BuddhaSasana Home Page
Ngập Sâu Trong Ân Sủng
Phần I: Cuộc
đời ly kỳ.
Chương 1: Sanh trong
"Nào có gì đáng bám níu trên thế
gian." Nani Bala Barua sanh ngày 25 tháng Ba năm
1921, tại một làng thuộc miền Ðông xứ Bengal, gần biên giới Miến
điện. Vùng Chittagong có
đặc điểm là hoà hợp các truyền thống
tôn giáo, tín đồ Ấn giáo, Hồi giáo và
Phật giáo chung sống hài hoà bên nhau. Nền văn
hóa Phật giáo tại điạ phương nầy có lẽ là di sản còn sót lại từ
thời Ðức Phật chưa bị đứt khoảng.
Gia đình của Nani thuộc thị tộc
Barua, dòng dõi của những người theo đạo Phật
nguyên thuỷ từ Ấn độ. Mặc dầu việc
thực tập thiền định đã gần như hoàn toàn phai nhạt ở
đây vào thời Nani ra
đời, nhưng còn một số gia
đình vẫn tiếp tục tuân hành các nghi
thức và tập tục Phật giáo; trong số đó có gia
đình của Nani, mà người cha là Purnachandra, và mẹ là Prasana
Kumari. Chị cả trong sáu người con trong nhà, Nani rất thân thiện với các anh
chị em trong gia quyến và là đứa con được quí
mến nhứt trong đại gia đình. Nani và mẹ, cả hai
đều tác thấp và nước da mơn mởn, mẹ và
con quấn quít cùng nhau thật khắng khít. Nani nhớ lại, mẹ rất âu yếm và
trầm lặng, còn cha là một người đàn
ông rất nguyên tắc chưa hề chịu nhường bước trước một
điều nào mà ông nghĩ rằng sai. Mặc dầu
trước thái độ nghiêm khắc của cha,
Nani đối với cha cũng có lòng thật
trìu mến. Truyền thống đàn na (bố thí)
thường được tuân hành trong gia
đình của Nani; cha mẹ Nani thường hiến
tặng thực phẩm cho tu sĩ Phật giáo, Bà la môn giáo, và cho tất cả những ai
đi khất thực. Chính nhờ nơi hạnh nầy của cha
mẹ mà cô gái trẻ Nani đã học
được ý nghĩa của sự bố thí: khi đem cho,
chẳng nên phân biệt; nên cho khắp mọi người. Ở tuổi thơ ấu, Nani đã tỏ lòng tôn
sùng các nghi thức Phật giáo. Nani thường thích
đi chùa và cúng dường chư Tăng.
Mặc dầu trẻ con phải đứng nép xa khi có các vị khất sĩ đi qua, nhưng vì
lòng quá mộ đạo, Nani được phép dâng thực
phẩm lên tu sĩ, rửa chơn quí thầy và
đến ngồi gần bên cạnh khi các vị ấy thọ thực. Nani thích ở một mình, ít khi nô đùa
với các trẻ khác. Nani thường chơi với búp bế, nhưng lại say mê việc tạo
tượng Ðức Phật. Trong khi trẻ gái Ấn độ lo
giả bộ nấu nướng, Nani lại nương theo trí tưởng tượng mà tạo thực
phẩm, hoa quả cúng Phật, lau dọn bàn thờ, và quì lạy theo các lễ nghi tôn
giáo. Gia đình Barua ở gần hồ nước, ở
bên kia bờ lại có một ngôi chùa màu sắc sáng chói mà Nani thường
đến viếng thăm hiến cúng. Nani nhớ lại rằng lòng
mộ đạo đó đã
đến với mình một cách tự nhiên, chớ
chẳng hề do sự thúc dục của mẹ cha. Chẳng những không thích nấu nướng, Nani lại còn ít
ăn nữa. Ðã biết bao lần mẹ của Nani dỗ
dành Nani ngồi lại để ăn uống trong một bữa
cơm thường ngày. Nani trái lại, chỉ muốn dùng một trái cây hay một
chiếc bánh bích quy thôi. Nani thường hỏi mẹ: "Mẹ có
đói bụng không? Ðói thì ra làm sao, hở
mẹ?" Ngược lại, Nani thèm khát về hiểu biết thật là chẳng có bờ bến. Mặc dầu
phong tục trong làng chẳng gởi con gái đến
trường học tập, nhưng với Nani chẳng có gì cầm giữ lại
được. Ngay cả khi đau yếu, được dặn phải ở nhà
hôm đó, Nani vẫn lẽn trốn đến lớp học. Chiều
chiều, Nani ngồi bên bàn với cha, nhờ cha chỉ dạy thêm các bài vở
trong trường, trong khi các đứa trẻ khác
chẳng buồn mang sách về nhà. Vào thời
đó ở Ấn độ, tuổi thiếu niên của các cô gái
được chấm dứt rất sớm. Những em may mắn được
đến trường cũng chẳng được phép tiếp tục học sau lớp năm. Theo đúng tập
tục thời đó, Nani phải lấy chồng khi vừa có kinh nguyệt lần đầu. Thế nên,
vừa lên mười hai, Nani đã bị kéo ra
khỏi lớp học và được kết hôn với một người đàn
ông tuổi đã hai mươi lăm.
Vị hôn phu của Nani là Rajani Ranjan Barua, kỹ sư, ngụ tại làng
Silghata gần bên. Ðúng theo phong tục, sau lễ cưới, Nani liền
đưa ngay sang nhà chồng,
để sống với gia đình bên chồng. Nani
nhớ nhung cha mẹ vô vàn. Lại còn thảm thương hơn nữa, người chồng lại rời
sang bên Miến điện làm việc. Nani sống
trơ trọi một mình nơi gia đình chồng
với những người khó tánh mà Nani ngán sợ. Ðôi khi
được trở về thăm cha mẹ, nhưng người bên
chồng đã vội quay sang bắt lại. Sau hai năm buồn bã, vừa lên mười
bốn, Nani được đưa xuống thuyền đi sang
Rangoon (nay là Yangon, thủ đô của
Miến điện), để bắt đầu cuộc sốngtạimột nước mới, với người chồng, chỉ được
quen biết nhau chẳng quá một tuần lễ. Vừa bước ra khỏi thuyền, người con
gái quê mùa nhút nhát đã bàng
hoàng trước khung cảnh mới chung quanh. Rangoon là một
đô thị ồn ào, xa lạ với biển người mặt
mũi chưa hề quen thân, với một ngôn ngữ mà Nani chẳng thể nào hiểu
được. Buổi đầu, Nani cảm thấy hết sức bơ vơ,
luôn khóc nhớ đến quê hương và gia đình. Cuộc sống lứa đôi cũng có nhiều thử thách.
Mặc dầu Nani được mẹ và các cô dì chỉ dạy cho rất tận tình tỉ mỉ
công việc nội trợ, nhưng chẳng ai nói tiếng nào về vấn
đề tình dục. Ðược chồng, chính là
người thứ nhứt đã nói về vấn
đề ấy với mình, phản ứng của Nani là
cảm thấy xúc động mạnh, bối rối và hết
mực thẹn thùng. Trong năm đầu chung chăn gối,
Nani rất khiếp sợ chồng. Cùng thời gian
đó, Rajani lúc nào cũng tỏ ra ân cần
mềm mỏng và săn sóc đến vợ, chẳng bao giờ ép
vợ theo ý dục của mình. Rồi từ từ, niềm tín cẩn
được nẩy nở giữa hai người, Nani bấy giờ xem
chồng như là một người hiếm có. Cùng với năm
tháng trôi qua, cả hai cảm thấy yêu nhau tha thiết. Vào những năm
về sau, Nani thường nói mình đã
kính trọng Rajani như một vị thầy đầu tiên
của mình. Tình nghĩa đầm ấm của đôi vợ chồng, tuy
nhiên, lại bị vẩn đục bởi một vấn đề
cực kỳ đau khổ: sự kỳ vọng nơi người đàn bà Ấn
độ, có được một đứa con, con trai càng
quí, một năm sau khi lấy chồng, đúng theo
phong tục bổn xứ; thế mà hết năm nầy
sang năm nọ, Nani vẫn chưa có thai. Nani đi thăm nào bác sĩ, nào y
sĩ, nhưng chẳng ai tìm ra được nguyên
nhân của sự hiếm hoi chẳng sanh đẻ đó cả.
Ðiều nầy khiến cho Nani cảm thấy tủi hổ và
đau khổ. May thay, Rajani lúc nào cũng
âu yếm, ân cần và nhẫn nại, chưa bao giờ thúc hối Nani hay phàn nàn sao
chẳng sanh con. Dẫu rằng Rajani chấp nhận việc chẳng có con cái, nhưng gia
đình bên trong và các láng diềng bên
ngoài, lại chẳng chịu như vậy. E rằng vì Nani mà tông
đường chẳng người nối dõi, họ lấy cớ
nhà có người bị bịnh, gạt gẫm Rajani phải về Chittagong
để kịp thăm. Về đến nơi, Rajani được thông
báo rằng có người vợ mới đang chờ chàng và mọi việc
đã được dàn
xếp để làm lễ cưới ngay. Rajani từ
khước. Chàng bảo với các thân nhân: "Khi tôi kết hôn với Nani, tôi chẳng
hề nói với nàng phải có con, bằng không tôi sẽ bỏ nàng. Ðó chẳng phải là
một điều kiện trong hôn ước của chúng tôi.
Thế nên cưới vợ khác là bất công, nên nay tôi chẳng thể nào lìa
nàng được."
Rajani trở qua Miến điện và bảo
Nani chớ có bao giờ lo lắng về việc phải có con nữa. Chàng gợi lên trong
trí Nani, hãy đối xữ với mọi đứa trẻ mà
nàng gặp được như là chính con mình
sanh ra -- một lời khuyên quí báu mà Nani sẽ thực hiện
được bằng nhiều cách rất đặc sắc những năm về
sau nầy.
Vào năm mười tám tuổi, Nani hay tin mẹ đã
từ trần một cách đột ngột. Dầu đã có
điềm báo trước trong giấc mộng, Nani cũng rất
bàng hoàng khi được tin buồn. Kể từ
khi sang Miến điện, Nani chỉ về thăm mẹ có hai lần. Nỗi khổ tâm nầy vì
mất mẹ vẫn còn ghi đậm nhiều năm trong tâm
hồn của Nani. Rồi tiếp theo liền sau cái chết của mẹ, Nani bị bịnh thương
hàn quật ngã. Bịnh tình lại được chẩn
đoán sai, trị liệu lầm, khiến cho Nani phải nằm bịnh viện nhiều tháng.
Mẹ của Nani để lại một đứa bé trai mười
tám tháng, tên là Bijoy. Người cha chẳng thể nào săn
sóc chu đáo, nên đã hiến cho
Nani và Rajani một cơ hội tốt được nuôi đứa
em trai út như con ruột của mình và Bijoy liền
được gởi sang Rangoon để sống với họ.
Nani và Rajani tham gia hoạt động rất tích
cực trong cộng đồng Phật giáo. Ngoài việc giữ
đúng năm giới của người tại gia -- chẳng sát
sanh và làm tổn hại, chẳng lấy của không cho, chẳng tà dâm, chẳng
nói dối, chẳng dùng các chất say -- họ còn
đọc Kinh hằng ngày, bảo trợ hai cuộc lễ hằng năm
của cộng đồng, dâng hiến thực phẩm cho các vị sư điạ phương đi khất thực.
Họ còn được mọi người biết đến vì
tấm lòng quảng đại, cấp học bổng cho trẻ con
nhà nghèo và để cho những kẻ không nhà
đến trú ngụ tại nơi họ ở. Ngay từ khi mới đến
Rangoon, Nani đã mong muốn thiết tha
được tập thiền. Mặc dầu các cô gái chẳng ai học thiền, nhưng Nani cứ nhiều
lần xin phép Rajani được theo học. Mỗi lần Nani hỏi xin, Rajani đều đề
nghị hãy đợi khi nào Nani
đã lớn tuổi sẽ học, theo như tục lệ
của người Ấn là phụ nữ gát việc học thiền lại mấy năm
về sau, khi các phận sự của người nội trợ đã làm xong. Mặc dầu chẳng nói được tiếng Miến
điện,Naniđã tìmra được một phương cách
học Phật pháp ngay tại quê hương mới nầy. Bất cứ lúc nào gặp
được một cuốn sách đạo bằng tiếng Bengal,
Naniliền đọc và tự học lấy một mình. Còn các sách khác, Nani nhờ
đứa cháu trai mười ba tuổi, tên Sunil,
dịch các bài Kinh căn bản Phật học từ tiếng
Miến sang tiếng Bengal. Cău Sunil ngạc nhiên
đến kinh dị nhận thấy sự chăm học và
trí nhớ của Nani nhớ chẳng sót những gì mà cậu
đã đọc
cho nghe. (Các năm về sau, khi Nani trải qua các cuộc trắc nghiệm tâm lý,
người ta thấy trí năng của bà vượt lên trên cả hàng nhơn tài). Năm 1941, khi Nani được ba mươi tuổi, Miến
điện bị quân đội Nhựt bổn tấn công và xâm chiếm. Bấy giờ là một
thời kỳ lo âu, khan hiếm và khổ cực cho dân chúng. Ðến khi chiến tranh
chấm dứt, Bijoy đã khôn lớn, trở về Ấn
độ và lập gia
đình riêng. Với ngôi nhà quạnh hiu và
cha mẹ đều chết cả, Nina nghĩ: "Ðây là
lúc nên học Thiền." Rồi một phép mầu lại hiện đến, sau hai
mươi năm chờ đợi, Nani khám phá ra mình mang thai. Vàotuồi ba mươi
lăm, Nani sung sướng hân hoan sanh được một
bé gái. Tuy nhiên, ba tháng sau, đứa
bé bịnh nặng rồi chết. Tràn ngập chìm trong
đau khổ, Nani vướng phải bịnh tim.
Bốn năm sau đó, phước lành lại
đến với Nani, thọ thai lần nữa. Và
chuyến nầy, cũng sanh gái, Nani đặt tên
là Dipa. Và từ đó, Nani được gọi dưới biệt
hiệu là Dipa Ma, hay là "Má của Dipa". Vì chữ Dipa có nghĩa
là ánh sáng, nên cái tên mới của Nani cũng có nghĩa là Dipa Ma,
Mẹ của Ánh sáng.
Dipa là một đứa bé khoẻ mạnh, vừa biết đi
lẫm đẫm, thì mẹ lại có thai lần nữa; kỳ nầy
được một "quí tử" hằng trọng vọng. Nhưng đứa
bé vừa sanh ra đã chết, và điều vô
phúc nầy đã khiến mối u sầu của Dipa Ma chẳng gì làm nguôi ngoai
được. Trong cơn tuyệt vọng, Nani đòi
hỏi được quyền học Thiền để làm nhẹ
bớt nỗi đau lòng. Nhưng chồng bà, lại
một lần, bảo rằng bà vẫn còn quá trẻ. Bà doạ sẽ trốn nhà ra
đi, khiến cho Rajani và nhiều người
láng diềng phải canh chừng bà luôn. Nhưng sự canh pòng của họ chẳng còn cần thiết nữa. Bị chứng áp huyết
cao, Dipa Ma trong nhiều năm, chẳng đủ sức để
ra khỏi giường, nói chi là bỏ trốn. Trong thời gian nầy, bà hoàn
toàn trông đợi cái chết đến bất cứ giờ phút nào.
Chỉ có một mình mà Rajani phải săn sóc vợ,
nuôi dạy con, vẫn tiếp tục làm việc trọn ngày với tư cách kỹ sư. Áp
lực của hoàn cảnh đè nặng lên, làm
tràn ngập Rajani. Một đêm trong năm
1957, ông đi làm về, than thở với vợ rằng mình
đang đau bịnh. Vài giờ sau, ông chết
vì cơn đau tim bộc phát.
-ooOoo- Chương 2: Thức tỉnh "Tôi mang theo được gì khi tôi
chết?" Trong vòng mười năm,
Dipa đã mất hai con, chồng và sức khoẻ của bà. Ðến khoảng giữa thập
niên bốn mươi tuổi, bà trở nên góa phụ với một
đứa con gái bảy tuổi phải một mình
nuôi dưỡng lấy. Cha mẹ đã qua
đời, quê hương Ấn
độ thì xa diệu vợi, và bà
đang chìm ngập trong nỗi sầu lo và bối
rối. "Tôi cũng chẳng biết phải làm gì, đi
đâu, hay sống bằng cách nào đây," bà
than thở. "Tôi chẳng có chút gì để gọi là
của tôi, chẳng có ai để gọi là người
thân." Tháng tháng trôi qua, và bà chỉ biết cầm bức ảnh của Rajani
để trên đùi
mà than, mà khóc. Mấy năm kế tiếp theo, sức
khoẻ bà càng ngày càng suy giảm. Hoàn cảnh bà trở nên thật nghiêm
trọng khiến bà nghĩ, hi vọng cuối cùng của bà
để sống sót là phải thực tập Thiền. Bà ngao ngán ngắm cảnh ngộ trớ
trêu của mình. Khi còn trẻ, đầy đủ sức khoẻ,
sốt sắng ham muốn hành thiền, thì lại bị ngăn
cản chẳng được phép. Giờ đây, với trách nhiệm nuôi dạy con thơ và
sức đã mỏi mòn,
đang tuyệt vọng đối đầu với cái chết, bà
cảm thấy chẳng còn lối thoát nào hơn là mang trái tim rạn vỡ
đi vào cõi chết, trừ phi bà làm
được một chút gì
để thay đổi được tâm trạng của bà. Bà tự hỏi, "Tôi mang theo được gì
khi tôi chết?" Bà nhìn đến của hồi môn, mấy
chiếc áo sari bằng lụa, vòng vàng nữ trang, và cả
đứa con gái thân yêu. "Tôi có yêu con
tôi cho lắm đi nữa, tôi cũng chẳng thể nào
mang nó theo tôi được... Thôi thì, cứ
đến trung tâm thiền tập đi. Biết đâu đến đó,
tôi tìm ra được chút gì tôi có
thể mang theo, khi tôi chết." Ngay trong phút mà đời bà
đã tuột xuống
đến mức thấp nhứt, Ðức Phật
đã hiện ra trong giấc mộng của bà.
Trong ánh hào quang rực rỡ, Ðức Phật đã
dịu dàng ngâm lên bài Kệ trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), trước
đây đã
được Ngài nói lên để an ủi một người
cha vừa mất đứa con trai:
Luyến ái sanh ra sầu muộn,
Khi Dipa Ma tỉnh giấc, bà cảm thấy an tịnh và trong suốt. Bà biết ngay,
bà phải học tập Thiền, cho dầu tình trạng sức khoẻ ra sao
đi chăng nữa. Bà hiểu rõ lời Ðức Phật
dạy: nếu bà muốn an tịnh thật sự, bà phải thực tập cho
đến khi nào
đã cắt
đứt hết mọi luyến ái ràng buộc và sự lo âu. Mặc dầu Dipa Ma cả đời sống theo các lễ
nghi Phật giáo, bà còn biết rất ít về những gì việc tu tập thiền
đòi hỏi. Trực giác bà
đã đẩy
đưa bà theo con đường xưa hứa hẹn sẽ
được giải thoát khỏi mọi khổ đau. Khác với đường lối định lực quán tưởng
theo đó sự chú tâm được an trú trên một
đối tượng duy nhứt, thiền minh sát (vipassana)
lại soi chiếu vào bản chất đổi thay liên
tục của kinh nghiệm. "Minh sát" nghĩa là soi thấy thật rõ ràng về ba
đặc tánh của kinh nghiệm: sự vô thường, sự
bất toại nguyện, và sự vắng bóng của tự ngã. Ðức Phật dạy rằng,
xuyên qua sự quán tưởng, ta có thể phá vỡ các ảo tưởng
đã hạn chế cuộc
đời của chúng ta. Sự giải thoát, hoặc sự giác
ngộ, căn cứ theo giáo pháp của Ðức Phật, nằm trong sự kinh nghiệm
về bản chất thật sự của đời sống. Dipa Ma sắp
xếp công việc để đi đến Trung tâm thiền Kamayut ở Rangoon. Tất cả những gì
chồng bà để lại -- tài sản, nữ trang,
và các vật liệu khác -- bà giao cho người láng diềng trước cửa, rồi nói,
"Xin làm ơn vui lòng nhận hết tất cả những gì tôi có
đây, và dùng
đó để nuôi dưỡng con Dipa". Bà chẳng
hi vọng sẽ trở về lại. Nếu thế nào bà cũng sắp
đi vào cõi chết, bà tự nhũ, sao lại
chẳng đi tới chết tại Trung tâm thiền tập? Kỳ
an cư lần đầu của Dipa Ma chẳng được như ý bà mong. Khi vừa
đến Trung tâm, bà
được chỉ cho một căn phòng và dặn qua
các điều căn bản về thực tập, rồi bảo bốn giờ
chiều ngày hôm sau phải đến tường trình
tại đại sảnh của thiền đường. Bà bắt
đầu thực tập ngay từ sáng sớm, trước chú tâm
vào hơi thở, kế đến các cảm giác, ý
nghĩ, và các tình cảm khởi lên trên thân và trong tâm bà. Ngày giờ
lặng lẽ trôi qua, định lực của bà từ
từ lắng sâu. Chiều hôm đó bà lội bộ
đến đại sảnh của thiền đường để gặp thiền sư
của bà.Thình lình bà ngừng lại, chẳng thể nào bước tới. Bà chẳng
biết chắc tại sao, bà chỉ biết bà chẳng thể
đi tới được nữa, hoặc giở chơn lên. Bà
đứng khựng đó, bối rối nhưng chẳng quá hoảng hốt lo âu, trong năm hay mười
phút. Cuối cùng, bà nhìn xuống và thấy một con cho to lớn
đang ngoạm chơn bà. Ðịnh lực của bà
đến mức thâm sâu, ngay cả trong những giờ đầu
tiên mới thực tập, đã khiến bà
chẳng còn cảm giác được.
Bật ra khỏi cơn thiền định, Dipa Ma cất
tiếng kêu cứu và cố vùng vẫy kéo chơn ra. Con chó chẳng chịu nhả,
sau cùng có mấy vị sư đến mới đàn áp
được chó và
đuổi nó đi. Mặc dầu được trấn an con chó đã
cắn chẳng điên, nhưng Dipa Ma lại sợ
chết -- trớ trêu thay, vì bà cũng muốn đến để
chết ở Trung tâm thiền tập kia mà! -- rồi bà tìm
đến bịnh viện để được chích mũi thuốc đầu tiên
trong số thuốc chích mỗi ngày trong một tháng
để ngừa bịnh chó điên. Ði đến bịnh
viện và trở về như thế có nghĩa là bà phải mất phần
ăn, vì theo truyền thống tại các tu
viện Nam Á châu, bữa ăn chỉ được cung cấp một
lần mỗi ngày mà thôi, và phải được dùng
trước giờ ngọ. Không bao lâu, Dipa Ma kiệt sức, các vị sư khuyên bà nên
trở về nhà để hồi phục sức khoẻ lại.
Ở nhà, đứa con gái nhỏ của bà
đã bấn loạn vì mẹ bỏ
đi đột ngột, giờ đây chẳng chịu rời mắt khỏi
mẹ. Dipa Ma nghĩ cơ hội duy nhứt của bà
để được giác ngộ đã qua mất
đi rồi. Bà thường tức tưởi khóc, khóc
cho sự thất bại ê chề. Tuy nhiên, bà chẳng chịu bỏ cuộc việc tu tập thiền. Với các
điều căn bản được chỉ dạy sơ lược trong kỳ an
cư ngắn ngủi, bà kiên nhẫn hành thiền trong nhiều năm,
ngay tại nhà, mỗi khi bà tìm được thời
giờ rảnh. Bà tin tưởng chắc chắn rằng rồi
đây sẽ có một cơ hội khác để đi an cư lần
nữa.
Cơ hội đó đến với Dipa Ma khi bà
hay tin có một người bạn trong gia đình
và là một vị giáo thọ Phật pháp, pháp hiệu là Anagarika Munindra,
đang ngụ tại một trung tâm thiền tập ở gần
đấy. (Anagarika có nghĩa là phi gia chủ, tức là
đã xuất gia, rời bỏ gia
đình đi
tu). Bà liền mời đến nhà và
trong khi khách dùng trà, bà thuật lại kinh nghiệm của bà về thiền tập vừa
qua. Munindra khuyến khích bà nên đến thiền
viện Thathana Yeiktha, nơi mà ông đang
thâm luyện công phu thiền tập của mình, dưới sự giám thủ của Ðại
Lão Hoà thượng Mahasi, vị thiền sư và học giả lỗi lạc nhứt ở Miến
điện vào thời bấy giờ. Như thế, Dipa
Ma được dịp hiếm có đến thọ giáo với một bực
thầy vĩ đại, có sự hướng dẫn, bằng tiếng mẹ đẻ, của một người bạn trong
gia đình. Ðồng thời vào độ ấy, em của
bà là Hema cùng gia đình vừa
mới sang định cư ở Miến điện, thành ra
nay con gái bà là Dipa có thể sống với dì dượng, cùng anh chị em họ, trong
khi bà đến thiền viện.
Dipa Ma tham dự kỳ an cư nầy với một tâm trạng khác hẳn -- ít hối hả và
vụt chạc, mà nhiều trầm tĩnh và trù liệu. Mặc dầu từ ngày Rajani mất, bà
bị bịnh mất ngủ, nhưng nay bà khó giữ sao cho khỏi ngủ gục. Tuy nhiên,
đến ngày thứ ba, bà
đã đắc
được một trạng thái định lực sâu, rồi nhu cầu ngủ nghỉ cũng tiêu
tan mất, cùng với việc ăn uống. Munindra lo
ngại cho định lực của bà mất thăng
bằng, khuyến cáo bà phải tham dự các thời pháp hằng tuần của Ngài
Mahasi, dầu rằng bà chẳng hiểu tiếng Miến
điện. Bà đâu muốn đi, nhưng Munindra
cứ khuyên mãi, nên để làm vừa
lòng ông, bà phải đến đó.
Dọc đường đến nghe pháp, Dipa Ma cảm thấy
trái tim bà đập loạn động. Bà
nghe mình quá yếu ớt tay chơn, nên phải bò lên cầu thang vào chánh
điện. Bà chẳng hiểu tí nào về bài
pháp, nhưng cứ tiếp tục ngồi hành thiền. Sau thời pháp, Dipa Ma thấy mình
chẳng thể đứng lên nổi. Dán chặt vào
chỗ ngồi, thân bà trở nên cứng ngắt, bất động
dưới ảnh hưởng của cơn định lực thâm sâu.
Trong những ngày sau đó, công phu thực tập
của Dipa Ma trở nên thâm hậu thật ngoạn mục, khi bà nhanh chóng
vượt qua các giai đoạn cổ điển của sự tiến
triển về minh sát, trước khi chứng ngộ, đã
được mô tả rõ trong giáo pháp của
truyền thống Theravada (Phật giáo Nguyên thủy - Nam tông). Bà thể nghiệm
một yến sáng chói lọi, tiếp theo cảm thọ rằng mọi sự vật chung quanh bà
đang từ từ tan vỡ. Thân bà, sàn gỗ,
mọi vật, bà kể lại, đều vỡ ra từng mảnh, bể
nát và trống rỗng. Ðiều đó đã
đưa đến một sự đau đớn cùng cực cả thể
xác lẫn tinh thần, với một cảm thọ nung đốt và
co rút trong cơ thể bà. Bà có cảm tưởng như sắp bị nổ tung dưới áp lực. Rồi một điều kỳ lạ xảy đến. Một giây lát
thông thường -- vào ban ngày, bà đang
ngồi trên sàn nhà thực tập cùng với một nhóm thiền sanh -- một sự
chuyển tiếp tức khắc rất an tịnh và tế nhị, xem như chẳng có gì xảy ra cả.
Giây phút sáng chói đó, sau nầy bà
Dipa Ma kể lại, "Tôi cũng chẳng biết nữa", vậy mà cả cuộc
đời bà đã
được đổi thay một cách thật sâu xa và
chẳng thể hoán cải được nữa.
Sau ba thập niên đi tìm sự giải
thoát, vào tuổi đã năm
mươi ba, qua sáu ngày thực tập, Dipa Ma
đã đạt
đến nấc thang đầu của sự chứng ngộ. Gần như tức khắc liền sau đó, huyết áp
của bà trở lại mức bình thường và các hồi tim
đập mạnh cũng giảm xuống. Trước đây bà
chẳng thể bước bộ lên cầu thang giảng đường
của thiền viện, bây giờ leo lên chẳng chút mệt nhọc, và bà cất bước
bước đi bất cứ với nhịp độ nào. Dipa Ma tiếp tục thực tập ở Thiền viện Thathana Yeiktha thêm hai tháng
nữa, rồi trở về nhà ở Rangoon. Vài tuần lễ sau, bà
đi đi lại lại thiền viện trong suốt một năm.
Vào kỳ an cư kế đó, bà lại trải
qua một sự chứng đạt mới, chỉ sau năm ngày
thiền định. Con đường đưa tới tuệ giác nầy
cũng giống như lần trước, ngoại trừ sự đau đớn lại gia tăng hơn. Sau khi
đạt được nấc thang thứ nhì của sự chứng ngộ, tình trạng thể chất và
tâm linh của bà lại thay đổi nữa; nơi bà,
sự xao động băn khoăn giảm hẳn, còn
tiềm năng chịu đựng lại gia tăng nhiều.
Những ai trước kia được biết Dipa Ma đều
kinh ngạc lóa mắt trước sự thay đổi của bà. Rất nhanh, từ một người
đàn bà bịnh hoạn, tùy thuộc, sầu não,
bà đã biến thành một vị phụ nữ tráng
kiện, tự lập và rạng rỡ. Dipa Ma nóivới các người chung quanh: "Các bạn
đã biết tôi dạo trước ra sao. Tôi
đã não nề gục ngã trước cái chết của
chồng con, trước bịnh tật của tôi. Tôi đã
khổ đau thái quá. Tôi đã chẳng cất nổi
bước chơn đi cho đàng hoàng. Nhưng giờ
đây, các bạn thấy tôi ra thế nào? Tất
cả bịnh tật đã biến mất. Tôi tươi tắn,
và chẳng có gì nơi tâm tôi cả; chẳng có sầu lo, chẳng còn hiềm hận. Tôi
hoàn toàn an lạc. Nếu các bạn tới tập thiền, các bạn cũng sẽ an lạc. Chỉ
cần noi theo các lời chỉ dẫn thôi." Phấn khởi noi gương Dipa Ma, các bạn hữu của bà cùng gia
đình họ
đều đến trung tâm để thực tập. Những người đến đầu tiên là em bà,
Hema và bạn thân của người ấy là Khuki Ma. Bà Hema mặc dầu có tám người
con, năm người còn sống chung trong
gia đình, vẫn tìm
đủ thời giờ đi thực tập với chị trong gần một
năm. Sau đó, con gái của bà, Dipa, và các con của Hema cũng
đến gia nhập. Một cảnh tượng cảm động đáng
ghi nhớ là hai thế hệ phụ nữ trung niên và thiếu nữ vào tuổi cập kê
cùng ngồi tập thiền bên cạnh các vị sư khắc khổ mặc áo cà sa màu vàng. Các
thiền viện thường chẳng đủ chỗ trú cho các nữ
thiền sanh, và họ phải chen chúc nhau trong những căn
phòng nhỏ hẹp xây cất tận ven biên của thiền
đường. Con gái bà Hema, Daw Than Myint
kể lại, họ phải leo qua các bụi rậm trên đồi
cao để có thể đi đến nơi trình pháp với thiền sư Munindra. Trong những ngày trường nghỉ lễ, Dipa Ma và Hema có khi
được đến sáu đứa con bên cạnh họ. Dầu
không khí thân mật như trong gia đình,
kỷ luật lại nghiêm khắc. "Chúng tôi ăn cơm
trong im lặng với nhau như cùng một gia
đình", Daw Than Myint nhắc lại, "và
chúng tôi chẳng ngó nhau. Thật là hết sức đặc
biệt!" Trong năm "phi thường" thực tập đó, tất cả sáu đứa con của thị tộc
Barua, bốn gái hai trai, đã thành tựu ít nhứt là nấc thang
đầu của sự chứng ngộ. Sự nhiệt thành
của Dipa trong việc thực tập thiền là một phần thưởng quí giá cho mẹ, Dipa
Ma. Bà muốn tặng cho con một tặng phẩm có giá trị lâu dài, một "tặng phẩm
vô giá". Bà nhắc đi, nhắc lại mãi với
Dipa rằng thiền tập cống hiến con đường duy
nhứt đi đến an lạc.
Em của Dipa Ma là Hema cũng là một tín đồ
thuần thành của thiền tập và đã
tiến bộ song song với Dipa Ma. Daw Than Myint
đã kể lại hiệu lực mạnh mẽ của thiền tập
đã đến
với mẹ cô, như sau: Khi tôi vừa về
đến nhà sau kỳ nghỉ hè ở đại học,
chẳng thấy mẹ ra đón tôi. Thật là khác thường, bởi vì bà chẳng hề
vắng nhà lâu như thế. Anh chị tôi cho tôi hay mẹ
đang ở trung tâm tập thiền. Khi tôi đến trung
tâm, tôi thấy mẹ tôi đang ngồi gần thiền sư Munindra, bà rất an
tịnh, thanh lương và chẳng thấy là đã
nhận ra tôi đang đi đến. Tôi rất cảm động.
Tôi cũng muốn được xa vắng như thế. Tôi quyết định, nếu tập thiền mà
thay đổi được mẹ tôi như thế, thì
thiền phải có năng lực mạnh lắm, và
tôi cũng cần phải thực tập. Dĩ nhiên, sau nầy tôi mới nhận ra thiền chẳng
phải là thanh lương và xa vắng.
Chẳng may, đâu phải tất cả mọi người trong
gia đình đều nồng nhiệt với sự thay
đổi của Hema:
Cha tôi rất bất mãn vì mẹ tôi chẳng nhúng tay vào việc nội trợ; bà chỉ
ngồi, ngồi và ngồi, cho nên cha tôi dọa sẽ mách với Ðại Lão Hoà thượng
Mahasi. Mẹ tôi bảo: "Tốt!" Khi cha tôi đến trình
với Hoà thượng, Ngài thuyết phục cha tôi nên bắt
đầu việc thiền tập của chính ông. Chẳng bao
lâu, cha tôi cũng đắc được tuệ giác, rồi ông chẳng hề phiền hà việc
mẹ tôi ngồi nhiều quá nữa. Ðến năm 1965, Dipa Ma được thu hút theo
một chiều hướng mới của việc thực tập thiền. Biết trước việc thiền sư
Munindra sắp trở về Ấn độ, Ðại Lão Hoà thượng Mahasi bảo các
đệ tử của Ngài rằng, Munindra sẽ quay
về với "mảnh đất của thần thông", ông ta cũng
nên biết đôi chút về các năng lực tâm
linh nầy. Ngài muốn truyền thọ cho Munindra các phép thần thông,
nhưng Munindra rất bận bịu với việc giảng dạy giáo lý chẳng
đủ thời giờ để tập luyện. Thay vì thế,
Munindra quyết định huấn luyện các người khác
xem như một cuộc trắc nghiệm để chứng minh rằng thần thông là
điều có thật. Nhằm vào mục tiêu nầy,
ông chọn các đệ tử tiến bộ nhứt của ông, Dipa
Ma và gia đình bà, và huấn
luyện họ theo đường lối được rút thẳng từ
trong sách Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga). Munindra biết rõ
thần thông chẳng những phi luân lý mà còn có tiềm năng
cám dỗ nữa. Nguy cơ lạm dụng rất lớn, trừ phi căn bản đạo đức của người đệ
tử được đảm bảo. Dipa Ma được tuyển chọn, chẳng những vì
định lực thâm sâu của bà mà còn là vì
đức độ toàn bích của bà nữa. Dipa Ma, Hema và ba người con gái của họ
được mời làm quen với các môn: phân tán vật chất, phân thân, nấu
nướng chẳng cần lửa, tha tâm thông, du hành cõi trời và
địa ngục, vượt thời gian, túc mạng thông, và
nhiều môn khác nữa. Trong hàng các đệ tử của
Munindra về thần thông, Dipa Ma là người thuần thành nhứt mà cũng
lại hay hí lộng thần thông nhiều nhứt. Bà thường hững hờ
đến trình pháp với Munindra bằng cách
đi xuyên qua tường, hoặc bất chợt hiện
hình giữa khoảng không khí loảng. Bà học cách xử dụng theo ý mình muốn mọi
khả năng về tâm trí và chế phục
được tất cả năm loại thần thông (Xem Chương
9).
Từ năm 1966, sau khi Munindra đã
rời về Ấn độ, Dipa Ma trở thành vị
thiền sư mà nhiều người tìm đến để được hướng
dẫn và bà bắt đầu giảng dạy tại
Rangoon. Bà rất hân hoan cống hiến sự an lạc
đến cho những người khác, sự an lạc mà
chính bà đã tìm thấy và bà
đã thuyết phục
được nhiều thân bằng quyến thuộc hãy
cùng bà thực tập thiền định.
Ðệ tử chánh thức của Dipa Ma là người láng diềng với bà, tên là Malati
Barua, một goá phụ phải nuôi dưỡng một mình sáu
đứa con. Trường hợp của Malati là một
thách thức kỳ thú: bà ta rất nhiệt tâm muốn tập thiền, nhưng chẳng thể rời
nhà đi đến thiền đường. Dipa Ma tin rằng sự
chứng ngộ có thể xảy ra ở bất cứ môi trường nào,
đã nghĩ một phương cách cho người
đệ tử mới của mình có thể thực tập
ngay tại nhà. Bà bảo Malati hãy bền bỉ và cương quyết ghi nhận cái cảm
giác khởi lên khi đứa hài nhi nút vào
núm vú mình, trong mỗi lần cho con bú mớm, với một sự tỉnh thức toàn vẹn.
Sự ghi nhận đó kéo dài hằng giờ mỗi
ngày, và đúng như Dipa Ma đã kỳ vọng,
Malati đã
đạt đến giai đoạn đầu của sự chứng ngộ mà chẳng cần ra khỏi nhà. Như thế, Dipa Ma đã bắt
đầu sự nghiệp hướng dẫn các bà nội trợ
đi đến trí huệ, ngay giữa đời sống bận rộn
của họ trong gia đình. -ooOoo- Chương 3: An lạc chẳng lung lay "Các người đều là pháp tử của tôi." Năm 1967, Chánh phủ
Miến điện ra lịnh mọi người ngoại quốc, kể cả các di dân Ấn độ, phải rời
khỏi nước. Dipa Ma rất bối rối chẳng biết nên ở lại hay ra
đi. Các vị sư trấn an rằng bà có thể
xin giấy phép đặc biệt lưu lại Rangoon với tư
cách một nhà giáo, và con gái bà cũng có thể ở lại với bà. Ðấy là
một vinh dự chưa hề dành cho người ngoại quốc nào, hơn nữa lại là một phụ
nữ và là một người mẹ đơn chiếc với con thơ.
Bà đắn đo nên ở lại chăng,
nhưng tình hình chánh trị, nhứt là tại Rangoon, càng trở nên bất
an. Sự lo lắng về một nền giáo dục có phẩm chất cao cho con mình là Dipa,
cuối cùng đã khiến bà quyết
định ra đi. Về Ấn độ, Dipa có thể hội nhập
lại cội nguồn của mình, đồng thời tiếp
tục học vấn ở cấp cao hơn bằng tiếng mẹ đẻ Bengali. Hai mẹ con đến ở chung
với người bà con tại ngoại ô thành phố Calcutta (nay là Kolkata).
Trong khung cảnh mới nầy, Dipa Ma thấy vắng bóng các bạn bè
đồng tâm nguyện với mình. Bà mời các
bà láng diềng tu tập thiền, nhưng họ chẳng màng quan tâm
đến.
Năm sau, hai mẹ con dọn đến ở một căn phòng
nhỏ trên một cao ốc cũ kỹ, bên dưới là một hảng
đúc kim khí, trong khu chợ cũ của đô thị
Calcutta. Bếp núc thu gọn vào trong khoảng một thước bề ngang hai
thước bề dài, với một lò lửa than đá kê
trên sàn nhà, chẳng có nước máy (phải gánh nước leo lên bốn từng lầu) và
một phòng vệ sinh công cộng cho nhiều gia đình.
Dipa Ma ngủ trên một manh chiếu rơm mỏng. Mặc dầu Dipa
được Chánh phủ cấp học bổng để theo bực đại
học, nhưng mẹ con chẳng có lợi tức nào mà phải nhờ vào các sự tặng
dữ của những người tốt bụng trong gia quyến. Cuối cùng về sau, tiếng đồn lan rộng trong
cộng đồng Bengali rằng có một vị thiền sư lỗi lạc, "có thể đem lại kết
quả" vừa mới từ Miến điện sang. Nhiều gia đình ở
đây tuy tuân hành theo nghi thức Phật
giáo, nhưng việc tu thiền vẫn còn xa lạ đối
với hạng người thường trung bình. Dipa Ma cống hiến một cái gì mới
và khác: một sự tu tập thật tế về tâm linh. Từng người một, các bà nội trợ
ở Calcutta bắt đầu đến gõ cửa nhà của
Dipa Ma. Trình bày các bài học, tuy khó khăn nhưng
đầy hiệu quả, cho những người muốn tập thiền ngay trong cuộc đời bận rộn
của các bà nội trợ, Dipa Ma dạy các học viên của bà phải biết lợi
dụng bất cứ giây phút nào như một cơ hội để
thực tập. Chánh niệm trong sự tỉnh thức, bà bảo, có thể ứng dụng
vào mọi động tác: nói năng, ủi quần áo, nấu
nướng, đi chợ mua hàng, chăm sóc trẻ
con. "Trọn con đường tỉnh giác ", bà thường nhắc
đi nhắc lại chẳng biết nhọc, "chính là:
"Bất cứ việc gì bạn đang làm, bạn cũng
phải nhận biết ngay việc đó." Dipa Ma tin
tưởng hết sức mãnh liệt vào sức thực tập ngay giữa sự huyên náo ồn
ào của đời sống gia đình khiến cho một
người ái mộ bà đã phong tặng bà là "Vị
Thánh bảo hộ các bà nội trợ." Khi được hỏi sự
khác biệt giữa công phu thực tập đúng theo nghi thức và
đời sống hằng ngày, thì bà cương quyết
nhấn mạnh: "Bạn chẳng thể nào tách rời sự thực tập ra khỏi
đời sống của mình
được."
Bất cứ điều gì bà
đòi hỏi các học viên phải làm, thì
chính bà, bà cũng làm mà lại còn làm hơn thế nữa: tuân hành năm
giới cấm, ngủ nghỉ chỉ trong bốn tiếng thôi, thiền tập nhiều giờ mỗi ngày.
Học viên phải tường trình lại việc thực tập của mình hai lần mỗi tuần và
trong năm, hứa tự giữ lấy nhiều thời kỳ an cư
tĩnh tâm. Trong khi đa số người Calcutta thích trò chuyện và bàn
cãi, thì bà lại trầm lặng, chỉ nói vài câu giản dị khi giảng dạy. Các học
viên của bà có thể tìm nơi an trú trong sự im lặng và vẻ an hoà chẳng lay
động của bà. Một học viên nhớ lại, "Bà
là một trong số ít người tôi gặp được trong
đời tôi, khi gần bên họ, tôi cảm thấy thật lắng yên. Tôi có thể an
trú vào bên trong sự im lặng của bà như là
đang ngồi nghỉ mệt dưới bóng mát tàng cây lớn." Căn phòng duy nhứt của gia
đình dùng làm cả phòng khách, phòng
ăn cho Dipa Ma, con gái bà và
đứa cháu ngoại, Rishi, vừa mới sanh trong
năm. Lại cũng dùng chỗ đó để giảng dạy
các học viên người Ấn và cả những người Tây phương
đang bắt đầu tìm
đến. Ðôi khi vì phòng chật quá, khách
đến phải đứng ngoài bao lơn và hành
lang. Từng đợt khách đến viếng từ sáng sớm
cho mãi đến chiều muộn, Dipa Ma chẳng
hề từ chối tiếp một ai cả, dầu có nhọc mệt đến mấy đi nữa. Con gái bà
theo nài nỉ bà dành chút ít thời giờ riêng cho bà, bà cứ bảo, "Họ
đang khát khao đạo pháp, hãy cứ
để họ tới đây."
Ngay cả các vị tì kheo đã thọ cụ
túc giới cũng tìm sự hướng dẫn của bà như với một vị sư phụ. Ðại
đức Rastrapala Mahathera, xuất gia đã
mười tám năm, kể lại rằng, nhiều người chẳng
tán thành việc ông đã chọn thầy
để thọ giáo, hỏi tại sao ông đã
đậu bằng tiến sĩ rồi mà còn
đi thực tập thiền định dưới sự hướng dẫn của
một người đàn bà. Ðại đức giải thích,
"Tôi chẳng biết được đường lối, còn bà thì biết rõ, nên tôi
đến nhờ cậy bà, tôi chẳng xem bà như
một phụ nữ. Tôi kính bà như là vị sư phụ của tôi." Ðại
đức đã theo dự một khoá an cư dưới sự
hướng dẫn của bà và nhờ đó mà chính
mình thể nghiệm được những gì mình chỉ
biết đọc qua trong mười tám năm. Dipa Ma vui
lòng chấp thuận cho ông được dạy
thiền, và sáu tháng sau, vào năm 1970,
ông thành lập Trung tâm Thiền Minh sát
đầu tiên ở Ấn độ, tại Bồ đề đạo tràng
(Bodh Gaya ) rất nổi tiếng. Con gái của Dipa Ma đã chứng kiến
nhiều sự thay đổi khả quan trong cộng đồng
các thiền sanh của bà. Khi họ mới đến
để ngồi thiền, thái độ họ còn đầy xao
động, giận hờn, ưa chuyện tào lao, và nói lời thô lỗ. Sau vài tháng
thực tập, các tư cách đó bớt dần. Nam thiền
sanh trước thường câu cá, bẫy thú, nay cũng dẹp bỏ thói săn bắn, dưới ảnh
hưởng của Dipa Ma.
Jack Engler, vào khoảng giữa những năm
1970 đến Ấn độ để trau dồi thêm sự tu tập thiền
định của mình và
để hoàn tất việc khảo cứu luận án tiến
sĩ về Thiền định Phật giáo, đã ghi
nhận rằng sự hiện diện của Dipa Ma đã
ảnh hưởng nhiều đến cả những người sống chung
quanh gần bà: Khi Dipa Ma mới dọn về chung cư, thì ở đó
thật là một nơi ồn ào, xào xáo, có biết bao vụ cãi vả, gây gỗ và
quát tháo của những người ở thuê, vang dội thêm trong khoảng sân trống. Ai
cũng biết người kia đang lo việc gì,
vì cứ mãi nghe tiếng hò qua hét lại suốt ngày. Trong vòng sáu tháng kể từ
ngày Dipa Ma dọn về, trọn khu chung cư lắng dịu lại và chòm xóm láng diềng
mới chịu thân mật nhìn nhau lần đầu. Sự hiện
diện của bà, và cách bà đối đãi
người khác -- trầm tĩnh, điềm đạm, dịu hiền,
cư xử với mọi người bằng sự kính trọng và ân cần,
đặt giới hạn và thách thức thái
độ của họ khi cần, nhưng cũng vì sự an
lạc của mọi người chớ đâu phải vì giận
hờn hoặc ích kỷ vì tiện nghi của mình -- đã
làm tấm gương sáng cho họ để bỏ đi các thái
độ xấu trước kia. Chính vì sự hiện diện giản dị của bà ở
đó, cho nên họ chẳng thể tiếp tục hành
động như cũ nữa khi ở gần quanh bà... Joseph Goldstein là học viên người Mỹ đầu
tiên được giới thiệu theo học với Dipa
Ma. Năm 1967, ông gặp Munindra tại Trung tâm Thiền Miến điện ở Bồ đề đạo
tràng. Munindra sau đó có nói với
Joseph rằng ông muốn giới thiệu một người hết sức đặc biệt cho ông, rồi
dẫn ông đến nhà Dipa Ma. Mối liên hệ giữa hai người
đã sớm biến thành sợi dây tình cảm
thấm thiết giữa mẹ và con mãi cho đến ngày
bà mất đi hai mươi năm sau. Joseph hồi tưởng
lại buổi gặp gỡ đầu tiên nơi nhà bà như sau: Muốn lên tới các căn phòng trên
từng chót, bạn phải lách mình qua một hành lang chật hẹp và tối tăm,
kế leo lên nhiều bực thang. Nhưng khi bước vào phòng bà, bạn cảm
thấy nơi đây như ngập tràn ánh sáng.
Cảm giác đó thật là kỳ diệu. Và khi ra
về, cơ hồ như tôi đang trôi bập bềnh trong
các nẻo đường dơ dáy, đông nghẹt người của Calcutta. Thật là một
kinh nghiệm thần bí và linh thiêng. Vào những năm đầu của thập niên
1970, Joseph giới thiệu Sharon Salzberg với Dipa Ma. Một mối liên hệ thân
ái tương tự kết chặt họ với nhau và Dipa Ma đã
xem cả hai Joseph và Sharon như con đẻ.
Sharon thường nhắc lại, Dipa Ma lưu giữ các bức ảnh của họ trong tập hình
của bà. Và họ ngồi uống trà vừa xem ảnh, vừa luận bàn về Phật pháp. Sharon
và Joseph đều tưởng nhớ đến Dipa Ma như "một
con người đáng yêu nhứt chưa từng gặp trên
đời."
Jack Kornfield gặp gỡ Dipa Ma vào những năm
cuối của thập niên 1970. Jack kể lại chuyến gặp gỡ lần
đầu như sau:
Trước đây, tôi có xuất gia một thời gian,
tôi quen lễ lạy các vị thầy, vì thế, vừa gặp bà, tôi
đã cúi xuống lạy. Tôi cũng nghĩ,
điều nầy cũng hơi kỳ kỳ -- bà chẳng
phải là một vị sư nữ, bà chỉ là một người nội trợ thôi -- nhưng bà
đã vội kéo tôi
đứng lên, và bà hun tôi một cái chụt,
và từ đó về sau bà chào tôi bằng cách
đó, mỗi khi tôi đến gặp bà. Thật là kỳ
diệu! Ý như bà muốn nói với tôi: "Chẳng có cái vụ lộn xộn lễ lạy
đó nghe! Tôi chẳng phải là một vị
đại sư mà bày
đặt ra lễ nghi như thế". Chỉ hôn một cái
chụt!
Jack, Joseph, và Sharon, nay tất cả đều
dạy thiền ở Mỹ châu; họ thường nói chuyệnvề Dipa Ma với các thiền sanh của
họ. Rồi các thiền sanh lại nói lại với người nầy, người nầy lại nói với
người kia nữa. Dipa Ma trở nên một thực thể gợi sự hiếu kỳ cho
người Tây phương: về thể chất, bà nhỏ người, một lão bà gầy yếu thò ra
khỏi chiếc áo sà ri trắng tựa như "một con tằm nhỏ quấn trong mảnh bông
gòn", như đã có người nói như vậy.
Nhưng về mặt tâm linh, bà thật là vĩ đại.
Ði đến bên bà cũng như
đang đi vào một từ trường mà các
điều kỳ diệu có thể xảy ra: tri giác đổi
thay, tâm tâm thông cảm, và định lực
thâm hậu ngẫu phát...
Vào năm 1980 và năm
1984 nữa, Joseph, Sharon, và Jack Kornfield thỉnh Dipa Ma sang
giảng Thiền tại khoá an cư ba tháng thường niên của Hội Thiền Minh Sát.
Mặc dầu đã sáu mươi chín tuổi, sức
khoẻ kém và chẳng thoải mái với các chuyến phi cơ, bà cũng nhận lời du
hành sang Mỹ quốc, cùng đi có con gái bà
với thằng cháu ngoại vừa biết đi lẫm đẫm và
một người thông dịch viên. Sự cách biệt văn hoá đối với người Ấn thật
là sâu rộng. Họ hoàn toàn xa lạ với những chi tiết thông thường
trong đời sống hằng ngày ở Mỹ châu,
như đi tắm thì nước tuôn từ trên bông
sen xuống, như chó được nuôi ngay trong nhà,
được cho ăn trong chén, như ăn bánh bắp sấy
(corn flakes) với sữa thì phải dùng muỗng, như mấy thùng sắt kê ở
góc đường lại nhả ra tiền khi ta bấm nút.
Sharon kể lại giai thoại sau đây:
Dipa Ma sống rất bình dị và chẳng hiểu
đuợc nền kỹ thuật Tây phương. Lần đầu tiên khi chúng tôi mời bà
sang Mỹ, chúng tôi dẫn bà vào các khu chợ bán tạp hoá và các chỗ nầy chỗ
nọ. Chúng tôi đưa bà tới gần một trong
những chiếc máy ATM vừa mới sáng chế, mà khi ta
đút cái thẻ vào rồi bấm các số mật
hiệu thì giấy bạc lọt ra. Bà đứng đợi bên
vách tường ngân hàng, trong khi chúng tôi làm thủ tục lấy tiền ở máy; bà
cứ đứng đó, lắc đầu và nói: "Buồn quá
nhĩ! Tội nghiệp quá!" Chúng tôi ngạc nhiên: "Có chi buồn và tội nghiệp?"
Và bà đáp: "Cái người khổ sở phải ngồi cả ngày
trong bức tường kín mít chẳng có ánh sáng, chẳng có khí trời, chờ có ai
đưa thẻ vào,
đọc rồi trao tiền ra."
Chúng tôi liền nói: "Không, chẳng có ai ngồi trong vách tường cả. Ðấy
chỉ là phương tiện vận hành vậy thôi." Bà liền nói: "A! Thế thì
đó lại cũng như là vô ngã (anatta = sự
vắng bóng của cái "ta"). Và chúng tôi đáp:
"Vâng, đúng thế!" Rồi bà bắt đầu giảng
ngay trong giờ phút đó quan niệm về vô ngã. Ðó, chẳng những là sự
vắng bóng của một tự ngã đang tìm cách
kiểm soát phương tiện vận hành ấy, đang đòi
hỏi thân tâm chúng ta phải hành động theo thị
hiếu nhứt thời của nó, theo ý muốn của nó, theo sự mong mỏi của nó, mà
còn lại là cái ý nghĩa thâm sâu về sự hỗ tương liên hệ, về sự trong suốt,
về sự tự kỷ khởi sanh ra, khi chúng ta quay nhìn sâu vào nội tâm chúng ta. Mặc dầu việc giảng dạy của Dipa Ma chẳng dùng
đến bục gỗ cao với máy vi âm, trước một cử
toạ đông đảo trong một giảng đường rộng lớn, nhưng bà luôn cố gắng
làm thỏa mãn các người bạn Mỹ đã mời
bà đến. Còn chưa quen với tiết trời
lạnh lẽo của tiểu bang New England, bà đi đến
thiền đường "quấn kín mít trong áo lạnh và khăn
choàng cổ khiến ta chẳng biết ai đó
hay vật gì đó", theo như lời của một
thiền sanh. Bà thường thích nhắc đi
nhắc lại như một điệp khúc, rằng, "Tất cả các bạn ở đây đều là pháp
tử của tôi. Làm sao mà tôi dám bỏ bê chẳng
đáp lời mời mà sang đến đây được."
Trong khi vấn đề sức khoẻ đã ngăn
cản bà chẳng trở lại Mỹ quốc lần nữa, sau chuyến
đi năm 1984, Dipa Ma vẫn tiếp tục giảng dạy
trong căn phòng của bà ở Calcutta, cho
đến ngày bà mất, nhiều năm về sau. Vào
một buổi chiều mồng một tháng Chín năm 1989,
bà ra đi vĩnh viễn vào tuổi bảy
mươi tám. Cái chết đến với bà thật bất
ngờ. Khi Dipa đi làm về chiều hôm ấy,
mẹ nàng đang mệt nhiều. Dipa hỏi mẹ có nên
mời bác sĩ đến không. Dipa Ma ngập ngừng ưng
thuận. Và người láng diềng Sandip Mutsuddi
đi mời, nhưng chẳng tìm gặp
được vị bác sĩ. Khi Sandip trở lại, ông ta
ngồi xuống bên cạnh Dipa Ma và bắt đầu
xoa bóp cánh tay bà. Ông kể lại: Rồi Ma bảo tôi rờ đầu bà, tôi liền
để tay lên
đó, và bắt dầu
đọc tụng bài Kinh mà bà
đã dạy tôi. Khi bà nghe tôi tụng, bà
chắp tay lại cầu nguyện. Bà đảnh lễ hướng về
Ðức Phật và chẳng ngồi lên nữa. Hai chúng tôi
đến nâng bà lên khỏi sàn nhà và nhận
ra hơi thở bà đã dứt. Bà mất trong khi
đang lễ Phật. Gương mặt bà hết sức
trầm tĩnh và an lạc. Gần bốn trăm người tham dự đám tang của
Dipa Ma, mấy ngày sau đó. Nhục thân
của bà nằm trên một chiếc giường trống. Từng người một, các người
đệ tử chầm chậm bước qua, đặt các tràng
hoa lên thân thể vị thầy của họ, cho đến khi
bà được hoa phủ kín hết.
-ooOoo- Chân thành cám ơn Cư sĩ Thiện
Nhựt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 01-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Cuộc đời ly kỳ và Giáo pháp của Nữ Thiền sư Dipa Ma
Thiện Nhựt
phỏng dịch
Tríu mến sanh ra lo sợ.
Ai cắt đứt dây nhợ luyến ái
Chẳng sầu, sao có sợ?
last updated: 06-02-2003