|
 |
Chánh Pháp và
Hạnh Phúc
Hòa thượng
Thích Minh Châu |
 |
13. NĂM
GIỚI, MỘT NẾP SỐNG LÀNH MẠNH, AN LẠC, HẠNH PHÚC
Mấy năm nay, chúng
tôi tranh thủ thuyết giảng nhiều về chủ đề Đạo đức Phật giáo. Tháng ba vừa
rồi vào hai ngày mười và mười một, cũng tại nơi
đây, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
đã tổ chức cuộc Hội thảo quốc tế với
chủ đề: Đạo đức Phật giáo Trong Thời Hiện
Đại.
Cuộc hội thảo, ngoài phái đoàn các
giáo sư từ nước Cộng hòa Liên bang Đức đến, còn
quy tụ đông đảo quý vị Hòa thượng,
Thượng tọa, Đại đức, Phật tử, quý vị giáo sư,
các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà hoạt
động chính trị và xã hội có tên tuổi.
Bế mạc cuộc hội thảo, chúng tôi đã
khẳng định một chân lý, tuy được đức Phật
chúng ta tuyên bố cách đây hơn hai nghìn
rưỡi năm, nhưng đến nay vẫn mang đầy đủ tất
cả giá trị hiện thực của nó.
* Sống đạo đức là sống an lạc và
hạnh phúc.
Đức Phật c òn nói cụ thể hơn nữa: "Các người phải siêng năng
tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà
được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm
tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín
đầy đủ”. (Trường A-hàm, kinh
Chuyển Luân Vương Tu Hành)
Đối với chúng ta, những người Phật tử, xuất gia hay tại gia, tu tập
điều thiện, chính l à giữ giới. Đối với
người tại gia, là giữ năm giới và
đối với người xuất gia, là giữ mười
giới, 250 giới, hay hơn nữa. Nhưng đối với toàn
thể những người Phật tử tại gia hay xuất gia, năm
giới là căn bản, là mức
đạo đức tối thiểu cho một con người, dù
là Phật tử hay không, sống xứng đáng là
con người, có nhân cách, có nhân phẩm.
Năm giới Phật giáo là chuẩn mực
đạo đức cho loài Người nói chung, giá
trị phổ biến của chúng, giá trị toàn cầu của chúng
được các nhà
đạo đức học, triết học, xã hội học
trên thế giới công nhận.
Đáng chú ý nhất l à sự đánh giá của
Albert Schweitzer, nhà Ấn Độ học người
Đức. Ông viết: “Đức Phật đã sáng tạo ra một nền
đạo đức nội tâm hoàn thiện nhất, và
trong lĩnh vực này, đức Phật đã nói
lên những chân lý đạo đức có giá trị bất hủ,
nền đạo đức không phải của riêng đất
nước Ấn Độ mà của cả loài Người nói chung.
Đức Phật là một trong những nhà
đạo đức học vĩ đại nhất, kỳ tài
(Indian Thought anh Its Development, tr.117–Tư tưởng Ấn
Độ và sự phát triển của nó)
Trước khi giảng thuyết cụ thể về năm giới
chúng tôi muốn điểm sơ qua về một vài lợi ích thiết thực của cuộc
sống theo đúng năm giới trong thời hiện nay.
* Lợi ích của năm giới trong cuộc sống
hiện tại:
Người sống thiện, giữ năm giới không bao
giờ cảm thấy gánh nặng của sợ hãi và hổ thẹn. Trái lại gánh nặng
này đè lên tâm của người ác, người phá
năm giới suốt ngày
đêm, khiến anh ta
ăn không ngon, ngủ không yên...
Người sống thiện, giữ năm giới thường có vị
trí xứng đáng trong xã hội, có uy tín và tiếng tăm,
đến tham dự cuộc hội họp nào cũng với thái
độ tự tin và
đường hoàng. Trái lại, người sống ác,
phá năm giới vì mất lòng tin cậy của
mọi người cho nên không thể được xã
hội giao những vị trí xứng đáng, tiếng xấu
đồn xa, đến dự cuộc hội họp nào cũng với thái
độ sợ hãi và thiếu tự tin.
Người sống thiện giữ năm giới, sống và
làm việc một cách sáng tạo và vui vẻ, hòa hợp với mọi người gần hay xa.
Trái lại, người sống ác, phá năm giới vì
bị lương tâm thường xuyên cắn rứt, bao giờ cũng thấy lo lắng sợ hãi, do
đó không thể sống vui vẻ sáng tạo.
Người sống thiện, giữ đúng năm giới có cái
chết bình thản và tỉnh táo, vì khi gần chết thường hồi tưởng lại
những việc thiện mình thường xuyên làm trong
đời sống, hồi tưởng lại những người mình
đã từng giúp
đỡ, nghĩ tới Phật, Pháp, Tăng là Tam
Bảo, ba của báu luôn luôn hướng dẫn mình trong cuộc sống thiện và hướng
thượng. Những người sống thiện và giữ năm
giới như vậy, chắc chắn là sau khi chết sẽ
được tái sinh vào các cõi lành.
Trái lại người sống ác, phá năm giới không
những sống lo âu mà cũng chết trong tâm trạng sợ hãi và mê muội.
Anh ta, một cách không có ý thức, hồi tưởng lại những việc ác làm trong
đời, hình ảnh những người mà anh
đã giết hoặc
đối xử tàn nhẫn, và cũng với tâm trạng
sợ hãi và lo âu đó, anh ta qua đời tái sanh vào
các cõi ác như súc sanh, quỷ đói và
địa ngục. (Xem Tăng Chi II, tr 211).
Sống theo đúng năm giới thì sống
thọ: Đó là lời
đức Phật dạy, mà cũng là một chân lý
được các bậc minh triết phương Đông khẳng
định. Chúng ta những hậu thế, không nên vội chê bai là mê tín. Hiện
nay, khoa học y tế hiện đại phát hiện rằng,
tế bào con người rất nhạy cảm với nếp sống
đạo đức hay là phi
đạo đức. Chính cuộc sống phi đạo đức làm
yếu các tế bào bạch huyết cầu, khiến cho những tế bào
đó bị yếu đi, không đủ sức bảo vệ cơ
thể, vì vậy cơ thể dễ lâm bệnh. Hệ thần kinh bị những hành
động và tư tưởng ác, bất thiện làm cho
mất thăng bằng, không đủ sức điều khiển sự
phát triển lành mạnh của các tế bào. Từ
đó sinh ra các tế bào ung thư, mà sự
phát triển vô tổ chức, tạo ra những khối u ác tính.
Đồng thời, những tình cảm ác, bất
thiện kèm theo sự ồn ào sợ hãi, lương tâm cắn rứt v.v ... kích
thích các tuyến nội tiết bài tiết vào trong máu
đủ các thứ chất độc. Trong khi những tình
cảm thiện, tư tưởng thiện lại kích thích các tuyến nội tiết bài tiết vào
trong máu nhiều chất bổ làm cho toàn cơ thể khỏe mạnh, tinh thần sảng
khoái.
Đó l à những phát hiện và khẳng định
của khoa Y học hiện đại, cho chúng ta thấy mối liên quan trực tiếp
giữa cuộc sống đạo đức và sức khỏe của
cơ thể con người. Một sự liên quan mà các nhà minh triết phương
Đông đã nói tới, cách
đây hàng mấy nghìn năm.
Có thể khẳng định, theo cuốn Dhammapala
Jataka, là cuộc sống thiện, giữ đúng
năm giới của đạo Phật, có thể giúp cho con người sống thọ, khỏe mạnh cả về
vật chất cũng như tinh thần.
Đức Phật khẳng định nếu không giữ năm giới, th ì người nam cư sĩ
sẽ sống cuộc đời luôn lo âu và sợ hãi.
Trái lại, nếu giữ đúng năm giới thì
người nam cư sĩ không còn lo âu sợ hãi.
"Thành tựu năm pháp này, này các Tỳ
kheo, nam cư sĩ không còn sợ hãi. Thế nào là năm?
Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các
dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men,
rượu nấu”.
Đức Phật c òn nói lại ý kiến vừa rồi, dưới hình thức một bài kệ
để chúng ta dễ đọc dễ nhớ:
Ai sát hại sinh linh,
Và nói láo ở đời,
Lấy của cải không cho,
Đi đến
vợ người khác,
Và người mãi đắm say
Uống rượu men, rượu nấu,
... Được gọi năm ác giới
Mạng chung, sanh ác tuệ.
Bị rơi vào địa ngục.
Như chúng ta thấy, sống phá năm giới, đức
Phật gọi là sống theo năm ác giới, và
người đó khi sống trong sợ hãi, khi
chết thì phải đọa xuống địa ngục.
Ngược lại, nếu người đó sống theo đúng năm
giới, thì khi sống đã không lo
âu sợ hãi, mà sau khi chết, sẽ được sanh lên
các cõi lành:
"Ai không hại sanh linh,
Không nói láo ở đời,
Không lấy của không cho,
Không đi đến vợ người”.
"Người nào không đắm say
Rượu men và rượu nấu,
...Được gọi là có giới,
Mạng chung, sanh trí tuệ,
Được sanh lên cõi lành". (T ăng
Chi II, 210, 211 )
Trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã
dành nhiều thời giờ để trực tiếp nói chuyện
với những gia chủ sống tại gia, có vợ, có con, với nhiều tài sản.
Đối với những người như vậy, đức Phật luôn
luôn khuyến cáo họ sống đạo đức, sống thiện, giữ năm giới.
Thí dụ, gia chủ Dighajanu, thuộc bộ tộc Kolya thưa với
đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, chúng con là
những người gia chủ, hưởng thọ các dục vọng, sống ràng buộc với vợ con,
dùng các hương chiên đàn ở Kasi,
đeo và dùng các vòng hoa, hương liệu,
phấn sáp, vàng bạc.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con,
thuyết như thế nào để những pháp ấy đem đến
cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại, và hạnh phúc an
lạc cả trong tương lai". (Tăng Chi III, tr.
1 19)
Đức Phật b èn giảng cho gia chủ Dighajanu về bốn pháp là :
1. Sống đầy đủ tháo vát, tức là làm
thật giỏi, thật thiện xảo nghề nghiệp của mình.
2. Biết giữ gìn tài sản do nghề nghiệp lương thiện làm ra, không
để mất mát, lãng phí.
3. Được nuôi dưỡng và sống có
đạo đức. Đức Phật gọi đó là làm bạn
với thiện. Đức Phật nói: “Với những người đầy
đủ giới đức, thì học tập đầy đủ giới
đức. Với những người đầy đủ bố thí, thì học tập
đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ
thì học tập đầy đủ trí tuệ”. (Tăng
Chi III, tr. 121 ).
4. Cuối cùng, đức Phật khuyên gia
chủ hãy biết sống một nếp sống thăng bằng,
điều hòa, không đam mê
đàn bà, không
đam mê rượu chè, "không
đam mê cờ bạc, không giao du với bọn
ác". Đức Phật ví bốn điều cấm kỵ trên
đây như bốn cái cửa, nếu mở ra thì tài
sản bị thất tán hết, nhưng biết đóng lại, tức
là:
"Không đắm say đàn bà, không
đắm say rượu chè, không
đắm say cờ bạc, lại biết giao du với người
thiện lành, thì tài sản trong nhà sẽ ngày càng dồi dào, phong phú".
(Tăng Chi III, tr. 118)
Được đức Phật giải thích về lợi ích sống theo năm giới như vậy, chúng
ta h ãy tìm hiểu nội dung của năm giới
như thế nào, và những con người sống trong thời
đại hiện nay nên nhận thức năm
giới như thế nào?
* Nhận thức nội dung năm giới trong hoàn
cảnh hiện nay:
I. Giới sát sinh:
Đứng đầu năm giới l à giới sát sinh, yêu cầu mọi người chớ có tự
tay mình giết hay bảo người khác giết.
Ngược lại, yêu cầu phải trân trọng giá trị thiêng liêng của sự sống,
đối với loài Người cũng như mọi loài.
Bảo vệ tôn trọng, nâng cao giá trị của sự sống,
đó là một khái niệm trung tâm của
đạo đức Phật giáo. Cống hiến lớn lao của đạo
Phật là coi trọng mọi dạng sống, chứ không phải chỉ riêng dạng sống
loài Người. Đức Phật lên án mọi hình
thức hủy hoại sự sống, khi còn tại thế đức
Phật lên án tập tục tế đàn của
đạo Bà-la-môn, vì giết
để cúng thần hàng chục, hàng trăm
dê, cừu, bò một lần.
Đức Phật cũng ph ê bình thú vui săn
bắn của vua chúa. Và lẽ tất nhiên, đức
Phật phản đối chiến tranh dưới mọi hình thức, trừ trường hợp khi cả
một dân tộc, một quốc gia bị xâm lăng và
phải tự vệ. Ở Việt Nam, những ông vua Phật tử như Lý Thái Tổ, Lý Thánh
Tông, Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông
đã lãnh
đạo cuộc kháng chiến của toàn dân chống lại các cuộc xâm lăng
của quân đội nhà Tống và nhà Nguyên. Tuy nhiên, do luật nhà Phật
quy định, đã là tu sĩ,
đã xuất gia thì không
được cầm vũ khí. Muốn cầm vũ khí ra trận,
người tu sĩ phải hoàn tục, làm cái việc mà trong sách thường nói:
"Cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào".
Giới luật nhà Phật đối với tu sĩ xuất gia
bao giờ cũng nghiêm ngặt hơn là đối
với người tại gia. Trong thời đức Phật còn tại thế ở ấn
Độ, Tăng sĩ khất thực hằng ngày
để sống, do đó, trong luật có quy định, Tu sĩ
không được đốn cây, phá cây, đào đất,
vì làm như vậy có thể giết hại các loài sinh vật nhỏ. Kinh tạng
Pali nói tới những dạng sống thô sơ (Ekindriya Jiva, hay Sappanaka uda)
sống trong các loài cây, cỏ và cả ở trong nước và
đất. (Trong các bộ luật - Vinaya Pitaka cuốn
III tr.126 và Vinaya cuốn 14 tr.125,
đều có những quy định cụ thể và chi tiết như vậy).
Đó l à sự thể hiện của lòng từ bi của
đức Phật, một lòng từ lòng bi bao quát
tất cả mọi dạng sống trên trái đất này,
dù là lớn hay nhỏ, mắt thấy được hay không
thấy được, như đã nói trong kinh Từ Bi thuộc kinh tạng Pali.
"Loài được thấy, không thấy,
Loài sống xa, không xa
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh
Mong mọi loài chúng sinh
Sống hạnh phúc an lạc.
Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.
Phía trên và phía dưới,
Cũng vậy cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch,
Như tấm lòng người mẹ,
Đối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất của mình,
Cũng vậy đối tất cả,
Các hữu tình Chúng sinh,
Hãy tu tập tâm ý
Không hạn lượng rộng lớn". (Tập Kinh, kinh Từ Bi, tr. 25)
Đức Phật cho rằng từ bi l à trạng thái tâm thức tốt
đẹp nhất ở thế gian này, và khuyến cáo
học trò mình, tất cả mọi Phật tử dù là đi,
đứng, hay nằm, ngồi, đều an trú niệm của mình ở lòng từ, lòng bi
không hạn lượng đó.
Trong kinh tạng Pali, đức Phật thường hay
khuyến cáo các Tỳ kheo đệ tử hãy chăm
tập bốn Vô lượng tâm, tức là các tâm từ, bi, hỷ, xả, mở rộng không
hạn chế cho tất cả các loài hữu tình ở khắp bốn phương, dù nhỏ hay lớn,
thấy được hay không thấy được, đều bao quát
trong bốn tâm từ, bi, hỷ, xả rộng lớn vô biên
đó.
Mãi gần đây, phương Tây mới lập ra môn học
mới gọi là "Đạo đức học Môi trường”
(Environmental Ethics), đặt vấn đề bảo vệ cây cỏ, nước, không khí và
các loài vật Đó là một bước
đáng khen của khoa học Tây phương tiếp cận
thuyết từ bi rộng lớn của đạo Phật. Nhà Phật học Nhật Bản Hajime
Nakamura viết:
"Theo đạo Phật, người chỉ là một
loài hữu tình, không có quyền khai thác bừa bãi không có hạn chế các loài
động vật thực vật, cũng là một bộ phận
của thiên nhiên" (Hajime Nakamura - Encyclopedia of Bioethics-Tập I. Free
Press. New York. Tr.371).
Nhà Phật học Nakamura viết tiếp: "Một trong những
đặc sắc nổi bật của tư tưởng Phật giáo là
một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một nếp sống an lạc trong một cảnh
trí thiên nhiên tươi đẹp, thanh tịnh, đầy
thẩm mỹ và đạo vị”. (Sách đã
dẫn, tr. 371).
Chắc quý vị có thể thắc mắc là làm sao kết hợp
được thuyết từ bi của đạo Phật với yêu
cầu của khoa học nông nghiệp hiện đại, dùng
hàng loạt thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân hóa học
để bảo vệ mùa màng, tăng
sản lượng nông nghiệp v.v...
Đúng là khoa học nông nghiệp hiện đại
có những thành tựu nhất định trong
việc bảo vệ mùa màng, diệt trừ sâu cắn lúa và cỏ dại, và tăng
năng suất và sản lượng ngũ cốc một cách
đáng kể.
Nhưng, chúng ta cũng không được quên
hậu quả tai hại lâu dài của việc lạm dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu và
thuốc diệt cỏ. Đất, nước, bị ô nhiễm trên
một diện tích rộng lớn, đất đai màu mỡ
trước kia ngày càng bị cằn cỗi, thành phần hóa học và sinh vật trong
đất bị mất cân đối. Nước sông nước biển cũng
bị ô nhiễm nghiêm trọng, thậm chí tại một số vùng, nhiều sông, hồ
ao không còn có thể nuôi sống cá, tôm, cua và bất cứ một loài thủy sản nào
khác? Mãi gần đây, các nhà khoa học
nông nghiệp mới bắt đầu tỉnh ngộ và
gióng tiếng chuông báo động, yêu cầu
trở lại dùng phân sinh vật, cấm không dùng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ
trên quy mô lớn. Nói chung khoa học nông nghiệp phương Tây
đang có xu hướng rõ rệt, bảo vệ duy
trì cân bằng sinh thái trong đất và
nước, cây cỏ, nhằm tạo ra một năng suất ổn
định, cung cấp một số lượng nông phẩm có thể ít hơn, nhưng chất lượng dinh
dưỡng cao hơn.
Một thắc mắc thứ hai quý vị có thể nêu lên về giới sát sinh là
ăn thịt cá, có mâu thuẫn với thuyết từ bi của
đạo Phật hay không?
Quý vị đều biết rõ là trong thời
đức Phật tại thế, đức Phật không có yêu
cầu tu sĩ không được ăn thịt, cá. Thí chủ
cúng dường gì thì ăn nấy, dù là
thịt, cá, trứng đều có thể dùng không
phân biệt. Hiện nay, ở các nước theo Phật giáo Nam tông, như Campuchia,
Lào, Thái Lan, Sri Lanka Tăng sĩ vẫn theo
truyền thống đó của đạo Phật, nhưng họ chỉ ăn mỗi ngày một bữa, nếu
quá ngọ thì họ không ăn nữa. Trái lại, ở các
nước theo Phật giáo Bắc tông như Việt Nam, Trung Quốc có một số lớn Tăng
sĩ ăn trường trai, nhưng ăn nhiều bữa. Ở các xứ như Tây Tạng, Mông Cổ, tuy
là theo Phật giáo Bắc tông, nhưng Tăng
sĩ ở đấy vẫn ăn mặn. Một bộ phận lớn của Tăng sĩ Nhật Bản và Triều
Tiên cũng ăn mặn.
Tại sao như vậy? Đức Phật là một
giáo chủ rất thực tế Ngài biết rằng, trên thế giới có những vùng, trong năm
có nhiều tháng tuyết bao phủ khắp nơi, cây cỏ không mọc được, thì Tăng
sĩ ăn chay thế nào được?
Vì vậy đạo Phật đề ra thuyết thịt trong
sạch. Thịt có thể ăn được, nếu mình không chứng kiến, không nghe
biết con vật bị giết thịt, cũng biết rõ, con vật
đã không bị giết thịt
để cho mình
ăn. Thịt như vậy gọi là thịt trong
sạch và có thể ăn được.
Tất nhiên, ở những nơi nào, với người nào có
điều kiện ăn chay và cảm thấy
ăn chay ngon, có lợi thật sự cho sức khỏe, thì
nên ăn chay. Vấn đề này không nên áp
đặt mà nên tùy theo hoàn cảnh và sở
thích từng người mà giải quyết hợp lý. Theo
đạo Phật, không phải ăn chay là sẽ
được giải thoát, cũng không phải ăn mặn thì sẽ phải luân hồi sanh
tử. Vấn đề là ở lòng tham hay không
tham. Có người ăn thịt mà không tham,
lại có người ăn chay mà tham. Tham
ăn, cũng như tham sắc, danh, tiền, ngủ nghỉ
đều dẫn tới luân hồi sanh tử. Không tham thì
được giải thoát, trước mắt là giải
thoát khỏi ràng buộc với những điều mình
ham thích. Thân tâm nhờ đó mà
được nhẹ nhàng, thoải mái.
Mặc dù quý vị không ăn chay trường, chỉ ăn
chay trong những ngày nhất định, nhưng
quý vị hãy bồi dưỡng cho mình và con cháu mình lòng thương yêu
đối với loài vật, nhất là những
động vật đáng thương, đáng quý, lại có ích
như con chó, con mèo, con bò, con ngựa v.v...
Quý vị và con cháu, bạn bè quý vị hãy học cho
được, tu tập cho
được tâm trạng từ bi, mà trong kinh Từ
Bi, đức Phật đề cao như là tâm trạng
tốt nhất trong cõi thế này.
Nếu tâm trạng ấy, được duy trì và
bồi dưỡng trong mỗi giây phút của đời sống
quý vị thì có thể đảm bảo chắc chắn
hạnh phúc đời này và đời sau sẽ đến
với quý vị không tách rời quý vị, không khác gì bóng
đi theo hình, âm vang không rời tiếng,
bánh xe lăn theo bước chân con bò kéo
xe:
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo". (Pháp Cú 1)
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình". (Pháp Cú 2)
Tâm ý thanh tịnh, trong kinh Pháp Cú, chính là tâm từ, tâm bi mà
đức Phật ca ngợi như là cái tâm trạng
tốt đẹp nhất trên thế gian này.
Có lần, đức Phật thuyết pháp cho ông Cấp
Cô Độc (Anathapinika) về công đức của bố thí. Đức Phật nói:
"Bố thí, cúng dường đức Phật và
Tăng chúng thì có công
đức rất lớn. Nhưng có công đức lớn hơn là
xây một tu viện cho Tăng chúng. Có công đức
lớn hơn xây dựng tu viện là thọ Tam quy: quy y Phật, Pháp, Tăng.
Có công đức hơn thọ Tam quy là giữ năm
giới. Có công đức hơn giữ năm giới là giữ tâm niệm từ bi, dù chỉ là
giây phút. Nhưng có công đức hơn tất cả là
quan sát sâu sắc đạo lý vô thường của sự
vật”. (Tăng Chi IV, tr. 264-265)
Trong đoạn văn trên, chúng ta thấy
rất rõ là đức Phật hết sức coi trọng việc tu
tập lòng từ, lòng bi và giữ năm giới.
Nếu làm như trong kinh Từ Bi, nếu cả
đời chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta cũng đều giữ một niệm từ bi,
thật sự thương xót mọi người, mọi loài, thì công
đức của chúng ta sẽ là vô lượng vô
biên. Mà lòng từ, ở mức thấp nhất chính là không sát sanh, không giết hại,
và không khuyến khích giết hại.
Còn mặt tích cực của giới không sát sinh là gì? Xưa nay, chúng ta
thường hiểu một cách hạn hẹp mặt tích cực của giới không sát sinh là phóng
sanh, là vào những ngày lễ hội lớn, tổ chức mua cá
đem thả lại xuống sông, mua chim nuôi ở lồng
rồi thả cho bay đi tự do...
Chúng tôi không phản đối gì những
cử chỉ tốt đẹp, có giá trị biểu trưng như
vậy. Nhưng chúng tôi muốn đề nghị một nhận thức rộng rãi hơn về thế
nào là mặt tích cực của giới sát sinh. Đó là
quý trọng, bảo vệ, làm phong phú thêm, nâng cao chất lượng của sự sống ở
mọi cấp, trong tất cả mọi hình thức. Nếu hiểu như thế thì tham gia các
phong trào chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, chống bạo loạn và bạo hành,
khuyến khích hòa hợp với đối thoại trong phạm
vi quốc tế, khu vực, quốc gia, địa phương đều là thể hiện mặt tích
cực của giới không sát sinh; cũng như tham gia cuộc vận
động bảo vệ môi sinh trong phạm vi quốc tế,
khu vực, quốc giạ, địa phương, cho tới quận, phường, khu phố...
Bởi lẽ bảo vệ môi trường sống, cũng tức là bảo vệ sự sống nâng cao
chất lượng sống. Chúng tôi hiểu môi trường sống không chỉ hạn chế ở không
khí, đất và nước, mà còn bao gồm cả
lối sống, tập quán sống, vệ sinh hay phản vệ sinh,
đầu độc xã hội hay là làm lành mạnh
hóa xã hội của cá nhân chúng ta từng gia đình
chúng ta. Chúng tôi rất mong cho mỗi chùa, Thiền viện Phật giáo, thậm chí
cho tới mỗi gia đình Phật tử
đều sẽ là những trung tâm lớn hay nhỏ
của đạo đức Phật giáo, được thể hiện trong
nếp sống hằng ngày, là những trung tâm của lòng từ, bi, hỷ, xả,
những trung tâm đoàn kết và hòa hợp,
những trung tâm của một lối sống giản dị, lành mạnh và
đức hạnh. Đó chính là bảo vệ sự sống
và nâng cao chất lượng sống. Đó chính là
mặt tích cực của giới sát sinh.
Văn minh Phật giáo phải tạo ra những mẫu
người biết sống hài hòa với mọi người, quan tâm tớimọi người, thông
cảm sâu sắc và chân tình với niềm vui cũng như nỗi khổ của mọi người.
II. Giới không lấy của không cho.
Thuộc phạm vi giới này, không phải chỉ là những hành vi trộm cắp lộ
liễu, mà còn gồm cả những hành vi như buôn lậu, tham nhũng, lừa
đảo, lật lọng trong buôn bán để kiếm những
món lời bất chính, lạm dụng hay chiếm dụng của công v.v...
Ở các nước công nghiệp phát triển và một số các nước khác, việc khai
thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt
là loại tài nguyên không thể phục hồi
được, như quặng kim loại, dầu mỏ hay là khó phục hồi như rừng gỗ,
loài động vật hiếm phải được kết tội như là
những hành vi chiếm đoạt tài sản của
hậu thế.
Thánh Gandhi nói: "Ăn một miếng
không cần ăn tức là chiếm
đoạt phần ăn đó của người khác".
Trên tinh thần đó, người Phật tử nên
tránh và phê phán những cuộc ăn nhậu, tiệc tùng
lãng phí, những bữa ăn đáng lẽ để cho 20
người ăn, nhưng chỉ có ba, bốn người ăn mà thôi.
Đó là khoe khoang,
đó là lãng phí,
đó là thiếu lòng trắc ẩn
đối với những người nghèo, người
đói, ở trong nước cũng như trên thế
giới. Chúng ta nên nhớ rằng, ăn một miếng
không cần ăn, thì miếng ăn đó sẽ trở
thành thuốc độc, đầu độc cơ thể, sinh
ra lắm chứng bệnh. Đó là loại bệnh của người
ăn no: bệnh đường ruột, bệnh dạ dày,
các loại bệnh tiêu hóa, bệnh huyết áp, bệnh béo bệu và bao nhiêu thứ bệnh
khác nữa.
Mặt tích cực của giới không lấy của không cho là:
a) Sống trung thực, lương thiện, tuyệt đối
không xâm phạm tới tài sản, của cải của người khác, dù là cây kim,
sợi chỉ.
b) Sống biết đủ, bằng lòng với số
tài sản của mình, có được nhờ lao động của
bản thân, không nghĩ cách làm giàu thêm bằng những lối làm
ăn lừa lọc, không chính đáng, phi đạo đức.
Cần chú ý là, đạo Phật không phản đối
làm giàu, nếu đấy là làm giàu
chính đáng. Đức Phật từng nói với ông Cấp Cô
Độc rằng, người giàu có những niềm vui như là có
được của cải, do lao động của mình tạo
ra, có được của cải để làm việc thiện,
có của cải cho nên không phải nợ nần. Nhưng
đức Phật kết luận là những niềm vui
đó, tuy chính đáng, nhưng vẫn thua xa niềm vui của một người sống thiện,
không hề bị lương tâm khiển trách. (Tăng Chi IV, tr. 264 - 265)
c) Sống mà biết bố thí luôn luôn và sẵn sàng giúp
đỡ người khác trên mọi mặt. Bố thí có
nhiều loại: Tài thí là giúp đỡ người thiếu
thốn bằng của cải vật chất. Đó là hình thức bố thí phổ thông nhất.
Pháp thí là giảng pháp cho những người chưa
được biết Phật pháp. Đó là loại bố thí
được đức Phật ca ngợi là bậc nhất. Pháp thí là
đem điều thiện, điều phải, điều hay, đẹp mình
học được từ Phật pháp chia xẻ với người khác
cùng biết và được lợi như mình.
Có người hiểu một cách hạn hẹp rằng chỉ có Tăng
sĩ mới làm việc pháp thí. Không phải vây, Tăng
sĩ thuyết pháp là một hình thức của pháp thí. Nếu có một vị nào
đó trong giảng tòa này,
đem nội dung bài giảng của chúng tôi
ngày hôm nay phổ biến lại cho gia đình,
con cái bạn bè, thân hữu, như vậy thưa quý vị, cũng là pháp thí. Dùng mọi
hình thức để phổ biến Phật pháp, đó là
pháp thí. Thuyết pháp hằng giờ như chúng tôi ngày hôm nay là pháp thí
đã đành,
giảng giải lại cho một người khác nghe chỉ một lời Phật dạy mà thôi cũng
là pháp thí.
Ở đoạn trên, tôi có nhắc lại một
lời đức Phật nói một niệm quán vô thường,
công đức còn lớn hơn là cúng dường Phật và Tăng
chúng, lớn hơn cả xây chùa và tu viện, hơn cả thọ Tam quy, ngũ giới
v.v...
Vì vậy chúng tôi khuyến cáo các vị ít nhất cũng tìm hiểu
đạo lý vô thường, là một trong Ba pháp
ấn của đạo Phật, và giảng giải cho mọi
người biết về đạo lý vô thường đó. Công đức
của các vị thực là lớn lao vô cùng.
Vì sao? Vì chỉ khi nào hiểu được đạo lý vô
thường, thì mới dứt bỏ được lòng
tham, lòng sân, lòng si, mở được cửa vào
cảnh giới Niết Bàn an lạc. Cảnh giới Niết Bàn là cảnh giới không tham,
không sân, không si. Mà muốn không tham, sân và si thì phải hiểu sâu sắc
đạo lý vô thường.
Hình thức bố thí thứ ba là vô úy thí. Bảo vệ, che chở, an ủi những
người bất hạnh, gặp nạn, thân cô, thế cô đó là
vô úy thí, tức là bố thí sự không sợ hãi.
Tùy hỉ thí là chia xẻ niềm vui của người khác. Mặt trái của tùy hỷ thí
là lòng ganh ghét, đố kỵ, không có lòng
hoan hỷ đối với sự thành
đạt của người khác. Trong Bốn vô lượng tâm
được nói tới trong kinh tạng Pali, có tâm hỷ. Đó chính là hạnh tùy
hỷ, sẵn sàng chia xả niềm vui của tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Lòng
hỷ (tùy hỷ) bao giờ cũng đi kèm với
lòng từ. Bởi vì lòng từ chính là lòng sẵn sàng
đem lại niềm vui cho người khác. Mà
chia xẻ niềm vui cũng tức là cung cấp niềm vui,
đem lại niềm vui.
Trong sách Phật còn nói tới một hình thức bố thí nữa, gọi là cung kính
thí, tức là thái độ khiêm tốn, bảy tỏ
lòng kính trọng đối với mọi người, dù
là người kém tuổi mình, không có địa vị xã
hội bằng mình. Thái độ kiêu căng
ngạo mạn là một thái độ không thể chấp
nhận được trong đạo Phật. Vì dưới con mắt
đức Phật, mọi Chúng sinh đều có Phật tính,
đều có khả năng thành Phật, cho nên
đều bình đẳng. Hơn nữa, mình có
kính trọng người ta, thì người ta mới kính trọng mình.
Đó là thái
độ có đi có lại trong cuộc sống, là
quy luật tự nhiên.
III. Giới không tà dâm
Con người hay từ cực đoan này nhảy
sang một cực đoan khác. Có người cười nhạo đồ
đệ của Khổng Tử là "nam nữ thọ thọ bất thân" nhưng con người hiện
đại lại lún sâu vào một cực
đoan khác tức là cuộc sống tình dục
không hạn chế, mà những ảnh hưởng tiêu cực đã
bộc lộ phổ biến: gia đình tan nát, tỉ
lệ ly dị cao, dẫn tới tình cảnh trẻ con sống bơ vơ, thiếu tình cảm, không
được giáo dục, cho nên tỷ lệ thanh
thiếu niên phạm tội ngày càng nhiều; số thanh niên nghiệp ngập, hút sách,
mua bán dâm bừa bãi ngày càng đông. Một trong
hậu quả tai hại nhất của lối sống tình dục bừa bãi là bệnh Sida, mà
sự xuất hiện và lan tràn mau chóng là mối lo chung cho cả nhân loại, bởi
vì đó là một chứng bệnh hiện nay xem
như là không chữa trị được.
Trong một bối cảnh xã hội và thế giới như vậy, tầm quan trọng của giới
thứ ba, giới không tà dâm của đạo Phật càng
nổi bật lên, như một nhu cầu bức xúc hàng
đầu.
Chúng ta cần nhớ rằng, nhân loại từ tình trạng dã man chuyển sang tình
trạng văn minh là nhờ có thiết chế gia
đình. Tình thương của người mẹ
đối với con cái đóng vai trò lớn trong
sự ổn định thiết chế gia đình. Con
người cảm thấy được an ủi, bớt cô độc, được
bước đầu giáo dục về tình thương đồng
loại, trong cánh tay ôm ấp của người mẹ, trong tiếng ru con của người mẹ.
Thế nhưng nếp sống tình dục bừa bãi của con người hiện
đại đã phá hoại thiết chế gia
đình đó
của con người, khiến cho con người tuy không phải quay lại cuộc sống man dã,
thì cũng sống phi đạo đức, mất hết tính
người. Đó là điều đáng sợ, nhưng phải
nói ra, không nói không được. Chỉ có loài vật mới quan hệ tình dục
bừa bãi. Nhưng con người cũng bắt đầu quan hệ
tình dục bừa bãi như vậy, lại còn phô trương trên màn ảnh một cách
công khai, không chút xấu hổ e thẹn.
Đó chính l à cái vòng lẩn quẩn của con người gọi là văn
minh, gọi là hiện đại. Cảm thấy sống làm
người là khổ, thì lại đâm đầu xuống sống
không ra con người nữa để rồi cảm thấy đau
khổ hơn. Nhưng đạo Phật đã vạch cho con người chúng ta một lối
thoát ra khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại, là
lối sống đạo đức, hướng thượng theo năm giới,
mười thiện, lối sống tránh cả hai cực đoan: đam mê dục vọng tầm
thường, cũng như sống ép xác khổ hạnh.
Đối với người xuất gia, đạo Phật y êu cầu một cuộc sống Phạm
hạnh, từ bỏ mọi hình thức dâm dục. Đây không
phải là khổ hạnh. Đây là yêu
cầu tối thiểu của một cuộc sống thật sự giải thoát, hướng tới sự giác ngộ
hoàn thiện. Nhưng đối với người Phật tử tại
gia, đạo Phật không đặt yêu cầu cao như vậy.
Đạo Phật chỉ yêu cầu họ có quan hệ
tình dục chính đáng, với người chồng, người
vợ chính thức của mình. Quan hệ vợ chồng là quan hệ vừa có tình,
vừa có nghĩa, là trụ cột của mọi quan hệ khác trong gia
đình, như quan hệ cha mẹ và con cái,
quan hệ anh, chị em, và rộng hơn nữa là quan hệ họ hàng thân thuộc. Trụ
cột mà vững vàng, lành mạnh thì mọi quan hệ khác trong gia
đình cũng sẽ vững vàng và lành mạnh
theo. Mà quan hệ gia đình ổn
định, lành mạnh, lại là cơ sở của một
xã hội ổn định và lành mạnh.
Giữ đúng giới “không tà dâm", người
chồng, người vợ, người cha, người mẹ đóng vai
trò rất lớn, có thể nói là quyết định
trong sự nghiệp làm lành mạnh, và ổn
định xã hội, cũng như giáo dục và bồi dưỡng thế hệ tương lai.
IV. Giới không nói dối
Tức là giới cấm vọng ngữ. Đối với đạo
Phật, nói dối tai hại trên nhiều mặt. Thứ nhất, nói dối ảnh hưởng
tiêu cực đến sự ổn định xã hội. Nói
dối phá hoại sự ổn định đó. Con người chỉ có
thể sống chung với nhau trong một bầu không khí tin cậy lẫn nhau, tin cậy
rằng trong giao tiếp, mọi người đều nói thật. Nếu mọi người đều nói dối,
thì đó là dấu hiệu của xã hội
giải thể và tan rã.
Thứ hai, trên bình diện cá nhân, nói dối có tác dụng tai hại là phản
ứng dây chuyền. Nghĩa là, lời nói dối này kéo theo lời nói dối khác rồi
một lời nói dối khác nữa, còn nghiêm trọng hơn, cho tới khi bản thân mình
cũng bị bao bọc bởi tấm màn dối trá do mình tạo ra. Một con người như thế
ngày càng tách rời ra đích giải thoát và
giác ngộ, ngày càng sa đọa vào vòng
tội lỗi, khó gỡ ra được. Một người đã
sống không thật với người khác, và với bản thân mình, thì sẽ không bao giờ
tìm tới sự thật, chứ đừng nói chứng ngộ sự
thật.
Trong kinh "Giáo giới La-hầu-la tại rừng Am-bà-la" (Trung Bộ kinh II,
tr. 122), đức Phật để lại trong chậu một ít
nước và bảo La-hầu-la rằng:
"Này La-hầu-la, ông có thấy một ít nước còn lại trong chậu không?"
"Thưa có, bạch Thế Tôn" .
"Cũng ít vậy, này La-hầu-la, là đức hạnh
Sa-môn của những người nào biết mà vẫn nói dối, nói dối mà không có
xấu hổ".
Rồi đức Phật hắt chút ít nước trong chậu
đi, lại úp chậu lại rồi lật ngữa chậu ra và nói:
"Này La-hầu-la, ông có thấy chậu nước này trống không hay không?"
"Thưa có, bạch Thế Tôn".
"Cũng trống không như vậy, này La-hầu-la là hạnh Sa-môn của người biết
mà nói dối, không xấu hổ".
Rồi ở một đoạn sau của kinh, đức Phật lại
khẳng định:
"Này La-hầu-la, đối với ai biết mà
nói dối, không có xấu hổ, thời Ta nói rằng, người ấy không có việc gì ác
mà không làm. Do vậy, này La-hầu-la, Ta quyết không nói dối, dù là nói
để mà chơi. Như vậy, này La-hầu-la,
ông phải học tập".
Rất mong quý vị, về gia đình, cũng
dạy dỗ con cháu mình như vậy, nghĩa là tuyệt
đối không nói dối, dù là nói để mà
chơi. Hiện nay, người ta nói dối với nhau một cách quá dễ dàng. Trong nhà,
người mẹ muốn dỗ con nín, không khóc, cũng nói dối. Cha mẹ, muốn
đi chơi với nhau một mình, không cho
con đi theo cũng nói dối.
Chủ nhà mời khách ăn cơm, cũng là
mời để mời, chứ không muốn mời. Khách tuy
chưa ăn cơm ở nhà, nhưng để từ chối
một lời mời không thật của chủ nhà cũng nói dối: "Xin lỗi, tôi
đã vô phép rồi".
Người ta gọi đó là nói dối theo
phép lịch sự. Thế nhưng, thưa quý vị, phép lịch sự, theo
đúng nghĩa của nó chính là không nói
dối. Nhất là cha mẹ đối với con cái còn
nhỏ, lại càng không nên nói dối. Bởi vì, không nên coi thường trẻ con.
Chúng nó biết hết. Một ngày, chính chúng nó sẽ nói dối lại với cha mẹ, với
bạn bè, như chúng ta đã nói dối với
chúng.
Cho nên, thà để cho chúng khóc cũng không
sao, khóc một chút cũng như tập thể thao càng khỏe phổi. Tất nhiên,
có những trường hợp, chúng ta không thể nói sự thật
được. Nhưng không nói sự thật được thì
hãy im lặng, chứ đừng có nói dối. Nói dối
cũng như ăn vặt, sẽ quen mồm và gây tác hại không nhỏ.
Người Phật tử không những không được nói
dối, mà còn không được nói lời chia
rẽ, gây hiện tượng mất đoàn kết. Trái lại, người Phật tử bao giờ
cũng nói lời hòa hợp, để đoàn kết lại
những người vốn bị chia rẽ, và tăng cường đoàn
kết hơn nữa, đối với những người vốn đã
hòa hợp.
Động cơ xấu nói chia rẽ có thể l à lòng hận thù, ganh tị
đối với sự thành công của người khác,
là tâm ác muốn gây đau khổ cho người mà
mình không ưa, muốn cho những người khác xung
đột nhau, mâu thuẫn nhau, hiểu lầm nhau.
Khi lời nói xấu, nói chia rẽ đồng thời
cũng là lời nói dối, thì hai tội nói dối và nói chia rẽ cộng lại
tạo ra nghiệp ác nghiêm trọng, có thể quyết
định người phạm giới tái sinh vào cõi ác, cõi khổ.
Mặt tích cực của giới không nói chia rẽ là nói lời hòa hợp, xuất phát
từ động cơ lòng từ, lòng bi. Theo sách
Phật, người nói lời hòa hợp thường có nhiều bạn trung thành với mình, ở
đời này cũng như ở
đời sau.
Người Phật tử, không những không nói dối, nói chia rẽ, mà cũng không
được nói lời ác độc, khó nghe, làm
đau lòng người khác. Kích bác người
khác với lời chua cay, chửi rủa, mắng nhiếc người hay là chế nhạo người
với lời thâm độc đều là những
điều ác về lời nói mà người Phật tử
nhất định không phạm, dù là mình có bị
trái ý, không bằng lòng. Trong mọi trường hợp, người Phật tử phải biết
kiên nhẫn, lại biết thông cảm với những yếu kém của người khác. Người Phật
tử biết nói đúng thời, đúng lúc, nói lời có
ích, tránh nói nhảm nhí, nói lời vô nghĩa. Đối với người xuất gia, đức
Phật thường dặn là chỉ nên nói những lời
đúng sự thật, có lợi lạc đối với người nghe,
những lời có liên hệ đến Pháp và
Luật của đạo Phật, những lời hướng tới giác
ngộ và giải thoát. Lời nói của vị tu sĩ phải có giá trị như là vàng
bạc, châu báu đem tặng người nghe, mà
lại tặng đúng lúc, đúng thời. Người Phật tử
tại gia có học Phật cũng nên tranh thủ nói với mọi người những lời
nói có ích, có đạo lý, những lời nói khiêm
tốn, lịch sự, dễ nghe, dễ thấm vào lòng người. Người Phật tử có học Phật
cũng phải tranh thủ nói pháp, dù là với một người, hai người cho
đến số đông người.
V. Giới không uống rượu và các chất say khác
Tác hại của rượu thì ai cũng biết, nhưng ai cũng uống. Ngay ở nước ta
cũng vậy. Uống rượu uống bia trở thành một cái mốt, một thứ thời thượng,
không thể thiếu trong tất cả bữa tiệc nhỏ hay lớn, dù là tiệc gia
đình.
Trên báo chí, tỷ lệ tai nạn giao thông, các vụ tội phạm do say rượu
cũng tăng lên tới mức báo
động. Thanh thiếu niên ở nước ta uống
rượu và hút thuốc lá rất nhiều, xem đó như là
một dấu hiệu của tuổi lớn và lõi đời.
Các cuộc thí nghiệm khoa học cho thấy rượu làm nóng cơ thể, chứ không
cung cấp được chất dinh dưỡng nào cho
cơ thể. Phần lớn rượu hay bia uống vào đều
bốc thành hơi. Chúng ta đứng gần người
uống rượu như bị hơi rượu phà vào mặt. Điều này
chứng tỏ rượu hay bia uống vào bị đốt cháy
trong cơ thể rồi bốc thành hơi tỏa ra ngoài, không có lợi ích gì
cho việc nuôi dưỡng và tái sinh các tế bào.
Mặc dù rượu uống với liều lượng ít có khả năng
kích thích thần kinh, và có thể dùng làm thuốc, thế nhưng nếu uống
nhiều, uống hằng ngày thì lợi bất cập hại, tuy rằng không uống
đến mức độ say. Một tờ tạp chí Y học của Anh
cho biết, người uống bia hằng ngày có nguy cơ bị ung thư
đường ruột gấp 12 lần người không uống
bia. Phụ nữ có thai mà uống rượu, thì dễ bị
đẻ non và đau màng óc. Uống
rượu cũng gây tác hại dến tế bào óc, dù là
đối với người lớn.
Vì tất cả những lý do trên, cho nên đạo
Phật xem giới cấm rượu là một trong năm
giới cơ bản.
Trong kinh Sigalovadasutta, Phật tuyên bố nghiện rượu là một trong sáu
nguyên nhân làm cho tan cửa nát nhà.
Đức Phật nói: "Này Gia chủ, đam
mê các loại rượu có sáu nguy hiểm. Tài sản bị tổn thất, hay gây
tranh cãi, mắc nhiều bệnh tật, danh dự thương tổn, quần áo hở hang
để lộ âm tàng, trí lực bị tổn hại. Này
Gia chủ, nghiện các loại rượu có sáu nguy hiểm như vậy". (Trường Bộ,
Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt)
Trong kinh Phật, có chuyện thanh niên nhà giàu Mahadhanasettin phung
phí một số tài sản rất lớn trong việc rượu chè,
đến nỗi khi về già phải
ăn mày để
kiếm sống qua bữa. Tệ nghiện rượu, say rượu là
đầu mối của bao nhiêu thảm họa gia
đình: Vợ chồng cãi nhau,
đánh nhau, con cái hư hỏng. Người say rượu
không còn biết phải trái, có thể phạm
đủ mọi tội ác, kể cả giết người.
Người Phật tử, ngay từ tuổi nhỏ, phải được
giáo dục về sự cần thiết tự chăm sóc lo sức khỏe của bản thân mình,
và giữ gìn tâm hồn trong sạch và lành mạnh,
để kịp thời ứng phó với mọi biến thiên và cảnh ngộ bất trắc của
cuộc sống. Người Phật tử cần nhận thức rõ phung phí sức khỏe, làm mê muội
tinh thần bằng lối sống buông thả và trác táng là một tội lỗi nhiều khi
phải trả giá đắt bằng cả cuộc đời của mình.
Như vậy, trong bài thuyết pháp nhân ngày lễ Phật
đản hôm nay, chúng tôi đã trình bày
khá chi tiết nội dung của năm giới nhà
Phật, nên được nhận thức dưới con mắt của con
người hiện đại như thế nào.
Nước Việt Nam chúng ta chuyển mình trong thời
đại đổi mới và mở cửa này, cuộc sống
đạo đức có xuống cấp thật, trong mấy chục năm
lại đây, nhưng không đến nỗi tồi tệ. Văn minh vật chất phương Tây tuy có
xâm nhập vào nước ta và có ảnh hưởng tiêu cực
đến một bộ phận của nhân dân ta, nhất là
đối với từng lớp thanh thiếu niên,
nhưng vẫn gặp phải sự đối kháng mạnh mẽ của
giáo dục gia đình, tôn giáo, trường học,
được chính quyền hỗ trợ. Cho nên tình
hình của đạo đức xã hội ta không
đến nỗi quá bi quan, như một vài người
lo lắng.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rõ trách nhiệm của chúng ta, những
người cha, người mẹ, các bậc đàn anh,
trước tình hình đang biến chuyển mau lẹ.
Hướng biến chuyển có thể tốt hay xấu là tùy ở nỗ lực của chúng ta.
Phương hướng hoạt động của chúng ta có thể là:
– Mỗi người tự thực hiện nếp sống hiền thiện, tuân giữ năm
giới của người Phật.
– Ra sức xây dựng kinh tế gia đình
bằng các sinh hoạt chính đáng, tham gia xây
dựng kinh tế của đất nước, phúc lợi của nhân dân.
– Tham gia các phong trào văn hóa, xã
hội, xóa đói giảm nghèo, từ thiện,
chống bất công, tiêu cực có thể dẫn đến bất
ổn xã hội, suy thoái đạo đức.
– Tuyên truyền đề cao mọi giá trị đạo đức
truyền thống, trong đó có đạo đức Phật giáo, như việc chúng tôi làm
hôm nay trên giảng tòa này, như việc quý vị sẽ làm ở gia
đình, với bài giảng này của chúng tôi.
Qua thời gian khoảng một giờ, chúng tôi đã
cố gắng trình bày cho toàn thể quý vị định
nghĩa năm giới theo lời đức Phật dạy, nêu rõ những lợi ích cho giữ
năm giới này
đem lại cho những ai thành tâm thực
hành.
Chúng tôi cũng cố gắng phân tích cả hai mặt tích cực và tiêu cực của
mỗi giới và sự áp dụng của từng giới trong
đời sống cá nhân của từng người, của từng gia đình, quốc gia và xã
hội.
Điều quan hệ l à chúng ta cố gắng
đem áp dụng năm giới này của đức Phật
vào đời sống cá nhân của mình,
của gia đình. Có áp dụng như vậy,
chúng ta mới xây dựng một xã hội văn mình
và lành mạnh, thực sự hạnh phúc và an lạc.
(Bài giảng nhân dịp Đại lễ
Phật đản 2537-1993 tại Thiền viện Vạn Hạnh)
14. Ý
ĐẸP VỚI MÙA XUÂN
Mùa xuân đến như báo
hiệu với chúng ta một tương lai tốt đẹp đang đến gần, giống như vừng rạng
đông báo hiệu một ngày mới, tươi sáng
đang đến gần vậy. Dù chưa đủ xua tan màn
đêm còn sót lại, ánh rạng
đông là tín hiệu
đáng vui mừng và tin tưởng, vì nó báo
hiệu bóng tối đang lùi dần, nhường chỗ
cho ánh sáng mặt trời tỏa ấm và soi sáng muôn vật. Chúng ta
đang đón tiếp một mùa Xuân dân tộc với
một niềm tin tưởng như vậy về quê hương đất
nước chúng ta. Mặc dù còn nhiều khó khăn
cần khắc phục và vượt qua, xã hội Việt Nam
đã có những bước chuyển biến tích cực
nhằm phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức
dân tộc và nhằm hòa nhập vào trào lưu tiến bộ chung của thế giới;
và chúng ta tin tưởng một tương lai tốt đẹp
đang đến gần với con người và đất nước
Việt Nam. Đó là tín hiệu mùa Xuân đối
với mọi người Việt Nam chúng ta.
Đối với người Phật tử th ì mùa Xuân còn là tín hiệu của
điềm lành, của phước nghiệp
đang đến gần, đang chào
đón chúng ta, những người làm lành,
giống như bà con và bạn hữu đang vui mừng chào
đón sự trở về của người khách viễn xứ vậy:
"Khách lâu ngày ly huơng,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng.
Cũng vậy các phước nghiệp,
Đón chào người làm lành,
Đời này và
đời sau,
Như thân nhân đón chào".
(Pháp Cú, 219-220)
Người khách ly hương quay về xứ sở, góp sức mình cùng xây dựng quê
hương tốt đẹp. Cũng vậy, các phước nghiệp
quay về với người làm lành, gióng tiếng nói cho cuộc sống thêm
đẹp, cho đời thêm tươi.
Hòa chung niềm vui của đất nước đang có
những chuyển biến tốt đẹp, người Phật tử Việt Nam chúng ta càng tin
tưởng và nỗ lực nhiều hơn nữa trong nếp sống thiện, nếp sống
đạo đức và
nêu cao nét đẹp đạo đức của mình, vì
chúng ta hiểu rằng, chỉ có nếp sống thiện, nếp sống
đạo đức mới xây dựng được một xã hội
tốt đẹp, một đất nước thật sự phát triển và
ổn định. Nhân dịp này, chúng tôi muốn
giới thiệu với quý vị bài kinh "Giáo Giới Rahula", như là phương
pháp sống đạo đức của người Phật tử, mở đường
cho hạnh phúc và an lạc của tự thân, gia
đình và xã hội, một bài kinh
đã được
vua A-dục cho khắc vào bia ký và yêu cầu cả giới xuất gia và tại
gia cần phải tụng đọc và hành trì hằng
ngày.
Bài kinh này (Kinh số 61, Trung Bộ) do đức
Phật giảng dạy cho Tôn giả Rahula khi Tôn giả còn là Sa-di,
đang tập sự làm người xuất gia hành
Sa-môn hạnh. Sa-môn hạnh là nếp sống chuyên đào
luyện thân tâm dựa trên pháp môn Giới, Định,
Tuệ của đức Phật. Bài kinh được tóm
tắt như sau:
Hôm ấy, đức Phật đến thăm Tôn giả Rahula
đang sống tu tập tại ngôi rừng Ambalatthika.Tôn giả Rahula đón tiếp bậc
Đạo sư của mình với một tâm tư hoan hỷ và một vài nghi thức cần
thiết như sửa soạn chỗ ngồi, múc nước rửa chân, kính lễ bậc
Đạo sư... Rồi
đức Phật, trong khi đang rửa chân, đã
dùng ảnh dụ "chậu nước rửa chân", để dạy cho
Tôn giả Rahula về hạnh không nói láo, bởi biết mà nói láo là hành
vi được xem là phi Sa-môn hạnh, khiến
Sa-môn hạnh trở nên bị kém cỏi, bị đổ bỏ, bị
lật úp, trở thành trống rỗng, giống như ảnh dụ cái chậu nước rửa
chân vậy.
Tiếp theo, đức Phật dùng ví dụ hai
con voi lâm trận để minh họa hai nếp sống
khác nhau. Thứ nhất là nếp sống biết phòng hộ lời nói (không nói
láo), được ví cho con voi thứ nhất, biết giữ
gìn và bảo vệ cái vòi khi lâm trận, nên không quăng
bỏ mạng sống của nó nơi chiến địa, là nếp sống
đáng thực hành,
đáng học tập. Thứ hai là nếp sống
không phòng hộ lời nói (nói láo), được ví như
con voi thứ hai, không biết giữ gìn và bảo vệ cái vòi khi lâm trận,
nên cuối cùng con voi ấy đành quăng
bỏ mạng sống của mình nơi trận mạc, là nếp sống không nên thực
hành; bởi vì, khi người ta không chú ý đến
việc phòng hộ lời nói, khi người ta nói láo mà không biết tàm quý
xấu hổ thì điều đó sẽ có nghĩa là con
người ta có thể làm nhiều việc tệ hại hơn, giống như con voi lâm trận
nhưng không khéo gìn giữ, bảo vệ cái vòi của nó, con voi ấy sẽ không từ bỏ
bất cứ một hành động độc ác nào.
Sau cùng, đức Phật lại dùng ví dụ
"chiếc gương soi" để huấn luyện cho Tôn giả
Rahula phương pháp thanh tịnh hóa ba nghiệp–thân, khẩu, ý– bằng cách xem
xét và phản tỉnh nhiều lần đối với mỗi
hành vi của ba nghiệp, trước khi làm, trong khi làm và sau khi làm,
khiến cho ba nghiệp được thanh tịnh, không
rơi vào các hành động phi pháp, phi
đạo đức. Đức Phật khuyên Tôn giả Rahula nên thực hành pháp môn này,
bởi vì đó là phương pháp tịnh hóa ba
nghiệp mà bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, dù ở quá khứ, hiện tại hay vị
lai, muốn trang nghiêm thanh tịnh ba nghiệp của mình
đều thực hành theo phương pháp này.
Như vậy, nếp sống đạo đức của người Phật
tử, như được mô tả trong bài kinh Giáo Giới Rahula, là nếp sống
chuyên phòng hộ và tu tập ba nghiệp, không để
cho ba nghiệp rơi vào hành vi ác, bất thiện. Người Phật tử là người
phát nguyện đi theo con đường giác ngộ của
đức Phật, do đó, bất cứ hành vi nào chống lại sự giác ngộ, chống
lại khả năng tự hoàn thiện nhân cách
giác ngộ ấy đều được người Phật tử nhận chân
và ngay lập tức tìm cách loại bỏ nó. Nếp sống
đạo đức của người Phật tử là nếp sống
biết làm điều gì và không làm
điều gì.
Không làm mọi điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy. (Pháp Cú, 183)
Bài kệ trên đã khái quát rõ một nếp
sống mà người Phật tử cần phải chọn lựa. Để tìm
thấy hạnh phúc, Phật tử không những từ bỏ các
điều ác, mà còn phải làm các điều lành,
bởi chỉ có thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành mới có thể xây dựng
một đời sống đạo đức, hạnh phúc lành
mạnh. Nếp sống đạo đức của người Phật tử bắt
đầu từ việc bỏ ác làm lành.
Có mười hành vi thường được nói đến trong
giáo lý đạo Phật liên quan đến ba
nghiệp thân, khẩu, ý gồm:
– Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, thuộc thân
nghiệp.
– Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác,
nói lời phù phiếm; thuộc khẩu nghiệp.
– Tham dục, sân hận, tà kiến; thuộc ý nghiệp.
Mười hành vi này, nếu làm thì gọi là ác hay bất thiện, không làm hay từ
bỏ thì gọi là thiện, và phương pháp tịnh hóa ba nghiệp như
được nói trong bài kinh Giáo Giới
Rahula chính là nếp sống tử bỏ mười điều ác và
làm mười điều thiện này. Dĩ nhiên,
người Phật tử sẽ không bao giờ nhầm lẫn giữa hai nếp sống thiện và bất
thiện bởi giáo lý của đức Phật luôn luôn phân
định rõ ràng biên giới giữa thiện và bất thiện. Một vài
định nghĩa sau đây sẽ giúp soi sáng thái độ
chọn lựa của người Phật tử.
"Chư Hiền, thế nào là bất thiện? Chư Hiền, sát sanh là bất thiện, lấy
của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là
bất thiện, nói hai lưới là bất thiện, nói lời
độc ác là bất thiện, nói lời phù phiếm là bất thiện; tham dục là
bất thiện, sân hận là bất thiện, tà kiến là bất thiện.
Chư Hiền, thế nào là thiện? Chư Hiền, từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ
lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ
nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ nói lời
độc ác là thiện, từ bỏ nói lời phù
phiếm là thiện; từ bỏ tham dục là thiện, từ bỏ sân hận là thiện, từ bỏ tà
kiến là thiện" (Trung Bộ I, Kinh Chánh Tri Kiến, số 9).
GIẢI PHÁP HAY NẾP SỐNG ĐẠO ĐỨC
ĐƯỢC ĐỀ BẠT TRONG BÀI KINH
I. Nếp sống từ bỏ mọi điều ác bằng cách
xem xét và phản tỉnh về ba nghiệp thân, khẩu ý.
"Này, Rahula, khi ông muốn làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy phản
tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta muốn làm; thân, khẩu, ý nghiệp
này của ta có thể đưa đến tự hại, hại người,
hại cả hai, thời thân, khẩu ý nghiệp này là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau".
Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
muốn làm ấy có thể đưa đến tự hại, hại người,
hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp ấy là bất thiện,
đưa dến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau,
thời này Rahula, một thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông nhất
định chớ có làm.
"Này Rahula, khi ông đang làm một
thân, khẩu, ý nghíệp gì, ông cần phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý
nghiệp này ta đang làm; thân, khẩu, ý
nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, hại
người, hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp này là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau”.
Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đang làm ấy có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời
thân, khẩu ý nghiệp ấy là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau, thời này Rahula, ở
đây ông hãy từ bỏ thân, khẩu, ý nghiệp
như vậy.
"Này Rahula, sau khi làm xong một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần phải
phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta
đã làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của
ta có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả
hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp này là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau”. Này
Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đã làm ấy có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời
thân, khẩu ý nghiệp ấy là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau, thời này "Rahula, một
thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông cần phải lo âu, tàm quý, nhàm chán, ông
cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước vị
Đạo sư hay trước các vị đồng Phạm hạnh có
trí. Sau khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, thưa lên, tỏ lộ trình bày,
ông cần phải phòng hộ trong tương lai" (Trung Bô Kinh I, số 61, kinh
giáo giới La-hầu-La ở rừngAmbala).
II. Nếp sống làm các điều lành qua
việc xem xét và phản tỉnh về ba nghiệp.
"Này Rahula, khi ông muốn làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy phản
tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta muốn làm; thân, khẩu, ý nghiệp
này của ta không có thể đưa đến tự hại, hại
người, hại cả hai, thời thân, khẩu ý nghiệp này là thiện,
đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc”. Này
Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
muốn làm ấy không có thể đưa đến tự hại, hại
người, hại cả hai; thân, khẩu, ý nghiệp ấy là thiện,
đưa đến an lạc, đem lại quả báo an lạc, thời
này Rahula, một thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông nên làm.
"Này Rahula, khi ông đang làm một
thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý
nghiệp này ta đang làm; thân, khẩu, ý
nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự
hại, hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu? Ý nghiệp này là thiện,
đưa đến an lạc, đem lại quả báo an lạc”.
Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đang làm ấy không có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai; thân,
khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an
lạc, đem lại quả báo an lạc, thời này Rahula, một thân khẩu, ý
nghiệp như vậy ông cần phải tiếp tục làm.
"Này Rahula, sau khi làm xong một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần phải
phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta
đã làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của
ta không có thể đưa đến tự hại, hại người,
hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp này là thiện,
đưa đến an lạc,
đem lại quả báo an lạc”. Này Rahula,
nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đã làm ấy không có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai; thân,
khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an
lạc, đem lại quả báo an lạc, thời này Rahula, ông cần phải an trú
trong niềm hoan hỷ, tự mình tiếp tục tu học ngày
đêm trong các thiện pháp" (Trung
Bô Kinh I, số 61, kinh giáo giới La-hầu-La ở rừngAmbala).
Giải pháp hay nếp sống đạo đức như được
gợi ý ở các đoạn kinh trên là hết sức căn
bản và rõ ràng. Đạo đức ở đây là
đồng nghĩa với việc bỏ ác làm lành, là
một nếp sống thiết thực có cân nhắc chọn lựa vừa thiện và bất thiện, chớ
không có mơ hồ, tưởng tượng. Bởi các nghiệp sẽ
đưa đến ác báo, khổ đau và thiện
nghiệp đưa đến thiện báo, an lạc; do đó, sống
đạo đức, bỏ ác làm lành, cũng có nghĩa là sống hạnh phúc. Có rất
nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh khái niệm hạnh phúc, nhưng
đạo Phật nhấn mạnh hạnh phúc của nếp sống bỏ
ác làm lành. Quả vậy, với tiêu chuẩn thiện ác rõ ràng, không lẫn
lộn, người Phật tử có thể quyết định số phận
khổ đau hay hạnh phúc của chính mình qua nếp sống thiện hay bất
thiện, như đức Phật đã chỉ rõ:
"Nếu với ý ô nhiểm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo". (Pháp Cú 1)
Hay là :
"Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình". (Pháp Cú, 2)
Một vài nhận xét về bài kinh:
Tiếp theo, chúng tôi xin trình bày với quý vị một vài nhận xét về bài
kinh vừa nêu.
Trước hết, Giáo Giới Rahula là bài kinh căn
bản giúp xây dựng nếp sống thiện, nếp sống đạo đức, hạnh phúc cho người
Phật tử. Nếp sống đạo đức của người Phật tử là nếp sống bỏ ác làm
lành. Bài kinh cần được các Phật tử lưu tâm
học thuộc lòng nhiều đoạn, nhất
là các đoạn nói về cách từ bỏ ba nghiệp ác,
thực hành ba nghiệp thiện qua việc xem xét và phản tỉnh nhiều lần,
trước khi làm, trong khi làm và sau khi làm ba nghiệp.
Bài kinh chỉ nêu lên cách thức quán sát và phản tỉnh về ba nghiệp thân,
khẩu, ý, mà không đề cập cụ thể các hành
vi thường đi liền với ba nghiệp. Do đó, một
sự liên kết mười thiện nghiệp hay mười ác nghiệp gắn liền với thân,
khẩu, ý là hết sức cần thiết trong khi thực hành phương pháp thanh tịnh
hóa ba nghiệp này.
– Sự xem xét và phản tỉnh về ba nghiệp là rất quan trọng trong pháp môn
thanh tịnh hóa ba nghiệp, bởi vì, có xem xét và phản tỉnh nhiều lần thì
mới đoan chắc điều gì nên làm và
điều gì không nên làm. Có thể nói, cốt
lõi của bài kinh là nằm ở chỗ này, tức là sự xem xét và phản tỉnh về những
gì muốn làm, đang làm hay
đã làm bởi thân, khẩu, ý; vì nếu không
có sự xem xét hay phản tỉnh về ba nghiệp thì không thể có sự phòng hộ hay
tu tập ba nghiệp. Tương tự, thái độ xem xét
thành thật về ba nghiệp, thiện hay ác, là hết sức cần thiết nhằm
chặn đứng điều ác, nếu có, và nhằm
khích lệ các điều thiện đã làm.
– Thiện hay ác không dễ dàng đến với mình
nếu không do sự tích lũy dần dần trong cuộc sống. Một cuộc
đời chứa đầy ác, ấy là do thái
độ xem thường của con người đối với các điều
ác nhỏ nhặt được tích lũy lâu ngày trong cuộc sống. Tương tự, người
Phật tử chứa đầy thiện, ấy là do thái
độ biết trân trọng các điều thiện, dù
rất nhỏ, được nuôi dưỡng lâu năm dần trong
nếp sống làm lành:
"Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác,
Do chất chứa dần dần". (Pháp Cú, 121)
và:
"Chớ chê khinh điều thiện,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn,
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần". (Pháp Cú, 122)
– Tính cách thực tiễn của bài kinh khiến chúng ta tin tưởng rằng lời
dạy của đức Phật không phải để dành
riêng cho ai, mà dành cho tất cả mọi người, cho những ai biết trân trọng
và tìm thấy lợi ích, hạnh phúc trong nếp sống thiện, nếp sống có
đạo đức. Giải pháp đạo đức được đề bạt trong
bài kinh là thiết thực và dễ dàng, liên quan
đến đời sống hàng ngày của con người
(lời nói, suy tư và hành động), do đó mọi
người đều có thể ứng dụng. – Sau cùng và cũng là
điều quan trọng hơn cả là việc ứng
dụng bài kinh vào cuộc sống hàng ngày của người Phật tử. Bài kinh nói về
nếp sống thiện, nếp sống đạo đức; nhưng đạo
đức không có ở trong bài kinh, đạo đức
chỉ có nơi những người chuyên tâm thực hành những lời kinh dạy. Do
đó, giảng nói về đạo đức là cần thiết,
nhưng quan trọng hơn vẫn là sống một nếp sống
đạo đức thực sự với sự xem xét và phản tỉnh thường xuyên về ba
nghiệp, thân, khẩu, ý của mình.
Chúng tôi vừa giới thiệu với quý vị bài kinh Giáo Giới Rahula với giải
pháp đạo đức thực tiễn có thể giúp ứng dụng
dễ dàng vào đời sống hàng ngày
của mỗi người Phật tử chúng ta. Chúng tôi cũng
đã có vài nhận xét gợi ý nhằm giúp cho
quý vị thấy rõ tầm quan trọng của pháp môn thanh tịnh hóa ba nghiệp
đối với cuộc sống là như thế nào. Vấn
đề còn lại chỉ là mỗi cá nhân chúng ta
có cương quyết thực hiện hay không mà thôi. Tất nhiên, chúng tôi rất tin
tưởng mỗi người Phật tử chúng ta đều đang nỗ
lực thực hành lời Phật dạy, nhất là vấn
đề tu dướng đạo đức là hết sức cần
thiết cho cuộc sống con người và xã hội ngày nay. Quả thật, chúng ta cần
bình tâm mà nhận ra rằng, dù đã có
những bước chuyển mình khá tốt đẹp, xã
hội Việt Nam đang tồn đọng nhiều vấn đề đòi
hỏi mỗi người Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn mới mong giải
quyết được. Nhưng điều chúng ta lo ngại nhất
là nếp sống văn hóa và
đạo đức truyền thống đang có nguy cơ
bị đẩy lùi khiến ảnh hưởng
đến các thế hệ con em của chúng ta, vì
nó làm cho con người Việt Nam vốn mất dần đi
tính chất của con người Việt Nam vốn có cội nguồn văn hoá và
đạo đức rất đặc biệt. Nguyên nhân của
vấn nạn trên là gì nếu không nói là sự thờ ơ và xem thường của con người
Việt Nam trước vấn đề đạo đức của cá nhân dẫn
đến sự thờ ơ đối với đạo đức gia đình và xã hội? Tại sao trẻ em
Việt Nam chưa ngoan? Tại sao trẻ em Việt Nam thiếu hoặc không tôn trọng bố
mẹ, thầy cô giáo? Tại sao trẻ em Việt Nam trở thành kẻ phạm pháp? Câu trả
lời thì đã có nhiều, nhưng chắc chắn
con em của chúng ta sẽ không có những sai phạm nói trên nếu như những
người lớn chúng ta đã không tỏ ra quá
buông thả trong đời sống cá nhân khiến ảnh
hường đến tâm lý hay học đòi, bắt chước của chúng? Vấn
đề đang đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn
nữa về nếp sống đạo đức và nêu cao
đạo đức của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Chúng ta đã từng có, trong lịch sử
dân tộc, những mùa Xuân thật sự hạnh phúc và thái bình mà tấm thảm dệt nên
mùa Xuân đó không gì khác là nếp sống
thiện, nếp sống đạo đức của một dân tộc được
phát huy cao độ. Một thoáng nhìn về quá khứ
để thấy rằng dân tộc Việt Nam chúng ta đã
từng tu dưỡng đạo đức qua nếp sống từ bỏ mười
điều ác, thực hành mười điều thiện của
thân, miệng, ý và đã từng hưởng
trọn những mùa Xuân an lành, thịnh vượng nhờ nếp sống ấy.
Đó là những mùa Xuân thời Lý, Trần.
Chúng ta từng có những ông vua bỏ ngai vàng xuất gia, kiên quyết sống
đời sống đạo đức và khuyên dạy người
dân tu dưỡng đạo đức qua nếp sống làm
mười điều thiện khiến ảnh hưởng đến đời sống
đạo đức của toàn dân và thái bình của xứ sở.
Lịch sử đã sang trang. Thời Lý,
Trần đã lùi về quá khứ. Nhưng phải chăng
tấm gương của thời Lý, Trần đã cần thiết cho cuộc sống hiện tại của
chúng ta để suy gẫm lại nếp sống của chính mình,
giống như "chiếc gương soi" của đức Phật
trong bài kinh Giáo Giới Rahula là hết sức cần thiết
để soi lại ba nghiệp thân, khẩu, ý của mỗi
người chúng ta? Chúng tôi hy vọng mỗi người Phật tử chúng ta sẽ mang sắc bên
mình "chiếc gương soi" mà hơn 25 thế kỷ trước
đức Phật đã ưu ái trao cho Tôn giả Rahula. Và
đó là tín hiệu
đầu Xuân mà chúng tôi thân ái muốn gởi
đến.
(Bài giảng đầu Xuân Giáp
Tuất năm 1994 tại Thiền viện Vạn Hạnh)
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 | 05 |
06
|
|