BuddhaSasana Home Page Kinh Vô Ngã Tướng Thiền
sư Mahasi Sayadaw
-IV- THỨC -ooOoo- Viññā
"Nầy chư Tỳ Khưu, thức là vô ngã..." Danh từ thức ở đây có nghĩa là nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Sáu loại thức nầy thường được chấp là tự ngã, một thực
thể sống: "Chính tôi thấy; tôi thấy". "Chính
tôi nghe; tôi nghe". Như vậy tất cả sáu loại thức được
xem chỉ là của một tự ngã duy nhất. Loại chấp ngã nầy cũng
dễ hiểu: những vật không có sự hiểu biết như khúc gỗ,
như nấm đất, hay viên gạch, được xem là vô tri giác; chỉ
những sự vật có khả năng hiểu biết được xem là hữu
tri hữu giác, một thực thể sống. Vì thế ta không lấy làm
ngạc nhiên khi thấy rằng nhãn thức, nhĩ thức v.v... được
xem là tự ngã, nhưng trong thực tế nó cũng không phải là tự
ngã, không phải là thực thể sống. Ðức Thế Tôn tuyên
ngôn rằng thức không phải là tự ngã, và Ngài giải thích
như sau: "Nếu thức là tự ngã, là thể chất
bên trong ta, ắt nó không có khuynh hướng gây đau khổ cho ta;
thế thường ta không cố ý cưỡng chế, áp bức, làm cho
chính ta đau đớn khổ sầu. Ta cũng phải có thể điều hành
như thế nào để luôn luôn chỉ có những trạng thái tâm
trong sạch, không bao giờ có tâm ô nhiễm. Nhưng trong thực tế
tâm có chiều hướng gây đau khổ, và ta không thể điều khiển
và kiểm soát. Như vậy nó không phải là tự ngã, không phải
là thể chất bên trong ta. Nầy chư tỳ Khưu, trong thực tế thức không phải là tự
ngã. Nó có chiều hướng gây đau khổ cho ta và ta không thể
sai bảo thức, "Thức của ta phải như thế nầy (luôn
luôn trong sạch), thức của ta phải không như thế kia (ô nhiễm)". Giữa tâm (citta) và năm mươi hai tâm sở (cetasikā) phần đông
chúng ta quen thuộc với tâm hơn. Người Miến Ðiện thường nói đến tâm, nhưng rất ít
khi đề cập đến các tâm sở như phassa (xúc, sự tiếp xúc
giữa giác quan và đối tượng của nó) luôn luôn đi chung với
tâm. Hơn nữa, họ xem cái tâm là tự ngã, là "ta":
"Chính tôi thấy, tôi thấy", "chính tôi nghe, tôi
nghe". Không phải chỉ có chúng sanh trong cảnh người mà
chư Thiên (Devas) và những chúng sanh khác cũng tin tưởng rằng
thức, hay tâm, là tự ngã. Tuy nhiên, thức quả thật không phải
là tự ngã. Vì không phải là "ta" nên nó có chiều hướng
cưỡng chế, làm cho ta đau khổ. Thức Cưỡng Chế Ta Như Thế
Nào? Thức cưỡng chế, làm cho ta mất thoải mái khi thấy sự vật
nhơ nhớp ghê tởm, khi nghe những âm thanh ồn ào nhức tai, những
lời nghịch nhĩ, bất nhã, khi hửi những mùi hôi thúi, khi nếm
những vật thực mà mình không thích, khi sờ đụng một vật
làm cho mình khó chịu, khi nghĩ đến một việc đáng sợ, đáng
ghét, hay có những ý tưởng buồn phiền, sầu muộn. Tất cả chúng sanh đều thích sống ở một nơi vừa ý, muốn
thấy những cảnh đẹp, nhưng cuộc đời đưa đẩy lắm khi
phải gặp những cảnh tượng ghê tởm nhớp nhúa. Ðối với
người bất hạnh, phần lớn những gì mình thấy chỉ làm bất
toại nguyện. Ðó là nhãn thức có khuynh hướng cưỡng chế,
làm cho ta khó chịu. Thay vì được nghe những âm thanh êm dịu,
những lời lẽ làm mát lòng như ý muốn thì có những trường
hợp không may phải chịu nghe những tiếng động rền tai, rùng
rợn, những tiếng nói hăm dọa, những lời nguyền rủa. Ðó
là phương cách mà nhĩ thức áp chế, làm cho ta bực bội, mất
thoải mái. Lại nữa, tất cả chúng sanh đều muốn thưởng
thức những mùi thơm nhưng phải chịu cảnh chỉ được hửi
những mùi hôi thúi. Ðó là trường hợp tỷ thức cưỡng chế. Trạng thái cưỡng chế của nhãn thức, nhĩ thức và tỷ
thức đối với chúng sanh trong cảnh người không đến nổi
hiển nhiên như trong thế gian cầm thú, hay trong những cảnh
ngạ quỷ (peta) và địa ngục. Trong các cảnh giới nầy, bản
chất cưỡng chế của thức uẩn càng rõ ràng nổi bật hơn
nhiều. Những sinh vật trong thế gian loài thú luôn luôn thấy
những điều ghê sợ, nghe những tiếng động hải hùng rùng
rợn, và những con vật sống ở những nơi nhơ nhuốc bẩn thỉu
lúc nào cũng hửi mùi hôi thúi. Càng đau khổ hơn loài thú rất
nhiều là hạng ngạ quỷ, những chúng sanh đói khát cùng cực,
và càng khổ hơn nữa là cảnh địa ngục. Họ mãi mãi đắm
chìm trong tình trạng khốn khổ nguy nan, thấy những cảnh hải
hùng rùng rợn, nghe những âm thanh hung tợn, và hửi những
mùi ô trược. Trong một vài cảnh địa ngục tất cả những
gì được thấy, được nghe, được hửi, được sờ đụng
đến và những ý tưởng nghĩ đến đều làm kinh sợ, tuyệt
đối không có gì đẹp đẽ êm dịu. Chúng sanh trong những cảnh
giới ấy mãi mãi sống trong trạng thái khốn khổ, luôn luôn
bị sáu loại thức cưỡng chế. Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, và ý thức luôn luôn gây phiền não,
đau khổ. Tất cả mọi người đều muốn thưởng thức những món
ăn vừa miệng, nhưng người vô phúc phải luôn luôn sống với
những vật thực mà mình không thích. Ðó là tình trạng cưỡng
chế của thiệt thức. Ðây cũng vậy, sự áp bức của thiệt
thức càng hiển nhiên nổi bật trong bốn khổ cảnh. Dầu
trong cảnh người, ai cũng muốn dùng những thức ăn vừa miệng,
nhưng lắm khi vì hoàn cảnh như đau ốm chẳng hạn, phải gắng
gượng cố nuốt những vật thực mà mình không muốn. Ðôi
khi muốn chết cho rồi, để thoát ra khỏi những cảnh khổ
đau như vậy. Dĩ nhiên, trong bốn khổ cảnh chúng sanh còn
muôn phần khốn khổ hơn. Người đời thường muốn sống thoải mái thong dong, ít phải
bận tâm lo lắng, nhưng hoàn cảnh không để yên cho chúng ta
sống như vậy. Nhiều người phải vất vả buồn phiền, chán
nản thất vọng, sầu não và than van. Vài người suốt đời
không bao giờ vượt thoát ra khỏi cuộc sống hạn hẹp đầy
đau khổ và vô phúc. Họ luôn luôn phải bận tâm lo lắng về
cuộc sống. Họ là nạn nhân của thức uẩn. Thức không tùy thuộc ý muốn của ta mà sanh khởi do hoàn
cảnh quyết định. Ta không thể kiểm soát hay điều khiển
thức uẩn. Mặc dầu muốn thấy hình ảnh vui tươi xinh đẹp
và thích thú nhưng không thể được. Trái lại, ta phải gặp
toàn là những điều gai mắt. Ðó là một thí dụ về nhãn
thức. Nó không theo ý muốn, không nằm dưới quyền điều
khiển và kiểm soát của ta mà chỉ sanh khởi tùy duyên, tự
động phát sanh tùy thuộc điều kiện. Cùng thế ấy, mặc dầu ta muốn chỉ nghe những âm thanh
êm dịu, những lời lẽ làm vừa lòng, nhưng không thể được.
Do đó, đôi khi cần phải mở máy ghi âm hay vô tuyến truyền
thanh để được nghe những âm thanh mà mình thích hay những lời
nói êm tai. Ta không thích nghe những tiếng động ồn ào nhưng
khi nó vừa phát lên thì nhanh chóng lọt vào tai ta, không thể
tránh. Nhãn thức tự nhiên tự chính nó tùy duyên khởi sanh
mà không chịu quyền điều khiển hay quyền kiểm soát của
ta. Ðối với tỷ thức cũng thế. Mặc dầu ta thích thưởng
thức những mùi thơm dịu ngọt, nếu không được ắt không
thỏa mãn. Do đó chúng ta đi tìm những loại trầm hương, các
thứ dầu thơm và trồng những giống hoa có mùi thơm. Tuy nhiên,
trong một vài cảnh ngộ chúng ta phải hít vào những mùi hôi
thúi khó chịu, có khi những hơi độc có thể làm tổn hại
đến sức khoẻ. Ðó là những trường hợp cho thấy rằng ta
không thể điều khiển hay kiểm soát tỷ thức theo ý muốn,
mà nó chỉ khởi sanh do nguyên nhân và cơ duyên. Mặc dầu ta
muốn thưởng thức những vị ngọt bùi dễ chịu, nhưng nếu
không có thức ăn vừa khẩu vị thì thiệt thức thích thú
ắt không thể phát sanh. Do đó hằng ngày chúng ta tận lực
gia công mong tìm những thức ăn ngon. Nhưng đến khi đau ốm,
để chữa trị, chúng ta phải dùng thuốc đắng mà dĩ nhiên
ta không thích. Ðiều nầy cho thấy rằng ta không thể điều
khiển hay kiểm soát thiệt thức. Thân thức, cảm giác của thân, chỉ có thể thích thú khi
có những đồ vật vừa ý như quần áo xinh đẹp, giường
ấm, nệm êm hay chỗ ngồi thoải mái. Muốn được vậy phải
luôn luôn chuyên cần cố gắng để thâu thập những sự vật,
vô tri giác và hữu giác hữu tri, để tạo những cảm giác
thích thú của thân. Khi quá lạnh hay quá nóng, khi bị gai nhọn
đâm chích, bị phỏng lửa, bị khí giới gây thương tích, hoặc
lúc lâm trọng bệnh, chúng ta phải đau nhức dầu không muốn
chịu hậu quả khó chịu của thân thức. Như vậy rõ ràng ta
không thể kiểm soát hay điều khiển thân thức. Nó chỉ tự
động khởi phát khi hội đủ nhân và duyên. Mỗi người đều muốn có đời sống hạnh phúc, an vui và
thoải mái vừa lòng, nhưng chỉ có thể thành tựu được
như thế khi có đủ tiền của và phương tiện. Vậy phải luôn
luôn tận lực cố gắng để bảo trì cuộc sống. Trong khi
mong tìm phương tiện để sống tiện nghi thoải mái và vui vẻ,
thì lại phải bận tâm suy tư về những nổi khó khăn của
cuộc sống hằng ngày -- về người thân kẻ yêu, về thân bằng
quyến thuộc, về ông chồng hay bà vợ hoặc con cái qua đời,
về những vấn đề tài chánh, về công ăn việc làm, về tuổi
già và sức yếu v.v... -- có thể khởi sanh bất cứ lúc nào
và làm hỏng hết hạnh phúc của chúng ta. Ðó là phương cách
mà ý thức khởi sanh, tự động và tùy thuộc nhân duyên. Ta
không thể điều khiển và kiểm soát. Nguyên Nhân Sanh Khởi Chúng ta đã dùng những từ ngữ "tùy theo nhân và
duyên". Câu nầy hàm ý "những hoàn cảnh và điều kiện
nguyên nhân như thế nào sẽ đưa đến hậu quả như thế nào";
cũng có nghĩa là nguyên nhân tốt tạo những hậu quả tốt,
nhân xấu đưa đến quả xấu. Không có hậu quả nào sanh khởi
chỉ vì ý ta muốn. Quả như thế nào sẽ phát sanh do những
nhân như thế nào, dầu ta có muốn vậy hay không. Hậu quả
được tạo do những nguyên nhân tương ứng, ta không thể kiểm
soát và điều khiển. Như vậy rõ ràng nó không phải là
"ta" hay tự ngã, không phải là bản thể bên trong ta. Ðức Thế Tôn dạy rằng ý thức không phải là tự ngã bởi
vì ta không thể sai bảo hay điều khiển nó như thế nào theo
ý muốn. Ðức Thế Tôn dạy như vậy nhằm giúp ta diệt trừ chấp
thủ sāmi attā, vốn chủ trương rằng có một tự ngã nằm
bên trong con người mà ta có thể kiểm soát và điều khiển
theo ý muốn. Một khi đã loại trừ sāmi attā thì nivāsī
attā, chấp thủ rằng có một tự ngã trường tồn thường
xuyên nằm bên trong con người, cũng đồng thời được tẩy
sạch. Khi đã nhận thức rõ ràng rằng thức chỉ khởi sanh
và hiện hữu do nhân duyên và nhanh chóng tan biến, ta chứng
nghiệm hiển nhiên rằng không có cái gì như một tự ngã bền
vững thường còn. Thí dụ như nhãn thức chẳng hạn, chỉ khởi
sanh khi có mắt và đối tượng của sự thấy, tức nhãn căn
và nhãn trần. Cùng thế ấy nhĩ thức chỉ khởi sanh khi có
nhĩ căn và nhĩ trần, tỷ thức chỉ khởi sanh khi có tỷ căn
và tỷ trần, thiệt thức chỉ khởi sanh khi có thiệt căn và
thiệt trần, thân thức chỉ khởi sanh do thân và đối tượng
được sờ đụng, và ý thức chỉ khởi sanh khi có tâm và đối
tượng tâm linh, tức ý và pháp. Khi hiểu biết rõ ràng những
nguyên nhân tạo điều kiện đưa đến hậu quả thích ứng
như thế nào, ý niệm chấp thủ một thực thể vĩnh tồn,
nivāsī attā, tự nhiên tiêu diệt. Vị hành giả có chánh niệm, luôn luôn ghi nhận tiến
trình sắc và danh ngay vào lúc nó khởi sanh, sẽ nhận chân
rõ ràng rằng thức luôn luôn khởi sanh và nhanh chóng tan biến,
tùy thuộc những điều kiện (tùy duyên). Như vậy hành giả
hiểu biết rõ ràng rằng không có một tự ngã hay thực thể
sống đem lại sự thấy. Vị ấy chứng nghiệm thật sự rằng
nhãn thức chỉ khởi sanh khi có đúng những điều kiện kết
hợp đầy đủ, tức khi hội đủ nhân duyên. Bằng cách ấy
hành giả loại trừ chấp thủ kāraka attā, tin tưởng rằng tất
cả những hành động, bằng thân, khẩu, ý, đều do một tự
ngã chủ động. Những vị không thể nhận thức bản chất thật sự của
thức đúng như thật sự thức là vậy ắt còn chấp thủ vững
chắc ba hình thức sāmi attā, nivāsī attā, và kāraka attā. Hình
như sự chấp thủ vào thức uẩn càng bền chặt vững chắc
hơn các uẩn kia. Ngày nay ta gọi đó là "linh hồn" hay thực thể sống.
Trong ngôn ngữ được dùng thường ngày, thức thường được
nhắc đến hơn là thọ, tưởng và hành, mặc dầu tất cả
ba uẩn nầy đều là những tâm sở đồng phát sanh với thức. Người ta xem như chính cái thức cảm giác, chính thức hồi
nhớ sự việc, và tạo nguyên nhân đưa đến hành động. Câu Chuyện Tỳ Khưu Sāti Vào thời Ðức Thế Tôn còn tại thế có vị tỳ khưu đệ
tử tên Sāti, hiểu biết sai lầm rằng thức là tự ngã, và
khư khư chấp thủ tà kiến về tự ngã ấy. Vị tỳ khưu
Sāti tuyên bố rằng mình hiểu biết và nắm vững lời dạy
của Ðức Thế Tôn như sau: Tadevidaṁ viññāṇaṁ
sandavatti saṁsārāti anaññaṁ.
"Chính cái thức nầy được chuyển sinh trong vòng luân
hồi từ kiếp nầy sang kiếp kia, không có gì khác." Vị tỳ khưu Sāti hiểu biết những lời dạy của Ðức Thế
Tôn như thế ấy. Thầy dựa quan kiến mình trên những câu
chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jātaka) như tích Vua Vessantara, tượng
chúa Chaddan, và long vương Bhūridatta, được nói rằng đó là
tiền thân của Ðức Phật, là chính Ðức Phật trong một tiền
kiếp. Trong kiếp sống cuối cùng là Ðức Phật, những phần
thuộc sắc uẩn của Vua Vessantara, của tượng chúa Chaddan hay
của long vương Bhūridatta đã tan rã và biến dạng, nhưng theo
sự tin tưởng của Tỳ Khưu Sāti thì danh, tức phần tâm linh
của Ðức Phật trong kiếp nầy vẫn còn y là một với phần
tâm linh của Vua Vessantara v.v... thức ấy không hoại diệt mà
tồn tại vững bền xuyên qua những kiếp sống. Tỳ khưu
Sāti hiểu những lời dạy của Ðức Phật như thế ấy. Ðó
chỉ là chấp thủ nivāsī attā, xem thức là một tự ngã
liên tục, trường tồn vĩnh cửu. Những vị đệ tử có học của Ðức Phật cố gắng giải
thích cho Tỳ Khưu Sāti rằng hiểu như thế là sai lầm nhưng
vị nầy vẫn ương ngạnh, quyết định không nghe, chỉ tin rằng
mình hiểu biết Dhamma, Giáo Pháp, nhiều hơn. Quả thật rất
khó chỉ dạy Chánh Pháp cho một người ôm ấp tà kiến. Họ
xem người có lòng tốt muốn giúp họ sửa sai quan kiến lầm
lạc, là thấp kém, lạc hậu, không theo kịp đà tiến hóa của
xã hội cấp tiến, không phải như các bậc lãnh đạo của họ,
có tầm hiểu biết mới mẻ. Trong thực tế, những ai tự xưng
là Phật tử nên thận trọng suy tư xem sự hiểu biết của mình
có thích ứng với những lời dạy mà Ðức Phật giáo truyền
hay không. Nếu còn ôm ấp những quan kiến không theo đúng một
chiều với Giáo Pháp ắt ta đã đi lệch ra ngoài Phật Giáo. Không thuyết phục được thầy tỳ khưu Sāti từ bỏ tà
kiến của thầy, vài vị sư đem câu chuyện bạch lại với
Ðức Bổn Sư và Ngài cho mời thầy đến. Khi được hỏi, thầy
lặp lại quan điểm của mình như sau: "Bạch Ngài, dựa
trên những câu chuyện Jātaka (Túc Sanh Truyện) mà Ðức Thế
Tôn thuật lại, con thấy rằng thức, hay tâm hiện tại, là một
với cái tâm trong những kiếp sống quá khứ. Tâm ấy không
tiêu diệt mà chuyển sinh từ kiếp nầy sang kiếp khác. Con hiểu
như vậy." Ðức Phật hỏi thầy hiểu thức là gì? "Bạch Ngài, thức là cái gì diễn đạt ý nghĩ của mình,
cái gì cảm thọ, cái gì kinh nghiệm hậu quả của những
hành động tốt hay xấu (ở nơi đây hay một nơi nào), trong
kiếp nầy hay trong một kiếp sống nào." -- Nầy con người cuồng si, con đã nghe Như Lai diễn giải
giáo lý cho ai như thế ấy?" Ðức Thế Tôn khiển trách,
Ṅhư Lai giải thích rằng thức chỉ khởi sanh do nhân và
duyên. Nếu không có nhân duyên tạo điều kiện ắt thức không
thể phát sanh. Thay vì thế, con diễn giải sai lầm và cho rằng
đó là lời dạy của Như Lai. Bằng cách diễn giải và truyền
bá sai lầm lời dạy của Như Lai như thế con tạo nguyên
nhân cho nhiều hành động xấu phát sanh và như thế sẽ gây
nhiều sầu muộn và đau khổ cho con lâu dài trong tương
lai." Tuy nhiên, Tỳ Khưu Sāti không chịu từ bỏ tà kiến của
mình. Giáo điều cuồng tín quả thật đáng sợ. Sāti là một
vị tỳ khưu, một đệ tử của Ðức Phật. Thầy theo học
giáo lý với Ðức Phật và tự xưng là hiểu biết đầy đủ.
Vậy mà còn ương nghạnh, không chịu từ bỏ quan kiến sai lầm
của mình mặc dầu đã được chính Ðức Phật nhắc nhở
khuyên dạy, sửa sai, và như thế mất cả niềm tin nơi Phật
Bảo. Ngày nay cũng có vài vị "đạo sư" dạy rằng
không cần phải giữ tròn năm giới và không cần hành thiền.
Hiểu biết giáo lý là đủ, các thầy dạy như vậy. Khi có
người học hiểu uyên thâm sẵn lòng tốt muốn soi sáng
chánh Pháp cho những "ông thầy dạy đạo" ấy thì họ
bướng bỉnh cứng đầu trả lời rằng họ sẽ không từ bỏ
quan kiến của riêng mình, dầu chính Ðức Phật có đến để
dạy họ cũng vậy. Nhiều trường hợp cho thấy rằng cái "không-phải
Giáo Pháp" được quảng bá lưu truyền như là "chính
Giáo Pháp". Ðiều chánh yếu mà ta nên làm là thận trọng
tỉ mỉ xem xét các lời dạy ấy để nhổ tận gốc rễ những
giáo lý không hợp với chánh Pháp. Về phương diện nầy có
lời tuyên ngôn chính xác như sau: Tóm Lược Chánh Pháp 1. Sabba pāpassa akāraṇaṁ --
Cố tránh mọi hành động bất thiện. Những hành động sai lầm
bằng thân như sát sanh, trộm cắp, và tà hạnh, ta phải nên
cố tránh. Những hành động bất thiện bằng lời nói như lời
giả dối, phỉ báng và lời lẽ có tánh cách lăng mạ, xúc
phạm người khác cũng phải nên cố tránh. Cũng nên cố
tránh và từ bỏ những tư tưởng bất thiện. Tư tưởng bất
thiện chỉ có thể được loại trừ bằng cách hành thiền Vắng
Lặng và thiền Minh Sát (vipassanā).
Cố tránh tất cả mọi hành động bất thiện bằng thân,
khẩu, ý là Giáo Huấn Ðầu Tiên của Ðức Phật. 2. Kusalassa upasampadā
-- Trau giồi và phát triển mọi hình thức tạo thiện nghiệp;
như để bát hay dâng cúng đến các bậc trưởng lão, giữ giới
và hành thiền. Bằng cách nghiêm trì Lời Dạy Ðầu Tiên ta
có thể làm cho giới đức được trở nên trong sạch đến một
mức độ nào, nhưng bằng cách thực hành tiết chế, không
làm điều nầy hay điều nọ thì chưa vững chắc củng cố
giới đức của Thánh Ðạo. Chỉ có thể thành tựu Con Ðường
bằng pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā) đến giai đoạn cận
định hay nhập Thiền. Vài người có ý xem thường pháp hành thiền Vắng Lặng.
Tuy nhiên, chính Ðức Thế Tôn khuyên bảo nên phát triển tâm
vắng lặng. Các tầng Thiền (Jhāna) là nền tảng lý tưởng
để hành giả dựa trên đó mà phát triển thiền Minh Sát
(vipassanā). Nếu không được đến mức cận định ta nên cố
gắng gia công tiến cho được đến mức tạm định của thiền
Minh Sát. Một khi đã thành đạt mức độ nầy tuệ Minh Sát
(vipassanā ñāṇa) sẽ tự động phát triển cho đến khi thành
tựu Thánh Ðạo. Trong Phật Giáo, nhiệm vụ chánh yếu nhất là thành đạt
những phước lành của tâm định Minh Sát và Tuệ Minh Sát, bởi
vì nếu không có hai yếu tố quan trọng ấy thì không thể
thành tựu Thánh Ðạo và Thánh Quả. Vậy, nhằm thành tựu phước
báu của Thánh Ðạo và Thánh Quả, phải trau giồi và phát
triển nghiệp lành của thiền Minh Sát. Ta không thể không
quan tâm đến bất luận hình thức phước báu nào, đó là Lời
Dạy thứ nhì của Ðức Phật, cần thiết để cho ba loại hành
động thiện được tròn đủ. Chúng ta có nghe "những lời dạy mới mẻ", vốn
đi ngược chiều với hai lời dạy thứ nhất và thứ nhì của
Ðức Phật. Người theo những lời dạy tương tợ như vậy nói,
Ṅhững ô nhiễm bất thiện (akusala kilesa) không tồn tại vĩnh
tồn, do vậy, không cần gì phải cố gắng loại trừ nó.
Cùng thế ấy không cần phải cố gắng làm những điều lành,
giữ giới, hành thiền Vắng Lặng hoặc thiền Minh Sát. Tất
cả những cố gắng ấy đều vô ích và chỉ tạo đau khổ."
Ta phải hiểu rằng tất cả những lời dạy mới mẻ ấy hoàn
toàn tương phản với chánh pháp mà Ðức Phật giáo truyền. 3. Sacitta pariyodapanaṁ -- Giữ tâm trong sạch.
Con Ðường phải được phát triển bằng cách thực hành
thiền Minh Sát (vipassanā). Với Ðạo được phát triển và Quả
được thành tựu theo cách đó tâm không còn mảy may ô nhiễm
và do đó, tuyệt đối trong sạch. Theo Chú Giải, mức độ
trong sạch được thành tựu như vậy sẽ không kém phần
trong sạch hơn tâm của một vị A La Hán. Những lời nầy
hoàn toàn đúng theo kinh điển Pāli. Tuy thế cũng có người làm
tổn hại Phật Giáo bằng cách nói nghịch lại, rằng lối sống
nghiêm trì giới luật, phát triển thiền định và thiền Minh
Sát, là vô ích, chỉ đưa đến đau khổ. Cứ "Giữ tâm
an nghỉ, không để cho tâm có bất luận sinh hoạt nào. An trụ
tâm trong một điểm hư vô bên trong con người, nơi mà không
có sinh hoạt bất thiện nào phát triển. Bằng cách đó tâm sẽ
ở trong trạng thái trong sạch." Ðó là một lời dạy
hoàn toàn không chứa đựng lý trí, vô căn cứ và không đứng
vững. Khuyên dạy không nên hành sīla, samādhi, và bhāvanā (giới,
định, và trau giồi trí tuệ) là phá hoại Giáo Pháp. Không
thể giữ tâm trong sạch mà không thực hành thiền định và
thiền tuệ. Thức, do bản chất thiên nhiên của nó là không
có thực thể, không thể kiểm soát và không thể điều khiển.
Quả quyết rằng có thể giữ cái tâm theo ý ta muốn mà
không cần đến sự trợ giúp của pháp hành thiền là phủ
nhận kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, vì kinh nầy dạy
rằng không thể bảo thức, "Thức phải như thế nầy, thức
phải không như thế kia." Ðiều nầy đáng cho ta thận trọng
suy tư. Câu cuối cùng của lời dạy được tuyên
ngôn chính xác là: "Etaṁ Buddhāna sāsanaṁ."
"Ba lời dạy nầy -- tức tránh làm những điều ác, thực
hành mọi điều thiện, giữ tâm trong sạch -- là Lời Dạy của
tất cả chư Phật." Phật Giáo chánh yếu chỉ bao gồm ba
yếu tố ấy. Muốn giữ Phật Giáo tồn tại lâu dài, thịnh
vượng, ta phải cố tránh những hành động bất thiện, càng
nhiều càng tốt và chỉ dạy người khác không nên làm điều
ác, càng nhiều càng tốt. Ta phải cố gắng tạo thiện nghiệp,
càng nhiều càng tốt và khuyên dạy người khác làm như vậy.
Nếu gặp ai dạy điều không-đúng-chánh Pháp như: "Không
nên tránh làm điều ác, không nên làm điều lành", ta phải
tận tâm ngăn cản họ không nên dạy người những điều sai
lầm như vậy. Ta phải thanh lọc tâm bằng cách hành thiền
và khích lệ người khác cũng làm như vậy. Phải soi sáng sự
hiểu biết sai lầm của họ nhằm mục đích duy trì bền vững
và phồn thịnh giáo lý của Ðức Phật. Chúng ta đã phần nào đi lệch ra ngoài câu chuyện của Tỳ
Khưu Sāti để nhắc đến mối hiểm họa mà những lời dạy
sai lầm có thể gây ra cho Phật Giáo. Ðể trở lại câu chuyện,
khi Tỳ Khưu Sāti ương ngạnh khư khư chấp thủ tà kiến của
mình, Ðức Thế Tôn hỏi chư Tăng hiện diện: "Các con có bao giờ nghe Như Lai giải thích Giáo Pháp như
thế không? "Bạch Hóa Ðức Thế Tôn không. Các con chỉ nghe rằng
thức phát sanh do những điều kiện (nhân và duyên), và nếu
không có nhân duyên ắt không có thức." Rồi Ðức Thế Tôn giải thích thêm: -- "Mỗi thức phát sanh do những điều kiện của nó
và được đặt tên theo những điều kiện ấy. Như thức phát
sanh do mắt và đối tượng của mắt thì được gọi là
nhãn thức; thức phát sanh do tai và âm thanh thì gọi nhĩ thức;
thức phát sanh do mũi và mùi thì gọi là tỷ thức; do lưỡi
và vị thì gọi là thiệt thức; do thân và đối tượng được
sờ đụng thì được gọi là thân thức; do tâm và đối tượng
của tâm (pháp) thì được gọi là ý thức. Cũng như lửa,
khi phát sanh do ta đốt củi thì được gọi là lửa củi;
phát sanh do ta đốt gỗ tre, cỏ, phân bò, trấu, hay rác rưới
thì được gọi là lửa tre, lửa cỏ, lửa phân bò, lửa trấu,
hay lửa rác, cùng thế ấy thức được gọi tùy theo điều
kiện mà nó phát sanh như thế nào." Trong bài kinh liên quan đến quan kiến của Tỳ Khưu Sāti Ðức
Thế Tôn có đề cập đến Ðịnh Luật Phát Sanh Do Ðiều Kiện
hay Thập Nhị Nhân Duyên một cách rành mạch rõ ràng, nhưng vì
không có thì giờ Sư chỉ giải thích đầy đủ hơn chuyện
ngụ ngôn về lửa. Cuộc hỏa hoạn của một khu rừng có thể khởi phát từ
một vài lá cây khô hoặc một đống rác. Nếu có nhiên liệu
tiếp nối nhau cháy và không ai dập tắt, lửa sẽ lan tràn
cháy rụi cả mẫu rừng. Nhìn đám rừng đang cháy ta thấy
hình như chỉ có một ngọn lửa liên tục lan tràn, nhưng nếu
thận trọng quan sát ta sẽ thấy rằng ngọn lửa cháy ở đống
rác không phải là ngọn lửa đốt cỏ, và cùng thế ấy lửa
đốt cỏ không phải cùng ngọn lửa đốt lá khô. Trong một
đống lá khô cũng vậy, ngọn lửa đốt lá nầy không phải
là một với ngọn lửa đốt lá kia. Cũng cùng một thế ấy, nhãn thức và nhĩ thức mà thông
thường ta có cảm tưởng là cùng một cái thức, nếu được
thận trọng quan sát thì rõ ràng là hai thức khác biệt, mỗi
thức khởi sanh do những điều kiện của nó. Khi chỉ quan
sát một loại thức riêng biệt như nhãn thức chẳng hạn, ta
sẽ thấy những thức khác nhau khởi sanh từ những màu khác
nhau, như trắng và đen. Thâu gọn thêm vào một màu, như màu
trắng chẳng hạn, người hành thiền chuyên cần cẩn mật đã
tiến đến tầng udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, và bhaṅga
ñāṇa, tuệ diệt, sẽ thấy rằng trong cái bề ngoài hình như
chỉ là một cái thức duy nhất màu trắng liên tục trôi chảy,
thật sự là chuỗi dài những chặp thức màu trắng riêng biệt,
chặp nầy đến trước, phân biệt với chặp sau. Sự phân biệt càng rõ ràng nổi bật hơn trong trường hợp
nghe, hửi và nếm, mỗi chặp thức được ghi nhận riêng rẽ
và phân biệt. Trong hiện tượng sờ đụng, giữa những chặp
thức riêng rẽ và phân biệt, sự ghi nhận mỗi chặp càng
nhiều hơn và nổi bật rõ ràng hơn. Khi cảm nghe đau, nếu thận trọng ghi nhận, "đau,
đau" ta sẽ phân biệt rõ ràng mỗi chặp thức đau, từng
chặp, từng chặp, lúc nó khởi sanh. Cùng thế ấy, ý nghĩ và
tư tưởng cũng được ghi nhận riêng rẽ khi mỗi ý thức khởi
sanh. Trong khi đang niệm phồng xọp ở bụng, nếu có tư tưởng
hay ý nghĩ nào xen vô, người hành thiền phải ghi nhận ngay
lúc nó khởi sanh. Thông thường, khi niệm như vậy thì tư tưởng
hay ý nghĩ vừa xen vào làm phiền ấy chấm dứt liền khi khởi
sanh, nhưng nếu nó còn dai dẳng sanh khởi trở lại do những
nguyên nhân như trước, người hành thiền phải quán sát và
ghi nhận riêng rẽ từng chặp. Khi chú niệm di chuyển từng
chặp nầy đến chặp khác sự khởi sanh của mỗi chặp thức
riêng rẽ sẽ được thấy rất là rõ ràng. Qua mỗi ghi nhận riêng rẽ, khi hành giả có thể nhận ra sự
khởi sanh của mỗi thức riêng biệt thì tự cá nhân chứng
nghiệm bản chất vô thường của thức, bản chất căng thẳng
làm khó chịu, đau khổ, vì liên tục khởi sanh và tan biến,
nhanh chóng sanh diệt, và bản chất vô ngã, không có một thực
thể đơn thuần, vì phải tùy thuộc nơi những nhân duyên mà
ta không thể kiểm soát và điều khiển. Nhận chân được
như vậy là điều tối quan trọng. Sư đã giải thích đầy đủ như thế nào năm uẩn không
phải là tự ngã. Giờ đây Sư trình bày một vài hình ảnh
thí dụ để làm sáng tỏ thêm vấn đề. Những thí dụ nầy
được trích từ Kinh Pheṇapiṇḍupama Sutta, phẩm Khandhavagga,
trong bộ Saṁyutta Nikāya, Tạp A Hàm: Pheṇapiṇḍupamaṁ rūpaṁ vedanā pubbuḷūpamā Sắc Pháp Giống Như Khối Bọt. Sắc, rūpa, giống như bọt nước mà ta thấy nổi trôi theo
giòng suối hay trên sông rạch là một khối bọt do những
bong bóng nước nhỏ tí ti hội tụ lại thành khối, cỡ một
nắm tay, một đầu người, một thân người hay lớn hơn nữa.
Mới nhìn thoáng qua ta thấy khối bọt hình như là một thực
thể, nhưng nếu thận trọng quan sát thì nó rõ ràng không có
thực chất, không thể dùng vào việc gì. Cũng cùng thế ấy, sắc pháp của con người, tức cơ thể
vật chất với đầy đủ đầu, mình, tay, chân, dưới hình
thức đàn ông hay đàn bà trông hình như là một khối bền bỉ
vững chắc, như thường còn, xinh đẹp, và giống hình như một
thực thể sống. Nhưng khi tỉ mỉ phân tách thì thân nầy cũng
chỉ giống như một khối bọt -- không có thể chất vững bền
mà chỉ là sự cấu hợp của ba mươi hai thành phần ô trược
như tóc, lông, móng tay, móng chân, răng, da, thịt, bắp thịt,
và xương. Nếu phân tách thêm nữa với nhiều chi tiết hơn
thì đó chỉ là sự cấu hợp của những điện tử vô cùng
vi tế đến đổi mắt thường không thể thấy. Giống như đóng
cát to lớn được cấu thành do những hột cát tí ti. Hoặc nữa
chúng ta có thể lấy thí dụ một chén bột do từng hột bột
gạo hay bột mì vi tế hợp thành. Nếu ngâm vào nước nó sẽ
trở thành bột nhồi, một khối bột mà ta có thể làm cho lớn
hơn nhiều bằng cách thêm bột và thêm nước. Ta có thể nắn
khối bột làm ra thành hình một người to lớn, nhưng đó
không phải là một khối đặc chắc, mà là sự hợp thành của
những hột bột gạo hay bột mì. Cũng dường thế ấy, cơ thể
của con người không phải là một khối đặc mà được cấu
thành do những thành phần vi tế keo dính đặc lại thành một
đống lớn -- giống hệt như một khối bọt, bên trong không
có thể chất. Không có một cốt lỏi vững chắc thường còn, không có
thể chất xinh đẹp, không có thực thể sống được gọi là
"tự ngã". Phẩm chất sắc pháp là một phần của cơ
thể vật chất nầy. Loại những phần ấy ra thì thân nầy
không còn hình thể. Ðặc tánh duỗi ra chiếm không gian của
nguyên tố đất (paṭhavī) là phần của thân biểu hiện dưới
sự xúc giác như gồ ghề hay láng lẩy, cứng hay mềm. Nguyên
tố lửa (tejo) có đặc tính nóng hay lạnh và nguyên tố gió
(vāyo) có đặc tánh di động là những phần khác của thân.
Loại ba nguyên tố ấy ra ắt cơ thể con người mà ta có thể
sờ đụng và cảm thọ sẽ không còn hiện hữu nữa. Mùi, một
chuyển hóa của sắc pháp, cũng là một phần của thân. Do đó
ta có thể cảm thọ thân người bằng mùi; nếu cũng loại bỏ
phẩm chất mùi thì không còn gì mà thân người có thể được
nhận ra hoặc hay biết. Ta thấy là vì có phần nhạy của mắt, nếu không có phần
nhạy ấy thì ta không thể thấy, mù. Cũng nhờ có phần nhạy
của tai ta mới có thể nghe; có phần nhạy của mũi nên mới
có thể hửi, tức nhận ra mùi; có phần nhạy của lưỡi mới
có thể nếm vị, và có hệ thống thần kinh mới có thể tiếp
nhận cảm giác sờ đụng. Tất cả những phần ấy của sắc
uẩn tuy rất vi tế nhưng cũng rất hữu ích để tạo hình thể
của thân người, và tất cả đều có ứng dụng của nó. Nếu
không có những phần của sắc uẩn ấy thân nầy sẽ không
có giá trị hữu dụng. Trong thực tế nếu không có những
thành phần ấy thân người sẽ không hiện hữu. Như đã nói
ở trên, nếu những thành phần ấy tan rã hay biến dạng, cơ
thể con người sẽ không còn hiện hữu. Tất cả những gì
còn lại chỉ là những phần rất vi tế của sắc pháp. Hơn nữa, những phần nhạy của sắc pháp ấy, như mắt và
vật được thấy, không hiện hữu thường xuyên, mà luôn
luôn sanh và diệt, luôn luôn có cái mới thay thế vào cái cũ.
Như thế ấy thân nầy giống như là một cục, một miếng,
hay một khối bọt, một sự hợp thành của những sắc pháp
không thể chất. Khi quán sát và phân tách thân, ta phải bắt đầu nơi mà
hiện tượng biểu hiện rõ ràng nhất. Khi đi, nguyên tố đất,
có đặc tánh duỗi ra và nguyên tố gió, có đặc tánh di động,
là nổi bật nhất. Do đó, theo Kinh Niệm Xứ, Satipaṭṭhāna
Sutta: "gacchanto vā gacchāmīti pajānāti". "Khi đi, hành
giả hiểu biết 'tôi đang đi'," và phải ghi nhận "đi,
đi", "dở lên", "bước tới", "đặt
xuống". Khi đứng hành giả phải niệm "đứng, đứng";
khi ngồi, niệm "ngồi, ngồi", "đụng, đụng",
"dở lên", "ngồi xuống" v.v... Khi thấy tay
chân hành giả phải niệm "thấy, thấy". Khi nghe mùi
của thân mình, niệm "hửi mùi, hửi mùi", khi cử động
tay chân hay duỗi tay, duỗi chân ra, niệm "duỗi ra, duỗi
ra", "cử động", "cựa mình". Khi thận trọng giữ chánh niệm, ghi nhận tỉ mỉ từng chi
tiết như thế, tâm định trở nên càng dũng mãnh và hành giả
nhận thức rằng trong một tác động đi gồm có tác ý, ý muốn
đi, theo sau là di động và thân duỗi ra. Tác động đứng lên
hay tác dộng ngồi xuống bao gồm ý muốn đứng hay ý muốn
ngồi, theo sau là chuỗi dài những di động. Cùng thế ấy,
khi co tay hay co chân vào, duỗi ra, hay thay đổi tư thế. Trong sự thấy có nhãn thức và vật được thấy, trong sự
hửi, có tỷ thức và mùi. Mỗi hiện tượng được nhận ra
đều khởi sanh trong một chặp rồi tức khắc hoại diệt.
Tay, chân, đầu và hình thể của thân không còn được cảm
thọ và nhận ra giống hệt như trong giây phút trước. Nó chỉ
xuất hiện rồi tan biến trong một tiến trình vật thể luôn
luôn trôi chảy, không ngừng sanh và diệt. Ðến giai đoạn nầy
hành giả tự mình hiểu biết rằng cơ thể vật chất nầy
cũng giống như một khối bọt. Thọ Giống Như Bong Bóng Nước Thọ giống như bong bóng nước. Khi mưa rơi xuống ao hồ ta
thấy trên mặt nước nổi lên những bong bóng nhỏ. Trẻ con
chơi đùa cũng dùng một cái ống, thổi nhẹ nước xà bông tạo
nên những bong bóng nhỏ, hợp lại thành một khối bọt. Những bong bóng ấy được thành hình khi mưa rơi xuống mặt
nước, rồi nhanh chóng tan biến. Thọ, hay cảm giác, cũng dường
thế ấy, tựa hồ như bong bóng nước, vì bản chất của nó
là không ngừng sanh diệt. Ðó là đúng với những gì mà người
hành thiền kinh nghiệm, nhưng không giống như những gì mà người
đời thường hiểu. Theo quan kiến của người thường, khi nhìn
lâu một vật đẹp thì vật đẹp ấy tồn tại lâu dài. Khi
nhìn một quang cảnh không vừa ý trong một lúc cũng nghĩ rằng
cảnh ấy mãi mãi hiện hữu. Những vật có tính cách vô ký,
tức không-vừa-ý-cũng-không-phật-lòng cũng được thấy là
tồn tại bền lâu. Cùng thế ấy, bất luận gì mình nghe mà
vừa ý hay không vừa ý cũng được tin rằng nó sẽ bền vững
lâu dài. Riêng những thọ cảm đau đớn khó chịu thì càng
được nghĩ rằng nó sẽ tồn tại ngày nầy qua ngày khác,
nhiều tháng, nhiều năm. Như vậy quan kiến về thọ cảm của
người thường không hẳn đúng với những gì thật sự xảy
diễn. Thọ giống như bong bóng, vừa thấy đó bỗng liền tan
biến đó. Muốn tự mình chứng nghiệm chân lý nầy phải
chuyên cần quán niệm tiến trình tâm-vật lý phát sanh bên
trong thân. Trong khi xuyên thấu quan sát tiến trình tâm-vật lý, tri
giác của hành giả tiến đến những tầng tuệ sanh diệt và
tuệ diệt, udayabbaya và bhaṅga ñāṇa, thấy, nghe hay hửi bất
luận gì ưa thích hay không vừa lòng, đều thấy nó tức khắc
biến tan. Sự hoại diệt của những thọ khổ được cảm nhận
càng rõ ràng hơn. Khi niệm một thọ khổ "khổ, khổ",
hành giả thấy nó chấm dứt với mỗi niệm. Tới tầng
sammasana ñāṇa, tuệ giác nhận thấy đặc tướng vô thường,
khổ, vô ngã của vạn pháp, trạng thái đau khổ càng tăng
trưởng nổi bật và được thường xuyên ghi nhận hơn. Và mỗi
khi ghi nhận như vậy thì cơn đau ở nơi được ghi nhận tan
biến, hiện lại ở một nơi, rồi ở một nơi khác, giống
như ta lấy tay chụp lấy quẳng đi. Như vậy, đối với người hành thiền mà tâm định đã dũng
mãnh, khi một hình ảnh vừa lòng phát khởi người ấy liền
ghi nhận, và hình ảnh tức khắc tan biến. Tuy nhiên vì mắt
và đối tượng của mắt vẫn còn đó, hành giả lại thấy
nữa. Mỗi lần thấy hành giả ghi nhận, và sự thấy ấy
nhanh chóng tan biến. Cũng một tiến trình tương tợ xảy diễn
với những đối tượng không vừa lòng và những đối tượng
vô ký. Trạng thái tan biến của những âm thanh vừa lòng, nghịch
ý và vô ký mỗi khi được ghi nhận càng rõ rệt hơn. Cảm
giác mùi hửi cũng tan biến khi được ghi nhận. Cảm giác vị
nếm càng đặc biệt nổi bật đối với hành giả: vị ngon
ngọt mà hành giả nếm khi nhai vật thực liên tục khởi sanh
và tan biến mỗi khi ghi nhận. Những cảm giác thích thú, những
cảm giác khó chịu, và những cảm giác không thích thú không
khó chịu cũng vậy, sanh khởi và hoại diệt mỗi khi được
ghi nhận. Cùng thế ấy, những thọ cảm buồn phiền vô
phúc, sầu muộn, buồn bả, hay hạnh phúc và vui vẻ thích
thú cũng được thấy sẽ nhanh chóng tan biến mỗi khi hành giả
xuyên thấu ghi nhận. Như vậy thọ uẩn không khác nào bọt nước,
phù du tạm bợ và không đáng được tin cậy -- vô thường,
khổ và vô ngã. Tưởng Giống Như Ảo Cảnh Tưởng -- tri giác, nhớ lại và nhận ra một đối tượng
xem như thật -- giống một ảo cảnh. Ảo cảnh là một sự
trông thấy ảo huyền không đúng sự thật do những điều kiện
không khí tạo nên. Thông thường ảo cảnh được thấy trong
không khí nóng bức từ đất bốc lên, vào những ngày tháng
giữa mùa Hè như hình ảnh những lớp nước hay nhà cửa. Ảo
cảnh là những hình ảnh không thực có. Vào mùa Hè thú rừng
như nai hưu thường chạy đôn chạy đáo tìm nước uống, thấy
xa xa hình như những ao nước, liền vội vã chạy đến để
thấy ra chỉ là vùng đất khô cằn: những con nai, con hưu ấy
lầm lạc tin ảo cảnh là thật và vì thế gặp nhiều vấn
đề khốn khổ. Cũng như ảo cảnh tạo hình ảnh ảo huyền làm cho thấy
những lớp nước hay nhà cửa trong khi không có gì như vậy,
cùng thế ấy, tưởng, saññā, làm cho ta lầm tưởng bất luận
gì được thấy, nghe hay sờ đụng là con người, đàn ông
hay đàn bà. Với những loại tưởng ảo huyền về những gì
được thấy, được nghe, được sờ đụng hay được biết,
con người dấn thân vào nhiều hành động liên quan đến nó,
giống như hưu nai rừng rú hoang dại chạy theo những ảo cảnh
xa thẳm, ngỡ rằng đó là khối nước. Nhằm nhận chân rằng tưởng chỉ là ảo huyền và để cứu
giúp mình khỏi phải khốn khổ chạy theo những gì huyền ảo,
không thật có, ta phải chuyên cần thận trọng ghi nhận tất
cả những hiện tượng vật lý và tâm linh, ngay vào lúc nó
khởi phát. Khi tâm an định tăng trưởng dũng mãnh ta sẽ thấy
rằng trong mỗi hiện tượng chỉ có đối tượng vật chất
được biết và cái tâm hay biết nó; về sau ta sẽ biết rằng
mỗi hiện tượng là một diễn biến liên hệ giữa nhân và
quả. Sau cùng tự cá nhân ta chứng nghiệm rằng cái tâm hay
biết cũng như đối tượng được hay biết liên tục hoại
diệt trong khi ta ghi nhận nó. Như vậy cái mà trước kia tưởng, saññā, tin rằng là một
cá nhân, một chúng sanh, một người đàn ông hay đàn bà, một
tự ngã bền bỉ lâu dài và thường còn, thì nay được thấy
là một sự phỉnh lừa gian trá, một hình ảnh ảo huyền, giống
như ảo cảnh. Người hành thiền chứng nghiệm rằng trong thực
tế đó chỉ là một tiến trình sanh và diệt, vô thường, khổ
và vô ngã. Hành (saṅkhāra) giống như
loại cây không lỏi Hành giống như một loại cây không lỏi, như cây chuối chẳng
hạn. Cây chuối nhìn cũng giống như một loại cây thường,
mình đặc vững chắc, nhưng khi hạ xuống và quan sát ta sẽ
thấy rằng thân cây chỉ là những lớp bẹ, bẹ nầy bộc
trên bẹ kia, lớp nầy đến lớp khác, không có gì thực chất,
không có lỏi cứng. Hành uẩn cũng dường như cây chuối,
không có thể chất bên trong. Hành bao gồm năm mươi loại tâm
sở, do cetanā, tác ý, dẫn đầu. Những tâm sở quan trọng
khác trong nhóm là xúc (phassa), sự chú ý (manasikāra), nhất
điểm tâm (ekagattā), tầm (vitakka), sát (vicāra), tinh tấn
(viriya), tham (lobha), sân (dosa), si (moha), ngã mạn (māna), tà kiến
(diṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), không-tham, không-sân,
không-si, đức tin (saddhā), niệm (sati), tâm từ (mettā), tâm
bi (karuṇā), và tâm hỷ (muditā): tất cả đều là những
tâm sở hợp thành hành (saṅkhāra). Cetanā, tác ý, chịu
trách nhiệm cho tất cả những sinh hoạt có tác ý (bằng
thân, khẩu, ý), là yếu tố lãnh đạo. Hành có nhiều, và
vì liên quan với tất cả những sinh hoạt, hành đóng vai trò
quan trọng nổi bật. Như vậy hành phần lớn chịu trách nhiệm
về sự chấp thủ tự ngã attā, quan niệm rằng tự ngã là
nguyên lý chủ động, chính cái "ta" khiến hành động. Ta thấy hình như hành có một cái lỏi cứng chắc chắn
hay có thể chất ổn định vững bền bên trong, nhưng trong thực
tế rõ ràng bên trong không có thể chất. Người hành thiền
có thể chứng nghiệm sự thật nầy bằng cách thường xuyên
giữ chánh niệm, không ngừng ghi nhận những hiện tượng vật
lý và tâm linh. Thí dụ như trong khi đi, niệm "đi,
đi", và "dở", "bước", "đạp".
Khi đã gom tâm an trụ vững chắc, tâm định đã tăng trưởng
dũng mãnh, hành giả niệm thêm ý muốn đi, hay ý muốn bước
tới và nhận thấy rằng chính cái "ý muốn" ấy cũng
sanh rồi diệt. Mặc dầu ta thường mô tả "ý muốn"
là "phát tâm muốn đi", nhưng trong thực tế đó là
hành uẩn do cetanā, tác ý hướng đạo đưa đến hành động
đi. Do tâm sở cetanā thúc đẩy, tác động đi bao gồm dở,
bước và đạp được thực hiên. Trước khi được có sự hiểu biết đúng như vậy, thường
ta ý niệm rằng có cái "ta" muốn đi -- "Tôi đi bởi
vì tôi muốn đi" -- Ðó là chấp thủ tự ngã. Giờ đây ta thấy rằng ý muốn đi rõ ràng biến chuyển
vô thường, trí tuệ sanh khởi, hiểu biết rằng không có
cái "ta", không có tự ngã, mà chỉ có những hiện tượng.
Ý muốn co tay vào, duỗi tay ra, di chuyển hay xoay mình, thay đổi
tư thế, cũng được nhận thức dưới ánh sáng thực tế.
Thêm nữa sự cố gắng nhằm thực hiện những ý muốn ấy cũng
là hành. Hành giả chứng nghiệm rằng trong đó không có gì
như một tự ngã, mà chỉ là những hiện tượng luôn luôn diễn
tiến, không ngừng chảy trôi. Về sau, hành giả nhận thấy rằng khi suy tư, những tâm sở
tầm (vitakka), sát hay tứ (vicāra), và tinh tấn (viriya) được
ghi nhận khởi sanh và tức khắc tan biến. Như vậy nó cũng
không có thực chất. Khi tâm tham và tâm sân khởi phát ta cũng
niệm liền "muốn", "ưa thích", "tức giận",
"sân hận". Khi niệm như vậy thì nó nhanh chóng tan biến.
Ðiều nầy chứng tỏ rằng những loại tâm ấy cũng không phải
là chính ta, không phải tự ngã, không có thể chất hay thực
thể tồn tại vững bền. Khi đức tin, tâm từ, tâm bi, khởi
sanh hành giả cũng niệm đúng như vậy. Chúng liền nhanh
chóng tan biến và như vậy chúng cũng không có thể chất,
không có thực thể vững bền, không phải là tự ngã. Trí tuệ
phân tách nầy giúp hành giả chứng nghiệm thực tại rằng
hành giống như một loại cây không có lỏi cứng chắc, như
cây chuối chẳng hạn, khi được đốn ngã và quan sát thì chỉ
là những lớp bẹ, bẹ nầy đến bẹ khác, mà không có gì cứng
cát vững bền như một cái lỏi. Thức Giống Như Trò Ảo Thuật Thức, hay biết sự vật, cũng giống như trình diễn một
trò ảo thuật. Khi nhìn thấy một đối tượng, người thường
hiểu rằng mình thấy một người đàn ông, hay đàn bà và cũng
hiểu rằng "Tôi thấy; chính tôi thấy." Khi nghe cũng
vậy, hiểu biết rằng, "Tôi nghe tiếng nói của người
đàn ông, tôi nghe tiếng nói của người đàn bà." Khi hửi
một mùi, biết, "Ðây là mùi của người nầy hay người
nọ", "tôi nghe mùi". Khi ăn, biết, "Món ăn nầy
do người nầy hay người kia nấu, chính tôi ăn". Khi sờ
đụng, hành giả biết, "Tôi sờ đụng vật nầy hay vật
nọ, chính tôi sờ đụng". Khi suy nghĩ, hành giả biết,
"Tôi suy nghĩ, chính tôi suy nghĩ". Hiểu biết sự vật như vậy không phải là hiểu biết thực
tướng của sự vật, không phải hiểu biết sự vật đúng
như sự vật thật sự là vậy. Xét theo chân lý cùng tột, tức
chân đế, thì đó là hiểu biết sai lầm. Hiểu như vậy là
không đúng theo thực tướng của năm thức (viññāṇas), tức
nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức. Năm
thức, viññāṇas, nầy chỉ nhận ra sự thật cùng tột
(chân đế), tức chỉ hay biết là có hình thể, âm thanh,
mùi, vị, và cảm giác sờ đụng mà không có quan niệm sai lầm
là một người, đàn ông hay đàn bà. Nhưng sau đó, quan niệm
sai lầm là một người đàn ông hay đàn bà khởi phát vào
giai đoạn chấm dứt của tiến trình nhận ra (citta vithī, lộ
trình tâm), khi có sự suy tư, với sự khởi sanh của ý thức
(māno viññāṇa). Sư sẽ giải thích tiến trình hay biết, tức thức, trong sự
thấy và sự suy tư. Nếu mắt bắt một hình thể, luồng
trôi chảy của chặp tâm bhavaṅga (hộ kiếp) chấm dứt. Tức
khắc theo sau đó liền khởi sanh chặp pañcadvārāvajjana (ngũ
môn hướng tâm, tức một trong năm giác quan hướng về đối
tượng, trong trường hợp nầy là cakkhudvārāvajjana, nhãn môn
hướng tâm). Tâm hướng về cảm giác thấy, tức khắc sau đó
khởi sanh sự thấy (cakkhuviññāṇa), chỉ có sự thấy suông
mà không nhận ra là gì. Vào lúc nầy chưa có sự hiểu biết
theo ngôn ngữ thông thường là một người đàn ông hay đàn
bà. Khi chặp tâm nầy chấm dứt liền khởi sanh chặp tiếp
thọ tâm (sampaṭicchana), tiếp nhận đối tượng được thấy.
Sau khi chặp tâm tiếp thọ nầy chấm dứt liền khởi sanh chặp
suy đạc tâm (santīraṇa), xem xét đối tượng được tiếp
nhận. Sau đó là giai đoạn quyết định xem đối tượng có
thích thú vừa lòng hay không với chặp tâm được gọi là voṭtṭhāpana,
xác định tâm. Khi chặp tâm nầy chấm dứt liền khởi sanh một
loạt những chặp tâm có tính cách tích cực gọi là javana,
xung lực, nhanh chóng trôi qua trong một luồng bảy chặp. Với
sự chấm dứt của chặp javana cuối cùng chặp đăng ký tâm,
tadālambana, liền khởi sanh trong hai chặp. Sau chặp đăng ký
tâm nầy tiến trình thức (hay biết) hoàn tất tròn đủ và tức
khắc theo sau đó là những chặp bhavaṅga, trạng thái tiêu cực
của tâm, như trong giấc ngủ mê không mộng mị. [Lời người
dịch: Muốn có thêm chi tiết xin đọc A Manual of Abbhidhamma, tác
giả Cố Ð.Ð. Nārada. Bản dịch là Vi Diệu Pháp Toát Yếu,
chương III.]
Tóm lược, khi chặp tâm hộ kiếp, bhavaṅga, có tính cách
tiêu cực, chấm dứt, liền khởi sanh chặp āvajjana, có nghĩa
là hướng về. Ðây là một trong năm giác quan hướng về đối
tượng -- trong trường hợp nầy là mắt; kế tiếp theo sau
là nhãn thức và chặp tâm tiếp thọ (sampaṭichana); rồi đến
tâm suy đạc (santīrana); tiếp theo sau nữa là tâm xác định
(voṭṭhāpana). Theo sau tâm xác định là một luồng bảy chặp
tâm javana, xung lực, liên tục và nhanh chóng trôi qua; rồi đến
tâm đăng ký (tadālambana), liên tục phát sanh trong hai chặp
và chấm dứt tiến trình. Như vậy, mỗi khi có một trần cảnh
được thấy, từ lúc vừa xuất hiện ở nhãn quan đến lúc
chấm dứt ở tâm đăng ký, trong một tiến trình tâm thông thường
có tất cả mười bốn chặp tư tưởng. Nếu ấn tượng của vật được thấy không đủ mạnh, tiến
trình tâm sẽ chấm dứt ở giai đoạn javana, xung lực. Khi tâm
quá suy yếu, như lúc lâm chung chẳng hạn, luồng javana chỉ
phát sanh trong năm hoặc sáu chặp. Khi ấn tượng quá mù mờ,
không rõ ràng, tiến trình tâm sẽ trôi chảy đến chặp voṭṭhāpana,
xác định, và sau đó hai ba chặp nữa thì tiến trình hay biết
(thức) chấm dứt. Khi tuệ minh sát (vipassanā) thật mạnh, tiến
trình không đến được tới giai đoạn javana mà ngừng ngang
sau hai ba chặp xác định (voṭṭhāpana) rồi chìm vào luồng
bhavaṅga trở lại. Ðiều nầy hợp theo những lời dạy mà một
thầy sa di trẻ tuổi đã giảng cho vị tỳ khưu Poṭhila [*].
Theo lời dạy nầy, đối với sự hay biết ở năm cửa giác
quan (tức nhãn thức, nhĩ thức v.v...) người hành thiền chỉ
để tiến trình tâm chạy đến giai đoạn javana và chấm dứt
ở đó. [* Trích từ một câu chuyện của Bản Chú Giải Kinh
Dhammapada, Pháp Cú. Chuyện thuật rằng có một vị pháp sư
cao hạ với sức học uyên thâm đến học thiền với một thầy
sa di trẻ tuổi đã giác ngộ. Thầy sa di lấy thí dụ người
kia muốn bắt một con rắn mối vừa chạy chun vào trong một
gò mối, và gò mối có sáu cái lỗ. Ðể bắt cho được con
rắn mối người ấy phải đóng chặt lại năm lỗ và ngồi
chực hờ tại cái lỗ còn chưa đóng. Cũng dường thế ấy,
người hành thiền "đóng chặt" (tức hạn chế,
không hay biết đến) năm giác quan và để hết tâm canh chừng
cái cửa tâm (ý môn).] Như nói ở phần trên, trong tiến trình hay biết xuyên qua mắt
(nhãn thức), đối tượng được thấy chỉ là sự thấy
trong ý nghĩa cùng tột (tức theo chân đế), mà không có hình
thức chế định (tức tục đế) như thấy đó là một người
đàn ông hay đàn bà. Sau khi hoàn tất tiến trình, tâm chìm trở
lại vào luồng bhavaṅga trong vài chặp. Rồi tiến trình hay biết (thức) xuyên qua ý môn, manodvāravithī,
khởi sanh do sự suy xét về đối tượng được thấy. Từ
bhavaṅga, ý môn hướng tâm, manodvārāvajjana, khởi sanh, tiếp
theo là tiến trình xung lực, javana, liên tục trôi chảy trong
bảy chặp và tâm đăng ký, tadālambana, phát sanh trong hai chặp.
Do đó toàn thể tiến trình gồm mười chặp tâm và chìm vào
bhavaṅga trở lại. Trong tiến trình tâm nầy, đối tượng (tâm
linh) chỉ là sự suy tư về sự thấy, không căn cứ trên một
khái niệm sai lầm của kinh nghiệm trước. Khi tiến trình hay biết khởi sanh lần thứ nhì thì đối
tượng là khái niệm về hình thể và dáng điệu đã trở
thành đối tượng -- hình thể và dáng điệu của một người
đàn ông hay đàn bà chẳng hạn. Khi tiến trình lặp lại lần
thứ ba khái niệm về danh tánh (của người đàn ông hay đàn
bà) sẽ là đối tượng. Từ đó trở đi mỗi lần suy tư về
những gì được kinh nghiệm trước, đối tượng sẽ luôn
luôn là một khái niệm; "Tôi thấy một người đàn ông,
tôi thấy một người đàn bà". Thức trình diễn những
trò ảo thuật như thế đó, tráo trở, biến đổi thực tế,
thay thế vào đó những khái niệm. Tóm Lược 1. Trong tiến trình nhãn thức đầu tiên, thức chỉ đăng ký
thực tế cùng tột (chân đế) của đối tượng được thấy. 2. Trong vòng suy tư lần thứ nhất về đối tượng được
thấy, vẫn còn thức (sự hay biết) của sự vật thực sự
được thấy. Khái niệm sai lầm chưa khởi phát. Nếu chuyên
cần chú niệm vào giai đoạn nầy khái niệm sai lầm không thể
khởi phát và sự hiểu biết sẽ vẫn nằm trong đối tượng
chân đế. 3. Trong vòng suy tư thứ nhì, những khái niệm về hình thể
và dáng điệu của đối tượng được thấy phát sanh. 4. Trong vòng suy tư lần thứ ba, khái niệm về sự nhận ra
đối tượng được thấy phát sanh. Cùng thế ấy trong tiến trình hay biết âm thanh, mùi, vị,
và xúc (tức nhĩ thức, thiệt thức v.v... ) sự hay biết cũng
tuần tự biến chuyển từ hay biết thực tại (chân đế) đến
khái niệm chế định (tục đế). Khi nhãn thức và nhĩ thức khởi sanh, hoặc ngay khi vòng suy
tư thứ nhất về những gì được thấy hoặc được nghe bắt
đầu, nếu thận trọng tức khắc ghi nhận "thấy",
"nghe", "mùi", "vị", "sờ đụng"
hoặc "suy nghĩ", những khái niệm sai lầm không thể
phát sanh. Thức vẫn nằm trong chân đế, đúng thật với những
gì được hay biết. Luôn luôn giữ tâm trong thực tại, là
lý do tồn tại của chánh niệm, công trình ghi nhận sự hay
biết cảm giác ngay vào lúc nó khởi sanh. Nếu niệm "thấy,
thấy" đúng vào lúc một vật được thấy, tiến trình
hay biết sẽ chấm dứt ngay vào lúc thấy, và tiến trình tiếp
theo sau, hay biết những khái niệm sanh khởi do suy tư không thể
khởi phát. Ðúng theo lời dạy diṭṭhe diṭṭhamattaṁ
bhavissati, "chỉ có sự thấy trong lúc thấy", nhãn thức
chấm dứt tiến trình ngay tại đây. Theo sau đó trí tuệ phân tách phần vật chất vô tri giác
như mắt và âm thanh, thân và cái tâm tri giác sự vật. Cũng
có trí tuệ hiểu biết rằng vật được thấy và cái tâm
ghi nhận luôn luôn sanh và diệt. Sự chứng ngộ phát sanh rằng
chỉ có trạng thái vô thường, khổ và vô ngã. Cùng thế ấy
với những gì ta nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư: ghi nhận
thường xuyên những hiện tượng ấy sẽ cho thấy sự khác
biệt giữa những đặc tánh vật chất và tâm linh và bản chất
vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Hành giả chứng ngộ,
"Trước kia vì không ghi nhận (niệm) các hiện tượng, ta
lầm tưởng những khái niệm sai lạc là thực tế, chấp nhận
những trò ảo thuật là có thật. Giờ đây, đã ghi nhận
các hiện tượng đúng như thật sự nó là vậy, ta không còn
lầm lạc nhận thức là tự ngã những hiện tượng chỉ không
ngừng sanh và diệt. Khi thấy một vật, nhãn thức tức khắc tan biến sau khi khởi
sanh, không có gì như sự thấy mà tồn tại lâu dài. Chỉ có
nhãn thức vừa khởi sanh và nhanh chóng chấm dứt. Cùng thế
ấy nhĩ thức, thân thức và ý thức. Trong sự nghe không có
thực chất vững bền. Khi nghe một âm thanh, nhĩ thức khởi
sanh và nhanh chóng tan biến. Không có cảm giác sờ đụng tồn
tại bền lâu: mỗi khi sờ đụng, thân thức khởi sanh và
nhanh chóng tan biến. Không có suy tư kéo dài; mỗi khi suy tư,
ý thức khởi sanh và nhanh chóng tan biến. Tất cả đều vô
thường. Tình trạng chấm dứt luôn luôn theo liền sự khởi
sanh; không có gì chắc chắn, đáng được tin cậy, chỉ có
tình trạng khủng khiếp kinh hoàng và đau khổ. Mỗi sự vật
đều khởi sanh do nhân duyên cấu tạo, không phải do ta muốn;
tất cả đều không phải là tự ngã. Theo kinh Pheṇapiṇḍupama Sutta ta thấy hiển nhiên rằng ngũ
uẩn không có thực chất vĩnh tồn hay một lỏi cứng trong sạch
và thích thú bên trong, đúng theo ý ta muốn. Năm uẩn không phải
là tự ngã, không phải là chính ta, không có gì thực chất. Ðã giảng giải dong dài và đầy đủ điểm nầy, giờ đây
Sư chấm dứt thời Pháp hôm nay. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06 | 07
| 08 | 09 Xem bản dịch Anh
Ngữ: Anattalakkhana Sutta by
Venerable Mahasi Sayadaw Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim
Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2002). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Phạm Kim Khánh dịch
(Xin
lưu ý: Cần có phông chữ Pali Unicode CN-Times
cài vào máy để đọc được các chữ Pàli.)
ṇaṁ
bhikkhave anattā; viññāṇañca h'idaṁ bhikkhave attā abhavissa
nayidaṁ viññāṇaṁ ābādhāya saṁvatteyya. Labbhetha ca viññāṇe
evaṁ me viññāṇaṁ hotu evaṁ me viññāṇaṁ ahosīti. Yasmā
ca kho bhikkhave viññāṇaṁ anattā tasmā viññāṇaṁ
ābādhāya saṁvattati na ca labbhati viññāṇe evaṁ me viññāṇaṁ
hotu evaṁ me viññāṇaṁ mā ahosīti.
Marīcikūpamā saññā saṅkhārā kadalūpamā
Māyūpamañca viññāṇaṁ desitādiccabandhunā.
updated: 01-06-2002