chẳng khác đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu đất bằng!”
(Pháp Cú 28)
Đối với đời, người ngu kẻ trí có thái độ thật sai khác:
"Hãy đến nhìn
đời này
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Bậc trí nào đắm say". (Pháp
Cú 7)
Nhiều khi sự sai biệt giữa người trí kẻ ngu, sai biệt chỉ bằng gang
tấc, tiến tới thành người ngu, dừng lại là bậc trí:
"Người ngu nghĩ mình ngu,
Như vậy thành có trí,
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi chí ngu". (Pháp Cú 64)
Một sự sai khác, khá rõ rệt là thái độ
người ngu kẻ trí đối với Chánh pháp:
"Người ngu dù trọn đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp
Như muỗng với vị canh.
Người trí dù một khắc,
Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh" . (Pháp Cú 64-65)
Ở nơi đây chúng ta cũng đã thấy vì
sao, người ngu hay xuyên tạc lời dạy của đức
Phật, còn người Hiền trí bao giờ cũng giữ một thái
độ đứng đắn, trung thành với lời dạy
của Ngài: "Này các Tỳ kheo, có hai hạng người này hay xuyên tạc Như Lai.
Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không
nói không thuyết. Và người nêu rõ Như Lai không nói không thuyết là Như
Lai có nói có thuyết".
"Này các Tỳ kheo, có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai. Thế
nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói có thuyết là Như Lai có nói có
thuyết. Và người nêu rõ Như Lai không nói không thuyết là Như Lai không
nói không thuyết". (Tăng I, 72-73)
Khi chúng ta đã hiểu
được định nghĩa người có trí ngang qua một số
lời dạy của đức Phật, chúng ta nay có khả năng trình bày các
định nghĩa căn bản của trí tuệ (Pannà,
prajnà) trong đạo Phật và khả năng
của trí tuệ đưa đến giác ngộ và giải thoát.
Trước hết là một số định nghĩa căn bản của
trí tuệ: "Như thế nào được gọi là
trí tuệ? Vì có tuệ tri, vì có tuệ tri nên
được gọi là trí tuệ. Tuệ tri gì? Tuệ tri (Pajànàti)
đây là Khổ. Tuệ tri
đây là Khổ tập. Tuệ tri
đây là Khổ diệt. Tuệ tri
đây là con
đường đưa đến Khổ diệt. Vì tuệ tri, vì
tuệ tri nên được gọi là trí tuệ.
(Trung I, 293)". Như vậy trí tuệ là biết với tuệ tri: biết sự kiện, biết
sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt,
biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm
định nghĩa này là tuệ tri vị ngọt
(Assàda), tuệ tri sự nguy hiểm (àdinavà), và tuệ tri sự xuất ly
(nissarana) của các pháp và do vậy nói chung có tất cả bảy lãnh vực cần
phải tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với
bất cứ sự kiện nào, dù tốt hay xấu cũng vậy. Như lấy dục làm
đối tượng, thời phải tuệ tri dục, dục tập
khởi, dục đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị ngọt của dục, sự
nguy hiểm của dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như vậy mới gọi
là tuệ tri.
Một định nghĩa nữa của trí tuệ
được đề cập đến. “Thế nào là tuệ lực?
Ở đây, vị Thánh đệ tử có trí tuệ, thành
tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con
đường đoạn tận khổ
đau (Tăng II, B trang 28)”. Trí tuệ về
sanh diệt tức là tuệ tri sự tập khởi và sự
đoạn diệt các pháp, như trước chúng ta đã thấy. Nay có thêm
định nghĩa mới là sự thể nhập bậc
Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. Danh từ
Pàli chuyên môn là Ariyàya nibbedhikàya sammàdukkha-kkhaya-gàminiyà
(D. III, 237). Ở đây chữ Nibbedhikàya
có hai cách dịch, một là sự thể nhập, đi sâu
vào con đường có khả năng đoạn tận khổ
đau, tức là có khả năng giải thoát
khỏi đau khổ. Cách dịch thứ hai là có khả năng
đâm thủng dục lậu hữu lậu, vô minh lậu, hay tham, sân, si để cuối cùng
đoạn tận khổ đau. Như vậy trí tuệ,
ngoài khả năng tuệ tri sự tập khởi và
sự đoạn diệt, còn có khả năng
đâm thủng được vô minh để cuối cùng
được giải thoát. Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ rệt hơn càng
nâng diệu dụng của trí tuệ (Pannà). "Trí tuệ có nghĩa là thắng tri
(abhinnàttha), có nghĩa là liễu tri (parinnattha), có nghĩa là
đoạn tận (pahànattha)".
Như vậy trí tuệ có khả năng thắng tri, tức
là biết với Thiền định, và
Thiền định đây là Thiền
định bất động thứ tư. Lại có khả năng liễu
tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng
đoạn tận các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham,
sân, si, chấm dứt khổ đau. Cho được rõ ràng hơn, chúng ta cần phân
biệt tưởng tri (sanjànàti) nhờ tưởng (sannà)
đưa đến, thức tri (vijànàti) do thức (vinnàna)
đưa đến, và ý tri (Jànàti) do ý
(manas) đưa đến. Tưởng tri, thức tri và
ý tri là ba sự hiểu biết thông thường của thế gian,
đưa đến sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật,
triết học, bác học v.v... Đạo
Phật đóng góp thêm thắng tri và tuệ tri sự hiểu biết ngang qua
Thiền định, tạo thêm sức mạnh cần
thiết để con người làm chủ
được bản thân, làm chủ
được hoàn cảnh. Tuệ tri
đưa đến một hiểu biết toàn diện, hoàn
mãn, có khả năng đâm thủng vô minh, đoạn tận
tham, sân, si, đưa đến chấm dứt khổ đau. Nhưng tri tuệ chưa phải là
cứu cánh mà chỉ là phương tiện đưa đến giải
thoát. Với tri tuệ như vậy, vị ấy sanh nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt, từ bỏ và cuối cùng
đưa đến giải thoát, theo tiến trình
như sau: "Do nhàm chán nên ly tham; do ly tham nên giải thoát. Trong sự
giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã
giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã
tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm. Nay không còn trở lui
trạng thái này nữa" (Tương ưng IV, 29).
Như vậy vai trò của trí tuệ là lựa chọn các
đối tượng để quán tri, để tuệ tri, và
nhờ tuệ tri mới đưa đến nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt, từ bỏ và cuối cùng là
giải thoát. Các đối tượng rất nhiều, tùy
theo pháp môn lựa chọn, tùy theo căn cơ của
vị hành giả nhưng nếu đối tượng có
khác, pháp môn tu tập có khác, tiến trình giải thoát có thể xem là
giống nhau hay gần giống nhau.
Sau đây là một số tiến trình giải
thoát, trích thuật từ kinh tạng Pàli, nói lên vai trò của trí tuệ
đưa đến giải thoát và giải thoát tri
kiến. Trong kinh Xà Dụ, đối tượng cần phải
tuệ quán là năm thủ uẩn: Sắc, thọ,
tường, hành, thức, bất cứ năm thủ uẩn
nào, quá khứ, vị lai, hiện tại; nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay
thắng, xa hay gần, tất cả năm thủ uẩn cần
phải được tuệ quán: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi. Nhờ tuệ quán như vậy, vị
Đa văn Thánh
đệ tử yểm ly sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. Do yểm ly nên ly tham, do ly tham nên
được giải thoát. Trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: "Ta
đã được
giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái
này nữa" (Trung I, 138b).
Trong Đại Kinh Mã ấp,
đối tượng cần phải tuệ quán là khổ và
các lậu hoặc. Vị hành giả cần phải tuệ tri: "Đây
là Khổ"; "Đây là Khổ tập"; "Đây
là Khổ diệt", "Đây là con
đường đưa đến Khổ diệt”. “Đây là những
lậu hoặc"; "Đây là lậu hoặc tập khởi";
"Đây là những lậu hoặc
đoạn diệt”; “Đây là con
đường đưa đến lậu hoặc diệt”. Nhờ tuệ tri như
vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy,
khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải
thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm
đã làm. Sau
đời hiện tại, không có
đời sống nào khác nữa" (Trung I, trang
279).
Trong kinh Đoạn giảm, đối tượng cần phải
tuệ quán là các sở kiến. "Này Cunda, những loại sở kiến này khởi
lên trên đời, hoặc liên hệ
đến ngã luận hoặc liên hệ
đến thế giới luận, chỗ nào những sở
kiến này tiềm ẩn và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như
thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi. Có vậy thời có sự
đoạn trừ các sở kiến ấy có sự xả ly
những sở kiến ấy" (Trung I, 40-40a).
Trong kinh Mật Hoàn, đối tượng được lựa
chọn là các vọng tưởng hý luận (papancasan-nasankhà): "Này các Tỳ
kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người.
Nếu ở đây không có gì
đáng tùy hỷ,
đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là
sự đoạn tận tham tùy miên, sự
đoạn tận sân tùy miên, sự
đoạn tận mạn tùy miên, sự
đoạn tận hữu ái tùy miên, sự
đoạn tận vô minh tùy miên, sự
đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm,
đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng
tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở nơi đây, những ác bất thiện pháp này
đều được tiêu diệt, không có dư tàn"
(Trung I, 110).
Trong kinh Song Tầm, đức Phật kể lại kinh
nghiệm của Ngài khi Ngài chưa giác ngộ, Ngài
đã sử dụng bất thiện tầm và thiện tầm
như thế nào để hành trì Giới,
Định, Tuệ, cuối cùng
đưa đến giải thoát, giác ngộ. Ngài
chia các loại tầm ra hai loại: Bất thiện tầm và dục tầm, sân tầm, hại tầm,
và thiện tầm là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Khi dục tầm, sân tầm,
hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: "Các bất thiện tầm này khởi nơi Ta,
và các bất thiện tầm này đưa đến tự hại,
đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt
trí tuệ, dự phần vào phiền não, không
đưa đến Niết Bàn". Khi Bồ Tát khởi lên suy tư như vậy thời các bất
thiện tầm biến mất, và vị Bồ Tát tiếp tục từ bỏ, tẩy trừ, chấm dứt các bất
thiện tầm khởi lên.
Khi ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri:
"Các thiện tầm này khởi nơi Ta; và các thiện tầm này không
đưa đến tự hại, không đưa đến hại người,
không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào
phiền não, đưa
đến Niết Bàn. Nếu ban
đêm, Ta suy tầm suy tư về ly dục tầm,
vô sân tầm, bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi. Nếu
ban ngày, Ta suy tầm suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, không
phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Và nếu Ta suy tầm suy tư quá lâu
thân thể Ta có thể mệt mỏi. Khi thân mệt mỏi, thì tâm bị dao
động. Khi tâm bị dao động, thì tâm xa
lìa định tĩnh. Rồi tự nội thân, Ta trấn an
tâm, trấn định tĩnh. (Trung I, 116-116A)”. Với tâm định tĩnh như vậy, vị
Bồ Tát đoạn trừ năm triền cái, chứng sơ Thiền, nhị Thiền, tam Thiền, tứ
Thiền; chứng Túc mạng trí, Thiên nhãn trí, Lậu tận trí và cuối cùng
được giải thoát giác ngộ”.
Nay chúng tôi đề cập đến lý duyên
khởi để giải thích vai trò của trí
tuệ, lấy con người làm đối tượng để tuệ quán,
và từ nơi đây, vừa tìm
được công thức đưa đến sự có mặt của con
người và sự tập khởi của toàn bộ năm
thủ uẩn, vừa tìm được công thức duyên
diệt, đưa đến sự chấm dứt sanh tử và
toàn bộ năm thủ uẩn này, như
đã được
diễn tả trong Ái Tận Đại Kinh (Trung I
trang 261b).
Trước hết, đức Phật đặt vấn đề sự có mặt
của con người (Bhùta), sự có mặt này lấy bốn thức
ăn làm nhân duyên, làm tập khởi, làm
sanh chủng, làm hiện hữu, và một khi bốn món
ăn này đoạn diệt thì cũng chấm
dứt sự có mặt của sinh vật này. Sinh vật đã
do bốn món ăn làm tập khởi ái do thọ
làm tập khởi, thọ do xúc làm tập khởi, xúc do sáu xứ làm tập khởi, sáu xứ
do danh sắc làm tập khởi, danh sắc do thức làm tập khởi, thức do hành làm
tập khởi, hành do vô minh làm tập khởi. Như vậy duyên vô minh có hành,
duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ,
duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ,
duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ năm
thủ uẩn.
Như vậy, do duyên sanh nên có già chết, do duyên hữu nên có sanh, do
duyên thủ nên có hữu, do duyên ái nên có thủ, do duyên thọ nên có ái, do
duyên xúc nên có thọ, do duyên sáu xứ nên có xúc, do duyên danh sắc nên có
sáu xứ, do duyên thức nên có danh sắc, do duyên hành nên có thức, do duyên
vô minh nên có hành. Như vậy đức Phật xác
chứng duyên sanh của toàn bộ khổ uẩn tức là con người với công
thức: "Cái này có mặt, cái đây có mặt. Cái này
sanh, cái đây sanh”. (Imasmin sati, idam
hoti, Imass uppadà, idam uppajjati).
Từ lý duyên sanh, đức Phật đi đến lý duyên
diệt. Do vô minh đoạn diệt xả ly một cách hoàn
toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt, do thức diệt nên danh sắc
diệt, do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt, do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do
xúc diệt nên thọ diệt, do thọ diệt nên ái diệt, do ái diệt nên thủ diệt,
do thủ diệt nên hữu diệt, do hữu diệt nên sanh diệt, do sanh diệt, nên
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ năm
thủ uẩn diệt.
Như vậy do sanh diệt nên già chết diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt, do
thủ diệt nên hữu diệt, do ái diệt nên thủ diệt, do thọ diệt nên ái diệt,
do xúc diệt nên thọ diệt, do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do danh sắc diệt
nên sáu xứ diệt, do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do danh sắc diệt nên sáu xứ
diệt, do thức diệt nên danh sắc diệt, do hành diệt nên thức diệt, do vô
minh diệt nên hành diệt. Như vậy đức Phật xác
chứng lý duyên diệt với công thức: "Cái này không có mặt, cái
đây không có mặt. Cái này diệt, cái
đây diệt”. (Imasmin asati, idam na hoti.
Imassa nirodhà, idam nirajjati). Vị hành giả, với trí tuệ biết
được hai công thức duyên sanh và duyên
diệt, nên sau khi giữ giới, sau khi chứng bốn Thiền
định, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, vị
ấy không tham ái đối với sáu trần khả ái, không ghét bỏ đối với sáu trần
không khả ái, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với một tâm vô
lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát tuệ giải thoát. Chính nhờ
chúng, các bất thiện pháp được trừ diệt một
cách hoàn toàn. Như vậy, vị ấy từ bỏ thuận ứng nghịch ứng, có cảm
thọ nào khởi lên, vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không
đắm trước thọ ấy. Vì vị ấy không có
tùy hỉ, không có hoan nghênh, không có đắm
trước, nếu có dục hỷ khởi lên, đối với
các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt không có dư tàn. Do dục hỷ của
vị ấy diệt nên thủ diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do hữu diệt nên sanh
diệt, do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là
sự đoạn diệt của toàn bộ năm
thủ uẩn này.
Như vậy, với những đối tượng sai khác như
năm thủ uẩn, khổ và các lậu hoặc, các sở kiến, các vọng tưởng hý
luận, các bất thiện tầm và các thiện tầm, lý duyên khởi, trí tuệ
đóng một vai trò then chốt trong trách
nhiệm tuệ tri các đối tượng, liễu tri các đối
tượng, cuối cùng đoạn tận được các lậu
hoặc để chứng quả A-la-hán.
Để n êu rõ định nghĩa và vai
trò của trí tuệ hơn nữa, chúng tôi ghi chép sau
đây một vài câu Phật dạy trích dẫn từ
kinh tạng Pàli để chứng minh các sự giải
thích trên:
"Tất cả hành vô thường
Với Tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán,
Chính con đường thanh tịnh.
Tất cả hành khổ đau,
Với Tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán,
Chính con đường thanh tịnh.
Tất cả pháp vô ngã,
Với Tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán,
Chính con đường thanh tịnh”. (Pháp
Cú 277, 278, 279)
"Thấy Khổ và Khổ tập
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy Đường Thánh tám nghành,
Đưa đến
khổ não tận". (Pháp Cú 191)
"Mắt thịt, mắt chư Thiên,
Vô thượng, mắt trí tuệ,
Cả ba loại mắt ấy
Được bậc Vô thượng nhân,
Đã tuyên bố trình bày ...
Từ đây trí khởi lên.
Tuệ nhãn là tối thượng
Ai chứng được mắt ấy
Giải thoát mọi khổ đau”.
(Phật Thuyết Như vậy, Trang 457-458)
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục | 01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06
|
|