Kính dâng Ðức Thánh Mẫu,
mẹ của chúng ta
và trong chúng ta.
Thân kính tặng các bà mẹ
Việt nam,
Thân tặng quí Ðạo hữu Diệu Nhẫn và Nguyên Khiêm.
-- Thiện Nhựt
Mục lục
Lời mở đầu
Tựa
Dẫn nhập: Tìm gặp Dipa Ma
Phần I: Cuộc
đời ly kỳ
Chương 1: Sanh trong đạo Phật
Chương 2: Thức tỉnh
Chương 3: An lạc chẳng lung lay
Phần II: Con
đường chuyển hoá
Chương 4: Tận sức và Vượt qua
Chương 5: Nhìn thấu qua các vọng tưởng
Chương 6: Sự Giải thoát sâu xa nhứt
Chương 7: Bạn sống đời bạn ra sao?
Chương 8: Ðảnh lễ Tình thương
Chương 9: Thần thông tự tại
Chương 10: Thích nữ vô uý
Phần III: Di
huấn của Dipa Ma
Chương 11: Mười bài học để sống đời
Chương 12: Trước mặt Thầy: vấn đáp
Chương 13: Ngập sâu trong ân sủng
Những người đã cộng tác
Vài nét về nữ tác giả
Các nhà biên tập
Thiện Nhựt xin thưa vài lời... |
-ooOoo-
Lời mở
đầu
Ðôi khi trong cuộc
đời, chúng ta gặp được một người thật khác thường, đã thay đổi hẳn nếp
sống của chúng ta, chỉ bằng cách sống giản dị mình chính là mình. Dipa Ma
chính là người đó. Tôi được nghe nói về bà lần đầu khi theo học Thiền với
sư phụ Anagarika Munindra tại Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya) bên Ấn độ vào
năm 1967. Sư phụ tôi đã huấn luyện bà Dipa Ma ở Miến điện khi thầy còn
hành thiền và giảng dạy trong chín năm trước đó. Thầy thường kể lại, bà là
một thiền giả được nhiều sự chứng đắc khác thường, mà quí vị sẽ đọc thấy
ngay trong tập sách nầy. Ðiều mà sư phụ tôi chẳng nói thành lời, nhưng lại
rất hiển nhiên khi tôi gặp bà lần đầu tiên, là đức tánh đặc biệt của tư
cách bà đã làm cảm động bất cứ ai đã gặp bà. Một đức tánh tĩnh lặng cao độ
cuả sự an hoà tràn ngập tình thương. Sự lắng yên đó và tình thương đó rất
khác lạ với những gì mà tôi đã kinh nghiệm qua. Cả hai đức tánh đó chẳng
phải là cái bản ngã, và chúng chẳng đòi hỏi gì, cũng chẳng cần đến bất cứ
gì, đền đáp lại. Thật giản dị, trong sự vắng bóng của tự ngã, tình thương
và an hoà là những gì còn lưu lại đó.
Dipa Ma làm nẩy sanh nơi ta những nỗ lực
tốt đẹp nhứt, chẳng phải vì qui tắc, mà chính là vì nguồn cảm hứng bà gợi
lên. Bà chỉ cho thấy những gì có thể làm được, bằng cách nhận ngay những
gì có thể được -- và điều đó đã nâng bổng lên thanh sắt đang chận ngang
các nguyện vọng của chúng ta. Bà đặt niềm tin tưởng chẳng hề lay chuyển
nơi khả năng của mỗi chúng ta bước chơn lên con đường đạo pháp. Sự tin
tưởng đó được chuyển đi cùng với sự hoàn toàn chấp nhận vào cảnh huống
chúng ta đang sống, kèm theo sự chẳng ngừng khuyến khích nên đào sâu thêm
sự hiểu biết qua việc thực tập liên tục.
Mặc dầu Dipa Ma chỉ sang Tây phương có hai
chuyến, nhưng ảnh hưởng của bà đối với nền Phật học ở Mỹ châu thật là sâu
xa. Bà là vị thiền sư nữ giới đầu tiên hoàn toàn thành mãn theo truyền
thống Theravada (Phật giáo Nguyên thủy), đã đến giảng dạy trên đất nước
nầy. Mặc dầu sự sùng tín của bà đối với truyền thống rất thâm sâu, bà vẫn
tin tưởng mãnh liệt rằng các sự thành tựu về tâm linh của nữ phái (kể luôn
cả các bà nội trợ) có thể bằng -- hay, lắm khi, sâu đậm hơn -- về phía nam
giới chiếm đa số trong hàng giáo phẩm. Trong ý hướng đó, Dipa Ma đã trở
nên con người mẫu dũng mãnh làm gương sáng cho phụ nữ và cả nam giới nữa.
Ảnh hưởng của bà đối với thật nhiều hành giả vẫn còn âm vang trong cộng
đồng đạo pháp.
Tôi rất hoan hỉ và biết ơn đối với Amy
Schmidt đã cho ra đời quyển sách tuyệt vời nầy. Ðây là một cơ hội quí báu
cho nhiều người trong chúng tôi được nhắc nhở lại những mẩu chuyện, những
cuộc gặp gỡ với Dipa Ma và là dịp tốt cho những người khác được biết đến
Dipa Ma lần đầu.
Joseph Goldstein
Hội Thiền Minh Sát
( Insight Meditation Society )
Tháng Ba năm 2002
-ooOoo-
Tựa
Ân sủng,
theo nghĩa là một sự ban phước lành của Ơn
Trên, được hưởng thọ không do tầm cầu mà có, thật ra nói theo nghĩa chặt
chẽ, chẳng phải là một ý niệm Phật học. Tuy nhiên, dầu có hay không đi
chăng nữa, chúng tôi cũng xem đó là một sự thi ơn của Trời; kinh nghiệm về
ân sủng rất thường thấy nơi nhóm chúng tôi đang thực tập về thiền định.
Nếu chúng ta nhìn rõ vào cuộc đời của chúng ta -- các cơ duyên giúp chúng
ta theo đuổi con đường tâm linh, mọi dịp may được gặp gỡ và tu tập với các
bực đại sư đã chứng đắc cao, sự thành thật trong nguyện ước của chúng ta
mong được nội tâm giải thoát -- chúng ta sẽ thấy rõ rằng chúng ta đang"tràn
ngập sâu trong niềm ân sủng". Từ các Chương về tiểu sử thuộc Phần I
của quyển sách nầy, xuyên các mẩu chuyện của những người đã gặp gỡ được
Dipa Ma, ở Phần II, và lời giảng dạy của bà tại Phần III, thì danh từ
"ân sủng" đã được nhắc đến nhiều lần, với ý nghĩa là tánh chất ly kỳ,
chẳng thể định nghĩa được, mở rộng cõi lòng, của các dịp được thân cận với
vị thầy tâm linh nầy.
Tiến sĩ Jack Engler là một trong những
người Tây phương đầu tiên được tiếp xúc với Dipa Ma. Ngẫu nhiên, ông cũng
được theo học cùng một vị thầy đã chỉ dạy cho Dipa Ma. Phần đóng góp của
ông vào quyển sách nầy thật khá to tát: đa số các chi tiết về tiểu sử,
cùng những trích dẫn về lời dạy của Dipa Ma, đều căn cứ vào các tài liệu
mà ông đã viết đặc biệt cho quyển sách Ngập Sâu Trong Ân Sủng (Knee
Deep in Grace) nầy. Các dữ kiện nầy, được rút ra cả từ các kinh nghiệm
bản thân và các trắc nghiệm tâm lý của Dipa Ma, đã xác nhận rõ sự mô tả
đúng theo truyền thống về các chuyển hoá của tâm một khi đã đạt đến sự
giác ngộ thâm sâu. Sự chấp thuận của Jack Engler cho phép xử dụng các tài
liệu đó đã khiến cho việc ghi chép lại cuộc đời của Dipa Ma rất đầy đủ.
Tôi thật hết sức thâm tạ tấm lòng rộng rãi của ông. Công cuộc khảo cứu của
Jack Engler đã trình bày sự chứng đắc rất kỳ diệu của Dipa Ma bằng các
danh từ khoa học. Phần lớn các người đã gặp gỡ Dipa Ma, hay biết đuợc bà
qua ảnh hưởng của bà đối với các vị thầy khác, đã nhìn bà qua nhiều lăng
kính khác nhau. Trong trường hợp của tôi, bà là hiện thân của Ðức Mẹ Thiên
Thần, một khuôn mẫu lý tưởng có trong mọi nền văn hoá. Câu chuyện sau đây
vinh danh Dipa Ma được Cha Theophane, thuộc dòng tu khổ hạnh cấm khẩu
(Trappist), tác giả quyển sách Truyện về Tu viện Thần bí (Tales
of a Magic Monastery) cống hiến. Riêng đối với tôi, câu chuyện nầy gợi
lên khiá cạnh siêu phàm của lòng từ bi vô lượng của Dipa Ma.
Tâm của bạn giống như thế nào? Ðó là điều mà
họ muốn biết. Họ khiêng vào một người vừa mới chết. Họ bắt đầu
giải phẩu lấy trái tim. Các bạn
chẳng tin những gì thấy ở đấy. Bạn đâu có ngờ -- người da trắng, da đen,
kẻ vô thần, người giàu sang, kẻ bần cùng, người say rượu, đĩ điếm, thầy
tu, chánh khách, trẻ con, thẩm phán, đấu thủ túc cầu, kẻ ngông cuồng, và
tôi -- cả tôi nữa -- sao tôi lại vào đấy?
Ðó có phải là điều mà tôi sẽ trở nên, khi
tôi chết? Khi họ mổ tim tôi ra, họ sẽ thấy được gì?
Nguyện cầu mọi người chúng ta mở rộng tâm
cùng đến với niềm ân sủng luôn luôn sẵn còn ở đây!
-ooOoo-
Dẫn nhập
Tìm gặp Dipa Ma.
Từ lâu, trước khi
tôi chưa hề được nghe đến tên bà, Dipa Ma đang đến gặp tôi.
Khi tôi lên mười chín tuổi, có ai đó đã
trao cho tôi quyển Tất đạt ta
(Siddhartha) của Herman Hesse. Tôi
đã đọc bốn lần và gạch đít hầu hết mỗi câu. Quyển sách đã cho tôi niềm hi
vọng. Sách nói -- và tôi mong mỏi, gần tuyệt vọng, điều đó thành sự thật
-- rằng có một đường lối để ra khỏi sự khổ đau, rằng được giải thoát ngay
trong cuộc đời nầy là chuyện có thể thực hiện được. Tôi đã bắt đầu thực
tập Thiền (Transcendental Meditation), nhưng tôi còn chưa tìm thấy con
đường đi vào Ðạo pháp (Dharma), hoặc là Phật pháp, mãi cho đến sáu năm về
sau. Tại phía sau ngõ hẻm một tiệm cà phê hiệu Allegro, ở Tiểu bang
Seattle, tôi nhìn thấy một tờ cáo thị của một nhóm học pháp, dán trên bảng
Thông báo của họ. Tò mò, tôi liền ghé vào. Có ai đó đã mời tôi ngồi xuống
để toạ thiền.
Ngay lúc đó, tôi cảm nhận rằng tôi đang
tìm gặp được một chút gì sâu xa, đầy ý nghĩa, trong sự thực tập nầy, khiến
tôi biết ngay là tôi cần phải ở nán lại. Một vị sư từ Thái lan đến viếng
nhóm bạn đạo và giảng về sự giác ngộ. Vị ấy nói sự giác ngộ là mục tiêu
của việc tham thiền, rằng sự giác ngộ đó chẳng thể nào mô tả được, vượt
khỏi thân và tâm, vượt khỏi mọi sự khổ đau. Tôi còn chưa thắc mắc vì những
gì vị ấy đã nói ra, điều làm tôi băn khoăn chính là những gì còn chưa diễn
được bằng lời: một vẻ im lặng kỳ bí bao trùm lời vị ấy nói, một sự an tĩnh
sâu xa trong đôi mắt của người. Ðêm ấy, đi bộ dưới trời mưa về nhà, tôi bị
một cảm giác mạnh bắt tôi đứng dừng lại. Dưới cơn mưa tầm tả xối xả trên
mặt tôi, giữa màn đêm tăm tối, tôi phát nguyện, sẽ dành trọn cuộc đời còn
lại của tôi, để tìm cho được sự giác ngộ. Cho dù phải trải qua bao lâu,
cho dù phải gánh chịu những gì, tôi quyết chẳng dừng lại cho đến khi tôi
thể nghiệm được sự an tĩnh đó cho chính tôi.
Thỉnh thoảng có nhiều vị sư Phật giáo đến
viếng nhóm chúng tôi: một vị đã được truyền giới ở Miến điện (nay là
Myanmar), nhiều vị theo truyền thống Thái lan. Các vị ấy, đã đến đây, bao
giờ cũng là nam tu sĩ cả, lúc nào cũng nói về các bực đại sư của họ, cũng
lại thuộc nam giới. "Vậy chớ, trong tông phái, các nữ tu sĩ ở đâu rồi?",
tôi lấy làm lạ tự hỏi. "Còn nữ bổn sư của tôi tìm ở đâu?"
Hi vọng tìm học thêm về các nữ tu sĩ Phật
giáo, tôi bắt đầu tìm tòi trong các Kinh, sách Phật, điều đó lại làm cho
tôi nản lòng. Chẳng những Kinh sách ít khi nói tới các nữ tu sĩ, mà các
bản cổ văn còn lại thường để lộ một cái nhìn xem nhẹ phụ nữ chúng tôi.
Cũng như nữ giới vào thời đại đó, tôi liền xếp lại các quan niệm về vai
trò kiểu mẫu của nữ tu sĩ Phật giáo, và chỉ biết lăn mình vào sự thực tập
của chính mình thôi.
Sau năm năm cố gắng chẳng ngừng, tôi bắt
đầu cảm thấy cần phải có những thời kỳ dài thực tập ráo riết. Nhiều bạn
hữu mách cho tôi về khoá an cư ba tháng mùa thu hằng năm tại tại Hội Thiền
Minh Sát (Insight Meditation Society) ở Barre, tiểu bang Massachusetts.
Tôi xin ghi tên tham dự và được thâu nhận. Ba tháng trong im lặng -- nhiều
bạn tôi nghĩ, có lẽ tôi đã khùng rồi.
Trung tâm an cư, do các thiền sư Sharon
Salzberg, Joseph Goldstein, Jack Kornfield và các người khác thành lập,
được các cánh đồng và khu rừng nhỏ bao quanh. Ngôi nhà chính nguy nga,
kiến trúc theo xưa bằng gạch, vốn là tư dinh của vị Thống đốc, được xây
vào năm 1911. Sau khi rộn ràng mở mấy thùng hành lý ra và đến gặp người
bạn Thụy sĩ, ở cùng phòng xong, tôi được hướng dẫn đi thăm viếng nhà ngang
dãy dọc, nơi mà tôi sẽ an trú và thực tập thiền trong những chín mươi ngày
sắp đến. Thoáng nhìn quanh quang cảnh, tôi nhận thấy nhiều tượng Phật và
hình ảnh các vị thiền sư, những tượng ảnh đầy ý nghĩa khích lệ tâm linh
được an vị trong các trang thờ ở góc tường. Tất cả đều là hình ảnh của đàn
ông.
Rồi bỗng nhiên, tôi nhận ra nơi góc tường
của thư viện một bức ảnh của một người đàn bà Ấn độ, mặc y phục trắng,
ngồi giữa sân cỏ xanh mùa hạ, trông như một vầng mây bạc. Bà mang kiếng
cận, gọng dầy bị hư dán miếng băng keo nhỏ. Xuyên qua đôi kiếng trắng, toả
ra một luồng nhãn quang thật hết sức an tịnh và từ bi mà tôi chưa hề bao
giờ được nhìn thấy. Chẳng thấy ghi tên bên dưới bức ảnh, nhưng tôi biết
ngay là tôi đang chiêm ngưỡng một bực thầy, một người phụ nữ, đã chứng đắc
được sự giải thoát cùng sự an tịnh thâm sâu trong nội tâm. Tôi băn khoăn
chẳng biết rồi đây các thiền sư của tôi sẽ nói về bà hay không: tôi thầm
hỏi lấy tôi, có thể nào bà sẽ làm bổn sư cho mình chăng.
Tôi chẳng phải chờ đợi lâu sự giải đáp nỗi
thắc mắc dó. Sau vài ngày ở khoá an cư, các thiền sư bắt đầu nói đến người
phụ nữ trong tấm hình. Khuê danh bà là Nani Bala Barua nhưng được mọi
người biết đến dưới tên Dipa Ma ("Má của Dipa"), bà vừa mới từ trần hai
tuần lễ trước. Mỗi người trong năm vị thiền sư ở đây đều biết bà với tư
cách cá nhân và thương yêu bà rất sâu đậm. Hai vị đã là đệ tử của bà trong
gần hai mươi năm. Nỗi đau buồn khi bà mất vẫn còn nau náu trong tâm họ.
Tôi cảm thấy kinh hoàng khi biết chẳng bao giờ gặp được người phụ nữ đó
nữa. Nhưng đồng thời lại bừng sáng nơi tâm tôi ý nghĩ nầy: xuyên qua các
mẩu chuyện tôi đang nghe được và qua nguồn xúc cảm nơi các thiền sư đã
trao truyền đến tôi, Dipa Ma hiện đang trở thành vị bổn sư của tôi.
Tôi cảm thấy có một sự liên hệ thân thuộc
cùng bà, với những điểm giống nhau giữa hai cuộc đời của bà và của tôi.
Ðời bà đã trải qua nhiều nỗi khổ đau cay đắng, mới mười hai tuổi đã phải
rời gia đình, về nhà chồng, theo phong tục tảo hôn của Ấn độ. Ðời tôi cũng
bị hoàn toàn xáo trộn một cách đột ngột vào năm mười hai tuổi: một buổi
sáng, tôi thức giấc để khám phá ra mẹ tôi, người mà tôi trìu mến thiết tha
nhứt, vừa tự tử hụt đêm qua. Mặc dầu mẹ tôi chẳng thành công trong việc tự
sát mãi cho đến nhiều năm về sau, nhưng biến cố đã gây ảnh hưởng thật tai
hại cho tôi. Giống như Dipa Ma, tuổi niên thiếu của tôi đã chấm dứt thình
lình trong một đêm. Những biến cố khác trong tuổi đôi mươi của tôi cũng
mường tượng với các sự mất mát và tranh đấu mà Dipa Ma đã trải qua, trước
khi người tìm ra đường lối tu tập thiền định.
Khi còn thơ ấu, tôi rất mê thích các câu
chuyện của những người Mỹ gốc Phi châu mặc dầu gặp bất hạnh nhưng đã vượt
qua khỏi các sự thống khổ của họ để vươn lên thành những lãnh tụ vĩ đại và
những vị thầy. Mahalia Jackson, hai vị Martin Luther King, Malcolm X, Paul
Robeson, Marian Anderson, Frederick Douglass, Rosa Parks: các vị ấy là
những nam, nữ thần tượng của tôi. Tôi muốn biết bằng cách nào mà Dipa Ma,
một người nội trợ tầm thường, đã khắc phục chẳng những các khó khăn tự bản
thân mà còn cả các sự ràng buộc khắc khe của chế độ phụ hệ trong nền văn
hoá Á đông, để rồi dấn bước vào con đường thiền tập và giảng dạy lại cho
nhiều người khác, theo phong cách rất khác lạ với thời đại của bà. Mặc dầu
bà chẳng hề tự xem mình là lãnh tụ đấu tranh cho nữ phái, hay cho một
thiểu số nào, Dipa Ma cũng gợi lên cho tôi nhớ đến các thần tượng hồi tôi
còn bé, với tấm gương can đảm dũng mãnh của bà trước nghịch cảnh.
Tôi rất khao khát được bước theo gót chơn
bà. Tôi muốn biết tất cả về bà. Tôi đến gặp Joseph Goldstein khi
mãn khoá ba tháng an cư và hỏi ông hay một vị thiền sư nào khác, có ý định
viết về đời bà Dipa Ma không. Không, ông đáp, và chẳng có ai mà ông được
biết, có ý định đó. Thật tình, ông chẳng có thời giờ để làm việc nầy. Rồi,
với một giọng tràn đầy nhiệt tâm, ông nói tiếp: "Bạn nên làm việc đó!"
Ngày lại ngày, tôi nghiền ngẫm đề nghị do
Joseph gợi lên. Làm sao mà tôi có thể viết về một người mà tôi chưa hề gặp
gỡ? Nhiều bạn hữu trỏ cho thấy rằng, hằng triệu người học giáo pháp của
Ðức Phật từ hơn hai mươi lăm thế kỷ lúc Ngài còn tại thế, chỉ có một nhóm
nhỏ người đã được thân cận với Ngài. Ðiều đó cũng đúng với Chúa Jésus, với
Mohamed, và cả với các vị lãnh đạo tâm linh khác nữa. Các mẩu chuyền về
các Ngài, chính là những bản văn sống động của các Ngài.
Và như thế là tôi bắt đầu công cuộc sưu
tầm về Dipa Ma qua các trần thuật của những ai đã biết bà. Trong tám năm,
tôi đã kết tập những mẩu chuyện về bà do các đệ tử của bà tại Mỹ quốc, tại
Ấn độ và Myanmar (Miến điện). Mỗi một bước đi trong hành trình, mỗi chuyến
gặp gỡ, mỗi phút chia tay, mỗi lời trò chuyện, mỗi khi nhắc nhở kỷ niệm,
tất cả đều đượm nồng tình thương: tình thương đối với Dipa Ma, tình thương
về Phật đạo, tình thương về cuộc sống quí báu nầy.
Ðức Phật có mô tả Giáo pháp như "khéo đẹp
ở đoạn đầu, khéo đẹp ở đoạn giữa, và khéo đẹp ở đoạn chót." Khi tôi được
nghe người khác kể lại các mẩu chuyện, lời giảng dạy của Dipa Ma càng lộ
ra vẻ khéo đẹp lần nầy và nhiều nhiều lần khác nữa. Ngay cả sau khi mất,
bà vẫn còn sống mãi trong lòng người. Có lắm đệ tử bảo rằng họ vẫn còn
được chính bà dẫn dắt cho trong việc tu tập của họ. Vài người mặc dầu chưa
hề gặp gỡ bà lần nào, thuật lại rằng họ đã được bà giúp đỡ trong buổi
thiền định của họ, hay đã thấy bà đến viếng họ trong giấc mơ. Ðôi người
nói đã lắng nghe được tiếng của bà; có kẻ bảo họ cảm được sự hiện diện của
bà. Tôi xem các điều huyền diệu nầy như là những món quà của sự ân sủng.
Cho dầu chúng ta đang cảm thấy quá bơ vơ lạc lỏng nơi nội tâm chúng ta,
hoặc cho dầu tình trạng thế giới có tuyệt vọng đến đâu đi nữa, cho dầu
chúng ta đang ở bất cứ đâu, cho dầu chúng ta có biết đến hay chẳng biết
đến, luôn luôn chúng ta đều được ngập tràn trong ân sủng.
Nguyện cầu các mẩu chuyện sau đây sẽ giúp
đỡ Bạn trong chuyến hành trình tâm linh của Bạn! Nguyện cầu tất cả mọi
chúng sanh đều được giải thoát!
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục |
01 | 2.1 |
2.2 | 3.1|
3.2 |