BuddhaSasana Home Page
Ngập Sâu Trong Ân Sủng
Chương 13: Ngập sâu trong ân sủng Lời giáo huấn của một vị
đại sư có thể mang nhiều hình thức.
Một trong những lối giáo hoá mạnh mẽ nhứt và nhiệm mầu nhứt chính là sự
thân giáo, phát xuất từ bản thân hiện diện của vị thầy. Như nhiều người
đã xác nhận, chính lối sống bình dị,
trong sáng và từ hoà của Dipa Ma trên thế gian nầy
đã cống hiến một sự khuyến khích có
sức mạnh thúc bách ta dấn bước trên con đường
đạo pháp.
Ngay cả khi bà đã lìa
đời rồi, nhiều người đệ tử vẫn còn
tiếp tục thể nghiệm được sự hiện diện của bà.
Jack Kornfield có nói, vào những giờ phút khó khăn
lớn lao hoặc hứng khởi sâu đậm của ông, lòng ông xúc
động vô cùng trước sự tỉnh giác cảm
thông về anh linh của bà. Theo vị thiền sư Munindra, nghiệp lành của các
bực đã giác ngộ, như Ðức Phật hoặc
Dipa Ma, luôn luôn có sẵn đó cho chúng ta
thừa tiếp vào công cuộc tu tập, nếu chúng ta biết tìm
đến.
Dipa Ma cũng đã hoá hiện
đến với những người chưa hề quen biết bà
và những bản tường trình vẫn tiếp tục nói về sự hiện diện của bà, hơn cả
chục năm sau khi bà mất. Ðối với các
đệ tử, được thấy bà trong giấc mộng
hay trong tâm ảnh hoặc cảm nhận sự có mặt của bà như tăng
thêm năng lực, thường xảy ra trước khi
họ đi vào tình trạng định lực thật
thâm sâu. Một vị dạy về thiền quán, thường thể nghiệm được sự hiện diện
của bà, có nói rằng, "Bạn có thể gọi
đó là ân sủng. Dầu đó là gì gì
đi chăng nữa, mỗi khi nó xuất hiện, tôi rất
cảm tạ mối ân sâu đó."
Dipa Ma đã
đến với tôi trong nhiều lối. Một trong những
thí dụ khá lý thú đã xảy ra khi tôi tham dự khoá an cư ở miền Tây
Nam và đang soạn quyển sách nầy.
Trên tường trước bàn viết của tôi có treo một bức phóng ảnh màu, dài cở
một tấc rưỡi ngang một tấc, in hình của Dipa Ma
đang toạ thiền. Một hôm, sau khi treo lên
một bức ảnh khác của Dipa Ma, mới và đẹp hơn,
tôi quẳng tấm phóng ảnh cũ vào sọt rác. Bỗng tôi cảm thấy xốn xang
hối hận: "Có lẽ mình chẳng nên quẳng tấm hình
đi." Tôi mơ hồ nhớ lại lời răn trong Phật giáo chớ có quẳng các pháp khí
đi, vì khiếm lễ như thế sẽ đem lại
nghiệp quả xấu. Tôi tư lự một hồi: "Hành
động vừa rồi có quay lại ám ảnh ta chăng?"
Sau cùng tôi quyết định: "Vô lý!
Ðó chỉ là một phóng ảnh. Nó đã
nằm trong sọt rác, rồi sẽ được vứt xuống hố.
Tôi đã treo thế vào đó một bức ảnh đẹp
hơn. Tôi chẳng có khiếm lễ chút nào!" Thảo luận chấm dứt! Vài tháng sau, vào một xế trưa hè nóng bức, tôi
đang phụ giúp để triệt hạ một cái cổng sắp
sụp đổ ở ngoài sân. Khi chúng tôi kéo cái ngạch
đá rời khỏi bức tường, ở tận trong cùng
phiá dưới của khung cửa, tôi nhìn thấy một cái ổ chuột lông
đuôi xù (packrat). Mẹ chuột
đã sưu tập
được cả một cuộc triển lãm các
đồ vật đầy màu sắc, nếu ta mà thưởng
ngoạn đến, chắc cũng khá thích thú.
Khi tôi bước lại gần hơn, có một cái gì
đập vào mắt tôi. Ở giữa ổ chuột, bên cạnh mấy cọng lá xương rồng,
tờ giấy thiếc mỏng, vài miếng plastic đỏ, đôi
viên phân chuột, và một cây viết bi mực xanh, có bức ảnh của Dipa
Ma đang tham thiền còn nằm
đó, hoàn toàn nguyên vẹn. Ðang mỉm
cười nhìn tôi. Ðúng như thật sự việc đã xảy ra,
đó là bức ảnh mà tôi
đã nhìn thấy mấy năm
trước kia ở trên tường thư viện, khi tôi
đến viếng Hội Thiền Minh sát (Insight
Meditation Society) lần đầu tiên.
Một sự khởi đầu và một hồi kết cuộc --
tất cả là một. Bà vẫn còn đang dạy tôi.
Giữa sự khổ đau, vẫn còn hiện hữu
của ánh sáng. - Khi tôi đang đau khổ hay
khi tôi gặp những thân chủ cũng đang đau đớn thật nhiều, (...) thì
Dipa Ma "hiện lên". "Hiện lên" chẳng phải theo nghĩa bà thật sự có mặt tại
nơi đây, nhưng còn hơn nữa, với
đức độ của sự bà hiện diện giữa nơi
khốn khổ triền miên. Bà đã hiện lên
trong tâm tư tôi trong những trường hợp như thế. Khi điều nầy xảy ra, sự quân bình
nội tâm của tôi trở nên tốt đẹp hơn, và
có sự gia tăng trong niềm từ bi. Bà
đã hiện nhiều lần trong khi tôi
đang (...) làm việc với một người cũng
đang đau đớn dữ dội. Bà nhắc nhở tôi
biết rằng, "Trong những giờ phút đen tối nhứt
của sự khốn khổ, vẫn còn có sự hiện hữu của ánh sáng". -- Roy
Bonney
Sức mạnh thiền tập của tôi vẫn ở bên cạnh bạn. - Tôi cảm thấy thật
sâu xa như tôi vẫn còn đang tiếp tục thọ nhận
lời bà giảng dạy. Một thí dụ để chứng
minh điều đó đã xảy ra sau khi bà vừa mới mất,
đầu tháng Chín năm 1989.
Năm ấy, tôi theo khoá tập thiền ba tháng ở
Hội Thiền Minh sát (IMS, Insight Meditation Socieyty), và
phải chịu đựng một cuộc toạ thiền đặc biệt
đau đớn về thể xác, và một lời phát nguyện khởi lên trong tâm tôi:
" Tôi quyết ngồi cho qua cái đau nầy, tôi có
đủ sức mạnh để nhìn thẳng vào nó." Khi cơn
đau trở nên dữ dội quá, tôi bỗng cảm
thấy như đang tràn ngập hình bóng của
Dipa Ma. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của bà
và thấy bà cống hiến cho tôi: "Sức mạnh thiền tập của tôi hiện
đang có mặt ở đây, với bạn đó." Và rồi
đấy, một nguồn năng lực dồi dào dâng
trào lên, rồi tôi đã
đủ sức mạnh để vượt xuyên qua suốt cơn
đau." -- Janne Stark
Khiêm nhẫn. - Vào khoảng thời gian gần lễ thọ giới tỳ kheo ni của
tôi, mặc dầu đã nhiều năm
trôi qua kể từ ngày bà mất, tôi vẫn cảm thấy như bà
đến nói với tôi, bảo rằng, công việc tu tập
của tôi là phải học về hạnh khiêm nhẫn. Nhìn ngược lại những tháng
năm tôi sống trong tu viện, tôi mới hiểu ra
điều đó thật là đúng một cách rất sâu
xa.
Chúng tôi trồng hai cây để tưởng niệm đến
Dipa Ma. Một cây trồng trong vườn Cittaviveda của nữ tu viện Phật giáo tại
Chithurst, Anh quốc. Hoà thượng và các vị tỳ kheo khác có
đến dự. Chúng tôi tìm
được gần tịnh xá tỳ kheo ni một nơi thích hợp
để đào đất trồng xuống. Khi đào
lỗ, chúng tôi bắt gặp được một mảnh sành
nằm dưới đáy hố, lượm lên thấy có hàng
chữ ghi lời cầu nguyện Ðức Chúa. Phải chăng
đó là một dấu hiệu hùng hồn chứng tỏ sự siêu thoát của các tôn
giáo? Vài năm sau, việc tưởng niệm đến Dipa Ma
lại được nới rộng thêm ra bằng dự án xây cất một cây cầu bắt ngang
qua dòng nước chảy trong khuôn viên vườn các tỳ kheo ni. Tôi rất vui thích
với ý kiến đó, vì hình ảnh vượt qua
dòng sông khiến tâm tôi liên tưởng thật sâu xa
đến bà. Tuy nhiên, trong khi thảo luận chi tiết việc xây cầu, có một
điều nào
đó xảy ra đã làm cho tôi tức giận. Mặt tôi lúc ấy tái xanh lại và
cơn giận thật là mãnh liệt. Sau đó, tôi tìm
đến gần bên cây
đã trồng
độ trước, thấy cành lá trở nên uá xào. Rồi cây ấy lại chết mất. Ðấy là một thông
điệp thật rõ ràng gởi đến cho tôi về
hậu quả của sự sân hận. Một vật để tưởng niệm Dipa Ma chẳng thể nào
tạo nên được với tâm còn chưa rửa sạch
hiềm hận. Về sau, cây cầu cũng được xây lên
với tấm bảng đồng vinh danh Dipa Ma.
Chúng tôi cũng có trồng một cây sồi để
tưởng niệm Dipa Ma, tại khu Phật động trong vườn cây ăn trái của Tu viện
Phật giáo Amaravati ở Hertfordshire, Anh quốc. Cây nầy lớn rất nhanh, cành
lá sum sê, tươi thắm. Mỗi khi tôi cảm thấy lòng mình bực tức hay bị thách thức, tôi tìm
đến ngồi dưới bóng cây đó và
đọc chú, niệm kinh hướng về Dipa Ma.
Ðôi khi tôi lại đặt một bệ thờ trên
cành cây và bước đi thiền hành. Khi
làm như thế, sau một lúc, tôi thấy toàn thân tôi thư giản hoà vào niềm an
lạc từ bi và thông cảm của bà, và mặc dầu hoàn cảnh bên ngoài còn chưa
được cải thiện, nhưng vấn đề khó khăn chẳng còn
quá cấp bách nữa. -- Ajahn Thanasanti
Luôn luôn có mặt. - Bà như ánh ngọn nến của Chánh pháp luôn bùng
cháy rạng rỡ trong tâm tôi. Bà luôn luôn hiện diện nơi tôi. Khi bà còn sanh tiền và ngay cả bà đã
khuất núi, sự có mặt của bà chẳng hề rời xa tôi. Lúc tôi tham thiền, món
quà quí báu nhứt mà tôi tìm thấy chính là cảm nhận bà ngay trong nội tâm
tôi. Tôi lắng nghe bà nói: "Bạn sẽ tìm thấy mọi lời giải
đáp ngay từ bên trong bạn. Hãy tiếp
tục lắng nghe." -- Michelle Levey
Sự hướng dẫn của bà chẳng hề phai nhạt. - Tôi
đi cùng bà ra phi trường, khi bà rời
Hội Thiền Minh sát (IMS, Insight Meditation Society) vào năm
1980. Tôi đã ở bên cạnh bà thời gian rất lâu, và tôi hiện
đang cảm thấy một nỗi ưu phiền rất sâu đậm.
Tôi khóc sướt mướt và tim tôi nặng trĩu. Nỗi
đau đớn vô cùng sâu xa cũng tựa như
lúc mẹ tôi mất đi khi tôi lên ba tuổi
rưỡi. Dipa Ma quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi và nói: -- Ðừng quá lo lắng. Tôi sẽ luôn luôn ở cạnh bạn. Bà đặt hai bàn tay bà lên ngay trên
tim tôi và ngay phút ấy, sự đau đớn, nỗi ưu
phiền, mọi thứ đều tan rã hết, và tôi cảm như
đang được ngập tràn ánh sáng. Kinh
nghiệm nầy tôi giữ mãi cho riêng tôi trong nhiều năm,
nhiều nhiều năm mà chưa chia xẻ cùng một ai, bởi vì nó thật sâu xa,
thật khó mà diễn tả lại được với kẻ khác.
Tôi vẫn có thái độ ngờ vực trong một thời
gian thật lâu về câu bà nói, "Tôi sẽ luôn luôn ở cạnh bạn", nhưng
sự hiện diện của bà đã củng cố và lưu
lại rất lâu với tôi. Kể từ khi tôi bắt đầu
toạ thiền đến nay đã mười tám năm, sự
hướng dẫn của Dipa Ma chẳng bao giờ phai mờ cả.
Các người khác cũng có thể cảm nhận những giây phút như thế nữa. Năm
nay, tôi có đến dự một buổi lễ thanh tịnh hoá ở Lakota của sắc dân da đỏ
Sioux miền Tây, tiểu bang Iowa, Hoa kỳ. Tôi rất kinh hoàng trước
một nghi thức mà bà chủ lễ, một vị nữ trrưởng lão Sioux, thực hành theo
truyền thống của tổ tiên bà để lại. Tôi cảm
thấy có cái chết, cái tự ngã đã
chết mất. Tôi chẳng biết là mình còn có thể theo dõi
đến hết buổi lễ chăng. Tôi muốn rời khỏi cuộc
lễ, bởi vì tôi thầm nghĩ quá căng
thẳng cho tôi chịu đựng nổi đến hết. Nước mắt chảy ràn rụa, tôi gục
đầu xuống đất, đôi má dính đầy cát, mắt nhắm
kín lại và tưởng niệm đến Dipa Ma.
Ngay trong giây phút đó, tôi chìm
ngập trong ánh sáng và cả nỗi lo sợ vụt biến mất. Một niềm an lạc sâu xa
thấm nhuần vào thân tâm tôi, từ lúc tôi khởi lên trong tâm hình ảnh của
Dipa Ma. Vào lúc ấy, vị nữ trưởng lão buổi lễ ỏ Lakota trân trân nhìn tôi
và nói: "Chị đang ngập tràn ánh sáng." Trực giác tôi bảo tôi rằng Dipa Ma chẳng hề hiện trở lại trong hình hài
nầy. Bà hiện đang vui thích giảng pháp tại
một cảnh giới nào đó. Ðôi khi,
mắt tâm tôi lại thấy rõ hình ảnh thật linh hoạt của bà nơi
đó. Có ánh sáng thật chói lọi. Sự hiện diện
của bà được ta cảm thấy như đang tuôn
tràn trong ánh sáng. Bà vẫn còn tiếp tục hướng dẫn chúng ta trên cảnh giới của quả
đất nầy mãi cho
đến bao lâu mà chúng ta còn cần
đến bà. Bà là một trong những vị thiên
thần theo bảo hộ chúng ta. Bà luôn luôn trông chừng chúng ta. -- Sharon
Kreider
Nếu tôi làm được, thì bạn cũng làm
được. - Trong một khoá an cư ba
tháng, tôi gặp phải thật nhiều khó khăn. Trọn
ngày, tôi cứ lo tranh đấu, cứ nỗ lực
tranh đấu rất lâu.
Tại một buổi thiền quán, tôi lại thấy tôi
đang ước mơ, phải chi tôi gặp gỡ được Dipa Ma, và tự hỏi thầm, "Bây
giờ còn có cách nào liên lạc được với bà
chăng?"
Bỗng nhiên, tôi vụt cảm thấy được sự hiện
diện của bà và bà đang tiếp xúc với
tôi, nhiệt liệt khuyến khích tôi bằng những lời nói, "Nếu tôi làm
được điều đó, bạn cũng có thể làm
được chớ."
Sau kinh nghiệm đó, tôi đã
đi sâu vào một trạng thái thâm
định kéo dài suốt cả hai tuần lễ. --
Ẩn danh
Thương điều khó thương. - Tôi
chưa hề được nghe nói đến Dipa Ma, cho đến
khi môt người bạn thân kể cho tôi nghe bà là một vị thiền sư vĩ
đại và làm cách nào
để tìm biết thêm về bà. Mấy hôm sau, tôi đang ngồi một mình
trong phòng, đọc bản tường thuật về đời bà.
Khi tôi đọc tới trang ba, tôi bắt đầu cảm
thấy một sự an lạc khó tả. Mọi sợ hãi, âu lo
đã hoàn toàn lìa khỏi nơi tôi và tôi
cảm thấy một sự thanh thoát sâu rộng đối với
chính mình và đối với tất cả sự việc
trong đời mình -- một sự an lạc trọn vẹn và một sự cởi mở hoàn
toàn. Từ trước đến giờ, tôi chưa từng thể
nghiệm được như thế. Ngay trong lúc việc đó xảy ra, thì tôi lại có
cảm giác như có một sự hiện diện thể chất nào
đang đứng trước mặt và hơi chếch về bên tay mặt: cái cảm giác biết
mơ hồ có ai đang đứng gần mình, kéo
dài lâu chừng năm phút.
Trong hai ngày sau đó, tôi cảm thấy như mình
trôi bỗng lơ lửng, và các việc trước kia gây cho tôi âu lo và ưu phiền bây
giờ đã mất
đi tầm quam trọng của chúng. Ðó, cũng
như tôi đã bước xuyên qua một cánh của
đi vào một cảnh giới khác lạ. Tôi
thường được nghe các vị thầy của tôi nói về
"trái tim rộng mở" nhưng tôi còn chưa hiểu thực sự
đó là gì, mãi cho
đến bây giờ. Tôi bắt đầu thấy rõ trái
tim chỉ cởi mở ra khi chẳng còn sự lo sợ trong
đó. Thật là một kinh nghiệm phi thường
và nó đã làm cho tôi phải khêu cháy
sáng lại ý nghĩa của sự nhiệm mầu. Kể từ ngày hôm đó, một câu nói cứ vờn qua
vờn lại mãi trong tâm trí tôi, và tôi nghĩ nó phát xuất từ cửa
miệng của Dipa Ma: "Hãy thương những gì khó thương." -- Pamela Kirby
Người ấy là ai? - Khi tôi tham dự khoá an cư từ bi tại Hội Thiền
Minh sát (Insight Meditetion Society), có một
đêm Joseph Goldstein
đã thuyết giảng một thời pháp tuyệt
vời về tâm từ bi, trong đó ông đã kể
lại những mẩu chuyện về vị thầy của ông là Dipa Ma. Sau thời pháp, tôi rời
thiền đường và cảm thấy như bị một
nguồn năng lực cực mạnh lôi tôi đi. Tưởng
chừng như tấm thân tôi là một cái viên qui (com ba, compass)
đang được di chuyển hướng về một vật nào
đó. Rõ ràng
đó là sức mạnh từ bên ngoài tới, chớ
chẳng phải do từ bên trong tôi, hoặc do tình cảm của tôi thúc
đẩy.
Sau phút do dự ban đầu, tôi quyết định đi
khám phá ra năng lực đó -- nó từ đâu tới, nó sẽ đun đẩy đến đâu. Quanh
quẩn tìm kiếm một hồi, tôi nhận thấy ra rằng tôi
đang bị sức đó lôi kéo đi lên lầu và
xuyên qua hành lang đi tới căn phòng
số M101. Khi vừa cầm đến tay nắm ổ khoá ở cửa
phòng, tôi biết ngay là bất cứ cái chi phía sau cánh cửa nầy,
đó chính là nguồn gốc của năng
lực ấy.
Khi bước vào trong phòng, tôi thấy sức lôi kéo trở nên mãnh liệt, chẳng
thể kháng cự lại được. Thân tôi rúng động và
tôi phải ngồi bệt xuống trong góc phòng. Thế rồi, theo hướng mà năng
lực đã phát ra, tôi để ý đến một bức
ảnh của một người mà tôi độ chừng là
đàn ông, vận y phục trắng,
đang ngồi toạ thiền. Rồi thì, tựa như
cơn gió lốc quay cuồng, sức mạnh ấy quấn lấy tôi,
đưa đến trước bức ảnh. Tôi bước tới và
cầm lấy bức ảnh, và rõ ràng là sức lôi kéo thay
đổi mỗi khi tôi đưa bức ảnh lại gần hay đẩy
ra xa, hoặc lộn ngược trên dưới. Tôi ngạc nhiên hỏi thầm, "Người nầy là ai vậy?" Rồi tôi lại nghĩ, "Chắc
tôi sẽ bỏ rơi cả gia đình, cuốn gói
đi theo vị thầy nầy. Thật là mãnh liệt
quá chẳng thể lờ bỏ qua đi."
Sau đó, tôi ngồi lại trong phòng
một thời gian và thiền quán với bức ảnh, thân tâm chìm
đắm trong cảm giác mãnh liệt ấy. Kinh
nghiệm nầy khiến khởi sanh trong tâm tôi ý niệm về tâm từ bi, an lạc và
định tĩnh, kéo dài
đến mấy ngày, và cho
đến nay nó vẫn còn ảnh hưởng
đến tôi ở một giai tầng thâm sâu hơn.
Sau nầy, tôi được một nhơn viên
trong Hội cho biết, bức ảnh đó chẳng phải là
hình của một người đàn ông, mà chính
là của Dipa Ma. -- David Grant
Khởi niệm triệu thỉnh sự hiện diện của Dipa Ma. - Vài học viên của
Dipa Ma đã cống hiến các ý kiến về
cách triệu thỉnh sức hiện diện của Dipa Ma: * Tôi cầu nguyện bà vào mọi thời. Dưới nhiều hình thức, bà là một phần
của chính tôi. Sự hiện diện của bà chẳng bao giờ chẳng có
đó. Một điều còn thiếu sót trong Thiền
Minh sát (Vipassana) là toàn thể phương diện sùng mộ, nên tôi cố
đem nó trở vào lại trong việc tu tập
hằng ngày của tôi. Tôi bắt đầu mỗi buổi sáng bằng việc khởi lên
trong tâm niệm chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ sư, tất cả các bực
đại giác. Tôi cảm được sự hiện diện của quí
Ngài, cầu nguyện cùng quí Ngài, thỉnh cầu quí Ngài dìu dắt tôi và
nêu gương sáng cho tôi. Rồi thì suốt trọn cả ngày, tôi rước các Ngài vào
ngự trong tâm tôi. Dipa Ma là một trong các vị ấy. -- Jack Engler
* Người Tây Tạng đôi khi bảo rằng, năng
lực đạo hạnh của Ngài Milerapa (một vị Tổ sư Phật giáo Tây Tạng)
vẫn còn lưu lại nơi đây. Tôi cảm nghĩ rằng lòng
sùng mộ đạo pháp của Dipa Ma, sự hăng say của
bà, chí quyết tâm của bà, những gì bà
đã khắc phục, những gì bà đã
vượt qua khỏi -- tất cả đại hùng lực
ấy vẫn còn sẵn sàng đấy để được thừa dụng.
Bằng vào sự tưởng niệm đến bà,
bằng vào sự quán chiếu đến bà,
đại hùng lực ấy còn
đó để được san sẻ cho ta. Chúng ta có thể
hướng tâm ngưỡng vọng đến sự toàn giác của bà. Mỗi khi các nỗi khó khăn chợt đến, tôi cố
gắng tưởng tượng, "Dipa Ma, thầy ở đâu rồi?", hoặc cố ứng cảm, sâu vào
nội tạng, cái ý chí sắt đá của bà vẫn
còn đang thấm nhuần trong tâm tôi. Khi tôi
tưởng niệm đến hình ảnh hoặc cảm quan của bà, tôi liền ngưng
được tức khắc sự chìm
đắm chới với của lòng tôi trong các
vọng tưởng mà trí tôi đang khơi lên
bằng các mẩu chuyện tâm sự của nó. Tôi nhớ lại
được rằng có thể vượt qua khỏi các vọng tưởng
đó. -- Kate Wheeler
* Trải bao năm qua, tôi đã gặp gỡ
khá nhiều vị thầy dạy thiền. Thường thường ở
đầu buổi toạ thiền, tâm tôi khởi dựng lên
để quy y hình bóng một cây bồ
đề có Ðức Phật cùng các vị thầy tổ.
Bằng mắr tâm, tôi quán thấy từng vị một và cảm nhận
được các đức tánh độc đáo đầy năng lực của
mỗi vị. Thật là tuyệt diệu khi cảm thông
được với các bực đó. Khi tôi quán thấy Dipa
Ma, tôi cảm nhận được nơi bà sự hoà hợp giữa tánh không với tâm từ.
Hình ảnh bà mang đến một niềm sâu kín phi
thường nơi tâm tư. -- Joseph Goldstein
* Việc tập Thiền của tôi (tác giả Amy Schmidt) với Dipa Ma là
đặt trọn tâm tôi dưới sư che chở săn sóc của
bà. Có một lần tôi được nghe trong cuốn băng
ghi âm bài giảng pháp của bà cho một nhóm học viên ở nhà bà bên Ấn
độ, lời nói dịu dàng
đầy tình thương của bà, hướng về một
học viên tới trễ, còn chưa tìm được chỗ ngồi
trong căn phòng chật hẹp của bà, "Xin mời vào. Nếu hết chỗ rồi, thì
cứ lại ngồi trên đùi tôi
đây... Cháu đây, cũng như là con của
tôi vậy." Mỗi khi tôi thấy buồn tủi, tôi tưởng tượng như nghe tiếng bà gọi
tôi: "Lại đây con, lại ngồi trên
đùi mẹ
đây con!" Trong tâm tôi, tôi thấy tôi chạy ngay lại, gối đầu lên
đùi bà, rồi bà dịu dàng, từ từ vuốt
tóc tôi, trong khi tôi đang nức nở.
Xuyên qua sự quá vãng của Dipa Ma, cũng như của mỗi vị
đại sư nào khác, chúng ta học hỏi làm
cách nào để những lời di huấn của người trở
thành gia tài cho chúng ta thọ hưởng. Bà là ngọn
đuốc sáng trưng mà chúng ta hướng về,
để có thể tự cứu lấy mình. Như Jack
Kornfield có nói, "Ðiểm quan trọng chẳng phải là "rập khuôn" giống theo
Dipa Ma hay một vị đại thiền sư hoặc vị thánh
nào khác mà bạn đã
được đọc qua. Ðiểm quan trọng còn hơn
thế, thật khó nhiều hơn thế nữa: hãy sống với chơn ngã của bạn, và khám
phá ra rằng tất cả những gì bạn đang đi tìm
đó đã nằm sẵn, tại
đây và hiện giờ, ngay trong tâm bạn." * * * Nơi mà các câu chuyện nầy chấm dứt, nguyện cầu câu chuyện của chính bạn
bắt đầu tại đó, và nguyện cầu các lời
chúc lành của Dipa Ma sẽ hướng dẫn bạn trên con
đường về quê nhà: Tất cả những gì tôi đã
đạt được, sức mạnh, từ bi, tôi trao tặng bạn,
để bạn có đủ lòng tin, để bạn được an
lạc.
Ngưỡng vọng hồng ân của Ðức Phật, Chánh pháp và Tăng
già, Những người
* Dipa Barua là con gái của Dipa Ma. Bà giúp việc trong Chánh Phủ Trung
Ương ở Kolkata (Calcutta) và thường tham gia công tác trong các tổ chức xã
hội và tôn giáo. * Jyotishmoyee Barua là nội trợ ở Kolka và có năm
con.
* Pritimoyee Barua là nội trợ ở Kolkata, và có hai con trai. * Rishi Barua là cháu ngoại trai của Dipa Ma. Ông có bằng bằng Cử nhơn,
trường cao đẳng St Xavier ở Kolkata và
đang theo ban Cao học về Thương mại ở viện
đại học Kolkata.
* Sudipti Barua được Dipa Ma hướng dẫn làm
phụ giáo tại các khoá thiền ở Bồ đề đạo tràng
(Bodh Gaya) và Kolkata. Bà có sáu con, nội trợ trong gia
đình và chủ cửa tiệm bánh mì ở
Kolkata. * Roy Booney là nhiếp ảnh gia,(...) kiêm luật sư thuộc vùng Vịnh San
Francisco. Ông gặp Dipa Ma vào năm 1974.
* Sylvia Boorstein là một trong các sáng lập viên của Thạch Linh Thiền
viện (Spirit Rock Meditation Center) và là tác giả quyển sách Dễ
Hơn Bạn Tưởng: Con Ðường Ði Ðến An Lạc của Phật Giáo (It"s
Easier Than You Thinhk: The Buddhist Way to Happiness)và các quyển
sách khác về sự thực tập đạo pháp.
* Daniel Boutemy tu tập theo phái Thiền thuộc Phật Giáo Nguyên thủy (Theravada)
trong hai mươi bảy năm.(...) Ông tu theo với
một số khá nhiều thiền sư ở Tây phương cũng như ở Ðông phương, cả
về Thiền Minh sát (Vipassana) và Thiền na (Jhana). * Robert Bussewitz, pháp danh Buzz Ananda, theo học tập Thiền Minh sát
từ năm 1978 và dự nhiều cuộc hành
hương viếng thăm các thánh tích ở Á châu, kể
cả Tây tạng. Hiện cư trú ở Jamaica Plain, tiểu bang Massachusetts, Hoa kỳ.
* Sukomal Chowdhury, giám đốc hồi hưu và
giáo sư tại trường Cao đẳng Phạn ngữ ở
Kolkata, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các tổ chức xã hội và
tôn giáo. Giúp vào quyển sách nầy, ông đã
dịch từ tiếng Bengali sang Anh- ngữ một tác phẩm nói về
đời của Dipa Ma.
* Dipak Chowdhury là một nhân viên ngân hàng ở Kolkata, có hai con. Ông
tham gia vào nhiều tổ chức xã hội và tôn giáo
điạ phương, hoạt động hăng say trong công cuộc cứu giúp người nghèo. * Howard Cohn tập luyện về thiền quán hơn hai mươi lăm
năm. Ông là một nhơn viên giảng huấn
đầu tiên của Thạch Linh Thiền viện (Spirit Rock Center),
đã hướng dẫn nhiều khoá an cư khắp nơi
trên thế giới, từ năm 1985. Giảng pháp của
ông bao quát nhiều truyền thống từ Phật giáo Nguyên thủy (Theravada),
Zen, Dzogchen, và Advaita Vedanta. * Matthew Daniell là một thiền giả về Thiền Minh sát
đã lâu năm.
Hiện ông dạy thiền quán Phật giáo và du gìa tại viện Ðại học Tufts. * Jack Engler là một nhà tâm lý học giảng dạy và giám sát khoa tâm lý
trị liệu tại Nha Phân tâm học của Bịnh viện Cambridge và của Trường Y khoa
Harvard. Ông là nhân viên trong Chủ tịch đoàn
của Trung Tâm Phật học Barre, ông từng theo học với thiền sư Munindra, Hoà
thượng Mahasi và Thomas Merton. Hiện sống với vợ và con gái ở tiểu bang
Massachusetts, Hoa kỳ. * Lesley Fowler là một học giả nhiều năm
về Thiền Minh sát và là tác giả nhiều tập thơ và sách giả tưởng. Bà
sống ở Úc đại lợi.
* Andrew Getz đã tu tập thiền quán
từ năm mười ba tuổi kể cả một thời gian xuất
gia trong một tự viện ở Á châu. Ông quan tâm đặc biệt về việc giảng dạy
Trí huệ Bát nhã cho các thanh thiếu niên "bụi
đời" trong một tổ chức mà ông cộng tác
để thành lập, Hội Chơn Trời Mới Cho
Thanh Thiếu Niên (Youth Horizons). * Joseph Goldstein là một trong các sáng lập viên và giảng viên của Hội
Thiền Minh Sát (Insight Meditation Society). Ông thường giảng pháp
về thiền Minh sát tại các khoá an cư khắp nơi từ năm
1974. Tác giả nhiều sách, như quyển Pháp Nhứt Thừa (One Dharma)
và quyển Thể nghiệm về Thiền Minh sát (The Experience of Insight),
ông cộng tác thành lập Tùng lâm Forest Refuge, một tịnh xá
để ẩn cư tu tập dài hạn. * David Grant là giáo sư Trung học ở Portland, tiểu bang Maine, Hoa kỳ,
nơi Ông đang sống cùng vợ và con gái. * Asha Greer là một nữ nghệ sĩ, y tá, giáo sĩ cao cấp của truyền
thống Sufi (một phái mật tông khổ hạnh của Hồi giáo). Bà là một trong các
sáng lập viên của Cơ Sở Lạt Ma (Lama Foundation) ở tiểu bang New
Mexico, Hoa kỳ và của Phong trào Cứu tế ở Charlottesville, tiểu bang
Virginia. Bà sống ở Batesville, tiểu bang Virginia, Hoa kỳ. * Pamela Kirby là một nhà xuất bản độc lập
ở tiểu bang South Carolina, Bà sống ở Woodacre, tiểu bang
California, Hoa kỳ. * Sayadaw (Hoà thượng) Khippapanno (Kim Triệu) là một tu sĩ Việt Nam
đã thọ giới tỳ kheo từ hơn năm
mươi hai năm. Hiện Ngài đang trụ trì
tại Thích ca Thiền viện gần Los Angeles và Kỳ viên Thiền viện (Jetavana
Vihara) ở thủ đô Washington. Ngài
dạy Thiền Minh sát từ năm 1982.
* Eric Kolvig hướng dẫn các khoá an cư thiền tập và giảng pháp khắp
nơi ở Hoa kỳ. Ông hiện sống ở tiểu bang New Mexico. * Jack Kornfield có xuất gia làm tỳ kheo ở Á châu. Ông là sáng lập viên
của Hội Thiền Minh sát (Insight Meditation Society) và của Thạch
Linh Thiền Viện (Spirit Rock Meditation Center). Ông giảng dạy
thiền quán khắp nơi từ năm 1974. Ông trước
tác nhiều sách về Phật pháp, như quyển A Path with Heart
(Ðạo với Tâm) và quyển After the Ecstasy, the Laundry (Sau cơn xuất
thần, là sự giặt gỵa). * Sharon Kreider, vợ và mẹ của hai người con, bắt
đầu thực tập thiền Minh sát ở Ấn độ từ năm
1977. Trị liệu viên có cấp bằng hoạt
động với lứa tuổi thanh thiếu niên và
gia đình họ, bà còn giảng dạy về khoa
tâm lý và cách điều quản áp lực (stress
management) tại trường Cao đẳng Cộng đồng
Front Range ở Fort Collins, tiểu bang Colorado.
* Carol Constantian Lazell bắt đầu thực
tập thiền Minh sát ở Hội Thiền Minh sát từ năm 1978 và ở trong ban
nhơn viên từ năm 1981 đến 1983. Mẹ của một bé
gái mười một tuổi, bà sống ở San Francisco và làm việc trong thư
viện một trường tiểu học. * Michelle và Joel Levey là tác giả của nhiều quyển sách, như Sống Quân
bình (Living in Balance), Thiền quán Giản dị và Thư giản (Simple
Meditation and Relaxation), Trí Huệ và Công tác (Wisdom at Work),
và các sách khác (xin xem thêm www.wisdomwork.com) Hai người
đã thực tập với nhiều vị thiền sư theo
truyền thống khác nhau, và cả hai đều rộng
giảng Phật pháp, đưa các nguyên lý đạo
pháp vào dòng chánh lưu (dịch gượng
đoạn: taking principles of the dharma into the mainstream) xuyên
qua công tác của họ với cấp lãnh đạo và
tổ chức hội đoàn văn
hoá.
* Michael Liebenson Grady là thiền sư hướng dẫn tại Trung tâm Thiền
Minh sát Cambridge. Ông tập thiền từ 1973. * Ann Lowe là nghệ sĩ vẽ kiểu cho bìa bao sách. Bà sống ở San Lorenzo,
tiểu bang New Mexico, cùng với chồng và hai con chó. * Jacqueline Mandell là một thiền sư Phật giáo, mẹ của hai người
con gái sanh đôi, và Chủ tịch của Hội
Chỉ đạo từ Tâm thanh tịnh (Leadership
From a Pure Heart). Michele McDonald Smith thực tập thiền Minh
sát kể từ năm 1973 và giảng dạy khắp
nơi kể từ năm 1982. Bà rất quan tâm
đến việc bảo tồn giáo lý cổ điển và
tìm phương cách trình bày lại dưới hình thức mà
đại chúng có thể hiểu được dễ dàng. * Maria Monroe bắt đầu thực tập Thiền Minh
sát với thiền sư Munindra tại Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya) từ
năm 1968 và thăm
viếng Dipa Ma vào năm 1979. Bà
dạy Thiền Minh sát trong khoảng thời gian 1979 1984. Bà hiện sống ở vùng
Portland, tiểu bang Oregon, Hoa kỳ. * Anagarika Munindra là vị thiền sư có danh tiếng quốc tế. Thọ giới tỳ
kheo với Hoà thượng Mahasi, ông hiện trú tại Hàn lâm viện Quốc tế Thiền
Minh sát (S.N. Goenka"s Vipassana International Academy) ở
Igatburi, Ấn độ.
* Sandip Mutsuddi là một công chức của Chánh phủ tiểu bang ở Ấn
độ. Ông là cha trong gia
đình và sống ở Kolkata, Ấn
độ.
* Daw Than Myint là cháu gọi Dipa Ma bằng dì. Bà hiện là giáo sư Cao
đẳng ở Myanmar (Miến điện)
* Susan O"Brien sang Ấn độ năm 1979 cùng
với Joseph, Sharon và các người khác, khi họ viếng Dipa Ma ở Bồ
đề đạo tràng (Bodh Gaya) và tại
nhà bà ở Calcutta. Bà Susan bắt đầu giảng
thiền quán từ năm 1996 và là phối hợp viên của chương trình học
khoá hàm thụ tại Hội thiền Minh sát (Insight Meditation Society). * Ðại đức Rastrapala Mahathera là
chủ tịch của Trung Tâm Quốc tế Thiền Minh sát tại Bồ
đề đạo tràng (Bodh Gaya). Nơi
đây, ông đã lấy tên của Dipa Ma
để đặt tên cho
đại giảng đường. Ông là một văn
sĩ và giáo sư dạy thiền Minh sát. * Bob Ray và vợ là Dixie, cùng là sáng lập viên của Trung tâm Tây Nam
Ðời Sống Tâm Linh (Southwest Center For Spiritual Living). Bob
hướng dẫn một nhóm ngồi Thiền hàng tuần tại Las Vegas, tiểu bang New
Mexico, Hoa kỳ. * Sharda Rogell thực tập thiền theo Phật giáo Nguyên thủy (Theravada)
từ năm 1979 và giảng dạy khắp nơi từ năm
1985. Chịu ảnh hưởng của các phái Advaita và Dzogchen, bà nhấn mạnh
đến sự thức tỉnh tâm thức.
* Janice Rubin là nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp, trụ sở ở Houston. Nhiều
tác phẩm được xuất bản và tham dự các
cuộc triển lãm quốc tế từ năm 1976, như cuộc
triển lãm năm 2001 của bà và
quyển sách Dự án Mikvah (The Mikvah Project) nghiên cứu về nghi
thức cổ điển và bí ẩn của (...)phụ nữ
Do thái. * Sharon Salzberg là một trong các sáng lập viên của Hội Thiền Minh sát
(Insigt Meditation Society) và một trong các giảng viên hướng dẫn.
Bà thực tập thiền từ năm 1970 và giảng
dạy khắp nơi từ năm 1974. Bà sáng tác
nhiều quyển sách như: Niềm tin: Tin cậy vào Kinh nghiệm Sâu xa nhứt của
Bạn (Faith: Trust Your Own Deepest Experience), Từ bi: Nghệ thuật
cách mạng của An lạc (Lovingkindness: The Revolutionary Art of
Happiness). * Katrina Schneider đã thực tập ráo
riết trong một tu viện giữa rừng sâu ở Miến
điện, dưới sự hướng dẫn của Hoà thượng Taungpulu. Bà hiện sống tại
Mỹ và áp dụng thiền quán vào công tác cứu giúp bịnh nhơn và dân chúng
đau khổ vì bịnh trầm kha. * Steven Schwartz thực tập thiền Minh sát hơn ba mươi năm
và là một trong các sáng lập viên của Hội Tiền Minh sát (Insight
Meditation Society). Ông là học viên của Dipa Ma suốt trong thời kỳ
nầy và đứng ra bảo trợ chuyến du hành
sang Mỹ quốc đầu tiên của bà. * Steven Smith là một trong các sáng lập viên của Thiền Minh sát Hạ uy
di (Vipassana Hawaii) và là giáo sư hướng dẫn tại Hội Thiền Minh
sát (Insight Meditation Society). Ông lãnh
đạo nhiều khoá an cư khắp nơi.
* Janne Stark vừa là mẹ, săn sóc gia đình,
vừa là điều dưỡng trẻ con đi lẫm đẫm, vừa là
quản lý viên các Phiên chợ Nông trại (Farmers" Market). Bà lãnh
đạo một nhóm hành Thiền ở Portland,
tiểu bang Oregon, Mỹ quốc. * Ajahn Thanasanti được biết đến thiền
quán Phật giáo năm 1979 khi tham dự một lớp do Jack Engler giảng pháp.
Mười năm sau, bà đến Tu viện Amaravati
bên Anh quốc và thọ giới Sa di ni. Năm
1991, bà thọ giới tỳ kheo ni do bổn sư của bà là Ajahn Sumedho
truyền thọ. Bà hiện sống ở Úc đại lợi.
* Cha Theophane là tu sĩ thuộc dòng Trappist (tu khổ hạnh cấm khẩu) tại
Tu viện Snowmass, ở tiểu bang Colorado. Cha là tác giả quyển Truyện về một
Tu viện Thần bí (Tales of a Magic Monastery). * Kate ("Lila") Wheeler dự khoá an cư Phật giáo lần
đầu vào năm
1977. Bà có viết một cuốn đoản thiên
tiểu thuyết nhan đề là "Khi Núi Biết
Ði" (When Mountains Walked)và một Tập Truyện Ngắn, nhan
đề "Chẳng Phải Từ Nơi Tôi Ðã Khởi
Hành" (Not Where I Started From). Bà cũng viết nhiều bài
đăng trong các báo New York Times và
tạp chí khác, như "Tam Luân: Tạp chí Phật học" (Tricycle: The Buddhist
Review). Bà hiện sống ở tiểu bang Massachusetts, Mỹ quốc. Vài nét về nữ tác giả Amy Schmidt là giảng sư thường trú của Hội Thiền Minh sát (Insight
Meditation Society) ở Barre, tiểu bang Massachusetts, Hoa kỳ và là
đồng sáng lập viên của tu viện Tăng
Gìa Tây Nam (Southwest Sangha), một tịnh xá ẩn cư ở miền Nam
tiểu bang New Mexico, Mỹ quốc. Là một cán bộ hợp lệ của ngành y tế xã hội,
Amy Schmidt là đồng tác giả của quyển khảo
luận "Undrestanding Alzheimer"s: A Guide for Families, Friends,
and Health Care Providers " (Hiểu biết về bịnh lão nhược: Cẩm nang cho
gia đình, bằng hữu và các nhà
điều dưỡng y tế), ấn phẩm của Ðại học
Washingtom, năm 1993. Các hình vẽ hí
hoạ của bà được tìm thấy trong
Budddha Laughing, (Ðức Phật Cười), Bell Tower, 1999. Các nhà biên tập: * Don Morreale là biên tập viên của tạp chí The Complete Guide to
Buddhist America (Cẩm nang đầy đủ cho
Phật tử Mỹ châu). Là một học giả lâu năm
về Phật pháp, và một văn sĩ độc lập,
ông hiện sống ở Denver, tiểu bang Colorado, Mỹ quốc.
* Madelaine Fahrenwald là một biên tập viên
độc lập, và học giả lâu năm
về Phật pháp.
(Muốn có thêm chi tiết về Dipa Ma, xin xem trên mạng lưới thông tin:
www.dipama.com.) Thiện Nhựt xin thưa vài lời... S
Như bạn đọc đã xem qua nguyên tác,
nội dung của quyển sách gồm có ba phần, mà phần Thiện Nhứt thích nhứt
chính là phần đầu, thuật lại cuộc đời thật
đơn sơ mà rất ly kỳ của Dipa Ma: một người nội trợ ốm yếu, bận rộn,
chịu nhiều khổ sở, đã vượt qua tất cả
để tu tập Thiền, chứng đắc giác ngộ và
giải thoát ngay trong cuộc đời nầy. Chẳng cần
phải dùng lời lẽ cao xa, dao to búa lớn,
để ca tụng bà -- bà
đâu có cần ta ca tụng bà -- chỉ cần
khi đọc xong, cứ quay lại nhìn chính
mình, mình nhìn vào lòng mình, và... thấy gì? có thấy muốn noi gương bà
hay không, hay là vẫn cứ than thân trách phận, sao tôi khổ quá, chẳng có
rảnh rang được một chốc để... tu. Bà
có dạy, nên tu ngay trong lúc mình đang bận
đấy!
Thiện Nhựt rất ngại ngùng khi nhận được
sách từ nhà xuất bản gởi tới, quà tặng của Ðạo hữu Diệu Nhẫn, hàng
chữ nhan đề Knee Deep In Grace.
Chữ Grace là chữ mà Thiện Nhựt đã
rất khổ tâm, một là nếu dịch là Hồng ân thì trùng với Hồng Ân của
Ðức Phật; hai là Ðạo Phật rất công bằng, chẳng có
đối xử riêng với Phật tử, chẳng phải
là có ơn huệ riêng gì cho ai cả. Duyên may biết
đến Phật, biết đến Pháp, đang đến và
sẽ đến với tất cả mọi người chẳng phân biệt
chủng tôc, tôn giáo chi cả, miễn là ta có sẵn sàng trong tâm
để thừa tiếp duyên may. Tôi chẳng hoàn toàn đồng ý với tác giả,
với các người đã cộng tác với tác giả, về những cảm nghĩ của họ
đối với các "kinh nghiệm" tâm linh, các "cảm
giác" mà họ nhận thấy trong tâm họ về sự hiện diện của Dipa Ma ngay
trong những ngày, tháng, năm mà bà
đã lìa cõi
đời nầy. Ðấy chẳng phải là tôi chối bỏ
sự hiển linh của bực đã giác ngộ,
nhưng tôi nghĩ rằng sự linh ứng còn tùy vào sức cảm thông của chính người
đương sự. Mà sức cảm thông ấy, phải chăng
đã dựa trên nghiệp duyên của từng người, mặc dầu việc hiển
linh kia của bực đã giác ngộ và giải
thoát đã rưới bủa xuống chung cho mọi
sanh linh, tựa như cơn mưa rào thấm nhuần muôn vật. Một trong những "ân
sủng" mà Ðức Phật đã ban cho mọi người
Phật tử là bảo cho ai nấy đều rõ biết
rằng: "Mình làm chủ nghiệp duyên của mình"; vận mạng mình
nằm trong tay mình, ai biết thừa hưởng ơn huệ
đó thì lo tu tập để cải thiện nghiệp,
dầu đang ở trong hoàn cảnh khó khăn
đến mức nào đi nữa.
Tôi rất hổ thẹn vì mặc dầu đã sống
hơn hai mươi năm trên miền Bắc Mỹ châu
nầy, tôi còn chưa quen rành với lối nói đặc
thù, với nền văn hoá thực tiễn của
người Mỹ, khiến cho việc phỏng dịch quyển sách quí báu nầy chưa được trôi
chảy như ý muốn. Nhiều từ ngữ, nhiều ý văn đã "bị" tôi lướt bỏ qua,
lại còn ở vài đoạn tôi "lén thêm" vào
ít hình dung từ, đôi ba thành ngữ, cho
"ra vẻ" Việt nam một chút. Tôi xin cáo lỗi với các tác giả, và xin sám hối
trước với các đọc giả Việt nam, nếu có, khi
đọc đến bản dịch nầy.
Sau cùng, tôi xin tán thán công phu nhiều năm
trời của tác giả Amy Schmidt, người chỉ nghe đến Dipa Ma sau khi bà
đã chết, sưu tập tài liệu, phỏng vấn
thật nhiều người, để viết lại cuộc đời ly kỳ
của một bà nội trợ Ấn độ, tranh đấu
với hoàn cảnh khổ sở để tu tập chứng
đắc giác ngộ và giải thoát rồi đem
kinh nghiệm đó chỉ lại cho hàng xóm, cho bằng hữu cả Ðông và Tây
phương. Nếu được phép tóm tắt lại quyển sách,
tôi xin nói thêm: "Một người nội trợ ít học, khổ sở như bà
đã làm
được, sao ta lại chẳng làm
được?"
Nguyện cầu mọi người thấm nhuần "ân sủng" của Dipa Ma trong hồng ân của
Ðức Phật! Montreal, 2003-01-01,
-ooOoo- Chân thành cám ơn Cư sĩ Thiện
Nhựt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 01-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Cuộc đời ly kỳ và Giáo pháp của Nữ Thiền sư Dipa Ma
Thiện Nhựt
phỏng dịch
Nguyện cầu tất cả đều an lành cho bạn,
Nguyện cầu bạn luôn luôn được an lạc,
Nguyện cầu bạn tránh khỏi mọi hiểm nguy,
Và nguyện cầu bạn tiến bộ trong thiền quán.
Thiện Nhựt
last updated: 06-02-2003