BuddhaSasana Home Page Kinh Vô Ngã Tướng Thiền sư
Mahasi Sayadaw
-VII- MƯỜI
MỘT PHƯƠNG THỨC PHÂN TÁCH NGŨ UẨN -ooOoo- Yā kāci vedanā, atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā
vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre
santike vā sabbā vedanā, netaṁ mama neso hamasmi na meso attāti.
Evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ. "Tất cả thọ, dầu ở quá khứ, vị
lai hay hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế,
thấp hèn hay cao thượng, gần hay xa, phải được thấy với
sự hiểu biết của chính mình, đúng như thật sự nó là vậy,
như thế nầy: 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải
là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi'." Trên đây là lời dạy
phân tách quán niệm thọ uẩn theo mười một phương thức,
nhằm mục đích làm sáng tỏ những đặc tướng vô thường,
khổ và vô ngã. Nơi đây, thọ trong quá khứ có nghĩa là những
thọ cảm được kinh nghiệm trong những kiếp sống đã qua cũng
như những cảm thọ được kinh nghiệm trong những ngày, những
tháng, những năm trước đây trong chính kiếp sống nầy.
Ðây cũng là những cảm thọ vừa kinh nghiệm trong thời gian
trước đây, ngày hôm nay. Lẽ dĩ nhiên tất cả những cảm
thọ trong quá khứ ấy đã chấm dứt, không còn hiện hữu,
nhưng đối với người chấp ngã mạnh mẽ, điều ấy không
dĩ nhiên; họ khư khư chấp rằng chính cái tự ngã đã kinh
nghiệm những cảm thọ trước đây vẫn còn tiếp tục kinh
nghiệm trong hiện tại. Theo quan kiến của họ, tất cả những
thọ cảm phát sanh đến mình trước đây trong kiếp nầy
không chấm dứt và biến tan. Họ tin tưởng rằng cái tự
ngã thích thú với những thọ cảm trước đây vẫn còn hoan
hỷ thích thú với nó trong hiện tại. Thọ Cảm Kinh Nghiệm Trong
Ba Thời Nếu những thọ khổ như gồng cứng, nóng, hoặc đau nhức,
phát hiện trong khi quán niệm di động phồng xẹp ở bụng, hành
giả liền ghi nhận. Khi ghi nhận như thế, thọ cảm khó chịu
dần dần suy giảm, bớt đau nhức, rồi tan biến. Khi tâm định
thật sự đặc biệt dõng mãnh người hành thiền sẽ thấy rằng
mỗi khi ghi nhận thì cơn đau liền chấm dứt. Nhận thức
như vậy, hành giả tự bản thân chứng nghiệm rằng những
thọ cảm không thường còn, không kéo dài đến một giây đồng
hồ, mà luôn luôn nhanh chóng sanh diệt. Không phải chỉ các
thọ uẩn trong những kiếp sống quá khứ không tồn tại đến
hiện tại, mà chính những cảm thọ trước đây trong kiếp nầy
cũng không còn. Những thọ cảm phát hiện chỉ trong khoảnh
khắc trước đây cũng không còn hiện hữu. Người hành thiền
có chánh niệm chứng nghiệm tất cả những điều nầy. Vị
ấy thấy rằng thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký được cảm
nhận trong khoảnh khắc hiện tại đều không ngừng sanh rồi
diệt. Do đó, có thể suy diễn rằng những cảm thọ sẽ
phát sanh trong tương lai cũng sẽ tan biến và chấm dứt ngay
vào lúc vừa phát sanh. Trong thời gian hành thiền, công phu
quán niệm xảy diễn như sau: 1. Những cảm thọ gồng cứng, nóng, đau nhức và bực bội
khó chịu mà mình vừa kinh nghiệm trong khoảnh khắc vừa
qua không kéo dài đến khoảnh khắc hiện tại trong thọ cảm
thoải mái tiện nghi. Nó tiêu diệt ngay vào khoảnh khắc mà
ta cảm nghe gồng cứng, nóng, đau nhức và bực bội khó chịu.
Vừa khởi sanh liền chấm dứt. Vì hoại diệt nhanh chóng như
vậy nó là vô thường. Và vì là vô thường và khó chịu,
nó là đáng sợ, một nguồn đau khổ. Những cảm thọ thoải
mái tiện nghi trong khoảnh khắc vừa qua không kéo dài đến
cảm giác bực bội kém tiện nghi trong khoảnh khắc hiện tại,
nó nhanh chóng hoại diệt, ngay vào lúc có cảm giác tiện
nghi dễ chịu, và do đó những thọ cảm ấy là vô thường.
Vì là vô thường, nó là đáng sợ, một nguồn đau khổ. Tất
cả những cảm thọ, lạc, khổ hoặc vô ký đều không phải
là tự ngã, không có thực chất. 2. Những thọ lạc hay thọ khổ trong hiện tại lặp đi lặp
lại chấm dứt và tan biến ngay trong khi được ghi nhận và
do đó, là vô thường, khổ và vô ngã. 3. Những thọ lạc hay thọ khổ trong tương lai cũng sẽ
chấm dứt và tan biến ngay vào lúc phát sanh. Nó cũng vậy,
là vô thường, khổ và vô ngã. Ðó là phương thức mà các cảm thọ trong quá khứ, hiện
tại và vị lai được nhận thấy vừa khi ta ghi nhận. Còn một
phương pháp khác để quán niệm những cảm thọ trong quá khứ
và vị lai bằng cách suy diễn từ những cảm thọ trong hiện
tại: "Cũng y hệt như trong hiện tại những cảm thọ vô
thường -- lạc, khổ và vô ký -- chấm dứt ngay khi vừa được
ghi nhận, những cảm thọ trước đó cùng thế ấy cũng hoại
diệt biến tan vào lúc vừa phát sanh, và như vậy cũng vô thường,
khổ và vô ngã. Những cảm thọ sẽ phát sanh trong tương lai
cũng hoại diệt vào lúc vừa phát sanh cùng thế ấy, và như
vậy cũng là vô thường, khổ, vô ngã." Chính ta đã nhận thấy những cảm thọ của chúng ta hoại
diệt ra sao, giờ đây hãy suy diễn xem thọ cảm của những
người khác trong toàn thể thế gian: "Cũng như những thọ cảm của chính ta, chấm dứt và
biến tan khi vừa niệm đến, những thọ cảm của người khác
trong toàn thể thế gian cũng sẽ chấm dứt và biến tan. Những
cảm thọ ấy cũng là vô thường, khổ và vô ngã." Những Cảm Thọ Bên Trong
Và Bên Ngoài "Cũng như sắc uẩn được quán sát dưới hai sắc thái,
bên trong và bên ngoài, sắc pháp bên trong không trở thành sắc
pháp bên ngoài và ngược lại, cùng thế ấy, thọ uẩn cũng
nên được quán sát dưới hai sắc thái, bên trong và bên
ngoài," sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, dạy như vậy.
Thọ cảm từ bên trong không di chuyển ra bên ngoài; thọ cảm
từ bên ngoài không nhập vào trong. Phải quán niệm như vậy. Câu hỏi được nêu lên là: Nói như vậy phải chăng có
nghĩa là những cảm thọ từ bên trong ta không nhập sang qua
thân của người khác và những cảm thọ của người khác
không nhập sang thân ta? Không ai tin rằng thọ cảm di chuyển
từ thân người nầy sang qua thân người khác. Do vậy phương
thức quán chiếu nói trên không có nghĩa như thế. Nó chỉ
có nghĩa là sự đổi thay đối tượng, từ đối tượng bên
trong ra đối tượng bên ngoài, hay ngược lại, từ bên ngoài
vào trong. Khi thọ cảm phát sanh tùy thuộc một đối tượng từ bên
trong chấm dứt và được thay thế bằng cảm thọ phát sanh
do đối tượng bên ngoài, người ta thường nghĩ rằng cảm
thọ bên trong đã trở thành cảm thọ bên ngoài. Ngược lại
khi những thọ lạc hay thọ khổ do những đối tượng từ bên
ngoài tạo duyên được thay thế bằng những thọ cảm do đối
tượng bên trong tạo duyên, người ta tin rằng cảm thọ bên
ngoài đã trở thành cảm thọ bên trong. Cùng thế ấy, khi những
thọ cảm phát sanh từ một đối tượng ở xa biến đổi trở
thành những thọ cảm phát sanh tùy thuộc một đối tượng gần,
người ta tin rằng thọ cảm kia di chuyển từ xa đến gần và
ngược lại, từ gần đi xa. Do đó, nơi đây, điều nầy có
nghĩa là sự thay đổi đối tượng -- bên trong và bên ngoài,
gần và xa -- tùy thuộc theo đó cảm thọ phát sanh. Người hành thiền chuyên cần quán niệm những hiện tượng
sắc và danh ngay vào lúc chúng phát sanh, ghi nhận cơn đau nhức
khi thọ khổ khởi sanh trong thân. Trong khi ghi nhận như vậy nếu
tâm hướng về một đối tượng bên ngoài và thọ lạc hay
thọ khổ kế đó khởi phát. Những cảm thọ nầy phải được
ghi nhận như thọ hỷ hay thọ ưu. Như vậy, trong lúc cẩn trọng
ghi nhận, thọ khổ được ghi nhận lúc sơ khởi không di chuyển
từ trong ra ngoài, mà chấm dứt ngay bên trong. Rồi sự chú ý
chuyển sang một đối tượng bên ngoài và đối tượng bên
ngoài nầy tạo duyên làm khởi sanh thọ cảm mới. Như thế,
hành giả thông hiểu những hiện tượng. Vị ấy cũng thấu
hiểu đầy đủ tiến trình ngược lại; tức là, thí dụ như
thọ lạc sơ khởi phát sanh từ một đối tượng bên ngoài
chấm dứt, sau đó thọ khổ mới phát sanh từ một đối tượng
bên trong. Cảm thọ bên trong không di chuyển ra ngoài; cảm thọ
bên ngoài không di chuyển vào trong. Thọ khởi sanh và chấm dứt
ngay trong khoảnh khắc trở thành, và như vậy là vô thường,
khổ, và vô ngã. Thọ Cảm Thô Kịch Và Vi Tế Trong khi đang kinh nghiệm những thọ khổ thô kịch, nếu
có những thọ khổ vi tế bắt đầu ta có khuynh hướng tin rằng
những thọ khổ thô kịch ấy đã đổi thay và trở thành thọ
khổ vi tế. Khi đang kinh nghiệm thọ khổ vi tế, nếu cảm
nghe thọ khổ thô kịch bắt đầu, ta tin rằng những thọ khổ
vi tế đã biến đổi và trở thành thô kịch. Tuy nhiên, đối
với vị hành giả cẩn trọng chú niệm, trong mỗi niệm thấy
rằng thọ khổ hoại diệt từ phần từ phần, từng giai đoạn,
giai đoạn nầy đến giai đoạn khác, và do đó thông hiểu rằng
thọ khổ vi tế không biến đổi thành thô kịch, mà thọ khổ
thô kịch cũng không biến thành vi tế. Những cảm thọ cũ hoại
diệt, những thọ cảm mới khởi sanh và thay thế vào. Ðó
là vô thường. Vị hành giả chứng nghiệm những điều ấy
qua kinh nghiệm bản thân. Thọ cảm thô kịch không trở thành vi tế, và ngược lại.
Những cảm thọ ấy hoại diệt ngay vào lúc vừa khởi phát.
Do đó, thọ uẩn là vô thường, khổ và vô ngã. Thọ Cảm Thấp Hèn Và Cao
Thượng Những thọ cảm đau nhức khó chịu trong thân được xem là
thọ cảm dưới hình thức thấp hèn trong khi cảm thọ hoan hỷ
thỏa thích vi tế được xem là cao thượng. Cùng thế ấy,
đau khổ, sầu muộn, chán nản, và buồn phiền là thấp hèn,
trong khi hạnh phúc và vui vẻ hân hoan là loại cảm thọ cao
thượng. Nói cách khác, cảm nghe giận dữ, chán nản buồn
phiền, và sầu khổ là cảm thọ thấp hèn, cảm nghe hạnh
phúc vui vẻ là thọ cảm cao thượng. Nhưng nơi đây, hoan hỷ
thỏa thích trong dục lạc là thấp hèn hơn hạnh phúc của
tâm đạo nhiệt thành hướng đến một đối tượng đáng kỉnh
mộ như Ðức Phật. Vì kinh nghiệm khác nhau từ cảm thọ nầy đến thọ cảm
khác, người ta thường nghĩ rằng thọ cảm thấp hèn đã trở
thành cao thượng, hoặc thọ cảm cao thượng đã biến thành
loại thọ cảm thấp hèn. Nhưng người hành thiền nhận thức
rằng thọ cảm chấm dứt ngay vào lúc được ghi nhận và do
đó, thông hiểu rằng cảm thọ cao thượng không trở thành
thấp hèn, mà cảm thọ thấp hèn cũng không trở thành cao thượng.
Những thọ cảm ấy hoại diệt ngay vào lúc vừa phát hiện
và do đó, là vô thường. Tình trạng đau khổ của những thọ
cảm thấp hèn không trở thành trạng thái hạnh phúc của thọ
lạc cao thượng. Cảm thọ cao thượng cũng không trở thành
thọ cảm thấp hèn. Nó chấm dứt ngay vào lúc vừa khởi
phát và do đó là vô thường, khổ và vô ngã. Thọ Cảm Xa và Thọ Cảm Gần Chúng ta đã đề cập dong dài đến những cảm thọ xa và
gần: những cảm thọ khởi sanh từ những đối tượng ở xa
không trở thành những cảm thọ phát sanh do những đối tượng
gần; những cảm thọ do những đối tượng gần tạo duyên
không trở thành cảm thọ tùy thuộc đối tượng xa tạo điều
kiện. Chúng nó chấm dứt ngay vào lúc ta kinh nghiệm và như vậy,
là vô thường, khổ và vô ngã. Mười Một Cách Phân Tách Tưởng
Uẩn Ðức Thế Tôn dạy: Yā kāci saññā, atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā
vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre
santike vā sabbā saññā netaṁ mama neso hamasmi na meso attāti. Eva
metaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ. "Tất cả tưởng uẩn, dầu trong quá khứ, vị lai hay
hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp
hèn hay cao thượng, xa hay gần phải được xem với sự hiểu
biết của chính mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế
nầy: 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi,
đây không phải là tự ngã của tôi'." Ðây là lời dạy nên phân tách tưởng uẩn dưới mười một
tựa đề -- quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên
ngoài, thô kịch, vi tế, thấp hèn, cao thượng, xa hay gần --
nhằm vạch rõ cho thấy bản chất vô thường, khổ và vô
ngã của nó. Nơi đây tưởng uẩn trong quá khứ có nghĩa là
những sự hồi nhớ mà mình kinh nghiệm trong những kiếp sống
quá khứ hay trong thời gian đã qua trong kiếp hiện tại. Những
sự hồi nhớ mà ta kinh nghiệm trong quá khứ ấy, dĩ nhiên đã
chấm dứt, không còn tồn tại hiện hữu. Tuy nhiên, đối với
người chấp thủ mạnh mẽ vào tự ngã, điều nầy không phải
là dĩ nhiên bởi vì họ quan niệm rằng chính cái ta mà nhận
ra và hồi nhớ (tưởng) những sự việc trong quá khứ tiếp
tục nhận ra và hồi nhớ sự việc trong hiện tại; rằng tất
cả những hành động nhận ra và hồi nhớ đã có trong những
kiếp quá khứ hay trong thời gian đã qua trong kiếp sống nầy
là do chính một cái ta; và trong kiếp hiện tại nầy cũng vậy.
những gì đã được nhận ra và hồi nhớ lúc còn trẻ thơ
hay trong thời gian gần đây đều là công việc của một cái
ta, chính một cái ta ấy. Vị hành giả chuyên cần giữ chánh niệm, luôn luôn để tâm
theo dõi di động phồng xẹp của bụng và những hiện tượng
ngay vào lúc cảm thọ, thấy rằng cái tưởng uẩn lúc nghe (tức
sự nhận ra và hồi nhớ những âm thanh mà mình đang nghe) tức
khắc tan biến vừa lúc được ghi nhận. "nghe, nghe";
cái tưởng uẩn lúc thấy tan biến ngay khi ta ghi nhận,
"thấy, thấy", cùng thế ấy sự hồi nhớ và nhận
ra ý nghĩ cũng nhanh chóng hoại diệt vừa khi ta ghi nhận. Quán sát như vậy xuyên qua kinh nghiệm bản thân hành giả
nhận thức rằng tưởng không thường còn, nó không tồn tại
đến một giây đồng hồ và bản chất thiên nhiên của nó
là không ngừng hoại diệt. Nói chi đến những sự việc mà
ta hồi nhớ trong kiếp quá khứ, ngay trong đời sống nầy, những
sự việc mà ta nhớ lại trong giây phút vừa qua cũng đã chấm
dứt và biến tan. Ðiều nầy, người hành thiền tự mình có
thể nhận thấy. Chí đến những tưởng uẩn vừa khởi sanh
trong khoảnh khắc vừa qua cũng đã hoại diệt. Như vậy, hãy
hay biết và nhận ra những gì mà ta thấy, nghe và sờ đụng
trong giây phút hiện tại. Những sự việc ấy luôn luôn khởi
sanh rồi tan biến, lặp đi lặp lại, không ngừng sanh diệt.
Chúng ta cũng có thể kết luận rằng những tưởng uẩn (tri
giác) trong tương lai cũng sẽ sanh và diệt, tan biến ngay lúc
khởi sanh. Trong lúc hành thiền, phân tách tưởng uẩn như sau: 1. Tưởng uẩn, nhận ra những đối tượng vừa cảm thọ
trong khoảnh khắc vừa qua, không còn tồn tại đến khoảnh
khắc hiện tại, nó tan biến ngay trong khi ta nhận ra. Do đó,
nó là vô thường, khổ và vô ngã. 2. Tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ sự việc trong hiện
tại, cũng biến tan trong khi ta thật sự nhận ra. Do đó, nó
cũng là vô thường, khổ và vô ngã. 3. Tưởng uẩn, sẽ nhận ra và hồi nhớ sự việc trong tương
lai, cũng sẽ biến tan trong khi ta ghi nhận. Như vậy, nó là
vô thường, khổ và vô ngã. Những tưởng uẩn trong quá khứ và vị lai của toàn thể
thế gian cũng được kết luận bao hàm như những tưởng uẩn
phát hiện ngay vào lúc được ghi nhận. Cũng giống như những
tưởng uẩn, chấm dứt và biến tan vào lúc được ghi nhận
trong hiện tại, cùng thế ấy những tưởng uẩn trong quá khứ
hoại diệt và tan biến lúc vừa khởi sanh và như vậy là vô
thường, khổ và vô ngã. Cùng thế ấy, những tưởng uẩn
trong tương lai cũng sẽ hoại diệt và tan biến vào lúc sanh
khởi, và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã. Những tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ những đối tượng
trong một người, trong người khác, và trong toàn thể thế
gian cũng hoại diệt và tan biến lúc khởi sanh và như vậy là
vô thường, khổ và vô ngã. Bản chất vô thường của tưởng uẩn, hay tri giác, (vốn
có đặc tính nhận ra và hồi nhớ sự vật), quả thật hiển
nhiên nếu chúng ta chỉ suy gẫm và nhớ lại những điều đã
học và đã nhớ trước kia, giờ đây mình quên đi dễ dàng
như thế nào. Những tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ những đối tượng
trong thân mình không tồn tại đến tưởng uẩn nhận ra những
đối tượng bên ngoài; những tưởng uẩn nhận ra các đối
tượng bên ngoài không tồn tại kéo dài đến lúc hồi nhớ
các đối tượng bên trong thân -- nó chấm dứt và tan biến
ngay lúc khởi sanh, và như thế là vô thường, khổ và vô
ngã. Những tri giác nhận ra và hồi nhớ các đối tượng ham muốn
và tham ái, sân hận và bực mình, ngã mạn, tà kiến, hoài
nghi và ngờ vực, tất cả đều bất thiện. Ðó là những tưởng
uẩn thuộc loại thô kịch. Những tri giác liên quan đến tâm
đạo nhiệt thành, tin tưởng nơi Ðức Thế Tôn, hồi nhớ một
thời Pháp, nhớ lại những lời khuyên bảo và dạy dỗ của
thầy hay của cha mẹ là tưởng uẩn thuộc loại tinh tế, tốt
đẹp. Ðó là những tưởng uẩn cao thượng. Những tưởng uẩn
thô kịch thuộc loại thấp hèn. Nói cách khác, nhận ra và hồi
nhớ những đối tượng thô kịch là tưởng uẩn thô kịch,
nhận ra những đối tượng tốt đẹp là tưởng uẩn vi tế. Những tưởng uẩn thô không tồn tại đến khoảnh khắc mà
tưởng uẩn vi tế khởi sanh; tưởng uẩn vi tế không kéo
dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn thô khởi sanh. Mỗi chặp
tưởng uẩn biến tan ngay vào lúc vừa khởi sanh và do đó là
vô thường, khổ và vô ngã. Tưởng uẩn thấp hèn không tồn tại kéo dài đến khoảnh
khắc mà tưởng uẩn cao thượng khởi sanh; cùng thế ấy, tưởng
uẩn cao thượng không kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn
thấp hèn khởi sanh. Nó biến tan ngay vào lúc khởi sanh và do
đó, là vô thường, khổ, và vô ngã. Nhận ra và hồi nhớ những đối tượng vi tế ở xa được
gọi là tưởng uẩn xa (tri giác những đối tượng ở xa); nhận
ra những đối tượng thô, gần, bên trong người, được gọi
là tưởng uẩn gần. Tưởng uẩn xa không tồn tại kéo dài
đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn gần khởi phát; một tưởng
uẩn gần không kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn xa
khởi phát. Nó biến tan ngay vào khoảnh khắc vừa phát sanh
và do đó, là vô thường, khổ, và vô ngã. Mười Một Cách Phân Tách
Hành Uẩn Ðức Thế Tôn tuyên ngôn: Ye keci saṅkhārā atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā
vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā ye dūre
santike vā sabbe saṅkhārā netaṁ mama, neso hamasmi na meso attāti
evametaṁ yathābūtam sammappaññāya daṭṭhabaṁ. "Tất cả hành uẩn, dầu trong quá khứ, vị lai hay hiện
tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn
hay cao thượng, xa hay gần, phải được xem, với sự hiểu biết
của chính mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế nầy:
'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây
không phải là tự ngã của tôi'." Ðây là những lời dạy phân tách quán chiếu hành uẩn
theo mười một phương thức để thấy rõ đặc tướng vô thường,
khổ và vô ngã. Nơi đây nên ghi nhận rằng có rất nhiều pháp (dhammas)
được sắp xếp dưới danh từ saṅkhārakkhandha, hành uẩn.
Chúng ta đã thấy rằng ngoài thọ và tưởng, năm mươi tâm sở
còn lại được gọi chung là saṅkhārakkhandha, hành uẩn. Tóm
tắt, saṅkhāra, hành, là nguyên động lực nằm phía sau những
hành động bằng thân, khẩu, hay ý. Chính hành uẩn là nguyên
nhân làm cho ta thay đổi oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Saṅkhāra
ra lệnh, "Bây giờ hãy đi, bây giờ hãy đứng, bây giờ
hãy ngồi." Hành tạo nguyên nhân xuất phát các hành động
như co vào, duỗi ra, di chuyển, và cười. Cũng hành, saṅkhāra,
làm nguyên nhân đưa đến lời nói, giống như ra lệnh,
"giờ đây hãy nói như thế nầy." Hành cũng làm
nguyên nhân đưa đến những suy tư, sự thấy và sự nghe. Như vậy, saṅkhāra của những kiếp trước -- muốn đi, muốn
đứng, hay muốn nói -- không thể kéo dài đến hành ở kiếp
sống nầy, có thể chăng? Có phải chăng tất cả đều tan biến
và hoại diệt ngay tại chỗ, vào lúc vừa khởi sanh? Quả thật
hiển nhiên rằng ý muốn làm, muốn lấy, hay muốn suy tư
trong những kiếp quá khứ hiện nay đã hoàn toàn tan biến. Nhưng
đối với những ai tin chắc rằng, "Chính tôi đã làm tất
cả những hành động ấy, tất cả những hành động ấy đều
do tôi thực hiện," thì họ khư khư chấp vào một tự
ngã, một cái ta duy nhất: "Chính tôi đã làm tất cả những
hành động trong kiếp sống quá khứ; người hành động trong
kiếp hiện tại cũng chính là tôi." Ðối với họ thì
"tôi", người hành động mãi mãi thường còn. Vị hành giả có chánh niệm quán chiếu bụng phồng, xẹp,
khi nghe cảm giác ngứa thì niệm "ngứa, ngứa". Trong
khi niệm như thế, nếu có phát sanh ý muốn gãi chỗ ngứa
thì liền niệm, "muốn gãi, muốn gãi." Hành, saṅkhārā,
tức là ý muốn gãi, được nhận thấy là biến tan mỗi lần
niệm. Cũng như trong khi niệm, "cứng, cứng" vì có cảm
giác gồng cứng, nếu có ý muốn co vào hay duỗi ra thì hành
giả liền niệm. Như vậy, saṅkhārā, hành, tức ý muốn co vào, duỗi ra,
hay đổi oai nghi, hoại diệt và tan biến mỗi khi hành giả niệm
đến, và tiếp tục hoại diệt. Cùng thế ấy những hành uẩn
muốn đổi oai nghi, muốn nói hay muốn suy tư được thấy không
ngừng hoại diệt. Ðối với hành giả, không phải chỉ có những hành uẩn
trong những kiếp quá khứ, mà những hành uẩn khởi phát
trong hiện tại cũng được thấy là không ngừng hoại diệt.
Như vậy, vị hành giả biết rằng những hành uẩn trong những
kiếp quá khứ không tồn tại kéo dài đến hiện tại, những
hành uẩn trong hiện tại không tồn tại đến tương lai, và
hành uẩn trong tương lai sẽ không di chuyển đến một thời
gian về sau nữa, chúng hoại diệt vào lúc khởi sanh. Với sự
hiểu biết của chính mình, hành giả nhận thức rằng hành uẩn
là vô thường, khổ và vô ngã. Trong pháp hành, hành uẩn được quán chiếu như sau: 1. Ý muốn bước chân mặt tới không kéo dài đến lúc
có ý muốn bước chân trái tới; ý muốn bước chân trái tới
không kéo dài đến lúc có ý muốn bước chân mặt tới;
nó hoại diệt và tan biến vào lúc khởi sanh, và như vậy,
là vô thường, khổ, và vô ngã. Cùng thế ấy, những hành
uẩn trong quá khứ không kéo dài đến khoảnh khắc hiện tại.
Nó hoại diệt và biến tan ngay vào lúc khởi sanh, và như vậy,
là vô thường, khổ, và vô ngã. 2. Những hành uẩn, ý muốn làm hay ý muốn thận trọng
ghi nhận, phát sanh trong hiện tại không kéo dài đến khoảnh
khắc sau kế đó. Nó luôn luôn tan biến lúc vừa khởi sanh
và do đó, là vô thường, khổ và vô ngã. 3. Những hành uẩn sẽ phát sanh trong tương lai liên quan
đến ý muốn làm và thận trọng ghi nhận cũng sẽ chấm dứt
và không kéo dài đến khoảnh khắc kế tiếp sau đó. Do đó
nó là vô thường, khổ và vô ngã. Với sự hiểu biết về những hành phát sanh trong hiện tại
khi được ghi nhận, các hành trong quá khứ, các hành trong tương
lai và các hành trong toàn thể thế gian có thể được kết
luận bao hàm cùng một thế ấy. Cũng giống như các hành vô thường, muốn làm và muốn ghi
nhận trong hiện tại, hoại diệt ngay khi được ghi nhận, cùng
thế ấy những hành trong quá khứ cũng hoại diệt và biến
tan vào lúc khởi sanh. Như vậy, nó là vô thường, khổ và
vô ngã. Cùng thế ấy những hành trong tương lai cũng tan biến
vào lúc khởi sanh, và như vậy là vô thường, khổ và vô
ngã. Những hành của một người hay của những người khác
và trong toàn thể thế gian đều chấm dứt và tan biến giống
như những hành được ghi nhận trong hiện tại. Tất cả đều
vô thường, khổ và vô ngã. Sự khác biệt giữa những hành bên trong và bên ngoài cũng
giống như sự khác biệt của thọ và tưởng phát sanh do những
đối tượng bên trong và bên ngoài, đã được mô tả; những
hành phát triển liên quan đến bên ngoài, tức những ý nghĩ
muốn thâu đạt hoặc muốn tiêu diệt những đối tượng bên
ngoài, hữu tri hữu giác hay vô tri giác, là hành bên ngoài. Những hành liên quan đến hành động bên trong chấm dứt
trước khoảnh khắc mà ý nghĩ hướng đến một hành động
bên ngoài khởi sanh. Như vậy nó là vô thường, khổ, vô
ngã. Cùng thế ấy các hành liên quan đến hành động bên
ngoài chấm dứt trước khoảnh khắc mà ý nghĩ hướng đến
một hành động bên trong khởi sanh. Nghĩ đến những hành động thô lỗ, kịch cộm, là loại
hành thô kịch; suy tư đến một hành động thanh lịch, những
việc làm tốt đẹp, là loại hành vi tế. Hành thuộc loại
thô kịch không trở thành những hành thuộc loại vi tế, và
ngược lại. Nó chấm dứt vào lúc vừa khởi sanh, và như vậy
là vô thường, khổ, vô ngã. Tất cả các loại suy tư về những hành động xấu xa là
hành thấp hèn. Nghĩ đến và thực hiện những hành động
thiện là hành cao thượng. Trong những hành động thiện, công
trình nghiêm chỉnh trì giới là cao thượng hơn bố thí, hành
thiền cao thượng hơn giữ giới, và hành thiền minh sát cao
thượng hơn hành thiền vắng lặng. Các hành thấp hèn không tồn tại kéo dài đến những hành
cao thượng; các hành cao thượng cũng vậy, không kéo dài đến
lúc hành thấp hèn khởi sanh. Nó chấm dứt và biến tan vào
lúc phát khởi và do đó, là vô thường, khổ và vô ngã. Các hành đưa những hành động từ thiện không kéo dài đến
khoảnh khắc khởi sanh của các hành đưa đến trì giới, và
ngược lại. Các hành nghiêm chỉnh trì giới không kéo dài đến
khoảnh khắc khởi sanh của hành uẩn muốn thực hành thiền
vắng lặng và ngược lại. Các hành liên quan đến công
trình hành thiền vắng lặng không kéo dài đến khoảnh khắc
khởi sanh của hành uẩn muốn hành thiền minh sát và ngược
lại. Tất cả đều hoại diệt và biến mất vào khoảnh khắc
khởi sanh và do đó, là vô thường, khổ, và vô ngã. Suy tư về những hành uẩn có tánh cách thiện và bất thiện
quả thật tế nhị, nhưng vị hành giả nhiệt thành chuyên cần
có thể tự chính bản thân mình kinh nghiệm, thấy các hành
không ngừng hoại diệt như thế nào vào lúc nó khởi sanh.
Thí dụ như trong khi ghi nhận bụng phồng xẹp, nếu có những
tư tưởng tham ái khởi sanh hành giả liền ghi nhận hiện tượng
ấy, "muốn, ham muốn." Niệm như vậy những tư tưởng
ham muốn biến tan trước khi kéo dài đến khoảnh khắc khởi
sanh một niệm có tánh cách thiện. Vị hành giả đã đạt đến
tầng Tuệ Diệt, bhaṅga ñāṇa, hiểu biết hiện tượng nầy
rõ ràng, đúng như nó là vậy. Khi vị hành giả cảm nghe hoan
hỷ lúc thực hiện một công tác từ thiện thì phải niệm,
"hoan hỷ, hoan hỷ". Khi niệm như thế, vị hành giả
đã đạt đến tầng Tuệ Diệt, bhaṅga ñāṇa, thấy rõ
ràng các hành uẩn của hành động thiện liên quan đến công
tác từ thiện biến tan vào khoảnh khắc được ghi nhận. Lại
nữa, trong khi niệm di động phồng xẹp ở bụng mà có vọng
tưởng phát sanh, phải niệm liền. Niệm như vậy, chặp tư
tưởng hành ghi nhận phồng xẹp biến tan mà không kéo dài đến
chặp vọng tưởng; chặp vọng tưởng cũng biến tan mà không
kéo dài đến khoảnh khắc vọng tưởng kế tiếp. Bằng cách
ấy hành giả nhận thức rằng mỗi chặp hành uẩn hoại diệt
và biến tan trước khi đến khoảnh khắc khởi sanh của một
chặp hành uẩn khác. Nếu hành giả không nhận thấy các hiện
tượng như mô tả trên, ắt phải biết rằng vị ấy chưa phát
triển đến tầng tuệ giác nầy. Những chặp hành khởi phát từ những đối tượng ở xa
không kéo dài đến khoảnh khắc mà những chặp hành do những
đối tượng gần phát sanh, và ngược lại. Tất cả đều biến
tan vào lúc khởi phát và do đó là vô thường, khổ, và vô
ngã. Mười Một Cách Phân Tách
Thức Uẩn Ðức Thế Tôn dạy: Yaṁ kiñci viññāṇaṁ
atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ
vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yandūre santike vā
sabbaṁ viññāṇaṁ netaṁ mama, neso hamasmi na meso attāti
evametaṁ yathābūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabaṁ.
"Tất cả thức uẩn, dầu thuộc về quá khứ, vị lai
hay hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp
hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được thấy với sự hiểu
biết của chính mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế
nầy: 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi,
đây không phải là tự ngã của tôi'." Ðây là những lời dạy nhằm phân tách thức uẩn theo mười
một phương thức để thấy rõ bản chất vô thường, khổ và
vô ngã. Chương VI có giải thích rằng suy niệm về vô thường
cũng giống như suy niệm "đây không phải là tôi",
suy niệm về khổ cũng giống như suy niệm "đây không phải
là của tôi", và suy niệm về vô ngã cũng giống như suy
niệm "đây không phải là tự ngã của tôi." Trong bốn uẩn, viññāṇa, thức uẩn hay tâm, là nổi bật
hiển nhiên nhất. Trong ngôn ngữ thông thường được xử dụng
hằng ngày, những tâm sở như ham muốn và sân hận, được mô
tả là "tâm": "tâm ham muốn", "tâm ưa thích",
"tâm sân hận". Trong các Bản Chú Giải cũng vậy, đầu
tiên các loại nầy cũng được xem là tâm (hay tâm vương), chỉ
về sau đó mới được gọi là tâm sở. Nơi đây cũng vậy,
chúng ta đề nghị rằng đến một mức độ nào, sẽ gọi đó
là tâm. Thức quá khứ có thể là tâm trong những kiếp sống quá
khứ, cũng có thể là tâm khởi sanh trong kiếp hiện tại vào
thời kỳ niên thiếu, hoặc trong những ngày, những tháng hoặc
những năm sau đó, chí đến ngày nay, tâm khởi sanh trước
khoảnh khắc hiện tại. Trong những loại tâm ấy có thể có
trong quá khứ, rất hiển nhiên rằng cái tâm trong những kiếp
sống quá khứ không tồn tại kéo dài đến kiếp sống hiện
tại, nó đã chấm dứt từ những kiếp ấy. Nhưng đối với
những người chấp ngã mạnh mẽ, tức những người chấp thủ
mạnh mẽ vào một cái ta, thì không dễ gì làm cho họ hiểu
biết như thế, bởi vì họ chủ trương rằng viññāṇa, thức,
là một linh hồn hay tự ngã, một thực thể sống. Theo niềm
tin của những vị nầy, khi cơ thể vật chất trong kiếp sống
quá khứ hoại diệt và tan rã, viññāṇa, linh hồn, lìa thân
ấy và chuyển sinh vào một thân mới, rồi nương tựa luôn
vào cái thân mới nầy từ lúc được thọ thai trong lòng mẹ
cho đến khi chết, và một lần nữa lìa cái thân đã trở
thành cũ nầy, chuyển sinh vào một thân mới khác, trong một
kiếp sống mới. Niềm tin nầy đã được mô tả trong câu
chuyện của Sāti, ở Chương IV. Tiến Trình Tái Sanh Như các vị hành giả tự bản thân chứng nghiệm, tâm
không tồn tại đến một giây đồng hồ, mà luôn luôn khởi
sanh và hoại diệt, không ngừng sanh diệt. Tâm sanh và diệt
như thế nào đã được mô tả trong khi thảo luận về tiến
trình tâm. Như đã được giải thích, trong mỗi kiếp sinh tồn,
vào lúc sắp chết maranasaññā vithī, tiến trình tâm khởi
phát cùng với kamma, nghiệp, kamma nimitta, hiện tượng của
nghiệp, hay gati-nimitta, biểu tượng tái sanh, làm đối tượng.
Ðó là phương thức khởi sanh: từ luồng hộ kiếp (bhavaṅga)
khởi sanh ý môn hướng tâm (āvajjana citta), cảm nhận những
cảm giác. Loại tâm nầy phản ảnh một hành động thiện
hay bất thiện đã được thực hiện trong kiếp sống (kamma,
nghiệp), hoặc một dấu hiệu hay biểu tượng liên hợp với
hành động ấy (kamma-nimitta, biểu tượng của nghiệp), hoặc
một biểu tượng của nơi chốn sắp tái sanh vào
(gati-nimitta, biểu hiệu lâm chung). Sau khi chặp tâm nầy chấm
dứt, luồng tâm tích cực, hay tiến trình javana, chụp lấy đối
tượng, phát sanh liên tục trong năm sát na (chặp tư tưởng).
Vào lúc luồng xung lực javana chấm dứt, tâm đăng ký tadālambana,
duyên theo đối tượng trên, phát sanh trong hai chặp. Sau đó
tâm bhavaṅga, hộ kiếp, phát sanh và tồn tại trong một hoặc
hai chặp tư tưởng (sát na). Tiếp theo là thức hay tâm chấm
dứt một kiếp sống, và chặp tâm bhavaṅga citta cuối cùng nầy
được gọi là cuti citta, tử tâm. Khi chặp cuti citta, tử
tâm, chấm dứt, tùy theo kamma, nghiệp thiện hay bất thiện
phát hiện ngay vào lúc lâm chung, tâm mới phát sanh trong một
kiếp mới. Chặp tâm nầy được gọi là paṭisandhi citta, thức,
hay tâm-nối-liền, bởi vì chặp tâm nầy nối liền hai kiếp
sống, quá khứ và hiện tại. Khi paṭisandhi citta, thức-nối-liền
nầy chấm dứt, một loạt những chặp hộ kiếp, bhavaṅga
citta, phát sanh. Khi có trần cảnh như hình thể hay âm thanh
phát hiện ở lục căn, loạt bhavaṅga citta chấm dứt và lục
thức, theo sau là ngũ môn thức như nhãn thức hay nhĩ thức,
phát sanh. Ðó là những gì thật sự xảy diễn vào lúc ta thấy
hoặc nghe. Theo tiến trình nầy tâm phát sanh từng nơi, nơi nầy
rồi nơi khác, lúc ở mắt, lúc ở tai, lúc ở lưỡi, lúc ở
mũi v.v... liên tục trong một loạt những tâm (citta) mới, mỗi
tâm phát sanh rồi hoại diệt. Chặp tử tâm, cuti citta, của
kiếp quá khứ sau cùng chấm dứt ngay tại chỗ, vào lúc ấy.
Tâm của kiếp hiện tại là một chặp tâm mới, khởi sanh do
kamma, nghiệp quá khứ tạo duyên. Mỗi chập tâm là một chập
tâm mới, không phải tâm cũ đổi thành mới. Trong khi chuyên cần quán chiếu hiện tượng phồng xẹp ở
bụng hành giả ghi nhận một ý nghĩ vừa khởi sanh. Khi ghi nhận
như vậy ý nghĩ hay tâm suy nghĩ bỗng nhiên biến mất. Nhận
ra hiện tượng nầy vị hành giả kết luận rằng cái chết
có nghĩa là sự chấm dứt chuỗi dài những chặp tâm sau khi
chặp tử tâm, cuti citta, chấm dứt. Cùng thế ấy, sự trở
thành mới có nghĩa là sự phát sanh đầu tiên của một loạt
những chập tâm mới trong một môi trường mới của kiếp sống
mới, giống y như trong tâm hiện tại lúc nào cũng có một chập
tâm mới phát sanh. Bhavaṅga citta, luồng tâm hộ kiếp, là chuỗi
dài những sự khởi sanh, tùy thuộc nghiệp lực (kammic force)
của một tâm mới tương tợ, khởi đầu với chính cái tâm
sơ khởi vào lúc được thọ thai. Cái tâm hiểu biết những
hiện tượng thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư khởi
sanh mới mẻ từ những chập tâm trong chuỗi dài đời sống.
Như thế đó hành giả hiểu biết tâm khởi sanh và hoại diệt
như thế nào và chính tự kinh nghiệm bản thân có thể suy diễn
đến tử tâm, cuti citta, và tâm nối liền paṭisandhi citta. Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy
Thuộc Hiểu biết rằng cái tâm mới phát sanh tùy thuộc nơi nghiệp,
kamma, là hiểu biết Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy Thuộc (hay Thập
Nhị Nhân Duyên), xuyên qua sự hiểu biết vòng quanh nghiệp-quả.
Sách Thanh Tịnh Ðạo, Visuddhi-magga, có ghi như sau: "Ðã
phân biện những điều kiện của danh và sắc như thế ấy
(rằng không có người hành động, cũng không có người gặt
hái hậu quả của hành động, chỉ có những hiện tượng diễn
tiến theo nhân và quả) bằng những vòng quanh nghiệp và quả,
và đã lìa bỏ tình trạng mơ hồ ("Có linh hồn chăng? có
tự ngã chăng?" "Tại sao tự ngã phát khởi?"
v.v...) về ba thời kỳ, tất cả các pháp, dhammas, quá khứ, vị
lai và hiện tại được người ấy thông hiểu theo kiến thức
về tiến trình sanh và tử của mình." Nơi đây, theo cách thức phân biện, "bằng vòng quanh của
nghiệp, kamma" bao gồm những nguyên nhân như vô minh, avijjā,
ái (taṅhā), thủ (upādāna) và hành (saṅkhāra). Thêm vào đó,
bằng cách phân biện thức-nối-liền đầu tiên và tử tâm
cuối cùng, tất cả những tâm đã phát sanh ở khoảng giữa
trong suốt kiếp sống trở thành rõ ràng thông hiểu. Cùng thế ấy, bằng cách hiểu biết tất cả những tâm
trong kiếp sống hiện tiền, các loại tâm trong những kiếp
quá khứ và vị lai cũng được phân tách và biện giải. Hiểu
biết tâm là hiểu biết những tâm sở đồng phát sanh và cũng
hiểu biết căn môn mà tâm ấy tùy thuộc. Do đó sách Thanh Tịnh
Ðạo, Visuddhimagga viết, "tất cả các pháp, dhammas, quá
khứ, vị lai và hiện tại đều được vị ấy thông hiểu." Thức Uẩn Trong Ba Thời Kỳ Bởi vì hiểu biết rằng bắt đầu từ thức tái sanh trở
đi, liên tiếp một loạt những chặp tâm phát sanh và hoại
diệt, vị hành giả nhận thức rõ ràng rằng tâm trong những
kiếp quá khứ chấm dứt ngay tại chỗ, không tồn tại kéo
dài đến tận kiếp nầy. Vị ấy cũng thấy rõ ràng rằng
tâm trong kiếp sống hiện tại chấm dứt ngay tại chỗ vào
lúc phát sanh. Do đó hành giả ở trong vị trí phân biện rõ
ràng quá khứ, vị lai và hiện tại với sự hiểu biết mà tự
cá nhân mình chứng nghiệm. Ðối với hành giả, nếu trong khi niệm phồng xẹp ở bụng
mà có những ý nghĩ phát sanh, liền niệm, "suy nghĩ, suy
nghĩ". Niệm như vậy ý nghĩ tan biến. Khi nghe, hành giả
niệm, "nghe, nghe", và nhĩ thức tự nhiên biến tan.
Không như người đời thường nghĩ, vị ấy không nghĩ rằng
mình vẫn còn tiếp tục nghe lâu dài những âm thanh ấy, mà
thấy rằng mình nghe từng phần, từng giai đoạn xen kẻ nhau
-- nghe, mất, nghe, mất -- nhĩ thức sanh diệt từng chặp. Cùng thế ấy khi niệm thân xúc, hành giả thấy xúc giác từng
chặp nhanh chóng biến tan. Khi tâm định đặc biệt vững mạnh
hành giả cũng thấy nhãn thức liên tục sanh diệt rất nhanh
chóng trong một chuỗi dài. Tỷ thức và thiệt thức cũng phải
được quán chiếu cùng một thế ấy. Khi niệm, ý thức cũng
được thấy là xen kẻ nhau sanh diệt nhanh chóng. Tóm tắt, với
mỗi niệm, cả hai -- đối tượng và tâm hay biết đối tượng
-- đều được thấy là khởi sanh và hoại diệt một cách
nhanh chóng. Bằng cách ấy hành giả đã thấy rõ rằng nhãn thức
không tồn tại kéo dài đến khoảnh khắc mà mình niệm suy
nghĩ, hay niệm nghe, mà tan biến ngay vào lúc thấy, hay lúc
nghe, tức khi nhãn thức hay nhĩ thức khởi sanh. Vị ấy nhận
thức rằng nó là vô thường. Cùng thế ấy, tâm niệm, tâm
suy tư và tâm nghe không kéo dài đến lúc thấy, mà biến tan
ngay vào lúc niệm, suy nghĩ và nghe. Do đó hành giả nhận thức
rằng nó là vô thường: 1. Nhãn thức, nhĩ thức, thân thức và tâm suy nghĩ vừa
khởi sanh trong khoảnh khắc trước không kéo dài đến khoảnh
khắc thấy, nghe, sờ đụng, và suy nghĩ trong giây phút hiện
tại. Nó hoại diệt và biến mất, và do đó, là vô thường,
khổ và vô ngã. 2. Nhãn thức, nhĩ thức, thân thức và tâm suy nghĩ khởi
sanh trong hiện tại không kéo dài đến khoảnh khắc nghe, thấy,
sờ đụng và suy nghĩ, kế liền tiếp theo đó. Nó chấm dứt
ngay trong hiện tại và do đó, là vô thường, khổ và vô
ngã. 3. Nhãn thức, nhĩ thức, thân thức và tâm suy nghĩ mà sẽ
phát sanh trong tương lai sẽ không kéo dài đến khoảnh khắc
liền kế theo đó trong tương lai. Nó sẽ hoại diệt và biến
tan và do đó, là vô thường, khổ và vô ngã. Bằng cách ấy, tự cá nhân nhận thấy thức uẩn sanh và
diệt nhanh chóng như thế nào trong thân mình, hành giả có thể
suy diễn rằng, cũng giống như loại thức đã được ghi nhận,
tất cả những thức còn lại để được ghi nhận, những thức
trong những người khác và trong toàn thể thế gian, cũng đều
như thế ấy, không ngừng sanh diệt. Chúng ta đã quan sát tất cả những loại thức, nhưng còn
phải quán sát thức dưới những sắc thái khác như bên trong
và bên ngoài. Tâm có đối tượng bên trong không kéo dài đến tâm có đối
tượng bên ngoài; tâm có đối tượng bên ngoài không kéo
dài đến tâm có đối tượng bên trong. Khi nó chụp nắm một
đối tượng thì liền chấm dứt và như vậy là vô thường,
khổ và vô ngã. Tâm sân hận là thô kịch; so với tâm sân các loại tâm
khác là vi tế. Trong các tâm sân, những loại đủ hung tợn
để sát hại sanh linh, hành hung kẻ khác hay hủy hoại tài sản
của người, hoặc dùng những lời lẽ thô lỗ mắng nhiếc
và hăm dọa người, là thô kịch; tâm sân dưới hình thức bực
tức thông thường là sân vi tế. Tâm tham ái thì mềm dịu hơn
tâm sân, nhưng một tâm tham đủ mạnh để làm nguyên nhân
xúi giục trộm cắp hay có những hành động sai quấy, thấp
hèn, ăn nói cộc cằn thô lỗ, là tâm tham thô kịch. Ham muốn
hay ước mong thông thường là tâm tham vi tế. Tâm si mê càng
mềm dịu hơn tâm tham ái và tâm sân hận, nhưng tâm si mê
tìm tòi bắt lỗi hay tỏ ra không tôn trọng Phật, Pháp, Tăng
là thô kịch. Tâm hoài nghi thông thường hoặc hôn trầm
phóng dật là tâm si vi tế. Tinh tế hơn tất cả những tâm bất
thiện kể trên là những tâm thiện, và trong những tâm thiện,
thỏa thích say mê là thô kịch, trong khi ấy tâm thản nhiên tự
tại và an trụ là vi tế. Vị hành giả chuyên cần giữ chánh niệm theo dõi di động
phồng xẹp ở bụng nhận biết những loại tâm thô kịch hay
vi tế -- rằng tâm thô kịch không tồn tại kéo dài đến khoảnh
khắc khởi sanh của tâm vi tế, và tâm vi tế không kéo dài
đến khoảnh khắc khởi sanh của tâm thô kịch. Các tâm ấy
chấm dứt và biến tan ngay vào lúc khởi sanh. Quán Chiếu Tâm Theo Kinh Tứ
Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) Trong khi quán niệm di động phồng xẹp
ở bụng, nếu có tâm khởi sanh liên hợp với tham ái, hành
giả liền ghi nhận tâm có tham. Ðó là hiểu biết tâm phát
sanh liên hợp với tham ái đúng như thật sự nó là vậy,
theo kinh Tứ Niệm Xứ, Satipaṭṭhāna Sutta -- sa rāgaṁ vā
cittaṁ sa rāgaṁ cittanti pajānāti. Khi niệm như vậy, tâm
tham ái chấm dứt và theo liền sau đó là một luồng những
loại tâm liên tục tiếp diễn gồm tâm thiện, kusala citta, của
niệm và tâm hành (kiriyā), tâm quả (vipāka) và luồng xung lực
thiện (kusala javana) liên quan đến hành động tại thế thấy,
nghe v.v... Những tâm thiện, hành và quả ấy được ghi nhận
vào lúc khởi sanh như thấy, nghe, sờ đụng và hiểu biết.
Ðó là hiểu biết tâm thiện, hành, quả và bất định, không
có tham, đúng như nó thật sự là vậy, theo câu vītarāgaṁ
vā cittaṁ vītarāgaṁ cittanti pajānāti của kinh Satipaṭṭhāna
Sutta, Tứ Niệm Xứ. Ghi nhận và hiểu biết tâm có tham cũng
như tâm không có tham bằng cách quán chiếu tâm với chánh niệm. Nơi đây, Sư (Ngài Mahasi) muốn đề cập đến lối trình
bày của Bản Chú Giải. Bản Chú Giải định nghĩa tâm có
tham ái là tám loại tâm kết hợp với căn tham. Ðó là liệt
kê các tâm tham. Như vậy nếu là tâm tham thì nó phải là một
trong tám loại tâm bắt nguồn từ luyến ái. Tuy nhiên, chỉ
xem sự khởi sanh của tám loại tâm bắt nguồn từ luyến ái
là savāga, tâm với tham ái, không hàm ý rằng đó là quán chiếu
tâm với chú niệm. Lại nữa, vītarāga, tâm không có tham ái, được định
nghĩa là tâm thiện tại thế, và tâm bất định. Bản Chú Giải
nói rằng bởi vì tâm siêu thế (supramundane citta) là đối tượng
của tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) nên không được xếp vào
cùng hạng với vītarāgaṁ, tâm không có tham ái, vītadosa, tâm
không có sân hận, hoặc vītamoha, tâm không có si mê. Cùng thế
ấy, hai loại tâm bắt nguồn từ căn sân và hai loại bắt
nguồn từ căn si cũng không được xếp vào loại tâm không
có tham ái. Một lần nọ, khi chưa có được tuệ giác nào trong thiền
tập, Sư còn bị hoài nghi, mãi phân vân không biết tại sao
các loại tâm bắt nguồn từ căn sân và căn si lại không
được xếp vào loại tâm không có tham ái. Chỉ khi phát triển
trí tuệ qua pháp hành Sư mới thông hiểu rằng lời phân giải
của Bản Chú Giải là tự nhiên và đúng như thế nào. Khi
tâm có tham ái được ghi nhận, nó liền chấm dứt và liền
theo đó chỉ phát sanh có tâm thiện, tâm hành, tâm quả và
tâm bất định; quả thật khó mà có tâm sân và tâm si. Do đó
vào lúc bấy giờ chỉ có tâm thiện (kusala citta) trong khi ghi
nhận, hoặc chỉ có tâm quả bất định (vipāka abyākata), ý
môn hướng tâm bất định (āvajjana abyākata) nằm trong thức
và luồng xung lực (javana) được quán chiếu. Như vậy, định
nghĩa của danh từ vītarāga, tâm không có tham ái, là tâm bất
định có tánh cách thiện (kusala abyākata citta, tâm thiện bất
định) quả thật rất tự nhiên và rất đúng với những gì
người hành thiền cảm nhận xuyên qua kinh nghiệm bản thân. Khi sân hận khởi sanh trong lúc mình niệm phồng xẹp ở bụng,
hành giả phải ghi nhận. Tâm sân nhanh chóng biến tan, và thay
vào đó khởi sanh tâm thiện của hành động ghi nhận, những
tâm bất định, và luồng xung lực (javana) có tánh cách thiện,
của sự thấy v.v... Bằng cách ghi nhận hành giả cũng hiểu
biết rằng tâm ấy không có sân. Khi tâm có si, tức có hoài
nghi hay phóng dật, hành giả ghi nhận như thường lệ, và nó
tan biến. Thay vào đó là tâm thiện của sự ghi nhận, những
tâm bất định, và luồng xung lực (javana) của sự thấy. Bằng
cách ghi nhận, hành giả thông hiểu rằng tâm ấy không có
si, vītamoha. Lại nữa, khi phóng dật và lo âu khởi sanh trong lúc hành
giả niệm phồng xẹp ở bụng, những loại tâm ấy phải
được ghi nhận, "phóng dật", "lo âu". Nó liền
biến tan và chánh niệm khởi sanh thay vào đó. Hành giả ghi
nhận tâm niệm ấy trước khi trở về niệm phồng xẹp ở bụng.
Lần khác, trong khi ghi nhận phồng xẹp ở bụng, nếu có lo
âu và phóng dật khởi sanh, hành giả ghi nhận "lo
âu", "phóng dật". Khi niệm như thế tình trạng
phóng dật biến tan, tâm trở nên yên tĩnh và vắng lặng. Trạng
thái tâm nầy cũng phải được ghi nhận. Khi tâm định vững chắc tốt đẹp và an trụ trên đối
tượng được quán chiếu, tâm an tĩnh ấy cũng tự nhiên được
hay biết. Khi lo âu khởi sanh hành giả ghi nhận, và tâm trở
nên an tĩnh trở lại. Tất cả những trạng thái đổi thay
ấy của tâm đều được hành giả chuyên cần chú niệm. Một
cái tâm được ghi nhận và quán chiếu thì gọi là vimutta,
không ô nhiễm. Tâm mà còn cần phải được ghi nhận và
quán chiếu thì gọi là avimutta, chưa giải phóng, còn ô nhiễm.
Hành giả ghi nhận tất cả những trạng thái tâm ấy. Ðó là phương thức mà thức uẩn phải được quán chiếu
đúng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn trong kinh Niệm Xứ,
Satipaṭṭhāna Sutta. Theo pháp hành nầy, những tâm có tham ái
và khát vọng, sân hận, phóng dật, và lo âu, tất cả đều
thuộc loại thô kịch. Khi không chứa đựng những loại tâm
thô kịch ấy, ắt có phát sanh thay vào đó những loại tâm
thiện và bất định, vốn là những loại tâm vi tế. Do vậy,
người hành thiền chuyên cần quán chiếu những hiện tượng
khởi sanh, nhận thức rằng tâm thô kịch không tồn tại kéo
dài đến khoảnh khắc mà tâm vi tế khởi sanh v.v... Nó biến
tan ngay tại chỗ, vào khoảnh khắc khởi sanh, và như vậy là
vô thường, khổ và vô ngã. Phương thức phân hạng tâm, hay thức, theo tánh cách thấp
hèn hay cao thượng cũng giống như cách xếp loại các hành.
Tâm bất thiện thấp hèn không tồn tại kéo dài đến lúc
tâm thiện bất định khởi sanh; tâm thiện cao thượng cũng
không kéo dài đến tâm bất thiện thấp hèn. Nó chấm dứt
ngay vào lúc khởi sanh và do đó là vô thường, khổ và vô
ngã. Tâm thiện bố thí không tồn tại kéo dài đến lúc tâm
thiện trì giới, hay thiền định khởi sanh. Tâm thiện trì giới
không kéo dài đến lúc tâm thiện thiền chỉ khởi sanh, và
ngược lại. Tâm thiền chỉ không kéo dài đến tâm thiền
minh sát; tâm thiền minh sát không kéo dài đến tâm thiền chỉ.
Tất cả đều chấm dứt và biến tan vào lúc khởi sanh. Ðối với người thường, không quen quán chiếu và ghi nhận
hiện tượng cảm giác thì khi nhìn một đối tượng từ xa
di chuyển đến gần, họ nghĩ rằng cái tâm mà nhìn đối tượng
từ xa, chính cái tâm ấy di chuyển đến gần họ. Khi nhìn một
đối tượng ở gần di chuyển đi xa thì nghĩ rằng tâm họ
di chuyển từ gần đi xa. Cùng thế ấy, khi nghe một âm thanh gần trong lúc lắng tai
nghe một tiếng động từ xa thì cho rằng cái tâm lắng nghe
tiếng động từ xa đã di chuyển lại gần; nghe một tiếng
động từ xa trong khi lắng nghe một âm thanh gần, thì cho rằng
cái tâm mà nghe âm thanh gần đã di chuyển đi xa. Trong khi mũi hửi một mùi ở xa, cảm nghe một mùi từ
trong thân mình phát ra, thì nghĩ rằng cái tâm ở xa di chuyển
đến gần. Trong khi nghe mùi phát sanh từ thân mình mà có mùi
từ ở ngoài đến thì cho rằng cái tâm ở gần đã đi ra xa. Khi cảm nhận xúc giác từ nơi xa, như ở chân chẳng hạn,
và có một xúc giác khác ở ngực, cảm giác ở xa hình như
di chuyển đến gần, và ngược lại. Trong khi nghĩ đến một đối tượng ở xa mà có ý nghĩ đến
một đối tượng gần, thì hình như tâm ở xa di chuyển đến
gần, và ngược lại. Tóm tắt, thông thường người ta tin rằng chỉ có một
cái tâm thường còn hiểu biết mọi việc, ở xa cũng như ở
gần. Vị hành giả ghi nhận tất cả mọi hiện tượng thấy,
nghe, hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư thông hiểu với sự hiểu
biết và kinh nghiệm riêng của chính mình, rằng tâm ở xa
không di chuyển lại gần; mà tâm ở gần cũng không di chuyển
đi xa. Nó chấm dứt và hoại diệt biến tan ngay vào lúc khởi
sanh. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06
| 07 | 08 | 09 Xem bản dịch Anh
Ngữ: Anattalakkhana Sutta by
Venerable Mahasi Sayadaw Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim
Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2002). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Phạm Kim Khánh
dịch
(Xin
lưu ý: Cần có phông chữ Pali Unicode CN-Times
cài vào máy để đọc được các chữ Pàli.)
updated: 01-06-2002