BuddhaSasana Home Page
Ngập Sâu Trong Ân Sủng
Chương 8: Ðảnh lễ Tình Thương "Tâm bạn biết tất cả." Một buổi sáng, trong
quán cà phê đông khách ở Santa Fe, tôi hỏi Sharon Salzberg, "Dipa Ma đã
tặng chị món quà nào quí giá nhứt?" Sharon im trong giây lát, và gương mặt bà
trở nên xúc động. "Dipa Ma thật sự thương tôi lắm, chị đáp. Và sau khi bà
mất rồi, tôi thường tự hỏi "Rồi có ai thật sự thương yêu tôi như bà nữa
chăng?"
Cả hai chúng tôi rơi vào im lặng, và trong
một khoảng thời gian lâu, dường như có một cánh cửa mở ra một thế giới
khác. Trong cảnh giới mới đó, chỉ có một sự việc duy nhứt: tình thương
toàn vẹn tràn đầy.
"Dĩ nhiên, Sharon lại nói tiếp với nụ cười
hồn nhiên, "đó chẳng phải chỉ riêng cho một mình tôi. Tình thương ấy chẳng
có tính cách cá nhân." Jacqueline Mandell đã có lần hỏi Dipa Ma
rằng chị có nên tu tập về tỉnh giác hay về tâm từ. Dipa Ma đáp, "Theo kinh
nghiệm của riêng tôi, chẳng có sự khác biệt giữa tỉnh giác và từ bi". Ðối
với bà, tình thương và tỉnh giác chỉ là một. Xin hãy nghĩ lại cho kỹ. Khi
bạn thương yêu trọn vẹn, phải chăng bạn cũng đang tỉnh giác? Và khi bạn
tỉnh giác oàn toàn, đấy chẳng phải là bản chất của lòng thương sao? Joseph Goldstein nhắc lại một lần ông thấy
Dipa Ma đảnh lễ Ðức Phật, rõ ràng là lúc ấy chẳng có thêm một ai ở đó, đấy
chỉ là "tình thương đang đảnh lễ tình thương." Một học viên
khác nói, "Ðối với Dipa Ma, sự giác ngộ chính là tình thương rộng lớn.
Giáo pháp của bà qui về việc liên hệ với tất cả mọi người và từ ái". Tâm
bà, cũng như cửa nhà bà, luôn luôn rộng mở. Và trong tâm cao thượng đó,
mỗi người -- dầu trong buồn phiền hay trong hoan lạc -- đều có thể đến và
đi, và được ôm ấp trong vòng tay tình thương của bà. Asha Greer, một giáo
sĩ Sufi, mô tả lần ông được Dipa Ma ôm hôn: "thật là đầy suốt đến nổi cả
tấm thân thước tám của tôi xuyên thấu qua tâm bao la và rỗng vắng của bà,
mà vẫn còn chỗ cho cả bầu trời." Nguyện cầu cho tên trộm.
- Ðã vài năm qua, cứ mỗi lần tôi đến New York là chiếc xe của tôi bị đâp
kiếng và máy thâu thanh bị cướp mất. Tôi vừa được bạn mời dự đám cưới ở
Queens. Tôi nói với Dipa Ma, tôi tính đi xe lửa, vì máy thâu thanh trên xe
tôi thường bị ăn cắp. -- Ðừng có khùng! Bà bảo, "Cứ lấy xe đi đi."
Thế là chúng tôi lấy xe đi, kỳ nầy xe được
trang bị thêm một hệ thống an toàn. Chúng tôi đậu xe bên lề và vào dự đám
cưới. Khi trở ra, xe tôi lại bị đập kiếng như các lần trước. Lần nầy,
chúng lấy chẳng những cái máy thâu thanh mà cả những dĩa nhựa nữa. Khi về
đến nhà, tôi vừa bước qua cửa, Dipa Ma đã hỏi: "Ðám cưới thế nào?". Tôi
đáp, "Ðám cưới vui lắm. Nhưng xe tôi lại bị đập kiếng nữa, máy thâu thanh
bị cướp mất, và tôi hết sức phiền lòng!" Dipa Ma phá lên cười. -- Có chi đáng tức
cười vậy?
-- Trong kiếp trước, anh chắc là một tên
trộm. Còn bao nhiêu lần nữa anh thấy cần phải bị mất máy thâu thanh? -- Bà nói cho tôi biết đi, còn mấy lần
nữa, để tôi biết mà chuẩn bị. Lờ đi câu hỏi của tôi, bà hỏi thêm: -- Anh đã làm gì? Phản ứng của anh ra sao
khi chiếc xe bị đập kiếng?
-- Tôi nổi khùng lên, vì đã nhiều lần bị
như thế rồi. Và chuyến nầy, tôi đã cẩn thận gắn thêm hệ thống an toàn. Bà nhìn tôi chưng hửng. "Anh muốn nói là
anh chẳng hề nghĩ đến tên trộm, đời nó buồn phiền đến mức nào à?" Bà nhắm
mắt lại và bắt đầu lặng lẽ niệm kinh, và tôi biết bà đang rải tâm từ bi
đến cho tên ăn trộm. Thật là một bài học đáng giá cho tôi. --
Steven Schwartz
Một người khác để thương.
- Bà rất giàu tình thương và cư xử tựa như bà ngoại thương cháu. Khi bạn
vừa tới Ấn độ, đến thăm bà, câu hỏi đầu tiên của bà là "Bạn mạnh giỏi thế
nào? Sức khoẻ bạn ra sao? Ăn uống có ngon không, có chịu đựng được khí hậu
và thực phẩm ở đây không? " và nhiều câu khác đại loại như thế... Bà nở nụ
cười khi có người bước vào nhà, và rồi lời chào mừng đượm đầy lòng từ ái
tuôn ra như cơn mưa rào. Ðâu kể gì người nào đã bước vào, đâu xá chi
trường hợp nào hoặc điều nào họ kể lại với bà: sự phân biệt đối xử chẳng
bao giờ thích hợp với bà. Ðiều quan trọng chỉ giản dị là có một khác tới
để bà rải tình thương. -- Jack
Kornfield
Tôi cũng có quà cho bạn nữa.
- Trong chuyến đi đầu tiên của tôi sang Ấn độ, bạn tôi, Sharon Salzberg,
đã tháp tùng và chia xẻ với tôi những kinh ngiệm thích thú của chị. Tại
Benares (Ba la nại) có một thứ kẹo ngọt hết sức đặc biệt, gọi là rasmali,
mà chị muốn tôi thử thưởng thức. Thật là ngon đáo để.
Trở lại Calcutta, chúng tôi đến gặp Dipa
Ma. Bà hỏi tôi: "Bạn thích điều gì nhứt ở Ấn độ?" Tôi tưỏng tượng câu trả
lời đúng đắn nhứt có lẽ như thế nầy, "Tôi đã cầu nguyện trong một ngôi đền
ở Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya)" hay là "Tôi đã thấy được một bức tượng của
Ðức Phật đẹp tuyệt vời", hoặc là "Tôi đã tham dự một kỳ an cư". Nhưng tôi
lại buột miệng thốt ra điều vừa thoáng qua trước nhứt trong đầu, "Tôi đã
ngậm mấy viên kẹo ở Benares, thật là ngon!" Sharon liếc xéo tôi một cái,
và tôi tự hỏi thầm, chẳng biết Dipa Ma đã nghĩ thế nào về câu trả lời của
tôi. Ðến khi chúng tôi sắp rời Calcutta, trên
đường đến phi trường, chúng tôi ghé lại để giã biệt Dipa Ma. Chúng tôi vái
lạy bà và hiến dâng một tặng phẩm. Bà bảo, "Tôi cũng có quà cho hai bạn
nữa", vừa nói bà vừa đặt mấy viên kẹo rasmali trước mặt chúng tôi. Bà đã sai vị hôn phu của Dipa đi lùng khắp
Calcutta để tìm cho ra loại kẹo đặc biệt đó của Benares. Tôi đã xúc động
vô cùng trước cử chỉ bà ban tặng cho tôi điều tôi thật tình mong muốn, dầu
đó là điều gì đi nữa. Nếu tôi bảo lưỡi tôi đã thích thú thưởng thức, chắc
rồi bà cũng sẽ bồi dưỡng phần thân thể đó của tôi. --
Steven Schwartz
Rải tâm từ ái đến mẹ bạn.
- Tôi được gặp một người đến Ấn độ để tu tập thiền vào cuối thập niên 60
và đầu 70. Chàng ta là một thiền sinh rất khao khát tập luyện. Anh cạo
đầu, mặc áo tràng trắng, và sống nhiều năm trong các chùa chiền, đền thờ
và tu viện. Cha mẹ anh rất ghét việc đó. Vào thời ấy, anh ở khoảng hơn ba
mươi tuổi, và cha mẹ muốn anh theo học y khoa hay trường luật. Nhứt là
người mẹ rất đau buồn, coi như anh đã chết rồi, và bà mất một đứa con
trai. Mỗi khi anh đến gặp Dipa Ma, bà đều hỏi thăm về mẹ anh. "Mẹ bạn có
mạnh giỏi không? Mỗi khi bạn ngồi thiền, bạn có rải tâm từ bi đến mẹ bạn
không? Khi đang tu tập thiền, bạn phải nên nhớ nghĩ đến mẹ trong tâm bạn,
và gởi lòng từ ái đến cho bà." Có một lần bà rút dưới nệm trong phòng bà
và lấy ra một sấp giấy bạc, tiền Ấn. Bà cầm tờ giấy bạc một trăm ru pi,
trị giá tương đương khoảng mười hai đô la Mỹ, một số tiền khá to đối với
bà. Bà đặt tiền vào tay anh, kéo mấy ngón tay anh nắm chặt lại, và nói:
"Ði mua ngay một món quà và gởi thẳng về cho mẹ bạn." Ðấy là đường lối bà
giảng dạy. -- Jack Kornfield
Vuốt ve hết tất cả.
- Khi Dipa Ma đến ở nhà chúng tôi lần đầu, bà với đứa cháu ngoại bà,
Rishi, cả hai rất sợ con chó trong nhà. Từ nào tới giờ, bà đâu có sống
trong nhà mà có chó ở chung. Loài chó ở trong xóm bà, phần lớn đều gầy ốm
mất vệ sinh, cho nên việc nuôi chó ngay trong nhà mình ở là điều chẳng hợp
lý.
Tuy nhiên, chỉ chừng trong gần hai tuần lễ
thì có môt sự thay đổi kỳ diệu trong mối tương quan giữa bà và con chó.
Chữ "chó" (Dog) là danh từ Anh ngữ đầu tiên mà bà học được. Mỗi
buổi sáng, bà đi xuống lầu và nói bấp búng câu tiếng Anh, "Chó, con chó
đâu rồi?" Và con chó Yeats (đọc
là Dít )
lại chạy đến, và bà ngồi quì xuống, tay vuốt ve nó với tất cả tấm lòng từ
bi, cũng như khi bà vuốt đầu chúng tôi và các thiền sanh khác. Con Yeats thích lắm. Thật là một cảnh
ngoạn mục nhìn thấy người và thú liên hệ nhau như thế, một phần vì trước
đây bà còn rất ngán sợ lũ chó; và ta có thể nhận thấy ra được sự tùy duyên
biến đổi trong phần văn hoá của bà. Nhưng bà chỉ đem con chó vào tâm đang
rộng mở của bà, và cả hai, người và thú, trở nên đôi bạn thân tình. Ðến
ngày bà từ giả chúng tôi, bà bước đến gần con Yeats, ngồi quì xuống bên
nó, nói chuyện với nó, và từ bi cầu nguyện cho nó. --
Steven Schwartz
Chú gấu nhồi bông "Khất sĩ".
- Trong thời gian Dipa Ma đến giảng dạy ở Hội Thiền Minh Sát (IMS,
Insight Meditation Society), vào năm 1984, tôi có bắt gặp một chú gấu
nhồi- bông bị vứt bỏ trên nắp thùng rác trong vùng lân cận. Tôi nhặt lên
và mang đến cho Rishi, cháu ngoại của Dipa Ma, bấy giờ cũng theo bà trong
chuyến du hành sang Mỹ. Chúng tôi đặt pháp danh cho chú gấu là "Khất sĩ",
Anagarika Teddy, (Anagarika = Phi gia chủ, Khất sĩ; Teddy
bear = con gấu nhồi bông, để trẻ con chơi). Khi gia đình Dipa Ma rời
khỏi Thiền đường IMS, chú gấu được ở lại, giao cho tôi săn sóc. Nhưng tôi
lại ít khi nhớ đến nó.
Hai năm sau, tôi có dịp sang Ấn độ và đến
thăm Dipa Ma ở Calcutta. Khi thấy tôi, bà hỏi ngay, "Còn chú gấu Khất sĩ
(Anagarika Teddy) ra sao?" Bà cũng chẳng quên ngay cả con gấu nhồi bông
lượm được trên thùng rác. Tôi đứng đấy sững sờ. Ðiều nầy đã khiến tôi thấy
rõ nơi bà mối quan tâm của bà đối với mọi sanh vật, còn đang thở như chính
tôi đây, và luôn cả tâm trí thanh tịnh của bà. -- Buzz Bussewitz
Khi tâm chẳng sợ.
- Khi Dipa Ma sắp rời Hội Thiền Minh sát (IMS, Insight Meditation
Society), cả nhóm chúng tôi, gần hai mươi người, cùng đứng gần bà,
chắp tay ngang ngực. Vì một lý do nào đó, trước khi bước lên xe, bà quay
lại nắm lấy tay tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, thật gần, và cầm lấy bàn tay
tôi trong im lặng. Bà nhìn tôi với hết sức thương mến, với hết sức trống
vắng, với hết sức ân cần. Trong giây phút đó, bà truyền sang cho tôi một
niềm từ bi thật trọn vẹn và chân tình... một nguồn shakti (năng lực
tâm linh) tuôn tràn ra từ bà. Rồi bà nhìn quanh, kế từ từ bước lên xe. Trong một phút giây, bà đã cho tôi nếm
hương vị của tình thương mà từ hồi nào đến giờ tôi chưa từng hưởng. Dó là
một tình thường thật hiếm có, chẳng đượm chia ly, chẳng vướng phân biệt.
Ðây là lần đầu tiên tôi được thọ hưởng những gì có thể hiện khởi trước sự
hiện diện của một bực đã giác ngộ. Giây phút đó mãnh liệt cho đến nổi tôi
cảm thấy như vừa xảy ngày hôm qua. Biết được tình thương đó, và nhận thấy có
thể đem chia xẻ nó cùng với người khác, đó là một nguồn cảm hứng chân thật
cho tôi, trên con đường đạo. Dipa Ma là hiện thân của tình thương tràn
ngập tuôn ra, khi tâm ta chẳng hề sợ hãi. --
Sharda Rogell
Ánh sáng nơi Calcutta.
- Bà đã chiếm một chỗ trong trái tim tôi, đã vượt xa khỏi sự sợ hãi và hỗ
thẹn, một nơi hoàn toàn mới lạ và ngây thơ. Ðó là điều, bà là ai, và bà
nhìn mỗi người trong chúng ta ra như thế nào. Khi rời khỏi nhà bà, tâm tôi
rộng mở đón tiếp sự kỳ diệu và thanh tịnh đó. Lần thứ nhứt trong đời tôi,
tôi có thể nhìn sự thống khổ và nghèo đói ở Calcutta theo một hướng khác.
Ánh sáng dường như đã tỏa xuống, rạng rỡ trên thân những người cùi hủi và
hành khất, và tôi đã có thể nhìn thấy bản thể của mỗi người. --
Steven Smith
-ooOoo- Chương 9: Thần thông tự tại "Chỉ cần đạt được định lực thâm sâu".
Dipa Ma phát triển
các năng lực tâm linh của bà dưới sự hướng dẫn của thiền sư Munindra và bà
chẳng hề thi triển thần thông, trừ phi khi vị thiền sư nầy yêu cầu. Thần
thông, năng lực tâm linh phi thường ấy, chẳng phải đạt được qua sự luyện
tập thiền minh sát, mà chính do sự tu tập định lực trong đó tâm trí đi sâu
vào một trạng thái thâm định thường được gọi là thiền-na (jhana).
Trong khi tập luyện thiền-na, Dipa Ma có thể đi vào bất cứ một trong tám
trạng thái cổ điển về thiền-na, theo ý mình muốn, và trú trong đó bao lâu
mà bà muốn. Trong trạng thái thiền càng thâm sâu, các bộ phận trong cơ thể
có thể hoạt động chậm lại, gần như ngừng hẳn, do đó chẳng thấy cần thiết
phải ăn, uống, ngủ, đi, hay bài tiết. Dipa Ma có thể quyết định nhập vào
một trạng thái thiền na đặc biệt nào và "tỉnh dậy", hay xuất thiền, vào
một thời khắc đã định trước. Trong một dịp, bà quyết định nhập vào thiền
thứ tám, và an trú trong đó ba ngày, hai mươi mốt giờ, tám phút, và ba
giây. Bà xuất thiền đúng vào giây phút bà đã định trước.
Khi bà trở lại Ấn độ, Dipa Ma thôi chẳng
thực tập các năng lực đó nữa, nhấn mạnh rằng chúng dính líu nhiều với cái
tự ngã, và do đó là một chướng ngại cho sự giải thoát. Thiền sư Munindra
cũng đồng một quan điểm: "Các năng lực đó chẳng có quan trọng gì cả. Sự
giác ngộ mới là quan trọng. Bạn phải cần đến trí huệ khi xử dụng chúng.
Bạn chẳng muốn dùng chúng với lòng tự ngã, bới vì chúng chẳng phải là của
bạn. Bạn chẳng thể dùng đến chúng và nghĩ rằng bạn là một bực có đầy quyền
lực. Làm như vậy, chẳng phải là trí huệ." Jack Engler có lần đã hỏi Dipa Ma rằng bà
vẫn còn giữ các thần thông bà đã học được các năm về trước, khi theo học
với thiền sư Munindra không. Bà đáp:
-- Không. -- Bà có thể có trở lại được chăng?
-- Ðược, nhưng phải mất nhiều thời giờ. -- "Trong bao lâu?" Jack hỏi tiếp, tưởng
đâu bà sẽ đáp bằng tháng hay bằng năm.
-- Ồ, chừng đôi ba ngày, bà nói, nếu tôi
thực tập thật cẩn thận. Thường được nghe nói có sáu loại thần
thông, năm loại đầu có tính cách tại thế, đạt được qua sự thâm định của
cấp thiền thứ tư, và một loại thần thông xuất thế gian, chỉ chứng đắc nhờ
thực tập thiền minh sát và coi như khi dấu hiệu đã đắc được tuệ giác đầy
đủ. Năm loại thần thông tại thế còn có thể tìm thấy nơi truyền thống ngoại
đạo, phù thủy hoặc du già, và có thể tự nhiên phát khởi, với một mức độ
thấp hơn, nơi một vài cá nhơn. Ðó là: - Quyền năng thần bí: có thể biến
đổi được một trong bốn nguyên tố căn bản: đất, nước, gió, lửa, sang
nguyên tố khác - Thiên nhĩ: khả năng nghe được
âm thanh gần hay xa, tại thế gian nầy hay tại các cảnh giới khác.
- Thiên nhãn: khả năng nhìn về
tương lai, thấy được các vật gần xa tại thế gian nầy và nơi các cảnh
giới khác. - Túc mạng thông: biết được cuộc
sống các kiếp trước của mình và của những người khác. - Tha tâm thông: đọc được tư
tưởng của kẻ khác và biết rõ tâm của họ. Dipa Ma đã thi triển các loại thần thông
đó trước mặt thiền sư Munindra, và vị nầy xác nhận rằng bà đã điều phục
chúng thật thuần thục. Các lời trần thuật sau đây là những ký sự ghi nhớ
lại của ông hay của các học viên của bà. Một hôm, thiền sư Munindra đang ngồi trong
phòng, bỗng ông để ý có một việc gì là lạ đang xảy ra trên không trung,
bên ngoài khung cửa sổ. Ông ngẩng lên nhìn và thấy Dipa Ma lơ lửng trên
không, gần các ngọn cây, đang nhoẻn miệng cười với ông và bà đang ngồi
trong một căn phòng mà bà xây lên giữa không khí. Do biến đổi nguyên tố
gió trở thành nguyên tố đất, bà đã có thể tạo nên một kiến trúc giữa
khoảng không. Biến đổi các chất đặc cứng trở thành chất
khí, tạo nên những biến cố có phần ít đáng kinh ngạc hơn. Ðôi khi Dipa Ma
và em bà là Hema đi đến trình pháp với thiền sư Munindra bằng cách bất
thần hiện hình lên trong phòng ông, và Dipa Ma cũng có lúc bước ra khỏi
phòng xuyên qua cánh cửa khép chặt. Cũng tựa như trò đùa, bà đứng lên khỏi
ghế, bước tới vách gần đó và đi ngang qua tường.
Dipa Ma học cách nấu nướng chẳng cần lửa,
bằng lối tạo ra nguyên tố lửa từ nơi bàn tay của bà. Bà cũng đổi nguyên tố
đất thành ra nguyên tố nước, để trình diễn với thiền sư Munindra bằng cách
chui sâu vào một khoảng nền đất để rồi trồi lên, tóc và quần áo ướt đẫm
nước. Nếu bà đi bộ một mình trong đêm tối, bà phân thân ra, thành có thêm
một bạn đồng hành đi bên cạnh, để khỏi bị ai khuấy phá.
Khả năng của Dipa Ma về địa hạt nầy đã
được trắc nghiệm lại và được một nhóm khoa học gia khác xác nhận. Thiền sư
Munindra có quen biết với một giáo sư về Cổ sử Ấn độ tại truờng Ðại học
Magadh, ông ấy đã tỏ ra rất nghi ngờ về các năng lực thần thông. Munindra
mới đưa đề nghị chứng minh sự có thật của các năng lực thần thông và cả
hai ông cùng thiết lập một cuộc thử nghiệm. Vị giáo sư liền nhờ một người
sinh viện tín cẩn ngồi canh chừng trong căn phòng Dipa Ma đang ngồi thiền,
để chắc chắn rằng bà chẳng hề rời khỏi chỗ ngồi của bà trong phòng. Ðến
ngày đã hẹn trước, người sinh viên kiểm nhận là Dipa Ma chẳng hề rời khỏi
tư thế ngồi thiền, và cùng lúc ấy, bà lại hiện lên trong văn phòng của vị
giáo sư cách đó mười dặm và trò chuyện cùng ông. Dipa Ma và Hema đã có một lần phối hợp các
năng lực thần thông của họ lại để di chuyển một chiếc xe buýt. Một buổi xế
trưa tại Rangoon, họ đang chờ xe buýt tại một trạm. Khi xe đến tới trạm,
trễ hằng giờ, cả hai người, Dipa Ma và Hema thấy họ sẽ trễ mất chuyến hẹn
ở một nơi cách đó khá xa. Bởi họ muốn đến nơi đúng giờ khỏi lỡ buổi hẹn
quan trọng, nên họ bắt đầu ngồi tập trung định lực và đẩy chiếc chạy mau
lên để đúng giờ. "Trong cơn đại định (samadhi)", thiền sư Munindra
giải thích, "họ đã cùng quyết định, và đã di chuyển chiếc xe, ngay cả
trong khi họ đang ngồi trong xe ấy. Họ đã thâu ngắn lại thời gian và
khoảng đường cách xa. Ðiều nầy có thể làm được. Ðức Phật đã làm như thế
đối với Angulimala (Ngài Ương quật ma la, hay Vô Não, hay
Chi Man). Khi Chi Man (Angulimala) muốn chạy theo giết Ðức Phật, thì
Ðức Phật dừng lại bất động, tuy vậy mà Chi man chẳng đến gần Ngài được. Ðó
là bởi vì Ðức Phật đã dùng sức thần thông khiến cho khoảng cách giữa Ngài
và Chi Man giữ nguyên, chẳng thay đổi. Ðó là một việc thật giản dị." Dipa Ma còn có khả năng nhìn thấy hay nghe
đến các biến cố xảy ra ở nơi khác và vào một thời kỳ khác. Khi nhà ngoại
giao Miến điện, U Thant, sắp lên lãnh chức vị Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc,
thì thiền sư Munindra biết U Thant sẽ đọc một bài diễn văn nhậm chức, ông
bảo Dipa Ma hãy đi vào tương lai và ghi nhớ lại nội dung bài diễn văn đó.
Bà liền đọc lại bài diễn văn đó và thiền sư Munindra ghi âm vào máy. Một
tháng sau, U thant đọc diễn văn tại Liên Hiệp Quốc, đúng từng chữ một với
bài văn Dipa Ma đã tiên đoán.
Vượt thời gian và không gian.
- Dipa Ma bảo, bà có thể đi ngược lại thời gian để đến nghe lúc Ðức Phật
đang thuyết pháp. Khi tôi hỏi, bà làm cách nào được như vậy, thì bà mỉm
cười và bảo: "Tôi đi ngược lại từng tâm thời qua tâm thời". Chắc là tôi
đang nhìn bà với cả sự kinh ngạc, bởi vì bà lại mỉm cười và nói, "Ồ, bạn
chẳng thể nào làm như thế để Niết bàn (sự giác ngộ) được hiện ra." Rồi bà
cười to lên và nói thêm, "Ðiều ấy rất buồn cười. Chỉ cần tập trung định
lực cho thật nhiều thôi." Trông ánh mắt bà, khi bà đang nói, bà thật là
hết sức giải thoát và hết sức thanh tịnh." --
Michael McDonald Smith
Nhìn với thiên nhãn.
- Dipa Ma có thể nhìn vào cơ thể con người và mô tả não bộ và quả tim hoạt
động như thế với một sự chính xác khoa học và với một trình độ rõ ràng cao
hơn sức học của bà. Bà mô tả các sáng chế tân kỳ được tạo ra ở các vùng
khác trên thế giới. Bà kể cho thiền sư Munindra nghe về một sự phát minh
mới, nó giống như gì, nó dùng làm gì, nó được cất giữ nơi nào. Thiền sư
cũng đã nghĩ cách trắc nghiệm lại khả năng của các đệ tử của ông, và khi
ông trắc nghiệm các sự mô tả của Dipa Ma, ông thấy chúng đều chính xác đến
một trăm phần trăm.
Munindra bảo Dipa Ma hãy nhìn vào những gì
đang xảy ra trong phòng bên cạnh, rồi tả lại cho ông nghe. Rồi ông kiểm
điểm lại. Sau đó, ông lại bảo bà nới rộng khả năng thiên nhãn thêm, để
nhìn càng lúc càng xa hơn nữa, đến những điạ điểm mà ông có thể soát lại
sự chính xác của lời bà mô tả. Thí dụ như, bà chưa hề đặt chơn đến Bồ đề
đạo tràng (Bodh Gaya), và thiền sư bảo bà hãy mô tả lại nơi ấy --
cội Bồ đề ở về phía nào, những thánh vật nào còn lưu lại từ thời cổ đại.
Ông đã từng làm vị giám thủ bảo tàng viện ở đấy trong nhiều năm và biết rõ
cả những chi tiết ẩn mật của điạ điểm nầy. --
Jack Engler
Chẳng những Dipa Ma có thể đến thăm viếng
bất cứ nơi nào trên quả đất nầy, bà còn có khả năng vượt đến các cảnh giới
khác đã được mô tả trong vũ trụ học của Phật giáo -- như cõi Trời và cảnh
điạ ngục chẳng hạn. Bà mô tả các loại chúng sanh đang sống nơi đó và những
gì xảy ra chung quanh họ. Ðôi khi, bà buột miệng kể lại các chuyến bà du
hành sang các cảnh giới khác lạ đó. Cõi Trời. - Trong ba tháng an cư ở Hội
Thiền Minh sát (Insight Meditation Society), ở tiểu bang New
England, vào những ngày mùa thu trời trong xanh như pha lê, với vài vừng
mây bạc trôi trên ngọn cây rực rỡ ánh sáng và màu sắc, chúng tôi thường đi
bách bộ bên ngoài. Chúng tôi đến ngồi trên các phiến đá, bên bờ hồ, và mặt
nước lặng tờ phản chiếu các màu sắc đó.
Có nhiều người đến bờ hồ, và trong số đó
có một người nói với Dipa Ma, "Cảnh nầy chắc phải giống cảnh tiên trên cõi
Trời" -- chúng tôi đều biết bà đã từng du hành đến các cảnh giới khác. Và
bà nhìn anh bạn rồi nói: "Không, chẳng có chi giống cả. Cảnh đây khá đẹp,
nhưng nó thật còn chưa đụng tới cảnh Trời." --
Jack Kornfield
Thiên nhãn của Dipa Ma đã giúp bà nhìn
thấy cả tương lai của các học viên của bà. "Bà tiên đoán về sự nghiệp
giảng dạy của tôi rất tỉ mỉ, vào lúc mà tôi chưa từng giảng dạy chút ít
nào cả", Joseph Goldstein nói, "Tôi tin rằng bà đã thấy rõ trước tất cả
những thăng trầm của trọn đời tôi."
Biết cả vị lai.
- Ðến gần cuối khoá an cư ba tháng, bà nhìn thẳng vào tôi và nói, "Khi chị
trở về nhà, chị sẽ giảng dạy về tâm từ bi tại một bệnh viện." Lời tuyên bố
đó là tôi ngạc nhiên bối rối, vì từ trước tới giờ tôi đâu có chút liên hệ
nào với bệnh viện. Nhưng tôi nghĩ, "Ðược rồi!" Tôi về nhà chưa được giáp tháng thì ai đó
ở Bệnh viện Nhi đồng gọi điện thoại cho tôi, hỏi tôi có muốn phụ trách
Trung Tâm Sinh Hồi Báo (dịch gượng chữ Biofeedback) ở nhà thương hay
không. Tôi thật ngạc nhiên quá sức, và ngẫm nghĩ, "Ðược rồi, đó chính là
cái phần bệnh viện đấy." Tại Bệnh viện Nhi đồng, trẻ con đến với tình
trạng căng thẳng về tâm thần: nhức đầu kinh niên, đau bụng, chinh trung
bệnh (phobia, chứng sợ hãi vô lý), và nhiều bịnh khác nữa, thì tôi sẽ dạy
cho chúng tâm từ bi. Việc hồi báo về sinh học (biofeedback) chỉ là khung
cảnh làm việc của tôi thôi, nhưng tôi lại thực sự đang dạy trẻ nhỏ về tâm
từ bi đối với chính chúng nó, đối với đồng loại và đối với các trẻ khác
nữa. Tôi thắc mắc tự hỏi chẳng biết có phải Dipa Ma đã gởi công tác đến
cho tôi, hay là bà đã biết trước công tác đó sẽ tới với tôi. Khi tôi nhận
được cú điện thoại đó, cứ như thể là chính Dipa Ma đang gọi tôi ở bên kia
đầu giây, dặn tôi phải nhận lấy công tác đó. --
Michelle Levey
Dipa Ma lại còn có một khả năng rất mạnh
mẽ lạ thường để thần giao cách cảm với các học viên của bà. Vượt khỏi ngôn từ.
- Theo sự phân công, nhiệm vụ của tôi là rửa chén bát trong hai tuần lễ
cuối cùng của khoá an cư. Khi tôi thưa với bà, tôi sắp rời nơi đây, bà bảo
bà muốn chúc phước lành cho tôi. Bà hỏi tôi nhiều câu như bà nội hỏi cháu,
rằng tôi đã lập gia đình chưa, và tôi đang làm nghề gì,... Rồi miệng bà
phát ra những tiếng Bengali, đặt tay bà lên đầu tôi, và tôi cảm thấy như
có một luồng sét điện chớp đang xẹt lên đầu tôi. Ðùng một cái, tôi có cảm
tưởng như bà đã đọc rõ tất cả tư tưởng trong đầu tôi và chúng tôi, bà và
tôi, đang nói chuyện với nhau, vượt lên cả ngôn từ... Chúng tôi cảm thông
nhau trên một giai tầng mới, một sự cảm thông giữa bai bản thể,... một sự
cảm thông thanh tịnh giữa tâm bà và tâm tôi. Tôi cảm như được vỗ vào đầu,
một cách êm dịu... Sau lời chúc phước, tôi cảm thấy một sự sảng khoái kỳ
thú. Tôi nhớ tôi đã bước ra khỏi cửa Trung tâm Thiền Minh sát như đang
bước lơ lửng khỏi mặt đất. -- Carol
Constantian Lazell
Tâm tâm tương ứng.
- Bất cứ lúc nào tôi tìm đến gặp Dipa Ma để thưa hỏi về một vài khó khăn
trong việc thực tập thiền, tôi đều thấy bà nhìn thẳng vào mắt tôi với cái
nhìn trầm lặng, như bà đang vào đại định, trong khi tôi mở lời. Ngay trước
khi người thông dịch bắt đầu nói, tôi đã cảm thấy một cái gì nhột nhột ở
sau ót tôi. Ðôi khi, lại nghe "click" một tiếng, rồi trọn cả vấn đề khó
khăn và mối tình cảm dính líu vào đó, cùng biến đi mất cả.
Tôi tin rằng bà có đủ năng lực tâm linh,
hay thần giao cách cảm, để tác động trực tiếp đến tâm trí kẻ khác. Bà dạy
tôi một cách thầm lặng rằng, giải pháp cho các vấn đề nội tâm của tôi, do
chính nơi tâm trạng của tôi, chớ chẳng phải do nơi lời bà nói, cũng chẳng
do nơi các kỹ thuật điều chỉnh sự chú ý nào, mà có thể tìm thấy ra được.
Bà trao tặng tôi lối giải quyết mọi khó khăn tôi đang gặp phải, bằng cách
bà chia xẻ cho tôi một tâm trạng trong đó, một cách giản dị, vấn đề khó
khăn chẳng còn hiện diện nữa. Ðấy là một chuyển đổi bất thần, tức khắc,
tựa như một thủ thuật điều chỉnh tâm lý vậy. -- Daniel Boutemy
Nụ cười cứ tươi mãi.
- Tôi theo học và tập luyện ở Ấn độ trong một thời gian khá dài và đã trải
qua khá nhiều khó khăn trong đời tôi. Tôi được sắp xếp để trở về Mỹ dạy
thiền trong ba tháng an cư ở Hội Thiền Minh sát (I.M.S). Trên đường
rời nước Ấn tôi định ghé lại Calcutta và thăm Dipa Ma. Tôi còn nhớ dạo ấy,
trời nóng đến 110 độ, vào một ngày ngột ngạt mờ bụi. Tôi đảnh lễ bà và
ngồi hầu chuyện cùng bà trong giây lát. Khi tôi đứng lên để giã biệt, bà
ôm tôi và hôn một nụ hôn thật kêu như thường lệ, rồi bắt đầu ban lời chúc
phước cho tôi. Tôi quì gối xuống, để được cao ngang với tầm vóc nhỏ thấp
của bà. Với lối chức phước thật đặc biệt của bà,
bà dùng cả hai tay bà vuốt lên đầu tôi, khắp mình tôi, vừa thổi nhẹ hơi
lên người tôi, vừa lâm râm tụng câu Kinh Phật. Một lối chúc phước thật
dài, rất lâu. Thoạt tiên, chỉ là một cảm giác thật êm dịu, nhưng từ từ cử
chỉ của bà càng kéo dài, cảm giác càng trở nên thấm thiá và lại thấm thiá
hơn nữa. Ðến lúc bà chấm dứt, vạn vật như bừng sáng lên và toả rộng ra, và
tôi há miệng ra nở nụ cười rộng đến từ bên mép tai nầy sang tận mép tai
kia! "Về, về đi và dạy một khoá an cư thật tốt
cho mọi người ở đấy," bà bảo tôi, "Hãy đi về với lời chúc lành của tôi".
Thật giống như bà nội đang tiễn đứa cháu ra đi với lời cầu chúc vạn sự
bình yên! Tôi rời chỗ bà ở, và đi bộ giữa mùa hè
nóng thiêu người của Calcutta, ngoắc một chiếc taxi lên phi trường Dum
Dum. Mất gần hai giờ mới đến nơi, trong khi anh tài xế tay đè lên còi xe,
lách qua lách lại giữa các chiếc xích lô đông đảo, xe cộ ồn ào, khói bốc
mù mịt, và sức nóng cùng độ ẩm, và sự nghèo đói cùng sự bẩn thỉu. Sau
cùng, tôi cũng đến được phi trường và sắp hàng dài cả giờ để làm thủ tục
quan thuế của Ấn độ, với các nhân viên lục soát hành lý của tôi, gạn hỏi
tôi rồi mới đóng dấu lên giấy tờ của tôi. Rồi tôi cũng leo được lên phi cơ
và mất thêm hai giờ bay mới đến Bangkok.
Phi trường Bangkok rộng lớn tựa như ở Los
Angeles, điều đó có nghĩa là phải mất thêm một giờ rưỡi đồng hồ sắp hàng
dài chờ qua ải quan thuế, mới gọi được chiếc taxi, cũng vượt vượt, lách
lách qua xe cộ, mới về tới một khách sạn ở Bangkok. Vậy mà, tôi chẳng hề
ngưng nụ cười trong suốt hành trình. Chuyến bay lâu, sắp hàng dài, qua
quan thuế, ngồi taxi, xe nghẽn trên xa lộ, tất cả những điều đó -- và tôi
vẫn ngồi đó với nụ cười tươi tắn rộng nở trên gương mặt tôi. Nụ cười chẳng
chịu tắt đi. Thật là hết sức đặc biệt. --
Jack Kornfield
Michelle Levey và chồng là Joel, xin với
Dipa Ma làm lễ cưới cho họ và ban phước lành, vào năm 1984.
Cơn mưa phước lành.
- Sau khi hôn lễ vừa xong, bà âu yếm nhìn vợ chồng chúng tôi và nói, "Cầu
nguyện một mối lương duyên thiền định đến với hai bạn". Chúng tôi quì
xuống và Dipa Ma đặt hay tay lên trán chúng và ban lời chúc phước. Có cảm
giác sọ đầu chúng tôi mở toác rộng ra đón cả không gian vào. Rồi cũng tựa
như bà đang đem một sự truyền cảm trực tiếp chất đầy vào trong sọ của
chúng tôi. Bà xối tuôn vào đấy một niềm an lạc và từ bi, ngọt ngào nung
chảy thấm vào và kết hợp chặt chẽ lại hai linh hồn với nhau. Cả hai chúng
tôi, chẳng ai đã từng có cảm giác giống như thế, từ trước đến nay.
Sau lời chúc phước của bà, chúng tôi đi
bách bộ vào khu rừng thưa, phiá sau thiền đường của Hội Thiền Minh sát.
Hôm ấy, vào tháng Chạp, nền trời trong xanh, chẳng gợn chút mây và lạnh
lẽo. Tuy nhiên, theo bước chơn chúng tôi dẫm lên trong rừng, chúng tôi
lắng nghe được một âm thanh tựa như các hạt gạo đang tuôn xuống, lên mình
chúng tôi. Nó cũng tựa như tiếng rào rào của mưa đá -- tách, tách tách,
khắp cả khu rừng thưa. Chúng tôi ngẩng nhìn lên bầu trời, nhưng nền trời
vẫn trong xanh. Tựa như một cơn mưa rào của phước báu. Chúng tôi tiếp tục
bước, và một sự biến thể kỳ lạ về không gian và thời gian xảy ra. Chúng
tôi bước và cứ bước, và cứ tưởng là đi xa lắm rồi, -- nhưng khi ngẩng lại
nhìn, thì lại thấy chúng tôi vẫn còn đang đứng tại nơi khởi hành. Cũng tựa
như đang đi theo một hành trình trên mặt phẳng Mobius, tưởng rằng sẽ đến
một nơi nào xa hơn đây, nhưng vẫn quay trở lại, lộn ngược từ trong ra
ngoài, từ ngoài vào trong và khép kín hai đầu lại với nhau, theo một
phương cách thần bí. -- Joel và Michelle Levey Chính Dipa Ma có kể lại một biến cố khá lạ
thường đã xảy ra cho bà, chỉ vì bà là người đã tuân theo đầy đủ các gíới
hạnh của đạo Phật.
Ngôi nhà từ đâu hiện lên.
- Tại những quốc gia theo đạo Phật, các tín đồ tuân hành tám điều giới
luật vào bốn ngày trong một tháng, và nhiều người đi chùa vào đêm rằm
trăng tròn. Vào một ngày rằm, một người bạn gái của tôi và tôi định đi tới
chùa. Khi chúng tôi ra khỏi nhà, trời mưa lâm
râm, nhưng đến khi chúng tôi vừa xuống xe buýt, thì mưa bắt đầu tuôn tầm
tã và đường lên chùa ngập sâu nước. Nhiều người ở chùa đang đợi chúng tôi;
nhưng chúng tôi chẳng thể đi xa hơn nữa, vì chúng tôi đang ướt đẫm, và
lạnh run. Vừa lúc ấy có chiếc xe ngừng lại, một
người đàn ông trên xe bảo chúng tôi rằng, có một ngôi nhà rất xinh xắn ở
gần đây. Ông mời chúng tôi lên xe và ngừng lại trước ngôi nhà trang hoàng
đẹp đẽ, có cổng ngoài ở phía trước. Chúng tôi đi vào nhà, leo lên thang
gác và định trú nơi đây, chờ mưa tạnh. Chúng tôi đợi chừng mười lăm phút,
rồi vội vã đi đến chùa. Chúng tôi vừa đặt chơn vào chùa, thì các
người ở đó nói, "Ồ, sao hai bà bị ướt hết trơn như vậy?" Chúng tôi kể lại,
lúc xuống xe buýt, mưa tầm tã, đường ngập nước, và thấy có một ngôi nhà
gần đó nên vào đụt mưa. Chúng mô tả ngôi nhà hai tầng, vừa xây xong còn
mới lắm. Nhưng những người ở lân cận đây, và cả các vị sư trong chùa hằng
ngày đi khất thực trong vùng nầy, đều bảo rằng, "Chúng tôi chưa hề thấy có
một ngôi nhà giống như các bà đã tả, trong vùng nầy cả." "A, vậy chắc có lẽ là một sự nhầm lẫn nào
rồi," tôi bảo họ, "Nhưng chúng tôi quả thật có trú mưa trong nhà ấy mười
lăm, hai mươi phút, thì chắc phải có ngôi nhà đó". Cứ bàn qua tán lại một
hồi và cuối cùng, chúng tôi nói, "Thôi được rồi, chúng ta hãy đến đó xem
sao". Chúng tôi ngồi lại nghe thuyết pháp và khi ra, trên đường về nhà,
chúng tôi cố tìm lại ngôi nhà. Chúng tôi trở lại vùng đó, và chẳng thấy
ngôi nhà ở đâu cả. Làm sao lại như thế được nhĩ? Rõ ràng chúng tôi có vào
đó trú mưa, bây giờ lại chẳng thấy ngôi nhà. Chúng tôi tìm sang một con lộ
khác, cũng chẳng thấy ngôi nhà đâu cả.
Hôm sau, vị sư ở chùa cũng nói, ông cũng
rán tìm ngôi nhà mà chúng tôi đã mô tả, nhưng chẳng thấy ở đâu cả. Chúng
tôi có trở lại tìm nữa, nhưng cũng chẳng có kết quả nào. Bấy giờ, có sự
bàn tán xôn xao về vụ nầy. Sau cùng chúng tôi đi đến kết luận là, bởi vì
chúng tôi có giữ giới (sila, giới hạnh), tuân hành theo đạo pháp,
và thường cầu nguyện. "Nguyện cầu chư Phậtvà Bồ tát bảo hộ chúng con được
tai qua nạn khỏi," cho nên các đấng bề trên đã đến giúp đỡ chúng tôi và đã
dựng lên ngôi nhà cho chúng tôi trú mưa. Vì thế, tôi thường khuyên các bạn
nên giữ giới đầy đủ. Bởi vì sẽ có ai đó đến giúp đỡ và bảo hộ bạn tránh
mọi sự tổn hại. Ðiều nầy đã xảy ra cho chính bản thân tôi. Bấy giờ có tới
hai người trong cuộc, cho nên tôi biết chẳng phải là giấc mơ hay trí tưởng
tượng của tôi. Chư thiên thần thực sự đến cứu giúp chúng ta. --
Dipa Ma
Một người học viên nghe Dipa Ma kể lại
biến cố trên đây, đã ghi lại phản ứng như sau: Chuyện ấy có thật.
- Tôi rất thích nhìn thấy cái "gói"vải trắng nhỏ đó nhẹ nhàng bước vào
giảng đường và kể lại cho chúng tôi nghe các mẩu chuyện về sự tập luyện
Thiền của bà để khuyến khích chúng tôi. Một trong những mẩu chuyện đó là
cái vụ ngôi nhà đã hiện lên một cách mầu nhiệm, giữa cơn mưa tầm tã để cho
bà trú chơn, bởi vì bà là một đệ tử thuần thành của Phật pháp. Khi chúng
tôi bật cười lên, nhẹ nhàng "chọc quê" vị thầy khả kính và nổi danh của
chúng tôi, thì bà lại hiền từ nhìn chúng tôi; bà còn chưa hiểu được sự
nghi ngờ duy lý của chúng tôi, cũng như chúng tôi chẳng hiểu thấu nổi tấm
lòng thâm tín của bà. Bà bảo, "Chuyện ấy có thật!", và mọi người chúng tôi
đều nín im. -- Lesley Fowler
-ooOoo- Chương 10: Thích nữ vô úy "Tôi có thể làm được những gì đàn ông có
thể làm." Dầu là một người goá
phụ đơn chiếc với con thơ, cố gắng noi theo con đường đạo pháp trong giới
hạn của một xã hội phụ hệ của Ấn độ và một hệ thống giáo phẩm nặng về tôn
ti của Phật giáo, Dipa Ma chẳng hề ngờ vực việc bà sẽ đạt được đến mục
tiêu cao nhứt. Trong khung cảnh thời gian và không gian đó, chưa hề có cái
việc gọi là "giải phóng phụ nữ", Dipa Ma đã giản dị tự giải thoát lấy
mình. Như bà thường nói: "Con gái của Ðức Phật chẳng hề sợ hãi" (Thích nữ
vô uý). Trước khi Dipa Ma bắt đầu tập luyện về
Thiền, bà là người đàn bà hay lo âu, sống nương tựa vào người khác. Có
biết đến tiểu sử và căn bản văn hoá của bà -- lấy chồng từ thuở mười hai
tuổi, sống cô lập trong nhà bên chồng, tuyệt đối phục tùng chồng -- mới
thấy kinh ngạc nhìn thấy bà trở nên một nhà tư tưởng cấp tiến về nhơn sanh
và tôn giáo. Thí dụ như, bà đòi hỏi con gái bà là Dipa phải học đến cấp
đại học và sau nầy bà ủng hộ việc Dipa ly hôn với chồng cô. Dipa nhìn nhận những sự khó khăn của các
người đàn bà chung quanh bà, nhưng bà nhấn mạnh rằng họ cũng có thể noi
theo con đường đạo pháp để được giải thoát. "Khi bạn đã sanh ra trong cõi
đời nầy", bà bảo học viên Pritimoyee Barua của bà, "Bạn phải đối đầu với
bao nỗi khổ sở, nhứt là khi bạn là đàn bà. Ðời sống của người phụ nữ rất
khó khăn. Nhưng bạn chẳng cần phải lo lắng về điểm nầy. Bạn phải luôn luôn
giữ vững sự tu tập của bạn. Bạn chẳng phải quá lo lắng vì còn phải săn sóc
chồng bạn và các con. Khi bạn đã vào trong chánh pháp rồi, tất cả mọi việc
đều xảy ra xuyên qua chánh pháp. Mọi sự việc đều được giải quyết thông qua
chánh pháp." Ngoài việc cố vấn về tâm linh, Dipa Ma còn cống hiến những
lời khuyến nhũ thực tiễn cho những người phụ nữ tìm đến bà. Một bà nội trợ
ở Calcutta nói, "Bà "giảng luân lý" cho tôi: Bạn chẳng nên nghĩ rằng phụ
nữ chẳng có năng lực gì. Bạn đâu phải là người thiếu tự lực. Trước hết,
bạn phải có học vấn, kế đến, bạn phải ra làm việc. Nếu bạn cẩn thận lo
toan về điều kiện kinh tế của bạn, rồi thì bạn sẽ sống tự lập." Nhưng phần lớn là Dipa Ma giúp sức mạnh
thêm cho kẻ khác bằng chính tấm gương bản thân của bà. Bà vị nữ thiền sư
trong truyền thống tu viện gần như dành riêng cho nam giới và là vị nữ
thiền sư Á châu đầu tiên được thỉnh sang giảng tại Mỹ quốc. Bà chẳng hề
xem quá trọng các thành tích đó, nhưng tấm gương cương dũng của bà đã làm
nguồn hứng khởi và khích lệ cho giới phụ nữ ở bất cứ nền văn hoá nào. Thách thức truyền thống.
- Một hôm, chúng tôi đang ngồi trên sàn nhà
trong phòng của Dipa Ma. Ðông người lắm và cũng nóng nực lắm. Thiền sư
Munindra đang ngồi trên ghế trong góc, giảng pháp cho các học viên của
Dipa Ma và nói về cách thực tập của họ. Ông ấy và tôi là hai người đàn ông
duy nhứt trong phòng. Trong khi ông đang nói, Dipa Ma ngồi trên chiếc
giường gỗ của bà, dựa lưng vào vách, mắt nhắm. Thoạt nhìn qua cứ tưởng là
bà đang lim dim ngủ. Mấy ngày nay, bà chẳng được khoẻ lắm, và chẳng thấy
ai để ý đến.
Ðề tài của cuộc thảo luận là tái sanh. Câu
chuyện đưa đẩy thế nào mà rồi lại bàn đến việc tái sanh của Ðức Phật. Hiển
nhiên, chẳng phải suy nghĩ nhiều, bởi vì việc đó là một phần trong truyền
thuyết. Munindra lại buột miệng nói rằng, chỉ có đàn ông mới thành Phật
được; muốn thành Phật, phải tái sanh vào thân thể đàn ông (căn cứ theo các
lời chú giải về sau, chớ chẳng dựa theo các bản văn kinh nguyên thủy).
Thình lình, Dipa Ma đứng phắt dậy, mắt mở to, và nói với một giọng tự
nhiên và đầy vẻ xác tín, "Tôi có thể làm bất cứ gì đàn ông có thể làm".
Phản ứng của chúng tôi cũng lại tự nhiên như thế: chúng tôi đều phá lên
cười, kể cả thiền sư Munindra. Tôi nghĩ, tất cả chúng tôi đều biết lời
Dipa Ma nói là tuyệt đối đúng sự thật. --
Jack Engler
Tình cảm chẳng là chướng ngại.
- Khi Dipa nói rằng, "Phụ nữ có thể đi sâu và nhanh vào việc thực tập
thiền hơn nam giới, là bởi vì tâm trí chúng ta mềm dịu hơn", tôi rất ngạc
nhiên. Sự mềm dịu đó mang đến nhiều tình cảm, nhiều chuyển động trong tâm
hơn. Nhiều người đàn bà nghĩ rằng tình cảm là chướng ngại, nhưng Dipa Ma
lại bảo, "Khuynh hướng của phụ nữ nghiêng nhiều về tình cảm, điều đó chẳng
làm chướng ngại cho việc tu tập thiền." Bà khuyên chúng tôi. "Chỉ cần theo
dõi các tình cảm và đừng đồng hoá. Gia tăng sự ghi nhận bằng chánh niệm và
định lực." -- Michelle Levey
Khả ái và quyền lực.
- Nơi bà là một sự hoà hợp của khả ái và
quyền lực. Bà là một người đàn bà rất thâm thúy và có uy tín thật lớn, sự
kiện đó là cả một việc trọng đại. Bà đâu mang một hình tướng nào mà bạn có
thể xem đó như người sẽ lãnh đạo bạn. Bà chẳng cao đến thước tám, trong
trang phục uy nghiêm. Bà thật nhỏ người, gầy gò. Nhưng bà đã khiến ta ngất
ngây cảm phục, bởi vì bà làm được như thế, bởi vì bà đã vượt khỏi xa bất
cứ việc gì. Và điều nầy lại có nghĩa là tôi cũng có thể làm được như thế
nữa. -- Kate Wheeler
Ngọn hải đăng.
- Vào thời tôi gặp được bà, chung quanh chỉ thấy có những nam thần tượng,
những nam thiền sư, những vị Phật thuộc nam giới. Gặp được một người nội
trợ sống đơn chiếc với con gái và đứa cháu ngoại trai, mà đã được chứng
ngộ xong, thật là một điều thật cao sâu mà tôi chẳng biết dùng lời nói nào
để diễn tả. Bà là hiện thân của những điều gì mà tôi đã mong muốn thật sâu
xa. Mặc dầu tôi đã đi khá xa trên con đường tu tập khi tôi được gặp bà,
nhưng bà đã cho tôi thấy rằng sự giải thoát là điều có thể đạt đến được.
Vì bà đã giản dị đạt được sự giải thoát. Ðó đâu phải chỉ là một tư tưởng
về kiến thức. Ðối với tôi, là người nội trợ mà nhìn thấy bà cũng là một
người nội trợ, tôi liền nghĩ ngay rằng, "Bà đã làm được, thì tôi đây, tôi
cũng làm được chớ!" Bà như một ngọn hải đăng... chiếu rọi ánh sáng mà tôi
cố hướng về đó, mỗi khi tôi thấy cần có thêm dũng cảm để tiếp tục tiến
bước trên con đường đạo pháp. --
Michelle McDonald Smith
Ðủ rồi.
- Từ Cali (California) tới đấy, tôi mang trong đầu hình ảnh của một
người đàn bà "cân quắc anh hào" (dịch gượng chữ amazon) là đang
nhảy phóc lên chiếc xe hơi cam nhông tay xách một cây cưa máy và dấn bước
giang hồ. Nhưng quyền năng của Dipa Ma lại chính là năng lực mạnh mẽ làm
xúc động đến tâm người. Tôi có cảm tưởng là hoàn toàn được bà biết rõ hết.
Và tuy tôi chẳng dấu diếm chi hoăc tự hỗ thẹn gì, bời vì tôi tự cảm thấy
đã được hoàn toàn hiểu biết đến, đồng thời lại được hoàn toàn thương mến
nữa. Tôi còn nhớ, trong một bức thơ viết cho các bạn bên nhà, sau khi tôi
được thể nghiệm tình thương ấy, bảo họ rằng, nếu con đường đạo pháp tôi
đang đi chấm dứt ở điểm nầy thì kể cũng đã đủ lắm. Ðược tiếp cận với tình
thương sâu đậm đó cũng đủ rồi. --
Ajahn Thanasanti
Vẫn còn hi vọng cho đàn ông.
- Có một lần, Dipa Ma nói "Phụ nữ có ưu điểm hơn đàn ông ở chỗ tâm tư của
họ mềm dịu hơn... Khó cho đàn ông hiểu được điểm đó, cũng chỉ bởi vì họ là
đàn ông." Tôi liền hỏi bà, "Thế thì có hi vọng gì cho đàn ông chúng tôi
không?" Bà đáp, "Ðức Phật Thích ca trước là đàn ông, và Ðức Chúa Jesus
cũng là đàn ông. Vậy, vẫn còn hi vọng cho đàn ông chớ." --
Joseph Goldstein
Khảo cứu với Dipa Ma và các bà nội trợ ở
Calcutta. - Sau một năm thâm luyện
thiền quán với thiền sư Munindra, tôi đến trình với người về công cuộc
khảo cứu của tôi để hoàn thành luận án tiến sĩ về tiến trình và kết quả
của sự thưc tập Thiền Minh sát. Một phần vụ trong cuộc khảo cứu nầy là sự
cố gắng để xác định giá trị các bản tường trình cổ điển và cận đại về các
sự chuyển hoá xảy ra sau khi được giác ngộ và giải thoát. Tìm ra được đề
mục chẳng phải là chuyện dễ, bởi vì nó đòi hỏi phải tìm ra thật đúng những
người đã chứng đắc được ít nhứt là giai đoạn đầu của sự chứng ngộ, và được
sự cộng tác của các người ấy. Ðối với một vị thiền sư theo truyền thống Ấn
độ, điều thỉnh cầu đó chẳng được đúng theo chánh thống, và Munindra còn
đang do dự. Sau nhiều cuộc thảo luận, cuối cùng ông đồng ý đưa tôi đi
Calcutta và giới thiệu cho tôi vài người trong số đệ tử tiến bộ nhứt của
ông. Chủ chốt trong nhóm người nầy chính là Dipa Ma, tuy ngay tự buổi đầu
bà đã tỏ ra nghi ngờ. Tuy nhiên sau rồi, bà cũng giới thiệu tôi với một số
học viên của bà, và bà cũng tình nguyện giúp, bà và con gái bà là Dipa
nữa. Chính thiền sư Munindra rồi cũng đồng ý tham gia.
Về công cuộc khảo cứu, Dipa Ma đã mời đến
các người đàn bà trung niên hay lớn tuổi hơn nữa. Tưởng cũng cần ghi nhớ
là theo tục lệ Ấn độ, người đàn bà chẳng đi ra ngoài một mình, các bà đó
đều thuộc về thế hệ văn hóa cổ, chỉ trừ một người, và họ đều rất bận rộn
suốt ngày với trách nhiệm dọn dẹp nhà cửa, săn sóc chồng con trong đại gia
đình đông người ở xã hội Ấn độ. Lời điều trần mà tôi nghe được, giống nhau
gần như phổ quát, là phụ nữ thiền giỏi hơn đàn ông. Tôi chẳng bao giờ hiểu
thấu tận đáy của vấn đề nầy. Tôi hỏi lại Dipa Ma, nhứt là có phải đàn bà
có khuynh hướng đi xa trong việc tu tập hơn đàn ông chăng. Tôi có nghe các
vị Hoà thượng (Sayadaw) bên Miến điện nóí như thế, và cả các vị sư Ấn độ
nữa. Dipa Ma giản dị đáp là thiền sanh đàn ông chứng đắc đạo quả cũng
nhiều như đàn bà vậy, nhưng họ chẳng rảnh ban ngày để mời tới đây cho tôi
phỏng vấn và trắc nghiệm. Hơn sáu tháng trời năm 1977, căn phòng nhỏ
hẹp của Dipa Ma là trung tâm khảo cứu cho cuộc phỏng vấn cặn kẽ và trắc
nghiệm tâm lý về các hành giả có tiến bộ của Phật giáo. Phần lớn các cuộc
phỏng vấn đó được diễn ra trong mùa nóng nực. Nếu bạn đã sống qua mùa hè ở
vùng nhiệt đới giữa cảnh ngột ngạt, nóng bỏng da, thì bạn có thể tưởng
tượng đến các điều kiện sanh sống trong một thành phố như Calcutta nầy và
ảnh hưởng của thời tiết đến mội trường nhơn sanh ở đấy. Ðiện lực cứ đều
đều bị cắt đứt ngay trong những giờ mà cái nóng lên cao nhứt vào buổi xế
trưa và chiều -- những giờ "cúp điện" nổi tiếng của Calcutta -- để tiết
kiệm điện năng cho thành phố. Nếu chúng tôi cố gắng nổi để bắt đầu làm
việc -- đôi khi sức nóng đã khiến vô phương tiếp tục nổi -- thường thường
thì chúng tôi phải ngưng luôn, trong bóng tối, mình ướt đẫm mồ hôi. Nếu
ban sáng có được xe cộ chuyên chở hành khách đi vào khu xóm chợ cũ, thì
cũng chưa chắc còn có xe cộ chở bạn ra về vào ban đêm. Khi mùa mưa của khí
hậu gió mùa đến, nhiều hôm tôi đến gần khu xóm của Dipa Ma mà chẳng thể đi
đến tận nhà bà được. Trọn con đường trước nhà bà ngập nước đến đầu gối, và
tôi phải kêu một chiếc xe lôi, để bơi lội trên mặt nước mà vào nhà bà cách
đó chừng vài dãy phố. Tuy vậy mà các học viên của Dipa Ma luôn luôn đến
sẵn trước để chờ tôi.
Thủ tục trắc nghiệm về Dipa Ma, nhứt là
các lời giải đáp của bà trước các câu hỏi trong hệ thống Rorschach, thật
là phi thường chưa có vị khảo cứu gia nào đã từng thấy. Hệ thống trắc
nghiệm Rorschach đo lường chẳng những nhân cách mà còn về tri giác, đã
được mô tả là phản ảnh được sự "thực tế tự tạo nên"(self created reality).
Trong trường hợp của Dipa Ma, kết quả của trắc nghiệm Rorschach đã xác
nhận rằng bà đã trải qua một sự tái cấu trúc giữa tình cảm và trí năng
thật sâu xa và một sự hội nhập toàn vẹn giữa tâm lý với giai tầng cao thâm
nhứt của sự giác ngộ. Trong số các việc lạ khác nữa, hãy kể việc bà đã an
nhiên và thoăn thoắt đan kết mỗi lời giải đáp liên tiếp xuyên qua toàn bộ
các phiếu câu hỏi vào trong một bản tường thuật có mạch lạc để lộ rõ đại
cương Giáo pháp, trọn cả việc đó chẳng hề một lần vi phạm vào hình thức
đúng đắn của sự tri giắc về mỗi phiếu -- đấy là một thành tích mà chẳng có
vị khảo cứu gia nào đã từng được chứng kiến. (Bản tường trình Thiền
Minh sát II, trích trong quyển Sự Chuyển Hoá Của Ý Thức, Ken
Wilber, Jack Engler và Daniel Brown, Boston: Shambhala, 1986). -- Jack
Engler -ooOoo- Chân thành cám ơn Cư sĩ Thiện
Nhựt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 01-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Cuộc đời ly kỳ và Giáo pháp của Nữ Thiền sư Dipa Ma
Thiện Nhựt
phỏng dịch
last updated: 06-02-2003