|
 |
Chánh Pháp và
Hạnh Phúc
Hòa thượng
Thích Minh Châu |
 |
11. SỐNG THEO LÝ TƯỞNG BỒ
TÁT
Trong đạo Phật có
hai tư trào, hai xu thế tựa hồ như mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra
thì bổ sung hỗ trợ cho nhau; cả hai tư trào
đó đều có ý nghĩa đối với cuộc sống của con người hiện đại.
Thứ nhất là tư trào hướng nội, quay trở về cái mà
đạo Phật thường gọi là bộ mặt thật xưa
nay của chính mình, con người thật của mình.
Thứ hai là tư trào hướng ngoại, mà sách Phật thường gọi là lợi
hạnh độ sanh. Lợi hạnh là làm tất cả
mọi điều lợi ích cho tất cả mọi loài
hữu tình. Độ sanh là giải thoát mọi
loài hữu tình khỏi mọi nỗi bất hạnh, đặc biệt
là nỗi bất hạnh lớn lao nhất là sống chết luân hồi. Thực chất của
tự trào hướng ngoại này là đồng nhất cá nhân
mình với toàn thể mọi người, mọi chúng sinh trong thế giới vũ trụ.
Cả hai xu hướng nói trên tiêu biểu cho hai hạnh lớn của
đạo Phật là trí tuệ và từ bi,
và đức Phật là bậc Thánh
được Phật tử toàn thế giới ca ngợi,
tôn sùng như là thể hiện một cách hoàn hảo nhất hai
đức hạnh trí tuệ và từ bi
đó.
Tôi xin lần lượt phân tích cặn kẻ hơn hai xu thế của
đạo Phật, mà tôi tin rằng có một giá
trị hiện sinh lớn (great exitstential dimension)
đối với thời đại hiện nay của chúng ta.
1. Xu thế hướng nội: Quay về con người thật của chính mình.
Chúng ta có thể suy nghĩ gì về cuộc sống thác loạn, chạy theo lạc thú
vật chất đang là
đặc trưng nổi bật của những xã hội có
trình độ văn minh vật chất cao, và cả
của những xã hội đang phát triển, nhưng bị
nền văn minh đó làm cho mê hoặc và chói lòa? Có sức mạnh sâu kín gì
nằm ở đằng sau những tệ nạn xã hội như
ma túy, tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, mãi dâm, loạn dâm và bạo
dâm, đồng tính luyến ái, bệnh tâm thần, nạn
tự sát cá nhân hay tập thể v.v ... ? ở
đằng sau tất cả nếp sống thác loạn đó là xu thế của con người bất
hạnh muốn thoát khỏi cái ta hạn hẹp và vị kỷ, muốn thoát khỏi một tâm
trạng bất an và ưu tư dai dẳng, thường trực mà tiếng Anh gọi bằng danh từ
chung là anxiety. Nhưng vì sao lại có tâm trạng bất an và ưu tư thường
trực đó mà con người hiện
đại muốn tìm sự lãng quên trong nếp
sống thác loạn, đôi khi mất cả tính người.
Phải chăng là con người tưởng rằng,
vì nội tâm đầy ưu tư và buồn chán, cho
nên phải hướng ra bên ngoài để tìm lạc
thú vật chất? Phải chăng con người tưởng rằng
càng chiếm hữu nhiều của cải và tiện nghi vật chất, con người sẽ
càng được thêm hạnh phúc, mọi nỗi ưu
tư trong nội tâm sẽ được xóa bỏ.
Ảo tưởng này đâu có mới mẻ mà có
tính muôn thuở ở ấn Độ cổ đại, đã từng
có triết phái Duy vật (Carvaka) chủ trương như thế. Và ở thành phố Athène
thời Socrates, có những triết gia thuộc phái ngụy biện (Sophistes) cũng
đã từng bênh vực cho một lối sống
khoái lạc vật chất tối đa như là một
lối sống lý tưởng, xứng đáng được con người
mơ ước.
Đạo Phật nói đó l à ảo tưởng của những người khát nước mà còn
ăn mặn, và càng
ăn mặn càng bị khát.
Đạo Phật vạch ra rằng, nỗi bất an và
ưu tư nội tâm chỉ có thể giải quyết ở trong nội tâm, chứ không thể giải
quyết ở bên ngoài. Phương pháp tu Thiền của
đạo Phật – mà người phương Tây quen gọi là
đạo Phật Thiền (Zen Buddhism) chính là
phương pháp giúp cho con người trở về với nội tâm mình
để giải quyết một cách căn bản mọi nỗi ưu tư
và bất an của nội tâm. Nội tâm chúng ta không khác gì mặt nước hồ,
bị những đợt gió dục vọng chạy theo ngoại
cảnh làm cho nổi sóng và vẩn đục.
Chúng ta ưu tư chúng ta bất an chính vì chúng ta hằng ngày sống với
cái nội tâm nổi sóng đó, trong khi cả lớp
nước hồ sâu thẳm, trong lặng thì chúng ta bỏ quên như là xa lạ,
không phải của mình.
Mục đích của Thiền không ở ngoài
việc chỉ bày cho chúng ta những phương pháp thích hợp
để làm cho bề mặt của nội tâm ta không
còn nổi sóng, không còn dao động, để có thể
nhìn sâu vào những lớp nội tâm rộng lớn, trong lặng vốn là cái tâm
thật của chúng ta, chân tâm của chúng ta.
Nội tâm con người, từ bề mặt cho đến những
bề sâu, một khi được làm cho vắng lặng, thì sẽ trong sáng như
gương, sẽ là nguồn an lạc và hạnh phúc, sẽ là chân lý là ánh sáng, là Niết
Bàn. Phương pháp tu Thiền rất nhiều vì bản tính con người muôn vàn sai
biệt, người thì độn căn, người lợi căn, có
người nặng về tham, có người lại sân và si nhiều; hay là ngược lại.
Thế nhưng mục đích cuối cùng phải
đạt tới của mọi phương pháp tu Thiền là
an tịnh nội tâm, làm vắng lặng và trong sáng nội tâm, biến nội tâm từ dao
động trở thành yên tịnh, từ mê mở trở
thành sáng suốt. Tâm sáng suốt, đó chính là
trí tuệ Bát-nhã, chính là cái mà sách Anh ngữ thường gọi là trí tuệ siêu
việt Transcendental wisdom. Có được trí tuệ
Bát-nhã, thì tức là thành Phật, bậc Thánh nhìn thấy tất cả biết hết
tất cả (Omnicient).
Một ông vua mà giới sử học quốc tế thường biết
đến như là một anh hùng
đã lãnh
đạo quân dân Việt Nam hai lần chiến thắng đội quân xâm lược Nguyên
Mông vào thế kỷ XIII, đội quân đã từng
làm mưa làm gió trên các chiến trường châu âu, và Châu Á thời bấy giờ. Ông
vua đó Trần Nhân Tông. Ông vua đó, sau khi
đánh bại quân Nguyên Mông đã
không chịu ở lại ngôi vua để tận hưởng vinh
quang của chiến thắng, mà đã
nhường ngôi cho con, xuất gia theo đạo Phật,
trở thành vị Thiền sư lỗi lạc, lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Những tác phẩm Phật học của ông, toát lên nhiều tư tưởng kỳ
đặc. Một trong những tư tưởng đó là
theo nguyên văn lời ông.
"Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa,
Nhân khuẩy bổn nên ta tìm Bụt,
Cốc mới hay chính Phật là ta".
(Cư Trần Lạc Đạo Phú - hội 5)
Nghĩa là theo Trần Nhân Tông, con người thật của chúng ta chính là
Phật, và chính vì chúng ta quên mất cái bổn, cái gốc
đó cho nên chúng ta mới là chúng sinh,
có trí óc mê muội và thân tâm đau khổ bất
hạnh. Niềm ưu tư, bất an có thường trực trong nội tâm của chúng ta chính là
bắt nguồn từ ở chỗ chúng ta quên mất con người thật của chúng ta là Phật,
sống với con người giả của chúng ta là chúng sinh.
Đạo Phật của Trần Nhân Tông cũng như của đời
Trần nói chung là một đạo Phật hướng
nội rất rõ nét, rất sinh động. Trên
từ vua cho đến các quan lại, tướng lãnh,
binh sĩ, dân thường nếu mọi người đều tin
rằng mình là những vị Phật sẽ thành, do
đó ngay trong hiện tại phải sống xứng đáng
với vị Phật ở trong mình, sống với những
đức hạnh của Phật như là từ bi, trí
tuệ, dũng khí, vô úy... thì hãy hỏi có giặc ngoại xâm nào,
kể cả quân đội Nguyên Mông thiện
chiến, có thể xâm phạm bờ cõi Việt Nam mà không bị
đánh bại.
Cổ đức có câu:
"Khổ hải vô biên,
Hồi đầu thị ngạn".
Nghĩa là:
"Biển khổ mênh mông,
Nhưng quay đầu lại thì sẽ thấy bờ
ngay".
Quay đầu lại hướng về nội tâm, quay đầu
lại sống với con người thật của mình, và con người thật
đó chính là Phật với
đầy đủ hai đức hạnh trí tuệ và từ bi.
Đó chính là phương thuốc mà
đạo Phật có thể cống hiến cho con người hiện
đại, con người hiện nay đang lãng đãng
như khách phong trần trên khắp các nẻo đường,
tìm kiếm sự thật và hạnh phúc, tuy biết rằng sự tìm kiếm
đó là vô vọng.
Đạo Phật nói: Thôi hãy
đừng tìm kiếm
đâu xa nữa? Hãy trở về với chính mình,
với con người thật của mình.
Trần Nhân Tông, nhà vua–Thiền sư mà tôi đã
giới thiệu trên đây có hai câu thơ chữ
Hán:
"Gia trung hửu bán hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền".
Nghĩa là:
"Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm
Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền".
Trong nhà có sẵn ngọc, không cần tìm kiếm
đâu xa nữa, cũng như nói chính mình là Phật rồi, thôi
đừng cầu Phật, tìm Phật ở
đâu xa nữa. Và vì
đã là Phật, cho nên ngoại cảnh dù có
biến đổi, hấp dẫn như thế nào cũng
không thể ảnh hưởng chi phối. Nội tâm con người vẫn bình lặng.
Đã bình lặng thì sáng suốt, không gì
không thấy, không biết. Và đó chính là
Thiền rồi, cũng không cần học hỏi Thiền làm gì.
2. Xu thế hướng ngoại: Một cuộc sống hoàn toàn vô ngã, vị tha, tích
cực, năng động, phong phú.
Con người, sau một quá trình tìm kiếm lâu dài không có kết quả, cuối
cùng biết trở về với chính mình, thì bỗng thấy cái gọi mình là ta thực ra
không tồn tại. Cả thân và tâm chỉ là một dòng, một chuỗi hiện tượng tâm và
sinh lý biến chuyển liên tục trong từng sát na một và ở bên trong hay là ở
đằng sau dòng chảy liên tục
đó, không có một cái gì gọi là linh
hồn hay là cái ta vĩnh cửu.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Suragama) một
bộ kinh Đại thừa quan trọng đã minh
họa thuyết Vô ngã của đạo Phật bằng một ảnh
dụ rất sinh động và cụ thể: "Cũng như trăm
ngàn biển cả trong lặng mênh mông, mà bỏ
đi tất cả rồi chấp nhặt một bọt nước làm
mình...". Chấp thân tâm này là ta, cũng như biển cả quên mình là biển
cả rồi chấp nhặt một bọt sóng là biển cả.
Con người giác ngộ lý vô ngã của nhà Phật, phát hiện thấy mình không
phải là cái bọt nước, mà là cả đại dương rộng
lớn, mình là đồng một thể với tất cả
mọi người, mọi chúng sinh, mọi loài hữu tình, và từ nhận thức
đầy trí tuệ này, con người phát ra một
lòng từ rộng lớn, lòng bi rộng lớn, nguyện làm tất cả những gì có thể làm
được vì lợi lạc của tất cả chúng sinh,
của tất cả mọi loài. Sống như vậy, đạo Phật
gọi là sống theo lý tưởng Bồ-tát (Bodhisattva ideal).
Đó là lý tưởng sống hòa nhập vào mọi
người, mọi chúng sinh, đúng theo nguyên
lý mọi người, mọi chúng sinh đều bình
đẳng, cùng một thể.
Tôi tin rằng lý tưởng Bồ-tát, như được trình
bày trên đây, là một lý tưởng có giá
trị hiện thực lớn đối với thế giới hiện đại,
vì các tôn giáo lớn trên thế giới đều
có thể chấp nhận và thực hiện lý tưởng Bồ-tát của
đạo Phật trên những mức
độ khác nhau, và với những tên gọi
khác nhau.
Đạo Gia-tô nói: “H ãy thương người như thể thương mình".
Đạo Hồi nói: “Người Hồi giáo trong bốn biển
đều là anh em". Đạo Phật nói: “Hãy
yêu thương tất cả chúng sinh như người mẹ yêu thương
đứa con một của mình".
Tất cả những lời lẽ khác nhau đó đều nói lên
một nội dung thống nhất là tình thương rộng lớn, bao trùm lên mọi người
không phân biệt chủng tộc và dân tộc, màu da và giới tính v.v...
Tình thương rộng lớn đó phải là nét
đặc trưng nổi bật nhất của một trật tự đạo
đức mới, rất cần thiết cho xã hội và thế giới hiện
đại, ở phương Tây cũng như phương Đông.
Đạo Phật khuyến cáo mọi người h ãy quay về với người thật của
mình, thế nhưng con người thật của chúng ta lại là vô ngã. Nó không hạn
chế trong cái thân và tâm vô thường hạn hẹp này, nó là cũng một thể với
tất cả mọi người, mọi chúng sinh và mọi loài hữu tình khác. Và sống hòa
nhập với mọi người, mọi chúng sinh chính là lối sống vô ngã vị tha theo lý
tưởng Bồ-tát.
Nói tóm lại, hướng nội để tìm con
người thật của chính mình. Nhưng sau khi phát hiện con người thật của mình
lại không có mình không có ta, lại là vô ngã,
đồng nhất thể với tất cả mọi người, mọi chúng sinh khác, cho nên
đạo Phật lại chủ trương một cuộc sống năng
động tích cực, hướng ngoại không phải là
để tìm và hưởng thụ những lạc thú vật
chất tầm thường và phi đạo đức, mà là
để mưu lợi ích và
đem lại an lạc cho mọi người, mọi loài
Trong cả hai xu thế hướng nội và hướng ngoại này, nổi bật lên chủ thuyết
Vô ngã của đạo Phật, nó không khác gì
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ giáo lý,
đạo đức và thực tiễn tu hành của
đạo Phật.
Khi đức Phật còn tại thế và cả sau
khi Ngài đã nhập diệt, tại bất cứ nơi
nào đạo Phật có mặt thì lý tưởng vô
ngã vị tha bao giờ cũng là chuẩn mức bất di dịch của nếp sống
đạo đức Phật giáo, đối với người xuất gia
cũng như người tại gia. Lý tưởng đó chói sáng Phật giáo Nguyên thủy
cũng như Phật giáo phát triển, Phật giáo Nam tông cũng như Phật giáo Bắc
tông, hồi Phật còn tại thế cũng như mãi mãi về sau này. Bất cứ mọi người
nào mà chối bỏ lý tường đó, sống ngược lại
với lý tưởng đó, thời không thể được xem như là người Phật tử chân
chính, chứ đừng nói gì
đến bậc A-la-hán. Ấy thế mà vẫn có
người viết sách phê phán, lý tưởng của A-la-hán là vị kỷ hẹp hòi. Họ không
hiểu rằng muốn thành A-la-hán, điều kiện tiên
quyết là phải diệt trừ mọi tư tưởng về cái ta, phải giác ngộ về lý vô ngã
vị tha.
Chúng ta hãy nghe lại lời đức Phật khuyến
dụ lớp học trò đầu tiên của
Ngài:
"Này các Tỳ kheo, các người cần phải tu hành, vì an lạc cho số
đông, vì hạnh phúc cho số
đông, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì hạnh phúc của chư Thiên và
loài Người..." (Mahavagga, 19)
Cần nhắc lại rằng, sớm từ năm 300 trước
Công nguyên, vào một thời mà đạo Phật
Đại thừa chưa hưng khởi thì Hoàng đế
Asoka ở Ấn Độ đã phái nhiều đoàn
truyền giáo mang thông điệp của đức Phật
Thích-ca đến tận các xứ Xiri, Hy Lạp, Ai Cập và Bắc Phi và nhiều
vùng xa xôi khác trên thế giới. Theo truyền thuyết, một phái
đoàn truyền giáo của Asoka
đã đến
tận nước Việt Nam, và có xây một bảo tháp ở
đây. Truyền giáo ở đất nước xa xôi, bất chấp
những trở ngại về ngôn ngữ, phong tục tập quán v.v... là một
hành động không những vị tha mà còn
dũng cảm nữa. Và đã có biết bao nhiêu
người đi mà không trở về trong sự
nghiệp truyền giáo của các tôn giáo lớn trên thế giới.
Thiếu sót cơ bản của con người hiện đại là
đã đánh
mất con người thật của chính mình, mà chạy theo cái Ta giả với
những khao khát thèm muốn không bao giờ có thể thỏa mãn. Con người hiện
đại ở xã hội văn
minh phương Tây, có thể sống một đời sống tiện nghi vật chất thật
đầy đủ, nhưng chỉ thiếu một cái là
hạnh phúc, là sự an ổn nội tâm để thật sự thụ
hưởng tất cả mọi của cải và tiện nghi vật chất
đó.
Đúng như vậy, của cải v à tiện nghi vật chất, lạc thú vật chất
không thể là mục đích tự nó, và cứu
cánh được Bởi vì, tối thiểu, con người
phải có sự bình tĩnh và thanh thản của tâm hồn mới có thể tận hưởng những
lạc thú vật chất hay tinh thần. Thế nhưng từ lâu, do cuộc sống thác loạn
và hướng ngoại, mất hài hòa với bản thân, với thiên nhiên và xã hội, con
người của xã hội văn minh phương Tây đã
đánh mất sự bình tĩnh và thanh thản
đó của tâm hồn, là
điều kiện tiên quyết và cơ bản của một
hạnh phúc chân chính và thật sự.
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, Socrates đã
vạch ra tất cả sự vô nghĩa lý của một lối sống tôn thờ khoái lạc vật chất
như là độc nhất và tối thượng. Chúng
ta có thể đọc lời phê phán sắc sảo
đó của Socrates trong bài
đối ngoại Phillebus của Plato. Trong cuộc đàm
thoại, Socrates đã dẫn
đối phương của mình là Protarchus
đến kết luận vô lý này là con người
chỉ cần hưởng lạc thú tối đa, ngoài ra
thì không cần gì hết, kể cả lý trí, sự thông minh, trí nhớ, kiến thức và
quan niệm đúng đắn. Nghĩa là theo
Protarchus, con người miễn là được hưởng lạc
thú tối đa, còn thì không cần gì nữa hết, kể cả sự thông minh, lý
trí, trí nhớ v.v...
Socrates nói: "Như vậy thì không có trí nhớ làm sao ông nhớ
được ông đã
được hưởng lạc thú: bởi lẽ ngay sau khi hưởng
lạc thú, ông không còn còn nhớ gì được
hết, và hơn nữa, vì ông cũng không có quan niệm
đúng đắn, ông cũng không nghĩ được rằng ông đã
được hưởng lạc thú, và bởi vì ông cũng
thiếu khả năng lý trí, ông cũng mất khả năng
nhận thức được rằng ông sẽ còn được
hưởng lạc thú trong tương lai. Ông phải sống cuộc sống của con sò
hay là của những con vật sống nào khác mà trú xứ là
đáy biển mà linh hồn bị dấu kín ở
trong vỏ cứng. Có phải tất cả là như thế chăng,
hay là chúng ta có thể nghĩ một cái gì khác?"
Protarchus: "Chúng ta không thể nghĩ khác
được”.
Socrates: "Nếu vậy thì phải chăng chúng ta
có thể nghĩ rằng một lối sống như thế là
đáng mong ước?”
Protarchus: "Này Socrates, lập luận của ông làm tôi
điếc cả tai ..."
Tôi dẫn chứng cuộc đàm thoại của
Socrates để nói rằng con người hiện đại, sống
một cuộc sống văn minh vật chất cao ở cuối thế kỷ XX này vẫn có thể
tiếp tục suy nghĩ ấu trĩ như Protarchus ở Athenes cách
đây hai mươi lăm thế kỷ.
Tất nhiên, đạo Phật một mặt lên án
cuộc sống chạy theo những dục vọng vật chất thấp hèn, mặc khác cũng không
phải đề cao cuộc sống nghèo
đói, kham khổ, đạo Phật lại càng phê
phán lối tu hành hạ xác thân, ép xác khổ hạnh, chỉ làm cho thân người bệnh
hoạn và đầu óc con người u mê.
Đức Phật khuyến chúng ta tránh cả hai cực
đoan chạy theo dục lạc vật chất và sống ép xác khổ hạnh.
Đức Phật khuyến cáo học trò mình cũng
như tất cả mọi người sống nếp sống lành mạnh, giản dị, hướng thượng, chói
sáng đạo đức, giới hạnh và trí tuệ,
một nếp sống mà tất cả mọi người giàu hay nghèo, xuất gia hay tại gia, ở
phương Đông hay phương Tây đều có thể sống
hay hướng đến. Một nếp sống như vậy sẽ đem lại sự bình tĩnh nội tâm
sự sáng suốt của trí tuệ, giúp cho con người có thể thấy
được sự vật như thật. Chính nhờ đó mà
con người có thể sống hài hòa với bản thân và làm chủ bản thân, sống hài
hòa với xã hội, với thiên nhiên. Và trong nhịp sống hài hòa
đó, với bản thân, với xã hội và thiên
nhiên, con người mới tìm thấy hạnh phúc thật sự.
Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận và
sống nếp sống như vậy, thì cả thế giới chiến tranh và bất ổn này sẽ sớm
trở thành một thế giới hòa bình và hạnh phúc, kỷ nguyên XXI sắp tới
đây sẽ trở thành kỷ nguyên của con
người, kỷ nguyên trong đó các giá trị nhân
bản là thước đo, là chuẩn mức
của mọi giá trị, đường ranh giới phân biệt
thật hay giả, thành công hay thất bại, chánh kiến hay tà kiến. Một
kỷ nguyên trong đó con người trở thành
vị quan tòa tối thượng, đánh giá mọi hệ thống
chính trị xã hội, xem hệ thống nào ưu việt,
đầy sức sống, hệ thống nào lỗi thời,
phải cương quyết tự cải tổ lại hay là rút lui khỏi vũ
đài lịch sử.
Xu thế hướng nội, quay về với con người thật của chính mình không thể
bị hiểu nhầm, là tiêu cực, tự thu mình trong tháp ngà. Trên
đây, tôi có nói đến một xu thế khác của đạo
Phật, xu thế hướng ngoại dẫn tới một cuộc sống vị tha tích cực, vì
lợi lạc của tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Trong kinh
điển của Phật giáo Nguyên thủy, có ghi
những lời dạy của đức Phật, khuyến cáo các đệ
tử của mình hãy tích cực hoằng hóa độ
sanh, và nhất là thực hành Bốn nhiếp pháp
để gần gũi chúng sinh, mưu lợi lạc cho chúng
sinh, gần gũi mọi người, đem lợi lạc cho mọi người.
Bốn nhiếp pháp đó là ái ngữ tức là
lời nói dịu hiền, dễ nghe; bố thí tức là giúp
đỡ chúng sinh trên các mặt cung cấp của cải vật chất, giảng giải
đạo lý, giáo pháp của đức Phật, che chở, bảo
vệ chúng sinh nếu cần thiết, và tùy hỷ với tất cả mọi
điều lợi lạc cho chúng sinh; lợi hành
và cuối cùng là đồng sự tức là cùng
làm việc với chúng sinh v.v... Bốn nhiếp pháp, ái ngữ, bố thí, lợi hành,
đồng sự là như vậy, chúng thể hiện nếp
sống vị tha tích cực của đạo Phật. (Xem Tăng
Chi I, 387). Cùng với Bốn nhiếp pháp, người Phật tử giác ngộ về
thuyết vô ngã còn ra sức tu tập, thực hành Bốn vô lượng tâm, tức là mở
rộng lòng từ lòng bi, lòng hỉ, lòng xả, bao trùm tất cả chúng sinh khắp
mười phương. Đồng thời cũng tu tập thực hành
sáu hạnh ba la mật, tức là bố thí, giới hạnh, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền
định, trí tuệ. Sáu hạnh này
được tu tập và thực hành
đến chỗ hoàn hảo, triệt
để sẽ giúp cho những người sống theo lý tưởng
Bồ-tát, có thể vứt bỏ hoàn toàn cái Ta nhỏ hẹp, vị kỷ, sống hòa
nhập vào tất cả chúng sinh, tất cả mọi người.
Đó l à nếp sống của những người Phật tử giác ngộ về lý Vô ngã của
đạo Phật. Nếp sống đó không có gì là
tiêu cực thụ động. Trái lại, nó rất tích cực,
năng động và phong phú, đa dạng. Mong
rằng nó tỏ ra hấp dẫn đối với con người hiện đại, đối với xã hội
hiện đại.
12.
ĐẠO PHẬT VỚI NẾP SỐNG THIÊN NHIÊN
Sau thế chiến thứ hai, loài Người sống lo sợ một
cuộc chiến tranh thế giới nguyên tử, biến quả
đất thành một mùa đông giá rét vĩnh
cửu, trong ấy mọi sinh vật kể cả loài Người,
động vật, thực vật đều bị tiêu diệt,
không một ai sống sót. Trong mấy năm gần đây,
sự lo sợ một cuộc chiến tranh nguyên tử tiêu diệt nhân loại
được cộng thêm với một lo sợ mới là
tai họa hủy diệt môi sinh, tai họa này có thể
đưa nhân loại vào cảnh diệt vong còn mau hơn tai họa chiến tranh.
Như một nhà bảo vệ môi sinh học đã
nói, nếu trong 50 năm nữa, thế giới không
đồng loạt đứng lên bảo vệ môi sinh trên quả
đất này, thời ngôi nhà chung của nhân
loại có thể bị tiêu diệt, môi trường sống của chúng ta sẽ bị hủy hoại,
không gì có thể cứu vãn được. Qua các tài
liệu mới nhất của Tổ chức Liên Hiệp Quốc bảo vệ môi sinh và của một số Tổ
chức quốc tế khác có liên quan, chúng ta có thể biết.
Hằng năm trên thế giới, hàng trăm
triệu tấn đất mùn có giá trị nông nghiệp bị hủy hoại do tệ phá rừng
và xử lý đất đai không hợp lý. Hàng năm
trên dưới 3000 cây số vuông đất nông
nghiệp màu mỡ bị mất do xây dựng nhà cửa và
đường sá, chỉ tính riêng tại các nước
phát triển. Ở các nước nghèo thuộc thế giới thứ ba, môi trường tự nhiên bị
hủy hoại theo một kiểu khác. Nông dân đốt
rừng để làm rẫy, chặt cây để có củi
đun nấu; ở một số nước xuất khẩu gỗ, nạn phá rừng đạt quy mô tệ hại, vì
tiến hành với phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Một thí dụ, ở Thái Lan cách đây không đầy 50 năm, diện tích rừng chiếm 80%
diện tích cả nước, hiện nay, tỷ lệ đó chỉ còn lại 20%. Nhiều loại
cây quý, cùng với một số chim muông, dã thú bị mất tích. Nhân dân nhiều
làng lâm vào cảnh thiếu nước ăn, nước uống,
chỉ còn một cách là bỏ làng ra đi. Lụt
hạn thường xuyên xảy ra. Lớp màu mỡ của nhiều vùng nông nghiệp bị
hủy hoại, mùa màng thất bát, khiến nông dân bị cơ cực, nghèo
đói. Nói tóm lại, kể cả Bắc cũng như Nam bán
cầu ở các nước phương Tây có trình độ
phát triển cao, cũng như ở các nước thuộc thế giới thứ ba nghèo
nàn, lạc hậu, vấn đề hủy hoại môi trường sống
đều đặt ra bức xúc và cấp bách, nhất là trong những năm
gần đây.
Dù cho trong thời đức Phật còn tại
thế, bảo vệ môi sinh chưa đặt thành
vấn đề, nhưng đức Phật với trí tuệ sáng suốt
và lòng từ bi cứu khổ của Ngài, với trách nhiệm của bậc
Đạo sư cần tạo ra một môi trường tu học thích
hợp cho những đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài,
đức Phật đã chủ
động tìm cách xây dựng cho mình và cho
Hội chúng Tăng già một nếp sống hài
hòa với thiên nhiên, một đạo tràng tu
tập thích hợp hướng tới giác ngộ và Niết Bàn.
Đức Phật l à một bậc Giáo chủ độc
nhất sinh ra dưới cây Vô ưu tại vườn Lâm-tỳ-ni, hành trì Thiền
định cho đến giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề,
thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Nai ở Ba-la-nại, và cuối cùng
nhập Niết Bàn dưới hai cây Sa-la tại Kusinara.
Trong 45 thuyết pháp độ sanh, Ngài
để lại cho chúng ta hình ảnh một bậc
Đạo sư đi bộ từ làng này qua làng
khác, từ đô thị này qua
đô thị khác, sau khi khất thực trở về, thường
ngồi trong một khu rừng gần đấy để an nghỉ hoặc thuyết pháp, hoặc ngồi
Thiền cho đến chiều. Hình ảnh đó của
đức Phật được ghi lại trong các câu thơ sau đây:
Một bát ăn ngàn nhà,
Một thân đi vạn dặm
Vì vấn đề sanh tử,
Giáo hóa độ ngày qua.
(Nhât bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du,
Kỳ vị sanh tử sự,
Giáo hóa độ xuân thu).
Trong những bài thuyết pháp, Ngài thường dùng các ẩn dụ tìm thấy trong
thiên nhiên, trong các động vật và
thực vật và nhờ vậy các hình ảnh gợi lên rất sinh
động tươi mát như chính mình sống giữa
mây trời rộng rãi. Nói đến sự cách biệt giữa
pháp thiện và pháp ác, Ngài dạy: "Rằng xa thật là xa khoảng cách
giữa mặt đất và vòm trời. Rằng xa thật
là xa khoảng cách giữa bờ bên này đến bờ bên
kia. Rằng xa thật là xa, khoảng cách giữa mặt trời mọc và với chỗ mặt trời
lặn, nhưng còn cách xa, cách xa hơn nữa là khoảng cách giữa pháp bậc thiện
và pháp kẻ ác" (Tăng Chi tr. 410). Nói đến
hương người đức hạnh là ví với hương của hoa thơm, nhưng giữa hai
loại có sự sai khác:
"Không một hương hoa nào
Bay ngược chiều gió thổi
Chỉ hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay" (Pháp Cú 52)
Đức Phật thường d ùng hình ảnh biển cả
để so sánh với Chánh pháp: “Này
Paharada, biển lớn chỉ có một vị, đó là
vị mặn. Cũng vậy, này Paharada pháp này của Ta cũng chỉ có một vị, là vị
giải thoát". (Tăng III, tr 57).
Ồn ào của người ngu, sự yên lặng của người trí
được đem ra so sánh với bể cả. Biển gần bờ
thời ào ào, biển ngoài khơi thời lặng yên:
"Như chính giữa trung tâm
Của biển cả đại dương
Sóng biển không có sanh
Biển hoàn toàn đứng lặng.
Cũng vậy này Tỳ kheo,
Hãy đứng lặng không động,
Không xôn xao bồng bột
Đối sự gì ở
đời". (Kinh Tập, số 920)
Đức Phật luôn luôn tán thán núi rừng, v à xem núi rừng là nơi trú
ẩn lý tưởng cho những vị xuất gia hành đạo.
"Làng mạc hay rừng núi,
Thung lũng hay đồi cao
La-hán trú chỗ nào
Đất ấy thật khả ái".
"Khả ái thay núi rừng
Chỗ người phàm không ưa
Vị ly tham ưa thích
Vì không tìm dục lạc" (Pháp Cú 98-99)
Khi Ngài thấy vị Tỳ kheo sống ở trong rừng, Ngài rất hoan hỷ:
"Ở đây này Nagita, Ta thấy một Tỳ
kheo sống ở trong rừng, ngồi chưa đạt được
Thiền định ở trong rừng. Này Nagita,
đối với vị ấy, ta suy nghĩ: “Tôn giả này chưa
đạt được Thiền định, nhưng sẽ thành
tựu được Thiền định, và sẽ bảo vệ
được tâm đã
được Thiền định”. Do vậy này Nagita,
Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỳ kheo ấy". (Tăng
Chi II, tr. 336).
Ở đây chúng ta chỉ cần nghe một số bài
kệ, bài thơ của các vị Đại đệ tử đức Phật,
khi đã chứng quả, nói lên lời ca tụng núi rừng
để nhận thức rằng đời sống giữa rừng núi với
thiên nhiên là những trú xứ, là những môi trưòng thích hợp nhất
để thành tựu chánh trí. Ngài Sabbaka
tuyên bố:
"Khi ta thấy con cò,
Trương đôi cánh trắng tinh
Sợ hãi đám mây đen
Tìm chỗ kín ẩn nấp,
Khi ấy chính con sông
A-ja-ta-ra-ni
Đem hoan hỷ cho ta.
Ai lại không thích thú,
Khi thấy ở tại đây
Trên cả hai dãy bờ
Có hàng cây Jam-bu
Làm chói sáng bờ sông,
Sau lưng cái hang lớn.
Hãy nghe những con nhái
Khéo thoát những đàn rắn
Kêu lên niềm hoan hỷ
Với tiếng kêu nhẹ nhàng.
Nay không phải là thời
Buông thả với núi rừng
Thật an ổn con sông
A-ja-ta-ra-ni
Thoải mái và an lành
Thật an vui thích thú".
(Trưởng Lão Tăng kệ tr. 134)
Ngài Kassapa, sống trọn đời ở rừng núi nói
lên vì sao ngài ưa thích núi rừng:
"Khu đất thật khả ái
Với những vòng tràng hoa
Hoa tên Ka-ra-ri
Trải rộng ra cùng khắp,
Với voi rú khả ý
Đồí núi ấy ta thích.
Những hồ nước trong mát
Tuyệt đẹp màu mây xanh
Che tán bởi loại bọ
Tên kẻ chăn In-da
Những ngọn núi đá ấy
Làm tâm ta thích thú.
Giống đồi mấy xanh biếc
Ví tháp đẹp lâu đài
Với vượn hú khả ý
Đồi núi ấy ta thích.
Được mưa ướt thấm nhuần
Đất bằng thật khả ý
Đồi núi
được ẩn sĩ
Làm thành nơi trú xứ
Vẳng lên tiếng chim công
Đồi núi ấy ta thích.
Tràn đầy hoa cây gai,
Như trời phủ làn mây
Đầy mọi loài chim chóc
Đồi núi ấy ta thích.
Dưới tảng đá hang đá
Có nước suối trong chảy
Có khỉ và có nai
Lai vảng sống gần bên
Cỏ cây bao trùm nước
Đồi núi ấy ta thích". (Trưởng Lão Tăng
Kệ, 252 -253)
Người Phật tử không những xem thiên nhiên như người mẹ hiền nuôi dưỡng
mình bằng thức ăn, áo mặc, nhà ở
v.v... mà còn xem thiên nhiên như là một nguồn bất tận những cảm
hứng hướng thượng, giác ngộ giải thoát. Hoa rụng, lá rơi mùa
Đông qua, mùa Xuân lại.
Đó phải chăng là những bài học sinh
động của thiên nhiên dạy chúng ta về
cuộc đời là vô thường, mọi pháp là vô
ngã, không xứng đáng cho con người phải tham
đắm.
Các Thiền sư ngộ đạo đời Lý, đời Trần đã
để lại cho chúng ta những bài thơ tả
cảnh thiên nhiên, lời lẽ hay, hình ảnh đẹp, ý
tứ sâu xa tuyệt vời.
Chúng ta hãy cùng nhau thưởng thức lại bài thơ của Thiền sư Mãn Giác
đời Lý:
"Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai".
(Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân tới trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già
đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai).
Cảnh xuân đến xuân đi, hoa nở, hoa tàn,
mọi sự việc ở đời trôi qua trước mắt, và
tóc của người trên đầu bạc dần. Trong bức
tranh toàn cảnh vô thường đó, Thiền sư
vẫn cảm nhận sự sống là bất diệt trong cảnh hoa mai nở sau
đêm xuân tàn.
Trần Nhân Tôn là ông vua kiêm Thiền sư đời
Trần. Cảnh vật trong nhiều bài thơ của vua có màu sắc hư hư thực thực,
phản ảnh chân lý vô thường, vô ngã của đạo
Phật. Như bài Thiên Trường Văn
Vọng sau đây;
"Thôn tiền thôn hậu đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên .
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền".
Dịch:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều dường có lại dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Cảnh sau hay trước thôn mờ ảo như trong khói, dường như có dường như
không trong bóng chiều tà, theo tiếng sáo của mục
đồng đã
đón trâu về hết nhưng đồng ruộng lại rộn lên với
đàn cò từng
đôi từng đôi bay xuống đậu trên cánh
đồng.
Đạo Phật vừa đề cao một nếp sống h ài hòa với thiên nhiên, vừa
đề cao một nếp sống hài hòa với con
người. Khi được Dandapani hỏi Ngài
thuyết giảng những gì, đức Phật liền tuyên
bố: "Theo lời dạy của Ta, trong thế giới với chư Thiên, ác ma và Phạm
thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, không
tranh luận với một ai ở đời”. (Trung Bộ III
109-l09s). Một câu tuyên bố nữa nói lên thái
độ không tranh chấp của đức Phật: “Này
các Tỳ kheo Ta không tranh chấp với đời, chỉ
có đời tranh chấp với Ta. Người nói pháp không có tranh chấp với một ai ở
đời”. (Tương ưng III, 165) .
Từ nếp sống hài hòa với thiên nhiên, với con người,
đạo Phật tiến tới bước nữa, đề cao lòng
từ bi đối với loài vật và cây cỏ, một
thái độ tạo nên sự thông cảm giữa loài
Người, loài vật và thiên nhiên. Trong kinh Thừa Tự, Trung Bộ I số 3,
đức Phật dạy không nên
đổ đồ ăn dư thừa trên cỏ xanh và trong
nước có côn trùng, sợ làm hại cỏ và côn trùng. Ngài dạy các
đệ tử xuất gia phải dùng vải lọc nước
để ngăn chặn giết hại các sinh vật. Trong
thời kỳ mùa mưa an cư kiết hạ, đức
Phật khuyên các Tỳ kheo không nên đi
ra ngoài vì sợ dẫm dạp trên cỏ cây hoặc các loại côn trùng nẩy nở
rất nhiều trên đất và trong không khi
ẩm ướt. Ngài xác nhận không sát sanh là bố thí không sợ hãi, bố thí không
hận thù, bố thí không làm hại: "Vị thánh đệ
tử từ bỏ sát sanh, đem không sợ hãi cho vô lượng chúng sinh,
đem không hận thù cho vô lượng chúng
sinh, đem không làm hại cho vô lượng
chúng sinh". (Tăng Chi III, 229) Ngài
tuyên bố rất rõ, Ngài không chấp nhận vì Ngài hay vì
đệ tử của Ngài mà giết hại các chúng
sinh để cúng dường đồ ăn.
Ngài khuyên các đệ tử tại gia của Ngài
không nên làm nghề buôn bán người hay buôn bán thịt. Trong
đạo Phật có những tập tục nói lên
truyền thống thương người, thương vật, thương cây cỏ của người Phật tử:
Truyền thống thả chim, thả cá, phóng đăng, ăn
chay, thọ bát quan trai là những hình ảnh tuyệt
đẹp của lòng từ bi thương người,
thương vật của đạo Phật. Để nuôi dưỡng lòng
từ bi ấy, đức Phật dạy các đệ tử xuất gia và
tại gia của Ngài phải hành trì Bốn vô lượng tâm: Tu tập lòng từ
để đối trị lòng sân, tu tập lòng bi
để không hại người hại vật, tu tập lòng
hỷ để trừ diệt lòng ganh ghét và tu
tập hạnh xả để đoạn diệt hận thù.
Chính từ, bi, hỷ, xả là bốn sức mạnh xây dựng sự thông cảm giữa người
và người, giữa người và thiên nhiên, giữa người với loài vật. Và xây dựng
được một môi trường như vậy thật là
tốt đẹp cho hành tinh của chúng ta
trong quá khứ cũng như trong hiện tại, thay vì phát
động những cuộc chiến tranh, hủy diệt con
người, hủy diệt động vật và hủy diệt thiên nhiên. Những lời dạy về
lòng từ lòng bi thật là rộng rãi bao la, bao trùm mọi loại mọi sinh vật,
như kinh Từ Bi trong Tiểu Bộ Kinh số 196 -152 trình bày:
"Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống
Kẻ yếu hay kẻ mạnh
Không bỏ sót một ai,
Thân dài hay thân ngắn,
Trung thấp loại lớn nhỏ,
Loài được thấy, không thấv,
Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sinh
Sống hạnh phúc an lạc.
Mong rằng không có ai,
Lường gạt lừa dốí ai,
Không có ai khinh mạn
Tại bât cứ chỗ nào,
Không vì giận hờn nhau
Không vì tưởng chống đối
Lại có người mong muốn
Làm đau khổ cho nhau.
Như tấm lòng người mẹ
Đối với con của mình
Trọn đời lo che chở
Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy đối tất cả
Các hữu tình chúng sinh
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn;
Hãy tu tập từ tâm
Trong tất cả thế giới.
Hãy tu tập tâm ý
Không hạn lượng rộng lớn
Phía trên và phía dưới
Cũng vậy cả bề ngang
Không hạn chế trói buộc
Không hận, không thù địch.
Khi đứng hay khi đi
Khi ngồi hay khi nằm
Lâu cho đến khi nào
Khi đang còn tỉnh thức
Hãy an trú niệm này
Nếp sống này như vậy
Được đời đề cập đến
Là nếp sống tối thượng..."
Đức Phật dạy người tu tập l òng từ có
được những lợi ích như sau: “Ngủ được an lạc,
thức được an lạc, không có ác mộng,
được người khác ái mộ. Được loài phi nhân yêu kính,
được loài Trời gia hộ". (Tăng
Chi III, tr 11)
Một người có từ tâm với thiên nhiên, với các loài
động vật, thì làm sao còn có ác tâm
được với người khác, với đồng loại. Người
Phật tử đối với thiên nhiên như đối
với mẹ mình, dựa vào thiên nhiên để
nuôi dưỡng thân mình, để cầu giải
thoát và giác ngộ, chớ không phải khai thác thiên nhiên
để thỏa mãn lòng tham của mình...
Phật tử đến với thiên nhiên như ong
với hoa, hút nhụy của hoa nhưng không làm hại
đến sắc và hương (Kinh Pháp Cú kệ số 49).
"Như ong chỉ lấy nhụy
Không hại hương sắc hoa,
Cũng vậy vị Sa-môn
Ra vào giữa thôn làng".
Đối với người xuất gia, đức Phật đặc biệt chú trọng sự im lặng để có
thể tập trung h ành Thiền, tu tập quán hạnh. Hội chúng Tỳ kheo của
đức Phật là một hội chúng thanh tịnh,
ưa thích im lặng, tránh xa ồn ào. Đức Phật
khuyên các vị Tỳ kheo nên lựa một trụ xứ "Không quá xa, không quá
gần, thuận tiện cho đi và
đến. Ban ngày không
đông đúc, ban đêm không ồn ào. ít xúc
chạm với ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời và các loài rắn rít..."
(Tăng Chi III, tr. 314). Vua Ajatasattu với
lời giới thiệu của Jivaka đi đến yết
kiến đức Phật. Khi đi gần đến hội chúng Tỳ kheo 1250 người mà không
có tiếng động, tiếng đằng hắng, vua liền lo
sợ không biết Jivaka có bội phản mình không. Khi
được Jivaka giải thích Hội chúng của đức Phật
tôn trọng sự im lặng như vậy đó, vua mới yên tâm
đi đến yết kiến đức Phật. Một thời gia chủ
Sandhana (Trường Bộ số IV, tr. 38), đến viếng thăm hội chúng của tu sĩ
ngoại đạo. Sandhana ghi nhận sự sai khác của hai hội chúng: “Thật sai khác
thay, khi các tôn giả ngoại đạo hội họp lại, quy tụ lại, ồn ào, cao
giọng, lớn tiếng, họ sống bàn cãi những vấn
đề phù phiếm...
Thật sai khác thay, Thế Tôn an trú các nhàn tịnh xứ, núi rừng tịch
mịch, xa vắng ít tiếng động, có gió đồng
thổi, lánh xa mắt người đời, thích hợp cho sự tĩnh tu”. Vua
Pasenadi nước Kosala chứng kiến các buổi thuyết pháp của Thế Tôn có hàng
trăm người dự. Nếu có người ho lên một
vị ngồi bên trên khẽ đập vào
đầu gối và nói: "Tôn giả hãy im lặng,
Tôn giả chớ có làm ồn, Thế Tôn bậc Đạo sư của
chúng ta đang thuyết pháp”. Cả một hội chúng đông người, trân trọng im
lặng lắng nghe lời giảng pháp của Thế Tôn, hình thành một bầu không
khí học tập tuyệt diệu cho các Phật tử. Đức
Phật khuyến khích các đệ tử xuất gia của Ngài sống
đời sống ít dục, biết đủ. Ngài dạy các
Tỳ kheo, như lý quán sát thọ dụng y phục, "chỉ
để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa
sự xúc chạm của muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; thọ
dụng các món ăn khất thực, chỉ để thân này
được sống lâu và
để bảo dưỡng, để thân này khỏi bị
thương hại, để hỗ trợ cho Phạm hạnh;
thọ dụng sàng tọa chỉ để ngăn ngừa lạnh,
ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió, sức nóng mặt
trời... chỉ với mục đích sống
độc cư an tịnh.... thọ dụng các dược phẩm trị bệnh, chỉ
để ngăn chận các cảm giác thống khổ đã
sanh, để được ly khổ hoàn toàn..."
(Trung Bộ I, tr. 98). Chỉ với một nếp sống thiểu dục tri túc như vậy người
hành giả mới sống một đời sống lành
mạnh hướng thượng, đạt đến giác ngộ giải
thoát.
Như vậy, đạo Phật tán dương một nếp sống hài
hòa với thiên nhiên, hài hòa với loài Người, tán thán lòng từ bi, khích lệ
thương người thương vật, đề cao hạnh thiểu
dục tri túc, sống đời sống lành mạnh và giản dị, với mục
đích xây dựng một môi trường tu học lý tưởng
cho người đời cũng như cho người xuất gia.
Phật tử chúng ta ngày nay hãy học theo nếp sống của
đức Bổn Sư, hãy sống gần thiên nhiên,
yêu thiên nhiên, gần cỏ cây hoa lá, thở hít khí trời trong sạch và nếu có
thể thì sống xa lánh những nơi ồn ào, bụi bặm. Dù có phải sống giữa thành
phố, như Thành phố Hồ Chí Minh này, nếu có chút
đất gần nhà thì hãy trồng cây, tạo
bóng mát. Hãy đưa thiên nhiên vào tận
trong nhà, lên lầu với những giàn hoa, những cây cảnh.
Đặc biệt là các chùa, Thiền viện, quý
vị Hòa thượng, Thượng tọa hay Đại đức trụ trì,
quý Sư bà, Ni cô hãy tạo mỗi cảnh chùa thành như một ốc
đảo yên tịnh sạch sẽ,
đầy hoa lá và gió mát trong cái thành
phố ồn ào và đông dân này, làm như
vậy, tức là truyền đạo và hành
đạo, vì yên tĩnh ở ngoại cảnh dẫn tới
yên tĩnh trong tâm hồn. Yên tĩnh trong tâm hồn là giải thoát, là tự do tự
tại.
Tất cả vấn đề là chư Tăng
Ni có ý thức đầy đủ, tạo ra cho mọi Phật tử một môi trường tốt nhất, có
đạo vị nhất giúp cho sự tiến bộ trí tuệ và cuộc sống an lạc của mọi
người đến chùa.
Đó là sự hòa hợp tốt
đẹp giữa môi trường thiên nhiên và môi
trường nhân văn. Tất nhiên, cảnh chùa
tọa lạc ở một nơi phong cảnh đẹp đẽ,
thoáng mát, nhiều hoa lá đã là một ốc
đảo thanh tịnh đối với những người thế tục
rồi. Nhưng cảnh chùa đó lại thêm
tiếng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga trầm
bổng, tiếng tụng kinh, niệm Phật và nhất là sự hiện diện của chư Tăng
Ni, nghiêm trang và giải thoát, đầy đủ
uy nghi và đức hạnh, nói ra những lời
lẽ đầy lòng từ bi và chói sáng trí tuệ. Chúng tôi tin rằng quý vị
Tu sĩ trụ trì sinh hoạt ở các chùa và Thiền viện chúng ta có khả năng
và ý thức tạo ra, sắp xếp được một môi
trường có đầy giá trị trí tuệ như vậy.
Tiện đây, tôi xin phát biểu vài ý
kiến về một vấn đề có quan hệ tới môi trường
và cảnh trí của chùa chiền Phật giáo.
Đó là vấn đề hái lộc vào dịp
Tết Nguyên đán. Chữ Hán Ital là
điều phúc, điều tốt lành, theo
đạo Phật làm
điều thiện, điều phải; ngày hôm nay
thì sẽ hái lộc mai sau, tức là được quả báo
tốt lành sau này. Hái Lộc không phải là, từng
đoàn người,
đoàn người
đến chùa, hái trụi lá trong vườn chùa!
Chúng tôi không rõ từ đâu, dựa vào
kinh điển Phật giáo nào, mà người ta
bày vẽ ra một nhận thức và tập quán sai lầm về hái lộc như vậy. Tôi
đề nghị thay tập quán phá cây, phá vườn chùa
trong dịp Tết bằng phong trào đem cây mới đến
trồng ở vườn chùa gọi là trồng lộc. Có những cây có tên rất
đạo vị như cây Phật thủ, Thất Phật, cây
La-hán v.v... Các chùa nên ươm sẵn những loại cây có tên như
thế, để vào dịp Tết, Phật tử có thể bỏ
công đến trồng ở vườn chùa. Nếu Phật
tử có vườn nhà, thì nên ươm sẵn những loại cây như vậy, rồi vào dịp thuận
tiện đem đến trồng ở chùa. Chúng tôi
không quên nhắc tới cây mít, thường được
trồng nhiều ở các chùa Việt Nam và Trung Hoa. Cây mít, người Trung
Quốc gọi là ba la mật, nguyên chữ Phạn là Paramita. Còn người Việt Nam
chúng ta thì gọi là cây mít. Ở các chùa ngoài Bắc từ lâu có tập tục dùng
gỗ mít làm mõ và các đồ dùng
để thờ, xem gỗ mít như là gỗ thiêng
vậy.
Quý vị Phật tử, không phải chỉ riêng trong những ngày Tết, suốt năm,
vào những dịp thuận tiện hãy trồng lộc thay vì hái lộc, không phải
chỉ trồng ở chùa mà trồng cả ở vườn nhà, không phải chỉ cây mít, cây Thất
Phật, cây La-hán mà tất cả mọi thứ cây có thể trồng
được. Bởi lẽ, ở đâu có cây thì ở
đấy có bóng mát, có gió, có hoa, có chim
muông, có sự sống.
Hôm nay là ngày lẽ Vu-lan, ngày lễ báo đáp
Bốn trọng ân của người Phật tử, ngày Lễ báo hiếu
đặc biệt của những con người có tâm hiếu đạo.
hôm nay cũng là Tự tứ của chúng Tăng
sau ba tháng an cư nhập hạ, được gọi là ngày Hoan hỷ của chư Thiên
và loài Người, vì được chứng kiến ba tháng
nhiệt tâm tinh cần tu học của chư Tăng, Ni. Đức Phật dạy báo ân và
báo hiếu không có gì tốt đẹp hơn là
giúp đỡ mọi người mọi loài
được nghe lời Phật dạy, được thực hành
điều lành
điều thiện về thân về lời và về ý. Và muốn vậy, trước hết chúng ta
hãy cùng nhau cố gắng xây dựng Thiền Viện Vạn Hạnh này thành một môi
trường tốt đẹp cho chư Tăng và các
Phật tử tu học. Một môi trường trong ấy các Phật tử có thể
đến lễ Phật, tụng kinh, ngồi Thiền, nghe
pháp, thọ Bát quan trai, dự các buổi thuyết giảng, xem các cuộc triển lãm,
tham dự các buổi trình diễn văn nghệ, làm
một số công tác cứu tế xã hội v.v ... một môi trường tu học thích
hợp và đem lại lợi ích cho mọi người đến
Thiền viện, không những vậy, những Phật tử tại gia về tại gia đình
của mình cũng cố gắng xây dựng gia đình
của mình thành một môi trường thích hợp, đúng
với tinh thần đạo, xây dựng những môi trường riêng biệt như thế
nào, chúng ta đem đạo Phật vào
đời vào với gia
đình chúng ta và giúp cho mọi người
trong gia đình hưởng thọ những ảnh
hưởng tốt đẹp của đạo Phật. Làm
được như vậy chúng tôi nghĩ rằng chúng ta dã
đóng góp một phần vào trách nhiệm bảo
vệ môi sinh. Đây cũng là một cử chỉ
tốt đẹp, có nhiều ý nghĩa nhất để báo đáp bốn
trọng ân, báo hiếu cha mẹ và bà con trong bảy
đời, nhân dịp Vu lan về và ngày Tự tứ
hoan hỷ.
(Bài giảng Đại lễ Vu-lan
2535-1991 tại Thiền Viện Vạn Hạnh)
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục |
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06
|
|