|
 |
Chánh Pháp và
Hạnh Phúc
Hòa thượng
Thích Minh Châu |
 |
15. MỘT NỀN GIÁO DỤC TOÀN
DIỆN
Năm 1967, tôi viếng
thăm Đại học Yale và được một giáo sư
Mỹ đang nghiên cứu Tây Tạng học đón
tiếp tôi với bộ mặt thật hớn. hở, sung sướng, và một câu
đón chào mà tôi không bao giờ quên:
"Tôi sung sướng đón chào Thầy, vì tôi
chắc rằng Thầy đến đây không phải để cải hóa
tôi theo Đạo của Thầy”. Tôi chỉ mĩm cười, không đáp lại nhưng chính khi
ấy, tôi cảm giác được “tất cả sự sung sướng” của tôi khi “được một bậc
Thầy như đức Phật”. Cái cảm giác sảng khoái, “nhẹ nhõm", hay dùng
cho đúng danh từ Phật học hơn là
Passaddhi (khinh an) ấy của ông bạn giáo sư Mỹ, khi cảm thấy mình không bị
đe dọa, bị giáo hoá, cũng là cảm giác
chung cho tất cả những ai được đối thoại với
đức Phật khi Ngài còn sống hay khi trực tiếp hoặc gián tiếp
được tiếp nhận giáo lý của Ngài.
Được gặp đức Phật, đối thoại với Ngài,
được đọc những lời Ngài dạy hay chiêm
ngưỡng hình bóng giải thoát của Ngài, chúng ta
đều linh cảm khả năng giáo hóa thần diệu của
Ngài. Điểm đặc biệt là chúng ta
không bị đóng vai trò thụ
động, chúng ta không cảm thấy bị giáo hóa, bị
chinh phục, vì đức Như Lai chỉ là
ngườì chỉ đường (Tathàgato
ak-khataro), chúng ta là người đi trên
con đường ấy. Đức Như Lai chỉ là vị
giới thiệu phương pháp suy tư chín chắn (yo-niso mana-sikaro), chính chúng
ta là người suy tư và quyết định.
Câu chuyện sau đây chứng tỏ không bao giờ
đức Phật gợi cho chúng ta những tình cảm dao
động làm chi phối sự suy tư chín chắn
của chúng ta. Ngài khuyên chúng ta hãy bình tĩnh sáng suốt, như thật
(yathàbhùtam) xác nhận sự việc rồi có những thái
độ thích nghi.
Khi được các vị Tỳ-kheo hỏi, vì sao
ngoại đạo Suppiyo lại dùng vô số
phương tiện hủy báng Phật, pháp, Tăng, còn
Thanh niên Brahmadatta trái lại dùng vô số phương tiện tán thán Phật, Pháp
và Tăng, đức Phật trả lời nhẹ nhàng
nhưng thật sự vô tư và sáng suốt, Ngài kính trọng "con người" trong các vị
Tỷ kheo, khuyên các vị này nhận xét bình tĩnh, vô tư, dựa trên những sự
kiện xác đáng để bỏ bác hay tán thành:
"Này các Tỳ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy
báng Tăng, các Thầy chớ có vì vậy sanh
lòng căm phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn.
Nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng,
và nếu các Thầy công phẫn và phiền muộn, thời các Thầy có thể biết
được lời nói của những kẻ ấy là
đúng hay sai lạc chăng?"
"– Bạch Thế Tôn, không thể được!”
" Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng
Tăng các Thầy phải nói rõ những
điểm không đúng sự thật là không
đúng sự thật: "Như thế này, những
điểm này không
đúng sự thật; như thế này,
điểm này không chính xác; việc này
không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi ".
"Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán
Tăng, thời các Thầy không nên hoan hỷ,
tâm không nên thích thú. Này các Tỳ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán
thán Pháp hay tán thán Tăng, nếu các Thầy
hoan hỷ, thích thú, thời sẽ có hại cho các Thầy. Này các Tỷ-kheo,
nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng
thời các Thầy hãy công nhận những gì
đúng sự thật là đúng sự thật: “Như thế
này, điểm này
đúng sự thật, như thế này
điểm này chính xác việc này có giữa
chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa
chúng tôi" (Trường Bộ Kinh, Đại Tạng,
trang 13).
Khi sắp nhập Niết-bàn, một lần nữa đức
Phật dặn dò các vị Tỳ -kheo cần phải thận trọng, chớ có vội tin
những lời, dầu được xem là tự
đức Phật nói hay từ các vị Thượng tọa đa văn
đa trí nói:
"Này các Tỳ-kheo, có thể có vị Tỳ-kheo nói: "Này Hiền giả, tôi tự thân
nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật,
như vậy là lời dạy của bậc Đạo Sư”. Này
các Tỳ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của
vị Tỷ-kheo ấy, không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu
cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với
kinh, đem đối chiếu với luật. Nếu chúng không phù hợp với kinh,
không tương ứng với luật thì các thầy có thể kết luận: "Chắc chắn những
lời này không phải là lời Thế Tôn, và vị Tỷ-kheo
đã thọ giáo sai lầm".Và này các
Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng. Khi đem so
sánh với kinh, đem đối chiếu với luật, và nếu chúng phù hợp với
kinh, tương ứng với luật, thời các thầy có thể kết luận: "Chắc chắn những
lời này phải là lời dạy của Thế Tôn. Và vị Tỷ-kheo ấy
đã thọ giáo chân chánh".
Chúng ta phải thận trọng, không hủy báng, không tán thán, học hỏi từng
chữ, từng câu, rồi đem đối chiếu với kinh,
đối chiếu với luật; có phù hợp mới chấp nhận, không phù hợp thời
không chấp nhận. Thái độ suy tư chín chắn,
phối hợp thích nghi, thật là một phương pháp hữu hiệu và thực tiễn,
khi phải đối trị với những phức tạp tuyên
truyền xuyên tạc.
Dân chúng Kalama phân vân đến hỏi đức
Phật:
"Bạch Thế Tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà-la-môn
đến viếng Kesaputta. Họ chỉ giảng giải và sáng tỏ những lý thuyết
của riêng họ, khinh miệt, lên án và phỉ báng những lý thuyết của những
người khác. Nhưng bạch Thế Tôn, về phần chúng con, chúng con luôn luôn
hoài nghi và hoang mang không biết vị nào trong số những nhà ẩn sĩ và
Bà-la-môn khả kính ấy đã nói sự thật
và vị nào nói sai quấy"
Đức Phật trả lời, với thái độ suy tư, trầm lặng tron g sáng như
hồ nước trong của những tâm hồn sáng suốt:
"Phải đấy, hỡi những người Kalama, các
người hoài nghi, hoang mang là phải; các người nghi ngờ những
điều đáng nghi ngờ. Này các Kalama,
chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có
tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được
kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có
tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì
đánh giá hời hợt các dữ kiện; chớ có tin vì
phù hợp với định kiến; chớ có tin vì
phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc
Đạo Sư của mình. Này các người Kalama,
khi nào các người biết rằng: "Những việc này là xấu, những việc này là bất
thiện, những việc này bị người có trí chỉ trích, những việc này nếu tuân
theo và thực hiện sẽ mang lại tai hại và xấu xa", thì các người hãy từ bỏ
chúng... Này các người Kalama, khi nào các người biết rằng: "Những việc
này là tốt, những việc này là thiện, những việc này
được người có trí tán thán, những việc này
nếu tuân theo và thực hành sẽ mang lại lợi ích tốt
đẹp”, thì các người hãy chấp nhận
chúng"(Tăng Chi I,
Đại Tạng, Kinh Các vị ở Kesaputta,
trang 336).
Chúng ta thấy rõ, đức Phật bao giờ cũng
kính trọng sự suy tư, nhận xét và quyết
định của chúng ta, Ngài không muốn
chúng ta nhắm mắt tuân theo Ngài, vâng theo sự phán xét của Ngài. Ngài
không muốn chúng ta đóng vai trò thụ
động, nhắm mắt tin theo truyền thống, tin đồn
hoặc dựa vào uy tín cá nhân hay của Thầy mình
để khỏi phải suy tư, quyết đoán. Ngài
đòi hỏi ở những Phật tử một sự suy tư
chín chắn, một ý thức kinh nghiệm bản thân, rồi mới
đánh giá sự việc là thiện hay ác, tiếp
đến mới có thái độ tuân theo hay từ bỏ. Chúng
ta sung sướng vì đức Phật trọng chúng
ta, vì đức Phật tin ở khả năng suy tư
chín chắn của chúng ta, vì chính thái
độ rất “người” trong chúng ta có những tiềm năng nhận xét khá chính xác,
khỏi đóng vai trò thụ động, nô lệ cho
ai cả.
Khi nói đến giáo dục, chúng ta thường liên
tưởng đến đào tạo kiến thức, huấn
luyện khả năng chuyên môn cho học
viên. Nếu có đề cập đến tác phong đạo đức,
thời xem vấn đề này như một vấn đề
luân lý đạo hạnh, ấn định bởi truyền thống hay tập tục xã hội. Quan
niệm này không đi ra ngoài mục
đích và
đường hướng giáo dục đương thời, nhưng đã bỏ rơi hay không
đánh giá đúng mức quan trọng hai khía cạnh
“thái độ” và "phương pháp" của giáo dục mà theo chúng tôi nghĩ phải
đóng một vai trò quan trọng
để xây dựng một nền giáo dục gọi là
toàn diện hay trọn vẹn.
Vấn đề sở dĩ đặt ra ở đây là vì con
người của chúng ta khi đối mặt với các sự vật
bên ngoài hay những khái niệm bên trong
đều có những phản ứng, những thái độ, những
cử chỉ của thân thể, của miệng nói hay của ý thức, những danh từ mà
đạo Phật gọi bằng danh từ chuyên môn
là Kàyakamma (thân nghiệp), Vacikamma (khẩu nghiệp) và Manokamma (ý
nghiệp). Một người thích uống rượu bia, cảm thấy sung sướng khi có chai
rượu trước mặt mình và có cử chỉ đem chai
rượu về cho mình để uống. Trái lại một
người ghét rượu thời cảm thất khó chịu khi có chai rượu trước mặt và
muốn xua đuổi chai rượu như xua đuổi ruồi,
muỗi. Còn nếu không ghét cũng không thích rượu, thời
đối với rượu có cử chỉ thản nhiên, tự
tại.
Tóm lại, con người của chúng ta đứng trước
các đối tượng bao giờ cũng có một trong ba phản ứng: Một là ưa
thích, đem về cho mình
đối tượng mình ưa thích; hai là ghét
bỏ, đẩy xa mình
đối tượng ấy; thứ ba là thản nhiên,
không ưa thích cũng không ghét bỏ. Đạo Phật
gọi cử chỉ đem về cho mình là tham (lobha), cử chỉ
đẩy xa mình ra là sân (dosa), và cử
chỉ thản nhiên là xả (upekkhà). Định nghĩa này
không bao hàm một ý nghĩa luân lý, đạo đức gì
mà chỉ là một phản ứng của con người trước những
đối tượng sai khác. Đức Phật với cái nhìn
tâm lý của Ngài, thấy con người luôn luôn bị chi phối, bị ảnh hưởng bởi sự
vật bên ngoài, không tự tại, không tự chủ. Và phương pháp giáo dục ở nơi
đây là nhằm huấn luyện con người
được tự chủ, tự tại đối với các đối tượng.
Nói một cách khác, con người phải được giáo dục như thế nào
để con người trở thành một người chủ
đối với đối tượng, chứ không phải là
một người nô lệ của đối tượng.
Đức Phật đi xa hơn, Ng àỉ tìm nguyên nhân của tham và của sân.
Ngài tìm hiểu tại sao con người lại có hai phản ứng trái ngược
đối với đối tượng, và Ngài tìm thấy
rằng sở dĩ có tham vì hiểu lầm có một tự ngã, nên
đem về cho mình cái gì tự ngã ưa
thích; sở dĩ có sân, vì hiểu lầm có một tự ngã, nên hất xa mình ra cái gì
tự ngã ghét bỏ. Sự hiểu lầm ở nơi đây, đạo
Phật gọi là si hay moha.Chúng ta có tham vì có si, chúng ta có sân
vì có si, tham luôn luôn đi đôi với si và
sân luôn luôn đi đôi với si chớ tham không
khởi lên một lần với sân. Và giáo dục ở nơi
đây nhằm trừ diệt si hay thay đổi một quan
điểm sai lầm bằng một quan điểm đúng đắn, thay hiểu lầm (vô minh) bằng trí
tuệ. Nói một cách khác, giáo dục theo đạo Phật chú trọng lấy trí
tuệ (Duy tuệ thị nghiệp) diệt trừ si mê, si mê trừ, thời tham và sân cũng
được diệt trừ luôn. Chỉ cần có một kiến thức,
một quan điểm, một cái nhìn đúng đắn
(giác ngộ), thời mọi hành vi thiện ác, tham sân
đều được diệt trừ (giải thoát). Vấn
đề giáo dục không còn là vấn
đề đạo đức, luân lý nữa, mà là vấn
đề kiến thức, vấn đề tri kiến, vấn đề trí
tuệ, vấn đề thái độ, vấn đề phản ứng.
Lời khuyên sau đây của vua A-dục, trong Bia
ký số XII có thể khiến nhiều người không bằng lòng: "Người ta không nên
chỉ kính trọng tôn giáo của riêng mình và bài bác những tôn giáo của kẻ
khác, mà phải kính trọng tôn giáo kẻ khác vì lý do này hay lý do khác. Như
thế ta có thể làm cho tôn giáo mình phát triển và giúp
đỡ các tôn giáo nữa. Nếu không, tức là
ta đã đào
huyệt cho chính tôn giáo của mình và còn làm hại các tôn giáo khác. Kẻ nào
chỉ kính trọng tín ngưỡng của mình và bài xích những tín ngưỡng khác, thực
ra họ đã làm thế vì sùng tín ngưỡng
của riêng mình, nghĩ rằng: "Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của tôi". Nhưng
trái lại, khi làm thế họ đã tổn thương
tôn giáo mình một cách trầm trọng hơn nữa. Bởi thế sự hòa hài là tốt
đẹp: Mọi người nên lắng nghe và có
thiện chí lắng nghe những lý thuyết mà người khác
đề xướng”. (Con Đường Thóat Khổ W. Rahula –
Thích Nữ Trí Hải dịch, trang 20).
Chúng ta hiểu rằng: Là Phật tử, không phải nghĩa là theo một tôn giáo
tên Phật giáo mới được gọi Phật tử, mà
chính cần có cử chỉ tôn trọng các tôn giáo khác, các tư tưởng khác mới là
Phật tử. Cử chỉ trầm lặng bình thản trước sự vô thường của
đức Thế Tôn cùng cử chỉ tôn trọng các
tôn giáo khác, các tư tưởng khác với mình là hai thái
độ, hai cử chỉ, biểu hiện chất liệu
giải thoát và khoan dung của đạo Phật. Giáo
hóa, giáo dục ở nơi đây chính giúp chúng ta có một thái độ, có một cử chỉ
thích nghi, hợp lẽ khi chúng ta phải đối diện với những tình trạng
đa diện của xã hội ngày nay.
Có người sẽ bảo, giáo dục như vậy khiến con người trở thành cây
đá, không tình cảm, không ham muốn,
thời đời còn gì là thú vị nữa. Thật sự
vấn đề ở đây không phải đời thú vị hay không
thú vị. Vấn đề chính là nơi phản ứng con người trước muôn vàn
đối tượng, và con người cư xử, hành
động, phản ứng như một người chủ hay như
người nô lệ, chỉ có thế thôi.
Đạo Phật c òn đi xa hơn, đức Phật
xem con người là tổng hợp của hai năng
lực mà danh từ chuyên môn gọi là Sắc mạng căn
(Rùpajìvitind riya) và Danh mạng căn
(Nàmajìvitindriya). Những động lực làm
con người sống, con người lớn và già, những sức mạnh khiến máu chạy, tim
đập, mạch nhảy, phổi thở, những năng lực
khiến tóc dài, xương cứng dần và dài thêm, những sức mạnh khiến tay
chân cử động, khiến con người có cử chỉ này,
có lời nói nọ... ; đạo Phật gọi là
Sắc mạng căn. Những sức mạnh khiến con người
cảm thấy vui buồn, sung sướng hay đau khổ, tham muốn vật này, chán
ghét vật khác, khi suy tư như thế này, khi lo nghĩ như thế kia, tất cả
động lực làm thế giới tình cảm, thế
giới trí thức, thế giới tâm linh họat động,
tất cả động lực sức mạnh ấy gọi là Danh mạng căn.
Và con người là sự tổng hợp của hai sức mạnh, khả năng,
năng lực ấy. Hai năng lực này liên quan mật thiết với nhau, tương
quan và tương trợ lẫn nhau. Những món ăn của
chúng ta không những ảnh hưởng đến thể chất chúng ta mà còn ảnh
hưởng đến thế giới tình cảm, thế giới
trí thức của chúng ta. Trái lại, những điều
chúng ta lo nghĩ, những tư tưởng chúng ta suy tư, những sách vở chúng ta
đọc, lòng tham, lòng sân của ta đều có
những phản ứng tương xứng đến thân thể của chúng ta. Vì con người
của chúng ta là sự tổng hợp của hai năng lực
như vậy, nên trong con người của chúng ta phát ra những quang
tuyến, những sức mạnh vô hình ảnh hưởng đến
cảnh vật xung quanh. Có người mới gặp lần đầu đã trìu mến cảm phục
chúng ta. Có người mới thấy, đã thù
ghét chúng ta ngay, không cần phải suy nghĩ
đắn đo. Lời nói của chúng ta, bộ điệu của chúng ta, dáng mặt của chúng ta,
tư tưởng của chúng ta đều phát tiết những sức mạnh, những ảnh hưởng chi
phối người và vật mà ta tiếp xúc; đạo
Phật dùng một danh từ mahesakkà, người có thế lực và appesakkà,
người ít thế lực (Đức Phật và Phật
pháp trang 306); để chỉ cho khả năng chi phối
của con người. Như vậy chúng ta thấy sự tu hành hay nói cho
đúng hơn là sự giáo dục ở nơi
đây là làm thế nào
để huấn luyện cho mỗi cá nhân hàm chứa
và phát triển những khả năng, nhưng sức mạnh
chi phối tốt đẹp đối với người hay cảnh vật mà mình tiếp xúc. Ở nơi
đây, vấn đề kiến thức không còn
được đặt ra mà chính vấn
đề khả năng, vấn đề vận dụng sức mạnh tâm
linh, sức mạnh đạo đức được đặc biệt chú trọng. Nhưng để tránh những hiểu
lầm, chúng ta cần xác định những sức mạnh này không có hàm nghĩa
luân lý, dù rằng chúng có thể có những tác dụng gọi là
đạo đức.
Như vậy con người biến thành một trung tâm có những năng
lực hấp dẫn và xua đẩy đối với sự vật
và sự vật cũng có khả năng hấp dẫn và
xua đẩy con người, mà danh từ chuyên
môn của đạo Phật gọi là tham (lobha),
và sân (dosa), dù rằng đó không có một tác
dụng luân lý. Chúng ta để hai kim địa bàn gần nhau,
đầu kim chỉ Bắc của địa bàn này tìm
đến và dính liền với
đầu kim chỉ Nam của địa bàn kia, trái
lại xua đẩy đầu kim chỉ Bắc. Sự hấp dẫn và
xua đuổi này chỉ là một
định lý thuận ứng và nghịch ứng, không
có tính cách luân lý. Với định lý này,
chúng ta thử tìm hiểu những hiện tượng đã
xảy ra mà chúng ta thường cho là định mệnh
hay may rủi do một sự thường phạt của một đấng thiên liêng nào.
Chúng ta thấy có người chỉ chậm bước có một phút mà thoát chết nạn phi
cơ, hay nhờ thình lình cúi xuống mà tránh
được viên đạn bắn phải. Nhiều khi chết
sống, trở thành vấn đề đường tơ kẻ
tóc. Viên đạn mà chúng gọi là
vô tình hình như lựa chọn người này tránh né người kia. Quả bom mà chúng
ta gọi là vô tình, hình như lựa chọn chỗ mà rơi, tìm chỗ mà trúng. Chúng
tôi nói hình như, thực sự không có gì là hình như cả mà chỉ bị sự chi phối
của định lý thuận ứng và nghịch ứng,
định lý hấp dẫn và phản hấp dẫn. Và
hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy vấn đề giáo
hóa hay giáo dục ở nơi đây hoàn toàn hướng về
đào tạo cho cá nhân những sức mạnh Sắc
mạng căn và Danh mạng căn
như thế nào, để con người trở thành
một chủ lực tác động chi phối hơn là
một tha lực thụ động, bị chi phối.
Hào quang của đức Phật chỉ là sự
tinh tụ lại những phản xạ giác ngộ và thanh tịnh của Sắc mạng căn
và Danh mạng căn của Ngài,
không có gì gọi là bí mật hay luân lý cả. Trở lui về thế giới con người và
bước vào địa hạt thực tế hơn, chúng ta thấy rõ
con người hiện tại bị dao động mãnh
liệt trước sự chi phối của chính trị, kinh tế, xã hội trước sự hấp dẫn của
vật dục. Con người hiện tại sống dao động,
hoang mang, lo âu, sợ hãi, nghi ngờ, bối rối, thiếu hẳn sự bình
tĩnh của những con người không bị dao động,
mất hẳn thái độ tự tại của những tâm hồn tự chủ, vắng bóng hẳn nét thản
nhiên của những tư thái quân bình. Cho nên một nền giáo dục gọi là
toàn diện, ngoài sự đào tạo cho tuổi
trẻ những kiến thức tổng quát, những khả năng
chuyên môn, còn phải luyện cho tuổi trẻ một tâm hồn quân bình, một
thái độ tự tại và một tư thái thanh
thản.
Lời đức Phật dạy thật là giản dị,
vì chỉ có người sáng suốt mới thốt ra những lời giản dị. Nhưng những lời
giản dị ấy lại được ví như tiếng rống con sư
tử, làm tà ma ngoại đao khiếp đảm, làm
hung thần ác quỷ run sợ. Như vậy lời dạy của Ngài hàm chứa cả một sức mạnh
phi thường, một khả năng chi phối mãnh
liệt. Chúng ta hãy tìm hiểu hiệu năng của lời
Phật dạy đối với vấn đề lãnh đạo,
nguyên tắc lãnh đạo, nhất là vấn
đề lãnh
đạo Giáo hội. Vì đây là một vấn
đề hết sức quan trọng đã chi phối bao
nhiêu hoạt động của tu sĩ cũng như cư sĩ và
làm một số người phải thắc mắc phân vân.
Thấy đức Phật già yếu,
Đề-bà-đạt-đa
từ lâu muốn chiếm ngôi vị Giáo chủ, đến thưa với đức Phật: “Bạch Thế Tôn,
hãy yên tâm tu Thiền nhập định và
giao trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội Tăng già
cho tôi, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm". Lời
đức Phật trả lời thật dứt khoát rõ
ràng. "Ta còn không giao trách nhiệm lãnh đạo
Giáo hội cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, huống nữa là cho Thầy,
vừa vô trí, mà nhỏ nhen tâm địa. (Vinaya, II
trang 188)”. Chúng ta dễ hiểu vì sao
đức Phật không giao cho Đề Bà Đạt Đa
đứng ra lãnh đạo Giáo hội. Nhưng điều
làm chúng ta phân vân thắc mắc là vì sao
đức Phật từ chối cả với hai Ngài Xá
Lợi Phất, trí tuệ đệ nhất và ngài Mục
Kiền Liên thần thông đệ nhất. Đoạn kinh sau này,
trích trong kinh Mahà-Parinibbàna (Những Ngày và Những Lời Dạy Cuối Cùng
của Đức Phật trang 47, 48), giúp trả lời sự
phân vân của chúng ta. Ngài A Nan lo sợ
đức Phật nhập diệt mà không có lời
trối trăn cho Giáo hội, đức Phật trả lời: “Này
Ananda, chúng Tỳ kheo còn mong mỏi gì nữa ở nơi Ta? Này Ananda, Ta
đã giảng Chánh pháp, không có phân
biệt trong ngoài, vì này Ananda, đối với các
pháp, đức Như Lai không bao giờ là vị
Đạo sư còn nắm tay (mitthi-àcarya). Này Ananda, những ai nghĩ rằng:
"Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo hay chúng
Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta”, thời này Ananda, Như Lai không
có nghĩ rằng: "Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ
kheo, hay chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta”, thời này Ananda,
làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỳ kheo?" (trang 100).
Trong đoạn kinh này,
đức Phật đã khiêm tốn từ chối vai trò
lãnh đạo của mình, và không chịu xem
chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của mình. Chúng ta chắc chắn
đức Phật không bao giờ có những cử chỉ khiêm
tốn hão, những lời nói đưa đẩy, những lời nói
để mà nói. Ngài từ chối sự lãnh đạo, vì
vai trò của Ngài chỉ là một vị chỉ đường:
“Tumhchi Kiccam àtappam".
"Tathàgoto akkhàtaro" Dhammapada, số 276, "Các người hãy nỗ lực cố
gắng, đức Như Lai chỉ là vị chỉ
đường”.
Lời khuyên tiếp của đức Phật cho ngài
Ananda nêu rõ đường hướng giáo hóa Tăng, Ni
của đức Phật, nếu chúng ta muốn xem đức Phật là một nhà giáo hóa:
"Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn
đèn cho chính mình; hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa gì
khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác".
"Này Ananda, những ai, sau khi Ta diệt độ,
tự mình là ngọn đèn cho chính
mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một gì khác, dùng Chánh pháp
làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ
nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác; những vị ấy, này Ananda,
là những vị tối thượng trong hàng Tỳ kheo của Ta" (trang l01). Và
để làm an lòng ngài Ananda, và một lần
nữa, cá nhân của mình để đạo pháp lên
trên, đức Phật nhắc nhủ các đệ tử của Ngài
những lời dạy, an ủi cuối cùng: "Này Ananda, nếu trong các người, có người
nghĩ rằng: "Lời nói của bậc Đạo sư không còn
nữa. Chúng ta không có bậc Đạo sư. Này
Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy". Này Ananda, Pháp và Luật, Ta
đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta
diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là
Đạo sư của các người”.
Như vậy, đức Phật có hai thái độ giáo dục
hay giáo hóa rất rõ rệt. Đối với các
đệ tử, Ngài không đóng vai trò
lãnh đạo, mà chỉ
đóng vai trò người chỉ
đường. Các đệ tử phải tự mình nỗ lực,
phải nương tựa nơi chính mình. Cá nhân lãnh
đạo tuy không phải không quan trọng, nhưng cá nhân lãnh
đạo phải nhường bước cho nguyên tắc
lãnh đạo, đường hướng lãnh
đạo, và
đối với Giáo hội, đường hướng nguyên tắc lãnh
đạo là Chánh pháp.
Hai quan niệm lãnh đạo này hết sức
giản dị nhưng hàm chứa những sức mạnh phi thường, vô cùng mãnh liệt vì làm
đảo lộn những quan niệm lãnh
đạo đương thời và mở
đường cho những đường hướng tư tưởng thật là
triệt để. Lãnh
đạo, giáo hóa hay giáo dục ở nơi đây, không
phải từ trên áp đặt xuống, không phải
từ ngoài vào, mà phải là từ bên trong phát ra, trách nhiệm nhà lãnh
đạo, nhà giáo dục là khơi dậy, kích
thích làm cho sống động và phát triển
những tiềm năng sẵn có trong lòng mỗi
người, và hướng dẫn, hướng thượng những tiềm năng
ấy phát triển và nảy nở hướng đến
những mục tiêu tốt đẹp hơn.
(Bài thuyết giảng cho sinh viên Trường Cao cấp Phật học
Việt Nam khóa III 1993 - 1996).
16. DỊCH KINH VÀ
ĐẠI HỌC
Khi chúng tôi bắt
đầu dịch kinh Pàli ra tiếng Việt, có người bảo là một phận sự thuần
chất tôn giáo, không dính gì Đại học. Có
người khắt khe hơn lại chỉ trích: “Đang làm Viện trưởng một Viện
Đại học mà dịch kinh là sẽ có hại cho
trách nhiệm điều khiển một Đại học”.
Chúng tôi muốn chứng minh rằng dịch kinh như chúng tôi
đang làm cũng là một dịch vụ
Đại học, không những không có xung khắc mâu
thuẫn, mà chính tiêu biểu tốt đẹp cho
thâu hóa kiến thức và văn hóa nhân
loại, và phát huy tinh thần cầu tiến, nghiên cứu, sáng tạo của
Đại học.
Trước hết, dịch kinh như là một phận sự chính của những vị tu hành
đi qua Ấn Độ tu học. Như ngài Pháp
Hiển người Trung Hoa, đi qua Ấn Độ và
Tích Lan vào thế kỷ thứ tư để lại một số dịch
phẩm quan trọng có thể dịch từ chữ Sanskrit, Prakrit, Pàli qua chữ
Hán. Ngài Huyền Trang, một nhà chiêm bái Trung Hoa thế kỷ thứ 7,
đã du học trên 17 năm,
và khi về nước đã dịch tất cả
là 77 bộ kinh từ chữ Phạn ra chữ Hán. Rồi đến
ngài Nghĩa Tịnh người Trung Hoa vào thế kỷ thứ tám cũng
đi qua du học tại Ấn Độ với một nhà sư
Việt Nam, ngài Đại Thặng Đăng và khi
về dịch từ tiếng Phạn qua chữ Hán. Còn các vị sư Ấn
Độ qua Việt Nam và qua Trung Hoa cũng
dịch kinh từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa, và những bậc dịch Sư có danh
tiếng như Ngài Sanghadeva (Tăng-già-đề-bà),
đã dịch tập Trung A-hàm, ngài
Cưu-ma-la-thập đã dịch tập Ma-ha
Bát-nhã, Diệu Pháp Liên Hoa v.v.
Chính công trình của các quý vị dịch Sư này
đã xây dựng nên Tam tạng Trung Hoa,
một dịch Tạng phong phú nhất trong các dịch Tạng. Thật sự, vấn
đề dịch kinh điển là một công trình văn
hóa hơn là một công trình tôn giáo, và ba Tạng giáo
điển Phật giáo không những phong phú nhất về
lượng và cũng dồi dào nhất về những uyên thâm triết lý và tinh vi
nhất về những phương pháp tu hành. Những danh từ "Dhammacakkam pavatteti"
(Chuyển pháp luân), "Dhammam deseti" (Thuyết pháp) mang nặng tính cách
trao truyền chân lý, truyền thừa pháp môn và vì vậy phiên dịch kinh
điển là một dịch vụ thuần túy văn
hóa và rất phù hợp với công tác Đại
học.
Khi chúng tôi dịch từ tiếng Pàli ra tiếng Việt là chúng tôi muốn giới
thiệu ba Tạng Pàli cho các Phật tử và học giả Việt Nam, một tam Tạng kinh
điển rất phong phú, rất gần với lời dạy nguyên
thủy của đức Phật, lại được phổ biến rất rộng
rãi khắp năm châu, qua công trình
dịch thuật của Hội Pàli Text Society, London.
Chúng tôi lại đặc biệt dịch kinh Tạng, là
một trong ba Tạng được xem là ghi chép
trung thành và thuần túy nhất những lời dạy nguyên thủy của
đức Phật. Từ trước cho đến nay, tuy có một số
kinh điển được dịch từ chữ Pàli ra tiếng Việt, nhưng phần lớn là
trích dịch, và các kinh được dịch phần lớn dùng
để tụng đọc trong các nghi lễ nên có
tính cách tôn giáo nhiều hơn. Ở nơi đây,
chúng tôi cố gắng dịch trọn vẹn, không bỏ qua một kinh nào, và dịch
có in nguyên bản Pàli đối chiếu với dụng ý để
người đọc có thể tự mình tìm hiểu nguyên nghĩa của từng chữ từng
câu, khỏi rơi vào những giải thích hay lệch lạc của người dịch. Kinh Pàli
được bắt đầu giới thiệu cho người Việt Nam và
người Việt Nam lần đầu tiên
được đọc thẳng kinh Tạng Pàli bằng
tiếng Việt có nguyên bản Pàli đối chiếu.
Không những chúng tôi giới thiệu kinh Tạng Pàli cho các Phật tử và
Học giả Việt Nam tụng đọc chúng tôi còn
cống hiến cho các Học giả Việt Nam những tài liệu nghiên cứu và tham khảo
để viết những tham luận về Phật giáo. Từ
trước các Học giả có viết về Phật giáo chỉ có thể trích dẫn các sách, do
các người ngoại quốc viết về Phật giáo, khó có thể tham chiếu từ tạng Pàli
hay tạng Hán, và như vậy có thể hiểu lầm và sai lạc. Nay các Học giả có
thể trích dẫn nơi bản dịch từ văn Pàli
ra tiếng Việt của chúng tôi, lại có thêm nguyên văn
Pàli đối chiếu. Như vậy sự trích dẫn
được chính xác và khỏi lệch lạc.
Khi chúng tôi giới thiệu kinh tạng Pàli với các bản dịch năm
bộ Nikàya (Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương ưng Bộ Kinh, Tăng
Nhất Bộ Kinh, Tiểu Bộ Kinh), chúng tôi gián tiếp giới thiệu bốn bộ A-hàm
là Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng
Nhất A-hàm và vô số kinh tương đương
khác thuộc nhiều học phái khác mà từ trước
đến nay, rất ít người tham khảo. Trường A-hàm
được Hòa thượng Thích Thiện Siêu dịch
ra Việt văn nhưng không được đầy đủ. Trung
A-hàm được Hòa thượng Thích
Thanh Từ và Đại Đức Tuệ sĩ dịch ra Việt văn
nhưng chỉ dịch một số kinh và cũng chưa in thành sách. Bản chữ Hán
tuy có học tại các Phật học Viện, nhưng cũng chỉ trích học. Bản chữ Hán
được dịch vào thế kỷ thứ 2 sau Kỷ
nguyên nên rất xưa và khó hiểu và ít được có
người tham khảo. Chúng tôi xin kể sơ một ít danh từ được Ngài
Sanghade (ra dịch từ tập Màdhyàmàgama (Trung A-hàm) ra chữ Hán. Như chữ
Vedanà dịch là giác, sau dịch là thọ; Savitakka, Savicàra,
ngài dịch là hữu giác, hữu quán, về sau dịch là hữu tầm, hữu tứ;
Phassa, ngài dịch là cánh lạc, về sau dịch là xúc. Chúng tôi
hy vọng khi bản Pàli được trích dịch, thời
nhiều đoạn A-hàm, tương đương được
sáng nghĩa hơn, và sẽ có nhiều vị tiếp tục dịch các bộ A-hàm một
cách trọn vẹn và đầy đủ. Bốn bộ A-hàm
và một số rất nhiều bài kinh chưa được phân
loại là những tài liệu rất quý giá đề
cập đến các học phái, mà nay hình như chỉ có ông André Bareau người
Pháp nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng trong một thời gian gần
đây, sẽ có một số Học giả nghiên cứu
đến những tài liệu này và sẽ khám phá
rất nhiều tài liệu Phật giáo mới lạ và hy hữu. Cho nên khi dịch các tài
liệu Pàli, chúng tôi hy vọng mở đường cho
nhiều nghiên cứu khác đặt nặng vào
bốn bộ A-hàm và các kinh điển khác rải rác
trong Tam Tạng. Như vậy trong khi chúng tôi trực tiếp giới thiệu kinh tạng
Pàli, chúng tôi gián tiếp giới thiệu kinh tạng A-hàm và tương
đương, và sự
đóng góp này mang nặng tính chất vừa văn
hóa, vừa Đại học.
Cho dịch và cho in các bản kinh Pàli, chúng tôi không mong muốn gì hơn
là để các Phật tử, các Học giả, các Sinh viên
được đọc thẳng vào những kinh
điển thật sự nguyên thủy hay gần
nguyên thủy nhất, và tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của
đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của
các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những Học
giả và những Phật tử muốn giải thích đạo Phật
theo dục vọng và tà kiến của mình. Muốn chạy theo dục vọng, thì
giải thích kinh điển một cách dễ hiễu rằng
đạo Phật chấp nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn
bênh vực kẻ giết người, đạo Phật được giải
thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy
theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo
Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Tà
kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo
được hết. Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhất là phổ biến những
kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần
nguyên thủy nhất, để Phật tử được đọc thẳng
ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào.
Đạo Phật cần những cá nhân Phật tử biết suy
tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu, rồi xác nhận sự hiểu biết của
mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân.
Đạo Phật không cần đến những đo àn người theo
đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng,
theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình
bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà
kiến dục vọng của mình. Chính kinh Đại
Bát-niết-bàn, trang 124 - 126, tập III có ghi rằng: Dù chúng ta có
nghe vị Tỳ kheo nào nói tự thân nghe đức
Phật, tự thân nghe các vị Thượng tọa, Thủ chúng v.v... Nói như vậy
là Pháp, như vậy là Luật, đức Phật
khuyên cũng không được tán thán, đả kích,
chấp thuận hay từ bỏ ngay, mà phải so sánh với Kinh,
đối chiếu với Luật, có phù hợp mới
được chấp nhận, không phù hợp thời
phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận
xét, tìm hiểu, suy tư cá nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có thể nhận
xét, tìm hiểu, suy tư khi chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu, suy tư
khi chúng ta được đọc những lời dạy nguyên
thủy nhất hay gần nguyên thủy nhất của đức
Phật.
Chúng tôi dịch kinh Pàli, không vì mục
đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập
trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn
giới thiệu những kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần
nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm
hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi
qua ống kính của một học phái nào, dù Ấn
Độ, Trung Hoa hay Việt Nam. Chúng tôi cũng
không có trách nhiệm nêu lên cho độc
giả rõ, đoạn nào là nguyên
thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy.
Chỉ có người đọc, sau khi tự mình
đọc, tự mình tìm hiểu, tự mình suy tư,
tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình
hiểu và thấy đoạn nào là thật sự
nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của
người đọc, không phải của người dịch, vì
đạo Phật là
Đạo đến để mà thấy chứ không phải
Đạo đến để nhờ người thấy hộ, Đạo của người
có mắt (Cakkhumato), không phải Đạo của người nhắm mắt, Đạo của người
thấy, của người biết (Passato Jànato), không phải là
Đạo của người không thấy, không biết
(Apassato Ajànato). Nên chỉ có người
đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.
Thật sự chúng tôi chỉ mong rằng quý vị hãy
đọc thật kỹ và suy tư thật chín chắn, những
đoạn mà chúng tôi phiên dịch rồi quý
vị hãy tự hỏi, những đoạn ấy có phải là
những đoạn “Tiểu thừa” dành riêng cho
những vị có tiểu tâm, chỉ biết tư lợi không biết vị tha, chỉ biết tự giác
không biết giác tha. Như chúng tôi đã
phân tích trong lời giới thiệu bản dịch tập "Đại
thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa", chúng ta
đừng có mắc bẫy các vị Bà-la-môn Ấn
Độ giáo đã tìm cách gán cho chữ "Tiểu
thừa", để loại ra ngoài những lời Phật
dạy căn bản, như một số Phật tử Đại thừa đã
bị mê hoặc, không dám đọc những lời Phật dạy,
vì bị gán nhãn hiệu Tiểu thừa. Bên phái Nam tông, tuy tôn thờ Tam
tạng Pàli, nhưng một số Phật tử cũng rơi vào một nạn tương tự, là chỉ học
Luật tạng và A-tỳ-đàm tạng, bỏ rơi
Kinh tạng Pàli, vì xem A-tỳ đàm tạng
mới đề cập đến Đệ Nhất Nghĩa đế, còn
kinh tạng chỉ bàn đến Tục đế mà thôi.
Đây cũng là một lầm lạc hết sức ngây
thơ và nguy hiểm. Vì A-tỳ-đàm phát
xuất từ Kinh tạng, và bỏ gốc để tìm
ngọn thì không khác gì kẻ đi tìm lõi
cây, mà chỉ mang về cành lá. Thật sự, đạo
Phật đâu có phân biệt Tiểu thừa và Đại
thừa, đâu có chia đôi Chân đế, Tục đế. Những sự phân chia này chỉ
là hậu tác phẩm, hoặc của giáo sĩ Bà~la-môn mang danh Phật tử muốn loại bỏ
những gì tinh túy nhất của đạo Phật không cho
Phật tử học và tu, hay của một số đệ
tử Phật muốn làm Tổ sư một giáo phái, nên
đề xướng các chủ thuyết lấn át những lời dạy
nguyên thủy của đức Phật.
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm
đọc và tìm hiểu những lời dạy thật sự
là những lời dạy của đức Phật, và vì
trách nhiệm ấy mà chúng tôi đang cố gắng phiên
dịch kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần
đọc, cần suy tư chín chắn và rồi chính
chúng ta tự ý thức đâu là những lời
dạy trung thực của đức Bổn Sư chúng ta.
Đây l à sự đóng góp của Viện Đại học
Vạn Hạnh vào nền văn hóa Phật giáo
bằng cách giới thiệu một cách đầy đủ và trung thực những tàỉ liệu
tiếng Việt quý báu nhất về kinh tạng Pàli, vừa cho các Phật tử tìm hiểu,
thực hành và thực chứng, vừa giúp các Học giả Phật giáo có những tài liệu
tham khảo khá đầy đủ và trung thực.
Viện Đại học Vạn Hạnh là môi trường
đầu tiên nếu không phải là
độc nhất, đã cố gắng giới thiệu kinh
Tạng Pàli cho Phật tử Việt Nam, Học giả Vìệt Nam, dân chúng Việt Nam. Viện
Đại học Vạn Hạnh cũng đi tiên phong mở
đường cho một cao trào nghiên cứu
đi thẳng vào lời dạy nguyên thủy của
đức Phật, khỏi bị những lệch lạc của học phái
hay của Bà-la-môn giáo. Điều quan hệ
hơn nữa, Viện Đại học Vạn Hạnh muốn khuyến khích các Học giả và các
Phật tử, tự mình mở mắt tìm hiểu, suy tư, đối
chiếu, không có nhắm mắt tin theo, không có thụ động chấp nhận, trái lại
phải biết thâu hóa, so sánh, phân tích, để làm sáng tỏ những lời
dạy nguyên thủy của đức Phật.
17. CHÙA VIỆT NAM VÀ MỐI
LIÊN HỆ VỚI NỀN VĂN
HÓA DÂN TỘC
Thiền đường Trúc
Lâm, chùa Trúc Lâm, nơi tôi có vinh dự và hân hạnh, qua lời mời của
Thượng tọa Viện chủ Thích Thiện Châu, tiếp xúc và nói chuyện cùng quý vị
là một ngôi chùa mới, một ngôi chùa Việt Nam nhưng xây dựng ở nước ngoài,
ở nước Pháp, gần kinh đô Paris hoa lệ. Phải
chăng đúng theo lời dự báo của Pháp sư Thái Hư khi qua thăm Việt Nam cách
đây hơn nửa thế kỷ, trong câu đối Pháp sư tặng chùa Quán Sứ:
Pháp luân tợ địa Đông Tây chuyển,
Phật đạo phùng nguyên tả hữu
thông.
Tạm dịch:
Bánh xe pháp giống như trái đất chuyển
từ Đông sang Tây,
Đạo Phật trở về nguồn sẽ thông suốt cả bên trái cũng như bên
phải.
Gần đây, đọc báo tôi được biết ở các nước
phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ, Cộng Hòa Liên Bang
Đức, ở Anh, ở Ý, Tây Ban Nha và một
phần nào ở Pháp, có phong trào xây dựng nhiều chùa Phật, Thiền viện. Thiền
đường Trúc Lâm của chúng ta là một
trong những chùa và Thiền viện đó. Phong trào
hướng về đạo Phật ở các nước phương Tây chứng
tỏ tính thiết thực hiện tại, tính nhân bản mãi mãi sống
động của đạo Phật. Ngày nào mà loài
Người còn đau khổ, chưa được an lạc, thì
loài Người còn cần tới đạo Phật, là
đạo diệt khổ và
đem lại an lạc cho loài Người, không
kể đó là người phương
Đông hay là phương Tây.
Trong câu đối của ngài Thái Hư có
hai ý, Một ý là giáo pháp của Phật luôn luôn chuyển, trong thời gian cũng
như không gian. Đó là sự phát triển
của đạo Phật. Đó là
đạo Phật phát triển, và trong sự phát
triển đó, nó không thể không thích nghi với
thời gian và không gian. Yêu cầu của Chúng sinh nói chung, của Phật
tử nói riêng, chung quy là thoát khổ, được
vui nhưng không thể mang nhiều màu nhiều vẻ tùy theo thời gian và
không gian. Do đó, đạo Phật phải phát triển
để thích nghi với những yêu cầu mới của thời gian và không gian.
Đó là lý do hình thành các bộ phái sau
khi Phật Niết Bàn 100 năm và cũng là
lý do xuất hiện tư trào Đại thừa giáo sau này.
Thế nhưng, dù cây cổ thụ có lớn lên và phát triển cành lá sum xuê như thế
nào, thì nó cũng không thể tách rời cái gốc rễ uyên nguyên của nó
được. Đạo Phật cũng thế, càng phát
triển lại càng phải trở về nguồn thì mới có thể
đảm bảo một sự phát triển lành mạnh
đúng hướng, nhờ đó mà mãi mãi xanh
tươi. Ngài Thái Hư nói Phật đạo phùng
nguyên, trở về nguồn là theo ý tứ đó.
Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại có hai cội nguồn, một cội nguồn là ở Ấn
Độ, nơi đức Bổn Sư Thích Ca xuất thế. Ở đây,
như quý vị đều biết, vua Bimbisara, xứ Magadha sau khi được nghe Phật
thuyết pháp tại thành Vương Xá, đã
cúng dường Phật vườn Trúc Lâm, làm tinh xá để
Phật và Tăng chúng ở. Được vua hỏi về yêu
cầu một tinh xá, Phật trả lời là tinh xá phải ở vào nơi vắng vẻ không xa
lắm, nhưng cũng không quá gần thành phố, để
cho dân chúng ai muốn, đều có thể đến được, nhưng ban ngày không có
quá đông người, và ban
đêm thì không quá ồn ào, một nơi
thoáng mát ... Và vua Bimbisara thấy vườn Trúc Lâm rất thích hợp
với tất cả những yêu cầu của Phật đề ra cho
một tinh xá. Và thế là tinh xá Trúc Lâm
được hình thành, là nơi Phật và Tăng
chúng đã trải qua sáu kỳ an cư kiết hạ, và là nơi Phật giảng nhiều
bài thuyết pháp quan trọng.
Thiền đường Trúc Lâm của Thượng tọa Thích
Thiện Châu và quý vị cũng không quá xa, cũng không gần lắm kinh
đô Paris, mong rằng đạt được những yêu
cầu của Phật Thích Ca đề ra cho một tinh xá,
hay một Thiền đường. Và tôi chân thành và hoan hỷ cầu chúc cho
Thiền đường Trúc Lâm của quý vị làm
tròn được sứ mệnh thiêng liêng. Một
mặt phát triển đạo Phật, khế hợp với căn cơ
của thời hiện đại, mặt khác đảm bảo bản chất trong sáng của đạo, khế hợp
với những lời dạy cơ bản của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Theo tôi, đó là
cội nguồn thứ nhất của Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại. Còn cội nguồn thứ
hai là Phật giáo Việt Nam tại nước nhà. Một nền Phật giáo Việt Nam rất tự
hào về chiều dài lịch sử của nó hơn 18 thế kỷ, về truyền thống dân tộc anh
hùng của nó, về những thành tích võ công văn
trị của hai triều đại Phật giáo Lý và Trần, là thời kỳ vẻ vang
nhất, rực rỡ nhất của toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam mới được
thành lập, mà tôi có vinh dự được Giáo
hội Phật giáo Việt Nam cử làm Viện trưởng
đang tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu
để làm sáng tỏ những
đóng góp thiết thực của đạo Phật Việt Nam vào
lịch sử của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là
thời lịch sử vẻ vang của hai triều đại Lý,
Trần.
Tôi không rõ lắm ý tứ của Thượng tọa Thích Thiện Châu yêu cầu tôi nói
chuyện về các chùa cổ Việt Nam. Phải chăng đó
cũng là yêu cầu của tất cả Phật tử Việt kiều ở Pháp, trong dịp lễ
Khánh thành ngôi Thiền viện Trúc Lâm mới mẻ, xinh
đẹp này, luôn luôn hướng về nền Phật
giáo cổ kính của Việt Nam, những ngôi chùa cổ ở Việt Nam mà do tính chất
lịch sử và dân tộc lâu đời không có một kiến
trúc sư hiện đại, tài ba nào ở Pháp có thể xây dựng lại
được. Tất nhiên, chùa Trúc Lâm của quý
vị có vẻ đẹp thanh xuân của nó, nhưng chùa
Trúc Lâm ở Huế là vườn tre vườn trúc. ở gần Paris làm sao có tre, có trúc,
mà chỉ có cây maronniers. Nhưng chùa Trúc Lâm ở Huế nơi trụ trì hiện nay
của Hòa thượng Phó Pháp chủ Mật Hiển, có thể nói là núp bóng trong vườn
trúc dày đặc. Chùa Trúc Lâm ở
đây mặc dù khá cách xa kinh
đô Paris ồn ào và hoa lệ, nhưng vẫn
không có được bầu không khi yên tĩnh,
trầm lặng của vùng đồi Nam Giao gần cố đô
Huế. Chùa Trúc Lâm ở Huế hiện còn giữ
được bảo vật từ thời Tây sơn, kinh Kim Cang Bát nhã dệt trên gấm,
theo truyền thuyết là do chính công chúa Ngọc Hân, vợ Nguyễn Huệ thêu.
Ở Huế, ngoài chùa cổ Trúc Lâm ra, còn có nhiều chùa cổ khác,
đặc biệt là chùa Thiên Mụ, nơi trụ trì
hiện nay của Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Phó
Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Gió đưa cành trúc la
đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó.
Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền
đúc vào năm
Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện
diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố
đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại
cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà
Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam
đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà
Đường, theo lệnh vua Đường là
Đường ý Tôn (860-873), đã
đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi
đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm.
Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã
Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng
đột khởi một cái đồi hình đầu rồng,
biết là nơi linh địa, bèn cho
đào hào cắt ngang dưới chân
đồi. Đêm
đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân
đồi than vãn và nói to: "Đời
sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho
đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở
đây..."
Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực,
để biệt lập và chống
đối với họ Trịnh, đã
đến nơi này, nghe các bô lão kể lại
câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa
trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa
bà lão nhà Trời).
Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng
đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và
đạo Phật. Cao Biền có tài trấn yểm,
nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của Cao Biền
đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa
Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật
thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển
động, của Tăng là những người có trách
nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này.
Ở cố đô Huế, ngoài hai chùa Trúc
Lâm và Thiên Mụ, còn có một số chùa cổ khác như chùa Diệu
Đế, chùa Quốc Ân, chùa Từ
Đàm, chùa Báo Quốc, chùa Tường Vân,
chùa Thuyền Tôn v.v... phần lớn tọa lạc ở bờ phải sông Hương.
Thế nhưng trong cả nước, thì số chùa cổ tập trung nhiều hơn cả là ở
miền Bắc, nơi có trung tâm Phật giáo và Phật học Luy Lâu nổi tiếng, với
những cao Tăng xuất phát từ đây sang giáo hóa
ở miền Nam Trung Hoa, nơi đã tổ chức dịch bộ kinh xưa nhất trong văn
hệ Bát-nhã, tức bộ Bát Thiên Tụng Bát-nhã và nhiều bộ kinh
Đại thừa khác.
Trong đó thì bộ kinh thuộc văn
hệ Bát-nhã, được Lokasema, người đồng
đại với An Thế Cao dịch vào năm 172
T.L. lại là cuốn Astadasasahasrika (18.000 tụng), không phải là bộ
xưa nhất. Một sự kiện nữa đáng chú ý là
cuốn kinh Kim Cương Bát-nhã được Thiền sư
Việt Nam Thanh Biện, thuộc thế hệ thứ tư dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi,
trì tụng hằng ngày phải xuất hiện sớm hơn non hai thế kỷ so với
cuốn kinh Kim Cương Bát-nhã được ấn tống lần
đầu tiên ở Trung Hoa vào năm 868,
tháng 5 ngày 11. Lịch sử ngành in thế giới ghi nhớ ngày này, như là
ngày cuốn sách in đầu tiên ra
đời, mà
đó lại là một cuốn kinh Phật. Thế nhưng, theo cuốn "Thiền Uyển Tập
Anh" cuốn lịch sử Phật giáo xưa nhất, viết vào
đời Trần, thì Thanh Biện tịch vào năm
686, do đó điều chắc chắn là Thanh Biện
đã sử dụng một bản kinh Kim Cương
khác, có thể là đã
được chuyển thẳng từ Nam Ấn Độ sang, và
được dịch ở Việt Nam, bởi những cao Tăng Việt
Nam thông cả chữ Phạn và chữ Hán.
Chi tiết trên tuy nhỏ, nhưng đủ nói lên
tính xa xưa của đạo Phật Việt Nam, của Trung
tâm Phật học Luy Lâu, và của những chùa tháp Việt Nam
được xây dựng vào thời bấy giờ mà kiến
trúc và điều khắc chắc là mang dấu ấn
ảnh hưởng của Ấn Độ, nhiều hơn là của
Trung Hoa. Những chùa tháp Việt Nam đó hiện
nay không còn nữa, thế nhưng bóng dáng của chúng, ảnh hưởng của
chúng tiếp tục lưu lại phảng phất trong các chùa tháp
đời Lý và
đời Trần.
Chùa tháp đời Lý Trần hẳn là
đã được
xây dựng khá phổ biến, và có quy mô khá to lớn, cho nên Lê Văn
Hưu, sư gia đời Trần nói về chùa tháp
đời Lý, đã có những câu như:
"Xây chùa cao ngất trời, trồng cột chùa đá
chạm, chùa Phật lộng lẫy hơn cả cung vua, dân quá nửa là Sư sãi,
khắp nước chỗ nào cũng chùa chiền..." (Thơ Văn
Lý Trần tập II - 368).
Rất có thể là Lê Văn Hưu muốn nói tới hai
ngọn tháp mà Lý Thánh Tông cho xây, một ở Thăng
Long (Hà Nội), tức la tháp Báo Thiên, và hai là tháp Lạn Kha ở chùa
Phật Tích và một số tháp khác nay đều không còn
nhưng được nhắc tới trong sách sử với những
thông số chiều cao làm chúng ta ngạc nhiên, và không thể không
đặt câu hỏi: Tháp chùa Phật Tích cao
ngàn trượng? Tháp chùa Báo Thiên cao vài mươi trượng, cột
đá ở chùa Một Cột Hà Nội cao 10
trượng, tháp Chương Sơn còn để lại cạnh chân
dài 19 mét. Nếu tính đại khái 3 trượng
bằng 1 mét Tây, thì độ cao của các
tháp đời Lý quả là đáng kể vậy. Tương
truyền, khi tháp Phật Tích đang còn, thì từ ở Thăng
Long (Hà Nội), người ta có thể nhìn thấy
đỉnh tháp Phật Tích.
Tháp Báo Thiên dựng ở chùa Sùng Khánh Thăng
Long do sắc chỉ vua Lý Thánh Tông, năm Long Thụy Thái Bình thứ năm
(l056) là một ngọn tháp 12 tầng, cao hơn 80 mét, vốn dược vua
đặt tên là
Đại Thắng Thiên Bảo Tháp, gọi tắt là
tháp Báo Thiên. Ngày xưa, nói tới bốn công trình kiến trúc và
điêu khắc lớn của Việt Nam, thì tháp
Báo Thiên là một. Khi tướng nhà Minh, Vương Thông bị quân của Lê Lợi -
Nguyễn Trãi vây hãm trong kinh thành, Vương Thông
đã cho dỡ phá tháp Báo Thiên, lấy vật
liệu để xây công sự (1414). Nền tháp to rộng
không khác gì ngọn đồi. Đến thế kỷ 18
(1791), người ta đào được ở đây, tám
pho tượng Thần Kim Cương, chia đứng trấn 4 cửa, những tượng người, tiên,
chim muông, giường ghế đều bằng đá nhiều
không kể xiết” (theo sách Tang Thương Ngẫu Lục).
Chóp tháp bằng đồng, tương truyền là
do sư Không Lộ đời Lý vẽ kiểu và
đúc, với số đồng do Sư dùng phép thần
thông lấy được trong kho của vua nhà
Tống ở tận Nam Kinh. Số đồng lấy về nhiều đến
nỗi sư Không Lộ còn dùng để tạc tượng
Phật ở chùa Quỳnh Lâm, đúc chuông Quy
Điền cho chùa Diên Hựu, và vạc ở chùa Phổ Minh.
Đó là bốn công trình
điêu khắc lớn nhất,
đẹp nhất, nổi tiếng nhất thời bấy giờ, gọi là
"Việt Nam Tứ Đại Khí”, và do một tay
sư Không Lộ làm ra cả. Một Thiền sư đồng thời
là một kiến trúc sư, một thợ đúc đồng
có kỹ thuật, sau này được ngành
đúc đồng Việt Nam suy tôn là Tổ
đúc đồng của Việt Nam, và có
đền thờ tại phường Lò
Đúc Hà Nội. Vâng, chỉ là huyền thoại,
nhưng nó cho thấy các Tăng sĩ Việt Nam thời
Lý có nhiều tài, nhiều nghề, và giúp ích nhiều và thiết thực cho
cuộc sống của người dân.
Bài thơ vịnh tháp Báo Thiên của Nho sĩ Phạm Sư Mạnh cũng cho chúng ta
một ý niệm về độ cao của tháp, cũng như kiến
trúc tráng lệ của nó:
"Trấn áp Đông Tây giữ đế đô,
Hiên ngang một tháp đứng trơ vơ,
Non sông vững chãi tay trời chống,
Kim cổ không mòn đỉnh tháp nhô,
Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp,
Đến đây những muốn đầu ngòi
bút,
Chiếm lấy sông xuân làm mực đề thơ..."
Những câu như
"Non sông vững chãi tay trời chống,
Kim cổ không mòn đỉnh tháp nhô".
Hay là câu:
"Trấn áp Đông Tây giữ đế đô".
Không những gợi cho chúng ta một ý niệm về quy mô của tháp, mà cả về vị
trí, vai trò của đạo Phật như là một
Quốc giáo, bảo vệ quốc gia và dân tộc.
Chừng nào mà những tư tưởng cơ bản của giáo lý
đạo Phật như lòng từ, lòng bi, hạnh
trí tuệ, hạnh hiếu sinh và hiếu hòa, hạnh vô ngã vị tha vẫn còn là những
yếu tố cấu thành khắng khít của truyền thống văn
hóa của dân tộc Việt Nam, chừng nào mà
đạo Phật Việt Nam còn hòa quyện với dân tộc Việt Nam,
đất nước Việt Nam như là nước với sữa,
thì đạo Phật cũng sẽ tồn tại vĩnh cửu như là
dân tộc Việt Nam vậy.
Câu thơ của Phạm Sư Mạnh:
"Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp ".
Cho thấy tháp Báo Thiên có mắc nhiều chuông nhỏ, mỗi lần có gió thoảng
qua là có tiếng chuông reo, như là tiếng nhạc Trời. Kiểu trang trí chuông
nhỏ như thế này không còn thấy ở các chùa Việt Nam hiện nay nữa, nhưng
chắc là có phổ biến ở các chùa đời Lý, và
có thể là một kiểu trang trí du nhập từ Ấn
Độ. Khi qua Ulan Ude, thủ đô nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa tự trị Bouriate (Thuộc Liên Xô cũ) tôi thấy
các chùa lớn ở đây đều có trang trí chuông
nhỏ như vậy trên các tháp chùa màu vàng óng ánh rất
đẹp, và mỗi lần có làn gió thổi qua,
dù là nhẹ, chúng ta lại nghe tiếng chuông reo không khác gì nhạc Trời.
Dân gian có câu:
Đất vua, ch ùa làng, phong cảnh Bụt.
Phong cảnh Bụt là phong cảnh đẹp, nhưng
không chỉ đẹp mà còn có chùa, có Tăng
Ni, có tiếng chuông mõ tụng kinh, thập phương tín
đồ dập dìu cho nên gọi là phong cảnh
Bụt chăng? Hay là phong cảnh Bụt chỉ
cho một phong cảnh đẹp một cách siêu
thoát, xa trần tục.
Nhưng có điều chắc là ở nước ta,
đặc biệt là ở miền Bắc việt Nam, những
nơi nào là cảnh đẹp đều có chùa. Chùa
hòa mình vào thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm
đẹp một vẻ đẹp sinh động nhưng vẫn siêu
thoát. Hợp từ danh lam thắng cảnh, rất thông dụng ở Việt Nam hiện nay thấy
nơi nào đã là thắng cảnh là có danh
lam, tức là chùa danh tiếng. Tất nhiên, lập chùa trước hết là do nhu cầu
tín ngưỡng của dân chúng, cho nên ở Việt Nam có nhiều chùa làng, chùa chợ,
chùa ở đô thị v.v... Chùa Việt
Nam không những hòa mình vào thiên nhiên, mà còn hòa mình vào dân chúng
dân tộc. Vì chùa dựng lên là để đáp ứng nhu
cầu tín ngưỡng của dân chúng, cho nên, chỉ trừ một vài ngoại lệ
hiếm có, còn thì các chùa đều do dân chúng
góp công góp của mà lập thành. Vị Tăng
sĩ trụ trì thường chỉ đóng vai trò
hóa quyên và điều khiển việc tôn tạo. Bởi lẽ,
người dân Việt Nam tin rằng xây chùa, ấn tống kinh sách Phật là một
công đức lớn, đồng thời chùa
đối với họ là trung tâm của cuộc sống
tâm linh, mà họ rất xem trọng hơn cả cuộc sống vật chất của họ nữa.
Đó là lý do chùa trở thành một cảnh
quan kiến trúc phổ biến ở nước ta, rất tiêu biểu cho
đất nước và dân tộc ta. Hai câu thơ
dân dã:
Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
đ ủ nói lên vì sao người dân Việt Nam yêu quý và coi trọng chùa
chiền. Thái độ của người dân Việt Nam, ngay
những Nho sĩ kích bác đạo Phật nặng nề nhất cũng bắt buộc phải thừa nhận.
Nho gia Lê Quát viết trên văn bia chùa
Thiên Phúc ở Bắc Giang như sau:
"Học Phật lấy điều họa phước làm
động lòng người, sao mà sâu xa bền
chắc đến thế. Trên từ vương công, dưới
đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về
việc Phật, tuy đem hết gia tài cũng
không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm
chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ như trong tay
đã cầm
được cái biên lai để ngày sau
đi nhận được số tiền trả báo lại. Cho nên
trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ,
đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến mà theo, chẳng thể mà tin, hễ chỗ
nào có nhà người ở thì có chùa Phật. Bỏ đi thì
làm lại, hư đi thì sửa lại. Lâu
đài chuông trống cũng bằng phân nửa
nhà thiên hạ ở..."
Tôi cho rằng, cho đến nay, chưa có một bài
văn bia nào nói lên
được một cách sinh động hơn tính phổ cập của
tín ngưỡng Phật giáo trong nhân dân Việt Nam bằng bài văn
bia của Lê Quát, một Nho sĩ không tán thành Phật giáo và kích bác
Phật giáo. Tất nhiên, ngày nay Phật giáo không còn có vị trí quốc giáo như
dưới hai đời Lý và Trần nữa. Nhưng cái
hạt giống tin Phật, thờ Phật, trân trọng Tam Bảo từ lâu
đã nảy mầm, có gốc rễ sâu bên trong
lòng người dân Việt Nam.
Như quý vị đều biết, một số chùa cổ
ở miền Bắc như chùa Một Cột, chùa Vĩnh Nghiêm
đã được xây lại mới, ở trong
Nam, như chùa Nhất Trụ (Một Cột) ở Thủ Đức,
chùa Vĩnh Nghiêm ở giữa trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Chùa Vĩnh Nghiêm ở Hà Bắc vốn xây dựng từ thời nhà Lý, về sau trở thành
một Tổ đình lớn của phái Trúc Lâm Yên
Tử dưới đời nhà Trần.
Khách hành hương từ Hà Nội lên Yên Tử thường dừng chân ở chùa Vĩnh
Nghiêm. Từ khi Pháp Loa, vị Tổ thứ hai của phái Thiền Trúc Lâm
đến trụ trì chùa, thì chùa Vĩnh Nghiêm
trở thành một trung tâm Phật giáo danh tiếng của Giáo hội Trúc Lâm. Từ
đây và ở
đây, Tôn giả Pháp Loa đã có những quyết
định quan trọng chấn chỉnh Tăng đoàn,
như ba năm một lần tổ chức sát hạch Tăng sĩ,
người tuy đã thụ giới nhưng tỏ ra không
đủ tư cách và học vấn
đều không được cấp lại độ điệp, tức một loại
chứng minh thư của Tăng sĩ thời bấy giờ. Chính Huyền Quang, sau này
trở thành vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, khi còn là Trạng nguyên và
làm quan, đã từng theo vua Trần Nhân
Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp
Loa thuyết pháp, được giác ngộ và xin
phép vua cho từ quan xuất gia. Trong dân gian có câu:
"Ai qua Yên Tử Quỳnh Lâm,
Vĩnh Nghiêm chưa tới, Thiền tâm chưa đành".
Bản thân tôi đã từng
được đến viếng ngôi chùa cổ này,
được chiêm ngưỡng tượng ba vị Tổ của
phái Thiền Trúc Lâm, được nhìn nhiều
bức chạm gỗ rất có giá trị nghệ thuật, cũng như nhiều bản khắc các bộ kinh
Đại thừa quan trọng, như kinh Hoa Nghiêm
v.v... đều là những bảo vật của
chùa.
Chính Trúc Lâm đệ tam Tổ Huyền Quang cũng
đã có thơ vịnh chùa Diên Hựu tức chùa Nhất Trụ hay chùa Một Cột,
một kiến trúc độc đáo của Phật giáo đất Thăng
Long. Thiền sư thi sĩ đã tả cảnh chùa dưới trăng
thu, trên hồ lạnh, giữa tiếng chuông ngân. Chùa Vĩnh Nghiêm cũng
như chùa Nhất Trụ tại Thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng vì kiến trúc
đặc biệt của nó, và cũng nổi tiếng vì
kế thừa nét kiến trúc, Thiền vị và tên gọi của hai danh lam cổ tự tại Thăng
Long.
Nói đến các chùa cổ ở miền Bắc,
không thể nào không nhắc tới cụm chùa trên núi Yên Tử.
Tôi có đọc bài giới thiệu cụm chùa
núi Yên Tử của cụ Hoàng Xuân Hãn, đăng trong
Tập San Khoa Học Xã Hội số 5 năm 1978,
do Hội Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại Pháp xuất bản. Sau khi giới
thiệu khá chi tiết các chùa, am, tháp trên núi Yên Tử, cụ Hoàng Xuân Hãn
đặt vấn đề nên có kế hoạch "bảo tồn,
tu chỉnh và tái tạo hệ thống kiến trúc và sử học Yên Tử như một cao
điểm của văn hóa Việt Nam, cùng các vị
trí gần như Côn Sơn, Kiệt Đặc v.v...” Cụ gợi
ý là "cùng với vịnh Hạ Long ở kề phía
Đông, Yên Tử có thể tạo thành mội hệ thống du quan quốc tế và quốc
nội".
Cụm chùa Yên Tử là biểu trưng sinh động
của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông thành lập và
làm sơ Tổ. Còn các phái Thiền trước đó đều do
những người ngoại quốc hoặc Ấn Độ hay Trung Hoa thành lập và làm sơ
Tổ. Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, với vua Trần Nhân Tông không những
đã kế thừa, và tiếp thu có chọn lọc
sáng tạo tất cả những gì tinh hoa nhất, tích cực nhất của các phái Thiền
trước đó, mà còn khéo kết hợp một cách
thật sự nhuần nhuyễn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân với nhu cầu chính trị
bảo vệ nền độc lập quốc gia và dân
tộc. Tôi nghĩ rằng, nếu Trần Nhân Tông và Giáo hội Trúc Lâm không làm tốt
được sự kết hợp đó, thì dân tộc chúng
ta ắt khó chiến thắng được quân xâm lược Nguyên
Mông, đặc biệt là trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, mà Trần Nhân Tông phải
đích thân chỉ đạo. Tư tưởng chủ đạo của Thiền
đời Trần sớm đã do Quốc sư Trúc Lâm nói với vua Trần Nhân Tông, khi
vua Thái Tông lên núi Yên Tử, muốn xuất gia cầu Phật.
"Sơn bổn vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm tịch nhi tri, thị danh chân
Phật". Nghĩa là "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm
lặng mà biết, đó là Phật thật". Nói
cách khác, hãy tu tập tâm, rèn luyện tâm để
tâm trở thành vắng lặng, sáng suốt thì sẽ thành Phật, chứ không
nhọc cầu ở đâu bên ngoài, dù là ở trên
núi, trong chùa hay là trong kinh sách. Chùa hay kinh sách chỉ là phương
tiện dẫn tới Phật, chứ không phải là Phật thật. Phật thật chính là lòng
mình, được làm cho vắng lặng và sáng
suốt. Muốn cho lòng được vắng lặng và
sáng suốt, thì phải sống nếp sống đạo đức
Phật giáo, giữ năm giới, mười thiện, thấy vị ngọt nhưng cũng thấy mối nguy
của các dục vọng, sống luôn chánh niệm tỉnh giác, sống giữa đời mà
không lụy với đời, giữa thanh sắc mà
không vướng mắc thanh sắc, đúng như trong
kinh Kim Cang nói:
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
Nghĩa là tâm của người ngộ đạo không trụ,
không chấp trước, không vướng mắc vào thanh sắc, vào ngoại trần,
nhờ đó mà
được hoàn toàn tự do, tự tại, thật sự giải thoát,
đạt tới sự vắng lặng sáng suốt của bậc Thánh.
Tâm vắng lặng sáng suốt, đó là bí yếu nên sức mạnh của Phật giáo
đời Trần, sức mạnh của dân tộc ta dưới đời
Trần.
Phật giáo đời Trần tạo cho người hiểu đạo
sức mạnh của nội tâm, là sức mạnh thật sự.
Đó là sức mạnh của Trần Thái Tông, khi
ông tuyên bố có thể rời bỏ ngai vàng lúc nào cũng
được, như bỏ chiếc giày rách.
Đó là sức mạnh của Trần Bình Trọng,
khi ông thét vào mặt quân Nguyên, muốn dụ dỗ mua chuộc ông: "Thà làm ma
phương Nam, không thèm làm vương phương Bắc", là sức mạnh của Phạm Ngũ Lão
ngồi đan sọt giữa đường, quân lính của Trần
Hưng Đạo thọc dáo vào đùi, vẫn
ngồi yên không đứng dậy v.v...
Sức mạnh Phật giáo đời Trần còn ở chỗ
đó là Phật giáo không phải riêng của Tăng
lữ, mà là của mọi người. Trong cuốn Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông
viết:
"Mạc vấn đại ẩn, tiểu ẩn, hưu biệt tại
gia xuất gia, bất câu Tăng tục, chỉ yếu biện tâm ..."
Ý tứ là: Không thể là ẩn dật lớn hay ẩn dật nhỏ, không kể là xuất gia
hay tại gia, không kể là Tăng hay tục, chỉ
cần biện tâm...
Biện tâm, theo Trần Thái Tông là tu tập tâm, tìm hiểu tâm, rèn luyện
tâm, từ tâm mê mờ biến thành tâm sáng suốt, từ tâm hướng tà biến thành tâm
hướng thiện, từ tâm tán loạn biến thành tâm
định tĩnh. Người nào biết biện tâm như vậy, tức là người
đó sẽ là bậc Thánh trong
đạo Phật, dù có tu ở trong chùa (ẩn
dật nhỏ), hay là sống ngoài đời (ẩn dật lớn).
Một đạo Phật hướng nội, biện tâm, một đạo Phật của mọi người ...
đó chính là sức mạnh của
đạo Phật đời Trần, của phái Thiền Trúc Lâm Yên
Tử, là những giá trị tinh thần bất hủ, là vũ khí giúp dân tộc ta ba lần
chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông, đã
từng làm mưa làm gió trên một nửa phần Châu Á và Châu Âu, thời bấy giờ.
Trong bài thơ vịnh Yên Tử, nhà Nho Phạm Sư Mạnh, tuy không có cảm tình
với Phật giáo, vẫn thốt lên những câu xác nhận mối quan hệ giữa Yên Tử và
cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông dưới đời
Trần:
"Nhớ xưa Trần Trung Hưng,
Khéo xoay vần trời đất,
Ngàn chiến thuyền mặt nước,
Ngàn cờ tinh đầu non,
Trở tay vựng xã tắc,
Hôi tanh sạch giang sơn,
Đến này dân bốn bể
Lâu dài ghi thắng Nguyên ..."
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (Ban Phật giáo Việt Nam) vừa rồi có
nhận được từ ngoài Bắc hai tài liệu
đáng quý về Trần Nhân Tông:
Một là một số bức ảnh về chùa Minh Khánh, nơi Trần Nhân Tông lui tới
nhiều lần, và có để lại một huyết thư và
chín viên ngọc Xá-lợi. Theo sử liệu, thì sau khi Pháp Loa tổ chức hỏa
táng, Xá-lợi của Trần Nhân Tông được chia làm
ba phần: một phần để ở tháp Huệ Quang trên
Yên Tử, một phần để ở tháp Phổ Minh, tại làng
Tức Mặc, quê hương nhà Trần, và một phần thứ ba
để tại Đức Lăng, hiện không rõ ở
đâu. Phải chăng Đức Lăng chính là xã
Thanh Bình, huyện Nam Thanh (Hải Hưng), nơi có chùa Minh Khánh, nơi nhân
dân đã phát hiện ra Xá-lợi của Trần
Nhân Tông, bốn đạo sắc của nhà Hậu Lê,
nói về bức huyết thư của Trần Nhân Tông để
lại chùa. Do đó, chùa
đã được
Bộ Văn hóa phát bằng công nhận là Di tích Lịch sử có ý nghĩa quốc
gia. Tôi có đem theo đây ba bức ảnh về cảnh
chùa, do Ban Trùng tu chùa gởi cho thầy Mạn
Đà La, tôi cũng xin phép giới thiệu
cho quý vị xem. Cửa chùa gọi là Trúc Lâm môn (cửa Trúc Lâm). Câu
đối hai bên cửa chùa.
"Minh Khánh thiên thu Nhân miếu phụng,
Thanh Bình vạn cổ huyết thư hương".
Có nhắc tới Trần Nhân Tông và bức huyết thư của ngài. Thanh Bình là tên
xã và Minh Khánh là tên chùa. Hiện nay Ban trùng tu chùa Minh Khánh
đang tổ chức tu bổ lại chùa, dựng lại
tam quan và soạn một cuốn sách nhỏ "Vua Trần Nhân Tông và chùa Minh Khánh"
nhằm giới thiệu chùa, kêu gọi sự đóng góp của
đồng bào Phật tử trong nước và hải ngoại
để cho công việc trùng tu chùa
được hoàn thành nhanh chóng.
Tài liệu thứ hai mà Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhận
được là Viện Hán Nôm, thuộc Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam. Một bản thảo sưu tập mang
đầu đề “Chùa cổ Việt Nam" với gần 500
mục từ, sắp xếp theo vần ABC, dựa vào xử lý, tổng hợp 150 thư tịch thuộc
loại tài liệu cơ bản. Hiện chúng tôi đã
giao cho Ban Phật giáo Việt Nam, thuộc Viện chúng tôi
đọc và nhận xét về giá trị khoa học
của bản thảo.
Tôi hy vọng Thiền viện Trúc Lâm, dưới sự hướng dẫn của Thượng tọa Thích
Thiện Châu và sự cộng tác của quý vị, của
đông đảo các nhà Phật học Việt kiều tại Pháp, sẽ trở thành một
trung tâm Phật học có tầm cỡ quốc tế sẽ nghiên cứu theo chiều sâu và giải
quyết nhiều vấn đề mà giới Phật học
quốc tế đang quan tâm.
Và, với tư cách Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tôi xin
chính thức đặt vấn đề phối hợp công tác nghiên
cứu giữa Thiền viện Trúc Lâm của quý vị và Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam, nhằm nghiên cứu và làm sáng tỏ một loạt vấn
đề Phật học Việt Nam và quốc tế. Hình
thức hợp tác có thể là trao đổi các công trình,
tài liệu nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu chung một số vấn
đề Phật học Việt Nam và quốc tế. Thí
dụ một số vấn đề mà hiện nay Phật giáo
Việt Nam và Ban Phật giáo chuyên môn, trực thuộc Viện chúng tôi
đang nghiên cứu và
đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa
học, như "Những đặc điểm của Phật giáo Việt
Nam” (khác với Phật giáo Trung Hoa), “Thiền học của Trần Thái Tông”, “Phái
Thiền Trúc Lâm Yên Tử", "Phân kỳ và phân phái trong lịch sử Phật
giáo Ấn Độ”, “Đạo đức Phật giáo”, “Giáo dục
Phật giáo”, “Thiền Việt Nam” v.v...
Vì Thiền viện Trúc Lâm tọa lạc gần thành phố Paris có
được nguồn thông tin cập nhật và phong
phú. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam rất mong
được Thiền viện Trúc Lâm cung cấp kịp thời và
đầy đủ những tư liệu thông tin đó.
Để kết thúc b ài nói chuyện của tôi, tôi xin thành tâm cầu chúc
cho Thiền viện Trúc Lâm của Thượng tọa Thích Thiện Châu và quý vị sẽ
đóng vai trò xứng
đáng như là biểu trưng sinh
động cho nền Phật giáo của dân tộc tại hải
ngoại, tại nước Pháp, ở đây có đông đảo Phật tử Việt kiều, thường xuyên
hướng về Tổ quốc thân yêu, và Phật giáo nước nhà.
18. XUÂN VỀ VỚI NHỮNG LỜI
PHẬT DẠY
Hôm nay là ngày mồng một Tết năm
Tân Mùi 1991, chư vị Thượng tọa, Đại
đức, Tăng, Ni, quý vị Phật tử và thân hữu, quy tụ tại Thiền viện
Vạn Hạnh này lễ Phật, nghe Pháp đầu năm, nói
lên lòng tôn kính chân thành của hàng Phật tử xuất gia và tại gia
đối với bậc Đạo sư chí tôn chí kính. Trong
không khí trang nghiêm trân trọng của buổi lễ
đầu năm, chúng ta hãy lắng nghe một số
lời dạy căn bản của đức Thế Tôn, trên
con đường hoằng hóa độ sanh của Ngài.
Tại Vương Xá, Ambalatthika, Nalanda v.v... Thế Tôn nhấn mạnh và
nhắc đi nhắc lại nhiều lần ba pháp Vô lậu học
Giới, Định, Tuệ mà mọi đệ tử xuất gia
cần phải hành trì: "Đây là
Giới, đây là
Định, đây là Tuệ.
Định cùng tu với Giới sẽ
đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng
tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích
lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến
giải thoát hoàn toàn các lậu hoặc, tức là Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh
lậu" (Kinh Đại Bát-niết-bàn, tr.
84).
Tại Pataligàma, Thế Tôn giảng cho các cư sĩ ở
đây năm sự nguy hiểm cho những ai phạm giới
sống trái với luật:
"Ở đây này các Gia chủ, người phạm
giới sống trái với luật sẽ bị tiêu hao tiền của rất nhiều, vì sống phóng
dật. Đó là
điều nguy hiểm thứ nhất cho những ai phạm
giới, sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật bị
tiếng dữ đồn xa. Đó là
điều nguy hiểm thứ hai cho những ai
phạm giới, sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật khi vào
đồ chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ,
hoặc Bà-la-môn, hoặc Gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy
đi vào với tâm thân sợ hãi bối rối.
Đó là
điều nguy hiểm thứ ba cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái với luật sẽ chết
với tâm hồn rối loạn. Đó là
điều nguy hiểm thứ tư cho những ai phạm giới,
sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sau khi
thân hoại mạng chung, sẽ bị sanh vào khổ cảnh, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Đó là
điều nguy hiểm thứ năm cho những ai phạm
giới, sống trái giới luật.
"Này các Gia chủ, đó là năm
điều nguy hiểm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Này các Gia chủ, có năm sự lợi ích cho
những ai giữ giới, sống theo giới luật. Thế nào là năm?
"Ở đây này các Gia chủ, người giữ
giới, sống theo giới luật sẽ có tiền của dồi dào, vì sống không phóng dật.
Đó là sự lợi ích thứ nhất cho những ai
giữ giới, sống theo giới luật".
"Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật
được tiếng tốt đồn xa. Đó là sự lợi
ích thứ hai cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật khi
đi vào đồ
chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn,
hoặc Gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào
với tâm thần không sợ hãi, không bối rối. Đó
là lợi ích thứ ba cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, sau khi
thân hoại mệnh chung với tâm hồn không rối loạn.
Đó là sự lợi ích thứ tư cho những ai
giữ giới, sống theo giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, sau khi
thân hoại mạng chung sẽ được sanh vào
thiện thú, thiên giới, c õi
đời này.
Đó là sự lợi ích thứ năm cho những ai
giữ giới, sống theo giới luật. Này các Gia chủ,
đó là năm
sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống theo giới luật”.
Tại Kotigàma, Thế Tôn dạy cho các Tỳ kheo bốn Thánh
đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nguyên nhân và
con đường khởi lên và
đoạn diệt sanh tử luân hồi.
"Này các Tỳ kheo, chính không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Thánh
đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân
hồi lâu năm. Ta và các ông. Này các Tỳ
kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ tập thánh
đế, Khổ diệt Thánh đế, Khổ diệt đạo Thánh đế
mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm,
Ta và các ông. Này các Tỳ kheo khi Khổ Thánh
đế này
được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ tập Thánh đế này
được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ diệt
Thánh đế này được giác ngộ, được thông
hiểu, khi Khổ diệt đạo Thánh đế này
được giác ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái được diệt trừ, sự dắt dẫn đến
một đời sống được đoạn tuyệt, nay không còn hậu hữu nữa".
Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ lại nói thêm:
"Chỉ vì không thấy như thật Bốn Thánh đến
nên có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều
đời”.
"Khi những sự thực này được nhận thức,
nguyên nhân của một đời sống khác được
trừ diệt”.
"Khi khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn
một đời sống khác nữa”.
Tại Vadikà, Thế Tôn giảng về Gương pháp (Pháp kính), chính nhờ soi vào
gương này, phàm là đệ tử xuất gia hay tại
gia, chứng đạt pháp này sẽ tự tuyên bố về mình như sau:
"Đối với Ta, sẽ không còn
địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi
bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta sẽ
chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác”.
"Này Ananda, Pháp kính ấy là gì mà Thánh
đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên bố về
mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn
địa ngục, sẽ không tái sinh cõi bàng
sanh, ngạ quỷ, ác xứ, ác thú. Ta đã
chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo,
sẽ đạt Chánh giác”? Này Ananda, vị Thánh
đệ tử có chánh tín đối với Phật: “Thế Tôn là
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Vị ấy có chánh tín
đối với Chánh pháp: “Chánh pháp được Thế Tôn khéo giảng dạy, thiết thực,
vượt ngoài thời gian chi phối, đến để
mà thấy, đưa đến giải thoát, được kẻ
trí tự mình thâm hiểu". Vị ấy có chánh tín
đối với chúng Tăng: “Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn
chân trực tu hành, chúng Tăng đệ tử
Thế Tôn chân trí tu hành, chúng Tăng
đệ tử Thế Tôn chân tịnh tu hành, tức là bốn
đôi tám vị. Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn đáng
được nghênh đón, đáng được cúng dường,
đáng được chiêm ngưỡng, đáng được chắp
tay, là phước điền vô thượng ở trên
đời”. Vị ấy đầy đủ giới hạnh, được bậc Thánh
mến chuộng, được viên mãn không manh múng,
được vẹn toàn không sứt mẻ, không tỳ
vết, không ô nhiễm, những giới hạnh đưa đến
giải thoát, được người trí tán thán, hướng dẫn đến Thiền định.
"Này Ananda, chính Pháp kính này mà Thánh
đệ tử sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên bố về
mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn
địa ngục, sẽ không tái sanh cõi bàng
sanh, ngã quỷ, ác xứ, ác thú Ta đã
chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo,
sẽ đạt Chánh giác”.
Chính tại Beluvà, Thế Tôn khích lệ Tôn giả Ananda và các vị Tỳ kheo:
"Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một gì
khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này Ananda,
thế nào là vị Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một gì khác, dùng
Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh
pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác".
"Này Ananda, ở đời vị Tỳ kheo, đối với
than, quán thân, tinh tấn, giác tỉnh, chánh niệm, nhiếp phục mọi
tham, ái, ưu, bi trên đời;
đối với các cảm thọ ...
đối với tâm ...
đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, giác
tỉnh, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham, ái, ưu, bi trên
đời.
Này Ananda, như vậy Tỳ kheo tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, tự mình y tựa
chính mình, không y tựa một gì khác dùng Chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ tựa,
không nương tựa một gì khác".
Tại Kùtàgàra, Thế Tôn cho mời tất cả vị Tỳ kheo và tổng kết lại những
pháp môn mà Ngài đã giảng dạy.
"Này các Tỳ kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các
ông, các ông phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng
để Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì
hạnh phúc cho Chúng sinh, vì an lạc cho Chúng sinh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho loài Trời và loài Người. Này các Tỳ kheo, thế nào là các pháp
do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các ông phải khéo học hỏi, thực chứng, tu
tập và truyền rộng để cho Phạm hạnh được
trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho Chúng sinh, vì an lạc cho
Chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là bốn
Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm
Căn, năm Lực, bảy Bồ đề phần, tám Thánh đạo phần. Này các Tỳ kheo,
chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà các ông phải khéo
học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để
Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho Chúng sinh,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi
ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".
Trên đây là một số lời dạy của
đức Phật trong những năm truyền giáo của Ngài,
những lời dạy mà các hàng Phật tử chúng ta cần phải khắc cốt ghi tâm những
lời dạy nếu thực hành sẽ đưa chúng ta đến con
đường giải thoát và giác ngộ, sẽ giúp chúng ta ngay trong
đời sống hiện tại và trong tương lai,
sống được an lạc và hạnh phúc.
Chúng tôi nghĩ rằng với những lời dạy thiết thực của một bậc
Đạo sư đã nhiệt tình thương tường
chúng ta, muốn chúng ta được sống an lạc và
hạnh phúc, thời trách nhiệm chung của chúng ta là xây dựng cuộc sống hiện
hữu này, trở thành một môi trường Phật giáo lý tưởng
để tất cả chúng ta, xuất gia và tại
gia đều có thể sống và hành trì theo
những lời dạy của bậc Đạo sư.
Chúng ta sẽ cố gắng liễu tri lời Phật dạy thông qua các lớp dạy kinh
điển, trở thành như
đạo tràng thuyết pháp
đem lại cho chúng ta vô lượng pháp lạc và
giúp ta tìm hiểu giáo lý của đức Thế Tôn càng
ngày càng sâu rộng. Chúng ta sẽ thể hiện nếp sống
đạo Phật thông qua các hình thức tu
tập Bát quan trai giới và các lớp Thiền học, là thế nào cho các việc tu
tập Bát quan trai và Thiền hành trở thành những suối nguồn Thiền lạc cho
mọi người hành trì. Chúng ta hãy cố gắng làm thế nào cho mọi Phật tử là
những người có lòng tin sáng suốt, giữ giới đã
phát nguyện, học tập giáo lý, làm các hạnh lành về thân về lời, về ý, sống
một nếp sống lành mạnh, hoan hỷ, tích cực, theo
đúng tinh thần đạo đức Phật giáo.
Chúng ta, trong khả năng của mình
sống theo tinh thần lục hòa, thông cảm nhau, tìm hiểu nhau, tha thứ cho
nhau, giúp đỡ lẫn nhau đem lại niềm hạnh phúc
và an lạc cho mọi người.
(Bài giảng đầu Xuân Tân Mùi
1991 tại Thiền viện Vạn Hạnh)
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 | 06
|
|