BuddhaSasana Home Page Kinh Vô Ngã Tướng Thiền sư
Mahasi Sayadaw
-V- THẤY
VÔ NGÃ -ooOoo- Tất cả những thành
phần cấu tạo ngũ uẩn đều vô ngã. Nhìn xuyên qua những đặc
tính của các uẩn ta thấy điều nầy trở thành hiển nhiên.
Bản Chú Giải mô tả những đặc tính ấy như sau: Không
vâng lời làm theo ý muốn ta là một đặc tính của vô ngã.
Trong kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta, đặc tính nầy
được diễn tả qua câu, "Ta không thể sai bảo sắc
pháp, 'Thân ta hãy như thế nầy'." Lại nữa trong kinh nầy
có câu "... nó có chiều hướng gây đau khổ ..." Bản
chất gây đau khổ, làm khó chịu, áp bức, hay cưỡng chế,
phải được xem là một hình thức khác của đặc tướng vô
ngã. Trong bài kinh cũng có sự tìm hiểu, Ṅhận là tự ngã
cái gì luôn luôn biến chuyển thì có thích nghi không?" Khi người hành thiền quan sát những đặc tướng trên mỗi
khi nó khởi sanh thì phát triển trí tuệ nhận thấy rằng cả
hai, sắc uẩn và danh uẩn, đều không phải là tự ngã mà chỉ
là những hiện tượng không ngừng sanh diệt. Tuệ nầy được
gọi là anattānupassanā ñāṇa, tuệ giác phát triển do công
phu quán niệm những đặc tính vô ngã. Bài kinh (sutta) nầy
được gọi là Anattalakkhaṇa, Vô Ngã Tướng, vì
đề cập đến những đặc tính vô ngã. Khó Thấu Hiểu Ðặc Tướng
Vô Ngã "Ðặc tướng vô thường và khổ có phần dễ hiểu,
nhưng đặc tướng vô ngã thì khó thông hiểu", chú giải
Sammohavinodanī nói như vậy. Theo chú giải nầy, những lời
than như "Than ôi, thật là vô thường, quả thật là phù
du tạm bợ" sẵn sàng đến với tâm ta mỗi khi vô tình
làm rớt bể một cái hủ. Lại nữa khi bị mụt nhọt, một
vết thương hay bị gai đâm chích ta liền than thầm, "Than
ôi, quả thật đau nhức, khó chịu". Bằng cách ấy đặc
tướng vô thường và khổ được nhận thấy rõ ràng và dễ
hiểu. Nhưng cũng như rất khó mà chỉ cho ai khác tìm một vật
nằm trong tối, không thể hiểu biết dễ dàng đặc tướng vô
ngã. Ðặc tướng vô thường và khổ được hiểu biết rộng rãi,
ở trong cũng như ở ngoài giáo lý nhà Phật, nhưng đặc tướng
vô ngã chỉ được đề cập đến trong Phật Giáo. Những vị
ngoài Phật Giáo như đạo sĩ ẩn dật Sarabaṅga chỉ có thể
thuyết giảng về bản chất vô thường và đau khổ, còn lý
vô ngã thì vượt hẳn ra ngoài tầm hiểu biết của các
Ngài. Nếu các vị đạo sĩ ấy có thể dạy lý vô ngã thì
những đệ tử của họ đã có thể chứng đắc Ðạo Tuệ
và Quả Tuệ, nhưng vì các Ngài không thể dạy nên không có
ai thành đạt Thánh Ðạo và Thánh Quả. Phẩm chất và đặc tính cá biệt đặc thù của một Ðấng
Chánh Ðẳng Chánh Giác là có đủ khả năng giảng dạy lý
vô ngã. Những vị đạo sư ngoài Phật Giáo không tiến được
đến mức tế nhị và sâu sắc của giáo lý nầy. Bản Chú
Giải nói rằng giáo lý vô ngã thâm sâu đến độ chí đến
Ðức Thế Tôn cũng phải dựa trên đặc tướng vô thường
hoặc đặc tướng đau khổ hoặc cả hai cùng một lúc để
giải thích dễ dàng. Bản Phụ Chú Giải giảng rộng thêm: "Trong tuyên ngôn
trên của Bản Chú Giải, ngoài Phật Giáo hai đặc tướng
anicca và dukkha, vô thường và khổ, chỉ được hiểu theo
nghĩa chế định (tục đế), nên không thể dùng làm phương
tiện để chứng ngộ lý vô ngã. Chỉ có vô thường và khổ
hiểu theo chân lý cùng tột (chân đế) mới có thể xử dụng
để giải thích lý vô ngã." Sư đã dùng Phụ Chú ấy để
mô tả khái niệm chế định (tục đế) và khái niệm cùng tột
(chân đế) của anicca và dukkha, trong sách Sīlavanta Sutta. Có
thể tham khảo để có thêm chi tiết. Thấy Vô Ngã Qua Ðặc Tướng
Vô Thường Trong kinh Chachakka Sutta, phần Uparipaṇṇāsa của bộ
Majjhima Nikāya, Trung A Hàm, ta thấy đặc tướng vô thường
được dùng làm phương tiện để giải thích đặc tướng vô
ngã. Theo bài Kinh nầy người hành thiền phải hiểu sáu phân
hạng của sáu yếu tố như sau: 1. Sáu căn môn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý; Nơi đây theo Bản Chú Giải, đoạn "phải hiểu biết"
có nghĩa là "phải hiểu biết xuyên qua công phu quán niệm
minh sát, vipassanā, hiểu biết bằng trí tuệ của Thánh Ðạo".
Do đó mỗi khi một vật được thấy, vật ấy phải được
chú tâm ghi nhận (niệm) để mắt và đối tượng được thấy,
nhãn thức, nhãn xúc và thọ cảm xuyên qua mắt, khởi sanh hiển
hiện rõ ràng cùng lúc trong khi thấy. Và trong lúc thấy nếu
có sự ưa thích hay ham muốn vật ấy khởi sanh, sự ưa thích
và ham muốn ấy phải được ghi nhận, "ưa thích, ưa thích". Cùng thế ấy, trong khi nghe, khi hửi, nếm, sờ đụng, và
suy tư phải hiểu biết sáu hạng sáu đối tượng ấy. Vị hành
giả mà hay biết đúng lúc như vậy tự cá nhân mình sẽ nhận
thức rằng mắt, đối tượng được thấy và sự thấy
(nhãn thức) khởi sanh và chấm dứt. Vị ấy chứng nghiệm,
"Trước đây ta nghĩ rằng có một thực thể thường còn,
một tự ngã hằng cửu. Giờ đây, qua sự chứng nghiệm bằng
cách thật sự quán sát ta nhận thức rằng chỉ có những hiện
tượng thiên nhiên không ngừng sanh diệt." Nhận thức rằng
không có một tự ngã, không có một thực thể sống, người
hành thiền có thể ngạc nhiên không biết mình ngồi đây
hành thiền cho ai. Xuyên qua sự hiểu biết đầy đủ về bản
chất vô thường của vạn hữu hành giả chứng ngộ rằng
không có một tự ngã. Ðể chỉ dạy rõ ràng kinh nghiệm thực
tiển nầy Ðức Thế Tôn tiếp tục bài kinh Chachakka Sutta như
sau: "Phần nhạy của mắt, là nền tảng
của sự thấy (nhãn thức) khởi sanh và chấm dứt mỗi khi thấy;
do vậy nó không phải thường còn, không tồn tại vĩnh viễn,
không phải là thực thể hằng cửu vững bền, là tự ngã,
như hình như nó là vậy. Nếu ta nói, 'mắt là tự ngã' thì cũng
giống như nói rằng tự ngã của ta khởi sanh và hoại diệt,
không ổn định, không tồn tại vững bền. Do đó ta phải kết
luận rằng phần nhạy của mắt không phải là tự ngã." Cùng thế ấy ta có thể kết luận tương tợ đối với hình
thể (đối tượng của sự thấy), nhãn thức, nhãn xúc (tức
sự tiếp xúc giữa mắt và đối tượng của mắt), và sự
ưa thích và ham muốn của mắt: tất cả đều không phải tự
ngã. Ðó là phương cách mà sáu hiện tượng, trở thành nổi
bật vào lúc nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư, được xem
là vô ngã. Thấy Vô Ngã Xuyên Qua Ðặc
Tướng Ðau Khổ Chính trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, đặc tướng
vô ngã được giải thích bằng đặc tướng khổ như sau:
"Vì hình sắc không phải là tự ngã của ta nên có chiều
hướng gây đau khổ cho ta." Cái gì cưỡng chế hay áp bức
ta là đáng cho ta sợ, là nguyên nhân gây đau khổ và rất hiển
nhiên là một nguồn đau khổ, không thể là chính ta, là tự
ngã, là thực thể sống bên trong ta. Thấy Vô Ngã Xuyên Qua Cả
Hai Ðặc Tướng, Vô Thường Và Khổ Nhằm giải thích đặc tướng vô ngã bằng cả hai, vô thường
(anicca), và khổ (dukkha), Ðức Thế Tôn dạy: "Thân không thường còn. Cái gì
không thường còn là (nguyên nhân gây) đau khổ. Cái gì đau
khổ không phải là tự ngã. Cái gì không phải tự ngã phải
được nhận thức với trí tuệ thích nghi theo đúng sự thật
là, 'Ðây không phải là của tôi, cái nầy không phải là
tôi, cái nầy không phải là tự ngã của tôi'." Tóm tắt, cơ thể vật chất phải biến đổi và khổ đau,
và như vậy không phải là tự ngã. Xem là "của tôi"
cái gì thật sự không phải tự ngã thì không thích nghi; lầm
lạc tự nghĩ "tôi là ..., tôi có thể làm ...", là
không thích nghi; xem đây là "tự ngã của tôi", là
"chính tôi" là không thích nghi. Như thế ấy sắc, hay
cơ thể vật chất, phải được nhận ra và xem đúng theo thực
tại. Cùng một thế ấy, do những đặc tướng vô thường và khổ,
thọ, tưởng, hành và thức cũng phải được xem là không phải
tự ngã. Trong phần sau của kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng,
ta sẽ thấy bản chất vô ngã được mô tả căn cứ trên đặc
tướng vô thường (anicca) và đau khổ (dukkha). Những khái niệm vô thường và khổ, anicca và dukkha, được
biết và được chấp nhận rộng rãi, nhưng lý vô ngã thì
không mấy được chấp nhận bên ngoài Phật Giáo. Vào thời
của Ðức Phật có một vị đạo sĩ ẩn dật tên Saccaka đến
gặp Ðức Thế Tôn và thảo luận về vấn đề nầy. Cuộc Thảo Luận Với Ðạo
Sĩ Saccaka Saccaka là đạo sư của những hoàng tử ở thành Vesālī.
Ông hỏi Ðức Assaji, vị sư trẻ tuổi nhất trong nhóm năm vị
đạo sĩ được gọi là năm anh em Kiều Trần Như, "Ðạo
Sĩ Gotama (Cồ Ðàm) dạy đệ tử như thế nào? Những lời dạy
của Ngài cốt yếu là gì?" Ðức Assaji trả lời, "'Sắc,
thọ, tưởng, hành và thức là vô thường, không phải tự
ngã.' Ðó là những lời dạy của Ðức Bổn Sư; đó là điểm
trọng yếu trong giáo huấn mà Ngài ban truyền." Ðến đây Ðạo Sĩ Saccaka nói, Nầy Ðạo Hữu, chúng tôi
có nghe một lời nói sai lầm tệ hại, không đúng. Chúng tôi
nghe rằng Ðạo Sĩ Gotama dạy giáo lý vô ngã. Ðối với
chúng tôi như vậy là xấu, sai, không đúng. Một ngày nào
tôi sẽ có cơ hội gặp Ðạo Sĩ Gotama và sửa sai, làm cho
ông từ bỏ giáo lý tệ hại tội lỗi và đáng ghét, quan điểm
sai lầm về tự ngã ấy." Ðó là một thí dụ cho thấy
người chấp ngã thường nhìn giáo lý vô ngã là thấp kém như
thế nào. Ðối với họ, nghe đến lý vô ngã của Ðức Thế
Tôn rõ ràng là hiểm nguy độc hại. Vị đạo sĩ du phương còn
nói đến việc làm cho Ðức Thế Tôn từ bỏ "tà kiến"
của Ngài. Những người cuồng tín độc đoán tin vào tín điều
của họ luôn luôn có đầu óc như vậy; họ khư khư ôm giữ
quan điểm của mình và tự cao xem thấp người khác. Dầu là
những vị đang dạy đúng theo kinh điển Pāli họ cũng phỉ báng,
làm hạ thấp giá trị. Thông thường những người hay lớn
tiếng chỉ trích chê bai như thế lại là những vị kém hiểu
biết kinh điển hoặc không đủ kinh nghiệm trong pháp hành. Saccaka không học đủ những lời dạy của Ðức Phật và
không hiểu biết Giáo Pháp (Dhamma) qua kinh nghiệm của pháp
hành. Ông chỉ có một ý niệm sai lầm, xem Giáo Pháp là thấp
kém và tự phụ, hãnh diện rằng mình cao hơn nhiều. Do đó
ông cố đi gặp Ðức Thế Tôn để tranh luận. Ông chắc chắn
rằng mình sẽ thắng và, muốn cho mọi người mục kích sự
thắng cuộc vẻ vang ấy ông mời theo những người trong hoàng
tộc Licchavi của thành Vesālī, khoe khoang rằng khi tranh luận
về vấn đề giáo lý ông ta sẽ "quây quần Ðức Phật
như người to lớn mập mạnh chụp đầu một đứa trẻ và
quây vòng." Khi đến trước mặt Ðức Thế Tôn vị đạo
sĩ xin phép Ngài được nêu lên những câu hỏi. Ông hỏi, "Bạch Ðức Gotama, các vị đệ tử của Ngài
được dạy như thế nào? Ðiểm chánh yếu của giáo huấn
ấy là gì?" Ðức Thế Tôn cũng trả lời y như câu trả
lời của Ðức Assaji: "Sắc, thọ, tưởng, hành, và thức
là vô thường, vô ngã. Như Lai dạy đệ tử như vậy. Ðó
là điểm chánh yếu của giáo huấn." Ðến đây Ðạo Sĩ Saccaka đưa ra một thí dụ: "Bạch
Ðức Gotama, hột giống và mầm non phải nương nhờ nơi đất,
nó phải tùy thuộc nơi đất để vươn mình mọc lên thành
cây con và cây lớn; cùng thế ấy, mỗi hành động được thực
hiện với nghị lực và sức mạnh cũng cần phải có đất
để nâng đỡ, con người có cơ thể vật chất như một tự
ngã có thực chất, attā, và phải tùy thuộc nơi hình thể vật
chất ấy để có những hành động thiện hay bất thiện. Ta
tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành và thức như một tự ngã
có thực chất và tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành, và thức
để thực hiện những hành động thiện và bất thiện." Những lời quả quyết xác nhận nầy có nghĩa là hột giống
và cây phải tùy thuộc nơi sự nâng đỡ của đất để mọc
lên; cùng thế ấy, tất cả những loại sinh hoạt cũng cần
phải có nghị lực và sức mạnh. Như cây cối cần sự nâng
đỡ của đất, hành động thiện và bất thiện do những cá
nhân thực hiện cần phải có sắc, thọ, tưởng, hành, và thức
như tự ngã; chính nhờ tùy thuộc nơi những cái "ta"
ấy mà hành động được thực hiện. Cũng chính những cái
"ta" gặt hái hậu quả (tốt hay xấu) của hành động.
Nếu hình sắc vật chất là vô ngã, không có tự ngã, thì
cái gì nâng đỡ những hành động tạo thiện hay bất thiện
nghiệp, và ai sẽ gặt quả? Ðiều nầy đã vượt khỏi phạm vi lý trí của những vị
đệ tử. Các vị nầy không hiểu biết phải giải thích như
thế nào giáo lý xem tự ngã như đất. Chỉ Ðức Thế Tôn mới
có thể nắm vững vấn đề, Bản Chú Giải nói như vậy. Ðức
Thế Tôn hỏi vị đạo sĩ, Nầy Saccaka, phải chăng ông chủ
trương rằng sắc là tự ngã, thọ là tự ngã, tưởng là tự
ngã, hành là tự ngã, thức là tự ngã?" "Ðúng vậy, Bạch Ðức Gotama, tôi chủ trương như vậy,
và những người ở đây cũng đều hiểu biết như vậy." Ðức Thế Tôn nhấn mạnh" "nầy Saccaka, hãy để yên
qua một bên quan điểm của các vị khác; hãy để tâm lắng
nghe những gì chính ông trình bày." Ý định của Saccaka là muốn chia sớt trách nhiệm với những
người cùng đi chung nếu ông có nói điều gì đáng bị khiển
trách, nhưng Ðức Thế Tôn thúc giục ông nên tự mình nhận
lấy trọn trách nhiệm. Ông buộc lòng phải chấp nhận rằng
chính mình chủ trương, "sắc là tự ngã, thọ là tự
ngã, tưởng là tự ngã, hành là tự ngã, thức là tự
ngã." Chừng ấy Ðức Thế Tôn hỏi: "Nầy Saccaka, những người
cầm quyền cai trị đất nước như Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) và
Vua Ajātasattu (A Xà Thế) chẳng hạn, các Ngài có đủ quyền
năng hành hình những ai phải bị hành hình, phạt những ai đáng
bị phạt, đày ải những ai đáng bị đày. Những vị ấy
có đủ quyền thống trị quốc gia của mình, có phải vậy
không, Saccaka?" "Các vì quốc vương ấy quả thật là chúa tể trong vương
quốc. Các Ngài có đủ quyền thống trị đất nước: chí như
những vị Licchavi, được dân chúng bầu làm chúa, cũng nắm
đủ quyền hành quyết, hình phạt, hay đày ải trong xứ
mình." Saccaka trả lời, ông đã vượt qua giới hạn của
câu hỏi, không ngờ hậu quả của nó tai hại như thế nào
đối với đức tin của mình. Ðức Thế Tôn bèn hỏi: "Nầy Saccaka, Ông nói rằng sắc
là tự ngã, là cái "ta" của Ông, vậy Ông có trọn
quyền kiểm soát, sai bảo, "Cái 'ta của tôi' hãy như thế
nầy, cái 'ta của tôi' hãy không như thế kia" không? Ông
có quyền kiểm soát và sai khiến nó như thế không?" Lúc bấy giờ Saccaka kẹt vào thế tấn thối lưỡng nan. Giáo
lý "chấp ngã" của ông chủ trương rằng ta có quyền
kiểm soát và sai bảo thân theo ý muốn. Chấp thủ sāmi attā
mà chúng ta đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chấp rằng có
thể kiểm soát, làm cho "cái ta" phải như thế nào
theo ý muốn của mình. Ðến đây, vì Saccaka đã xác nhận rằng
các vì vua chúa có trọn quyền điều khiển và kiểm soát
"vương quốc của mình" thì đương nhiên ông cũng công
nhận rằng cơ thể vật chất nầy mà ông chấp là "của
mình" cũng phải có thể được kiểm soát và điều khiển
tùy theo ý mình. Nếu ông chấp nhận như vậy, câu hỏi sắp
đến sẽ là ông có thể điều khiển cái thân của ông, bảo
nó vẫn mãi mãi trẻ trung như thân hình các vị hoàng tử
dòng Licchavi kia không? Nếu ông trả lời rằng mình không thể
sai bảo như thế thì điều nầy có nghĩa là ông chấp nhận
rằng mình không thể kiểm soát thân, và do đó thân không phải
là "ta", hay tự ngã. Tự thấy mình đang ở trong thế
kẹt, tới không được mà lui cũng không được Saccaka lặng
thinh, không trả lời. Ðức Thế Tôn lặp lại câu hỏi lần thứ nhì, nhưng
Saccaka vẫn giữ im lặng. Trước khi hỏi lần thứ ba Ðức Phật
cảnh cáo: "Nầy Aggivessana [*], Ông nên trả lời câu hỏi
của Như Lai. Giờ phút nầy không nên giữ im lặng. Khi được
một vị Tathāgata, Như Lai, hỏi đến lần thứ ba mà không trả
lời ắt đầu sẽ bị bể làm bảy miếng." [* Aggivessana là tông phái của Saccaka]. Vào lúc bấy giờ được nói là có một vị thiên lôi từ
cảnh trời tay cầm lưỡi tầm sét bay lượn quanh quẩn trên
đầu Saccaka. Chỉ có Ðức Thế Tôn và Saccaka nhìn thấy. Cũng
giống như ngày nay có vài người thấy ma, chỉ có những người
ấy, người khác không thấy. Thấy thiên lôi sẵn sàng để bửa
đầu mình Saccaka kinh hoàng sợ hải; nhưng khi nhìn thấy mọi
người có vẻ bình thường không lo sợ thì ông nhận biết rằng
những người kia không ai thấy thiên lôi, chỉ có một mình
ông. Do đó ông không thể nói rằng mình bị thiên lôi ép buộc
phải trả lời như thế nào. Biết rằng lúc bấy giờ chỉ
còn Ðức Thế Tôn là nơi mà ông có thể nương tựa, không
ai khác, Saccaka phục tùng bạch Phật: "Xin Ðức Thế Tôn
nêu lên câu hỏi, tôi sẵn sàng giải đáp." Ðến đây Ðức Thế Tôn hỏi: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ
thế nào về điều nầy? Ông nói rằng sắc là tự ngã; vậy
Ông có thể bảo cái tự ngã ấy, 'Thân nầy hãy như thế nầy,
thân nầy hãy không như thế kia', theo như ý Ông muốn được
không?" "Bạch Ngài không, ta không có quyền kiểm soát
nó", Saccaka trả lời, ngược lại với ý mình. Trước
kia ông nói rằng sắc là tự ngã; nếu sắc là tự ngã của
ông ắt nó phải phục tùng quyền kiểm soát của mình. Giờ
đây ông nói rằng không thể kiểm soát sắc, như vậy
đương nhiên ông chấp nhận rằng sắc không phải là tự
ngã. Khi Ðức Thế Tôn nghe Saccaka nói ngược lại với ý ông như
vậy thì mở lời cảnh giác: "Nầy Aggivessana, hãy coi chừng,
hãy cẩn thận với những gì Ông nói. Những gì Ông nói sau nầy
không thích ứng với những gì Ông đã nói trước. Những gì
Ông nói trước không đúng với những gì Ông nói sau. "Bây giờ, nầy Aggivessana, Ông nghĩ như thế nào? Ông
đã nói rằng thọ là tự ngã của Ông, vậy Ông có thể sai
bảo chăng cái tự ngã ấy, 'Thọ nầy hãy như vầy, thọ nầy
hãy không như thế kia, đúng theo như ý Ông muốn không?" "Bạch Ngài không, ta không có quyền kiểm soát." Ðức Thế Tôn nêu lên những câu hỏi tương tợ về tưởng,
hành, thức và mỗi lần trước khi hỏi Ngài cũng nhắc chừng
Saccaka nên thận trọng không nói ngược với ý mình. Mỗi lần
Saccaka trả lời tương tợ, rằng đối với tất cả năm uẩn:
sắc, thọ, tưởng, hành và thức, ta không có quyền năng kiểm
soát uẩn nào. Rồi Ðức Phật hỏi, vậy sắc là thường còn hay vô thường.
"Bạch Ngài, là vô thường". "Cái gì không thường
còn, cái đó là khổ hay lạc?" "Bạch Ngài, là khổ",
Saccaka trả lời. "Vậy, cái gì là vô thường, khổ và phải
luôn luôn biến đổi, có thích ứng không nếu ta xem đó,
'cái nầy là của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã
của tôi'?" "Bạch Ngài, không", ông trả lời. Ðức
Phật nêu lên cùng một câu hỏi về thọ, tưởng, hành, thức,
và Saccaka trả lời tương tợ. Rồi Ðức Thế Tôn hỏi thêm: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ
sau về điều nầy? Người nọ khư khư chấp thủ những uẩn
vốn gây đau khổ ấy, bám siết vào, nắm chặt lấy, ôm giữ
chắc lại, tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là
tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'; con người có quan kiến
như vậy có thế nào hiểu biết thật sự và thấu đáo đau
khổ là gì và có thể chấm dứt đau khổ không?" Câu hỏi
nầy quả thật thâm sâu: nếu người kia biết rằng các sắc
uẩn và danh uẩn ấy là đau khổ mà vẫn thỏa thích hưởng
thụ trong sắc pháp và danh pháp phát hiện nơi sáu cửa giác
quan và nghĩ rằng, "đây là tôi, đây là của tôi, đây
là tự ngã của tôi". Người ấy có thế nào chấm dứt
đau khổ không? Có thể nào người ấy loại trừ đau khổ không? Saccaka trả lời theo câu hỏi: "Bạch Ngài Gotama, người
ấy làm thế nào hiểu được chân lý về sự đau khổ hay chân
lý về sự chấm dứt đau khổ? Bạch Ngài, không thể được." "Trong trường hợp nầy," Ðức Thế Tôn hỏi,
"Có phải không ông là người chấp thủ những uẩn đau
khổ ấy, bám siết vào, nắm chặt lấy, ôm giữ chắc lại,
là người tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là
tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?" Saccaka trả lời,
"Bạch Ngài, chính tôi là con người như vậy. Làm sao tôi
có thể khác?" Ðạo sĩ Saccaka rất hãnh diện với niềm tin chắc vào tự
ngã của mình. Ông rất tự đắc và khoe khoang về điểm nầy,
nhưng khi Ðức Thế Tôn rọi sáng vấn đề, ông phải chấp
nhận rằng quan kiến của ông là sai lầm. Niềm tin vào một
cái ta, attavāda, của ông hoàn toàn tan biến. Ðể đánh một
đòn cuối cùng vào cái ngã được thổi phồng, tánh kiêu căng
và khoe khoang khoác lác của ông Ðức Thế Tôn kể một câu
chuyện: "Nầy Aggivessana, thí dụ như có người kia vào rừng muốn
chặt một cây có lỏi cứng. Anh thấy một cội cây loại
cây chuối và nghĩ rằng cây ấy có lỏi cứng bên trong nên
đốn ngã xuống. Rồi anh tỉa ngọn, rong nhánh, chặt phần
trên của cây và bắt đầu lột vỏ. Hết lớp nầy đến lớp
khác anh không tìm thấy gỗ, nói chi đến lỏi cứng. "Cùng thế ấy, khi Như Lai nghiên cứu thuyết hữu ngã
của Ông thì thấy nó rỗng không, không có thể chất bên
trong. Giữa đám đông trong thành Vesālī Ông khoe khoang rằng:
'không ai có thể tranh luận với ta mà không toát mồ hôi,
rung rẩy lập cập; ta chưa từng gặp một đạo sĩ hay Bà La
Môn hay bất cứ ai đã tự xưng là A La Hán, bậc toàn giác
mà có thể chịu đựng nổi với ta trong cuộc tranh luận, không
rung rẩy hay toát mồ hôi dầm dề. Chí đến một cột trụ vô
tri vô giác, khi tranh luận với ta cũng phải rung rẩy và ngã
xuống đất, nói chi đến con người.' Ông có khoe khoang như
thế không, Aggivessana! Ðiều xảy ra là vài giọt mồ hôi từ
trên lông nheo Ông đã nhỏ xuống y ngoại và rơi xuống đất.
Còn Như Lai thì không có giọt mồ hôi nào trong mình." Ðức
Thế Tôn nói vậy và vén y cho mọi người thấy một phần thân
mình khô ráo không có một giọt mồ hôi. Ðạo sĩ Saccaka không còn gì để trả lời, lúng túng và bất
ngờ, hai vai sụ xuống và cúi đầu ngồi lặng thinh. Rồi một
người trong nhóm tùy tùng của ông, một hoàng tử dòng
Licchavi tên Dummukha đứng dậy xin Ðức Thế Tôn cho phép ông
nêu lên một thí dụ. Khi được Ðức Phật cho phép, Dummukha,
vị Hoàng Tử dòng Licchavi bạch, "Bạch Ngài, gần thành
phố có một vũng nước, và trong vũng nước ấy có một con
cua đang sống. Trẻ con từ trong thành ra đó đùa nghịch bắt
con cua bỏ trên đất liền. Cua quờ quạng quơ càng que vung vẩy.
Mỗi lần con cua dở càng hay que lên thì trẻ con lấy cây đập.
Một hồi càng que xơ xác, con cua không thể chạy trở xuống
vũng nước. Cùng thế ấy Bạch Ngài, Ngài đã bẻ gảy gai
góc và những mũi nhọn của tà kiến, đã tiêu diệt mục trường,
bãi cỏ sinh sống và những tác động của tà kiến. Giờ đây
Saccaka không còn gì để tranh luận với Ngài." Trong khi Dummukha, hoàng tử dòng Licchavi trình bày với Ðức
Thế Tôn thì các vị khác cũng nóng lòng chờ đợi tới phiên
mình để nói lên về Saccaka với những câu chuyện thí dụ
khác. Thấy tình hình diễn tiến không mấy tốt đẹp, người
nầy đến người kia sẽ chồng chất những điều sĩ nhục
trên vai ông, Saccaka quyết định ngăn chận Dummukha lại, không
để nói thêm: "Hãy ngưng lại Dummukha, chúng ta đang thảo
luận với Ðức Gotama chớ không phải với Ông." Rồi
ông bạch với Ðức Thế Tôn, "Bạch Ngài Gotama, hãy để
yên như vậy, tôi muốn chấm dứt nơi đây những gì tôi nói
và những gì người khác nói. Ðó là những câu chuyện bâng
quơ, không ý nghĩa quan trọng." Rồi ông bạch hỏi Ðức
Thế Tôn: Trong Phật Giáo phải thực hành thế nào để tiến
đạt đến mức có thể chế ngự hoài nghi và có đức tin vững
chắc không lay chuyển. Ðức Thế Tôn dạy ông rằng ta phải
hành thiền cho đến giai đoạn có thể thấy với tuệ minh
sát và Ðạo tuệ, rằng năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành
và thức mà người đời thường khái niệm sai lầm là
"của ta", "ta", "tự ngã của ta" trong
thực tế không phải "của ta", "không là ta",
"không là tự ngã của ta". Saccaka cũng muốn biết thực hành như thế nào để trở thành
một vị Arahat, A La Hán. Ðức Phật dạy: "Sau khi chứng ngộ rằng sắc uẩn và danh uẩn không phải
"của ta", không phải là "ta", không phải là
"tự ngã của ta", ta phải tiếp tục thực hành cho đến
khi hoàn toàn buông xả, không mảy may bám níu và luyến
ái." Cuộc biện luận giữa Saccaka và Ðức Thế Tôn cho thấy loại
tà kiến chủ trương rằng tất cả năm uẩn là tự ngã và
những người chấp thủ thuyết hữu ngã lúc nào cũng xem thường
những người tin lý vô ngã mà họ xem là thấp kém. Một loại tà kiến khác chủ trương rằng chỉ có một uẩn
là tự ngã. Hiển nhiên đó là trường hợp chấp thủ tự ngã
của Sāti, được trình bày ở chương IV và cũng là chấp thủ
vedaka attā và chấp thủ kāraka attā. Biện Luận Về Một Tự Ngã
Ðộc Lập Trong thời hiện đại còn có xuất hiện một thứ chấp
ngã khác, bám níu vào một cái ta. Như đã được đề cập
đến trong các sách Triết Học Ấn Ðộ, loại chấp thủ tự
ngã mới mẻ nầy không nhắc đến năm uẩn và khẳng định
rằng có tự ngã hiện hữu hoàn toàn ngoài năm uẩn. Ðây chỉ là một ý kiến, và ý kiến nầy nên được loại
bỏ bởi vì không có năm uẩn ắt không thể có tự ngã. Hãy
bình tâm suy nghĩ: nếu không có sắc pháp ta không thể kinh
nghiệm tự ngã dưới một hình thể hay thể chất nào. Nếu
danh pháp vẫn hiện hữu, có thể có sự bám níu vào danh
pháp ấy giống như người thế gian (puthujjana, người chưa giác
ngộ) luyến ái cảnh giới vô sắc. Nhưng không có danh pháp
thì không có gì để chấp là tự ngã. Nếu không có thọ ắt
không có chấp thủ thọ lạc hay thọ khổ. Trong trường hợp
không có tưởng, ắt không thể có luyến ái khởi sanh nhận
ra hay hồi nhớ. Không có thức, không thể hay biết gì, và nếu
không có hành như ý muốn làm (tác ý), ắt tự ngã không thể
hành động gì được. Do đó một tự ngã như thế đó chỉ
hiện hữu trong danh nghĩa, không thể có tác dụng và ta cũng
không thể mô tả. Vậy, mặc dầu họ khẳng định rằng cái
ta của họ hiện hữu ngoài năm uẩn nhưng hiển nhiên họ vẫn
chấp thủ vào một, hay tất cả năm uẩn. Không thể chấp
vào một cái ta riêng rẽ hiện hữu ngoài năm uẩn. Như vậy trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, ta thấy
những chữ, "sắc không phải tự ngã; thọ không phải tự
ngã; tưởng không phải tự ngã; hành không phải tự ngã; thức
không phải tự ngã" hoàn toàn loại bỏ và biện bác tất
cả mọi hình thức chấp ngã, dầu xem cái ngã ấy nằm ngoài
năm uẩn hay nằm bên trong một, hai, ba, bốn hay tất cả năm
uẩn. Nếu chấp sắc uẩn là tự ngã thì bốn uẩn còn lại là
những thành phần, là đặc tính và sự nâng đỡ của cái
ngã ấy và như vậy cũng là chấp ngã. Nếu chấp một trong bốn
uẩn kia, như thọ uẩn chẳng hạn, là tự ngã, thì bốn uẩn
còn lại cũng được xem như thành phần, là đặc tính và sự
nâng đỡ của cái ngã ấy. Tuyên ngôn "sắc pháp không phải
là tự ngã" biện bác loại trừ tất cả những loại chấp
ngã ấy. Ðức Thế Tôn đã giải thích đầy đủ về lý vô ngã nhưng
để giải rõ thêm, Ngài dựa trên hai đặc tướng vô thường,
khổ, và dạy: Taṁ kiṁ maññatha bhikkhave rūpaṁ
niccaṁ vā aniccaṁ vāti. Aniccaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukhaṁ
vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ
vipariṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama eso
hamasmi eso me attāti. No h'etam Bhante.
"Nầy chư Tỳ Khưu, các con nghĩ thế nào? Hình sắc là
thường còn hay vô thường?" "Bạch Ðức Thế Tôn, là vô thường." Ðức Thế Tôn hỏi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu hình sắc có là
thường còn hay không? Bạch Ngài, "Nó không thường còn".
Câu trả lời nầy có thể được nói lên do một người thường,
người có kiến thức nhờ nghe ai khác dạy, nhưng Ðức Thế
Tôn muốn một câu trả lời dựa trên tuệ giác mà chính người
trả lời đã chứng nghiệm, và trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, tất
cả đều đã chứng ngộ Ðạo Quả Tu Ðà Huờn, tức đã tự
mình chứng nghiệm chân lý. Câu trả lời của các vị nầy dựa
trên tuệ giác của chính bản thân mình. Ðó là ý muốn của
Ðức Phật. Quý vị hành giả trong thiền viện đây cũng có thể trả
lời câu hỏi nầy dựa trên kiến thức bản thân của mình.
Khi niệm "phồng", hành giả nhận thức rõ ràng hiện
tượng giãn ra, ép lên, và di chuyển của bụng. Những hiện
tượng giãn ra, ép lên và cử động là sự biểu hiện của
nguyên tố gió (vāyo dhātu). Trước đó không có những hiện
tượng ấy; nó trở nên hiển hiện khi bụng bắt đầu phồng
lên. Như vậy đó là sự sanh khởi, rồi trở thành, của hiện
tượng. Di động phồng lên của bụng là sự bắt đầu sanh
khởi của hiện tượng được hành giả thận trọng quán
sát và ghi nhận. Khi di động phồng lên chấm dứt, những hiện
tượng giãn ra, ép lên và di động của bụng không còn nữa.
Ta nói là nó ngưng lại, tan biến, chấm dứt, diệt. Như vậy
khi quán niệm di động phồng lên của bụng người hành thiền
cũng nhận thức trạng thái sanh khởi rồi hoại diệt, tan biến.
Hiện tượng tan biến tiếp liền theo sự sanh khởi và trở
thành nầy chắc chắn là đặc tướng của vô thường: sanh,
trụ, diệt. Chứng nghiệm đặc tướng vô thường trong khi niệm phồng
xẹp ở bụng là thật sự minh sát bản chất vô thường
aniccānupassanā ñāṇa. Tuệ giác hiểu biết đặc tướng vô
thường phát sanh do quán niệm trạng thái khởi sanh và hoại
diệt là sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, mức đầu của một
loạt mười tuệ giác phát triển do thiền Minh Sát. Sammasana
ñāṇa, tuệ thấu đạt, chỉ nhận thức trạng thái khởi
sanh và hoại diệt của những hiện tượng tâm vật lý mà chưa
tri giác đầy đủ những chi tiết vi tế ở khoảng giữa.
Ðây chỉ là kiến thức thâu thập nhờ thấy được hiện
tượng trở thành và tan biến của những tiến trình liên tục
tiếp diễn, ngay vào lúc nó khởi sanh. Khi niệm phồng lên ở bụng, hành giả nhận thấy bụng bắt
đầu phồng lên và chấm dứt. Hiểu biết sự khởi sanh của
trạng thái phồng lên là hiểu biết sự trở thành, hiểu biết
sự chấm dứt của trạng thái phồng lên là hiểu biết sự
tan biến. Thấy rõ trạng thái trụ và diệt của mỗi di động
phồng lên không thể có khái niệm lầm lạc rằng đó là thường
còn. Khi niệm bụng xẹp, hành giả nhận thấy rõ ràng trạng
thái thâu rút xẹp xuống của bụng. Ðó là sự di động của
nguyên tố gió (vāyo dhātu). Thấy trạng thái khởi đầu và
chấm dứt của di động xẹp xuống ở bụng là thấy nguyên
tố gió. Khi bụng phồng lên thì không có di động xẹp xuống
của bụng; chỉ đến lúc di động phồng lên chấm dứt hình
sắc xẹp xuống của bụng mới bắt đầu hiện khởi. Rồi
cuối cùng hình sắc xẹp xuống cũng tan biến. Ðó cũng là
vô thường. Ðặc Tướng Vô Thường Anicca khayaṭṭhena: một điều kiện là
vô thường bởi vì bản chất của nó là đi đến chấm dứt.
Theo định nghĩa nầy, trạng thái xẹp xuống của bụng, biểu
hiện qua di động thâu rút xẹp xuống đến cùng, chấm dứt
không xuống nữa. Như vậy di động ấy là vô thường. Một
Chú Giải khác định nghĩa hutvā abhāvato anicca: trước
đó không hiện hữu, nó trở thành hiện hữu và rồi tan biến,
như vậy là vô thường. Trong khi niệm, "xẹp, xẹp" và hay biết di động xẹp
xuống của bụng từ lúc đầu đến lúc chấm dứt, hành giả
chứng nghiệm bản chất vô thường của nó. Ðó là thật sự
thấu hiểu bản chất vô thường (aniccānupassanā ñāṇa) ở
mức độ sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, nhận thấy trạng
thái khởi sanh và chấm dứt của những tiến trình liên tục,
ngay vào lúc nó xảy diễn. Ðến mức độ udayabbaya ñāṇa,
tuệ sanh diệt, hành giả có thể phân biệt rõ ràng ba, bốn
hay năm chặng khởi sanh và chấm dứt của hiện tượng trong
khoảng thời gian bụng phồng lên và xẹp xuống. Khi tiến đạt
đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, hành giả có thể
phân biệt nhiều chặng chấm dứt rất nhanh chóng trong một
di động phồng lên và xẹp xuống. Sắc pháp phồng lên và xẹp
xuống của bụng ở trong trạng thái chấm dứt quả thật là
vô thường. Khi co tay vào hay duỗi tay ra, thận trọng quán niệm,
"co vào, co vào" hay "duỗi ra, duỗi ra" và rõ
ràng nhận thấy mỗi cử động từ lúc bắt đầu đến lúc
chấm dứt. Thấy được như vậy là nhờ tiến trình di động
được thận trọng ghi nhận. Người thiếu niệm ắt không thể
hay biết cử động co tay vào hay duỗi tay ra của mình. Hay dù
có hay biết đi nữa người ấy không phân biệt rõ ràng lúc
bắt đầu cử động đến lúc chấm dứt. Người ấy sẽ có
cảm tưởng rằng cái tay ở đó trước khi co vào hay duỗi ra
sẽ còn đó sau khi cử động. Khi co tay vào hay duỗi tay ra
hành giả thấy có di động chậm chạp của tay mình từ khoảnh
khắc nầy đến khoảnh khắc kế tiếp. Trong mỗi trường hợp
co vào hay duỗi ra, lúc bắt đầu duỗi ra và di động là bắt
đầu có sự hiện hữu của nguyên tố gió (vāyo dhātu), và
khi chấm dứt cử động duỗi ra và di động là sự chấm dứt
của nguyên tố gió (vāyo). Khi niệm co vào, hiểu biết sự khởi
đầu và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Cùng thế
ấy, khi niệm duỗi ra và hiểu biết rõ ràng sự bắt đầu và
sự chấm dứt của mỗi cử động duỗi ra là hiểu biết sự
phát sanh và chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Trong khoảng
thời gian của một cử động co vào hay duỗi ra, hiểu biết
những di động chậm chạp khác nhau từ khoảnh khắc nầy đến
khoảnh khắc khác cũng là hiểu biết sự phát sanh và hoại
diệt của nguyên tố gió (vāyo), có đặc tính là giãn ra và
di động. Sự di động từ từ của cánh tay biểu lộ hiển
nhiên bản chất vô thường. Tuy nhiên, không thể chứng nghiệm
chân lý nầy nếu không thận trọng quán niệm. Trong khi đi, hành giả niệm "mặt, trái", hiểu biết
lúc khởi đầu và lúc chấm dứt của mỗi bước. Ðó là hiểu
biết sự khởi sanh và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo)
vốn có đặc tính làm duỗi chân ra và di động bước tới.
Cùng thế ấy hành giả quán niệm cử động của chân lúc dở
lên, đưa tới và đạp xuống, hiểu biết rành rẽ lúc tác
động bước tới bắt đầu và lúc chấm dứt. Ðó cũng là
hiểu biết sự phát sanh và hoại diệt của nguyên tố gió (vāyo).
Hiểu biết di động từ từ của chân trong mỗi bước cũng là
hiểu biết trạng thái sanh và diệt của nguyên tố gió (vāyo).
Như vậy nguyên tố gió, vốn có nhiệm vụ đưa cái chân bước
tới, cũng khởi phát và chấm dứt trong mỗi bước và do đó,
là vô thường. Khi niệm cảm giác (thọ) xúc chạm ở bất luận nơi đâu
trong thân, hiểu biết sự khởi sanh và chấm dứt của cảm
giác đụng là hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc
pháp trong xúc giác. Hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp
trong chính thân mình và vật mình chạm đến. Hành giả chứng
nghiệm rằng cảm giác đụng chạm của cơ thể vật chất
cũng không ổn định mà vô thường, bởi vì luôn luôn sanh diệt
trong mỗi niệm. Khi niệm "nghe, nghe" hành giả ghi nhận rằng tiếng
động vừa khởi sanh đã nhanh chóng tan biến. Ðó là hiểu biết
trạng thái sanh diệt của âm thanh. Như vậy mỗi tiếng động
đều là vô thường. Cùng với sắc pháp của tiếng động, sắc
pháp (phần nhạy) của lỗ tai mà tiếng động chạm đến
cũng sanh khởi và nhanh chóng hoại diệt. Như vậy có thể
nói rằng một khi nhận ra sự khởi sanh và hoại diệt của
âm thanh cũng hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc
pháp (phần nhạy) trong lỗ tai. Như vậy hành giả cũng hiểu
biết bản chất vô thường của tai. Tiếng hú của nhà máy xay lúa hay tiếng sủa của con chó,
ta thường nghĩ là kéo dài, nhưng đối với vị hành giả mà
tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển mạnh mẽ, những
âm thanh ấy phát hiện từng loạt những khoảnh khắc vi tế,
từng chặng, từng giai đoạn, tiếng nầy rồi đến tiếng
kia. Hành giả chứng nghiệm rằng sắc pháp của âm thanh cũng
phát khởi và hoại diệt rất nhanh chóng. Cùng thế ấy trong khi niệm "thấy, thấy", nếu tuệ
minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển đến mức cao độ,
vị hành giả cũng chứng nghiệm rằng nhãn thức và sự thấy
cũng nhanh chóng khởi sanh và tan biến. Hình sắc được thấy,
vốn khởi sanh và hoại diệt, cũng không thường còn. Sắc
pháp (phần nhạy) của mắt, vốn đồng thời phát sanh và hoại
diệt với hình sắc được thấy cũng là vô thường. Trong khi ăn, hành giả ghi nhận vị của thức ăn và hiểu
biết khi vị ấy tan biến. Vị vừa khởi sanh đã nhanh chóng
chấm dứt, quả thật là vô thường. Bản chất vô thường của
vị rất rõ ràng. Vị ngon ngọt của thức ăn chỉ lưu lại
ở lưỡi trong một thời gian ngắn và mau lẹ biến tan. Cùng
với vị, sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cùng lúc cũng
tan biến. Như vậy khi vị được nhận ra là vô thường, sắc
pháp, hay phần nhạy của lưỡi cũng được nhận thức là
vô thường. Vị hành giả liên tục quán niệm mùi hương hiểu biết rằng
mùi liên tục khởi phát và tan biến, tự đổi mới trong từng
khoảnh khắc. Mùi khởi sanh và nhanh chóng tan biến, quả thật
là vô thường, và phần nhạy của mũi cũng đồng thời nhanh
chóng phát sanh và hoại diệt. Trong lúc niệm phồng xẹp ở bụng có những tư tưởng hiện
khởi, hành giả phải thận trọng ghi nhận, và sẽ nhận thấy
rằng vừa lúc niệm đến là suy tư ấy nhanh chóng biến tan.
Mỗi khi suy tư tan biến thì sắc pháp (ý căn) làm nền tảng
cho suy tư ấy cũng tan biến. Ý căn cùng khởi sanh và tan biến
với mỗi suy tư không tồn tại lâu dài, cũng là vô thường. Những sắc pháp được đề cập ở phần trên, chính hành
giả tự bản thân chứng nghiệm là vô thường, bằng cách
liên tục ghi nhận những hiện tượng của ngũ uẩn. Những sắc
pháp ấy liên hệ đến toàn thể châu thân, luôn luôn sanh rồi
diệt, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc, khi thấy, khi
nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư. Giống như sắc pháp
bên trong thân mình, sắc pháp trong thân những người khác cũng
vậy, cũng đồng thời khởi sanh và tan biến. Thí dụ như khi ghi nhận âm thanh, "nghe, nghe", sắc
pháp, hay phần nhạy của tai, cũng tức thì hoại diệt. Sắc
pháp của những người khác trên thế giới cũng sanh diệt cùng
thế ấy. Do đó Ðức Thế Tôn hỏi, "hình sắc là thường còn
hay vô thường?" Nhóm Năm vị Tỳ Khưu đã tự bản thân
chứng nghiệm bản chất vô thường của sắc uẩn trả lời,
"Bạch Ngài, sắc là vô thường". Ðó là những câu hỏi về đặc tướng vô thường. Khi thấu
hiểu tận tường đặc tướng vô thường thì cũng hiểu biết
dễ dàng hai đặc tướng khổ và vô ngã. Vô thường có nghĩa
là không thường còn, không tồn tại lâu dài. Bản Chú Giải
định nghĩa là hutvā abhāvato anicca: trước đó không hiện hữu,
nó trở thành, rồi liền chấm dứt. Ðó là những đặc tính
của vô thường. Mọi người đều có trông thấy tia chớp
khi trời sấm sét. Trước đó không hiện hữu, bỗng nhiên
nhoáng lên trở thành, rồi tức khắc tan biến. Hiện tượng
tia chớp có đủ tất cả những đặc tính của lý vô thường.
Cái gì không hiện hữu bỗng nhiên khởi phát rồi nhanh chóng
tan biến là có những đặc tính của trạng thái vô thường. Vị hành giả đã liên tục quán sát tiến trình hay biết,
trông thấy sự vật khởi sanh và chấm dứt. Chỉ khi nào vị
ấy thấu đạt tuệ giác, chính tự mình hiểu biết đặc tướng
vô thường aniccānupassanā ñāṇa, tuệ minh sát thật sự mới
phát triển. Trông thấy trạng thái tan biến, vị hành giả hiểu
biết rằng đó là vô thường. Sự hiểu biết nầy là aniccānupassanā
ñāṇa, tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng vô thường. Nhằm
giúp phát triển tuệ giác nầy Ðức Thế Tôn hỏi, "Sắc
pháp là thường còn hay vô thường?" Sư đã đề cập đến vấn đề vô thường một cách đầy
đủ, giờ đây Sư giảng qua đặc tướng đau khổ. "Cái gì là vô thường, cái ấy là bất toại nguyện
hay vừa lòng?" Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi. Năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, là bất toại
nguyện." Hai Loại Ðau Khổ (Dukkha) Có hai loại dukkha, đau khổ. Loại đầu tiên là trạng
thái khó chịu đựng, đau khổ. Loại nầy là dukkha, đau khổ,
bởi vì nó có tánh cách áp bức, ray rứt. Trạng thái luôn
luôn chuyển biến, không ngừng sanh diệt, không phải là loại
đau khổ nầy, mà thuộc về loại đau khổ thứ nhì, đúng
theo định nghĩa của Bản Chú Giải: "Là đau khổ bởi vì
nó đáng sợ". Hiện tượng không ngừng sanh diệt quả thật
khủng khiếp, thật đáng kinh sợ, hay để dùng một danh từ
của người Miến Ðiện, nó "không tốt". Câu hỏi,
"Cái gì vô thường là đau khổ hay hạnh phúc, dukkha hay
sukha?" cũng giống như hỏi "là xấu hay tốt?"
Nhóm Năm vị Tỳ Khưu trả lời, "Là đau khổ,
dukkha". Hay trong ngôn ngữ của người Miến, đó là
"không tốt". Lý do nó là dukkha, không tốt, là vì luôn luôn sanh và diệt,
và như vậy là đáng kinh sợ. Người ta tưởng tượng sự vật
là sukha, tốt, vì sự vật có vẽ như tồn tại lâu dài và
ổn định. Khi nhận ra rằng trong thực tế sự vật không tồn
tại lâu dài mà chỉ trong khoảnh khắc và không ngừng tan biến,
thì không còn thấy gì sukha, tốt, trong đó. Ðể sống, chúng ta tùy thuộc nơi ngũ uẩn, mà ngũ uẩn lúc
nào cũng không ngừng tan biến. Nếu vào một khoảnh khắc
nào mà ngũ uẩn không biến chuyển đổi mới, ắt chúng ta chết.
Ðó là điều đáng kinh sợ. Cũng giống như ta đang sống
trong một ngôi nhà quá cũ, đã hư nát và có thể sụp đổ bất
cứ lúc nào. Trường hợp một ngôi nhà cũ thì còn có thể
hy vọng nó kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm mới
sập, nhưng danh uẩn và sắc uẩn bên trong thân ta thì không
thể tồn tại, dầu trong một giây. Nó không ngừng tan biến
và như thế quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ hơn
là ở trong nhà cũ. Do đó ta nói rằng nó là dukkha, đau khổ. Ðặc tính của dukkha là gì? Theo Bản Chú Giải, abhiṇha
sampaṭipīḷanakara dukkha lakkhaṇaṁ: Luôn luôn, áp bức,
không ngừng cưỡng chế, là dấu hiệu của dukkha. Nơi đây
luôn luôn áp bức, không ngừng cưỡng chế, hàm ý là trạng
thái luôn luôn sanh và diệt của danh uẩn và sắc uẩn. Như vậy,
tất cả danh uẩn và sắc uẩn đều được xem là dukkha, những
sự vật "không tốt".
Tự bản thân mình kinh nghiệm, thấy dấu hiệu của dukkha
và nhận thức rằng sự vật là đáng sợ, đau khổ, "không
tốt", không đáng tin cậy, là thật sự minh sát đặc tướng
bất toại nguyện của sự vật, dukkhānupassanā ñāṇa. Phát Triển Tuệ Minh Sát Thấu
Hiểu Ðặc Tướng Khổ Trong khi quán niệm danh pháp và sắc pháp, hành giả nhận
thấy hiện tượng sanh diệt liên tục diễn tiến trong di động
phồng lên và xẹp xuống ở bụng, trong tác động co vào, duỗi
ra của tay, hay dở lên, bước tới và đạp xuống của chân.
Hành giả cũng thấy trạng thái khởi sanh và tan biến liên tục
diễn tiến mỗi khi niệm đụng, nghe, thấy và nếm. Vị ấy
bắt đầu cảm nhận sự áp bức khó chịu trong những tiến
trình sanh và diệt liên tục, và thấy cái chết có thể xảy
đến bất luận lúc nào, thấy mình luôn luôn bị áp bức
khó chịu, như vậy là đáng kinh sợ. Ðó thật sự là tuệ
minh sát về đặc tướng khổ của sự vật dukkhānupassanā ñāṇa. Nhằm giúp phát triển tuệ giác nầy, Ðức Thế Tôn hỏi,
"Cái gì vô thường là khổ hay lạc, dukkha hay sukha?"
Trong đoạn tuyên ngôn, "Sắc, tức thân nầy, không phải
là tự ngã" cũng rõ ràng ghi nhận, "Vì sắc không phải
tự ngã nên sắc có chiều hướng gây đau khổ." Do vậy
ta thấy rõ ràng rằng sắc là khổ, và năm vị tỳ khưu trả
lời, "Bạch Ngài, là khổ, Dukkha." Khi đã chỉ rõ rằng sắc là vô thường và khổ Ðức Thế
Tôn tiếp tục khuyến khích năm vị tỳ khưu không nên xem
thân nầy là "của ta", là "chính ta", là
"tự ngã của ta". "Cái gì là vô thường, khổ và luôn luôn biến chuyển
thì có thích nghi hay hợp lý không khi xem đó là 'cái nầy của
tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?" Năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, không thích
nghi." Chấp Thủ Với Tham ái,
"Ðây Là Của Tôi" Trong ba hình thức chấp ngã, chấp rằng "cái nầy của
tôi" là chấp thủ với lòng tham ái, chấp "đây là
tôi" là chấp thủ với tâm ngã mạn, và chấp "đây
là tự ngã của tôi" là chấp thủ với tà kiến. Khi ta cảm nghe thích thú với một vật, dầu vật ấy
không phải của mình, thì đó là lòng tham ái. Như đi chợ,
ta thấy một vật đẹp, phát tâm thỏa thích dường như đã
làm chủ vật ấy. Thấy một cái áo, hay một cái quần vừa
ý, ta tưởng tượng như mặc nó vào mình, thấy một đôi
giày giống như ý mình muốn, ta cũng tưởng tượng như mang nó
vào chân. Chúng ta ưa thích đủ chuyện nếu vừa lòng đẹp dạ
dầu là vật vô tri giác hay hữu giác hữu tri trong trí tưởng
tượng ta xem như đã là của mình. Vì lẽ ấy Ðức Bổn Sư
hỏi rằng chấp thủ sự vật vô thường, khổ, phải luôn
luôn biến đổi và thỏa thích trong đó, xem đó là "của
ta", như vậy thì có sáng suốt không? Nói cách khác,
thích thú trong đau khổ thì có đúng không? Những sắc pháp trong thân ta vừa khởi sanh đã liền tan biến,
không ngừng sanh diệt. Nếu ta thấy sự vật đúng như thật
sự nó là vậy thì quả thật là kinh hoàng, thật đáng sợ,
giống như đang sống trong một ngôi nhà quá cũ kỷ, rách
nát, không biết sụp đổ lúc nào. Trong khoảnh khắc hiện tại
có thể ta cảm nghe an toàn, nhưng bất cứ lúc nào trong tương
lai, tùy thuộc nơi điều kiện và hoàn cảnh, hiểm họa có
thể bất ngờ xảy đến. Một khi nhận thức rằng thân nầy
rất mỏng manh, không ổn định, không thể tồn tại đến một
giây mà không biến đổi, và như vậy là một nguồn đau khổ,
thì làm thế nào ta có thể hoan hỷ thỏa thích với nó? Có
ai vui lòng chọn một người bạn đời sắp bị tàn phế hoặc
sắp chết trong vài giờ hay trong vài ngày không? Không ai thật
sự hiểu biết điều gì sắp xảy diễn mà hoan hỷ thỏa
thích trong đó. Cùng thế ấy, vị hành giả đã thấy tiến
trình nhanh chóng sanh diệt của ngũ uẩn chỉ thấy kinh hoàng
đau khổ trong đó. Cảm nhận như vậy người ấy sẽ không
có ý muốn chấp thủ thân nầy là chính ta. Do đó Nhóm Năm vị
Tỳ Khưu trả lời rằng xem thân nầy là "của ta"
thì thật không thích nghi. Chấp Thủ Với Tâm Ngã Mạn,
"Ðây là Ta" Thấy sắc pháp và nghĩ rằng, "đây là Ta" là chấp
thủ với tâm ngã mạn. Khi có mắt sáng, tai thính, ta thấy
và nghe rõ ràng và lấy làm hãnh diện, "Tôi có mắt và
tai tốt, tôi xinh đẹp, tôi có giọng nói êm dịu dễ thương,
tôi có sức khỏe, tôi mạnh mẽ v.v..." Chấp thủ thân nầy
như thế ấy có thích nghi không? Nghĩ rằng những gì của
mình sẽ tồn tại lâu dài và thường còn là khái niệm lầm
lạc có chiều hướng tăng trưởng tính ngã mạn. Khi những sắc
pháp của mắt, tai và hình sắc, những đối tượng của sự
thấy, được hiểu biết sai lầm là thường còn thì lòng tự
mãn càng tăng cao. Cũng giống như người kia có nhiều vàng bạc
và của cải được dấu kín ở một nơi: người ấy rất hãnh
diện với tài sản dồi dào phong phú của mình, nhưng nếu biết
rằng bao nhiêu vòng vàng đều bị trộm, bao nhiêu tiền của
đều mất, thì cái bong bóng ngã mạn ấy sẽ nổ bụp, xẹp
lép. Cùng thế ấy, khi chấp thủ những sắc pháp hiển hiện
trước mắt, và được nghe nói đến rõ ràng, thì người ta
nghĩ rằng nó vẫn tồn tại, và rất hãnh diện với những sắc
pháp ấy. Vị hành giả chuyên cần và nhiệt thành quán niệm
sẽ hiểu biết rằng những sắc pháp ấy chỉ khởi sanh để
rồi tan biến trong chốc lát thì không có lý do gì để hãnh
diện với ý nghĩ, "Tôi có mắt sáng", "Tôi xinh
đẹp". Nhóm Năm vị Tỳ Khưu được hỏi, Ṅghĩ đến thân
nầy 'đây là ta' thì có thích nghi không?" Câu trả lời
là, "Bạch Ngài, không". Bằng cách nêu lên câu hỏi
để được trả lời, Ðức Thế Tôn muốn rọi sáng cho năm
vị tỳ khưu thấy rõ là khi có quan niệm rằng sự vật là
thường còn bất hoại thì tính ngã mạn sẽ phát khởi, nếu
hiểu biết rằng vạn pháp là vô thường thì ngã mạn không
khởi sanh. Chấp Thủ Với Tà Kiến,
"Ðây Là Tự Ngã Của Tôi" Chấp thủ niềm tin "Ðây là tự ngã của tôi" là
chấp thủ với tà kiến. Tà kiến nầy được chấp chứa dưỡng
nuôi khi có niềm tin rằng các sắc pháp bên trong một người
tồn tại lâu dài và con người có thể kiểm soát và điều
khiển. Khi có sự hiểu biết rằng những sắc pháp ấy không
ổn định thường còn mà luôn luôn sanh diệt và đau khổ vì
phải luôn luôn biến chuyển, không thể tồn tại, ắt không
có lý do vững chắc nào để bám níu vào thân nầy, xem đó
là "ta", là một thực thể sống. Khi người hành thiền
hiểu biết rằng ta không thể kiểm soát thân nầy, không thể
điều khiển, sai bảo, "Hãy làm phát sanh tất cả những
gì tốt đẹp, đáng được ưa thích, hãy không để xảy ra
những gì xấu xa, không đáng được ưa thích, hãy để cho những
sắc pháp tốt thường còn" thì không có gì cho vị ấy
bám níu, chấp thủ là "ta". Do đó, để trả lời câu
hỏi, "Xem thân nầy là tự ngã thì có thích nghi
không?" năm vị tỳ khưu đáp, "Bạch Ngài không."
Với câu hỏi nầy Ðức Thế Tôn rọi sáng rằng khi không
thông hiểu rằng sắc pháp nầy sanh diệt trong từng khoảnh
khắc thì có chấp thủ xem đó là tự ngã của mình. Khi đã
biết trạng thái vô thường của nó thì không còn chấp ngã.
Theo vậy, "trạng thái biến đổi trong từng khoảnh khắc"
cũng phải được xem là một đặc tướng của lý vô ngã. Trong phần đầu bài giảng hôm nay chúng ta đã đề cập đến
những đặc tính của vô thường; phần sau giảng qua tất cả
ba đặc tướng được đề cập đến trong Kinh Vô Ngã Tướng
(Anattalakkhāṇa Sutta) dưới hình thức vấn đáp. Bài giảng về sắc uẩn đã được trình bày khá đầy đủ.
Tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập đến những câu vấn đáp
liên quan đến các uẩn kia. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06 | 07
| 08 | 09 Xem bản dịch Anh
Ngữ: Anattalakkhana Sutta by
Venerable Mahasi Sayadaw Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim
Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2002). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Phạm Kim Khánh
dịch
(Xin
lưu ý: Cần có phông chữ Pali Unicode CN-Times
cài vào máy để đọc được các chữ Pàli.)
2. Sáu trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp;
3. Sáu loại thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức;
4. Sáu loại xúc (phassa): sự tiếp xúc xuyên qua mắt, qua
tai, qua mũi, qua lưỡi, qua thân và qua tâm;
5. Sáu loại thọ: cảm thọ xuyên qua mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, và tâm;
6. Sáu loại tham vọng: khát khao ham muốn được thấy hình
thể, được nghe âm thanh, được hửi mùi, được nếm vị,
được sờ đụng và cảm kích.
updated: 01-06-2002