|
 |
Chánh Pháp và
Hạnh Phúc
Hòa thượng
Thích Minh Châu |
 |
8.
VẤN ĐỀ
TÁI SANH
Con người từ đâu đến và chết rồi sẽ
đi về đâu?
Đó l à những vấn đề làm cho
nhân loại băn khoăn tìm hiểu và khai
sanh rất nhiều triết thuyết tự cổ chí kim, nhiều khi mâu thuẫn phản ngược
nhau và càng làm cho rối ren thêm vấn đề này.
Ở đây chúng tôi không muốn làm cho
rối ren thêm một vấn đề tự nó đã là
một ổ tơ vò không lối thoát. Chúng tôi chỉ muốn
đặt trước các độc giả một số dữ kiện, một vài
định lý và hiện tựợng dựa trên thực
tế, để giúp các bạn hiểu một cách dễ dàng
hơn sự giải thích của đạo Phật về vấn đề này.
Chúng tôi cũng không có cao vọng xác chứng vấn
đề tái sanh và xây dựng lòng tin cho
quý vị, vì vấn đề tái sanh đòi hỏi mỗi
cá nhân tự mình nhận xét suy tư, tự mình xác nhận kinh nghiệm, không những
trên tự bản thân mà trên cả những hiện tượng xung quanh mình nữa.
Chúng tôi dựa trên kinh tạng và luận tạng
để giải thích, đặc biệt là luận A-tỳ-đàm
Thượng tọa bộ để sự dẫn chứng nghiên
cứu dễ dàng hơn.
Từ trước, chúng ta thường dùng danh từ "Luân hồi"
để giải thích hiện tượng sanh tử, tử sanh,
một danh từ dễ sinh ra hiểu lầm: một vòng tròn xoay quanh một trục
lăn nhất định và
đều đặn trở lại chu kỳ xuất phát. Ở đây chúng
tôi dùng danh từ "Tái sanh" nghĩa là sanh một lần nữa, thế cho danh
từ "Luân hồi", với dụng ý xóa bỏ hình ảnh chu kỳ nhất
định không di dịch, phản lại định lý căn bản
Vô thường của đạo Phật.
I. Những định lý chi phối con người và
sự vật.
1. Định lý Vô thường: Anicca.
Con người và sự vật ở trong đời này
luôn luôn thay đổi biến dịch, từng giờ, từng
phút, từng sát na. Nhưng sự thay đổi này không phải loạn xạ bất
định mà tuân theo những
định lý, định luật chi phối và
điều hành sự biến dịch của sự vật và
con người. Khi dùng chữ định lý hay định
luật, chúng ta đừng có hiểu lầm là
những luật này do một Tạo hóa làm ra hay do một pháp viện nào ban hành.
Những định lý này là những
định lý thiên nhiên, tự nhiên, nêu rõ
một sự vận hành có kỷ cương trật tự, chi phối mọi sự vật kể cả con người.
Những định lý này không phải do
đức Phật chế ra, mà chỉ do Ngài khám
phá và tuyên bố cho thế giới biết.
Định lý đầu ti ên là định lý Vô
thường (Anicca) nêu rõ không một sự vật gì ở trên
đời mà
được thường hằng, bất biến. Nói một cách khác, mọi sự vật kể cả con người
đều bị luật Vô thường chi phối. Núi non, nhà cửa, cây cối, người
vật đều được thay đổi và bị thay
đổi trong từng sát na, từng phút, từng giây.
Có khi sự thay đổi rất mau lẹ chúng ta có thể thấy được như nhà cửa
bị đổ nát trong thời kỳ chiến tranh; có khi
sự thay đổi tế nhị lâu dài hơn từ đời
này qua đời khác như sông núi, mặt
trăng, mặt trời. Định lý Vô thường này
được nhận xét dưới nhiều trạng thái hình thức khác nhau như sanh
tử, khởi diệt, tăng giảm, co dãn,
thành hoại, hữu vô, tiến thối v.v... Dù dưới hình thức nào,
định lý Vô thường này hàm chứa ý nghĩa
một sự thay đổi từ trạng thái này qua
trạng thái khác. Như vậy vô thường ngự trị và chi phối toàn thể thế giới,
không có một sự vật cá nhân gì có thể thường còn bất biến. Thời gian di
động tất cả, di động cả chúng ta, dù
chúng ta muốn hay không. chúng ta sống trong một thế giới vô thường biến
dịch, và chính danh mạng căn của chúng ta và
sắc mạng căn của chúng ta được thay đổi biến
dịch từng sát-na, từng giây phút. Sabbe sankhàrà aniccà: Tất cả
pháp hữu vi là vô thường. Nếu mọi pháp là vô thường, nhưng không có vật gì
là hoại diệt. Chỉ có hình thái thay đổi,
không có gì tiêu tan mất hẳn. Trạng thái chất cứng biến thành chất
lỏng, trạng thái chất lỏng biến thành trạng thái chất hơi, nhưng không có
sự vật gì hoàn toàn bị tiêu diệt. Vật chất là một biểu hiện của năng
lượng, và như vậy không bao giờ tiêu mất hay bị hủy hoại.
Đây cũng là
định lý khoa học: Conservation of energy.
Chúng ta cũng biết là thân ta luôn luôn bị thay
đổi, và cứ bảy năm
một lần thân thể hoàn toàn đổi mới.
Cho đến khi chết, cũng không có gì hoại diệt. Một phần thân thể của
chúng ta sẽ biến thành chất lỏng hay chất hơi, kim khí hay muốl, tùy theo
từng thân phần. Nếu sinh vật học dạy rằng thân thể chúng ta hoàn toàn
đổi mới sau bảy năm, thì
đức Phật dạy rằng thân thể chúng ta biến đổi
trong từng sát na một, và sự diễn tiến của sự biến dịch này
được mang tên là Khanika marana nghĩa
là sự chết trong từng sát na.
Một đặc tính của định lý Vô thường này
là không có biên giới rõ rệt giữa một trạng thái này với một trạng thái
nối tiếp, những trạng thái này hoàn toàn cách biệt với nhau. Hãy nhìn
những làn sóng khởi lên rồi diệt xuống, mỗi làn sóng khởi lên rồi xuống
khiến cho một làn sóng kế tiếp được khởi lên.
Rồi làn sóng này lại rơi xuống dể làm khởi lên một làn sóng kế tiếp. Chúng
ta khó mà chỉ đích thực đâu là ranh
giới giữa hai làn sóng, chỗ nào là chỗ diệt xuống của một làn sóng trước
và chỗ nào là khởi điểm cho làn sóng
sau. Mỗi một làn sóng như chìm sâu vào làn sóng kết tiếp và làn sóng kế
tiếp nữa. Như vậy định lý Vô thường giúp
chúng ta ý thức được con người và sự vật luôn luôn thay
đổi, biến dịch; tuy thay đổi nhưng chỉ thay
đổi trạng thái, không mất hẳn hay diệt hẳn. Và giữa hai trạng thái
liên tục, không có một ranh giới rõ rệt.
2. Định lý Hiện hữu (Bhava) và
định lý Liên tục (Santati)
Từ định lý Vô thường, chúng ta bước sang
định lý Hiện hữu trong một trạng thái khác. Danh từ Pàli gọi là
Bhava. Hán dịch là Hữu: Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu.
Hột lúa luôn luôn ở trong trạng thái hình thành cây mạ, nụ hoa luôn
luôn ở trong trạng thái hình thành bông hoa, con nít luôn luôn ở trong
trạng thái hình thành người lớn, người lớn luôn luôn ở trong trạng thái
hình thành người già.
Có người hỏi, nếu hột lúa được tưới nước
sôi vào và cây mạ bị nhổ lên thời hột lúa có thành cây mạ không, và
cây mạ có thể trở thành cây lúa không? Lẽ dĩ nhiên là không, những
định lý hình thành hay hiện hữu này
không chấm dứt. Nó tiếp tục nhưng hướng về tiêu mòn, hao diệt, mà không
mất hẳn. Cả hột giống và cây mạ đều thay đổi,
tiêu mòn và có thể trở thành bốn đại
chủng nhưng không mất hẳn. Định lý Hiện hữu này
đưa đến một định lý khác, gọi là
định lý Liên tục hay Tương tục
(Santati).
Chúng ta thấy sự vật là vô thường, biến dịch, thay
đổi từ trạng thái này qua trạng thái
khác. Chất cứng có thể trở thành chất lỏng, chất lỏng có thể trở thành
chất hơi nhưng không một chất nào tiêu diệt hẳn. Các năng
lực mà những chất này là những hình thức hiện hữu, vẫn tiếp tục dù
hình thức của những chất này có thay đổi.
Như vậy chúng ta thấy có sự liên tục của năng
lực, và sự liên tục này là một đặc
tính của mọi sự vật. Chính vì có sự liên tục, nên khó mà nêu rõ
ranh giới giữa một trạng thái này qua một trạng thái khác. Không những
không có ranh giới không gian mà cũng không có ranh giới thời gian, vì
thời gian cũng liên tục thay đổi. Khó mà
chỉ đích thực lúc nào là quá khứ, lúc
nào là hiện tại, lúc nào là vị lai. Hiện tại từng sát na cũng
đi vào hiện tại. Khi có người bạn nói
ta mấy giờ, ta xem đồng hồ đáp 10 giờ vài
giây rồi. Thời gian không có đứng một chỗ,
luôn luôn xê dịch vào quá khứ. Và như vậy thời gian cũng do
định lý Liên tục chi phối. Sự vật
đã như vậy, không gian thời gian
đã như vậy, thời con người với hai
phần danh và sắc lẽ nào có thể thoát khỏi sự chi phối của
định lý Vô thường. Hiện hữu và Liên
tục được. Và như vậy, khi con ngườỉ
mới sanh ra, định lý Liên tục, cho ta
thấy có sự liên kết với những đời sống quá
khứ; và khi con người chết đi, sự chết
không có nghĩa là mất hẳn mà chỉ là mở
đầu cho một đời sống mới. Đó là những vấn
đề khiến chúng ta cần phải suy nghĩ.
3. Định lý Nghiệp báo hay định lý Nhân
quả.
Định lý n ày nêu rõ, mỗi hành động
tạo tác ra phải có kết quả của hành
động ấy như câu sau này nêu rõ: "Yàdisam vatate bijam tàdisam
harate phalam" (Gieo hạt giống nào thì gặt kết quả ấy).
Định lý này áp dụng cho thế giới vật
chất và thế giới tâm linh, và khi áp dụng cho hành
động con người, định lý Nhân quả này
được gọi là
định lý Nghiệp báo.
Theo đạo Phật, mọi hành
động cố ý về thân, khẩu, ý đều gọi là
Kamma hay Nghiệp, và kết quả của những hành
động ấy là Kammavipàka hay Nghiệp báo. Hành
động thiện (Kusalakamma) đưa đến nghiệp báo
thiện (kusalavipàka), và hành động bất
thiện (akusalakamma) đưa đến nghiệp báo bất thiện (akusalavipàka).
Nhưng ở đời, chúng ta thấy nhiều người làm
ác mà vẫn phây phây sung sướng giàu sang; có người làm thiện lại phải trải
qua nhiều thời gian truân đau khổ. Sự phân
chia không đồng đều về khổ lạc, về giàu nghèo, và yểu thọ giữa loài
Người hình như nói lên sự bất công của định
lý Nhân quả, Nghiệp báo này. Sự hành
động của chúng ta có nhiều loại khác nhau, và thời gian giữa nhân
và quả, giữa nghiệp và nghiệp báo không phải nhất luật, theo một thời gian
nhất định. Thêm nữa, giữa nhân quả,
giữa nghiệp và nghiệp báo thường hay xen lẫn nhiều yếu tố khác nữa và
chính những yếu tố này đã chi phối sự
hình thành của những kết quả .
Theo tập Abhidhammattthasangaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận), sự phân chia
các nghiệp (Kamma) được trình bày như
sau:
- Về phương diện công tác, có bốn loại nghiệp: sanh nghiệp, trì
nghiệp, chướng nghiệp và đoạn nghiệp.
- Về phương diện sức mạnh thứ tự đưa đến
hình thành của quả báo, có bốn loại nghiệp: cực trọng nghiệp, cận
tử nghiệp, tập quán nghiệp và tích lũy nghiệp.
- Về phương diện thời gian đưa đến sự
thọ lãnh kết quả của nghiệp, có bốn loại nghiệp: hiện báo nghiệp,
sanh báo nghiệp, hậu báo nghiệp và vô hiệu nghiệp.
- Về phương diện vị trí quả báo, có bốn loại nghiệp: bất thiện
nghiệp, dục giới thiện nghiệp, sắc giới thiện nghiệp và vô sắc giới
thiện nghiệp.
Janakakamma (sanh nghiệp) là nghiệp chi phối sự sinh trưởng trong một
đời sau. Sự chết của con người chỉ là
sự kết liễu tạm thời của một hiện tượng tạm thời.
Chính tâm sát na cuối cùng định đoạt đời
sống tương lai của con người.
Uppatthambhakakamma (trì nghiệp) là nghiệp tiếp theo Janakakamma, duy
trì và nâng đỡ nghiệp này cho
đến khi mệnh chung. Một thiện trì
nghiệp có thể làm con người khỏe mạnh, an lạc, hạnh phúc. Trái lại, một
bất thiện nghiệp có thể làm con người bệnh hoạn
đau khổ Upapilakakamma là chướng
nghiệp. Nghiệp này, trái với nghiệp trước, làm cho yếu ớt, dừng lại và
chậm trễ sự kết thành của sanh nghiệp. Như một người sanh ra với một thiện
sanh nghiệp có thể đau đớn bệnh hoạn, do vậy
không có kết quả tốt lành của nghiệp thiện.
Upaghatakamma, đoạn nghiệp đoạn trừ, tiêu
diệt năng lực của sanh nghiệp, như một mũi tên
đang bay có thể bị một sức mạnh nào
khác cản lại khiến cho mũi tên rơi xuống. Sức mạnh ấy là
đoạn nghiệp. Đoạn nghiệp này có thể
thiện hay ác.
Garukakamma (cực trọng nghiệp) có thể thiện hay bất thiện. Nghiệp này
nhất định tạo quả đời này hay
đời sau. Nếu là thiện thời thuộc ý
nghiệp như các thiện tâm.
Nếu không phải thiện, có thể khẩu nghiệp hay thân nghiệp là giết cha,
giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm
thân Phật chảy máu. Cực trọng này cũng gọi là Anantariyakamma (vô gián
nghiệp) vì nhất định nghiệp này
đem đến kết quả trong đời sau. Nếu một người
tu Thiền và sau làm một cực trọng nghiệp, thiện nghiệp của người
này sẽ bị cực trọng nghiệp tiêu trừ.
Đời sống sau n ày của vị này sẽ bị chi phối bởi cực trọng nghiệp,
như Devadata mất thần thông và phải sinh và ác thú vì
đã làm
đức Phật bị thương và phá hòa hợp Tăng.
Như vua Ajatasattu không thể chứng Sơ quả vì
đã giết phụ vương.
Asannakamma (cận tử nghiệp) là nghiệp làm ra hay nhớ nghĩ khi lâm
chung. Nghiệp này rất quan trọng vì chi phối
đến đời sống sau này. Cho nên nhiều lễ nghi tổ chức khiến người sắp
chết nhớ lại việc thiện để người ấy được sinh
vào những cõi tốt đẹp hơn. Một người
ác có thể sinh lên thiện thú nếu khi chết người ấy nhớ hay làm một
thiện sự. Trái lại một người khi chết người ấy làm hay nhớ
đến một việc ác. Như hoàng hậu
Mallika, vợ của vua Kosala sống một đời ngay
thẳng tốt lành, nhưng chỉ vì khi lâm chung, nhớ
đến một lời nói láo của mình, nên phải
sống 7 ngày đau khổ trong ác thú.
Acinnakamma (tập quán nghiệp) là nghiệp thường làm và thường nhớ
đến. Chính những hành
động trở thành tập quán tác thành cá
tánh con người. Cunda, người đồ tể, chết la
hét như con heo, vì sống bằng nghề đồ
tể, dù sống bên cạnh chùa của đức
Phật. Vua Dutthgami ở Tích Lan thường cúng dường cơm nước cho chư Tăng
trước khi ăn cơm. Chính tập quán nghiệp này khiến vua hoan hỷ lúc
chết và được sanh lên cõi trời Tusita
(Đâu-suất).
Katattakamma (tích lũy nghiệp) nghĩa là làm những nghiệp không thuộc
vào ba loại nghiệp kể trên và những nghiệp làm mà quên liền, thuộc về loại
nghiệp này. Nghiệp này như là chỗ chứa đựng
các nghiệp cho một chúng sinh.
Ditthidhammavedaniyakamma: Hiện báo nghiệp là nghiệp
đưa dến kết quả hiện tại. Theo Abhidhamma,
chúng ta làm thiện hay ác trong giai
đoạn Javana (tốc hành tâm), tâm này tồn tại
đến bảy sát na. Quả báo của tâm sát na thứ
nhất, tâm yết ớt nhất, có thể được lãnh thọ ngay ở
đời này. Như vậy gọi là hiện báo
nghiệp.
Nếu không thọ lãnh ngay trong đời này,
nghiệp ấy gọi là vô hiệu. Tâm sát na yếu ớt thứ hai là tâm sát na thứ bảy.
Quả báo của tâm này có thể thọ lãnh đời
sau thì gọi là Upapajjavedanìya (sanh báo nghiệp). Nghiệp này nếu
không đưa đến quả báo đời sau thì
được gọi là vô hiệu.
Quả báo của các sát na tâm ở giữa có thể
được thọ lãnh bất kỳ lúc nào cho đến
khi chứng được Niết Bàn. Loại nghiệp này gọi là
Aparaparapariyavedanìya hậu báo nghiệp. Chính
đức Phật và các vị A-la-hán cũng không thoát khỏi nghiệp này. Không
có một loại nghiệp đặc biệt gọi là
Ahosikamma (vô hiệu nghiệp), nhưng khi một nghiệp nào phải có quả báo ở
đời này hay
đời sau, mà không thành tựu
được, nghiệp ấy gọi là Ahosikamma.
Sự trình bày này giúp chúng ta hiểu tại sao ở trên
đời này, có những sự kiện hình như là
bất công mâu thuẫn về định lý nghiệp báo,
nhân quả; nhưng sự thật định lý này cũng vô tư, trung thực như các
định lý khác.
9.
Ý NGHĨA PHẬT THÀNH
ĐẠO
Theo truyền thuyết Nam tông,
đức Phật đản sinh, thành
đạo và nhập Niết Bàn cùng trong một
ngày, tức là ngày Rằm trăng tròn tháng
Tư âm lịch. Theo truyền thuyết Bắc tông, đức
Phật đản sinh vào ngày Rằm tháng Tư (trước ngày mồng 8 tháng Tư),
thành đạo ngày mồng 8 tháng Chạp, và
nhập Niết Bàn vào ngày Rằm tháng Hai âm lịch. Nhưng Bắc tông hay Nam tông,
quan hệ và ý nghĩa Lễ Thành Đạo chỉ là
một. Chí nguyện xuất gia, quá trình tầm đạo
học đạo, hành khổ hạnh, hành Thiền, tu tập Thiền quán, chứng Chánh
Đẳng Giác cùng là một. Quá trình ấy
đều được các học phái chấp nhận, dù có
những sai khác về chi tiết.
Theo truyền thống, Thái tử đi dạo chơi bốn
cửa thành, thấy một người già, một người bệnh, một người chết và
một người tu sĩ xuất gia. Bốn hình ảnh được
chứng kiến này làm Ngài xúc động rất
mạnh. Ba hình ảnh đầu mở mắt cho Ngài
thấy cảnh sinh, lão, bệnh, tử đè nặng
trên kiếp sống con người. Hình ảnh thứ tư giới thiệu con
đường giải thoát ra khỏi khổ đau: sanh, già,
bệnh, chết. Do vậy chí nguyện xuất gia của Ngài
đã được
minh định rõ ràng như đã
được diễn tả trong kinh Thánh Cầu sau đây:
"Này các Tỳ kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa chứng Chánh
Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình
bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già ,
tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu...
tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm... Vậy Ta tự mình
bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, hãy tìm cầu cái
không sanh, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị già...
cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh...
tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm.
Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, hãy cầu tìm cái không ô
nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn" (Trung Bộ Kinh I, 163).
Ở nơi đây, chúng ta sẽ nhận thấy vai trò
của cảm thọ (Vedanà) rất là đặc biệt trong
quá trình xuất gia, tu đạo và
thành quả của Ngài, chính vì thấy sự đau khổ
của chúng sinh, và đau khổ (Dukkha) là
một cảm thọ, đau khổ vì bị sanh,
đau khổ vì bị già,
đau khổ vì bị bệnh,
đau khổ vì bị chết nên Ngài mới xuất
gia tìm đạo. Cho nên
đạo Phật có thể nói là một
đạo bắt đầu với một cảm thọ tức là khổ
thọ và chấm dứt cùng vớì một cảm thọ, tức là lạc thọ, giải thoát lạc,
chánh gìác lạc. Ở đây chúng ta hiểu một cách
toàn diện câu nói rất đặc biệt của đức
Phật: “Trọn đời Ta thuyết pháp, Ta chỉ nói có hai điều: sự khổ và
sự diệt khổ" (Trung Bộ I, 140).
Với tâm nguyện giải quyết vấn đề sanh, lão,
bệnh, tử nên Thái tử xuất gia tu đạo, như
được chính Ngài diễn tả trong đoạn
kinh sau đây:
"Rồi này các Tỳ kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu,
tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi
thanh xuân, trong thời vàng son cuộc
đời, mặc dù cha mẹ không bằng lòng, nước mắt
đầy mặt, than khóc. Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Ta xuất gia như
vậy, để đi tìm cái gì chí thiện, tìm
cầu vô thượng, tối thắng an tịnh, đạo lộ,
hướng đến tịch tịnh..." (Trung Bộ Kinh I, trang 163).
Sau khi xuất gia, Thái tử đi đến học đạo
với Alàra Kàlàma và Udaka Ràmaputta, và sau khi học và tu chứng quả
Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, quả vị cao nhất mà hai vị này
đạt được, Ngài suy nghĩ: "Pháp này
không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn mà chỉ
đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ...
Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỳ kheo, Ta không tôn
kính các pháp này, và từ khước pháp ấy, Ta bỏ
đi” (Trung Bộ Kinh I, trang 166).
Tiếp đến là những năm
khổ hạnh của Ngài vì trong thời bấy giờ, có nhiều vị giáo chủ tin
tưởng rằng khổ hạnh là con đường đưa đến giải
thoát; có hành hạ thân xác, có cảm thọ khổ
đau mới hy vọng giải thoát giác ngộ.
Trong Đại kinh Saccaka, vị Bồ-tát tu tập
nghiến răng, dấu chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp
phục tâm, đánh bại tâm. Rồi Ngài tu
tập Chỉ tức Thiền (tức là Thiền nín thở), chịu những khổ
đau kinh khủng, khi thì bị tiếng gió
động kinh khủng thổi ngang qua lỗ tai như
tiếng ống bệ, khi thì bị ngọn gió kinh khủng thổi ngang qua
đầu, khi thì bị
đau đầu một cách kinh khủng, khi thì
bị một sức nóng kinh khủng, thiêu đốt. Đức
Phật tường thuật lại đời sống tu khổ hạnh:
"Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối
đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu
xanh, súp đậu đen, hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành
hết sức gầy yếu. Vì ta ăn quá ít, tay chân Ta
trở thành như những cọng cỏ hay những
đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít,
bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc
đà; vì Ta
ăn quá ít, xương sống phơi bày của Ta giống như một chuỗi trái
bóng; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn
của Ta giống như rui cột của một sàn nhà hư nát; vì Ta
ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu
thẳm trong lỗ con mắt giống như ánh nước long lanh nằm sâu trong một giếng
nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu
của Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như
trái bí trắng đắng, cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn
nheo khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng" thì
chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống" thì
chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít,
này Aggivessana, da bụng của Ta đến
bám chặt xương sống”. (Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 245).
Hiện nay ở các chùa Việt Nam có thờ tượng Phật gọi là tượng Tuyết Sơn
hay tượng Phật tu khổ hạnh, chỉ còn da bọc lấy xương, như chúng ta
được thấy ở chùa Bút Tháp.
Điều quan hệ ở nơi đây l à những bài học, những kinh nghiệm, vị
Bồ-tát đã rút tỉa ra
được, khi tự mình tu khổ hạnh như vậy:
"Này Aggivessana, dù Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dù cho
niệm được an trú không dao động, nhưng thân
của Ta vẫn bị khích động không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi
sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy". Rồi vị Bồ-tát nghĩ
đến lúc còn nhỏ khi vua cha
đang dự lễ cày cấy, và Thái tử
được đặt ngồi dưới một gốc cây, Thái tử nhập
sơ Thiền: “Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ". Khi an trú như
vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể
đưa đến giác ngộ chăng?”. Và này
Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây
là đạo lộ đưa
đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta
suy nghĩ: "Ta có sợ chăng, lạc thọ này,
một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp?". Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ:
"Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp" (Đại
kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 246).
Vị Bồ-tát nói lên kinh nghiệm riêng của Ngài về vấn
đề Thiền như sau:
"Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực,
và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly
bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên
nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội
tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana,
như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại
nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta,
được tồn tại, nhưng Ta không chi phối tâm
Ta”. (Trung Bộ Kinh I, trang 247).
Ở đây, thế giới hành Thiền là một
thế giới cảm thọ, cảm thọ sơ Thiền đưa đến hỷ
lạc là một cảm thọ này do sống viễn ly
đưa đến. Thiền thứ hai cũng là một cảm thọ, cảm thọ hỷ lạc, nhưng
hỷ lạc này do định sanh. Thiền thứ ba cũng là
một cảm thọ. Xả niệm lạc trú, không còn hỷ, chỉ có thuần túy lạc thọ. Và
Thiền thứ tư cũng là một cảm thọ, xả niệm thanh tịnh, lạc cũng không còn,
và được xả thay thế và xả cũng là một
cảm thọ.
Khi đã nhận thức
được con đường phải
đi, vị Bồ-tát đi tới Uruvelà
(Ưu-lâu-tần-loa), thấy một địa điểm khả ái
một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, có một chỗ lội
qua dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng
đi khất thực. Thật là một chỗ vừa
đủ cho một thiện nam tử tha thiết tinh cần có
thể tinh tấn. “Và này các Tỳ kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và
nghĩ: "Thật là vừa đủ để tinh tấn””. Chỗ ngồi
mà vị Bồ-tát lựa chọn là dưới gốc cây Bồ
đề ở Bồ đề Đạo tràng, và con sông kế
cận là con sông Neranjara (Ni-liên-thiền). Theo truyền thống Nam tông,
đêm ấy Ngài thành
đạo chứng quả Bồ đề, và sau khi thành
đạo, Ngài ở lại chung quanh cây Bồ
đề đến 49 ngày. Theo truyền thống Bắc
tông, sau khi Ngài đến cây Bồ đề, ở lại 49 ngày
rồi mới chứng quả. Đó là những sai
khác về học phái chưa được giải thích tường
tận. Điều quan hệ là Ngài đã
thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, sau khi thực
hiện quá trình thành đạo: xuất gia,
học đạo, tu khổ hạnh, hành Thiền, tuệ quán và chứng quả Chánh
Đẳng Giác.
Con đường đức Phật tự mình tu hành
chứng quả và giảng dạy lại cho các đệ tử là
con đường Giới, Định, Tuệ. Giới là một
nếp sống lành mạnh, xa rời các dục, các bất thiện pháp, như
đã được
diễn tả trong nhiều kinh điển. Thứ hai là
Định, tức là Thiền
định, phương pháp tập trung nội tâm
trên những đối tượng lựa chọn để đoạn trừ năm
triền cái: tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi và thay
thế bằng năm Thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc,
nhất tâm. Các Thiền chi này được giảm
dần cho đến Thiền thứ tư, chỉ có xả và nhất tâm. Tới
đây chấm dứt giai đoạn Thiền định thứ hai và
mở đầu giai đoạn thứ ba tức là giai
đoạn trí tuệ.
Chính xả và nhất tâm, tức là Thiền thứ tư
đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình giác ngộ của vị tu
sĩ. Một mặt, Thiền thứ tư là vị trí người hành giả, có
đủ nội lực, nghị lực để đối trị ác ma, đối
trị sức mạnh của dục. Thiền thứ tư với xả và nhất tâm
đạt được địa vị cao nhất của Thiền sắc giới,
Thiền này chấm dứt giai đoạn Giới (Sìla)
và Định (Samàdhi) và mở
đường cho giai đoạn thứ ba tức là Tuệ
(panna). Thiền này chấm dứt Samatha (Chỉ) và mở
đầu cho Vipassanà (Quán). Nói một cách
khác, phải với định lực của Thiền thứ tư là
xả và nhất tâm, người hành giả mới có sức mạnh
để Thiền quán có hiệu quả và tiến dần
đến đích giác ngộ, giải thoát. Tiến trình
giải thoát, giác ngộ của đức Phật dược diễn
tả như sau:
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
tĩnh như vậy. Ta dẫn tâm đến Túc mạng minh...
Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và
các chi tiết. Này Aggivessana, đó là
đệ nhất minh Ta đã chứng
được trong đêm canh một. Vô minh diệt
thì minh sanh, ám diệt thì ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, Này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
tỉnh như vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến trí
tuệ về sanh tử của chúng sinh, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu
nhãn, thấy sự sống và chết của chúng sinh ... Này Aggivessana,
đó là đệ
nhị minh Ta đã chứng được trong đêm
canh hai, vô minh diệt, minh sanh; ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh
nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta.
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh
như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận
trí Ta biết như thật: “Đây là Khổ", biết như thật: "Đây
là nguyên nhân của Khổ", biết như thật "Đây
là Khổ diệt", biết như thật "Đây là
con đường đưa đến Khổ diệt”, biết như thật:
"Đây là các Lậu hoặc", biết như
thật: "Đây là nguyên nhân của các Lậu
hoặc", biết như thật: "Đây là các Lậu
hoặc diệt", biết như thật: "Đây là con
đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ
hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi Dục lậu, thoát
khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát
như vậy khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã
giải thoát". Ta đã biết: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh
đã thành, việc cần làm
đã làm, sau
đời hiện tại không có đời sống nào
khác nữa". Này Aggivessana, đó là
đệ tam minh Ta đã chứng trong canh ba,
vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
Có một con đường làm nổi bật vai
trò các cảm thọ trong quá trình giải thoát và giác ngộ, vì trong phương
pháp này, chúng ta thấy rõ sự đóng góp vô cùng
quan trọng của cảm thọ.
Vị hành giả, cùng với xả và nhất tâm của Thiền thứ tư, thanh tịnh trong
sáng như vậy, không tập trung vào bốn Không
định vì là những pháp hữu vi, còn bị sanh diệt; cũng không suy
tưởng đến Hữu hay Phi hữu, nên không
có chấp thủ mọi sự vật gì ở đời. Không chấp
thủ nên không sợ hãi tháo động. Do
không sợ hãi tháo động, vị hành
giả chứng Niết Bàn, tự biết mình đã
chứng quả A-la-hán: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những
điều gì nên làm
đã làm, không còn trở lại trạng thái
này nữa". Khi vị ấy cảm thọ lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị
ấy biết cảm thọ ấy là vô thường, không nên
đắm trước, không phải là đối tượng để
hoan hỷ. Vị ấy biết không có hệ phược, vị ấy cảm giác các thọ ấy. Khi vị
ấy cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu hay lấy sinh mạng làm
tối hậu, vị ấy biết vị ấy cảm giác một cảm thọ, lấy thân làm tối hậu hay
lấy sanh mạng làm tối hậu. Vị ấy biết sau khi thân hoại mạng chung, mọi
cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành
thanh lương. Do vậy vị hành giả thành tựu
được bốn Thắng xứ tối thắng (Ariya adhitthàni): Vị ấy thành tựu Tối
thắng tuệ thắng xứ (Pannà) nghĩa là trí biết sự
đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát của vị này
an trú vào Chân đế (Sacca) không bị
dao động, không thể đưa đến hư vọng, thuộc về
Chân đế, Niết Bàn. Vị hành giả thành tựu Tối thắng
đế thắng xứ (Saccadhitthànà), tức là
Niết Bàn không có thể dựa trên hư vọng. Mọi sanh y vô trí thức của vị ấy
được đoạn tận gốc rễ, không có thể tái sanh.
Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ (Càgàditthànà), tức là sự xả ly tất
cả sanh y. Các tham ái, thuộc tham dục; phẫn nộ thuộc sân hận; vô minh
thuộc si mê, không có thể hiện hữu trong tương lai, không có khả năng
sanh khởi. Vị ấy thành tựu được tối
thắng, tịch tịnh thắng xứ (Upasamàditthànà). Những vọng tưởng: "Tôi
là, tôi là cái này, tôi không là cái này, tôi sẽ không là cái này. Tôi sẽ
có sắc, có tưởng". Những vọng tưởng ấy là bệnh, là cục bướu, là mũi tên,
vị hành giả vượt khỏi các vọng tưởng và được
gọi là vị ẩn sĩ tịch tịnh tức là vị ẩn sĩ không sanh, không già,
không có dao động, không có hy cầu. Không
sanh làm sao già được, không già
làm sao chết được, không chết làm sao
dao động được. Không dao động làm sao
hy cầu. Cho nên vị ấy đạt được tịch tịnh.
Ở đây chúng ta nhận thấy vị hành giả
khi giác ngộ giải thoát không phải thụ động,
không phải đoạn diệt, không phải trở thành vô tri giác như thường
bị hiểu lầm, nhưng là một trạng thái rất sinh
động, rất phấn khởi với cả bốn tối thắng Thánh thắng xứ (Ariyàdhitthànàni):
trí tuệ, chân đế, tuệ xả, tịch tịnh, tác động
rất mạnh mẽ. Đến đây sự đau khổ được chấm dứt hoàn toàn, mọi cảm
thọ trở thành thanh lương, tịch tịnh, không có sanh, lão, bệnh, tử, không
còn khổ vì sanh, khổ vì bệnh, khổ vì già, khổ vì chết. Vị ấy thật sự giác
ngộ giải thoát. Vị ấy đã thành
đạo.
Quá trình giác ngộ giải thoát của đức Phật
Thích-ca Mâu-ni cũng như sự giác ngộ, giải thoát của các vị A-la-hán, đã
được thể hiện trọn vẹn trong ngày
thành đạo của Ngài. Từ nơi sự thành
đạo của Ngài, chúng ta rút tỉa
được một số kinh nghiệm và hiểu biết
như sau:
1. Quá trình giác ngộ, giải thoát của đức
Phật là một quá trình tu tập về tâm lý, dựa trên những tâm lý của
con người hiện tại, không có thần linh, không có bùa pháp, không có cứu
rỗi.
Trong quá trình này các cảm thọ đóng một
vai trò chủ yếu vô cùng quan trọng. Chính khổ thọ khiến Ngài xuất
gia; chính khổ thọ khiến Ngài từ bỏ khổ hạnh; chính lạc thọ khiến Ngài
hành Thiền; chính xả thọ là chân đứng để Ngài
giác ngộ giải thoát, thành đạo.
2. Pháp môn đưa đến giác ngộ, giải thoát là
Giới, Định, Tuệ, nghĩa là phải sống
một nếp sống tốt lành trong sạch, dựa trên nếp sống ấy, tập trung tâm tư
vào những đối tượng có lựa chọn để phát triển
nội lực định tâm, và với xả và nhất tâm trong sáng của Thiền thứ
tư, bước vào Thiền quán, nhìn cái nhìn như thật với trí tuệ, và lấy trí
như thật ấy đoạn tận các lậu hoặc để được
giác ngộ giải thoát.
3. Đức Phật là một người như chúng
ta, sanh ra là một người, sống như một người và từ giã cõi
đời như một người, nhưng là một người
vì sự đau khổ của chúng sinh mà xuất
gia tu đạo, một con người có đủ nghị lực kiên
trì can đảm, để chiến thắng mọi trở ngại cuối
cùng tìm ra được con đường diệt khổ
cứu độ chúng sinh.
Ngày Thành Đạo của Ngài nói lên sự
thành công cao cả của con người đã
biết nâng cao phẩm giá tuyệt vời của con người, có khả năng
giác ngộ và đã thành tựu sự
giác ngộ một cách trọn vẹn dưới gốc cây Bồ
đề.
10. NGƯỜI VIỆT NAM THƯƠNG MẸ KÍNH CHA
QUA CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM
Mùa Vu-lan đối với người Việt Nam, nhất là
người Phật tử, là một mùa báo Hiếu, một mùa mà các người con nhớ
đến công ơn sanh thành của mẹ cha và
muốn làm một cái gì tết đẹp để đền đáp công
ơn dưỡng dục của mẹ cha.
Nhớ ơn cha mẹ và báo hiếu là những cảm giác, những suy tư, những việc
làm đã in sâu
đậm trong lòng người Việt Nam,
đã được
thể hiện linh động và triền miên, ngang qua các câu ca dao tục ngữ
mà chúng ta tìm thấy tràn ngập trong các thôn quê vườn xóm.
Đâu đâu cũng đề cao công cha như núi cao, nghĩa mẹ như biển cả
.
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con".
Hay:
"Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Đội ơn chín chữ cù lao,
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa".
Hay là:
"Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới chân tu".
"Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Mẹ già ở tấm lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con"
.
Lòng thương cha mến mẹ của người Việt Nam thường hay gắn liền với hiện
tượng thiên nhiên, nên chúng ta không thấy làm lạ nhiều câu ca dao
đã dùng mặt trời
để nói lên lòng thương mến cha mẹ:
"Đêm khuya trăng
rụng xuống cầu,
Cảm thương cha mẹ dãi dầu ruột đau".
Hay là:
"Biển Đông còn lúc
đầy vơi,
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn
dâng".
Cũng vì thương cha mẹ, nên người con không bao giờ quên cầu khẩn Phật
Trời cho cha mẹ luôn được sống gần mình:
"Đêm
đêm khấn nguyện Phật Trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con".
"Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá,
Ngó ra ngoài biển, thấy cặp cá đang
đua.
Đi về lập miếu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha".
Cha mẹ săn sóc con cho từng miếng cơm manh
áo, thời những người con khi cha mẹ về già cũng phải sáng viếng tối
thăm, tìm của ngon vật lạ phụng dưỡng
cha mẹ:
"Muốn cho gần mẹ gần cha,
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền".
"Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi".
Thỉnh thoảng, chúng ta chứng kiến cảnh những người con gái không chịu
đi lấy chồng, vì không muốn xa cha mẹ:
"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tựa sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ, hết lòng làm con".
Người con gái đi lấy chồng xa cũng bị quở
trách:
"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng
xa.
Mai sau cha yếu mẹ già,
Bát cơm đôi đũa, chén trà ai dâng?".
Mình có hiếu với mẹ cha, thời con cháu mình sẽ có hiếu với mình.
Đây là luật
đáp ứng thường tình và không vì vậy
làm giảm bớt lòng thương mẹ kính cha của người Việt Nam:
"Nếu mình hiếu với mẹ cha,
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì?
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công?".
Hay là:
"Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận,
Ngỗ nghịch nào con có khác chi!
Xem thử trước thềm mưa xối nước,
Giọt sau, giọt trước chẳng sai gì".
"Ở đời ai cũng có lần,
Làm cha mẹ mới biết ơn sinh thành.
Người xưa khó nhọc nuôi mình,
Khác gì mình đã hết tình nuôi con".
Người con cũng biết cha mẹ thương con không phải giống nhau, cha có
lòng thương của cha, mẹ có lòng thương của người mẹ, nên người con cũng có
thể phân biệt:
"Mẹ dạy thì con khéo,
Bố dạy thì con khôn".
"Mồ côi cha, ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ lót lá mà nằm".
Trong cao dao này, chúng ta đã nhận
thấy sự phân biệt của người con về cảm tình
đối với cha khác, đối với mẹ khác. Nếu như cha mất thì
đã có mẹ săn
sóc cho con, cho ăn cơm ăn cá đầy đủ, nhưng chẳng may mẹ mất đi người con
mới thật khốn khổ, phảị đi lót lá mà nằm. Và vì vậy nên chúng ta
không có lạ gì, khi người con gần mẹ hơn cha, thương mẹ hơn thương cha.
Chúng ta cũng đọc rất nhiều câu ca dao và
bài thơ tán dương lòng mẹ thương con, lòng con nhớ mẹ :
"Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ".
"Ai rằng công mẹ như non,
Thật ra công mẹ lại còn lớn hơn".
"Lòng mẹ như bát nước đầy,
Mai này khôn lớn, ơn này tính sao ".
"Nhớ ơn chín chữ cù lao,
Ba năm bú mớm biết bao thân tình".
"Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi".
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".
"Mẹ ngoảnh đi, con dại,
Mẹ ngoảnh lại, con khôn".
"Mẹ giàu con có, mẹ khó con không".
"Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau"
.
"Bồng cho con bú một hồi,
Mẹ đã hết sữa, con vòi con la".
"Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ
đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Vì lòng thương mẹ dạt dào, vì nhớ đến công
ơn bú mớm sinh thành, nuôi nấng, nên người con luôn luôn tưởng nhớ
đến mẹ :
"Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều".
"Giữa đêm ra
đứng giữa trời,
Cầm tờ giấy bạch chờ lời mẹ răn".
"Trải bao gian khổ không sờn,
Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền".
Đối với công ơn trời biển của cha mẹ, các người con luôn t ìm
cách báo đáp ơn nghĩa nặng và làm tất
cả những gì có thể làm được để đền ơn mẹ:
"Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".
"Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già".
"Đói lòng
ăn đọt chà là,
Nhịn cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng".
"Đói lòng
ăn trái ổi non,
Nhịn cơm cho mẹ, cho tròn nghĩa xưa".
"Dấn mình gánh nước làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ quản gì là thân".
"Vô Chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đành".
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Lấý gì đền nghĩa khó khăn,
Lên non xắn đá, xây lăng phụng thờ".
"Đây bát cơm đầy nặng ước mong,
Mẹ ôi, đây ngọc với dây lòng.
Đây tình con nặng trong tha thiết,
Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong".
Ai không làm tròn bổn phận người con đối
với mẹ, thời bị nghe lời trách móc:
"Đi đâu bỏ mẹ ở nhà,
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng".
Người con hiểu được tình thương của
mẹ đối với con, nhưng công lao mẹ đã
trải qua để nuôi con khôn lớn nhất là
những hy sinh lo lắng của mẹ chiều chuộng con, săn
sóc con, chịu cực chịu khổ vì con, chẳng may người mẹ
đã qua
đời thì người con đau khổ xót thương là
chừng nào.
Dù người con thương cha không bằng mẹ, nhưng không phải vậy mà người
con quên công ơn của người cha, vì vai trò của người cha rất
đặc biệt trong gia đình:
"Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi".
"Khôn ngoan nhờ ấm ông cha,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ".
"Đạo làm con chớ hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm".
"Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha chết gót con đen sì".
Hình ảnh người cha đã già nhưng vẫn
làm lụng nuôi con, cũng để lại trong tâm trí
người con một nỗi biết ơn vô hạn:
"Cha tôi tuy đã già rồi,
Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà.
Sớm hôm vừa dấy tiếng gà,
Cha tôi đã dậy
để ra đi làm".
Đó l à hình ảnh cảm động, khi mẹ mất
rồi, người cha đóng vai gà trống nuôi con lo cho con uống sữa:
"Nghiêng bình mở hộp nút ra,
Con ơi con bú cho cha yên lòng".
Tuy vậy, vai trò giáo dục trong gia đình,
người cha đặt nặng hơn, và giáo dục
thường hay nghiêm khắc hơn như vậy ảnh hưởng tốt
đẹp cho người con, khi được một người cha
nghiêm minh dạy bảo, có tác dụng hơn người mẹ nhiều :
"Mẹ đánh một trăm, không bằng cha ngăm
một tiếng” .
Ngang các câu ca dao, các câu cách ngôn, các mẩu chuyện, chúng ta
đã thấy lòng người Việt Nam
đối với cha mẹ như thế nào. Lòng
thương cha mến mẹ của người Việt Nam đã
được truyền thống dân tộc Việt Nam hun đúc,
tác thành, ăn sâu vào tâm khảm
của người Việt Nam. Ngoài ra, người Phật tử Việt Nam lại
được đạo Phật dạy thêm nhiều về chữ
Hiếu, soi sáng thêm nghĩa vụ làm cho mẹ, nghĩa vụ làm con, và nhờ vậy chữ
Hiếu lại càng ảnh hưởng sâu đậm vào
người Phật tử Việt Nam, vào tâm tư hành động
của người Việt Nam.
"Tâm Hiếu là tâm Phật,
Hạnh Hiếu là hạnh Phật".
Chúng ta được biết đức Phật là một
vị đã đạt
được Pháp nhãn, đã chứng ngộ
trí tuệ, nên cái nhìn của Ngài rất khác lạ
đối với hành động con người và
sự liên hệ giữa người và người. Khi thấy Singàla (thi-ca-la-việt) mỗi buổi
sáng, dậy sớm đảnh lễ sáu phương (Kinh Giáo
Thọ Thi-ca-la-việt), (Trường Bộ IV, 188 B), đúng theo lời dặn của người
cha để lại, đức Phật thấy rõ sự vô ích của lễ nghi và Ngài
đã giải thích theo hướng chuyển thành
hành động đúng bổn phận của mình.
Phương Đông chỉ cho cha mẹ và con cái,
phương Nam chỉ cho sư đệ; phương Tây chỉ cho
vợ chồng; phương Bắc chỉ cho bạn bè; phương Dưới chỉ cho kẻ phục vụ
và phương Trên chỉ cho Sa-môn, Bà-la-môn. Và hành
động ở đây có nghĩa là bổn phận của
người con đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con,
chỉ cho phương Đông; bổn phận thầy đối với trò, trò
đối với thầy, chỉ phương Nam v.v...
Như vậy, người con có năm bổn phận đối
với cha mẹ: “Nuôi dưỡng cha mẹ (khi cha mẹ già yếu); giữ gìn gia
đình với truyền thống, bảo vệ tài sản
thừa tự; và làm tang lễ khi cha mẹ qua đời”.
Cha mẹ cũng có năm trách nhiệm đối với con cái: “Ngăn chận con làm
điều ác; khuyến khích con làm
điều thiện; dạy con nghề nghiệp; cưới vợ xứng
đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con”. Đây rõ ràng là
một thông điệp trách nhiệm, một trách nhiệm
hỗ tương không phải một chiều. Con có năm bổn phận đối với cha mẹ. Cha mẹ
cũng có năm bổn phận đối với con cái. Khi cha mẹ và con cái làm
trọn bổn phận mình, thời phương Đông được an
lành hạnh phúc. Nói cho rõ hơn, vận may chỉ
đến với gia đình nào, khi trong gia
đình ấy cha mẹ trọn tình
đối với con cái và con cái trọn
đạo với mẹ cha. Trong kinh Mangalasutta (Hạnh
Phúc Kinh), khi được một Thiên nhân hỏi làm sao
được vận may (Mangala), với hy vọng đức Phật
sẽ dạy cho một hình thức lễ nghi lễ cầu may cầu phước,
đức Phật lại dạy cho ba mươi tám hành
động phải làm
để được may mắn và một trong những
hành động ấy là phụng dưỡng mẹ cha:
"Màtàpitu upatthànan ...
Etam mangalamuttamam "
"Phụng dưỡng cha và mẹ ...
Là vận may tối thượng"
Hiếu không phải là những gì nói suông bằng miệng, bằng những nghi lễ
cầu may cầu phước. Hiếu phải được cô đọng
bằng những việc làm cụ thể và ở đây là
phải hầu hạ và phụng dưỡng mẹ cha.
Trong kinh Tăng Chi tập I, trang 74, cha
mẹ được ví như ngọn lửa đáng cung
kính, vì chính người cha người mẹ đã
đem lại sự sống cho các người con, như ngọn
lửa đem lại nguồn nóng, sức sống cho loài Người.
"Thế nào là lửa đáng cung kính? Ở đây, này
Bà-la-môn, những người mẹ những người cha của người ấy. Này Bà-la-môn,
đây gọi là lửa
đáng cung kính. Vì cớ sao?".
"Từ đấy, này Bà-la-môn, khiến cho
mang lại, khiến cho sanh ra (Ato yam àhùto sambhùto). Do vậy, lửa
đáng cung kính, được tôn trọng, được cúng
dường, phải đem lại chánh lạc”.
"Và này Mahànamà, với một thiện nam tử
được cha mẹ thương tưởng, chờ đợi là sự tăng
trưởng không phải là sự giảm thiểu. Và này thật sự là vậy, người
con hiếu dưỡng cha mẹ được hưởng rất nhiều
hạnh phúc”.
Trong kinh Tương ưng tập I, trang 225, Bà-la-môn Màtaposaka
đến hỏi đức Phật:
"Thưa Tôn giả Gotama, tôi tìm món ăn thiết
thực theo thường pháp. Sau khi tìm món
ăn thiết thực theo thường pháp, tôi nuôi dưỡng mẹ cha. Thưa Tôn giả
Gotama, tôi làm như vậy, tôi có làm
đúng trách nhiệm không?”
"- Này Bà-la-môn, người như vậy là có làm
đúng trách nhiệm. Này Bà-la-môn, ai tìm
đồ ăn thiết thực theo thường pháp, lại nuôi
dưỡng mẹ cha, người ấy được nhiều công đức”.
"Người nào theo thường pháp,
Nuôi dưỡng mẹ và cha,
Chính do công hạnh này,
Đối với cha và mẹ,
Nhờ vậy bậc Hiền Thánh,
Trọn đời này tán thán,
Sau khi chết, được sanh
Hưởng an lạc chư Thiên".
Khi Bà-la-môn Manatthaddba hỏi đức Phật nên
cung kính cúng dường ai là tốt lành, đức Phật
khuyên (Tương ưng tập I, trang 221):
"Với mẹ và với cha,
Với anh tuổi nhiều hơn,
Với thầy là thứ tư
Không nên sanh kiêu mạn,
Nên kính trọng vị ấy,
Nên tôn kính vị ấy,
Cúng duớng chúng tốt lành".
Phụng dưỡng cha mẹ đúng pháp, được hưởng
quả tốt lành như kệ số 404 sau đây
trong kinh Suttanipàta (Kinh Tập) đã
nêu rõ:
"Dhammena màtàpitaro Bhareyya,
Payojage dhammikam so vàmjìam
Etam gihì vattayam appamatto
Sayam pabhe nàma upetit dive".
"Thờ mẹ cha đúng pháp,
Buôn bán đúng, thật thà,
Gia chủ không phóng dật,
Được sanh Tự Quang thiên".
Bước thêm một bước nữa, đức Phật trong
kinh Tăng Chi tập I, trang 147, dùng một hình ảnh táo bạo hơn,
nhưng rất linh động và chính xác
để tán dương các gia đình có những
người con có hiếu. Những gia đình ấy
được xem ngang bằng với Phạm thiên,
ngang bằng với các bậc Đạo sư thời
xưa, gia đình ấy
đáng được cúng dường, tôn trọng. Nói một cách
rõ rệt hơn, là gia đình nào có
con cháu biết hiếu dưỡng cha mẹ, những gia dình ấy là những gia
đình đáng
được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chắp tay, ngang bằng với
Phạm thiên, là những vị Thiên cao nhất ở Dục giới và Sắc giới,
ngang bằng với các bậc Đạo sư thời xưa, là
những vị đáng được tôn trọng nhất từ xưa đến
nay.
"Những gia đình nào, này các Tỳ
kheo, trong ấy các con cái kính lễ (Pùjittà) mẹ cha ở nhà, những gia
đình ấy
được chấp nhận ngang bằng với Phạm thiên. Những gia
đình nào, này các Tỳ kheo, trong ấy
các con cái kính lễ cha mẹ ở trong nhà, những gia
đình ấy
được chấp nhận như các Đạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các
Tỳ kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia
đình ấy
được chấp nhận là đáng được cúng dường
(Sàhuneyykàni)".
"Phạm thiên, này các Tỳ kheo, là đồng
nghĩa với mẹ cha. Các Đạo sư ngày xưa, này các Tỳ kheo, là
đồng nghĩa với mẹ cha. Đáng được cúng dường,
này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ
cha. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này
các Tỳ kheo, là mẹ cha đối vớì con
cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu cho chúng vào
đời”.
"Cha mẹ là Phạm thiên,
Bậc Đạo sư thời trước,
Xứng đáng được cúng dường,
Vì thương đến con cháu.
Do vậy bậc Hiền trí,
Đảnh lễ và tôn trọng,
Dâng đồ ăn và uống,
Vải mặc và giường nằm,
Thoa bóp (cả thân mình),
Tắm rửa cả chân tay,
Với sở hành như vậy,
Đối với mẹ và cha,
Đời này người hiền khen,
Đời sau hưởng Thiên lạc". (Tăng
Chi II A, trang 94)
Trong mùa Vu-lan báo hiếu chúng ta đã
được nghe những câu ca dao tục ngữ nói lên
công lao trời biển của mẹ cha và tấm lòng hiếu thảo thương mẹ kính cha của
người Phật tử Việt Nam; chúng ta cũng được
nghe những lời Phật dạy về trách nhiệm báo hiếu đối với các người con
Phật. Như vậy có thể nói Phật tử Việt Nam luôn được các câu ca dao tục ngữ
ăn sâu vào tâm trí của người dân Việt từ nhiều thế hệ nối tiếp. Do
chịu ảnh hưởng của các truyền thống một cách tự nhiên và tất nhiên ấy, nên
người Phật tử Việt Nam không những tham dự các buổi lễ Báo Hiếu
đông đủ và tích cực mà còn áp dụng
hạnh hiếu thảo của mình đối với cha mẹ hiện
tiền cũng như quá khứ trong bảy đời một cách trọn vẹn nữa.
(Bài giảng Đại lễ Vu-Lan PL.
2539 – 1995 tại Thiền Viện Vạn Hạnh)
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục |
01 |
02 | 03 |
04 |
05 |
06
|
|