BuddhaSasana Home Page
Ngập Sâu Trong Ân Sủng
Phần
III: Di huấn của Dipa Ma Chương
11: Mười bài học
Tiểu sử của Dipa Ma
là một truyện thần kỳ kiễu mẫu của những người đang đi tìm con Ðường giải
thoát. Các giai đoạn được mô tả -- dấn bước, phát nguyện, đối đầu và khắc
phục các khó khăn, tìm ra được sự giải thoát, và chia xẻ các sự khám phá
của mình với người khác trên thế gian -- đi song hành chặt chẽ với các
giai đoạn mà chính Ðức Phật đã trải qua con đường chuyển hoá.
Sau khi đại giác ngộ dưới cội cây bồ đề,
Ðức Phật đã tuyên lên Bốn Chơn Lý Nhiệm Mầu: thứ nhứt, có sự khổ và khổ là
dấu ấn tín đóng lên tất cả mọi hiện hữu bị điều kiện hoá; thứ hai, nguyên
nhân của khổ là sự luyến ái; thứ ba, có thể tận diệt khổ được; và thứ tư,
có con đường, được Ngài kể ra rõ tất cả chi tiết, tránh xa được sự khổ và
dẫn đến mục tiêu hằng ôm ấp là sự giải thoát. Sự tu tập theo Phật đạo, nói
cách thật tóm tắt và giản dị, là sự chấm dứt đau khổ cho chúng ta và cho
tất cả chúng sanh. Chính sự thầm hứa nguyện -- rằng đau khổ
của chính tôi sẽ chấm dứt -- trước đã thúc dục tôi tìm đến sự tu tập thiền
quán. Và chính tấm gương cuộc đời của Dipa Ma đã đem lại cho tôi lòng tự
tín để dấn bước lên con đường tu tập. Là một người đàn bà, một người mẹ,
một người nội trợ, Dipa Ma đã chỉ rõ con đường Thánh đạo của Ðức Phật đang
mở rộng cho tất cả mọi người, và mục tiêu vĩ đại được giải thoát ngay
trong cuộc đời nầy.
Những đoạn sau đây là những bài học tôi đã
rút ra từ các lời giảng căn bản của Dipa Ma. Nguyện cầu các bài học đó sẽ
giúp ích cho bạn, trên con đường giải thoát.
Bài Một:
Chọn một cách thực tập thiền quán và đeo theo
cách ấy mãi.
"Nếu bạn muốn có tiến bộ về thiền quán,
phải kiên trì giữ theo một kỹ thuật duy nhứt mãi." Ðối với những người mới bắt đầu theo con
đường tu tập tâm linh, Dipa Ma khư khư bảo phải trung thành tuân theo một
kỹ thuật về thiền quán đã chọn. Ðừng bỏ cuộc, và đừng nhảy từ kỹ thuật nầy
sang kỹ thuật khác. Hãy chọn một kỹ thuật hợp với bạn và theo đuổi mãi cho
đến khi bạn thấy được "bờ ranh", tức là tại nơi điểm mà các khó khăn bắt
đầu nổi dậy.
Lỗi thông thường của nhiều người Tây
phương đang theo con đường tâm linh là xem các khó khăn như một bài toán
nan giải đối với một sự thực tập nào đó. Thế rồi, khi tình trạng trở nên
ngặt nghèo, thì liền chạy quanh để tìm thuốc chữa. Ðứng từ đỉnh núi nầy
(nơi đang gặp khó khăn) trông sang núi nọ, thì thấy các kỹ thuật khác bao
giờ cũng tốt hơn ở đây. "Có lẽ ta nên tu tập theo lối "ca ngâm" Tây
tạng,.. hoặc theo lối "nhảy múa" Sufi (phái mật tông Hồi giáo tu khổ
hạnh)". Thật ra, các sự khó khăn gặp phải, thường thường là một triệu
chứng đáng tin cậy rằng sự thực tập đang được trôi chảy.
Hãy suy nghĩ thật chín chắn, cặn kẽ, về
lời khuyên của Dipa Ma. Nên cứ đeo đuổi mãi một lối tu tập mà bạn đã chọn,
xuyên qua khó khăn và ngờ vực, xuyên qua cảm hứng cùng trì trệ, xuyên các
thăng trầm chẳng thể tránh được. Nếu bạn giữ vững lòng trung thành với sự
thực tập bạn đã nguyện chọn, xuyên qua thời kỳ đen tối, ánh bình minh trí
huệ sẽ lố dạng. Bài Hai:
Phải ngồi thiền mỗi ngày.
"Phải tập ngay bây giờ. Ðừng tưởng bạn sẽ
làm nhiều hơn về sau." Dipa Ma kiên quyết tuyên bố rằng, nếu bạn
muốn được an lạc, bạn phải tu tập đều đặn. Bà nhấn mạnh là các thiền sanh
phải tìm ra thời giờ để tu tập mỗi ngày, ngay cả khi chỉ có được năm phút
thôi. Nếu cả điều đó mà cũng chẳng thể có được, thì bà lại nói, " Ít nhứt
là khi lên giường đi ngủ, bạn chỉ cần theo dõi một hơi thở vào và một hơi
thở ra, trước khi bạn nhắm mắt ngủ." Ngoài việc tọa thiền chánh thức, ngồi trên
toạ cụ, Dipa Ma còn thúc dục các thiền sanh của bà phải dùng tất cả mọi
thời, mọi lúc trong cuộc sống để tập thiền quán. Nhiều thiền sanh rất bận
rộn, thấy rất khó mà để riêng ra một chút thời giờ nào cả. Dipak Chowdhury
thưa với Dipa Ma rằng, chẳng thể nào thực tập được hết, vì thời biểu công
tác của ông thật đầy ăm ấp, ở ngân hàng nơi ông làm việc. Ông bảo rằng,
ông phải làm toán cả ngày, phần vụ của ông lại đòi hỏi ông phải di chuyển
tới lui luôn, thật là bận rộn và lăng xăng, làm sao mà nghĩ đến thiền quán
được. Nhưng Dipa Ma chẳng muốn nghe như thế, bà cứ bảo, "Nếu bạn bận rộn
đấy, cứ lấy ngay sự bận rộn đó để thiền quán." Bà dạy tiếp, "Khi bạn đang
làm toán, hãy nhận biết rằng bạn đang làm toán. Thiền quán chính là nhận
biết rõ việc mình đang làm. Nếu bạn đang vội vã đi vào sở làm, thì bạn hãy
nhận biết là bạn đang vội vã. Khi bạn đang ăn, đang mang giầy, mang vớ,
đang mặc quần áo, bạn phải giữ chánh niệm trong khi làm các việc đó. Ðấy
là cả một sự thiền quán đó. Ngay cả khi bạn đang cắt móng tay, cũng nên để
tâm trí vào việc cắt móng tay đó nữa: nhận biết rõ là bạn đang cắt móng
tay."
Ðối với Dipa Ma, sự tỉnh thức chẳng phải
là điều mà bà cố tạo nên, mà sự tỉnh thức chính là bà, bà đang như thế ấy
-- trong tất cả mọi thời, mọi lúc. Thái độ tốt nhứt để tập thiền, theo ý
bà, là lòng tin cậy và thiện chí. Khi tâm trí bạn đi vẩn vơ, chỉ cần bắt
đầu tập lại lần nữa. Dipa Ma bảo rõ rằng, chẳng có điều gì hỏng khi gặp
nhiều lúc thiếu tỉnh thức. "Sự thiếu tỉnh thức thường xảy ra cho mọi
người. Ðó chẳng phải là một vấn đề khó khăn thường trực." Ngay khi ta đã
mất cả nỗ lực và quyết tâm, bà khuyên ta chỉ cần nên nhận biết rõ tâm
trạng đó và rồi chuyển ngay sang một hình thức tu tập khác -- đi thiền
hành, theo dõi và ghi nhận các hoạt động thông thường, hoặc là ngồi toạ
thiền -- trong đó sự quyết tâm đang hiện diện
Bài Ba:
Xử dụng mọi trường hợp.
"Mỗi người chúng ta đều có năng lực vĩ
đại. Hãy dùng năng lực đó để tự cứu mình và giúp đỡ kẻ khác."
Ðức Phật Thích ca đã rời vợ và con để lên
đường tìm sự giác ngộ. Nhưng Dipa Ma, vì hoàn cảnh bó buộc, đã tự tìm ra
con đường giải thoát cho mình, ngay trong khung cảnh gia đình, làm mẹ và
nội trợ. Thông điệp của bà gởi đến cho tất cả phụ nữ ở khắp nơi là, "Bạn
chẳng cần phải rời khỏi gia đình bạn mới có thể đạt đến được các chứng đắc
nội tâm và trí huệ cao tột. Bạn có thể vừa là vợ, là mẹ, lại vừa theo đuổi
con đường đạo pháp được."
Mặc dầu ngay tự buổi đầu bà nghĩ là bà
phải lìa con gái bà để đi đến tu viện và tu tập trong sự độc cư, nhưng về
sau, Dipa hiểu ra được rằng, bà có thể mang cả gia đình trên vai mà dấn
bước vào con đường đạo pháp. Ðường lối của bà là một sự hội nhập triệt để
-- tất cả, kể luôn cái bồn nước rửa chén trong bếp.
"Trên thế gian nầy, chẳng có bất cứ sự vật
gì mà ta nên bám níu lấy," Dipa Ma dạy, "nhưng ta có thể tìm lấy chỗ hữu
dụng của mọi sự vật trên thế gian. Cuộc sống chẳng phải là để chối bỏ đi.
Ðời sống có mặt ở đó. Và trong bao lâu mà đời sống vẫn còn đấy và chúng ta
còn ở đây, chúng ta có thể đem nó ra xử dụng một cách thật tốt đẹp nhứt."
Dipa Ma chẳng hề mê luyến một vị sư phụ
đặc biệt nào, hoặc một điạ điểm nào, hay một lối sống nào cả. Toàn thể thế
giới là tu viện của bà. Sharon Kreider còn nhớ rằng, "Vào tuổi đôi mươi
đầy lý tưởng mộng mơ của tôi -- khi tôi muốn tin rằng nếu tôi chịu ngồi đủ
lâu bên cạnh vị thầy giỏi, thì mọi việc sẽ được vừa ý -- bà chỉ cho tôi
thấy rằng đó là chuyện phải tỉnh giác càng nhiều hơn nữa. Bà là một tấm
gương sáng cho cả thế giới, làm thế nào mới trở nên một bà mẹ thật sự. Làm
một bà mẹ thật sư là cảm được sức sống mãnh liệt. Làm một bà mẹ thật sự là
mở rộng vòng tay ra đón nhận tất cả những gì tìm đến, với sự tỉnh giác, và
nhận mọi hoàn cảnh như vị thầy của mình. Bài Bốn:
Tập nhẫn nhục.
"Nhẫn nhục là đức tánh quan trong nhứt để
phát triển tỉnh giác và định lực."
Nhẫn nhục được tôi luyện bằng cách luôn
luôn đối đầu với "bờ ranh"(dịch gượng chữ the edge). Nếu bạn kiên
trì theo cách tu tập thiền định, chẳng thể nào bạn tránh khỏi được những
lúc mà các sự khó khăn nổi lên. Trong những trạng huống đầy thách thức
nhứt, chỉ cần giản dị biết mình có mặt ở đấy, có thể đây là điều duy nhứt
có thể làm được -- và như thế kể cũng đã đủ rồi.
Kate Wheeler kể lại một thí dụ nhẫn nhục
như thế trong đời của Dipa Ma: "Bà đã nhìn thấy rõ tâm bà trải qua mọi sự
thống khổ và bà đã đủ năng lực để ngồi thiền cho nó trôi qua. Sau đó, khi
bà xuất ra khỏi cảnh lửa đỏ đó, thì có một cái gì rất quyết tâm đáng sợ
trong ánh mắt bà nhìn vào bạn, bởi vì bà đã tự thấy rõ bà. Chẳng có chỗ
nào để che giấu. Bà nêu gương cho bạn thấy, chẳng phải chỉ cần ngồi yên
(toạ thiền) đấy mà nghĩ tưởng đến lúc chứng đắc được sự giải thoát. Bạn
cần phải nắm vững các sự thật nầy và ghi vào trong tâm bạn ở mức độ nào
thâm sâu nhứt." Dipa, con gái của bà, thuật lại đức tánh
kiên nhẫn của mẹ như sau: "Một ngày trước hôm mẹ tôi mất, thằng Rishi bấy
giờ được mười một tuổi, giở chướng ngỗ nghịch lên, khi tôi sửa soạn sắp đi
làm. Tôi giận lắm, và định quất cho nó một trận. Nó chạy núp vào mẹ tôi.
Bà chẳng để tôi được đụng vào mình nó. Tôi bực tức và hét to lên, "Má
chẳng thấy nó làm cho con tức muốn chết hay sao, con phải đánh phạt nó!"
Mẹ tôi dịu dàng, nhỏ nhẹ, bảo tôi, "Nầy Dipa con, con là con gái của mẹ,
con cũng đã có lần rất kỳ khôi với mẹ. Nhưng mẹ đâu có liệng con ra khỏi
nhà vì đã ngỗ nghich với mẹ." Rồi với giọng chẫm rãi, mẹ tôi giảng về thái
độ âu yếm, ân cần và kiên nhẫn. Ðó là một bài học mà tôi nhớ mãi." Sự nhẫn nhục cần được thực tập suốt đời
mình, cần được phát huy và tinh luyện qua thời gian. Theo Dipa Ma, sự nhẫn
nhục rất cần thiết cho sự trưởng thành của tâm trí và do đó là một đức
tánh quan trọng nhứt cần được vun bồi.
Bài Năm:
Hãy giải thoát tâm của bạn.
"Tâm của bạn còn đầy vọng tưởng"
Dipa Ma chẳng có nói rằng trong tâm có đầy
các câu chuyện, mà bà bảo rằng tâm chẳng là gì khác hơn là những
câu chuyện. Chúng là những bi hài kịch riêng tư của mỗi người đã tạo nên
và gìn giữ mãi một ý nghĩa về tự ngã, "một lý lịch cá nhơn": chúng ta là
ai, chúng ta làm gì, những gì chúng ta làm được và làm chẳng nổi. Nếu
chúng ta còn chưa ý thức được việc đó, thì những chuỗi dài vô tận của
những tư tưởng như thế sẽ lôi kéo chúng ta mãi và hạn chế cuộc sống của
chúng ta. Tuy nhiên, các vọng tưởng đó đều chẳng có thực chất.
Dipa Ma thường thách đố sự tin tưởng của
các học viên của bà vào các mẩu chuyện của họ, sự luyến ái vào chúng. Khi
có ai đó nói rằng, "Tôi chẳng thể làm nổi việc đó", bà liền hỏi ngược lại,
"Bạn có chắc như thế không?", hay "Ai bảo thế?", hoặc "Tại sao lại không
chớ?". Bà luôn khuyến khích các học viên nên quán sát các mẩu chuyện tư,
các vọng tưởng đó, để nhận ra sự rỗng tuếch của chúng, để rồi vượt thoát
qua khỏi những hạn chế mà chúng đã áp đặt lên họ. "Hãy dẹp bỏ việc suy
nghĩ đi", bà thường thúc dục, "Thiền quán đâu phải là suy tưởng." Ðồng thời, Dipa Ma dạy rằng, tâm trí chẳng
phải là một kẻ thù mà mình cần gạt bỏ đi. Ðúng ra là, nhờ bằng vào tiến
trình tỏ ra thân thiện với tâm trí, nhờ được tìm hiểu, biết rõ thêm và
được chấp nhận thì tâm trí sẽ hết trở nên một vấn đề khó. Dipa Ma biết rõ
sự giải thoát theo sau tiến trình đó, và bà luôn sống trong tâm trạng tỉnh
thức vô niệm. Trong một cuộc phỏng vấn tập thể, Jack
Kornfield đã ngây thơ hỏi: "Bên trong tâm trí bà, giống như thế nào vậy?"
Dipa Ma mỉm cười, mắt nhắm lại, và lặng lẽ đáp: "Trong tâm tôi, có ba
việc: định lực, từ bi và an lạc." Jack, còn chưa chắc đã nghe rõ đúng, hỏi
thêm, "Chẳng còn gì khác nữa sao?". Dipa Ma đáp lại, "Vâng, chỉ bấy nhiêu
thôi" Trong phòng im phăng phắc. Rồi có một vài
tiếng thở dài và nhiều nụ cười lặng lẽ, theo sau lời ấp úng nho nhỏ vừa đủ
nghe của Jack: "Thật là tuyệt vời!" Bài Sáu:
Hãy dập tắt ngọn lửa tình cảm.
"Sân hận là ngọn lửa". Khi có người đến thăm Dipa Ma, chẳng kể là
ai đó, chẳng kể đến tâm trạng đang nung nấu của khách, chẳng kể đến hoàn
cảnh nào của họ, bà đều đối xử với mỗi người bằng tấm lòng từ bi hoàn toàn
chấp nhận. Chúng ta có thể nào cống hiến sự chấp nhận
đó đối với các tình cảm đang khởi lên trong tâm chúng ta chăng? Chúng ta
có thể nào xem các trạng thái tình cảm của chúng ta như là tân khách để
được đón tiếp ân cần chăng? Chúng ta có thể nào giản dị để cho sự giận hờn
và các tình cảm khác khởi lên trong tâm chúng ta và trôi qua đi mà chẳng
phản ứng theo nhiều cung cách thường gây ra thương tổn chăng?
"Trong đời sống hằng ngày, có rất nhiều
chuyện xảy ra chẳng vừa ý mình," Dipa Ma nói, "Ðôi khi, tôi thể nghiệm một
sự bực bội, nhưng tâm tôi lại vẫn mát mẻ. Bực bội đến rồi lại qua đi. Tâm
tôi chẳng bị khuấy rối vì bực bội. Sân hận là ngọn lửa. Nhưng tôi chẳng
cảm thấy nóng chút nào. Nó đến rồi nó tắt lịm đi". Tôi rất phấn khởi trước
tấm gương của Dipa Ma, nhưng tôi thường tự hỏi, còn có một vài trường hợp
mà sự tức giận dường như cũng thích hợp chăng? Trong một vài hoàn cảnh đặc
biệt nào đó, sự sân hận có đáng được xem ít nhứt là chánh đáng chăng? Ðối
với Dipa Ma, câu trả lời giản dị cho sự thắc mắc đó là không, sự sân hận
chẳng bao giờ tự biện minh chánh đáng được. Và bà đã tìm ra được cách để
lèo lái con thuyền đời bà lướt sóng gió mà chẳng vướng bận giận hờn. Sylvia Boorstein, một nữ thiền sư đã tiếp
đón Dipa Ma đến ở trong gia đình bà, vào năm 1980, có nói rằng, chồng bà
ta đã có một lần thách thức Dipa Ma về điểm đó. "Dipa Ma đang nói về tầm
quan trọng của việc duy trì tâm bình đẳng và tịch tĩnh và vô sân; và chồng
tôi mới hỏi bà, "Bà có thể làm đúng như thế chăng? Nếu có người bằng cách
nào đó gây hiểm nguy cho cháu Rishi, hăm doạ cháu, bà sẽ phản ứng ra sao?"
Dipa Ma bình tĩnh đáp: "Dĩ nhiên, tôi sẽ ngăn người ấy lại, nhưng chẳng có
chút tức giận nào." Bài Bảy:
Hãy cứ vui hưởng lạc thú ở dọc đường.
"Tôi rất vui sướng. Nếu bạn đến tập thiền,
bạn cũng sẽ vui sướng."
Jack Engler hỏi Dipa Ma, chỗ nào vui thích
trong Phật giáo. "Mọi điều đều có vẻ quá u buồn", ông ta nói, "Phải dẹp bỏ
đam mê, phải diệt trừ giận hờn, phải quét sạch ham muốn. Trông như một
cuộc sống buồn bã, xám xịt. Còn ở đâu là mật ngọt?" Dipa Ma bật cười to: "Ồ, bạn còn chẳng
hiểu! Ðời sống bình thường ngày qua ngày cứ diễn ra giống nhau buồn tẻ
lắm. Mọi việc chúng ta kinh nghiệm qua đều được nhìn dưới cùng một màu
kiếng. Một khi tham lam, hờn giận và si mê đã được bỏ đi rồi, trong mọi
thời, nhìn lại mọi sự vật ta thấy chúng tươi tắn và mới mẻ hơn. Mỗi phút
giây là một khoảnh khắc mới. Ðời sống tẻ nhạt trước kia, nay ngày ngày,
mọi lúc đều mang đầy ý nhị và thú vị". Eric Kolvig nhắc lại trong một buổi phỏng
vấn tập thể hôm đó, tánh thích đùa bỡn của Dipa Ma được lộ ra dưới một
hình ảnh khó mà quên được. Thằng cháu ngoại của bà đang bực tức giận dữ
việc gì trong nhà bếp. Nó hét to lên như cho cả thế giới phải biết đến,
trong một cung cách thường thấy nơi các "đấng độc tài" hai tuổi. Bà gọi nó
đến bên chiếc ghế nệm dài, đặt nó nằm úp trên đùi bà và dỗ dành nói bằng
cách đấm nhè nhẹ lên lưng nó để vuốt cơn ấm ức của nó, một lối chúc lành
rất hợp với tuổi nó. Có một chiếc xe cam nhông bằng plastic, hai màu xanh,
vàng, đang nằm lăn lóc giữa hai bà cháu. Với một vẻ thanh thản sâu xa chưa
bao giờ rời khỏi gương mặt bà, bà cúi xuống lượm chiếc xe lên, lật ngược
lại, úp ngay... lên trên đầu bà, rồi tiếp tục giảng pháp ngay tại điểm mà
bà đang khai triển. Bà giữ món đồ chơi ấy trên đầu bà, suốt thời gian của
cuộc phỏng vấn. Hình ảnh đó khiến tôi luôn luôn nhớ đến
bà: vuốt ve lưng đứa bé khóc nhè đang nằm trên đùi và tiếp tục thuyết
giảng đạo pháp với chiếc căm nhông plastic màu xanh vàng úp ngược trên đầu
mình. Dipa Ma là một chiến sĩ tâm linh vĩ đại nhứt mà tôi được biết đến.
Trên đầu bà, chiếc xe plastic trở thành chiếc mũ sắt quí phái của người
chiến sĩ. Tôi nói như thế chỉ có nửa phần diễu cợt mà thôi." Bài Tám:
Giản dị hoá.
"Hãy sống cuộc đời bình dị. Một đời sống
giản dị bao giờ cũng tốt cho mọi sự. Quá nhiều xa hoa làm chướng ngại cho
sự tu tập." Dẫu rằng Dipa Ma và gia đình bà sống trong
hai căn phòng nhỏ hẹp, nhưng hầu hết các tân khách đến thăm thấy hai căn
phòng ấy vẫn rộng rãi và chói chan ánh sáng. Một học viên đã nhận xét
rằng, trong khi chúng ta ở Tây phương nghĩ rằng cần có thật nhiều khoảng
không gian vật lý, còn Dipa Ma thì lại có thật rộng khoảng không gian tâm
linh. Về mọi phương diện, Dipa Ma sống trong sự
giản dị đến mức tối đa. Bà ít chịu giao tế hội hè bè bạn. Bà chẳng hề tham
gia vào các cuộc nói chuyện chẳng cần thiết. Bà chẳng chịu dự vào các mối
quan tâm của người khác, nhứt là các việc than phiền. Kim chỉ nam của bà
và cho các học viên của bà là sống sống ngay thật và chẳng bao giờ quở
trách kẻ khác. Thường thường Dipa Ma giản dị nghỉ ngơi
trong im lặng. Bà thường bảo: "Mỗi khi tôi có được thời gian riêng một
mình, tôi thường quay tâm hướng vào bên trong". Bà chẳng bao giờ dành thời
giờ cho một việc mà bà nghĩ chẳng cần thiết cho đời bà. Cũng như trong khi
thiền quán, chúng ta chỉ chú tâm mỗi lần đến một việc thôi, Dipa Ma khi
làm việc chi thì làm cho xong hoàn toàn việc ấy, chẳng hề nghĩ tới việc kế
tiếp. "Tư tưởng về dĩ vãng, và tương lai", bà bảo, "làm hư mất thời giờ
của các bạn". Bất cứ làm việc gì, bà hoàn toàn sống trong hiện tại với
việc ấy, rất khoan thai, rất tĩnh lặng, và rất bình dị. Bài Chín:
Vun bồi tinh thần chúc phước lành.
"Nếu bạn chúc lành cho người chung quanh
bạn, bạn sẽ được thêm sự chú tâm vào mọi phút giây." Dipa Ma khiến cho đời bà trở thành một sự
cầu chúc phước lành liên tục. Bà chúc phước lành đến mọi người. Bà chúc
lành họ, từ đỉnh đầu xuống ngón chơn, thổi nhẹ hơi vào họ, tụng đọc kinh
bên tai họ, vuốt tóc họ. Dipa Ma khuyến khích một học viên vừa là
phi công hàng không, nên rải tâm từ bi và chúc phước lành đến các hành
khách và bạn đồng nghiệp, khi anh nầy đang lái phi cơ. Bà nói điều nầy sẽ
làm cho anh phi công trở nên tỉnh táo hơn, đồng thời khiến mọi người cũng
được vui sướng.
Sự cầu chúc phước lành của bà, tuy nhiên,
chẳng phải chỉ dành riêng cho con người. Trước khi bước lên máy bay, bà
cũng chúc phước cho chiếc phi cơ. Ngồi xe hơi cũng là cơ hội để bà chúc
lành chẳng những cho chiếc xe mà còn cả cho tài xế và các người đã bơm
xăng cho xe.
Thực hành sự chúc phước cả ngày như thế có
thể khiến cho sự tầm thường trở thành điều đặc biệt. Ðó là một lối tiếp
thọ ân sủng phút nầy sang phút khác. Ðó là một lối nói lời tạ ân, chẳng
phải chỉ vào lúc trước bữa ăn, mà còn trọn cả ngày, đối với mọi việc mình
làm. Bài Mười:
Một hành trình theo vòng tròn.
"Thiền quán thành toàn nhơn cách con
người." Vị thầy và cũng là bạn của tôi là Matthew
Flickstein, có một lần nói với tôi rằng: "Chị Amy nầy, chị biết không, chị
chẳng bước tới gần chơn lý hơn chút nào so với lúc chị bắt đầu tập thiền
quán, mười tám năm về trước."
Sự sửng sốt hoảng hốt của tôi thật rất
hiển nhiên. "Chị chẳng đến gần chơn lý hơn", ông nói
tiếp, "bởi vì chị chính là chơn lý". Các người Phật tử thường nói một cách ẩn
dụ "rời khỏi thế gian" và "trở lại thế gian" (xuất thế và nhập thế), nhưng
sự thật thì chẳng lìa thế gian cũng chẳng có quay về với thế gian. Chúng
ta chẳng thể lìa hay trở lại với bản thể của chúng ta, với cái chơn lý căn
để của thân mạng chúng ta, bởi vì bản thể đó ở ngay tại đây, nhưng chỉ bị
che mờ bởi một màn mỏng của sự si mê. Bạn chẳng cần phải khám phá tìm ra
nó, đúng lý là bạn phải để nó hiển lộ ra, vẹt khỏi lớp mây mờ đang bao
quanh bạn. Nhìn thẳng vào bản thể chơn thật của bạn có nghĩa là nhận định
được rõ ràng rằng bạn được liên kết thật chặt chẽ với mọi người chung
quanh bạn, với mọi sanh vật đang có mạng sống, rằng bạn, thật vậy, có
trách nhiệm trong mọi việc đang xảy ra trên thế gian nầy. Sự đẹp đẽ của hành trình tâm linh là con
đường đạo pháp đó đã đưa chúng ta, một cách chẳng hề đổi thay, đến nơi
vòng quanh trở lại điểm khởi hành. Khi Dipa Ma đau khổ về sự hiếm hoi
chẳng sanh đẻ của mình, chồng bà đã đề nghi một cách rất đúng đắn là bà
nên xem tất cả mọi đứa trẻ như con của chính bà. Nhưng trong những ngày
khó khăn buồn thảm đó mà bà phải cam chịu trước khi gặp được các lời giáo
huấn đã chuyển hoá cả đời bà, bà đã chìm đắm trong ưu sầu vì những gì mà
bà đã thiếu mất và luôn luôn tìm cách "lấp vào lỗ hổng". Tuy nhiên vào
giai đoạn cuối cùng của cuộc đời bà, Dipa Ma đã thật sự trở thành bà mẹ
của tất cả. Ðể lấp vào "lỗ hổng" đó, quả tim bà đã giản dị mở rộng ra thừa
tiếp mọi người. -ooOoo- Chương 12: Trước mặt Thầy: vấn đáp Các câu hỏi và lời
giải đáp sau đây được ghi chép lại trong các cuộc phỏng vấn với Dipa Ma
tại Ấn độ vào những năm của thập niên 1970 và tại Hội Thiền Minh Sát (Insight
Meditation Society) vào những năm của thập niên 1980. -- Tôi phải tập Thiền Minh Sát (Vipassana)
như thế nào? -- Ngồi thẳng lưng. Nhắm mắt lại và theo
dõi sự phồng lên và sự xẹp xuống của bụng, trong khi bạn đang thở. Hãy cảm
nhận hơi thở. Khi theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra, hãy tự hỏi, "Hơi thở
chạm vào chỗ nào?"Phải đặt tâm ý vào chỗ chạm đó mà thôi. Bạn chẳng phải
làm gì với hơi thở, mà chỉ cảm thấy nơi hơi thở chạm. Nếu hơi thở nặng nề,
cứ để nó nặng nề. Nếu hơi thở ngắn, cứ dể nó ngắn. Nếu nó tế nhị, cứ để nó
tế nhị. Chỉ cần cảm nhận nó thôi.
Khi tâm ý bạn đi vẩn vơ, hãy để ý đến việc
đó và tự nói với bạn, "Suy nghĩ", rồi trở lại với sự phồng lên và xẹp
xuống của hơi thở. Nếu bạn cảm thấy có một cảm giác ở chỗ nào khác, thí dụ
như nhức ở chơn, thì liền đưa tâm ý bạn đến chỗ nhức và ghi nhận, "Nhức".
Khi cơn nhức bớt dần hoặc hết nhức, thì bạn lại quay lại theo dõi chỗ chạm
của hơi thở. Nếu có sự xao động đến, ghi nhận rằng "Xao động".
Nếu bạn nghe một tiếng động, hãy tự nói
với bạn, "Nghe, Nghe", rồi cũng trở lại với cảm giác về hơi thở. Nếu nhớ
đến việc gì, thì hãy ghi nhận "Nhớ". Bất cứ việc gì bạn thấy, bất cứ sự gì
đến trong tâm, chỉ cần biết đến sự việc đó. Nếu bạn thấy có hình ảnh hay
ánh sáng, chỉ cần ghi nhận "Thấy" hoặc "Ánh sáng". Chẳng cần giữ chúng
lại, hay bắt chúng ở lại. Chỉ cần quan sát chúng mà thôi. Trong Thiền Minh sát bạn phải quan sát sự
phồng lên và xẹp xuống của hơi thở và các hiện tượng khởi lên trong tâm và
trên thân. Do đó, có việc dời tâm đi từ các cảm giác đã nhận, cảm giác
thích thú, hay đau đớn, đến các ý tưởng khác nữa. Bất cứ có điều gì đang
xảy ra, cũng đều được ghi nhận, rồi điều ấy qua đi, và có điều khác lại
đến. Theo cách đó, sự tu tập Thiền Minh sát là một phương pháp quan sát.
Tất cả sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; tâm ý là căn thứ sáu) sẽ
khởi lên. Bạn chỉ cần quan sát khi chúng khởi lên, rồi chúng lại qua đi,
thì bạn liền trở về với cảm giác nơi hơi thở. Bất cứ điều gì bạn thấy, bất
cứ điều gì khởi lên trong tâm, bạn chỉ cần biết rõ nó, ý thức được nó, mà
thôi. -- Mục đích của Thiền Minh sát là gì? -- Mục đích của Thiền Minh sát là để diệt
trừ Mười Kết sử; các kết sử nầy là những nút thắt gút, hay là chướng ngại
trong tâm bạn. Từ từ, từ từ, do sự quán sát mỗi phút giây với sự tỉnh
thức, bạn sẽ cởi mở hết các nút thắt buộc đó ra. Mười Kết sử đó là: ngã
kiến (ý kiến sai lầm cho rằng có cái "ta" riêng biệt, cái tự ngã), nghi
ngờ, giới cấm thủ (tuân theo các nghi lễ ngoại đạo và dị đoan), tham, sân,
sắc ái, vô sắc ái, kiêu mạn, trạo cử và vô minh. Vào mỗi giai đoạn của sự giác ngộ, chầm
chậm và từng cái một, các kết sử lần lượt tiêu mất, cho đến quả vị của
giai đoạn thứ tư, bậc A la hán, thì tất cả mười kết sử mới tận diệt. Các
kết sử có liên hệ đến sự tái sanh, cũng giống như chất dầu làm cháy ngọn
đèn. Các kết sử cũng như là chất dầu trong tâm của bạn. Khi dầu cạn lần
lần, ánh sáng ở ngọn đèn cũng lu mờ lần lần. Sau cùng khi dầu cạn hết thì
ánh sáng cũng tắt mất. Một khi các kết sử được tận diệt, vòng tái sanh
luân hồi cũng chấm dứt. Vào thời điểm nầy, bạn có thể hiểu được rằng sự
sanh ra và tái sanh đang nằm trong tay của bạn.
-- Tôi phải làm gì khi bị ngủ gục trong
lúc ngồi thiền? -- Ngủ gục chẳng hại gì cả. Các thiền giả
cũng ngủ như thế, gọi là "thiền miên"(giấc ngủ thiền). Ðiều đó thường xảy
ra. Ðừng lo ngại về điều đó. Khi tôi mới bắt đầu thiền quán, tôi thường
khóc luôn, bởi vì tôi muốn nỗ lực theo đúng các lời chỉ dạy một cách thật
nhiệt tâm, nhưng tôi chẳng thể làm được, bởi tôi buồn ngủ quá. Tôi cũng
chẳng đứng thẳng lên và đi thiền hành cho đàng hoàng, vì tôi buồn ngủ quá.
Trước kia, trong năm năm, tôi đã cố gắng để ngủ mà chẳng ngủ được. Và nay,
ở đây, tôi đang cố gắng để tập thiền, thì sự buồn ngủ lại cản trở tôi. Tôi
đã tận dụng tất cả năng lực của tôi để xua đuổi cơn buồn ngủ, nhưng tôi
chẳng thể làm được thế. Rồi một hôm, đùng một cái, tôi đạt đến trạng thái
mà sự buồn ngủ biến đi đâu mất; và rồi cơn buồn ngủ cũng chẳng đến với
tôi, ngay cả khi tôi ngồi thiền hằng mấy giờ.
-- Có phải nghiệp (karma) giống như sổ kết
toán được cất giữ lại hay không? Nếu phải, thì cất nó ở đâu?
-- Mỗi người đều có một bánh xe nghiệp
(nghiệp luân). Nghiệp đó nằm ngay trong tay của bạn; chẳng ai khác cất giữ
nó cả. Mỗi khi bạn hành động, nghiệp được gom cất lại. Nghiệp trôi theo
dòng ý thức. Ngày bạn sanh ra, nghiệp cùng đến với bạn. Những kẻ khác chỉ
có thể trỏ đường đi cho bạn, chớ họ chẳng thể sửa đổi nghiệp của chính
bạn. Chẳng một ai có thể lấy nghiệp của người khác. Chính bạn, bạn phải
làm việc đó. Bởi do nghiệp mà có người tu tập tiến bộ nhanh, có người tiến
bộ chậm. Vài kẻ bị đau nhức nhiều, có người thì không. -- Nếu chẳng có linh hồn, thì ai thấy,
nghe, và biết? -- Trí huệ. -- Phải làm gì khi năng lực và cố gắng
xưống thấp? -- Ðôi khi năng lực xuống thấp, có lúc nó
lại lên cao. Ðôi khi sự cố gắng tụt xuống, có lúc nó lại trồi lên cao.
Nhưng bạn chỉ cần ghi nhận trong tâm bạn rằng "năng lực thấp, cố gắng
thấp". Nếu bạn ghi nhận nó khi nó đang thấp, tự nó tự nhiên điều chỉnh
lại. Biết rõ mức "năng lực thấp", "năng lực cao" cho đến khi nào một năng
lực trung bình hiện thấy ra. Ðiều nầy cần được làm một cách êm thắm, từ
từ, và dịu dàng. Năng lực và cố gắng được điều chỉnh đúng mức khi ta ghi
nhận chúng. Ta chẳng nên trở thành nạn nhơn của các năng lực.
-- Bà làm cách nào để thương mà đồng thời
chẳng luyến ái?
-- Một thí dụ thật giản dị là nước. Chẳng
luyến ái có nghĩa là bạn trôi trên mặt nước. Bạn chẳng lặn sạu dưới nước.
Bạn thả mình trôi theo dòng mà chẳng chìm sâu xuống đáy nước.
-- Có đúng chăng, thiền giả phải ăn chay?
-- Vấn đề ăn chay hay ăn mặn chẳng quan
trọng. Ðiều quan trọng là tâm ý bên trong. Ngay cả khi bạn ăn chay với một
tâm trạng ô nhiễm vì tham, sân hay si, thì bữa ăn chay của bạn trở thành
ăn mặn. Ðó là lời Ðức Phật đã dạy. Nếu tâm ý bạn thoát khỏi tham, sân, thì
bữa ăn mặn cũng hoá ra bạn đang ăn chay. Ðối với mỗi hành động -- thân,
miệng, ý -- Ðức Phật đặt nặng nơi ý định.
-- Ðôi khi tôi cảm thấy quá chán nản và
muốn tự sát. -- Sự chán nản đến mức suy nhược và ý muốn
tự sát là những căn bịnh tâm thần. Ðôi khi nó lại xảy ra cả cho những
thiền giả đã tu chứng thật cao nữa. Nên tập phát triển cho có được một
viễn ảnh thật thực tiễn. Một mặt, bạn phải biết rõ hậu quả của việc tự
sát: đó là một hành động chẳng cứu giúp bạn được gì trong nhiều kiếp sống
liên tiếp; và mặt khác, hãy ráng nhớ, mạng sống con người là điều quí báu
nhứt. Ðừng phung phí nó. Bạn nên gắng tập Thiền Minh sát và vui tươi lên. -- Trí năng có quan trọng lắm trong sự
tiến bộ thiền quán không?
-- Không. Tôi chẳng có chút trí năng nào
cả. Và trước kia, tôi chẳng hề biết đến thiền quán hay là các trạng thái
của tâm thức. Tôi chỉ có lòng tin thành khẩn nơi đạo pháp. Tôi cảm thấy
chắc có điều gì dành cho tôi ở đấy. Với lòng tin ấy, tôi bắt đầu tu tập.
-- Sự tỉnh thức có ích lợi gì? -- Ðể tôi kể cho các bạn nghe một thí dụ.
Nếu tôi bảo bạn, có một số châu báu được chôn dấu tại một nơi nào đó và
tôi dục bạn đi lấy về, bạn sẽ rời nhà lên đường để đi đến đó. Dọc đường,
bạn gặp một cuộc đánh lộn, bạn dừng lại xem một lát. Nhưng sau đó, bạn lại
tiếp tục lên đường. Rồi bạn lại thấy một đám cưới đi ngang qua, kèn trống
vang lên, bạn lại dừng bên đường để ngắm. Lát sau, bạn lại đi tiếp. Có thể
bạn thấy một cuộc đua xe trên công lộ, bạn cũng đứng lại xem, một lát sau
mới đi tiếp. Nếu bạn chẳng có tỉnh thức, bạn chẳng thể đi tới nơi chốn dấu
châu báu mà tôi đã bảo đến lấy. Nhưng khi có sự tỉnh thức ở đấy rồi thì
mặc dầu có những sự ngừng nghỉ hay cản trở, bạn chẳng hề lạc mất lối, và
tiếp tục đi tới mãi. Sự tỉnh thức giúp bạn đạt tới mục tiêu. -- Các sự chuyển hoá quan trọng trong đời
bà đã xảy ra trong khi tu tập ráo riết hay là ngay trong cuộc sống hằng
ngày theo đường lối thiền quán?
-- Các sự chuyển hoá lớn xảy ra trong khi
tu tập ráo riết. Rồi sau đấy, tôi vun bồi các sự thay đổi đó ngay trong
đời sống hằng ngày. Các sự biến đổi ngày càng thâm sâu hơn, theo phương
cách đó.
-- Các ưu phiền và sầu não của bà từ từ
mất dạng hay đã nhanh chóng tiêu trừ như là một thành quả của sự giác ngộ? Lần lần tôi có thể cảm thấy chúng từ từ ra
đi mất. Rồi sau đấy với sự thực tập thiền quán nhiều hơn, tôi phát triển
được chút ít trí huệ, thì toàn bộ ưu não đều tiêu tán. -- Ai có thể dạy thiền quán được?
-- Cần có hai điều về việc giảng dạy Giáo
pháp. Một là kiến thức và sự sáng trí. Còn điều kia là sự chứng đắc được
đạo quả thứ nhứt hay đạo quả thứ nhì trong sự giác ngộ. (Sau đây là lời
của Jack Kornfield đã nói rộng ra, dựa theo câu trả lời của Dipa Ma). Các
ba la mật (đức tánh toàn thiện) cần có đủ, để xứng làm một vị thầy dạy
thiền, rất khác với các ba la mật cần có để tu tập thiền định. Cả hai loại
khả năng rất khác nhau về căn bản. Vài người có tiềm năng rất rộng trong
việc thiền quán và đời sống tâm linh, trong khi những kẻ khác lại có khả
năng rất tế nhị để truyền thông và giảng dạy. Hai hạng người đó đâu phải
bó buộc là cùng một hạng như nhau. Tuy nhiên để giảng dạy, điều đáng mong
ước là họ có đủ cả hai đức tánh: kinh nghiệm tốt và thâm sâu về đời sống
tâm linh và khả năng trao truyền các kinh nghiệm đó cho người khác.
-- Ðiều gì tốt nhứt cần làm khi các dục
vọng quá mạnh? -- Hãy quán tưởng và chiếu soi mạnh và
trực tiếp vào các dục vọng. Hãy biết rằng chúng rất mạnh. Hãy cố gắng tìm
hiểu chúng cho rõ ràng... Nhờ xuyên qua sự hiểu biết về các điều ham muốn
của các giác quan khi các ham muốn đó vừa khởi lên, bạn có thể khắc phục
được chúng. Bạn có thể sống trong cõi dục giới mà vẫn là một người Phật tử
thuần thành, bởi vì bạn có thể đồng thời "xuất thế gian"được, với ý nghĩa
là bạn chẳng để bị lôi kéo hay bị ràng buộc. -- Sự hiểu biết căn bản của bà về đời sống
có thay đổi chăng?
-- Lối tôi nhìn đời đã thay đổi rất nhiều.
Trước kia, tôi bám níu vào mọi sự việc; tôi rất chiếm hữu, tôi đòi muốn
muôn vật. Nhưng nay, tôi như đang trôi bồng bềnh, chẳng bị vướng bận gì.
Tôi đang sống ở đây, nhưng tôi chẳng ham muốn vật gì, tôi chẳng mong chiếm
hữu bất cứ vật gì. Tôi đang sống, thế thôi. Thế là đủ rồi.
-- Tôi phải tập tâm từ bi như thế nào? -- (Các đoạn sau đây là sự kết hợp giữa
những lời dạy của Dipa Ma đã được ghi âm, với các hồi tưởng của Michelle
Levey về lời Dipa Ma đã dạy. Michelle Levey đã thực tập thiền quán về tâm
từ bi trong hơn hai mươi năm. Các bạn có thể chọn, hoặc dùng suốt thời
thiền toạ để quán về tâm từ bi, hoặc khởi đầu hay chấm dứt thời khoá với
tâm từ bi. Sau cùng, năm giai đoạn, được kể ra sau đây, có thể phối hợp
tập chung trong một thời khoá; nhưng khi mới bắt đầu tập, tưởng nên mỗi
lần chỉ chiếu soi kỹ vào một giai đoạn mà thôi). a) Giai đoạn một.
Giai đoạn đầu là phải thương ngay chính
mình, là bạn thân với chính mình. Bắt đầu rải tâm từ bi đến cho mình. Bạn
có thể dùng các câu nguyện sau đây, hay các tâm ảnh, để soi đường cho bạn
trong việc làm phát khởi và hướng dẫn tâm từ bi của bạn: Nguyện tôi chẳng có kẻ thù.
"Kẻ thù" có nghĩa là kẻ thù bên ngoài mà
mình cũng làm kẻ thù cho chính mình nữa. Kẻ thù có thể thấy ở cảnh giới
các cảm thọ, từ một chút bực bội cho đến sự sân hận mãnh liệt hoặc đối với
mình hay đối với kẻ khác. Trong khi thầm niệm các câu trên, hãy nhìn vào
trong tâm bạn thấy thật rõ ràng hình ảnh của chính bạn. Nếu chẳng thể dùng
tâm nhãn như thế, thì cố nhớ lại bóng dáng bạn khi bạn soi gương. Nếu nhớ
lại chẳng được hết, thì bạn cứ nhìn thẳng vào một bức ảnh còn mới của bạn
cho đến khi nào bạn có thể thấy rõ bạn bằng mắt tâm. Lập lại các câu trên theo thứ tự. Nếu tâm
đi vẩn vơ và đang quên mất một câu nào, thì nhẩm đọc lại ngay từ câu đầu.
Ðem tâm quay về với mỗi câu nhiều lần như thế sẽ khiến cho định lực của
bạn càng thâm sâu. Ðiều quan trọng là bạn phải bỏ rơi nghĩa
chữ và cảm tưởng của bạn dính sau các chữ ấy, mà vẫn để trọn lời nguyện
trong câu hướng dẫn bạn, cắm sâu bạn vào sự thực tập mà đi tới. Hãy nuôi
dưỡng trong tâm trí cảm giác an lạc cùng hình ảnh của bạn và miên mật niệm
các câu nguyện trong bao lâu mà thời khoá cho phép. Khi việc thực tập đã khá sâu, khi bạn cảm
thấy bạn thật tình yêu chính bạn, khi bạn có thể lưu giữ vững trong tâm
bạn hình ảnh rõ ràng của chính bạn, thời bấy giờ, nếu bạn muốn, hãy chuyển
sang giai đoạn thứ hai, về cách rải tâm từ bi đến cho một người bạn lành. b) Giai đoạn hai.
Dùng các câu nguyện cũ như trước, hướng
tâm từ bi đến một người bạn lành hay đến vị thầy đã tỏ ra thân ái với bạn.
Cũng như khi bạn đã rải tâm từ bi đến cho chính bạn, hãy nhìn lâu thật rõ
hình ảnh của người thân trong tâm bạn và rải tâm từ bi đến cho người ấy:
Nguyện cầu bạn chẳng có kẻ thù.
Khi bạn cảm thấy rằng bạn thương người
thân ấy cũng như bạn thương chính bạn vậy, hoặc khi bạn có lưu giữ tâm ảnh
của người thân nơi tâm bạn thật lâu và thật rõ cùng với những câu cầu
nguyện, thời nếu bạn muốn, bạn có thể chuyển sang giai đoạn thứ ba.
c) Giai đoạn ba.
Nhóm người kế tiếp để rải tâm từ bi được
gọi là những người đang đau khổ -- bất cứ ai hoặc nhóm nào đang khổ sở.
Trước đây, bạn lưu giữ vững trong tâm hình ảnh của mỗi một người, thì nay
bạn hãy mở rộng nhãn quan để chiếu soi đến một nhóm đông người. Bắt đầu
nhìn tâm ảnh của một nhóm người đang đau khổ. Rải tâm từ bi đến các người
đó như bạn đã rải cho chính bạn và cho người thân: Nguyện cầu các bạn chẳng có kẻ thù.
Nếu có những hình ảnh của các nhóm khác tự
động khởi lên trong tâm bạn, ví dụ như những bịnh nhơn trong nhà thương,
hoặc các nạn nhơn chiến tranh, thời cũng tốt vậy, bạn cứ hướng tâm từ bi
đến với họ, làm như thế là thiền quán theo một đường lối linh động với một
dòng các hình ảnh di động. Hãy tiếp tục niệm những câu nguyện trong khi cố
gắng chú tâm càng nhiều đến các cảm giác về từ bi ẩn sau các chữ.
Từ trên căn bản biết thương chính mình,
bạn nhận ra rằng sự tự mình thương yêu mình chính là căn bản và chất nhiên
liệu để nới rộng tình thương đến người khác. Vừa thương mình, bạn thương
luôn người thân như thương chính bạn. Rồi bạn thương đến những người đang
đau khổ, như bạn đã thương người thân của bạn, và thương người nầy cũng
như bạn đã thương chính bạn. Với sự tập luyện miên mật, tất cả mọi nhóm
đều được hoà hợp lại thành một nhóm duy nhứt. d) Giai đoạn bốn.
Trong giai đoạn thứ tư nầy, tâm từ bi và
tâm bình đẳng được hoà chung nhau lại. Việc thực tập là lưu giữ trong tâm
một ý nghĩa thật rộng rãi về mọi chúng sanh và rải tâm từ bi một cách đồng
đều đến cho họ -- các bằng hữu, các người đau khổ, các người mà bạn dửng
dưng, các ngưòi gây khó khăn cho bạn, và tất cả chúng sanh khắp nơi. Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng có kẻ
thù.
Muốn được như thế, hãy khiến tâm của bạn
trở thành tâm từ bi, bằng cách chú ý và quan tâm nhứt về tình cảm của mình
đối với sự từ bi. Các chữ, các câu nguyện, mà bạn dùng đã nhiều lần đến
nay, chỉ là những mốc chỉ đường cho bạn hướng về các tình cảm đó. Hãy để
tâm trí bạn trở nên từ bi và an trú nơi đấy với sự bình đẳng chẳng cho
nghiêng riêng về một hướng nào cả. c) Giai đoạn năm.
Giai đoạn cao điểm nhứt của sự quán chiếu
tâm từ bi là phối hợp tất cả các giai đoạn lại, rồi chiếu rọi trong một
lúc đến mỗi giai đoạn riêng biệt, vào suốt thời gian dành cho việc quán
chiếu. Thực tập theo đường lối đó, sự quán tưởng trở nên như một buổi hoà
tấu của tâm từ bi trong đó bạn khởi lên với chính bạn, rồi mở rộng ra, mở
rộng thêm ra, mở rông mãi thêm ra, cho đến khi nào tâm bạn thật sự an trú
trong bình đẳng tâm vô lượng và vô biên. -ooOoo- Chân thành cám ơn Cư sĩ Thiện
Nhựt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 01-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Cuộc đời ly kỳ và Giáo pháp của Nữ Thiền sư Dipa Ma
Thiện Nhựt
phỏng dịch
Nguyện tôi chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện tôi chẳng âu lo
Nguyện thời thời tôi được thân an tâm lạc.
Nguyện cầu bạn chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu bạn chẳng âu lo.
Nguyện cầu thời thời bạn được thân an tâm lạc.
Nguyện cầu các bạn chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu các bạn chẳng âu lo.
Nguyện cầu thời thời các bạn được thân an tâm lạc.
Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng âu lo.
Nguyện cầu mọi chúng sanh thời thời được thân an tâm lạc
last updated: 06-02-2003