BuddhaSasana Home Page Kinh
Vô Ngã Tướng Thiền
sư Mahasi Sayadaw Phạm Kim Khánh dịch Xin lưu ý: Cần có phông chữ
Pali Unicode CN-Times
cài vào máy để đọc được các chữ Pàli. Mục lục Lời Tựa Phần nhập đề bài kinh Một khác biệt giữa tạng Luận và tạng Kinh Hành không phải là tự ngã Thức cưỡng chế ta như thế nào Khó thấu hiểu đặc tướng vô ngã Ðặc tướng vô thường Phân tách ngũ uẩn Làm thế nào phát triển Tuệ minh sát Mười sáu tầng tuệ minh sát -ooOoo- Lời tựa Ðối với người hành thiền Phật Giáo,
danh tiếng của Ngài Mahasi Sayadaw không cần phải được
giới thiệu. Những lời dạy về phương pháp hành thiền
của Ngài đã được lãnh nhận và hấp thụ cùng khắp
thế giới. Hôm nay Hội Buddhadhamma Foundation xin được vinh
dự giới thiệu quyển "Kinh Vô Ngã Tướng", như
quyển sách đầu tiên trong loạt sách về giáo huấn của
vị thiền sư nổi tiếng nầy. Bản dịch sơ khởi (từ Miến sang Anh) của U Ko Lay, đã
được Hội Buddha Sasana Nuggaha Foundation tại Rangoon, Myanmar,
sửa chửa và ấn hành. Trong bản nầy vài đoạn lặp đi
lặp lại đã được loại bỏ và có thêm những danh từ Pāli
được chuyển dịch sang tiếng Anh. Tuy nhiên giáo huấn nguyên
thủy vẫn được giữ với đầy đủ chi tiết và vẫn còn
những đoạn lặp lại: bài giảng nầy cốt dành cho những
thiền sinh đang dự một khóa thiền tích cực. Chúng tôi hy vọng rằng những ấn bản nầy sẽ giúp đọc
giả thích thú quan tâm đến pháp hành thiền và những lời
dạy của Phật Giáo. Buddhadhamma Foundation -ooOoo- Lời nói
đầu Bên trong cá nhân của mỗi người
thế gian (puthujjana, người phàm tục, tại thế) những ô
nhiễm (kilesa) như tham lam và luyến ái mau chóng sanh sôi nảy
nở. Những ô nhiễm ấy dính liền theo đối tượng khởi phát
ở lục căn, như hình sắc đẹp đẽ chẳng hạn. Khi luyến
ái khởi sanh theo tất cả những gì vừa lòng và ưa thích thì
trạng thái dính mắc vào một attā (tự ngã, khái niệm về
một "thực thể sống") chẳng những là căn bản, mà
cũng là phần nòng cốt sâu ẩn tiềm tàng rất khó loại
trừ. Do nhờ tinh tấn chuyên cần và trí tuệ, chư
Phật Ðộc Giác (Pacccekabuddhas, Bích Chi Phật) tự mình có
khả năng tận diệt trạng thái dính mắc vào khái niệm một
tự ngã bên trong mình mà không cần có sự trợ giúp. Nhưng các
Ngài không có khả năng giúp ai khác diệt trừ dính mắc nầy
của họ. Chỉ những vị có đủ khả năng đặc biệt sáng
suốt chỉ rõ, minh xác cho người khác hiểu biết chân lý và
công hiệu của Tứ Diệu Ðế mới có thể quét sạch tà
kiến dính mắc nầy trong tâm người khác. Chư vị Phật Ðộc
Giác (Pacceka-buddhas) không thể làm, vì lý do ấy các Ngài
chỉ trở thành Ðộc Giác Phật. Vị Ðộc Giác Phật nhập
Niết Bàn đơn độc một mình. Ngài không phải là bậc Chánh
Ðẳng Chánh Giác và không thể truyền dạy Giáo Pháp cho người
khác. Chư vị Chánh Ðẳng Chánh Giác, bậc Toàn Giác,
có những khả năng tinh thần quang minh sâu sắc hơn các vị
Ðộc Giác Phật, Paccekabuddhas. Vị Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác
cũng chứng ngộ Tứ Diệu Ðế như chư vị Phật Ðộc Giác,
mà hơn nữa, còn có thể dạy dỗ, giúp người khác thấu
triệt tận tường bốn chân lý thâm diệu nầy. Vì thế ấy
Ngài là Chánh Ðẳng Chánh Giác, Sammā Sambuddha. Ðức Thế Tôn thuyết giảng thời Pháp Ðầu Tiên
đề cập đến Tứ Diệu Ðế, cho năm vị đạo sĩ. Thời Pháp
ấy được gọi là Dhammacakkappavattana Sutta, Kinh Chuyển Pháp
Luân, vận chuyển Bánh Xe Của Giáo Pháp. Ðây là Giáo Pháp đầu
tiên mà Ðức Phật ban truyền. Ngài giảng bài kinh nầy vào
buổi chiều thứ Bảy, đêm trăng tròn tháng Bảy DL. đúng hai
tháng sau khi Thành Ðạo. Khi Ðức Phật chấm dứt
thời Pháp Ðầu Tiên, vị đạo sĩ trưởng đoàn, Koṇḍañña,
Kiều Trần Như, đắc Quả Tu Ðà Huờn (Sotāpanna, Nhập Lưu).
Chứng đắc Ðạo Quả nầy vị Thánh Tu Ðà Huờn đã loại
trừ mọi hoài nghi về Giáo Pháp và mọi khái niệm sai lầm
về sakkāya, cơ thể vật chất, xem thân nầy là "tự ngã"
hay một thực thể sống. Dầu sao Ngài vẫn còn māna, ngã
mạn [*]. Bốn vị kia chưa chứng ngộ Giáo Pháp đặc biệt,
śự thức tỉnh đến siêu trí, hay mức độ tâm cao siêu". [*] Lời người dịch: Danh
từ ngã mạn dùng ở đây được phiên dịch từ Phạn ngữ
Māna, không chỉ có nghĩa tự cao tự đại như thường được
hiểu. Nơi đây là chấp vào cái "ngã" nầy và đem
so sánh với những cái "ngã" khác. Xem mình hơn người,
bằng người, hay thua người là ba hình thức của māna, ngã
mạn. Vì tính ngã mạn, hay chấp vào tự ngã, đã ăn
sâu vào luồng nghiệp của Koṇḍañña, và vì Vappa cũng như
ba vị kia trong nhóm năm anh em đạo sĩ chưa thành đạt
"Pháp Nhãn thanh tịnh và vô nhiễm", nên Ðức Phật
tiếp tục khuyến dạy và khích lệ các Ngài nên duy trì chánh
niệm và quán chiếu đúng theo pháp hành thiền Minh Sát
(vipassanā). Sau khi tích cực hành thiền, tất cả năm vị đều
thành tựu tầng Thánh Tu Ðà Huờn, do đó loại trừ mọi dính
mắc chấp rằng thân nầy là chính mình, tự ngã (sakkāyadiṭṭhi,
thân kiến). Ngài Vappa chứng đắc tuệ Minh Sát vào ngày đầu
tiên sau đêm trăng tròn, Ngài Bhaddhiya vào ngày thứ nhì, Ngài
Mahānāma ngày thứ ba, và Ngài Assaji vào ngày thứ tư. Chừng đó Ðức Thế Tôn tập hợp toàn thể Nhóm
Năm Vị lại và thuyết giảng bài Pháp thứ nhì, trình bày
học thuyết anattā (vô ngã). Lúc bấy giờ là ngày thứ Năm,
năm ngày sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL. Khi nghe xong bài
Anattalakkhaṇa Sutta (Kinh Vô Ngã Tướng) tất cả năm vị đều
chứng đắc Ðạo Quả A La Hán, do đó tất cả năm vị hoàn
toàn tận diệt mọi hình thức ái dục, bao gồm tính ngã
mạn, māna. Như danh từ Anattalakkhaṇa Sutta hàm xúc ý nghĩa
(anattā = vô ngã, lakkhaṇa = đặc tướng) bài kinh nầy rõ ràng
trình bày lý "vô ngã", đối nghịch với tà kiến
chấp thủ "tự ngã". Anattalakkhaṇa Sutta không phải là một bài kinh dài.
Trong bổn nguyên thủy do cuộc Kết Hợp Phật Giáo Thế Giới
Kỳ Sáu phát hành, bài kinh nầy chỉ vỏn vẹn chiếm một
trang giấy. Bài kinh không có đề cập đến phương pháp hành
thiền hoặc kỷ thuật quán chiếu. Giáo huấn nầy chú trọng
đến chân lý thiên nhiên nhiều hơn là những phương pháp
thực hành. Do đó đối với người không quen thuộc với pháp
hành thiền Minh Sát (vipassanā meditation) ắt khó thông hiểu
thực tướng vô ngã được mô tả trong bài kinh. Sở dĩ năm
vị đạo sĩ nhanh chóng lãnh hội giáo lý có thể là vì
thời Pháp do chính Ðức Bổn Sư thuyết giảng và cũng vì thính
giả may mắn là bậc đã có kiến thức sâu sắc bén nhạy.
Cả năm vị chẳng những đã được thuần thục chứng
nghiệm từ khi nghe thời Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka
Sutta), mà còn đã vượt đến giai đoạn Nhập Lưu. Nhờ vậy
các Ngài nhanh chóng thành tựu Ðạo Quả A La Hán. Vào thời Ðức Phật còn tại thế có những
vị kiến thức bén nhạy và ba-la-mật (pāramitā) tròn đầy
như nhóm năm vị đạo sĩ, vừa khi được nghe Ðức Bổn Sư
thuyết giảng thì nhanh chóng thành tựu Ðạo Quả
(magga-phala). Dĩ nhiên, đó là nhờ nghe chính Ðức Bổn Sư
thuyết giảng, nhưng các vị ấy cũng phải dành rất nhiều công
phu để tích cực chuyên cần trau giồi thiền Minh Sát
(vipassanā). Giáo Pháp Ðặc Biệt chỉ được thành tựu vì
những vị ấy đã thành tâm cố gắng tích cực hành thiền,
đã nhập định vững chắc, thâm sâu và quán chiếu bén
nhạy, và chỉ một ít người có đủ trí tuệ hay đủ
ba-la-mật để được như vậy. Nhiều người không thể quán
chiếu và ghi nhận nhanh chóng dường thế ấy. Mặc dầu vậy cũng có những người lười
biếng sẽ làm ra vẻ thông thạo nói: Nếu nhờ đọc sách mình
hiểu biết bản chất thiên nhiên của lý vô ngã thì cần gì
phải thực hành. Ta có thể thành tựu Ðạo Quả bằng cách
chỉ nghe suông lời dạy." Với loại suy tư mong muốn như
vậy họ tự đặt họ ngang hàng với các bậc Thánh Nhân.
Những khái niệm tương tợ làm vừa lòng hạng người chỉ
ăn không ngồi rồi, những người tự nhận, tự phong mình là
Thánh Nhân vì chỉ giản dị được nghe Giáo Pháp. Hạng người
nầy không phải ít. Loại hiểu biết lý vô ngã bằng cách lượm
lặt đó đây xuyên qua những thời Pháp không phải là thật
sự chứng ngộ cá nhân, mà chỉ là hiểu biết qua sách vở.
Nếu Ðạo và Quả có thể được chứng ngộ bằng cách ấy,
hầu hết những người Phật tử hiểu biết lý vô ngã đều
có thể được xem là A La Hán. Tuy nhiên, vì người như vậy
không có những phẩm hạnh (paramittā) của một vị A La Hán,
hiển nhiên họ không phải thật sự là A La Hán. Quan tâm đến
tình trạng sai lầm của những ý kiến tương tợ Ngài Mahasi
Sayadaw nêu lên những lời dạy rõ ràng và chính xác trong bài
Kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, đem những người ấy
về con đường chân chánh. Bài Kinh Anattalakkhaṇa mô tả bản chất và đặc
tính của lý vô ngã, nhưng không chỉ giản dị dạy phương
pháp hành thiền hoặc kỷ thuật quán chiếu và ghi nhận,
niệm và giác tỉnh. Trong sách nầy Ngài Sayadaw diễn tả đầy
đủ phương pháp quán niệm và giải thích với đầy đủ chi
tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến
mức độ thành tựu Niết Bàn. Bài kinh được trình bày đúng theo kinh điển,
dựa trên kinh nghiệm cá nhân trong khi thực hành thiền Minh Sát
(vipassanā), và được giải thích sau khi đã thâu thập những
kinh nghiệm và những hiểu biết cá nhân trong lúc thực hành
dưới sự hướng dẫn của một vị minh sư, và sau khi tham
khảo những Kinh Ðiển Pāli và những Chú Giải thích ứng. Trong những thời dạy giáo lý Ngài Sayadaw từ bi
giảng rộng với đầy đù chi tiết bài kinh Anattalakkhaṇa
Sutta, vốn được Ðức Phật giáo truyền một cách ngắn
gọn. Khi những thời Pháp ghi âm nầy được vị thẩm phán
hồi hưu, U Thein Han, chép và đánh máy lại đầy đủ, bản
thảo dài 420 trang. U Thein Han trình lên Ngài Sayadaw và xin phép
cho ấn hành. Ngài vui lòng chấp nhận sau khi tóm lược, chỉ
giữ lại những giáo lý cương yếu gồm 152 trang. Một phần
cũng vì vào lúc bấy giờ giấy in sách còn khan hiếm. Lẽ dĩ nhiên Ngài Sayadaw rất khéo léo giảng
rộng những điểm quá giản lược và thâu ngắn gọn những
đoạn quá dài dòng. Chẳng những Ngài tóm lược những bản
dài dòng bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng và
"Phương Pháp Hành Thiền Minh Sát" mà còn giảng giải
rành mạch bài Dhammacakka Sutta, Kinh Chuyển Pháp Luân, giúp cho
những ai muốn đọc và nghe Giáo Pháp một cách tường tận,
vắn tắt mà rõ ràng, và như thế là một phước lành cho
tất cả. Mỗi khi thuyết giảng hoặc viết, Ngài Sayadaw chú
trọng đến ý nghĩa nhiều hơn là những nguyên tắc văn
phạm. Thí dụ như Phạn ngữ "Bārāṇasiyaṁ", thường
được dịch là "tại Benares", thì không có gì sai. Nhưng
để sát gần với thực tại hơn, Ngài Mahasi Sayadaw viết là
"trong vùng Benares" hoặc "gần Thành Benares" vì
lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn tạm ngự tại vườn nai (Lộc
Uyển) gần Thành Phố Benares (thay vì trong tĩnh Benares). Mặc dầu quan tâm nhiều đến ý nghĩa của câu
văn, Ngài Sayadaw không vì quá chú trọng đến ý mà bỏ quên
không giữ đúng văn phạm. Nói cách khác, Ngài chú tâm đầy
đủ đến phần văn phạm nhưng đặc biệt chú trọng đến
ý nghĩa, không để vì muốn theo đúng văn phạm mà làm sai ý
nghĩa của câu văn. Do đó bản dịch của Ngài không chính xác
theo đúng phương pháp cổ truyền. Sau khi đắn đo suy xét câu
văn Ngài bám sát theo ý nghĩa thật sự và diễn đạt ra thành
lời, viết hay nói. Giáo huấn về ba đặc tướng vô thường, khổ,
vô ngã (anicca, dukkha, anattā) nghe rất quen thuộc, và luôn luôn
ở đầu môi chót lưỡi người Phật tử. Mỗi khi có một
diễn biến ít nhiều quan trọng xảy ra ta liền nghe nhắc đến
những danh từ nầy, gợi ý nên nhớ lại Giáo Pháp. Ðiều
nầy chứng tỏ rằng giáo huấn về ba đặc tướng rất là
phổ thông và được hiểu biết rộng rãi trong giới Phật
tử. Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là sự hiểu biết xuyên qua sách
vở hay vì thường được nghe lặp đi lặp lại, nhưng trong
thực tế đây là một giáo lý khó thấu đạt đầy đủ,
mặc dầu nhìn từ bên ngoài thấy hình như dễ hiểu. Trong ba
đặc tướng, lý vô ngã, "anattā", là thâm diệu và
khó thông suốt nhất. Cũng vì lý do ấy mà chính Ðức Thế Tôn
đã gặp sự phản đối nghiêm trọng của những nhân vật như
Ðạo Sĩ Du Phương Saccaka, và Phạm Thiên Baka vì những vị
nầy có quan kiến đối nghịch về "tự ngã". Trước khi có những lời dạy của Ðức Phật
người ta hiểu rằng cái "ta" cố hữu chằn chịt dính
liền với cơ thể vật chất (rūpa, sắc) và phần tâm linh (nāma,
danh). Ðối nghịch với tà kiến nầy Ðức Phật tuyên ngôn
rằng danh và sắc không phải là "ta", không phải là
"tự ngã" của ta. Trong thực tế, rất khó làm cho người
ta thấu triệt lý "vô ngã" vì trong vô lượng kiếp
khái niệm sai lầm về cái "ta" nầy đã ăn sâu, châm
gốc rễ vững chắc. Nếu giáo lý về "tự ngã" nầy
có thể dễ dàng được hiểu biết thì không cần phải có
một vị Phật thị hiện trong thế gian. Cũng không cần một
vị đệ tử của Ðức Phật, như Ngài Mahasi Sayadaw, phải dành
nhiều công phu để giảng giải rõ ràng và viết ra tường
tận phần chú giải Kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta.
Sự cố gắng không biết mệt của Ngài Sayadaw để làm sáng
tỏ giáo lý nầy cho thấy mức độ thâm sâu của lời dạy.
Chí đến trong giới không-phải-Phật-tử rất hiếm người
hiểu biết cái "ta", tự ngã, hay "attā" là gì,
càng ít hiểu biết lý "vô ngã". Những lời dạy thích
đáng của Ngài Mahasi Sayadaw giải thích rõ ràng và rành mạch
bài Kinh Vô Ngã Tướng Anattalakkhaṇa Sutta, có tác dụng đem
những người lạc nẻo, có quan kiến sai lầm, trở về con
đường chân chánh. Một lần nọ, khi tôi đến ngôi chùa Wetlet
Masoyein Monastery thì có dịp yết kiến Ngài Sayadaw, lúc ấy đến
thành phố Wetlet để thuyết Pháp. Tôi bạch hỏi Ngài, "Có
thể nào hiểu rằng thuyết uccheda (đoạn kiến, chủ trương
chết là hết, tức sau khi chết thì tất cả đều chấm
dứt) và Nibbāna, Niết Bàn, được phân giải là giống y như
nhau không? vì cả hai đều có đặc tánh chấm dứt giống
nhau." Ngài Sayadaw đáp, "Lẽ dĩ nhiên là có sự khác
biệt. Niết Bàn có những đặc tính và phẩm cách cá biệt
của nó. Làm thế nào Niết Bàn không phải là đặc
biệt." Vì lúc ấy cuộc đàm thoại bị đứt ngang giữa
chừng nên tôi không có dịp hỏi thêm, "Vậy chớ đặc tính
và phẩm cách đặc biệt của Niết Bàn là gì?" Ngài
Sayadaw có lẽ đã không còn nhớ câu chuyện không quan trọng
ấy. Tuy nhiên, lúc đọc qua bản thảo nầy, khi tới đoạn
giải thích liên quan đến uccheda và Nibbāna tôi hồi nhớ
cuộc nói chuyện. Những lời giải thích của quyển sách
nầy, trang , làm sáng tỏ sự khác biệt giữa
uccheda-diṭṭhi, chủ thuyết đoạn kiến, tức loại tà kiến
chủ trương rằng sau khi kiếp sống của một chúng sanh chấm
dứt thì chúng sanh ấy hoàn toàn tuyệt diệt, và Nibbāna,
Niết Bàn. Những người tin theo tà kiến nầy lầm lạc nghĩ
rằng sự chấm dứt cuộc sống và Niết Bàn là như nhau, nhưng
hiểu biết như thế hoàn toàn sai lầm. Trong thực tế cả hai
khác biệt nhau hẳn. Về khái niệm đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi), vào
khoảng năm 1971 có lần tôi mời cộng đồng tập trung lại
để nghe giảng kinh Satipaṭṭhāna Sutta, Niệm Xứ, và cung
thỉnh Ngài Mahasi Dhammakatthikas U Samvara và U Zawtika giúp cho thân
bằng quyến thuộc tôi trong làng được cơ hội nghe Giáo Pháp.
Tôi sắp xếp cho thời Pháp được giảng tại làng Inchaung nơi
mà có đông họ hàng quyến thuộc tôi cư ngụ. Vào hôm ấy,
trong nhóm thính giả có một người tên Maung Kyi, vốn là
một lãnh tụ Ðảng Cộng Sản Cờ Ðỏ, một người tin tưởng
nhiệt thành nơi lý thuyết chủ trương không có đời sống
sau kiếp sống hiện tại. Anh ta là một người trong nhóm họ
hàng với tôi nên cũng đến để chung vui trong cuộc hợp
mặt. Hôm ấy Ngài U Samvara và vị Pháp Sư kia tận tình
thuyết giảng Giáo Pháp và mọi người rất hoan hỷ chú tâm
lắng nghe. Maung Kyi được mời và sẵn sàng giúp một tay
trong cuộc lễ, trước sự ngạc nhiên của mọi người, vì
ai cũng biết rằng anh ta chỉ tin tưởng vào thuyết chủ trương
"không có đời sống nào sau kiếp nầy". Vào sáng sớm ngày hôm sau anh lại có mặt tại
nhà một người mời tôi đến dùng bửa. Trong dịp nầy Maung
Kyi nói với tôi, "Thưa Ông, tôi chấp nhận quan điểm
về Giáo Pháp mà Ngài U Samvara đề cập đến đêm hôm qua, nhưng
xin Ông chớ hiểu lầm rằng tôi đã theo đạo, trở thành người
tin tưởng chủ thuyết tâm linh (nāma). Bởi vì quý vị là
Phật tử, quý vị tin có một kiếp sống trong tương lai, sau
kiếp nầy, nên quý vị cố gắng tạo phước để thỏa mãn
tham vọng cho kiếp sau. Phần chúng tôi, chúng tôi không tin như
thế, chúng tôi không có lòng tham. Trong đời chúng tôi không
tham bất luận gì. Chúng tôi đã dập tắt mọi bám níu và
mọi luyến ái vào cuộc sống." Nghe như vậy tôi suy nghĩ,
"Ðiều nầy tùy thuộc nơi quan điểm của mình. Theo
Phật Giáo, lòng ham muốn và luyến ái bám vào sự sống chỉ
chấm dứt, hay chỉ được tận diệt, khi ta trở thành A La Hán.
Nếu chưa giải thoát ra khỏi bản năng tham ái đeo níu vào
kiếp sinh tồn, nếu còn tin tưởng mãnh liệt rằng cuộc
sống nầy sẽ tuyệt diệt sau khi chết, ta sẽ sa đọa địa
ngục, cảnh giới Niraya, khổ cảnh. Ðiều đó đúng theo lời
dạy của Ðức Phật." Mặc dầu Maung Kyi cắt đứt mọi trói buộc và
tự tách rời ra khỏi "kiếp sinh tồn", người vợ
của ông không thể làm được như vậy. Bà bắt đầu chuẩn
bị cho các con vừa lớn lên của ông bà làm lễ xuất gia sa
di (sāmaṇera). Say đắm trong niềm tin cuồng tín, Maung Kyi nói
với vợ, "Em không cần thực hành bất luận nghi lễ gì
để cầu phước cho anh được hưởng trong kiếp sau [*]. Nếu
em muốn thì tự ý làm gì cũng được để cầu phước cho chính
em nhưng phần anh, khi hành lễ xuất gia cho các con, anh không
thể đóng vai trò người chủ lễ, ôm bình bát và cầm
quạt, đưa mấy sa-di đến chùa". Bà vợ đáp lời, "Không có một người đứng
ra làm chủ lễ ắt tôi không thể hướng dẫn mấy sa-di.
Nếu anh không chịu, tôi sẽ thuê một người đóng vai chủ
lễ và thực hành những nghi lễ cần thiết." Nghe vậy
Maung Kyi rất bàng hoàng bực bội, sốt ruột ngồi đứng không
yên, không thể chịu đựng hay chấp nhận sự hiện diện
của một người được thuê để đóng vai trò chủ lễ thế
mình. Lúc bấy giờ ông ở trong tình trạng tấn thối lưỡng
nan, rất khó giải quyết. Về sau tôi có nghe một người
trong làng thuật lại câu chuyện nầy. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng những lời dạy
cao quý về kinh Anattalakkhaṇa Sutta sẽ làm tăng trưởng vững
chắc kho báu niềm tin của tất cả quý vị độc giả và đem
nhiều lợi ích đến quý vị. U Teiktha, [*] Theo phong tục, con nhỏ xuất gia, sống đời
tu sĩ để hồi hướng phước báu cho cha mẹ. -ooOoo- Hồi hướng công đức Chư Phật tử bốn phương, kẻ công người
của, chung cùng ấn tống quyển kinh nầy để tạo phần công
đức thanh cao và thành tâm kính dâng đến: * Tất cả chư Thiên, chư Phạm Thiên và chư
Long Vương cùng khắp mười phương thế giới; * Các bậc Thầy Tổ, từ ngàn xưa đã bước
theo dấu chân của Ðức Bổn Sư, đã gìn giữ Giáo Pháp, và
đã trao truyền nguyên vẹn đến chúng ta; * Các vị cư sĩ tiền bối, đã dày công hộ
trì Tam Bảo, giúp cho Giáo Pháp được truyền thừa đến ngày
nay; * Các đấng ông bà cha mẹ, cữu huyền thất
tổ nhiều đời, còn tại tiền hay đã quá vãng; và * Tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài. Ngưỡng nguyện Giáo Pháp trường tồn, tất cả
chúng sanh đều an vui hạnh phúc trong Chánh Pháp. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 | 04
| 05 | 06 | 07
| 08 | 09 Xem bản dịch Anh Ngữ:
Anattalakkhana Sutta by
Venerable Mahasi Sayadaw Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim
Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2002). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Lời nói đầu
Lời dạy của Ðức Phật: bắt đầu bài kinh
Lầm tưởng thân là tự ngã
Tại sao thân nầy không phải là tự ngã
Jīva attā và parama attā
Căn nguyên của niềm tin có tạo hóa
Luyến ái bám vào tự ngã
Bốn loại luyến ái bám vào tự ngã
Thân quán niệm xứ
Hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã
Thọ gây đau khổ như thế nào
Thế nào là không thể điều khiển thọ
Thọ quán niệm xứ
Ngài Sārīputta (Xá Lợi Phất) tìm con đường dẫn
đến tuệ giác cao siêu nhất
Kinh Dīghanaka Sutta
Ðạo và Quả phát sanh do nhàm chán
Ðạo Quả A La Hán của Ngài Sārīputta
Ý nghĩa của saṅkhāra (hành) theo bài kinh nầy
Hành uẩn cưỡng chế bằng cách nào
Câu chuyện một ngạ quỉ bị nhiều mũi nhọn đâm
chích
Sự chứng nghiệm lý vô ngã đến với ta như thế
nào
Nguyên nhân sanh khởi
Câu chuyện Tỳ Khưu Sāti
Tóm lược chánh pháp
Sắc pháp giống như khối bọt
Thọ giống như bong bóng nước
Tưởng giống như ảo cảnh
Hành, saṅkhāra, giống như cây không lỏi
Thức giống như trò ảo thuật
Tóm lược
Thấy vô ngã qua đặc tướng vô thường
Thấy vô ngã xuyên qua đặc tướng đau khổ
Thấy vô ngã xuyên qua cả hai đặc tướng, vô thường
và khổ
Cuộc thảo luận với Ðạo Sĩ Saccaka
Biện luận về một tự ngã độc lập
Ðặc tướng vô thường
Hai loại đau khổ
Phát triển tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng
khổ
Chấp thủ với tham ái "đây là của tôi"
Chấp thủ với tâm ngã mạn "đây là tôi"
Chấp thủ với tà kiến "đây là tự ngã của
tôi"
Thấy những thọ cảm đúng như nó thật sự là
vậy
Bản chất vô thường của tưởng uẩn
Bản chất vô thường của hành uẩn
Bản chất vô thường của thức uẩn
Mười một phương cách phân tách sắc pháp
Quán chiếu về Netaṁ mama và Anicca
Các vị Tu Ðà Huờn được dạy về đặc tướng vô
ngã
Mười một phương cách quán niệm
Quán chiếu các sắc pháp bên trong và bên ngoài
Quán chiếu các sắc pháp thô kịch và vi tế
Quán chiếu theo đặc tính thấp hèn hay cao thượng
Quán chiếu theo đặc tính xa và gần
Thọ kinh nghiệm trong ba thời
Những cảm thọ bên trong và bên ngoài
Thọ cảm thô kịch và vi tế
Thọ cảm thấp hèn và cao thượng
Thọ cảm xa và thọ cảm gần
Mười một cách phân tách tưởng uẩn
Mười một cách phân tách hành uẩn
Mười một cách phân tách thức uẩn
Tiến trình tái sanh
Ðịnh luật phát sanh tùy thuộc
Thức uẩn trong ba thời kỳ
Quán chiếu tâm theo kinh Tứ Niệm Xứ
Tuệ chán nản phát triển khi thấy khổ
Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô ngã
Ðịnh nghĩa Nibbinda ñāṇa
Thật sự mong muốn Niết Bàn
Ức đoán Niết Bàn
Sáu đặc điểm của tuệ xả hành
Phát triển tuệ đưa vượt lên
Từ nhàm chán tiến đến Thánh Ðạo và Thánh Quả
Sự mô tả trùng hợp với thực nghiệm của hành
giả như thế nào
Suy tư của vị A La Hán
Tóm lược
Hết lòng thành kính đảnh lễ sáu vị A La Hán
Cơ năng của thức
Bangkok - Thailand
(Wetlet Masoyein Sayadaw)
Do U Min Swe (Min Kyaw Thu) dịch.
updated: 01-06-2002