TẠNG KINH
BỘ PHÁP HOA (0262-0273)
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Thị.
Phẩm 1: Pháp Luân Không Thoái Chuyển
Phẩm 3: Phụng Trì Trì Chánh Trì Chánh Pháp
Phẩm 17: Nói Về Việc Bài Báng Kinh Nầy
Nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật đang thuyết pháp độ sinh trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Lúc này, khoảng gần sáng, Đức Thế Tôn bắt đầu nhập Chánh định Ly Cấu quang. Bồ-tát Vănthù-sư-lợi cũng nhập Chánh định Phổ minh, còn Bồ-tát Di-lặc thì hướng dẫn các Bồ-tát nhập Chánh định Phổ hiển.
Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất sau lúc ngủ nghỉ đã thức dậy, ra khỏi phòng mình, tự nhủ là sẽ đi đến chỗ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và muốn vào thẳng phòng, nhưng chưa kịp vào thì chợt thấy căn phòng của Phật rồi đi tiếp về phía trước, lại thấy mười muôn hoa sen nhiều không thể tính kể đang vây quanh phòng ở của Phật, lại nghe từ xa có tiếng nhạc lớn vọng lên rất rõ, rồi từ đóa hoa sen lớn ấy phát ra ánh sáng chiếu khắp khu lâm viên Kỳ-đà cùng khắp thành Xá-vệ, không đâu không thấy, cảnh giới Phật trong tam thiên đại thiên thảy đều được chiếu sáng rực rỡ. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất liền dừng bước, cố nán lại mà không có ý chờ đợi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nhưng không tự biết Bồ-tát đang ở trong phòng, bèn đến trước phòng Bồ-tát, thấy Bồ-tát đang ngồi kiết già nhập định dáng vẻ hết mực an nhiên. Tôn giả Xálợi-phất liền búng ngón tay báo cho biết nhưng Bồ-tát vẫn bất động, cất tiếng gọi lớn mà cũng chẳng hề nhúc nhích. Hiền giả liền nhất tâm quán tưởng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, hiện ra sự biến hóa cảm ứng rộng lớn như thế, lại thấy thân mình đang ở trên biển lớn, hết sức ngạc nhiên nên muốn rời khỏi căn phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang nhập định nhưng không thể rời được, liền dùng thần túc bay vụt lên hư không, nhưng lại bị vướng.
Tôn giả Xá-lợi-phất vận dụng hết thần lực mà vẫn không thể vượt lên được, lại thấy thân mình cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và cả căn phòng tự nhiên đi về hướng Đông, lúc này Tôn giả Xá-lợiphất đứng trước Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, ngồi kiết già, chăm chú nhìn Bồ-tát không hề biết chán. Bấy giờ, cả hai vị đi về phương Đông vượt qua hằng hà sa số cõi Phật để đến cõi Phật này, thế giới ấy tên là Bất thoái chuyển âm, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu.
Tôn giả Xá-lợi-phất đi theo Bồ-tát Văn-thù-sưlợi đến ra mắt Đức Phật ấy, tất cả lỗ chân lông của Phật đều hiện ra hoa sen, các hoa sen đó đều tỏa ra vòng ánh sáng đến bốn mươi muôn dặm chiếu sáng khắp cõi Phật trong tam thiên đại thiên. Các hoa sen ấy có cành bằng mười muôn thứ châu báu kỳ diệu và tòa Sư tử bằng kim cang đá, đá màu, vàng ròng, tất cả các vị Bồ-tát đều ngồi trên tòa ấy, các vị đó đều không lui sụt đối với đạo Vô thượng chánh chân, được pháp tổng trì, năm phép thần thông tự tại, đầy đủ pháp nhẫn, ba mươi hai tướng trang nghiêm thân mình. Từ rốn của Đức Như Lai Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu Chí Chân Đẳng Chánh Giác mọc ra hoa sen thanh tịnh không chút tì vết, với trăm ngàn màu sắc không thể kể xiết, có cành cuống bằng ngọc lưu ly xanh giao xen nhau, tòa ngồi bằng chiên-đàn tốt nhất cùng các thứ châu báu, dùng các thứ chuông báu kỳ lạ giăng treo khắp bốn phía. Tòa ngồi ấy còn trống, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền ngồi lên trên đó, rồi cùng với tòa Liên hoa sư tử ấy vụt biến lên cao tới cõi trời Tam thập tam, rồi trở lại nơi chỗ Đức Phật cúi đầu đảnh lễ, đi vòng quanh chỗ Phật ba vòng và đến trở lại ngồi trên hoa sen, chắp tay tự quy y Đức Thế Tôn. Lúc này, Đức Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu Như Lai Đẳng Chánh Giác liền hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Nhân giả từ đâu mà khổ công đi đến cõi nước này?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Bạch Thế Tôn! Con từ thế giới Ta-bà đến đây. Lúc bấy giờ, vị Bồ-tát theo hầu Đức Phật, hiệu là Nhu Âm Nhuyễn Hưởng Bồ-tát Đại sĩ, chí nguyện luôn gắn bó với đạo Vô thượng chánh chân, không thoái chuyển, liền từ trên hoa sen sửa lại y phục, quỳ thẳng chắp tay thưa hỏi Phật:
–Cõi Ta-bà ấy cách đây bao xa?
Phật bảo:
–Về phương Tây, cách cõi này hằng hà sa số cõi nước, có thế giới Ta-bà, Tôn giả Văn-thù-sưlợi từ cõi ấy đến đây.
Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hưởng lại hỏi Phật:
–Đức Phật ở thế giới Kham nhẫn ấy hiệu là gì, hiện tại đang làm gì?
Đức Thế Tôn đáp:
–Đức Phật ở đấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni, Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện đang giảng nói chánh pháp.
Lại hỏi Phật:
–Bậc Đại Thánh ấy hiện đang giảng nói pháp gì?
Đức Phật nói:
–Đức Phật ở cõi ấy hiện đang chỉ dạy về ba thừa.
Vị Bồ-tát theo hầu lại hỏi:
–Thế nào gọi là ba thừa?
Phật đáp:
–Đó là Thanh văn, Duyên giác cùng Phật thừa rộng lớn, Đức Phật Thích-ca nói pháp như thế là chỉ dạy ba thừa.
Vị Bồ-tát theo hầu lại hỏi:
–Chư Phật, Thế Tôn nói kinh khai mở, hóa độ chúng sinh không bình đẳng sao?
Phật dạy:
–Tất cả đều bình đẳng.
Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hưởng lại hỏi Phật:
–Thế nào gọi là bình đẳng?
Đức Thế Tôn dạy:
–Giảng về pháp không thoái chuyển, đó gọi là bình đẳng.
Lại hỏi:
–Vì lý do gì mà Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác giảng nói về ba thừa tu tập như vậy?
Đức Phật Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu nói với vị Bồ-tát ấy:
–Chúng sinh ở cõi đó tánh tình ngang bướng, khó giáo hóa, tâm ý yếu đuối nên khó dùng Nhất thừa để hóa độ tất cả được, vì thế cho nên chư Phật, Thế Tôn phải khéo léo quyền biến dùng các phương tiện nói pháp độ sinh, Đức Năng Nhân Như Lai xuất hiện ở cõi đời năm uế trược nên cũng dùng ý nghĩa phương tiện quyền xảo tùy thời khéo léo mà giáo hóa muôn loài.
Lại hỏi:
–Bạch Thế Tôn! Ở thế giới Kham nhẫn ấy, giảng nói chánh pháp, công việc giáo hóa đó hẳn là rất khó khăn, vất vả, vậy thì phải làm thế nào?
Đức Phật dạy:
–Đúng vậy, phải luôn gắng sức, lo lắng hết mực!
Vị Bồ-tát theo hầu lại nói:
–Bạch Thế Tôn! Thật sung sướng thay! Chúng con nhờ lợi ích tốt đẹp nên chẳng sinh vào thế giới ấy.
Đức Phật bảo:
–Hãy thôi, không được nói như thế, phải nên bỏ ý nghĩ đó và tự sửa đổi lỗi lầm của mình.
Lại thưa:
–Vì sao phải sửa đổi lỗi lầm của mình? Thế giới Kham nhẫn đó công việc giảng nói chánh pháp hết sức khó khăn nên chúng con chẳng nguyện sinh về cõi ấy.
Đức Thế Tôn dạy:
–Các vị chớ nghĩ như thế và nói lại lời ấy. Phải tự sửa đổi lỗi lầm của mình. Vì sao? Vì ở cõi Phật này tu tập trải qua hai mươi ức na-do-tha trăm ngàn kiếp vun đắp cội đức, chẳng bằng ở cõi Kham nhẫn đó, tu từ lúc trời vừa sáng đến bữa ăn trưa, vì chúng sinh mà giảng nói đủ các pháp, khai ngộ giáo hóa biết bao kẻ mê muội tăm tối quy mạng Tam bảo, khiến họ thọ năm giới, chỉ rõ con đường tu tập cho Thanh văn, Duyên giác. Ở cõi ấy làm bậc Bồ-tát Đại sĩ rất khó, huống chi là chỉ dạy khiến trở thành Sa-môn, từ bỏ cuộc sống thế tục, gần gũi gắn bó giữ gìn đạo pháp, hỗ trợ khuyến khích, chỉ dẫn ý nghĩa của các pháp lành, hoặc lại mở rộng làm cho đạo pháp càng thêm rộng lớn. Điều ấy bậc Bồ-tát Đại sĩ giáo hóa khó đạt được. Vì sao? Vì ở thế giới Kham nhẫn ấy có nhiều hoạn nạn.
Lại hỏi:
–Hoạn nạn gì?
Đức Thế Tôn đáp:
–Này Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hưởng! Giả sử trong thời gian bằng tuổi thọ của Hiền giả, ở nơi na-do-tha ức trăm ngàn kiếp được nghe và nhận biết vô số chư Phật cùng cõi nước có tuổi thọ lâu dài, cũng không thể tìm hiểu nghiên cứu cho cùng tận, cũng vậy, thế giới Kham nhẫn đó gồm chứa bao điều dâm dục, giận dữ, si mê và vô số các pháp ác không thể nào tính kể hết. Nay ta dùng lời nói để chỉ rõ nhân duyên tội phước của con người nơi cõi ấy, lại dùng trí tuệ Phật để phân biệt rõ ràng, thế giới Kham nhẫn đó là một thứ nhơ xấu không thể nói hết.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Nhu Âm Nhuyễn Hưởng ba lần cất tiếng lớn và rõ khen ngợi:
–Kỳ diệu thay! Đức Năng Nhân Như Lai là Bậc Sư Tử dũng mãnh, là vua cõi người đầy lòng Từ bi, đạo đức lồng lộng, không hề chướng ngại. Nghĩ nhớ trí tuệ sáng suốt của Đức Thế Tôn, trang nghiêm, cung kính. Nhờ cội gốc công đức bản nguyện của tâm cho nên vì chúng sinh mà nhẫn nhục chịu nhiều khổ nhọc để giảng nói đạo nghĩa, dứt bỏ dâm dục, giận dữ, si mê, vô lượng pháp xấu ác, dạy phát tâm Thanh văn, Duyên giác, khai hóa giúp họ dần dần đạt quả vị Phật, làm sáng tỏ đạo pháp; là Bậc đạt trí tuệ sâu nhiệm ứng hiện khắp chốn, nên chính là cội gốc của các công đức; là Bậc chí nguyện không vì mong cầu vinh hoa...
Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hưởng dứt lời khen ngợi thì tất cả các vị Bồ-tát ở đấy đều chọn lấy những đóa hoa bằng bảy thứ báu, màu sắc sáng rực với vô số trăm ngàn vẻ đẹp, thảy đều thanh tịnh không dính bụi bặm; lại có vô lượng lá, thân bằng kim cang; trên cọng hoa vẫn còn đọng sương do các báu chiên-đàn nhiệm mầu hợp thành, chuỗi anh lạc trải khắp để trang nghiêm.
Các vị Bồ-tát ấy tâm đạt Thiên nhãn, Túc mạng, thể hiện đầy đủ các công hạnh của bậc Bồtát, giống như huyễn hóa ý tràn ngập niềm vui thích, vụt bay lên hư không, tay cầm đóa hoa ấy, từ xa hướng về Đức Thích-ca Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đoái nhìn về thế giới Kham nhẫn, nhất tâm rải hoa như trận mưa, dù lọng quý giá, lụa là cờ phướn, nhân đấy mà cúng dường Đức Năng Nhân Như Lai. Lại tung rải các thứ hương thơm, đốt đủ loại hương chiên-đàn, hương bột, tự ở nơi cõi ấy, năm vóc gieo xuống đất, hướng về phương Tây đảnh lễ đồng khen ngợi:
–Nam-mô Năng Nhân Phật Đẳng Chánh Giác, cùng các vị Bồ-tát Đại sĩ nơi thế giới Kham nhẫn, mặc áo giáp công đức vô tận, ý chí tinh tấn, tâm không kiêu mạn, công đức cao vòi vọi, tâm ấy rốt ráo, rất tôn quý, nhiệm mầu, phụng thờ chánh pháp, dùng chánh pháp làm sức mạnh, khởi lòng Từ bi thương xót chúng sinh, soi ánh sáng rực rỡ, tu tập Nhất thừa...
Các vị Bồ-tát khác đồng thanh khen ngợi:
–Nguyện được ra mắt Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác cùng các vị Bồtát, khiến lời Phật dạy không bị mất đi.
Lúc ấy, Đức Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu Như Lai nghe tiếng các vị Bồ-tát khen ngợi, liền biết rõ tâm niệm của các vị Bồ-tát Đại sĩ ấy là đang mở mang Phật pháp, phân biệt các nghĩa lý quan trọng nên tâm của Như Lai rất vui mừng liền nói với các vị Bồ-tát:
–Này các vị thuộc dòng tôn quý! Các vị nên đi thăm hỏi chiêm ngưỡng Đức Phật Năng Nhân Vô Trước Chánh Giác và các vị Bồ-tát, nhân dân ở thế giới Kham nhẫn, tu theo lời dạy của Đức Phật kia, tùy thuận giáo hóa chúng sinh, đầy lòng thương xót, muốn cứu vớt bao nỗi nguy ách, đối với các pháp sâu mầu không hề sợ hãi, không cho đó là khó, không hề bài bác, vun trồng cội gốc công đức, tâm không vướng mắc, không mong cầu phước thực hành sáu Độ vô cực. Các vị Bồtát Đại sĩ sinh vào thế giới Kham nhẫn, tôn sùng bản nguyện thuở xưa của Đức Năng Nhân Như Lai, tôn thờ Chánh pháp, lấy đạo làm sức mạnh, học hỏi công hạnh của các Đức Phật.
Bồ-tát đáp:
–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Chúng con xin vâng lời Phật dạy sẽ đến thăm hỏi, chiêm ngưỡng tất cả và ân đức từ bi của các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, xé rách lưới nghi.
Đức Như Lai Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu Đẳng Chánh Giác bảo Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hưởng:
–Các vị nên cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thế giới Kham nhẫn, được nghe những lời chỉ dạy để tâm thông suốt sáng tỏ.
Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hưởng liền thưa với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Chúng tôi muốn đến chỗ Đức Năng Nhân Như
Lai để được thấy thế giới Kham nhẫn, nhờ trí tuệ của bậc Thánh khiến cho ý nguyện của chúng tôi được thành tựu.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Sung sướng thay hạnh nguyện ấy! Này các vị Bồ-tát thuộc dòng họ cao quý! Chư Phật, Thế Tôn khó thấy, khó gặp. Vì sao? Vì hàng vạn hàng ức đời mới xuất hiện một lần, lại phải tạo được nhân lành cúng dường phụng thờ từ trước. Cho nên Phật xuất hiện ở mười phương thế giới là vì lòng Từ bi thương xót chúng sinh, giáo hóa để đưa họ trở về chánh đạo, giúp họ đạt được trí tuệ giác ngộ. Phải vì tất cả muôn loài, người cũng như vật, kể cả hạng căn trí thấp kém nhất, để dắt dẫn họ biết quy thuận cung kính lễ bái chư Phật Thế Tôn, học hỏi kinh điển, khiến cho loài người trong mười phương đạt được sự an vui trên hết.
Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hương đáp:
–Chúng tôi mong được cùng đi với Nhân giả, để cùng được ra mắt chư Phật, quy mạng thưa hỏi nhận lãnh, học tập đức từ bi hóa độ chúng sinh của bậc Thánh trí.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cúi đầu đảnh lễ Đức Như Lai Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi cùng với các vị Bồ-tát tâm ý cung kính và Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Phật nói pháp, lãnh hội lời giảng dạy, chiêm ngưỡng Phật không biết chán, quán thân do năm uẩn giả hợp như huyễn hóa. Các vị thảy đều dùng hương hoa, các thứ chiên-đàn, hương bột, lụa là, cờ phướn để cúng dường Phật, mong nhờ cội gốc công đức của Phật mà tâm ý được vững chắc để tôn thờ Tam bảo, hóa độ chúng sinh, phụng thờ chư Phật. Nói lời đó vừa xong, chỉ trong khoảnh khắc tất cả đều biến mất.
Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng Tôn giả Xá-lợi-phất tiếp tục đi về phương Đông, trải qua hằng hà sa số cõi Phật, đều đến trước mặt các Phật Thế Tôn ở các cõi ấy, đều được nghe các Đức Phật giảng nói kinh ấy, giảng pháp Đại thừa không thoái chuyển, thanh tịnh, không chút cấu nhiễm. Các cõi Phật đó không có người nữ, cũng không có Thanh văn, Duyên giác. Tất cả các cõi Phật đó đều có cuộc sống trong sạch, tươi đẹp, giống như cõi nước của Đức Như Lai Tối Tuyển Quang Minh Liên Hoa Khai Phẫu không khác. Các đạo tràng Bồ-tát đầy khắp cõi Phật.
Chư Phật Thế Tôn ở những cõi nước đó đều hiện ra từ những đóa hoa sen. Bồ-tát Văn-thù-sưlợi khắp trên chỗ ngồi rung động, biến hóa oai nghi như nhất cúng dường các Đức Phật.
Hết phương Đông đến phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Đông nam, phương Tây nam, phương Tây bắc, phương Đông bắc, phương trên, phương dưới. Bấy giờ, ở mười phương đều có hằng hà sa số cõi nước của chư Phật, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đều hiện ở trước mặt, cùng khắp mọi nơi. Các Đức Như Lai ấy đều giảng pháp Đại thừa không thoái chuyển, không chút nhầm lẫn. Tất cả các vị thị giả chư Phật đều cung kính trang nghiêm, chí nguyện luôn gắn bó với đạo pháp, ở trên hoa sen quỳ thẳng chắp tay thưa hỏi Phật:
–Vì sao Đức Năng Nhân Như Lai giảng dạy nêu rõ ba con đường tu tập?
Tất cả đều muốn được đến đạo tràng Đức Năng Nhân Như Lai, để được thưa thỉnh giáo pháp, tất cả đều mong được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thi ân giúp đỡ. Chư Phật ở mười phương cũng đều nói với các vị Bồ-tát ở cõi ấy:
–Các vị nên cùng đi với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến cõi Phật của Đức Năng Nhân Như Lai, ở đấy là châu Diêm-phù-đề thuộc thế giới Kham nhẫn.
Bấy giờ, trời còn tối, chưa sáng. Tôn giả A-nan lúc này nhìn thấy ánh sáng từ nơi cửa sổ ở mái hiên chiếu vào phòng, liền đứng dậy, muốn ra khỏi tinh xá, lại trông thấy cả khu Kỳ hoàn sáng rực như ban ngày, ngước nhìn lên không trung cũng chẳng thấy có trăng, xem kỹ đám cây trong khu vực thì chỉ thấy toàn là nước một màu xanh lơ như ngọc bích, loang loáng và trong lành, hoàn toàn không còn thấy cây cối, phòng ốc đâu cả. Tôn giả A-nan tự nghĩ: “Hôm nay hẳn là Đức Thế Tôn sẽ giảng pháp sâu xa rộng lớn cho nên trước hiện điềm lành này”.
Lúc này, Tôn giả A-nan giở chân lội vào trong nước nhưng nước không dính chân, mà cũng không có chỗ nào bị chìm ngập cả, nên lòng hết sức vui mừng thích thú, liền đi thẳng tới chỗ phòng của Phật mong thấy Đức Thế Tôn, chợt thấy hàng ngàn hàng muôn đóa hoa sen ở chung quanh căn phòng của Phật, lại nghe âm thanh tiếng nhạc vang động. Các đóa hoa sen kia đều phát ra ánh sáng chiếu sáng khắp khu lâm viên Kỳ hoàn và thành Xá-vệ, cả tam thiên đại thiên thế giới không đâu là không có ánh sáng chiếu đến. Lòng tràn ngập niềm vui thích, Tôn giả A-nan liền sửa y bày vai phải, quỳ thẳng chắp tay, cúi đầu đảnh lễ, tự quy y Đức Phật.
Bấy giờ, sao mai lên cao, trời đã sáng dần, các đóa hoa sen lớn đang bay vòng quanh căn phòng của Phật, có đóa lớn nhất bay vào trụ ở giữa khu lâm viên Kỳ hoàn. Tôn giả A-nan liền nghĩ: “Ta phải lo sửa sang chỗ ngồi cho Phật vì chắc Đức Thế Tôn sẽ nói pháp nên mới hiện các điềm lành như thế.”
Sửa soạn tòa ngồi vừa xong thì đồng thời cả tam thiên đại thiên thế giới rung chuyển sáu cách. Các cõi Phật trong mười phương cùng với hằng hà sa số các cõi Phật khác thảy đều rung chuyển như vậy. Âm thanh lớn vang động khắp chốn nhưng không làm ai sợ hãi mà chỉ vui mừng. Rồi nào hoa sen màu xanh, màu hồng, màu vàng màu trắng hiện ra khắp cõi Phật. Cây cối cũng tự nhiên sinh, cành lá hoa trái um tùm tươi tốt.
Các chúng Tỳ-kheo đều muốn ra khỏi phòng nhưng không thể được. Lại thấy cả khu Kỳ viên đều là nước, những chỗ ngập thì nước loang loáng và trong, còn chỗ cửa tinh xá thì thấy ánh sáng rực rỡ. Tất cả các vị Tỳ-kheo thảy đều nghĩ: “Ngày hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói pháp mầu sâu nhiệm cho nên mới hiện trước các sự việc lạ này.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn Năng Nhân Đại Thánh xuất định, ra khỏi phòng, đến tòa Sư tử và an tọa. Cùng lúc, tất cả các Đức Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới, từ thân phát ra ánh sáng rực rỡ với vô số màu sắc khác nhau không thể tính kể, chúng dân ở các cõi ấy thảy đều trông thấy.
Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang đến khắp mười phương, cùng với chúng Bồ-tát đi tới khắp các cõi Phật để cúng dường các Đức Phật. Vị Đại Bồ-tát ấy, hướng dẫn các Đại sĩ, thị hiện thần thông không thể suy nghĩ bàn luận để cứu giúp, làm lợi ích cho các loài chúng sinh, đưa họ về với Phật pháp, giáo hóa độ thoát tùy theo sở thích mà chỉ dạy dẫn dắt, vì chúng sinh trong mười phương mà nói pháp, công việc đã xong.
Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trở về, thấy Đức Năng Nhân Như Lai đang ngồi trên tòa Sư tử, các vị Bồ-tát đi theo cùng đến khu lâm viên, đều từ dưới đất vụt hiện lên, cùng với vô số hàng trăm ngàn ức triệu na-do-tha chư Bồ-tát khác, đi nhiễu quanh Đức Thế Tôn vô lượng vòng, tất cả đều hóa hiện vô lượng đóa hoa sen không thể tính kể, có đến mười muôn cánh với màu sắc khác nhau để cúng dường Phật, các hoa sen đó đều phân bố khắp cảnh giới Phật không thiếu một chốn nào.
Các vị Bồ-tát ấy lại tung rải các thứ hương chiên-đàn, hương tạp, hương bột, đủ các thứ hương thơm nhiệm mầu xông phủ khắp các cõi nước trong tam thiên đại thiên thế giới, đều nhằm nêu bật tánh chất cao đẹp của các thứ hương thơm do tu sáu pháp Ba-la-mật là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ mà có được. Đó là hương thơm của thần thông phương tiện quyền xảo; là hương thơm của Chánh pháp được truyền bá ngày thêm phong phú; là hương thơm nhiệm mầu của trí tuệ giác ngộ mà các vị Bồ-tát đạt được do dốc sức tu tập sáu pháp Ba-la-mật; là hương thơm của sự thông đạt kinh nghĩa cùng quyết tâm tu hành; lớp lớp những thứ hương ấy đều phát ra ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp đạo tràng của các Đức Phật trong mười phương.
Các vị Bồ-tát ấy đều là những bậc mạnh mẽ, ý chí vững chắc, thừa uy lực của các Đức Phật, hóa độ chúng sinh để cúng dường đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là bậc gồm đủ các hạnh tinh tấn, siêng tu Chánh đạo, tâm luôn vững chắc không gì có thể lay chuyển được. Tất cả các vị Bồ-tát ấy đều quy mạng Như Lai.
Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các vị Bồ-tát vì tất cả chúng sinh, nên đã dùng ngọc mani, như ý trang nghiêm đạo tràng, hiện tám phẩm cây báu xếp thành hàng hàng, tên là Bảo thọ biên thụ tràng phan giăng mắc các thứ màn làm bằng châu ngọc, đá màu, vàng ròng, giao xen thành ngọc minh nguyệt chiếu trên mặt đất. Lại hóa hiện đủ các phòng ốc, giảng đường, lầu gác với các cửa sổ cao thấp, mái hiên chạm trổ nhiều đường nét. Rồi nào dòng suối, bể nước, sông lớn, sông nhỏ, dọc ngang xen những vườn cây vườn thú. Từ dưới suối trong mọc ra các hoa sen với các cánh hoa màu xanh, hồng, vàng, trắng đều bằng ngọc minh châu, hiện diện khắp chốn. Mặt đất thì vọt lên nước cam lồ có đủ tám mùi vị giải thoát. Tất cả mọi sự biến hóa của các vị Bồ-tát trong lúc này đều xuất phát từ ý nguyện độ sinh, nhằm nêu rõ tánh chất lớn lao của Chánh đạo để khiến họ được an vui, tin tưởng.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã vâng theo lời Phật dạy, thuận theo đạo lực của chính mình, cũng là bản nguyện của Đức Năng Nhân Như Lai, nên đã biến hiện như vậy để khai mở hóa độ chúng sinh, Bồ-tát Nhu Âm Nhuyễn Hưởng… đều thường khuyến khích giúp đỡ, không thể suy nghĩ, bàn luận “vô tâm – bất tâm”, khéo tư duy cũng như nêu rõ, dẫn dắt, mặc áo giáp, công đức lớn lao, thuận theo sự tinh tấn, thân hành công đức cao vời, sở nguyện của tâm chí là nhằm trang nghiêm khắp cõi. Tất cả mọi sự việc hoàn tất, thảy đều an trụ trước Phật.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn, sắp giảng nói giáo pháp, liền phát ra luồng ánh sáng chiếu sáng đến chỗ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cùng các vị Bồ-tát Đại sĩ khác đang an vị trên các tòa báu. Lúc ấy tự nhiên có đến mười muôn đóa hoa sen từ thân Phật hiện ra với vô số ánh sáng màu sắc không thể tính kể, hàng trăm ngàn đóa sáng rực cùng chiếu vào nhau, dùng các vật báu làm cành, các thứ ngọc ngà châu báu giăng mắc thành vòng xen lẫn với ngọc ma-ni, dùng các thứ hương chiên-đàn xông khắp các tòa báu sư tử, các chúng Bồ-tát Đại sĩ này đều ngồi trên các tòa báu ấy hiện ra đầy khắp hư không.
Bấy giờ, Đức Phật Năng Nhân, nơi rốn có ánh sáng hiệu là Kim cang, lại có tên là “Cứu giúp các loài chúng sinh”, phát ra ánh sáng ấy với trăm ngàn ức đóa hoa sen, mỗi đóa đều có ánh sáng khác nhau không thể tính kể được ánh sáng, hoa sen mùi hương tinh khiết, thanh tịnh nhiệm mầu màu vàng tử ma. Lại có các màn trướng xen nhau không nơi chốn nào bị trở ngại. Từ trong các đóa hoa sen đó tự nhiên hóa hiện hàng ngàn ức hoa sen khác. Tất cả các Đức Phật đều hội nhập vào pháp giới bình đẳng một loại, từ đó tu tập các pháp môn giải thoát cùng giảng nói các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, dứt các tà hạnh, chẳng sinh chẳng diệt, ba đời thảy đều không, nêu rõ tánh chất thanh tịnh, tự nhiên làm khuôn mẫu, hóa ra ngàn ức đóa hoa sen báu.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khoan thai nhẹ bước, tâm vắng lặng đến ngồi trên đóa sen báu ấy, không chút mê đắm về thân, thể Phật, tâm nghĩ Đức Thế Tôn biết tất cả, dốc chí với pháp Tammuội, hiệu là Du kim cang, đã học pháp với Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, nên lúc nào cũng tỏ ra hâm mộ các pháp Tammuội.
Khi ấy, Đức Thế Tôn thấy Bồ-tát Văn-thù-sưlợi cùng các vị Bồ-tát Đại sĩ ở các cõi Phật trong mười phương an tọa, trong chánh định, tu các Phật pháp, cúng dường vô số bậc Đại thánh ở quá khứ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thấy vậy nhiếp giữ tâm, không yếu đuối, thuận theo đạo hạnh của Phật, ngồi trên tòa Sư tử.
Lúc đó, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông hãy đi khắp trong ngoài khu vườn này thuộc thành Xá-vệ, nói với bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, những vị tin tưởng yêu thích Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng, đã từng vun trồng cội gốc các công đức và mong muốn được thành tựu, khiến họ cùng đến nhóm họp, vì hôm nay ta sẽ nói pháp.
Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, đi khắp khu vườn rừng nói rõ sự việc. Các Tỳ-kheo liền nói: –Chúng tôi đêm rồi đã trông thấy hiện ra các điềm lành lớn, nên xét biết là hôm nay Đức Thế Tôn sẽ giảng nói pháp Đại thừa, nêu rõ những điềm cốt yếu sâu xa, chúng tôi muốn đến dự hội mà không thể đến được.
Tôn giả A-nan hỏi:
–Vậy thì vì chuyện gì làm trở ngại?
Đáp:
–Chúng tôi đều trông thấy cả khu Kỳ thọ bị nước chìm ngập, nước trong xanh như ngọc bích, óng ánh, lại chẳng thấy cây cối, phòng ốc đâu cả, hầu như bị chìm khuất hết, chỉ thấy có ánh sáng rực rỡ, do vậy mà chẳng thể đến dự hội được.
Tôn giả A-nan liền trở lại thưa rõ sự việc lên Đức Phật.
Phật bảo:
–Này Tôn giả A-nan! Các vị Tỳ-kheo đó do tự ngăn cách nên không hiểu, không có nước mà vọng tưởng cho là có. Các vị Tỳ-kheo đó, không có nước mà cho là có nước, không những do tâm ý chưa được khai mở, mà còn do chưa nhận thức thấu đáo về lẽ sinh tử, nên trở lại cho là có, không giữ tín tâm mà cho là giữ, chưa tôn thờ chánh pháp mà cho là tôn thờ, chưa đạt được tám đẳng mà tâm tưởng đã được, chưa đạt được tánh chất không tham đắm của đạo mà cũng cho đã có được, chưa thành tựu tâm của bậc Thanh văn mà đã cho rằng mình đầy đủ, chưa rõ được tâm bậc Duyên giác mà cũng cho là đã đạt đến... A-nan! Ông hãy trở lại nói rõ với họ như vậy để họ đến dự hội.
Tôn giả A-nan vâng lời trở lại nói đầy đủ những lời Đức Thế Tôn đã dạy rồi trở về bạch Phật:
–Hiện giờ bốn chúng đệ tử đều đã đến nhóm họp dự hội.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn gọi Tôn giả Mục-liên:
–Hiền giả nên đi khắp tam thiên đại thiên thế giới kêu gọi tất cả các vị Bồ-tát Đại sĩ có sức học thâm sâu, mặc áo giáp vô cực, chí cầu pháp Đại thừa, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Nhân phi nhân... nói cho tất cả được biết là hôm nay Đức Thế Tôn khai pháp hội lớn, giảng nói những điều quan trọng chưa từng được nghe. Bốn chúng đệ tử, nhân phi nhân ấy, hoặc ở trên các cõi trời, hoặc ở nơi thế gian, đều đã từng kính thờ các Đức Phật thời quá khứ, chí nguyện luôn gắn bó với Đại thừa, tu học giữ vững một đường, tâm ngưỡng mộ bậc Đại trí tuệ nhiệm mầu tối thượng, vòi vọi vô cực, các bậc Bồ-tát Đại sĩ mặc áo giáp công đức lớn, mong cầu pháp nghĩa lợi ích, tinh tấn không hề ngừng nghỉ, đều giúp cho các vị đến dự hội được nghe pháp sâu nhiệm.
Tôn giả Mục-liên vâng lời Phật dạy, tự dùng đạo lực vốn có của mình, chỉ trong khoảnh khắc đã đi khắp tam thiên đại thiên thế giới thông báo rõ về việc Đức Thế Tôn sắp giảng nói pháp chưa từng có, nên cùng nhau đến nghe. Sau đó ngài Mục-liên lại dùng thần túc trở về đạo tràng đến trước Phật, bạch với Đức Thế Tôn là mình đã hoàn tất công việc được giao.
Lúc này, bốn chúng đệ tử vây quanh đạo tràng đến những bốn mươi muôn dặm, các Trời, Rồng, Thần đứng đầy khắp hư không, kín cả một vùng đến những năm mươi muôn dặm.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Thế Tôn:
–Hiện giờ bốn chúng đệ tử đã đến tụ hội, các Trời, Rồng, Thần đều có mặt đầy chật cả hư không, tất cả đều nhất tâm chắp tay lễ Phật, đều quán sát uy thần biến hóa của Như Lai với muôn ngàn ánh sáng rực rỡ, chói lọi, không đâu là không chiếu sáng, chúng hội đều an tọa, cung kính trang nghiêm mong Phật nói pháp.
Khi ấy, nét mặt Đức Thế Tôn lộ rõ vẻ hân hoan, mỉm cười, tức thì các hoa sen bằng bảy báu từ dưới đất vụt hiện lên, trên mỗi cánh hoa đều có vô số trăm ngàn màn quý xen nhau phô bày, lớn như bánh xe to hơn cả tòa ngồi của trời Đế Thích, giăng treo các thứ ngọc minh nguyệt, ngọc đỏ, các thứ chuỗi làm cờ, tất cả đều hướng về tám phương muốn cứu giúp tám nạn. Tất cả bốn chúng đệ tử trong chúng hội là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ cùng các vị Trời, Rồng, Thần, Càn-thát-bà..., Nhân phi nhân đều an tọa trên các đóa sen ấy để được nhìn rõ tôn nhan Đức Như Lai. Các vị Bồ-tát Đại sĩ theo hầu Bồ-tát Văn-thù-sưlợi đều có tướng tốt đầy đủ, uy thần lồng lộng, hầu như đều giống nhau, an tọa trên các đóa sen, nhất tâm chắp tay, hết mực cung kính hướng về Đức Phật cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, chí cầu đại đạo.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bước ra bạch Phật:
–Nay bốn chúng đệ tử cùng các vị Trời, Rồng, Thần đều khao khát mong cầu Đức Thế Tôn giảng nói về chuyển pháp luân không thoái lìa mọi cấu nhiễm. Các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ này cùng với các vị Trời, Rồng, Thần đông vô số ngàn, dốc lòng kính tin phụng thờ Chánh pháp, cho đến dự vào Tám bậc hành hóa phát triển đạo, chẳng trở lại, không vướng mắc, các quả vị Thanh văn, Duyên giác... họ đều tỏ ra chấp trước, bám víu, cho nên Đức Thế Tôn dứt bỏ ý niệm chấp trước ấy. Vì sao Như Lai soi rõ các vị trì tín đến việc vâng thờ Chánh pháp, hiện rõ hạnh Duyên giác?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn yên lặng không đáp.
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Bậc Đại Thánh, vào lúc gần sáng, con vừa thức giấc, ra khỏi phòng đi đến chỗ Bồ-tát
Văn-thù-sư-lợi, trông thấy phòng của Thế Tôn rồi đi tiếp về phía trước, chợt thấy có đến mười muôn đóa hoa sen bay vòng quanh căn phòng của Như Lai, tất cả đều phát ra ánh sáng chiếu khắp khu vườn rừng và thành Xá-vệ cũng như khắp cả các cõi nước trong tam thiên đại thiên thế giới, lại nghe tiếng pháp âm lớn hòa cùng âm nhạc vang động.
Mong Đức Thế Tôn nói rõ về sự cảm ứng ấy.
Đức Phật dạy:
–Hôm nay ta sẽ giảng về chuyển pháp luân không thoái, Văn-thù-sư-lợi cũng đã nhận biết về điềm lành ấy.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Hôm nay, vào lúc gần sáng con thấy ánh sáng từ cửa sổ nơi mái hiên chiếu vào phòng khiến con tỉnh giấc, ra khỏi phòng thì thấy cả khu Kỳ hoàn như ngập trong nước, nước óng ánh và trong lành, lại chẳng thấy cây cối cùng tinh xá đâu cả, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ, vậy điềm cảm ứng ấy là thế nào?
Phật dạy:
–Hôm nay, Văn-thù-sư-lợi sẽ nói về pháp sâu xa Bất thoái chuyển luân, điềm lành ấy ứng hiện là như vậy.
Tức thì Đức Thế Tôn vì Tôn giả A-nan mà nói bài tụng:
Các Đức Phật, vô ngã
Chỉ Nhất thừa vô thượng
Có duyên nên thưa hỏi.
Thừa ấy rất thanh tịnh
Phật đạo không gì hơn
Tiếng êm dịu mạnh mẽ
Hôm nay muốn thưa hỏi.
Thừa ấy dứt tưởng niệm
Thanh tịnh lìa đùa bỡn
Tiếng êm dịu mạnh mẽ
Hôm nay muốn thưa hỏi.
Lời dịu dàng thưa hỏi
Cứu giúp tất cả thừa
Mọi chốn đều thành tựu
Chẳng sạch cũng chẳng thiệt.
Tất cả lời thưa hỏi
Đều chẳng thành đạo quả
Thế Tôn vì vốn không
Chỉ dạy luôn chân thật.
Lời êm dịu mạnh mẽ
Hôm nay muốn thưa hỏi
Ở nơi lìa âm thanh
Mọi tiếng đều bình đẳng.
Lời êm dịu thưa hỏi
Do động, phát âm thanh
Tiếng ấy không giữ được
Pháp không tiếng, không chữ
Lời êm dịu thưa hỏi
Tiếng pháp thảy như gió
Lìa tướng, không thể lập
Nhằm độ kẻ chấp tiếng.
A-nan hãy lắng nghe
Lời vang khắp thưa hỏi
Thân theo nẻo chánh pháp
Dứt tưởng, cũng lại không.
Chư Phật Đẳng Chánh Giác
Vắng lặng không có tướng
Dù nói hay, không nói
Tất cả pháp vô trụ.
Bình đẳng biết không sắc
Chỗ dấu đạo hướng tới
Đạt đến, không trở lại
Các pháp do Phật nói.
Lìa xa mọi hình tướng
Như hư không vô số
Phật đạo không vướng mắc
Đó là lời hỏi khắp.
Phật quá khứ, đương lai
Đến nay cũng như vậy
Trí tuệ đạo hiện bày
Không hề bị bụi bám.
Chẳng thể thấy pháp giới
Chỉ dùng âm thanh nghe
Nhận biết kinh vốn không
Pháp ấy chính là đạo.
Bố thí độ vô cực
Giới tịnh cũng như thế
Nhẫn nhục độ vô cực
Giảng nói rõ Phật đạo.
Tinh tấn độ vô cực
Nhất tâm cũng được vậy
Trí tuệ độ vô cực
Tuệ sáng hiện rõ đạo.
Phật khéo quyền phương tiện
Thần thông đến bờ kia
Mượn tiếng giảng Phật đạo
Không tham đắm thế gian.
Chỉ dạy về ba thừa
Tuyên dương nói các quả
Lời Bậc Đạo Sư dạy
Thuận theo xét bản tánh.
Ta ra đời năm trược
Rõ bao kẻ kém lười
Nên ta vì Phật thừa
Giúp người thành Đại Thánh.
Ta nêu rõ bốn quả
Đã thành, không vướng mắc
Theo âm gọi Thanh văn
Các pháp không duyên hợp.
Chỗ gọi các duyên hợp
Đều cùng nương đó lập
Hiện tại có nhân duyên
Nên nói pháp hiện nay.
La-hán là Thanh văn
Nhờ quán thành Duyên giác
Không hề khởi pháp nhẫn
Tầm nhìn của Bồ-tát.
Là không, dứt mọi tưởng
Thiền bình đẳng, không nguyện
Tiếng ba môn Giải thoát
Cho nên nói Nê-hoàn.
Chẳng vướng các pháp xưa
Đến hiện tại cũng thế
Chỗ gắn cùng mười phương
Không sạch, không thật có.
Lời hỏi nay vang khắp
Pháp sâu mầu vô lượng
Chí thành cùng dốc sức
Chẳng phế bỏ các quả.
Chuyên chú nơi Nhất thừa
Không nghĩ tất cả pháp
Nên thưa hỏi Đức Phật
Duyên nghĩ nhớ quả đức.
Ba đời này bình đẳng
Vắng lặng, dứt các tưởng
Đã vượt mọi âm thanh
Không nương dựa Phật đạo.
Ví như có hai mươi
Dòng chảy của sông suối
Các Bồ-tát cũng vậy
Âm thanh hóa độ khắp.
Theo chư Phật nghe nhận
Chỗ Bồ-tát tu hành
Ba đường đều bình đẳng
Khen ngợi vào Đại thừa.
Âm khắp chí mạnh mẽ
Quyết xé tan lưới nghi
Vun bồi thêm quả đức
Nên hỏi bậc Trí tuệ.
Chỗ Phật xây dựng này
Tu nguyện cũng như thế
Giảng nói cả ba thừa
Cứu giúp bao lo khổ.
Tiếng khắp, chí mạnh mẽ
Nhân vì các tạo tác
Mong Đạo Sư giảng pháp
Chỉ đường đi Bồ-tát
Các trời ức trăm ngàn
Không trung cúng dường Phật
Chí ưa thích quả đức
Thảy đều hết do dự.
Và bốn chúng Tỳ-kheo
Tỳ-kheo-ni, Cư sĩ
Luôn nghĩ về quả đức
Nên phân biệt cho hiểu.
Tiếng êm dịu thưa hỏi
Xé rách các lưới nghi
Các Bồ-tát trong hội
Đều muốn nhận pháp này.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ này xong, Tôn giả A-nan liền bước đến bạch Phật:
–Bạch Đức Đại Thánh, hôm nay Bồ-tát Vănthù-sư-lợi sẽ hỏi Như Lai về chuyển pháp luân không thoái chăng?
Đức Phật bảo:
–Đúng như vậy!
Tôn giả A-nan hỏi:
–Vì sao lại chỉ giảng nói về pháp không thoái chuyển ấy?
Phật dạy:
–Này A-nan! Các Phật, Thế Tôn đều dựa trên pháp không thoái chuyển mới nói pháp được.
A-nan lại hỏi:
–Do duyên tối thắng nào mà chuyển từ việc dốc tin cho đến quả vị Duyên giác, Như Lai chỉ nhằm nêu bật các pháp của Bồ-tát?
Phật dạy:
–Đúng thế, này A-nan! Nên biết trong kinh điển thường đề cao vai trò của Bồ-tát là hơn hết. Vì sao? Vì thân ta sở dĩ xuất hiện ở cõi đời có năm thứ vẩn đục này là vì chí nguyện nhằm cứu vớt những hạng người thấp kém. Các Phật phải dùng các phương tiện quyền xảo, tùy theo thời nghi mà giảng nói kinh pháp. Kẻ ít ham thích những điều giảng dạy nhiệm mầu, phần nhiều đều hâm mộ các pháp, thấp kém, do đó mà Như Lai cũng đã dùng các phương tiện khéo léo để nói các pháp như đã nói, dần dà mới giảng nói các pháp Đại thừa, là những pháp cốt yếu, căn bản. Cho nên phải quán tâm để thuận theo sự phát khởi của tâm ý người nghe mà cứu độ họ. Chí nếu đã đạt đến chỗ nhu hòa, an ổn, không còn có chỗ để tạo lập, mọi khổ vui đều dứt trừ, thấu hiển không từ đâu sinh, chẳng sạch, chẳng diệt, an vui trong cảnh vô vi, dần dần hướng về đại tuệ, Nhất thiết trí...
Bấy giờ Đức Thế Tôn yên lặng không nói.
Khi ấy, Tôn giả A-nan hỏi Bồ-tát Văn-thù-sưlợi:
–Đức Như Lai vì sao im lặng không nói?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Ở thế gian ít người tin được các pháp Như Lai đã giảng nói ấy, ngay như vô số chư vị La-hán ở đây, cũng có tới hàng trăm hàng ngàn vị khi nghe Đức Thế Tôn nói thì trong lòng ngạc nhiên không hiểu, cho rằng Như Lai vì sao lại giảng dạy kinh khác lạ như thế. Nay ta tận mắt xem trong bốn chúng đệ tử ở đây thấy họ lòng còn đầy những ngờ vực. Sao Đức Như Lai không nhân đấy mà nói rõ, từ những trường hợp tin tưởng đặc biệt cho đến vâng thờ Chánh pháp, đạt quả vị Duyên giác, có vướng mắc gì đều khiến được thông đạt. Vô số ức các vị Trời, Rồng, Thần đều cùng do dự, sao Đức Như Lai không nhân đấy mà làm rõ hơn nữa các đầu mối. Con đường tu tập của Bồ-tát không trở lại, cũng không vướng mắc vào bước đường của bậc Duyên giác, vô lượng trăm ngàn ức Bồ-tát ở đây cũng chưa thấu đạt, nên Đức Thế Tôn đã hết lời khen ngợi con đường tu tập của Bồ-tát, từ trường hợp giữ vững lòng tin cho tới việc vâng thờ Chánh pháp, đạt bốn quả Thanh văn, Duyên giác. Có thể nói rằng khi Đức Thế Tôn giảng nói pháp ấy thì tất cả sông ngòi lớn nhỏ, mương rãnh suối khe thảy đều bị dừng lại không thể chảy được. Chim bay trên không cũng không thể lui tới được. Mặt trời, mặt trăng như không còn trước mặt ta, ánh sáng bị che lấp nên cảnh vật trở nên rất u tối. Vì sao? Vì pháp ấy vô cùng nhiệm mầu, khó hiểu, cho nên Đức Như Lai im lặng không nói.
Khi ấy, mười muôn đóa hoa sen đang bay vòng quanh phòng của Phật, thảy đều đồng thanh tỏ lời thỉnh cầu:
–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giảng nói về pháp không thoái chuyển, là pháp cốt yếu thanh tịnh của kinh điển Đại thừa. Chúng con đã từng theo chín mười hai ức, trăm ngàn triệu triệu Phật và được nghe kinh Trí tuệ này, ở nơi các cõi Phật đó thảy đều tu tập theo pháp ấy.
Tôn giả Xá-lợi-phất cũng bước đến trước Phật hết lòng thưa bày:
–Cúi mong Bậc Đại Thánh giảng nói chuyển pháp luân không thoái. Vào lúc gần sáng, con đã cùng với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đi dạo khắp cả vô số cõi Phật ở mười phương, đều nghe các Đức Phật, Thế Tôn ở các cõi ấy nói về pháp nhiệm mầu đó.
Bấy giờ, trong hư không có đến tám mươi lăm ức trăm ngàn triệu triệu vị trời đều cung kính hướng về Đức Thế Tôn thỉnh cầu, mong được nghe Đức Như Lai nói về pháp không thoái chuyển:
–Chúng con hiện đang ở cõi này nhưng đã từng đi theo chín mươi hai ức trăm ngàn triệu triệu các Đức Phật học hỏi, thọ nhận pháp ấy.
Tôn giả A-nan lại bạch Phật:
–Mong được Thế Tôn thương xót mà giảng nói pháp không thoái chuyển. Do đâu mà Thế Tôn nói về ý nghĩa của việc dốc sức tin tưởng, kính thờ Chánh pháp cho đến đạt quả vị Duyên giác. Bốn chúng đệ tử ở đây thảy đều im lặng chăm chú muốn nghe Thế Tôn giảng rõ về pháp ấy, hiện nay có vô số trăm ngàn chúng chưa dứt bỏ được kết sử. Vì sao Thế Tôn lại cố làm sáng tỏ con đường tu tập của Bồ-tát từ việc giữ vững niềm tin, kính thờ Chánh pháp cho đến đạt quả vị Duyên giác. Mối nghi ngờ lớn ấy phải được giải rõ. Cúi mong Như Lai khởi tâm từ bi thương xót mà dứt bỏ mối vướng mắc này, khiến cho tất cả cùng nhận thấy những chứng cớ rõ ràng mà dốc lòng tin theo Thánh đạo.
Phật bảo A-nan:
–Đúng thế! Như Lai là Bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác nên trong khi thuyết pháp giảng kinh chẳng phải giải thích thêm về những chứng cớ đã rõ ràng.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Thế nào là những chứng cớ đã rõ ràng?
Đức Thế Tôn dạy:
–Chứng cớ rõ ràng về kinh sách và người nghe, sau đó mới nói pháp. Pháp lực của Như Lai là Đẳng giác sáng suốt nhất, vì chứng cớ rõ ràng ấy đã phân biệt. A-nan phải lắng nghe khéo suy nghĩ ghi nhớ, giờ ông đã rõ sở nhân của Như Lai nhằm nói về tánh chất sáng tỏ tốt đẹp của hạnh Bồ-tát từ việc giữ vững niềm tin, kính thờ Chánh pháp cho tới đạt quả vị Duyên giác.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng với đại chúng lắng nghe và lãnh thọ giáo pháp.
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Do nhân nào mà Như Lai khen ngợi hạnh Bồ-tát về việc dốc sức giữ vững niềm tin? Là vì Bồ-tát chỉ dạy hóa độ chúng sinh vô lượng không thể tính kể hết, khiến họ đứng vững trong sự dốc tin, được thấy các Đức Phật, cũng như các vị Bồ-tát đã thấy Bậc Đại Thánh mà không chấp vào thân Phật, nhận thức đúng đắn và thích hợp về lẽ sinh tử, cũng không quyến luyến thân năm ấm này vì nó như hư không. Đó là hạnh Bồtát giữ vững niềm tin.
Lại nữa, này A-nan! Bồ-tát tin các pháp là Không, đúng với những điều Như Lai đã giảng dạy không hề sai khác. Lại nữa, này A-nan! Bồ-tát thành thật tin vào trí tuệ Phật, trong tâm tự nghĩ, do nhân gì mà trí tuệ bình đẳng, nhưng cũng không vướng vào chỗ quy hướng của trí tuệ ấy, xem xét như vậy chính là giữ vững niềm tin. Lại nữa, Bồtát không tin năm dục mà đạt được đạo lực, đó là dốc tin. Lại nữa, Bồ-tát vì nhân duyên gì điều phục tâm mình thích ứng với mọi cách pháp thí, riêng đạt đến quả vị Chí chân Chánh đẳng Chánh giác, tâm luôn an nhiên dốc sức đối với pháp thí, tâm nhớ nghĩ về điều ấy, đó chính là giữ vững niềm tin. Lại nữa, Bồ-tát đối với tất cả sở hữu của mình đều có thể đem thi ân bố thí, không hề tiếc đến thân mạng mình để khuyên giúp đạo pháp, không chọn lựa khi thi ân bố thí, không khoe khoang, bỏn xẻn, tất cả đều là phước đức đều nhằm khuyên giúp đạo pháp, luôn quán xét các pháp là không, không thấy mình là Bồ-tát. Sự xét nét chính đáng ấy đã tạo nên niềm tin.
Lại nữa, Bồ-tát dốc lòng với Phật đạo mà tâm không buông lung, ham chuộng các pháp tĩnh lặng để dứt trừ sự vọng động của sáu căn, không tham luyến những thứ ấy mà chí nguyện quên phép tắc của bậc Thánh, hóa độ dẫn dắt chúng sinh không phải là vì chỗ đứng của mình, mà là khiến họ quy thuận kinh Phật, khiến cho đạo pháp càng thêm khởi sắc, hưng thịnh. Bồ-tát phát tâm vì đạo lớn, không chấp vào tâm ấy, cũng không tham đắm; đồng với pháp giới, vì biết rõ tất cả chỉ là sự kết hợp của âm thanh và ngôn từ, đều do bốn đại cùng các thứ khác hợp nên; lại tin rằng tạo tác của muôn vật là vô thường, khổ, không, vô ngã. Sự tin tưởng đó đem đến sức mạnh cho niềm tin vào ý nghĩa của giới, do vậy mà không buông lung, các nghiệp được thanh tịnh, ý được tập trung, chánh thọ vắng lặng vô vi, tin tất cả các cõi đều quy về không, vô tận, thân tâm và pháp giới không khác, đó chính là gốc của niềm tin. Quan sát và nhận thức như vậy nhưng không hề lìa bỏ chúng sinh, xem tất cả con người và pháp giới là bình đẳng, nhưng cũng không thấy pháp giới là có thật. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh rốt cuộc đều quy về pháp giới. Giả sử dốc tin vào các pháp như thế đó gọi là giữ niềm tin.
Lại nữa, Bồ-tát đều tin tưởng chúng sinh, những người có tham dục, cũng không có thọ. Tâm của Bồ-tát luôn an nhiên như hư không, không thấy sự tạo lập của chúng sinh, luôn mở rộng tầm nhìn đến các loài chúng sinh, tất cả đều là Nê-hoàn. Vì sao? Vì chúng sinh là không, nên xét kỹ sự thật cũng vốn là không, vì vậy mà xem chúng sinh đều là Nê-hoàn và khiến cho vô số người đều kính tin như thế. Cho nên Bồ-tát đã giữ vững niềm tin của mình.
Bấy giờ, Đức Phật nói bài tụng:
Khai hóa vô số người
Giúp thấy vô lượng Phật
Không chấp trước các Phật
Đó là vững lòng tin.
Tin, hiểu tất cả pháp
Biết rõ đều là không
An vui dạy như vậy
Đó là vững lòng tin.
Chí hâm mộ đạo tuệ
Tâm thường nghĩ điều ấy
Ta hội đủ nhân duyên
Chí sáng tâm thông suốt.
Đối với năm dục lạc
Lòng không chút tin ưa
Đạt được sức tin ấy
Đó là vững lòng tin.
Kính tin giữ giới cấm
Ta theo nhân nào thành
Dốc lòng hành pháp thí
Giống như Phật Đại Thánh.
Bậc Đại sĩ mạnh mẽ
Tâm tin, hành bố thí
Lòng không cầu phước báo
Đó là vững lòng tin.
Nếu có người cầu xin
Tâm thì đều bình đẳng
Hành động không vướng chấp
Đó là vững lòng tin.
Ưa thích việc thứ cho
Tất cả, không tham cấu
Đều hướng về Thánh đạo
Đó là vững lòng tin.
Dứt vọng động sáu căn
Thông tỏ, dứt sở cầu
Để đạt được pháp lực
Đó là vững lòng tin.
Cung kính hướng về Phật
Tâm rốt ráo trong lành
Dốc sức với đạo pháp
Đó là vững lòng tin.
Lìa bỏ sáu thứ bệnh
Tâm dứt mọi sở cầu
Rõ năm ấm là giả
Đó là vững lòng tin.
Nếu người chẳng mộ đạo
Khuyến hóa khiến ưa thích
Chẳng còn nghi Phật pháp
Đó là vững lòng tin.
Nếu thấy người vui mừng
Dẫn dắt đạo tâm ấy
Tự xét tâm không được
Đó là vững lòng tin.
Tuệ bình đẳng sáu suy
Pháp giới không sai khác
Cõi nước không thể được
Cõi nước và lời, tiếng.
Tâm thường nghĩ thỉ chung
Khổ, không, chẳng tôi, ta
Được sức mạnh trí tuệ
Đó là vững lòng tin.
Thích tu giới cấm Phật
Thanh tịnh không buông lung
Giới, định đã đầy đủ
Đó là vững lòng tin.
Ưa thích cõi vắng lặng
Chúng sinh cũng như vậy
Thảy đều có tương quan
Đó là vững lòng tin.
Không xả bỏ mọi người
Pháp giới cũng như thế
Chấp loài chúng sinh kia
Qua cõi không nghĩ bàn
Như pháp giới không khác
Tin này đã rõ ràng
Cho nên khen dốc tin
Bồ-tát không lo sợ.
Chúng sinh đều tự nhiên
Hiểu rõ không trụ xứ
Rõ muôn pháp đều không
Cõi ấy chẳng thể đạt.
Tất cả người vô vi
Cả muôn loài cũng không
Là Nê-hoàn vắng lặng
Nên làm rõ tất cả.
Nếu Bồ-tát mạnh mẽ
Hiểu chúng sinh như vậy
Cho nên được danh hiệu
Ca ngợi hạnh trì tín.
Dốc sức với Chánh pháp
Khen hạnh giữ lòng tin
A-nan nên ghi nhớ
Phân biệt nói cũng thế.
A-nan! Ta nhân đây
Hành theo đạo không dư
Là pháp đạt Đẳng giác
Bồ-tát bày ánh sáng.
Như thế, này A-nan! Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã hết lời khen ngợi vai trò của hạnh Bồ-tát, ở chỗ làm rõ ý nghĩa của việc giữ vững niềm tin, từ đó dùng các phương tiện khéo léo mà khai mở dẫn dắt chúng sinh.
Phật bảo A-nan:
–Vì sao Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, khen ngợi việc Bồ-tát kính giữ chánh pháp?
Là vì Bồ-tát đối với sự tồn tại của Phật đạo, tâm chí không lui sụt, giữ gìn phép tắc của Phật, phân biệt rõ ràng, không vượt ngoài pháp giới. Đối với kinh sách, sự thông hiểu tỏ ngộ của Bồtát cũng không thể suy nghĩ bàn luận, đối với pháp Tổng trì thường an định bất động, chí nguyện thuận theo lời kinh, luôn làm sáng tỏ tất cả những chỗ còn ngờ. Đối với các pháp, tự nhiên không dính mắc. Đối với pháp Tổng trì thì luôn nắm giữ với tinh thần vô trụ, thuận theo pháp Tổng trì mà không chấp kinh văn, chí thường an vui, tôn kính đạo pháp, đối với tất cả pháp mà không đắm, dùng hạnh Bất thọ để giảng nói Chánh pháp; chí, tánh nhân ái, nhu hòa, mọi hành động đều an ổn, từ đấy giảng về lý vắng lặng trong kinh sách. Đối với việc giữ gìn chánh pháp không nương không bỏ, tất cả tự nhiên theo đúng con đường của các Đức Phật, đạt được ý nghĩa như vậy nhưng chưa từng đánh mất thân mạng mình trong bước đường hành đạo. Thân thường vững bền, đời không thật có, đó gọi là Bồ-tát thường quán sát chưa từng thấy thân nầy an trụ nơi chân lý. Bồ-tát tự thuận theo Chánh pháp. Bình đẳng với cảnh giới, chẳng đến chẳng đi, có hiểu biết các Đức Phật, Bồ-tát có thể nói pháp. Đạt được điều cốt yếu thanh tịnh vô cấu, thấy tất cả pháp không hợp không tan, thấy các kinh điển bỗng nhiên biến mất, cho nên không thấy các pháp vô vi, vì thế mà không thấy. Đã không trông thấy pháp thì cũng không nắm giữ, biết cảnh giới là không thì giảng nói kinh sách, tâm ý luôn an nhiên, dứt mọi đùa bỡn, không hình tướng, mát mẻ, lìa tâm, vô tâm, tâm không thể được, vì không thể được nên đó là đạo tâm, mà tâm ấy cũng không đi lại, nêu rõ con đường vắng lặng, không thể nói năng, không thể mong cầu. Đối với pháp như vậy không dựa vào nhân, sở dĩ không dựa vào nhân vì không có việc phát huy diện mạo các pháp. Thường thuận theo kinh điển là pháp của Bồ-tát nhưng không dính mắc Nêhoàn bất sinh, bất diệt. Bồ-tát nói nghĩa này giống như hiển bày, không ham chuộng chủng tánh, đem những điều đã đạt được như thế để xả bỏ các chủng tánh, đạt đến hạnh Bồ-tát là pháp vô sở đắc. Đối với mọi biến chuyển đều không đến không đi, tất cả các trí tuệ không quá khứ, vị lai, hiện tại. Giữ vững niềm tin như vậy chẳng lay động, không lui không bỏ, kính giữ các pháp không gấp không hoãn. Đó là giữ gìn Chánh pháp, đi đúng con đường của Bồ-tát, đạt được hạnh của các Đức Phật tức là Vô sở đắc, thành Bồ-tát Đại sĩ như thế gọi là kính thờ Chánh pháp.
Bấy giờ, Phật nói bài tụng:
Pháp tất cả các Phật
Không hề có thoái lui
Kính giữ kinh như thế
Đó gọi là giữ pháp.
Giảng pháp của các Phật
An nhiên dứt mọi tưởng
Sâu xa “bất khả đắc”
Đó gọi là giữ pháp.
Không hề bỏ các cõi
Pháp giới không nghĩ bàn
Để đạt đến nghĩa ấy
Đó gọi là giữ pháp.
Kính pháp luôn dốc lòng
Việc làm của các Phật
Tâm không chút vướng mắc
Đó gọi là giữ pháp.
Nắm giữ không tiến, lùi
Tất cả pháp tự nhiên
Không chấp vào kinh điển
Đó gọi là giữ pháp.
Không ở trong vắng lặng
Kính giữ đúng nẻo chánh
Vì thuận theo kinh kia
Đó gọi là giữ pháp.
Đạo thường là Pháp thân
Mến cầu pháp nhiệm mầu
Dứt trừ sự biếng nhác
Đó gọi là giữ pháp.
Nghe, kinh thì lãnh thọ
Học, suy nghĩ, luyện tập
Tánh nhân từ an nhiên
Đó gọi là giữ pháp.
Thường giảng nghĩa đạm nhiên
Theo kinh nhưng không chấp
Đạt được hạnh vô tưởng
Đó gọi là giữ pháp.
Tâm vững bền cùng đạo
Trí sáng, hành vô trụ
Thấy thân mình là không
Kia hiểu sâu như thế
Cho đến thấy không thân
Pháp giới thì bình đẳng
Không đến cũng không đi
Nhận rõ các tưởng thân
Các Phật và Bồ-tát
Có thể giảng nói pháp
Khắp đến kinh điển này
Đó gọi là giữ pháp.
Tất cả pháp vô vi
Pháp giới rất thanh tịnh
Người kính giữ kinh này
Đó gọi là giữ pháp.
Xem khắp tất cả kinh
Vừa thấy, liền chẳng thấy
Nếu không thấy các pháp
Đó là không chỗ giữ.
Các cõi này đều không
Cho nên giảng pháp giới
Tự nhiên lìa các tưởng
Không thân, không đùa bỡn
Tâm lìa bỏ ba cõi
Chí cũng “bất khả đắc”
Nếu không đến được tâm
Niệm ấy là trên hết
Chí nguyện vốn không ý
Giảng pháp nghĩa vắng lặng
Không lời, không đắm nhiễm
Tâm ấy là hơn hết.
Kính thờ được pháp này
Không sinh tâm đắm nhiễm
Không nương vào các cõi
Đó gọi là giữ pháp.
Bồ-tát kính thờ pháp
Như thế hợp kinh sách
Không nương, không chỗ khởi
Hiện bày không tạo tác.
Theo đúng đường đã dạy
Thuận các chủng tánh kia
Đạt được ý nghĩa này
Nên khen ngợi chủng tánh
Tánh ấy nên vun trồng
Đó là nghĩa Bồ-tát
Thuận theo pháp Tổng trì
Đó gọi là giữ pháp.
Rốt không thấy các pháp
Tất cả không chốn đến
Nếu dốc lòng tìm cầu
Cũng không phải pháp ấy.
Nên vì không thú hướng
Mà hiểu tất cả pháp
Phân biệt rõ Tổng trì
Không tạo tác, dao động.
Không bỏ, không chốn tìm
Pháp ấy liền hiện rõ
Không nâng lên, hạ xuống
Tổng trì vui các pháp.
Với các pháp đều không
Giảng nói không chấp trước
Chẳng đạt nơi các kinh
Đó gọi là giữ pháp.
A-nan! Ta hôm nay
Giảng nói hạnh Bồ-tát
Thông đạt đạo nhiệm mầu
Đó gọi là giữ pháp.
A-nan! Ta hôm nay
Khen ngợi người kính pháp
Khiến người nhớ đạo mầu,
Khai mở cho muôn loài.
Trao truyền vô số pháp
Chỗ Bồ-tát ngợi khen
Phương tiện an ổn mãi
Nên khen ngợi kinh này.
Phật bảo A-nan:
–Do vậy mà Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác khen ngợi pháp Tổng trì của Bồ-tát, nghĩa hiển bày này cũng là phương tiện khéo léo.
Phật bảo A-nan:
–Vì sao Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, khen ngợi ý nghĩa tám đẳng của Bồ-tát? Là vì Bồtát đã xa lìa hẳn tám con đường tà để đi đến cửa giải thoát, nhưng không vướng mắc, không vin dựa vào tám con đường chân chánh, pháp hóa độ phàm phu, đứng vững nơi đạo nghĩa, đạt được Trung đạo, vượt khỏi phàm tục, nguyện đứng vững trong trí tuệ của đạo nhưng chẳng thấy là mình đến được con đường đó. Ra khỏi đường tà, thường trụ trong chánh quán, đạt tới cõi bình đẳng, dứt bỏ mọi tham đắm về thân mạng, nguyện sống trong đạo nghĩa đạt đến quả vị Phật, dứt trừ những ý tưởng về con người, thường nhớ nghĩ đến lời Phật dạy. Tâm bình đẳng đối với tất cả, xa lìa mọi mê đắm đối với chúng sinh, thường sống trong vô trụ, các pháp đều dứt. Vì sao? Vì các pháp không thể đạt được, cho dù thân tâm có dốc sức tôn sùng.
Bồ-tát lìa bỏ các sách vở thế tục, ham chuộng các kinh điển cứu đời, đạt được chánh định về pháp giới, không theo đạo pháp mà cũng không lìa bỏ cuộc đời, vì lìa bỏ cuộc đời thì mọi sự sẽ là vô nghĩa.
Bồ-tát tu tập theo lẽ bình đẳng, đoạn lìa mọi vọng tưởng, đắm trước, quá khứ, hiện tại, vị lai, tâm niệm không khác, không được ý đạo. Vì sao? Vì chí nguyện của các bậc Bồ-tát thảy đều là để đạt đến trí tuệ rộng khắp, cho nên lửa dữ hay đao gậy cũng không thể hại thân được các cõi đều lìa bỏ, chỉ mong đạt đến cõi Phật, không rời các con đường, không lập đến đi, chỗ qua lại của con đường được mở rộng ra tạo nên sự an ổn hoàn toàn, cho nên nói con đường Bồ-tát không có chỗ trụ. Vì sao? Vì Phật đạo vốn không, cho nên không có nơi chốn, do không có chỗ trụ nên dao nhọn không thể hại thân, đúng bước đường của bậc Vô học; Vô học cũng không có chỗ tìm cầu, chưa từng hâm mộ, chẳng được chí của bậc Thánh hiền, do vậy mà dao nhọn không hại được, vì thế cho nên dao không hại được thân, không thể dao động, tất cả đạo đều không, nhờ. Không tuệ phân biệt, nên dao nhọn không hại được, dùng lòng Từ bi thương xót rộng lớn đối với chúng sinh, đạt được cõi vắng lặng, an nhiên, bố thí rộng khắp, thương xót trừ bỏ tâm giận dữ. Hạnh Từ bi ấy làm tăng thêm trí tuệ sáng suốt, đem lòng Từ bi ấy hóa độ chúng sinh ở thế gian, thành tựu hạnh thương xót rộng lớn, không được giới hạn nơi con người thì hạnh Từ bi đó mới đầy đủ, dao nhọn không hại được.
Lòng Từ bi của Bồ-tát đối với chúng sinh ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, cho đến cả cõi pháp giới thảy đều bình đẳng vì đạo không chỉ có ngần ấy. Bồ-tát không dấy khởi sự nhớ nghĩ cũng không phát lộ giận dữ, lìa sự đùa bỡn đạt đến sự vắng lặng không còn các âm thanh. Pháp giới như vậy có khả năng độ chúng sinh các cõi. Bồ-tát tạo tác hành động, tất cả đều nên chuyên tâm, tất cả âm thanh, chỗ nào đi tới, các pháp không được kính thờ, cũng không an trụ vào đầu, cuối. Nơi chúng sinh hướng tới chỉ dùng âm thanh để nghe, là chỗ thông suốt của người giảng nói chánh pháp, hóa độ muôn loài, nói về ý tưởng hữu-vô phát khởi thành lời vậy. Lìa bỏ ngã tưởng, vượt qua các âm thanh, vượt qua các thứ tà mới đạt được giáo pháp ấy, hiểu tất cả các pháp, ngôn ngữ âm thanh, như vậy cũng không gọi là đã đạt được các pháp, cũng chẳng có ai được độ, đó gọi là tám bậc, không hề chưa từng đắm trước tất cả âm thanh.
Bấy giờ, Đức Phật nói bài tụng:
An trụ trong tám bậc
Đạt tám cửa giải thoát
Đối việc không vướng chấp
Đó gọi là tám bậc.
Vượt tám việc phàm phu
An trụ nơi chánh nghĩa
Chẳng thấy tuệ trung gian
Đó gọi là tám bậc.
Thoát khỏi việc phàm tục
An trụ trong Phật đạo
Bấy giờ không được gì
Đó gọi là tám bậc.
Dứt bỏ các tà kiến
Tu hành theo chánh kiến
Đạt đến đạo bình đẳng
Đó gọi là tám bậc.
Bỏ tham, ái thân mình
Đứng vững nơi đạo Thánh
Cho đến được thành Phật
Đó gọi là tám bậc.
Dứt dục vọng chúng sinh
Thường tu hành hạnh Phật
Ta, người đều bình đẳng
Đó gọi là tám bậc.
Vượt vọng tưởng chúng sinh
Trụ trong vô sở trụ
Các pháp đều vượt qua
Đó gọi là tám bậc.
Dứt bỏ các pháp tục
Kính tu theo Chánh pháp
Và dạy nghĩa vắng lặng
Đó gọi là tám bậc.
Lìa bỏ các pháp tục
Phật đạo cũng như vậy
Đối pháp ấy không đắc
Đó gọi là tám bậc.
Nói có một gốc thôi
Không có hai, bờ mé
Dứt bỏ ý niệm ấy
Đó gọi là tám bậc.
Không ở nơi trung gian
Chí dứt, bỏ mê đắm
Trí đạo đều như nhất
Đó gọi là tám bậc.
Không được tâm quá khứ
Đương lai cũng như thế
Bình đẳng ở hiện tại
Đó gọi là tám bậc.
Tâm không chỗ khởi đầu
Người phát tâm theo đạo
Tâm ấy chẳng thể được
Nhờ đâu để đạt đạo?
Vào được nơi không chấp
Như Thánh, không chỗ đạt
Nên dao cùng thuốc độc
Không thể làm hại thân.
Thoát ra khỏi năm đường
Gốc của mọi vọng tưởng
Gồm đủ sự qua lại
Đó gọi là không dối.
Lìa đạo không trở lại
Lời nói, ra âm thanh
Dứt bỏ đắm mê tiếng
Cho nên không tự dối.
Không rõ được nguyên nhân
Xưa nay cũng như vậy
Đi, lại chỉ tiếng thôi
Chỉ khuyến khích người học.
Giáo hóa nên dùng lời
An trụ cũng lại không
Nên tu học như thế
Vì thế chẳng tự dối.
Điều Bồ-tát tu tập
Học rõ tuệ như thế
Tất cả không chỗ đoạn
Đó gọi không tự dối.
Chẳng tham đắm thân mình
Dù có dao bén nhọn
Cũng không hại được thân
Không hề có dao động.
Tâm Từ trùm tất cả
Tâm Bi lớn ưa đạo
Dứt bỏ tâm sân, hại
Đao bén chẳng hại được.
Ví có kẻ muốn hại
Tự nghĩ thân là không
Mà đạt đến Phật đạo
Dao làm sao hại được.
Đạt đến lời an nhiên
Dứt hết các đường ác
Dứt sạch các tai ương
Dao bén chẳng hại được.
Thành tựu tuệ sáng suốt
Bậc Thánh đạt không thiếu
Sáng rỡ như Phật đạo
Nên dao chẳng hại được.
Cõi Dục và cõi Sắc
Vô sắc là ba cõi
Ba cõi này đồng nhau
Vì thế chẳng tự dối.
Đều thành tựu Chánh giác
Chẳng thấy tên khác nhau
Không bỏ sao sạch được
Thanh tịnh không đùa bỡn,
Vào con đường bình đẳng
Nên gọi là Bồ-tát.
Nếu mê đắm âm thanh
Chẳng lìa khỏi năm đường,
Tuy lời thông pháp giới
Lời giảng không thể đi
Đã đạt chẳng trụ nhẫn
Đó gọi là tám bậc.
Phân biệt các âm hưởng
Giảng pháp vắng lặng
Vô niệm, chẳng có tên
Nên gọi là tám bậc.
Dứt bỏ mọi âm thanh
Mà đạt cõi không tiếng
Không đắm tất cả tiếng
Đó gọi là tám bậc.
Nhờ tiếng hiểu các pháp
Tất cả pháp tự nhiên
Các pháp không có tên
Không thấy có kẻ độ.
A nan cho nên ta
Khen ngợi tám bậc chánh
Tìm cầu ý nghĩa ấy
Đó cũng không đạt được.
Phật bảo A-nan:
–Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã hết lời khen ngợi Bồ-tát giảng về âm thanh tám bậc, dùng trí tuệ làm phương tiện khéo léo để nêu ý nghĩa nhằm hướng đến.
Phật lại bảo A-nan:
–Vì sao Như Lai khen ngợi Bồ-tát về việc tạo được sự phát triển đạo pháp? Là vì Bồ-tát luôn theo đúng phép tắc, có thể thông đạt đến tâm của Phật.
Bồ-tát an trụ ở đây để khởi lên những tạo tác hành động, không hề bám chặt nơi chỗ mình đứng, chẳng tiến tới, không lười nhác, vượt qua tất cả pháp, chỉ nhằm đạt đến pháp Phật, không mê đắm ở chỗ thi thố lòng nhân, cũng chẳng nương tựa các pháp, dứt mọi hành động đắm trước mà Phật đã chỉ rõ, gồm đủ các diệu hạnh, đạt đúng theo bước đường đi của Phật.
Bồ-tát luôn tinh tấn, sức lực mạnh mẽ, tâm Từ bi nhẫn nhục không hề trễ nhác, dứt bỏ kiêu mạn, mến mộ tìm cầu đạo nhiệm mầu, Đức Thế Tôn là Bậc Tối Thượng nhưng không mê đắm Thánh hạnh, cũng như không chấp vào hạnh đó.
Bồ-tát sống trong đạo mà tìm cầu các pháp, ở chỗ tìm cầu ấy dứt khoát là không thể đạt được, mà cũng không hề bị chao đảo, tuy an trụ trong đạo nhưng vẫn luôn bàn về lẽ sinh tử. Trí tuệ Phật là bình đẳng, lìa bỏ mọi dục lạc, những thứ khiến cho trí tuệ mình bị che lấp, diệt trừ tất cả mọi tham đắm về thân và tà kiến, siêng năng tu tập, quán tưởng Phật, xét sự tinh tấn kia để theo đúng phép tắc của Phật, dứt sạch mọi vọng tưởng, vượt qua sự chia cách bỉ ngã. Đó chính là sự phát triển của đạo.
Bồ-tát không chấp nê vào đường Phật đi, giác ngộ về pháp vô vi, không nghi ngờ về trí tuệ Phật và giới cấm của Phật, không ngã theo đời cũng không khư khư chấp giữ vào giới luật, do không thấy thật có nên chẳng có thái độ bám víu vào giới, hoàn toàn rũ bỏ nhưng cũng không loại trừ hẳn ba thứ trói buộc.
Bồ-tát an trụ trong ba cõi nhưng được sự an ổn hoàn toàn, luôn để tâm đến tư tưởng của chúng sinh, không dựa dẫm cũng không ngăn lấp, lìa bỏ tất cả mọi đắm trước để đạt được Phật đạo, đạt đến cõi vắng lặng, chẳng chấp thân mạng mình, các thứ tài sản có thể bố thí mà không bỏn xẻn, các căn thường an vui dứt bỏ mọi hình thức giận tức, dốc tu theo hạnh Phật, tuy đem ân ích để cứu giúp quần sinh thoát khỏi khổ ách nhưng không phải là sự bố thí bừa bãi, đối với người đã được cứu độ, Bồ-tát không trụ vô vi nên vượt qua mọi vọng tưởng, sinh khởi pháp vô niệm, dứt bỏ mọi vọng chấp của con người để đạt đến trí tuệ giác ngộ.
Bồ-tát không hề sợ hãi các cuộc họp đông đảo luận bàn về lẽ vắng lặng nhằm làm thanh tịnh Phật đạo, vượt qua mọi khó khăn, chẳng sợ sinh tử. Vì sao? Vì Bồ-tát đã đạt được pháp an nhiên không chút lỗi lầm, cáu bẩn, an trụ trong cõi nhiệm mầu an vui của Phật, rõ lẽ không đến không đi, diệt sạch mọi thứ vọng chấp, nhằm làm cho chánh đạo thêm sáng tỏ và thanh tịnh.
Bấy giờ, Đức Phật nói bài tụng:
Giảng, luận về nẻo đạo
Phật, Thánh không nghĩ bàn
Chấp chúng sinh có trụ
Lấy đạo làm chỗ nương.
Tuệ Thánh an vui nhất
Chẳng mắc lưới vọng tưởng
Vắng lặng, chẳng chấp trước
Đối vô sở đắc ấy.
Kẻ đã đạt được đạo
Chí Bồ-tát vững mạnh
Chỉ hướng theo lời Phật
Thế Tôn không ai hơn.
Chí vì đạo dứt tham
Tâm luôn có trí sáng
Đó chính là nẻo đạo
Không nương, không mê đắm.
Gọi là tưởng sinh tử
Tâm Phật cũng như vậy
Đầy đủ bình đẳng chánh
Đó gọi hiểu nẻo đạo.
Không có các ngăn che
Giảng nói về đạo pháp
Cho nên dứt tất cả
Rõ ấy là nẻo đạo.
Chúng sinh đều nương thân
Khởi tâm quán Phật đạo
Ý chí ấy quán sát
Thường thấy rõ đường Phật.
Gốc thân thường sinh, kết
Tưởng xấu, nguy có ngã
Cho nên không bụi bặm
Không mê đắm Phật đạo.
Chí vẫn còn hồ nghi
E không được thành Phật
Cởi mở do dự ấy
Đứng vững trong Phật đạo.
Giả sử biết rõ giới
Cùng lời Phật răn cấm
Dứt bỏ các tưởng giới
Không nên cấm không cấm.
Vượt qua khỏi ba kết
An trụ trong ba cõi
Ắt đạt đến Phật đạo
Nhận rõ tưởng chúng sinh.
Tu phép tắc không minh
Nguyện trí tuệ rộng lớn
Đạt chí Thánh vắng lặng
Chẳng chấp đắm Phật đạo.
Tâm thường xả, bố thí
Trừ bỏ vẻ giận tức
Vì thế chẳng tiếc thân
Giữ đạo không buông lung.
Tất cả chẳng tiếc xót
Cứu giúp mọi khổ não
Đó chính là nẻo đạo
An trụ nơi đường chánh.
Không hề sinh vọng tưởng
Nên tu không chỗ đắm
Do đấy mà dứt sợ
Không sống vô giới cấm.
Nếu tu các kinh sách
Khéo léo bỏ mong cầu
Tỏ ngộ mọi âm hưởng
Xử thế không còn sợ.
Dù đến trong chúng hội
Cũng không các khó khăn
Bèn nêu pháp an nhiên
Làm thanh tịnh Thánh đạo.
Khi tạo khởi tưởng người
Để hiểu hạnh tự nhiên
Nếu người không mạnh mẽ
Sẽ khó lìa sợ hãi.
Nếu bỏ các họa, hại
Nên chẳng sợ trước, sau
Đạt được đạo thanh tịnh
Lìa cấu, an vui nhất.
Hiểu rõ, dứt nẻo ác
Do vậy không sợ hãi
Phép tắc trên bình đẳng
Ân đạo không hề lìa.
Đó là pháp Bồ-tát
Là việc hiện nẻo đạo
Dùng độ kẻ yếu lười
Khéo dẫn dắt, nên nói.
Nhờ phương tiện hay khéo
Giảng nói đạo Phật Thánh
Bồ-tát đã hội nhập
Làm người chỉ dẫn đường.
Pháp Đạo sư giảng nói
Dùng phương tiện thích hợp
Hành gốc cũng như vậy
Chí mến mộ Phật đạo.
A-nan! Ta vì thế
Nói rõ về nẻo đạo
Mịt mờ do ý lấp
Nhiều vọng, cầu như thế.
Vì nói không hiểu được
Tâm tối tăm ngu si
Chê bai trí tinh tấn
Nghe các bậc chí sâu.
A-nan! Ta vì thế
Hết lời khen nẻo đạo
Nêu rõ Bồ-tát không
Các vị phải nghe hiểu.
Vô số trăm ngàn sách
Dẫn dạy về nẻo đạo
Âm thanh của đường đi
Là hiện đường Phật sáng.
Phật bảo A-nan:
–Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã làm sáng tỏ hết mực về hạnh Bồ-tát phát huy đạo pháp. Phải biết rằng đó cũng là dùng phương tiện khéo léo để nêu rõ ý nghĩa vậy.
Phật lại bảo A-nan:
–Do đâu Như Lai nói hết sức rõ ràng về sự vãng lai của Bồ-tát?
Bấy giờ, Bồ-tát nhập vào Phật đạo, trí tuệ không thể suy nghĩ bàn luận, chí nguyện mong cầu sự giác ngộ như Phật với vô lượng nhân duyên, đối với những sự ồn náo không hề gây tạo.
Bồ-tát suy xét đến cùng về Đại đạo, dùng trí tuệ dứt trừ các duyên, hâm mộ tìm cầu ánh sáng trí tuệ của Phật, mong đạt các pháp thiền định dứt loạn tưởng, vượt hơn các thứ thiền định khác, giũ bỏ các bụi bặm cấu nhiễm, nhằm thấu đạt các pháp và kinh sách của Phật, hiểu rõ tất cả kinh, chỉ tìm ý nghĩa của kinh.
Bồ-tát chính là ánh sáng của đạo đức mà Như Lai luôn che chở giúp đỡ, các bậc ấy không hề bị dao động mà cũng không có sự dời đổi, nhớ nghĩ chúng sinh trong pháp giới tâm ý bị che lấp, gặp phải bao nỗi thống khổ, lại chẳng hiểu biết gì về kinh điển của Phật.
Bồ-tát mến cầu Phật đạo, là để được đứng vững trong trí tuệ ấy, chí nguyện lớn lao sáng tỏ, tu tập căn, lực, giác ý là nhằm để biết rõ về ba cửa giải thoát, phân biệt ý nghĩa đó. Bồ-tát luôn suy nghĩ: “Thân ta phải làm gì để giáo hóa mọi người khiến họ cũng kính mến Phật đạo, nên đem trí tuệ sáng tỏ ấy mà khuyến khích, giáo hóa các đạo tràng, mong được Phật nhãn, tâm không bị che lấp.”
Bồ-tát nhập vào chánh quán, dắt dẫn làm lợi ích cho thế gian, là nhân của trí tuệ, trên hết của chư Phật, Bồ-tát, nếu trí tuệ không thông tỏ tất cả nơi quy hướng của các pháp, thì coi như ánh sáng của sự giác ngộ chưa có thể đạt được. Do vậy mà các bậc Thánh không mong chúng sinh liền được đứng vững ngay trong đạo, đối với mọi trí tuệ ấy phải thông tỏ các pháp là không có nơi chốn, cho nên đời đương lai quán sát thế giới chúng sinh.
Bồ-tát cầu ở chốn vô tâm, mến mộ pháp bất niệm, cõi ấy không thể đạt được vì nó không đến không đi, thành tựu chúng sinh đi cũng không đi, giáo hóa người dân thấy rõ nơi chốn của đám lê dân lầm than, nhận rõ ý nghĩa đó tùy theo sự khai hóa thấy được các pháp. Tất cả chúng sinh đều tồn tại trong pháp giới, điều ấy vượt khả năng thấy biết của mắt trần, hội nhập pháp giới thì thấu suốt tất cả kinh điển là bình đẳng.
Bồ-tát quán tưởng Đại đạo, dùng trí tuệ của Phật, Thánh đế dẫn dắt những kẻ chẳng biết, chẳng hiểu đến với đạo, khiến họ mong cầu để đạt được sự giác ngộ như vậy. Nhưng Bồ-tát cũng không hề bám chặt vào trí tuệ ấy, vì nó luôn lìa mọi bụi bặm cấu uế, nên trí tuệ ấy không chỗ nào không có, nhưng nếu vướng mắc vào nơi chốn ấy thì cũng không có được trí tuệ để mong đạt đúng theo con đường đi lớn lao sáng tỏ của Phật, cũng như không thể trông thấy Phật. Đó chính là trí tuệ vĩ đại sáng chói trong các thứ trí tuệ, hơn hẳn mọi thứ trí tuệ khác, vì nó dứt bỏ sự tìm cầu cũng như không có nơi chốn để mến mộ. Đó gọi là trí tuệ sáng suốt của Phật, nếu Bồ-tát thực hành thì sẽ đạt được trí tuệ ấy. Cho nên mong cầu đến đi gọi là vãng lai.
Nên có bài tụng như sau:
Trí ấy có đến đi
Tuệ Phật khó nghĩ bàn
Cho nên gọi đến đi
Chí cầu nơi Phật đạo.
Khai hóa nhiều nhân duyên
Mới theo đúng đường Phật
Việc ấy thuận trí tuệ
Mến cầu chẳng trở lại.
Không nương tất cả thiền
Giáo hóa khắp quần mê
Muốn cứu giúp tất cả
Đầy đủ sự, đến đi.
Kinh Phật pháp bình đẳng
Nhận rõ người vô tướng
Hiểu rõ gốc vốn không
Nên gọi là đi đến.
Người đạt được pháp ấy
Rõ biết tất cả tuệ
Ta cũng sẽ được thế
Muốn tìm nơi an trụ.
Chưa từng khuyên chúng sinh
Và chấp các pháp giới
Nên nói có đến đi
Chẳng gần chốn trở về.
Lo nghĩ vô số người
Trí kém, luôn gặp họa
Muốn đạt được trí tuệ
Phải cầu đạo của Phật.
Căn, Lực và Giác ý
Giảng thiền, ba giải thoát
Nhận rõ nghĩa ấy rồi
Nên cầu đạo của Phật.
Chí mến mộ đạo tràng
Chỗ dựa Phật quá khứ
Nên gọi là đến đi
Nên lập ra Đại Thánh.
Ưa mến mắt thương xót
Mắt Phật không nghĩ, bàn
Nên gọi là đi đến
Ngưỡng mộ đạo của Phật.
Cầu đạt như Phật, Thánh
Nghĩa nhiệm mầu của Phật
Tự mong cầu tuệ ấy
Nhất thiết trí trên hết.
Tỏ ngộ trí sáng ấy
Chỗ về tất cả pháp
Tuệ ấy chẳng thể được
Và cả người cầu đạo.
Cứu giúp vô số người
Đứng vững trên trí tuệ
Nên gọi là đến đi
Người đến có chỗ cầu.
Mong đến thấy cõi Phật
Cõi người không nghĩ, bàn
Nên gọi là đến đi
Cứu độ hết chúng sinh.
Tỉnh sát cõi chúng sinh
Tìm cầu chẳng thể được
Nên gọi là đến, đi
Tâm mến mộ pháp giới.
Chúng sinh không nẻo hướng
Và tất cả cõi người
Nếu thông tỏ chốn ấy
Thì nhận rõ chỗ đến.
Thấy tất cả các pháp
Thấy đó nhưng không hiện
Thường nhất tâm định ý
Cầu đạo lớn của Phật.
Tuệ nhiệm mầu như thế
Vô cấu và thanh tịnh
Sự phân biệt sáng suốt
Trí ấy chẳng thể được.
Điều Bồ-tát vui thích
Khai hóa các chúng sinh
Đạt được trí sáng suốt
Duyên nào đến nơi ấy.
A-nan! Ta vì thế
Giảng, nói về đến, đi
Vì hạng căn trí thấp
Thấy được chỗ niệm khởi.
A-nan! Ta vì thế
Giảng nói, việc đến, đi
Kẻ dốc sức tinh tấn
Liền tỏ ngộ lẽ ấy.
Người có đức phân biệt
Hiểu được nghĩa sâu nhiệm
Đạt được các lẽ ấy
Mau được thành đạo lớn.
Phật bảo A-nan:
–Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã giải bày nêu rõ về hành trạng của Bồ-tát. Nên biết rằng nghĩa ấy cũng dùng phương tiện khéo léo để diễn đạt vậy.
Phật lại bảo A-nan:
–Do đâu Như Lai hết mực khen ngợi về việc không trở lại của Bồ-tát?
Vì đối với Bồ-tát tất cả sự tồn tại, mọi nơi chốn hành động tạo tác đều nhằm vượt qua ba cõi để đạt tới ánh sáng của Phật, dứt bỏ các hành, đã hàng phục được các hành thì không còn trở lại nữa. Vì sao? Vì Bồ-tát đã nhận thấy tất cả các pháp không hề có đi đến hay trở lại, đã vượt khỏi thế giới phàm phu, lìa bỏ trí tuệ thế tục.
Bồ-tát đã hội nhập trí tuệ giác ngộ của Phật, đạt diệu lý Vô sở trụ và các pháp bình đẳng. Vì sao? Vì Bồ-tát đã tạo được cõi vắng lặng, không còn bị chao đảo của hạng phàm phu, không nhờ dựa vào Thánh đạo để lấp các nẻo ác, thoát khỏi dục tình, không còn tham đắm trong cảnh áo cơm, đạt tới nẻo sáng suốt tột bậc.
Bồ-tát cũng giũ bỏ các thứ kiến chấp, không còn mê đắm, dứt bỏ tất cả sáu mươi hai thứ tà kiến, thoát khỏi sinh tử quán sát Nê-hoàn, dứt bỏ mọi vọng tưởng đạt đến cõi vô vi.
Bồ-tát không kinh sách, tịnh uế, đường ác, dứt bỏ thái độ cao ngạo cho mình là hơn hết. Bồ-tát đã ra khỏi cái nguồn tạo nên bao tối tăm, ưu khổ, phá bỏ ái dục, diệt trừ mọi mê mờ, nhổ sạch gốc rễ tham ái dục lạc cùng bao thứ phiền não trói buộc, tự chiến thắng kiêu mạn buông lung, chính là những chướng ngại, xa lìa hiểu biết thế gian, do đấy mà luôn nhớ nghĩ đến Phật thừa, nhằm đạt được trí tuệ của bậc Thánh.
Bồ-tát quên mình nhằm dứt bỏ ái lạc trong cõi Dục, tu tập theo cội gốc thanh tịnh, là chí nguyện của các bậc Thánh đời quá khứ, đạt đến trí tuệ vô thượng của các Đức Phật và mở rộng sự hiểu biết ấy, được tất cả chúng sinh hết mực tôn quý, xem tất cả các thừa là trí tuệ Phật. Mọi nhận thức và tư duy mà Bồ-tát đạt được chính là vô tưởng về ngã, pháp, dứt bỏ tất cả các mối hồ nghi. Bồ-tát đạt đến như vậy thì không còn trở lại nữa.
Phật lại hỏi A-nan:
–Nếu như có người chẳng thể an trụ nơi đạo thì phải giúp cho họ đứng vững trong đạo. Điều đó càng hiểu rõ là chúng sinh đều có sẵn sự sáng suốt để tiếp cận đạo, có khả năng hiểu biết như vậy thì chế ngự mọi vọng tưởng của con người. Vì sao? Vì mọi nhận thức về muôn vật là không, thế giới con người có luận bàn, trí tuệ của đạo là bình đẳng. Vì sao? Vì sự nhận biết rõ như thế đối với các loại chúng sinh thấp kém là không, mà đối với hạng người ở cõi thanh tịnh cũng là không, xa lìa mọi vọng tưởng. Tất cả mọi người cùng với không chẳng có khác nhau, chẳng có thân mạng, chẳng được tồn tại lâu dài nên cũng là không. Nhưng hư không không phải là không, cũng nên lìa bỏ tất cả vọng tưởng.
Bồ-tát đạt pháp vô niệm để hướng đến đạo, diệt trừ mọi vọng niệm của chúng sinh. Suy nghĩ về hư không không bỏ mà cũng chẳng thể không bỏ. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều bình đẳng thanh tịnh, tất cả chúng sinh đều không thể bỏ. Bồ-tát bình đẳng về xả bỏ nên gọi là vô sở đắc. Đã không có sự đạt được cho nên cũng chẳng đến, điều đó được gọi là không trở lại, đối với tất cả các pháp hữu vi, vô vi thảy đều tỏ ngộ nơi tụ hội của chúng. Vượt qua được các tai hoạn ấy nên gọi là chẳng trở lại.
Bấy giờ, Phật nói bài tụng:
Pháp ấy không nơi sinh
Tạo tác nên có chốn
Dứt bỏ các chỗ trụ
Đó là chẳng trở lại.
Nhận rõ sự qua lại
Không đắm tất cả pháp
Chỗ trụ không thể được
Do đó chẳng trở lại.
Các hạnh của phàm phu
Và lời của Phật dạy
Không thể lường như thế
Nên nói chẳng trở lại.
Các pháp không nơi đến
Cũng chẳng có chốn trụ
Đạt lẽ không khứ, lai
Đó là chẳng trở lại.
Người nào chưa từng đến
Chẳng bước tới ba đường
Đi đến nẻo sáng Phật
Nên nói chẳng trở lại.
Quyết dứt tất cả dục,
Dối uống ăn không đắm,
Được đến nơi đạo tràng,
Nên nói chẳng trở lại.
Mọi tà kiến có, không
Rõ sáu mươi hai loại
Không rơi vào cõi ấy
Nên gọi, chẳng trở lại.
Pháp ấy không đầu cuối
Đã bỏ mọi sợ hãi
Tuệ ấy vốn như không
Cho nên chẳng đến được.
Thuận vắng lặng vô vi
Không đắm các phiền não
Dứt trừ các vọng niệm
Do đó chẳng nơi đến.
Đã dứt các nẻo ác
Trừ sạch các cấu nhiễm
Tu vắng lặng vô vi
Nên nói: chẳng trở lại.
Hàng phục được ma ác
Cùng bao thứ binh đao
Dứt hẳn mọi vọng niệm
Do đó chẳng nơi đến.
Nhổ gốc si, ưu phiền
Dứt bỏ gốc ái dục
Dập tắt lửa tham dâm
Nên nói, chẳng trở lại.
Hàng phục các trần cấu
Giũ sạch các vọng tưởng
Rốt ráo được giác ngộ
Nên nói, không trở lại.
Lìa bỏ hết sầu muộn
Dẹp bỏ tâm cống cao
Nhớ dứt thân năm ấm
Nên nói, chẳng trở lại.
Chí nương theo ánh sáng
Phật thừa không gì trên
Không tham họa ái dục
Nên nói, chẳng trở lại.
Đã biết chốn Phật ngự
Bậc nhất trong các kho
Phật quá khứ hiện bày
Nên nói, chẳng nơi đến.
Chốn ấy là an vui
Phật, Thánh không gì trên
Dứt các thứ nghi ngờ
Nên nói, chẳng nơi đến.
Dẫn dắt vô số người
Khiến đứng trong Phật đạo
Đã được phép tắc Thánh
Nên nói, chẳng nơi đến.
Hiểu rõ không vô giới
Tâm bình đẳng cõi người
Xa lìa mọi vọng chấp
Nên nói, chẳng nơi đến.
Hiểu rõ tất cả cõi
Pháp giới cũng như vậy
Chúng sinh chẳng thể được
Nên nói, chẳng nơi đến.
Nhận rõ đám lê dân
Hư không chẳng nhớ nghĩ
Tất cả pháp như vậy
Nên nói, chẳng nơi đến.
Kẻ nào đạt vô tâm
Dứt hết các vọng tưởng
Các niệm chẳng thành đạo
Nên nói, chẳng trở lại.
A-nan! Ta vì thế
Khen, nói việc chẳng lại
Các việc đều không lại
Được trụ trong Phật đạo.
Phật bảo A-nan:
–Do đó mà Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác khen ngợi Bồ-tát là chẳng trở lại. Cũng nên biết rằng điều này là phương tiện khéo léo để nêu lên vậy.
Phật lại bảo A-nan:
–Vì sao Như Lai khen ngợi Bồ-tát là không hề vướng mắc?
Vì Bồ-tát đã diệt hết thảy mọi hành, lìa khỏi nơi chốn phát sinh ra chúng, không dựa vào các Đức Phật để độ thoát chúng sinh, không còn tạo tác để gây nên những cấu nhiễm của phiền não, cũng như đã dứt mọi khổ vui, chỉ nhắm cứu giúp muôn loài, vì thế nên gọi là không vướng mắc.
Bồ-tát lìa bỏ mọi vọng động chao đảo của sự tìm cầu, đạt đến cõi vô sở trụ, xem tất cả các pháp đều không, hiểu rõ lẽ vắng lặng, không chạy theo các vọng tưởng, dùng định để dứt bỏ các suy nghĩ, vọng tưởng cho dù có kẻ muốn phá hoại chí nguyện của mình, đã nhận thức các pháp là không nên không còn vướng mắc, đối với Phật đạo đã dứt sạch mọi vọng tưởng, đầy đủ tánh chất tự lập tự độ nên gọi là không vướng mắc.
Bồ-tát giảng nói kinh sách để phá bỏ mọi thứ mê lầm, khen ngợi các Đức Phật thời xưa là Bậc Đẳng Chánh Giác, từ đó giáo hóa chúng sinh trong hiện tại và vị lai.
Bồ-tát không buông lung, được thanh tịnh, không nhơ uế chỉ bàn luận về lẽ vắng lặng nên gọi là không vướng mắc.
Bậc Bồ-tát Đại sĩ khai mở, hóa độ mọi người đứng vững trong Phật đạo, mong đạt đúng con đường các bậc Thánh đã đi, đối với tất cả các pháp không còn bị ràng buộc, đầy đủ tâm Từ bi để thực hiện lòng nhân ái của Phật, không hề bám víu vào một nơi nào, tâm từ thể hiện như vậy nên gọi là không vướng mắc.
Bồ-tát hóa độ chúng sinh mà không thấy mình hóa độ được người nào cả, tâm đại Bi rốt ráo, thông tỏ lẽ vô trụ, nên gọi là không vướng mắc. Vì tất cả chúng sinh nên thi ân bố thí, nhận thức và lãnh hội đạo pháp trên tinh thần vô tướng, dứt bỏ mọi thứ vọng tưởng nên gọi là không còn vướng mắc.
Bồ-tát khen ngợi lực dụng của sự giác ngộ, thể hiện ý nguyện đạt lẽ bất trụ, nhổ sạch mọi gốc rễ của vọng chấp phân biệt, chí nguyện hóa độ chúng sinh, thông tỏ các pháp đều thanh tịnh khiến cho nghĩa mầu của đạo được thành tựu, không hề có mảy may cố chấp bám dựa nên được gọi là chẳng còn vướng mắc.
Bồ-tát hành hóa đều không vướng vào nơi chốn, tạo tác thì không hề tham tiếc thân mạng, đối với muôn vật cũng không có chỗ nương tựa, chỉ mong đạt sự hòa hợp với mọi người chứ không hủy diệt muôn vật, từ đó giảng nói các pháp hữu vi, như thế thì gốc vốn là không, nên gọi là không vướng mắc.
Bồ-tát đến các cõi Phật, nơi đi tới không có chỗ đến, xem chư Phật, Thánh là bậc tôn quý không dấy khởi niệm phân biệt gốc ngọn, con đường giác ngộ là không, là vắng lặng, nên gọi là không vướng mắc.
Bồ-tát không có chỗ nương dựa, an lập như cõi này, đối với vô lượng cõi nước đều xem là bình đẳng, thế giới không đùa bỡn thiếu thanh tịnh, trụ trong cõi phước đức là không, không có các cõi nước, không có lui sụt, không có người nữ, dứt trừ các tâm phiền não, ngủ nghỉ, dứt sạch mọi chốn ngăn che trói buộc, đạt đến cõi Phật Thánh, hàng phục được các ma, xua tan kẻ thù nhập vào cảnh vắng lặng, biến hóa diệu dụng, giữ vững ở cõi đại nguyện của mình, trừ bỏ ý tưởng mong đạt về một cõi nước nào đó.
Bồ-tát đầy đủ vẻ uy nghi rực rỡ của Phật, trụ nơi vô trụ, lãnh hội được dấu ấn thanh tịnh của tâm Phật, tạo được sự an lạc khắp chốn.
Bồ-tát lìa bỏ tất cả những trang sức quý giá nơi thân mình vì chúng cũng như viên ngọc có tỳ vết, chỉ tạo nên các cấu nhiễm, rốt ráo vô vi là hơn hết tất cả, được như vậy là đã thâm nhập vào cõi nhiệm mầu của Phật, quán các pháp đều không, đạo hạnh đầy đủ nên gọi là không vướng mắc.
Bồ-tát dứt bỏ mọi thứ dục lạc, cho đến cội gốc của chúng, đối với tất cả các pháp không hề biểu lộ sự tức giận, phẫn nộ, vắng lặng bình đẳng đó là trí tuệ Phật, thân miệng ý an trụ trong vắng lặng vô thượng.
Bồ-tát mến cầu Thánh đạo nhưng không chấp nê vào con đường các bậc ấy đã đi, không suy nghĩ theo kẻ khác, luôn thương nhớ chúng sinh, vô tâm, bất tâm, khuyến hóa vô số ức trăm ngàn người, khiến họ đến với đại đạo, mở bày dắt dẫn bao loại sơ cơ khiến họ nhớ nghĩ các người, vật trong Phật pháp.
Bồ-tát dắt dẫn làm lợi ích cho vô số chúng sinh nhất là hạng thấp kém, khiến họ phát tâm quy ngưỡng về Phật, không gì sánh bằng.
Bồ-tát xem hết thảy các pháp đều là không, không có sự khác nhau, cái gốc nhận thức của Bồtát là không tuệ, cùng đứng vững trong đó, dứt mọi vọng tưởng phân biệt. Đã đạt được điều ấy thì cũng biết rõ là không hề có chỗ để nương dựa bám víu, từ đó thích ứng với chúng sinh mà giảng nói chánh pháp cho họ nghe.
Bồ-tát không chuộng các thứ lợi dưỡng, cũng không dựa vào kinh sách, lìa hết các căn, giảng pháp như vậy, vĩnh viễn mình chưa lúc nào dùng lời nói để giáo hóa muôn loài, không thấy độ người, không thấy cứu giúp chúng sinh, dứt sạch mọi vướng mắc các việc, dứt hết tham, sân, trừ bỏ kiêu mạn, quán tất cả các pháp không sinh, không diệt, phát tâm khai mở hóa độ chúng sinh muôn vật, giúp họ nhận thức chính xác và đúng đắn về lẽ sinh tử cũng như bao nỗi đau khổ của kiếp người. Phàm phu bất động thì được giải thoát. Là người góp phần phát huy sự tồn tại của Phật pháp, nhưng không vướng mắc vào việc mình làm. Hóa độ mà không dựa, không trụ vào đấy, đó là điều mà Bồ-tát phải gắng sức dứt trừ mọi vọng chấp mới đạt được.
Dẫn dắt, đem lại lợi ích đối với chỗ nương dựa mình khiến họ dứt mọi vọng tưởng về Phật, cũng là điều mà Bồ-tát phải gắng sức hết mực mới thực hiện được. Tâm Bồ-tát luôn ở rộng về hướng vô niệm dùng mọi nhân duyên giúp cho đạo phát triển, xa lìa những kẻ si cuồng giả trá, tâm ý rối loạn, đầy đủ các pháp Tam-muội, thành tựu chánh định, không có các vọng tưởng điên đảo, mọi tà kiến để đạt tới trí tuệ chân chánh, giúp cho hàng Thanh văn mến mộ mà trở lại đi theo con đường Bồ-tát đã đi.
Bồ-tát chế ngự mọi sự nương tựa vào cha mẹ, vợ con, nhà cửa, anh chị em, dứt trừ mọi hệ lụy của ân ái, vượt qua mọi tham đắm về tài sắc, cõi nước, muôn vật, lìa bỏ mọi ý tưởng tham cầu vì đó là phiền não điên đảo, khai mở hóa độ những kẻ còn mang nặng ý tưởng tham đắm về muôn vật.
Bồ-tát cũng lìa bỏ mọi sự quyến luyến về gia đình để đến chỗ vắng lặng, thoát khỏi mọi hình tướng lười nhác dư đầy thiếu kém, dứt trừ các pháp tham dục cấu uế để đạt tới cảnh giới Phật, làm cho diệu lý của đạo được hưng phát, tâm không hai không hề khởi lên ý niệm phân biệt đây là pháp vô vi, kia là các pháp sinh tử, nhân duyên, không nhân duyên, đạo ý, tục tâm, phạm giới, giữ giới... Bồ-tát mở bày hóa độ những người ấy, tức là những kẻ còn mang nặng tư tưởng nhị kiến, khiến họ đạt được vô niệm, đoạn tận các gốc rễ nên gọi là không vướng mắc.
Bồ-tát đã vượt lên mọi khái niệm đối đãi như các Thần và Hiền thánh, lười nhác và tinh tấn, người nam và người nữ, ngu si và thông minh, giác ngộ và mê lầm... khéo dẫn dắt mọi người khiến tâm họ đạt được lẽ bất nhị, giúp cho chúng sinh tiến tới con đường giác ngộ nên gọi là không vướng mắc.
Các Bồ-tát này đã thành tựu ý nguyện không lui sụt, hoặc có người lãnh hội ý nghĩa sâu xa của kinh điển, cũng gọi là chẳng còn vướng mắc.
Các vị Bồ-tát ấy dù là xa đạo hay gần đạo vẫn luôn nhận rõ được ý nghĩa đó, không còn sinh ý tưởng nhị kiến, đạt đến đúng con đường của bậc Thánh, hội nhập cảnh giới không sinh diệt Nêhoàn.
Bồ-tát luôn lìa bỏ các vọng niệm dấy khởi để thấu đạt diệu lý Vô sở trụ, chỉ duyên theo các pháp mà khai mở hóa độ con người, như thế là an nhiên mà hiểu rõ tất cả các pháp, giảng nói về không gốc rễ cho nên gọi là không còn vướng mắc.
Bấy giờ, Đức Phật nói bài tụng khen:
Dứt trừ tất cả hành
Bậc tôn cũng như thế
Lìa bỏ mọi lời dạy
Nên gọi không đắm mê.
Diệt sạch mọi phiền não
Độ thoát bao khổ đau
Cứu giúp các chúng sinh
Đó gọi không đắm mê.
Xét người, không thể được
Dục cấu cũng như thế
Các pháp không thể nắm
Nên gọi không đắm mê.
Giũ sạch các điên đảo
Lập tâm không mê hoặc
Nhận rõ các pháp không
Nên gọi không đắm mê.
Hiểu rõ biết nghĩa không
Không có các vọng tưởng
Lìa bỏ mọi điên đảo
Đó là không đắm mê.
Dứt bỏ mọi vọng tưởng
Cùng niệm xấu mọi người
Tâm ý không tà loạn
Nên gọi không đắm mê.
Rõ không, chẳng chỗ nương
Phật đạo chẳng thể lường
Luôn gắng sức tinh tấn
Nên gọi không đắm mê.
Mọi nhân duyên giảng kinh
Vắng lặng dứt đùa bỡn
Khuyên người theo đạo đức
Nên gọi không đắm mê.
Chân nhân tu hạnh từ
Khiến chúng sinh an vui
Khuyên người không thể được
Nên gọi không đắm mê.
Vốn không giảng kinh sách
Thi ân khắp muôn loài
Không hề có tưởng người
Nên gọi không đắm mê.
Chân chánh Căn, Lực, Giác
Giải thích rõ người biết
Thân mình được tuệ này
Nên gọi không đắm mê.
Biết người sống vắng lặng
Pháp thanh tịnh tỏ đạo
Khai mở giáo pháp Phật
Nên gọi không đắm mê.
Chẳng tin tưởng muôn vật
Mắt xem thấy hiện tiền
Tất cả không thật có
Đó gọi chẳng đắm mê.
Không nương các cõi Phật
Tại nước hành nhân nghĩa
Xứ sở bình đẳng giác
Giảng pháp chúng sinh nghe.
Chân nhân giác chánh pháp
Nhưng xem như chẳng thấy
Như quán kỹ Thánh giác
Đó gọi không đắm mê.
Nước thành tựu tự nhiên
Nay tôi biết điều ấy
Rốt ráo không đầu mối
Đó gọi không đắm mê.
Bỏ những sự hiểu biết
Tâm đã sạch sân, hại
Hợp chân như không hận
Thành tựu đạo vắng lặng.
Ý định cũng chẳng mất
Tạm yên không nơi dấy
Nhớ nghĩ đạo cũng thế
Nên gọi không đắm mê.
Người vật chẳng thêm động
Cõi chúng sinh cũng vậy
Muôn người cũng an nhiên
Hóa độ theo nghĩa đạo.
Chúng sinh đến với đạo
Chốn ấy luôn vô niệm
Trí tuệ đều bình đẳng
Đó gọi không đắm mê.
Bình đẳng, không hình loại
Tất cả pháp cũng thế
Tâm chánh cũng như đạo
Nên gọi: không nhớ nghĩ.
Cái gọi là ứng chân
Các pháp không vướng mắc
Giảng cho người hiểu được
Vắng lặng không nương tựa
Giảng pháp nghĩa người nghe
Tuy nói nhưng không dạy
Độ khắp vô số người
Thấy mọi người chẳng động.
Chúng sinh không thể đạt
Muôn kẻ dứt trừ chấp
Giúp người lìa tà kiến
Vượt khỏi mọi khổ não.
Tất cả pháp không sinh
Pháp ấy cũng chẳng diệt
Thấy vọng tưởng chúng sinh
Thoát khỏi mọi khốn ách.
Các sắc không tăng giảm
Mọi khổ cũng như vậy
Nhận rõ lẽ sinh tử
Cứu giúp khiến không người
Pháp Hiền thánh bất động
Phàm phu cũng như thế
Đứng ở trên nghĩa Phật
Chí hóa độ không đắm.
Mọi người đều mong quả
Và ý niệm Duyên giác
Vượt ngoài cả giác ý
Nói pháp này người nghe.
Khiến phát khởi tâm đạo
Thường nương chỗ bố thí
Giới, Nhẫn nhục cũng vậy
Nên giảng không chỗ nương.
Sự hiểu biết điên đảo
Tu tập rất tinh tấn
Để dứt vọng niệm này
Nên nói không đắm pháp.
Chỗ nhớ nghĩ ý đạo
Tà trí cùng tuệ sáng
Ở đây không chỗ nương
Nên nói không đắm pháp.
Pháp ấy chẳng sinh niệm
Biết rõ hết mọi nẻo
Mà nói pháp như thế
Nên gọi không chỗ đắm.
Tự chấp mình có thân
Thanh văn thường nhớ nghĩ
Để dứt trừ tưởng này
Nên nói không đắm mê.
Các pháp chẳng nghĩ nhớ
Biết rõ không mọi điều
Nói rõ đó không gốc
Nên nói không đắm mê.
Cha mẹ cùng anh em
Nhà cửa, mọi sở hữu
Đều là nẻo sinh tử
Chẳng thể thành Phật đạo.
Luyến vợ con, chị em
Chỗ nương cậy trông mong
Nếu không chỗ tựa nương
Nên nói không đắm mê.
Tạo tác chuyện sinh tử
Thì nghĩ đến họ hàng
Thấy vì có tình dục
Bạn bè ta từ trước.
Tự nghĩ thân có ngã
Tâm đuổi theo các việc
Phân biệt theo điên đảo
Ắt gặp chốn của ma.
Lìa bỏ nẻo sinh tử
Vòng quay của tai họa
Khen ngợi đức Nê-hoàn
Nên nói không đắm mê.
Giảng nói pháp hữu lậu
Hưng suy và tranh chấp
Đây đều nói âm thanh
Đó gọi không đắm mê.
Chúng sinh thường tranh lợi
Buông lung, tham muôn vật
Muốn cứu giúp muôn loài
Nên nói không đắm mê.
Kẻ tham luyến gia đình
Tâm nhớ thực hành đạo
Ngu độn ý như thế
Nêu rõ lẽ không đắm.
Chỉ thấy pháp thấp hèn
Không thấy nghĩa chân diệu
Chẳng tỉnh giác các niệm
Nên hóa độ không đắm.
Dứt trừ nghĩa phàm phu
Chuyên tinh ưa Phật pháp
Giũ sạch mọi mong cầu
Nên gọi chẳng đắm mê.
Nếu thấy hạnh thiện ác
Chúng số pháp như thế
Vô số người cũng vậy
Nên cứu giúp không đắm.
Đầy đủ các tướng tốt
Tinh tấn không thể tính
Mà nương dựa tướng ấy
Thánh hiền được cứu giúp.
Trang nghiêm các cõi Phật
Thành tựu pháp tối thượng
Nương dựa cõi chánh giác
Dẫn dắt đến không đắm.
Ý nghĩa pháp vô vi
Hoặc được, hoặc không được
Đó là hạnh Thánh đạo
Mới đứng vững Chánh nguyện.
Không giới, không thấy phạm
Buông lung và trí tuệ
Kẻ mê tối, yếu kém
Luôn vướng hai việc ấy.
Chúng sinh khởi tưởng đó
Các niệm không thể tính
Trừ dứt mọi vọng khởi
Nên nói không đắm pháp.
Kính mến các bậc Thánh
Cũng nhớ nghĩ vô đức
Phân biệt pháp phàm phu
Nên nói không đắm mê.
Để được hạnh như thế
Kẻ nam và người nữ
Hiền thánh và phàm phu
Tâm vướng vào nhị kiến.
Người sinh hai việc đó
Việc làm của kẻ ngu
Nương dựa hai bờ ấy
Nên hóa độ không đắm.
Biến động không lui sụt
Tạo tác mà không tạo
Muốn đến với đạo Thánh
Nên tâm khởi niệm ấy.
Mới đạt được đạo lớn
Không sinh cũng không diệt
Tâm thường nghĩ vọng tưởng
Để cầu pháp vô vi.
Chúng sinh nhận nơi ấy
Hiền nhân nhớ muôn loài
Nên gọi không đắm mê
Cứu giúp mọi vọng cầu.
Đó là pháp Bồ-tát
Vì hiện A-la-hán
Do đó khởi pháp nhẫn
Tự cho là không đắm.
Giảng nói việc La-hán
Đó đáng là Bồ-tát
Gọi trụ không đắm mê
Đạt đến đạo Vô thượng.
Phật bảo A-nan:
–Như Lai là Bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác khen ngợi về sự không mê đắm của Bồ-tát, cũng nên biết đó là phương tiện khéo léo.
Phật bảo A-nan:
–Vì sao Như Lai khen ngợi Bồ-tát là Thanh văn? Vì Bồ-tát Đại sĩ khai mở, dẫn dắt vô số người không thể tính kể, khiến họ được nghe Phật pháp, phân biệt kinh sách, nên gọi là Thanh văn.
Bồ-tát giúp họ nghe Phật đạo là thanh tịnh, không buông lung nên gọi là Thanh văn.
Bồ-tát còn giúp họ nghe pháp cam lộ an lạc vô vi, làm cho Căn, Lực, Giác ý, ý dừng ý dứt đầy đủ các việc ấy mau đạt đến trí tuệ giác ngộ nên gọi là Thanh văn.
Bồ-tát cũng giúp họ đạt được Không tuệ, thân không bền chắc. Những hạng chúng sinh ám độn mê muội bị phiền não che lấp không thể lãnh hội được. Vì sao? Nên biết rằng tham đắm thân mình, gồm có các nhập, như mắt có là vì có sắc, xét rõ như thế thì được mắt Phật, mắt ấy thấy khắp chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Mắt không có chỗ nương tựa, rốt ráo mắt này đạt được tất cả các pháp, nên gọi là Thanh văn.
Bồ-tát xem các pháp ấy như là tiếng gọi của âm vang, không được chấp vào tiếng, không có người nói, cũng chẳng có người nghe. Không có mùi mà tưởng là có mùi nên cũng không có ngửi. Ví như có người nằm ngủ thấy mình trong giấc chiêm bao được ngửi đủ loại mùi nhưng thật ra thì không có mùi nào cả, đó chỉ là sự nhận lầm do tư tưởng tạo ra. Tất cả các thứ mùi mà con người được ngửi, đều ví như giấc mộng chẳng có gì là lâu bền cả. Người đã hiểu rõ được âm thanh ấy thì gọi là Thanh văn.
Đối với vị của lưỡi thì vị ấy cũng là không. Như cục thịt thì được gọi là lưỡi, người trí biết rõ không bị vị làm lầm. Ví như chùm bọt nước, để lìa các luận nên không thể ví dụ. Kẻ sáng suốt xem xét sự việc liền hiểu là không thật có và chẳng thể được. Còn kẻ giữ chặt cái ý tưởng chấp đắm về mùi vị thì sẽ gây ra tội ác không nghĩ về sáu giới để phân biệt vị tâm được rộng mở, ý không buông lung. Người đã tỏ rõ về điều ấy thì tâm tưởng vô vi, thảy đều nhận rõ, tức là nghĩa, đã nghe, nghe được pháp Không này nên gọi là Thanh văn.
Bồ-tát hiểu rõ các nhập, thấu đạt điều đó là không thì thân tự nhiên vắng lặng, không hề có pháp nào sinh, mà không biết chỗ sinh vô sinh, bất sinh chính là đạo Thánh, nên gọi là Thanh văn. Nếu pháp đã nghe đều không thật có, hiểu thân tự nhiên không sinh, không diệt nên gọi là Thanh văn.
Bồ-tát nghe việc bố thí là để thực hành chánh pháp, không thể suy nghĩ bàn luận, Đức Phật đã đi trên con đường này mà đạt đến Phật đạo. Bồtát khởi tâm bố thí nhưng không hề thấy là mình có khởi tâm, đi theo nẻo vô ý mong đạt đến trí tuệ Phật. Vì sao? Vì như có người trồng cây thì chắc chắn sẽ hái được quả, nhưng cũng chẳng thấy có quả. Âm thanh nói quả, nghe bố thí y phục, thức ăn, tính kể vật bố thí, thí cho rất ít. Tất cả sự thí xả thì pháp thí là hơn hết.
Bồ-tát trong khi bố thí không hề tham tiếc, cũng không mang cái ý tưởng là mình có bố thí, tuy có người chịu ân huệ nhưng không được mong cầu, ví như người huyễn hóa không có tâm ý, cũng chẳng có nhớ nghĩ.
Bồ-tát muốn trở thành người tu hành thì không được có ý tưởng mình là người bố thí. Vì sao? Vì bố thí không mong cầu thì mới thuận hợp với đạo pháp, nên gọi là Thanh văn.
Lìa các âm thanh cùng tất cả bụi bặm đều không còn gì để nghe được. Lìa các pháp hữu vi, vì không thể dùng âm thanh để nghe nhận Phật pháp, phải nhận biết mọi tiếng vang đều không có chỗ nương tựa. Vì sao? Vì tiếng được tạo ra nhờ hai yếu tố, tuy có hai yếu tố ấy hợp lại nhưng thực ra là không có thật, chỉ do nhân duyên nên thành ra có hai yếu tố ấy. Vì nhằm để giáo hóa con người nên phải dùng đến Pháp âm, nên gọi là Thanh văn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng:
Khiến cho vô số người
Nghe được pháp vô niệm
Nên gọi là Thanh văn
Bồ-tát luôn mạnh mẽ.
Nghe được đạo vắng lặng
An nhiên, không buông lung
Vô lượng người nghe pháp
Nên gọi là Thanh văn.
Nghe điềm nhiên an ổn
Mọi dục lạc không đắm
Nên gọi là Thanh văn
Đến vắng lặng vô vi.
Nghe được Giác, Căn, Lực
Đầy đủ ý đoạn dứt
Tự rốt ráo việc ấy
Nên gọi là Thanh văn.
Nghe thân vốn là không
Chẳng thể được bền chắc
Kẻ ngu si quyến luyến
Nên cần phải hiểu rõ.
Hai mắt không thấy gì
Không nghe cũng như vậy
Chúng sinh bị kiến chấp
Che lấp, chẳng rõ ràng.
Nếu đạt được mắt Phật
Diệu dụng chẳng nghĩ bàn
Thấu đạt thảy là không
Khai hóa kẻ mê tối.
Vô số người nghe kinh
Các pháp không có sinh
Do đấy được gọi tên
Xưng hiệu là Thanh văn.
Không có điều nghe, nhận
Cũng như tiếng vang gọi
Chẳng thấy có người nói
Cũng lại không người nghe.
Sở dĩ gọi Thanh văn
Khiến mọi người nghe, nhận
Rõ gốc chẳng có nghe
Không bị tiếng mê hoặc.
Ví như người nằm mộng
Được ngửi vô số hương
Thức giấc chẳng có gì
Rõ toàn ngửi hư không.
Rõ hương cũng như thế
Không hề có ngửi hương
Vô số kẻ thất chí
Bồ-tát chỉ đường sáng.
Lưỡi cũng không nơi dựa
Cục thịt chẳng biết vị
Ví phỏng rõ được vị
Lưỡi cũng sẽ nhận rõ.
Không nương các tưởng này
Đẹp cho là hung dữ
Sáu giới chẳng nên nghĩ
Nhận rõ các thứ vị.
Bồ-tát rất mạnh mẽ
Mắt nhìn phân biệt được
Nhân nghe mà đạt pháp
Nên gọi là Thanh văn.
Tự nhận rõ thân mình
Thảy đều không, tự nhiên
Rõ được hư vô này
Ắt không khởi, không sinh.
Nếu không có phát khởi
Thì hiểu Thánh đạo này
Giúp chúng sinh nghe pháp
Nên gọi là Thanh văn.
Chấp thân, lời vốn tịnh
Không thân, chẳng thật có
Như thế chẳng có người
Nghe đó là Thanh văn.
Giống như huyễn hóa sinh
Diệt hết thời cũng không
Nếu có thấy hình tướng
Rõ ấy là Thanh văn.
Hạnh nghe việc bố thí
Pháp thí chẳng nên nghĩ
Theo đúng con đường Thánh
Mới thành tựu Phật đạo.
Tùy cội gốc gieo trồng
Được quả cũng như thế
Thí chẳng thể nghĩ bàn
Thành đạo lớn: vô niệm.
Thí cơm áo phước mỏng
Pháp thí cao rộng hơn
Không hề có tiếc rẻ
Đó là đường tuệ Thánh.
Tâm không hề vọng tưởng
Bố thí không đắm trước
Người bố thí như thế
Mau được thành Phật đạo
Dứt bỏ mọi vọng tâm
Tai không chấp chỗ nghe
Vượt qua mọi giả hợp
Nên gọi là Thanh văn.
Do gọi có tiếng vang
Giả sử không đắm tiếng
Thì đối các bậc Thánh
Phật pháp không gì hơn.
Những người không nghe tiếng
Tất cả không nương tựa
Không hai, không giới hạn
Xướng âm có Thanh văn.
Vô số Phật nói pháp
Khiến người nghe tiếng pháp
Coi chỗ nghe như vang
Người vui thành Phật đạo.
Khéo đến các cõi Phật
Điều nghe chẳng vọng loạn.
Hiểu mọi cõi bình đẳng
Thế Tôn không ai hơn.
Thấu đạt khắp tam thiên
Chỗ trụ như hư không
Cõi tịch bao người nương
Nếu Nê-hoàn không tướng
Người đời hay chấp trước
Chỗ dựa có bốn đại
Thảy đều là hư không
Nê-hoàn là nghĩ tưởng.
Rõ mọi loài như vậy
Biết chẳng thể bền chắc
Vốn không có sinh tử
Chẳng diệt, hết phiền não.
Muôn vật chẳng rốt ráo
Coi người chẳng thật có
Các pháp ấy vắng lặng
Chưa hề thấy các cõi.
Khiến mọi người nghe được
Sớm tối cũng như thế
Không khởi các vọng niệm
Ta hóa độ nhân gian.
Khiến người được nghe pháp
Như thế là đệ tử
Học rộng, không học rộng.
Nên khen là Thanh văn.
Kẻ dũng nhớ chuyện cũ
Nghe nhận pháp tối thượng
Xem kinh không phân biệt
Hết thảy tất cả pháp.
Âm thanh giảng rõ ràng
Cứu độ tất cả hội
Nói pháp vì chúng sinh nghe
Đó chính là Thanh văn.
Giảng về cõi vô vi
Thanh tịnh chẳng buông lung
Quán kỹ không nói pháp
Phật pháp cũng như vậy.
Thấy pháp chẳng xa cách
Điều Phật luôn khen ngợi
Pháp ấy cũng chẳng gần
Do đó không nương tựa.
Cho nên bảo đệ tử
Nghe, vâng theo lời dạy
Giáo hóa độ chúng sinh
Khiến họ được nghe pháp.
A-nan! Ta vì thế
Giảng nói độ Thanh văn
Tạm gọi là đệ tử
Đều Bồ-tát, Đại sĩ.
Phật bảo A-nan:
–Cho nên Đức Như Lai là Bậc Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác khen ngợi Bồ-tát là Thanh văn.
Nên biết ý nghĩa ấy cũng là phương tiện khéo léo.
Phật bảo A-nan:
–Vì sao Như Lai bảo rằng Bồ-tát là Duyên giác? Là vì Bồ-tát đã nhận rõ thực chất của các pháp. Nói rõ hơn là thấu đạt tất các pháp là không, không có hình tướng chủng loại nào, không bị hoại diệt, xem xét nhận biết các pháp hiện hữu là không hề bị mất đi, nên gọi là Duyên giác.
Đối với kinh sách của các Đức Phật thì không thể suy nghĩ bàn luận, tỏ rõ mọi mầm mống sinh tử đều như Nê-hoàn, không có trong ngoài thì không thật có, tất cả các pháp không sinh không diệt, bản tế của con người chính là Nê-hoàn, được gọi là vốn tịnh nhưng vướng mắc ở ngôn từ, cho nên không có tất cả pháp, các pháp không thật có, tạm dựa theo tên gọi để giảng nói chứ lời nói không thể đến được. Vì sao? Vì mọi ngôn ngữ là không, điều từ miệng nói ra là không nên chẳng thể lý giải được. Bản tế của các pháp chính là lý Vô của đạo Phật. Quán xét để nhận rõ lẽ ấy nên gọi là Duyên giác.
Tự xét sắc ấm chỉ là âm thanh. Sắc ấm này từ sắc sinh ra, chỉ có tên gọi, vì lìa ngôn từ và âm thanh thì không còn có ấm nữa. Sắc ấm đó là không thân, không ngã. Vì sao? Vì miệng tạo ra dấu hiệu, lời nói cũng không, không sinh không diệt, lời nói tự nhiên. Đối với cái tôi, cái ta, đã không đắm trước, không cho là tồn tại được lâu dài huống chi là ngôn từ phát ra từ miệng mà cho là lâu bền sao? Mắt thấy sắc ấm có thể gây nên khổ thọ. Khổ thọ ấm diệt thì cũng không còn có tên gọi. Do lời nói phát ra từ miệng mà gọi là khổ thọ, do khổ thọ ấm thân vô ngã. Vì sao? Vì chỗ gọi là khổ thọ ấm do ngôn từ nêu ra là không, không sinh không diệt. Ngôn từ không vướng mắc về thân đã là vô sở trụ huống chi là ngôn từ. Hiểu rõ khổ thọ là do tích tụ thì xem xét tưởng uẩn cũng là tịch tĩnh. Tưởng uẩn đã không thì tư tưởng về tưởng uẩn cũng chỉ là tên gọi không thân, không ngã. Vì sao? Vì những lời nói ra gọi là tư tưởng chỉ là do tích tụ mà có, ngôn từ ấy là không, không sinh không diệt, nhận rõ ngôn từ như vậy thì đạt được an nhiên không còn vướng mắc, tâm không chỗ bám víu huống chi là ngôn từ. Quán tưởng ấm đã như thế thì sinh tử ấm cũng diệt. Hành ấm thì không sinh không diệt, cái gọi là hành ấm là không thân, không ngã. Vì sao?
Vì ngôn từ để diễn tả hành ấm là không, không sinh không diệt, nên rốt lại chỉ là sự vướng mắc đối với ngôn từ mà thôi. Cái ta không thể tồn tại lâu dài huống chi là lời nói. Quán hành ấm như thế rồi thì đến thức uẩn. Giả sử thức uẩn an nhiên vắng lặng thời thức ấm không có, chỉ là do âm thanh chứa nhóm. Vì sao? Vì tên gọi thức ấm đã là không, không sinh không diệt cho nên ngôn từ ấy là tự nhiên. Tâm đã không có chỗ dừng trụ huống chi là lời nói. Do đó năm ấm đều không thật có. Nhận rõ về bản vô nên gọi là Duyên giác. Vì sao? Vì ngôn từ từ nơi miệng phát ra đã do duyên hợp mà thành, mà xét cho cùng thì cũng không duyên hợp, các nhân chẳng duyên với nhau, nên giảng thuyết có lời mà kỳ thật là vô ngôn. Đối với năm ấm thì tất cả những điều ấy hoàn toàn không còn chỗ vướng mắc, cũng không tạo ra các nhân, nên gọi là Duyên giác.
Bấy giờ, Đức Phật nói bài tụng:
Mắt thấy tất cả pháp
Nhận rõ biết là không
Không vướng mắc các sắc
Rốt ráo chẳng hình tướng.
Hiện tại quán pháp này
Hiểu không, biết tự nhiên
Tự tại, nhận biết rõ
Cội gốc không thật có.
Hiện đạt được điều ấy
Rõ năm ấm như thế
Tức là Bình đẳng giác
Duyên giác dứt nhớ nghĩ.
Chúng sinh đều vô vi
Tâm họ không thật có
Bản tế không có sinh
Thanh tịnh, dứt nghĩ bàn.
Tất cả người không sinh
Quán thấy không hề diệt
Các pháp không dấy khởi
Đó gọi là vô vi.
Chúng sinh đều Nê-hoàn
Xét rõ chỗ hướng tới
Không người cũng như bóng
Nên gọi là vô vi.
Chẳng dùng tên gọi ấy
Chúng sinh là Nê-hoàn
Chẳng sinh, cũng không diệt
Như miệng nói lời khen.
Nêu rõ tất cả không
Người chẳng hiểu phi ngôn,
Do đó vì chúng sinh
Thị hiện nói Nê-hoàn.
Miệng phát lời nói giả
Không chốn cũng không nghĩ
Từ miệng có lời dạy
Tìm gốc chẳng thật có.
Ấm không ở bản tế
Lời nói không bày được
Các âm thanh giảng nói
Ấm người, cũng không nghĩ.
Tất cả mong Nê-hoàn
Bản vô và thỉ tế
Vắng lặng không buông lung
Cứu giúp có chỗ về
Gốc tịnh, tiếng vang xa
Chúng sinh cũng như vậy
Không thân nên vắng lặng,
Gốc tịnh, không tâm niệm.
Gốc pháp là như thế
Mượn danh để khen ngợi
Cội nguồn chẳng thật có
Sở dĩ có lời nói.
Không vì việc dua nịnh
Mà để cùng nhận rõ
Tận cùng đều không, vô
Rõ thấu gốc chúng sinh.
Lời ấy chẳng nương giảng
Lời nói không hiển bày
Các chúng sinh như thế
Nên không đắm gốc người.
Nơi phát ấm là không
Tiếng ấy không có khác
Lời ấy cũng như thế
Bờ mé cùng như vậy.
Không Chân đế như thế
Giác rồi không suy nghĩ
Đó là đạo bình đẳng
Duyên giác không nghĩ bàn.
Giác rồi, đối gốc sắc
Đó chỉ tiếng của ấm
Vắng lặng sắc ấm này
Nên không có tiếng nói.
Tự nhiên lìa dứt hết
Nên gọi là không thân
Ta, tôi đã tự nhiên
Thấy đó chẳng nơi chốn.
Nhân lời gọi là ấm
Gốc sắc chẳng có thân
Âm thanh đều về không
Chẳng sinh cũng chẳng diệt.
Do miệng mà có lời
Tìm gốc chẳng thật có
Lời ấy do si sinh
Tên gọi là sắc ấm.
Hiện tại quán thức ấm
Các tiếng không thật có
Ấm này đều vắng lặng
Nên chẳng còn hưởng ấm.
Bấy giờ xa lìa thân
Cái gọi là tôi, ta
Đã cho tự nhiên không
Không hề được bền chắc.
Ấm sở duyên của miệng
Thức ấm như hư không
Lời nói vốn vắng lặng
Không sinh cũng không diệt
Nếu có chỗ giảng nói
Xét kỹ vốn đều không
Chẳng thông tỏ lời nói
Nên nói là sắc ấm.
Các âm không có nói
Hạn ấy chẳng thật có
Không sinh cũng không diệt
Không nơi, không quyết định.
Chẳng phiền não xâm chiếm
Cũng chẳng tạo các pháp
Không nắm giữ, lìa bỏ
Không điều, không Nê-hoàn
Kia cũng không vắng lặng
Chẳng có chỗ trông nhìn
Chẳng ưa thí, dục lạc
Chẳng nhác, chẳng tinh tấn.
Chẳng loạn, chẳng nhất tâm
Kia cũng chẳng giữ giới
Chẳng vật nào thành tựu
Vì sao phải giữ giới?
Năm đường chẳng có niệm
Dứt nghĩ cũng như thế
Chẳng lo, không sợ hãi
Chẳng thoát, chẳng trói buộc.
Tuy giảng, không chỗ diễn
Đó gọi là sắc nhập
Các pháp âm như thế
Chẳng đạt, chẳng đắm lời.
Hiện tại đến giác ấy
Nói pháp vô cùng tận
Để thành chánh định ấy
Thì không các tiếng vang
Mắt đã nhận rõ được
Tiếng vang chỉ tên gọi
Các pháp cũng như thế
Vô ngôn, chẳng hề đắm.
Hiểu rõ nhân duyên ấy
Biết tiếng không thật có
Nên gọi đạo bình đẳng
Đó gọi là Duyên giác.
Phật bảo A -nan:
–Các vị Bồ-tát Đại sĩ nhận thức về hiện hữu, là minh hay vô minh, là hành hay chẳng phải hành. Là thức hay chẳng phải thức, là sắc hay chẳng phải sắc, là sáu nhập hay chẳng phải sáu nhập, là xúc hay chẳng xúc, là thọ hay chẳng thọ, là ái hay chẳng ái, là chỗ giữ lấy hay xả bỏ, là hữu và chẳng phải hữu, là sinh chẳng phải sinh, cùng với những lo lắng về già, bệnh, chết... tất cả tự nhiên quán sát vốn không. Quán sát như vậy nên gọi là Duyên giác.
Bấy giờ, Đức Phật nói bài tụng:
Hiện tại rõ không tuệ
Chưa từng nương để tỏ
Không thể lập có thân
Như bóng hiện trong nước.
Thông hiểu hết các nghĩa
Không đắm tất cả pháp
Giả sử chẳng nương kinh
Là tướng trạng kẻ trí.
Minh và thân không khác
Tất cả các pháp tướng
Biết nơi duyên này đến
Nên gọi là Duyên giác.
Gọi là hành của thân
Thân ấy không chốn tạo
Chẳng hề có trong ngoài
Nên vượt thân sinh tử.
Đầu, cuối như cây chuối
Chẳng lõi, không tướng mạo
Chẳng sinh, cũng chẳng diệt
Đều ví như hư không.
Hiện tại hiểu rõ rồi
Là Bồ-tát mạnh mẽ
Hiệu là Thánh bình đẳng
Duyên giác như vô niệm
Nhận rõ tất cả pháp
Vắng lặng như huyễn hóa
Thức ấy tự nhiên thế
Hiện tại hiểu rõ rồi.
Bỗng nhiên ngộ tâm ấy
Rõ thức, hành như vậy
Những dẫn dắt chỉ bày
Biết rõ các pháp không.
Nhận rõ thức cũng thế
Tất cả không vướng mắc
Hiểu rõ pháp như vậy
Biết thức cũng như huyễn.
Chỗ gọi là danh sắc
Thân và các âm thanh
Tướng mạo không, bất thành
Đó là tướng tự nhiên.
Tâm rong ruổi sáu căn
Như huyễn hóa, không lời
Hiện lời chẳng âm thanh
Cho tự nhiên đều không.
Đã tu tập lâu xa
Nhân phát sinh các nhập
Kia thì nhận biết tu
Gọi tự nhiên như không.
Tu tập thành đều không
Niệm đến nên cùng khởi
Nếu rõ gốc tu lặng
Thì biết pháp Vô trụ.
Mắt thấy tu tự nhiên
Thấy chúng sinh vắng lặng
Không khởi tội hung ác
Nên gọi là Duyên giác.
Biết rõ mọi khổ thọ
Đều không, như vốn tịnh
Như thời gian nổi bọt
Chí kính không, không thân.
Dứt bỏ các ân ái
Nên theo pháp không đắm
Tình dục đã hết hẳn
Nên gọi là Duyên giác.
Như thọ mà chẳng thọ
Nên không, chẳng thật có
Không thân sao thành tựu
Được dụ như ngựa hoang.
Ta không khởi vọng tưởng
Thân sống cũng như thế
Rõ gốc tự nhiên sinh
Rễ không, chẳng có thân.
Nên lìa pháp sinh diệt
Mọi chung cuộc chẳng sợ
Chưa khỏi lại thành thân
Tất cả được tự tại.
Hiện tại được tuệ ấy
Không hề có đắm mê
Lại tiếng của Duyên giác
Tạo nên hạnh Bồ-tát.
Phật bảo A-nan:
–Như Lai là Bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, do duyên cớ ấy nên khen ngợi Bồ-tát là Duyên giác vậy. Cũng nên biết đó là phương tiện khéo léo,
Như Lai dùng đó để nêu rõ hết mực về Bồ-tát Đại sĩ, từ việc giữ vững niềm tin, kính thờ Chánh pháp, con đường tám đẳng, đến đi chẳng trở lại, không vướng mắc Thanh văn, Duyên giác.
Tôn giả A-nan nói kệ:
Pháp Thế Tôn giảng nói
Giả gọi là Nê-hoàn
Dụ như là hư không
Để đạt vô sở hữu.
Tuy có thể giảng nói
Nhưng đều vượt ngôn từ
Chư Phật khéo quyền biến
Nói pháp hợp căn cơ.
Tôn giả A-nan nói kệ xong, liền bước đến bạch Phật:
–Bạch Đấng Trời Trong Trời, chúng sinh ở thế gian không rõ sự hóa độ thường xuyên của Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đó là tự xem thường mình, không rõ Như Lai. Vậy xin Như Lai nói rõ thêm, là y cứ vào đâu mà nhận biết rõ về hạnh của các bậc Bồ-tát Đại sĩ, từ giữ vững niềm tin, kính thờ chánh pháp cho đến Duyên giác?
Đức Thế Tôn nói:
–Nếu có người sáng suốt, đối với các Đức Phật thời quá khứ đã chứa nhóm nhiều công đức, tâm khai mở, ý thông đạt, không bị xem thường. Vì sao? Vì những người ấy đã hiểu rõ các pháp, ví như cảnh ảo mộng, hình bóng, tiếng vang, ngựa đồng, trăng trong nước. Vì sao? Vì các vị Bồ-tát Đại sĩ đã dùng trí tuệ để nhận rõ trí tuệ ấy nên không tự xem thường mình siêng năng tu học theo giáo pháp của Như Lai tinh tấn không biếng nhác, không tự luống uổng.
Phật liền nói bài tụng:
Lời khen của Thế Tôn
Tán dương về Phật đạo
Đó chính là nguyên do
Hạnh Bồ-tát mạnh mẽ
Kẻ trí kém, biếng lười
Chẳng thể hiểu nghĩa này
Nên phải tu tinh tấn
Như Lai nói lời đây.
Ý đạo sinh khởi lên
Thế Tôn có khai hóa
Nên nhận rõ tuệ ấy
Thanh tịnh và minh triết
Người hiểu được ý đạo
Trí Phật chẳng thể được
Nếu biết được phép tắc
Tâm giác, năm việc không.
Không là chẳng biết không
Lặng chẳng phải không nói
Dứt bặt tất cả tiếng
Nên khen ngợi pháp không.
Nắm bắt không chẳng được
Chưa từng có người được
Dù cho không thể giữ
Cũng biết được nghĩa không.
Có người hiểu năm việc
Hiểu rõ được Không tuệ
Được sự không buông lung
Thì chẳng tự xem thường.
Bấy giờ, có năm ức vị Tỳ-kheo chí nguyện mong luôn được giữ vững niềm tin, liền đứng dậy đến trước Thế Tôn, chắp tay cung kính hướng về, cùng một lời khen ngợi:
Nay Thế Tôn Đại Thánh
Dứt bỏ mọi nghi ngờ
Bình Đẳng Giác giảng nói
Chí vững nơi đại đạo.
Lại có năm ức vị Tỳ-kheo nghe lời Phật nói, thảy đều kính vâng làm theo cũng đều đến trước Phật, cùng hết lòng nói bài tụng: Nhờ Thế Tôn nêu rõ
Con không còn do dự
Điều Thế Tôn khen ngợi
Nhân rõ chánh đạo Phật.
Chí nguyện kính thờ pháp
Tuệ chánh không trở ngại
Đạo đức tự nhiên thành
Khai hóa khắp mười phương.
Lại có bảy ức vị Tỳ-kheo, tâm luôn nghĩ đến tám Đẳng, nghe những lời khen tặng ấy liền đứng dậy, đứng chắp tay cung kính cùng ca tụng:
Chí mong đạt tám bậc
Nay xé tan lưới nghi
Tâm đã được hiểu rõ
Là nhân thấy tám bậc.
Lại có mười ức vị Tỳ-kheo luôn nhớ nghĩ về đạo pháp, liền đứng dậy chắp tay, cùng nói kệ:
Đạo Sư và chúng con
Vì đạt được pháp sáng
Mà biết Bình đẳng giác
Làm nhân giảng nói đạo.
Lại có hai trăm năm mươi vạn vị Tỳ-kheo tâm chí luôn mong được thể hiện sự hành hóa, liền đứng dậy chắp tay cung kính, cùng khen ngợi bằng bài tụng:
Chúng con vốn nương dựa
Chí muốn được hành hóa
Hôm nay hẳn không khó
Mất còn, không buông lung.
Lại có năm mươi ức vị Tỳ-kheo tâm tưởng luôn mong đạt được không trở lại, cùng nói bài tụng:
Bậc Đạo Sư Vô Thượng
Hôm nay dứt đùa bỡn
Bỏ hẳn vọng chấp quả
Đạt đạo Thánh ngời sáng.
Lại có ba mươi lăm ức vị Tỳ-kheo tâm tưởng luôn mong không còn bị vướng mắc để an trụ trong cảnh giới Tứ thiền, liền đứng dậy, chắp tay nói kệ:
Nay con hết do dự
Mong đạt pháp Vô dư
Rõ các thừa bình đẳng
Ví cũng như huyễn hóa.
Lại có năm mươi tám ức vị Tỳ-kheo, ý mong theo hạnh Thanh văn, liền đứng dậy chắp tay, đồng hành khen ngợi bằng bài tụng:
Chúng con phạm lời này
Ý muốn độ chúng sinh
Giảng giải pháp Thanh văn
Hôm nay thêm thông tỏ.
Lại có năm ức vị Tỳ-kheo tâm tưởng luôn mong được phát huy hạnh Duyên giác, liền đứng dậy chắp tay, đồng tâm nói bài tụng:
Hôm nay chính con thấy
Sở nhân của Duyên giác
Thế Tôn chỉ dạy rõ
Duyên giác không nghĩ tưởng.
Lại có trăm muôn vị Tỳ-kheo-ni, vì muốn phát huy đạo pháp, hành hóa, không trở lại, không còn vướng mắc về các quả vị, liền đứng dậy chắp tay, nói bài tụng:
Con rõ pháp bình đẳng
Nên bỏ thân người nữ
Thảy đều thành Phật Thánh
Bậc Tối Thượng trong đời.
Lại có tám trăm tám mươi muôn vạn các vị Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, vì muốn phát triển đạo pháp, hành hóa, không trở lại, liền đứng dậy chắp tay cung kính, đồng nói kệ:
Chúng con giữ tâm tịnh
Ví như ngọc lưu ly
Ngày nay bỏ gia đình
Vì hưng thịnh chánh pháp.
Lại có sáu mươi ức triệu triệu các vị trời, người trụ trong hư không tung rải hoa trời trên mình Đức Phật để cúng dường Đức Thế Tôn, sau đó liền hạ xuống đứng chắp tay trước Phật, ca tụng:
Con vốn mong các thừa
Tưởng về quả cũng thế
Hôm nay được dứt hẳn
Giác thành đạo Vô thượng.
Khi ấy, vô số trăm ngàn các vị Tỳ-kheo trong chúng hội, các vị Trưởng lão như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, A-na-luật, Ly-việt, Kiếp-tân-na... liền đứng dậy chắp tay, bạch Đức Thế Tôn:
–Hôm nay chúng con đã đầy đủ đạo Thánh, không trái với chí lớn, đã hàng phục được ma oán. Chúng con xét thấy đầy đủ năm tội nghịch thì được năm điều an vui, đầy đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến. Hôm nay chúng con đã hại vô số muôn ngàn mạng người, đều được thành tựu Phật đạo đạt đến cảnh giới vô dư và đã diệt độ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn yên lặng. Trong chúng có vô lượng trăm ngàn vị đến dự hội nghe lời nói ấy đều sinh tâm nghi, cho rằng lời nói ấy có nghĩa gì? Mục đích của ý nghĩa đó lẽ gì? Vì thế mà tâm họ cảm thấy mờ mịt, các bậc ấy đều đã chứng quả A-la-hán mà còn nói những lời như thế huống chi là phàm phu? Vị nào đang đứng thì đứng yên, vị nào đang ngồi thì ngồi im lặng, hầu như không thể đứng dậy được.
Tôn giả A-nan vâng theo Thánh chỉ của Đức Thế Tôn, biết rõ tâm niệm của vô số trăm ngàn chúng sinh, nên hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Nghe các vị Trưởng lão nói như vậy, chúng hội thảy đều hồ nghi, chẳng hay mục đích của lời nói ấy là gì? Mà Đức Thế Tôn yên lặng không nói? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:
–Thưa Tôn giả A-nan! Kinh này gọi là Pháp Luân Bất Thoái Chuyển Bồ-tát Chi Địa, vì thế các vị Trưởng lão ấy có thể bàn luận thêm, để cho các vị Bồ-tát Đại sĩ đã đạt pháp không thoái chuyển tận mắt thấy rõ và tăng thêm niềm tin.
Tôn giả A-nan lại hỏi:
–Vì sao các vị Trưởng lão lại nói những lời như thế? Đức Thế Tôn thì im lặng. Như vậy thì các vị
Trưởng lão ấy bằng với Bậc Vô Thượng Chánh Chân không thoái chuyển rồi?
Đáp:
–Đúng vậy, sẽ thành Chánh giác thì không còn có chuyện trở lại nữa.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bảo Tôn giả A-nan:
–Hành động không sáng suốt thì gọi là mẹ; mọi người phải suy cứu để giết hại hết thứ mẹ này. Tư tưởng không tốt, tham đắm tình sắc, đó gọi là cha; phải dứt trừ các ý tưởng bất thiện, xa lìa các tình niệm, đạt được tâm không đắm mê dứt hết các pháp phàm phu, rửa sạch hết tư tưởng bất tịnh là sự khác biệt giữa Thánh và phàm, phá vỡ các vọng niệm mà không làm hại đến Đại pháp, khởi tâm Như Lai để dứt bỏ vọng tưởng, vì đối với tất cả các pháp đều không có nơi sinh, vì vậy mà các Trưởng lão đã nói là “Hôm nay chúng con đầy đủ năm tội nghịch”. Sở dĩ nói như thế là vì khi nêu lên chữ ‘nghịch’, các vị ấy đã không vướng chấp ở ý tưởng ‘nghịch phản’, vì vậy các vị Trưởng lão ấy đã nói trở thành năm điều an vui.
Xét năm điều an vui ấy đều như mộng, huyễn, hình bóng, tiếng vang, ngựa đồng, biết rõ tuệ này thực hành không thiếu sót, thì được năm điều an vui. Vì sao? Vì chúng không có gốc rễ, dù không có gốc rễ nhưng vẫn nói đến chuyện trừ hết, như thế mới thích ứng với sự bình đẳng. Giảng nói về trí tuệ của bậc Thánh tức là đạt đến pháp Nhẫn, ở đây gọi là “năm điều an vui đầy đủ”.
Các vị Trưởng lão ấy nói “Hôm nay chúng con được lìa chánh kiến, sống với tà kiến”, nói như thế tức là thấy các pháp đều ở trong tà kiến. Nhưng các pháp hư vọng chân thật, đều không thực có. Ví như hư không, không có tướng mạo thì mọi thứ thật giả, đến đi, đều không có chỗ hướng về, không thể giữ gìn. Vì sao? Vì các pháp vốn tự nhiên, xem các pháp này đều bình đẳng, giống như các pháp, tà kiến cũng như thế. Các vị Tỳ-kheo này không phải không có tà. Vì sao? Vì để lìa mọi ý tưởng đạt đến Thánh đạo của Phật thì phải có sự giác ngộ về các pháp, về ý nghĩa sâu xa đầy đủ của kinh điển, tức là đạt đến diệu lý vô sở đắc. Cho nên, này A-nan! Các Tỳ-kheo này cùng nói là “Hôm nay chúng con có đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến”.
Các vị Trưởng lão ấy còn cho: “Hôm nay chúng con đã hại vô số trăm ngàn mạng người”. Lúc nói lời ấy là không nhằm đến vô số hàng ngàn muôn các vị người, thần. Khi nghe, các pháp đều như huyễn, mộng, hình bóng, tiếng vang, ngựa đồng. Trừ bỏ ý tưởng về con người, không có tôi, ta, lìa ý tưởng về tuổi thọ của con người, vượt qua các gốc lành phát tâm đối với đạo lớn, không còn gieo trồng các hạt giống, tu theo đạo nghĩa, các vị Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ lìa bỏ mọi ý tưởng về ta, người, thọ mạng, không thân thì cũng không còn vướng trong mối lo về sự, mở đầu chung cuộc. Vì sao? Vì không còn ý tưởng về ta, người, hết hẳn không còn, đạt đến rốt ráo, không khởi pháp nhẫn, cho nên nói là: “Hôm nay chúng con đã hại vô số trăm ngàn mạng người”. Nói như thế là các vị Trưởng lão muốn nói lên ý nghĩa là: Hôm nay chúng con đã đạt được Phật đạo, đã đạt đến cảnh giới vô dư mà diệt độ khai hóa vô lượng ức trăm ngàn mạng người, giúp diệt trừ phiền não, đạt được Thánh đạo. Vì sao? Vì các vị ấy đều phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân, khi nói lời ấy đều đã đạt được pháp Vô sinh nhẫn. Do vậy mà lời than trách đã trở thành lời khen ngợi: Hôm nay chúng ta đã dứt sạch tình dục, thành tựu Phật đạo, không còn hình bóng phiền não, trừ hết các cấu uế sinh tử. Cho nên điều ấy nhằm nói với chúng ta rằng hôm nay các vị đó đã đạt được đạo lớn, đạt đến cảnh giới Vô dư mà diệt độ. Các vị Hiền giả ấy muốn an trụ trong Đại thừa chứ không an trụ trên các cõi trời.
Thưa Nhân giả A-nan! Các thiện nam, thiện nữ phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, vượt khỏi mọi tạo tác của thế tục, tâm luôn được thanh tịnh, không còn bị trói buộc của các pháp thế tục, vì thế nên phát tâm đạt được tất cả ý nghĩa, xả bỏ mọi vọng chấp, đạt đến chỗ rốt ráo của kinh điển, tức là cảnh giới vô dư mà diệt độ, đó là vì A-nan tu tập theo Bồ-tát thừa, người hành đạo Bồ-tát không tu tập theo các hành tu thường ngày.
Những kẻ căn trí thấp kém thì tu theo hạnh tu thường ngày. Đó không phải là người có trí tuệ sáng suốt. Vì sao? Ví như không có những kẻ thân tín canh giữ các nơi quan trọng trong cung điện của các vị trời, thì không có sự sáng sủa, không được ra vào, các việc quá khứ không được rõ ràng, không có ngày đêm, không có nghĩ tưởng. Những kẻ ngu tối luôn khởi ý nghĩ về ngày đêm. Còn các bậc Bồ-tát Đại sĩ thì tu theo đại đạo, học hỏi các bậc Thiện tri thức, chí không còn giới hạn trong ý tưởng về ngày đêm. Vì sao? Vì phải dứt sạch mọi vọng niệm thì mới đạt đến Phật đạo.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói bài tụng:
Chỗ gọi chẳng nhớ thí
Yêu mình, chấp có thân
Nếu kia chẳng dứt bỏ
Gọi là chẳng dao động.
Nhận rõ về giận dữ
Tự nhiên chẳng khởi tưởng
Đạo Thánh vốn không chốn
Nên kia không thể động.
Chỗ gọi là giết mẹ
Đầu cuối từ đó sinh
Trừ sạch mọi cội nguồn
Nên gọi là hại mạng.
Chẳng thuận niệm là cha
Ưa thích pháp dục tình
Hiểu điều đó vốn không
Rốt ráo không hình mạo.
Hóa độ về không thân
Chẳng biết rõ nẻo đến
Không động, không chỗ trụ
Nói người quy hướng nghe.
Tu hành pháp La-hán
Pháp phàm phu cũng vậy
Các ái dục nên dứt
Nói người quy hướng nghe.
Khởi ý tưởng hữu vi
Xét tôi, ta tự nhiên
Các pháp chẳng thể hoại
Thì không âm thanh nói.
Chỗ biết của Như Lai
Nhớ nghĩ về chuyện cũ
Liền nhổ gốc rễ ấy
Cho không từ đâu sinh.
Vì bỏ ý nghĩ vui
Cũng đồng với không hai
Dù cho hiểu điều đó
Mà cho là bình đẳng.
Chỗ nói năm dục lạc
Kẻ tục khen năm dục
Dứt bỏ tưởng vô thường
Nghĩ nhớ như huyễn hóa.
Đầy đủ, không thiếu thốn
Thì hoại, ái dục không
Cho nên những thứ ấy
Trước khen ngợi Thế Tôn.
Nhận rõ các tội phước
Cũng ví như mộng ảo
Rốt ráo không chốn sinh
Trí tuệ ấy biết tỏ.
Rõ các pháp sân, tà
Vắng lặng, chẳng bền chắc
Bị tà kiến lừa dối
Kia biết rõ trí mầu
Tất cả pháp chẳng thật
Chớ nên gần pháp ấy
Việc dối chẳng đáng nương
Như hư không, không chỗ.
Hiểu khắp thấy tất cả
Nên khen là chánh kiến
Pháp ấy là bình đẳng
Rõ tuệ thấy, chánh đẳng.
Còn những kẻ ngu tối
Khởi nhân tưởng liền diệt
Tìm người không thật có
Nên không có người chết.
Vô số người sinh ra
Nên bỏ tưởng thọ mạng
Liền dứt hết các niệm
Chấp có mạng tội nặng.
Dứt trừ tưởng chúng sinh
Chẳng có chấp tuổi thọ
Do vậy nói lời này:
Ta hại vô số người.
Xả bỏ các phiền não
Pháp vô ứng, bất ứng
Rõ đạo không tướng mạo
Nên không chỗ diệt trừ.
Hàng phục các ma lực
Đạt đạo pháp thanh tịnh
Các pháp không tranh chấp
Chẳng sinh cũng chẳng diệt.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói kệ xong thì năm ngàn người có tâm hồ nghi đang ở trong chúng tâm ý liền được mở tỏ, sáng suốt hoàn toàn, đạt được pháp nhẫn không từ đâu sinh. Các vị ấy đều dâng chiếc y đang mặc trên để cúng dường Bồ-tát Vănthù-sư-lợi và đồng thưa:
–Chúng tôi mong có được sự hiểu biết về đạo pháp như vậy, những lời giảng nói như thế, nhằm khai hóa chúng sinh, hiểu rõ tuệ sâu, không bị trở ngại cũng như Nhân giả.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:
–Lành thay, lành thay! Đó là điều tốt đẹp nhiệm mầu, phá trừ được các lưới nghi, gồm các kinh sách Phật.
Tôn giả A-nan bước đến bạch Phật:
–Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giáo hóa, dắt dẫn như thế nào mà nay Thế Tôn khen ngợi như thế?
Đức Thế Tôn đáp:
–Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã dẫn dắt hóa độ vô số trăm ngàn hạng người, giúp họ đến với đại đạo, giúp họ hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của kinh này.
Tôn giả A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi như vậy là khen ngợi chuyển pháp luân không thoái chuyển, dẫn vào phép tắc của Phật chăng?
Đức Phật nói:
–Đúng thế, A-nan! Bồ-tát đã giảng về pháp luân không thoái chuyển để làm cho đạo pháp được phát huy hưng thịnh. Vì sao? Vì Bồ-tát Vănthù-sư-lợi là một người bạn lành, khéo léo dẫn dắt chúng sinh.
Tôn giả A-nan lại hỏi:
–Bạch Trời Trong Trời, hiện nay, số các vị Tỳkheo đứng ở trước Phật hiện giờ, đều đã giữ vững niềm tin, kính thờ Chánh pháp, tám bậc, phát huy đạo pháp, hành hóa, chẳng trở lại, không vướng mắc, cùng tu các hạnh Thanh văn, Duyên giác, như thế các vị trong chúng hội này có phát tâm đối với đại đạo chăng?
Đức Thế Tôn bảo:
–Trong số các vị ở đây, có những người biếng trễ, yếu kém, tâm ý mờ tối nên khó giáo hóa, lại kiêu mạn không cầu tiến, ý nghĩ luẩn quẩn trong chuyện cơm áo; chẳng chịu khó học hỏi các pháp nhiệm mầu, chỉ ưa chuộng các pháp lợi, thích đề cao các pháp hữu vi nên chỉ gây thêm những phiền phức, ồn náo; đối với tám bậc nên đạt thì chẳng dốc sức mà lại chạy theo sức mạnh nên không có được sự an vui, các căn chẳng ổn định; tâm ý buông lung kiêu căng tự cho mình là hơn người, chí nguyện chỉ nhằm mưu cầu cho bản thân mình và mạng sống của mình, không chịu dứt bỏ các lỗi lầm, phạm giới, tham lam, ganh ghét, mà lại tưởng cầu Phật pháp. Những người ấy thảy đều đi theo bạn xấu, ưa thích tà trí, không chịu kính nhận Trí độ vô cực. Thuận theo duyên ngoài, tham đắm các thú vui về tài sắc, cơm áo, từ xưa tới nay chỉ bận bịu với chuyện tối ngủ sớm dậy, không dốc lòng tinh tấn, đánh mất đạo tâm. Ngôn ngữ thì phạm đủ các lỗi lầm của miệng như nói lưỡi hai chiều, nói lời ác độc, nói dối, nói thêu dệt. Tâm chí thì chỉ mang bao ý tưởng độc hại, tranh chấp với nhau, coi trọng tội phước, chẳng tin các pháp giải thoát như Không, Vô tướng, Vô nguyện; quên bỏ các hạnh bất sinh bất diệt, phá hoại tất cả pháp, không bao giờ khởi tướng. Họ là những người như thế!
Bấy giờ, Đức Phật im lặng không nói thêm nữa. Tôn giả A-nan nương theo uy thần Phật hỏi Bồtát Văn-thù-sư-lợi:
–Vì sao Đức Thế Tôn im lặng không nói nữa?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Vào thời gian cuối cùng của cõi đời năm trược, thì người pháp như thế, chẳng tin ý nghĩa sâu mầu của kinh, vì thế mà Phật im lặng.
Tôn giả A-nan lại hỏi:
–Vẫn có ít người tin theo hay tất cả đều chẳng tin theo?
Đáp:
–Người tin được thì ít, người có trí tuệ sáng suốt như Tôn giả chẳng hạn thì ít ỏi mà những kẻ ngu tối thì nhiều. Vì sao? Vì không thích tu tập nên không hiểu biết về đạo pháp.
Này Tôn giả A-nan! Tình trạng là như vậy, nghe các pháp lành thì ít kẻ vui thích, mà lắm kẻ chẳng ham chuộng, ví như có người tin theo thì thường bị chúng rời bỏ, không được cung kính. Những người tin theo đạo pháp nếu có đi tới các quận, huyện, thôn ấp hoặc những chốn đô hội trong nước thì hay bị mọi người chế giễu. Vì sao? Vì những kẻ đó gây tội lỗi từ trước, gốc công đức mỏng nên bị phiền não che lấp không thấy được Chánh pháp.
Tôn giả A-nan lại hỏi:
–Những người hướng tới Chánh pháp giảng nói lại có ít người tin theo, do đâu mà có tình trạng như vậy?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Vì có những người trong số đông Tăng chúng lìa bỏ Phật, không tin vào đại đạo.
A-nan bạch Phật:
–Cúi mong Thế Tôn giảng nói, người muốn nghe tuy ít nhưng được nghe lời Phật chỉ dạy thì tất cả đều rất vui mừng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nhìn khắp bốn phương, rồi đưa tướng lưỡi dài che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới. Vì từ lưỡi phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp các cõi nước nhiều như số cát sông Hằng. Tức thì bốn bộ chúng nương theo lời dạy của Phật, tận mắt nhìn thấy về phương Đông có các Đức Phật Thế Tôn ở các cõi nước nhiều như số cát sông Hằng đều nói chuyển pháp luân không thoái chuyển này, những người nghe hội đều được nghe pháp từ xa, không có gì khác nhau. Bốn chúng trong hội đều thấy sự biến hóa như thế, tất cả đều nhất tâm đồng thanh cất tiếng bạch Phật:
–Kính mong Bậc Đại Thánh, chúng con hết mực tôn kính những điều Thế Tôn khen ngợi về chuyển pháp luân không thoái chuyển, như lời Phật đã nói. Thành thật không có gì sai khác chúng con tận mắt thấy vô lượng không thể suy nghĩ bàn luận vô số các Đức Phật, Thế Tôn ở vô số cõi nước giảng về ý nghĩa sâu mầu của kinh này thảy đều giống nhau. Kính mong Thế Tôn nói rõ điều ấy.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền thu lưỡi vào rồi bảo A-nan:
–Những kẻ nói lời dối trá làm sao có được chiếc lưỡi như thế?
A-nan bạch Phật:
–Bạch Đấng Trời Trong Trời, không thể có được! Thế Tôn là Bậc phụng pháp chí thành, khai hóa chánh nghĩa, chứa nhóm công đức, trải qua vô số kiếp, mở rộng trí tuệ bao la mới có được tướng tốt ấy. Cho nên Thế Tôn hãy thương xót mà giảng nói, nếu các thiện nam có người tin tưởng ưa thích, thì việc học hỏi tuy còn ít nhưng nếu được nghe Phật chỉ dạy, tận mắt trông thấy chứng cớ rõ ràng thì sẽ rất vui mừng, phát tâm tinh tấn tu học không biếng trễ.
Phật bảo A-nan:
–Tất cả bốn chúng ở đây chưa từng gặp kinh điển như thế nên chí hướng còn lờ mờ. Các vị Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ cùng tám bộ chúng Trời, Rồng, Quỷ thần, A-tu-luân,... nay nghe kinh này, đều được không còn lui sụt. Họ sẽ dần đạt đến đạo Vô thượng Chánh chân Tối chánh giác, ở nơi các cõi ấy giảng về ý nghĩa của pháp đó, thảy đều giống nhau, cũng như ta hiện nay vậy.
Bấy giờ, bốn chúng đệ tử cùng với Trời, Rồng, Quỷ thần... đều hết sức vui mừng, xé rách lưới nghi, đều tay cầm hương hoa tung rải lên mình Phật; lại có những người nữ cởi những xâu chuỗi ngọc quý đang mang trên mình tung lên chỗ Phật, tất cả đồng lòng thành kính bạch Phật:
–Hôm nay Đức Như Lai Đại Thánh Chí Chân Đẳng Chánh Giác, không có hai lời.
Phật lại bảo A-nan:
–Đúng như những lời ông đã nói, thành thật không sai khác! Lời Như Lai giảng dạy không có hai lời, nhằm để dứt trừ lỗi lầm, những ngu si tối tăm do lòng tham gây nên, giả sử người có trí tuệ được gần gũi với Phật là bậc Trời trong trời thì sẽ được như ý nguyện.
A-nan hỏi Phật:
–Thế nào gọi là trí tuệ được gần gũi Phật?
Đức Thế Tôn hỏi lại:
–Hiền giả không hiểu được điều ấy sao?
A-nan đáp:
–Bạch Thế Tôn! Con không sáng suốt nên không hiểu.
Đức Thế Tôn bảo:
–Giả sử có những người nghe tên Phật Thíchca, đều liền đạt được pháp không thoái chuyển, được bước đi trên con đường Phật Thánh. Vì sao? Vì Phật đạo là sự sáng suốt hết mực, cùng khắp, dứt sạch mọi thứ tham, sân, si. Cho dẫu chỉ dâng một cành hoa cúng dường Như Lai còn được giác ngộ, huống nữa là được gần gũi với trí tuệ Phật. Sau khi ta diệt độ, nếu có người giữ gìn xá-lợi của ta mà cúng dường, quy ngưỡng thì sẽ đạt được các ý nguyện.
A-nan lại hỏi:
–Những người tinh tấn tu tập, không nghi ngờ, chuyên tâm nghe nhận kinh điển, tất cả đều không thoái chuyển, như thế những người ấy sẽ thành Phật chăng?
Phật dạy:
–Nếu có những người chỉ nghe tên Đức Phật Thích-ca, đều sẽ đạt được Chánh giác Vô thượng. Vì sao? Vì nếu không như thế thì lời Phật nói là có khác, sẽ là hai lời.
Phật hỏi A-nan:
–Như cây Câu-loại có bóng mát che được năm trăm chiếc xe, nếu có năm trăm người ngụ ở dưới bóng cây ấy thì đều được bóng cây che phủ. Như thế thì lúc đem trồng, cây ấy lớn hay nhỏ?
A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn, rất nhỏ!
Đức Phật nói tiếp:
–Này A-nan! Như cây Câu-loại lúc đem trồng thì nhỏ xíu, nhờ chăm sóc tưới nước cùng với thời tiết dần dần trở nên to lớn, cành lá tỏa ra che khắp cả một vùng hết sức rộng lớn. Cây trồng và chăm sóc còn được như thế huống chi là những người đã dốc lòng theo Phật đạo, nghe được danh hiệu Đức Thánh Tôn, thì việc vun trồng gốc công đức cũng giống như vậy, công hạnh ấy dần dần sẽ được đầy đủ, chẳng hề bị hư hoại hay mất đi, để đạt tới đạo Vô thượng chánh chân. Vì sao như thế? Là vì tất cả các pháp ấy là nguồn gốc của mọi sự vun trồng, hoàn toàn chẳng có sự nương tựa, gốc của các thứ mầm mống phát khởi vốn là không cho nên không thể bị mất mát. Tất cả các pháp ấy không có chỗ nương tựa, diễn bày.
A-nan hỏi Phật:
–Chỉ có Phật nói điều ấy vì đó là bản nguyện của Phật hay là đạo pháp của các Đức Phật, Thế Tôn cũng đều như vậy?
Đức Phật dạy:
–Bản nguyện của ta là nếu có kẻ nào nghe được danh hiệu ta thì liền được pháp không thoái chuyển và thành Tối chánh giác, pháp của các Đức Phật cũng đều như thế cả. Vì sao? Vì các pháp của các Đức Phật đều bình đẳng.
A-nan lại hỏi:
–Pháp của các Đức Phật thảy đều bình đẳng, vậy sao còn phải dùng đến bản nguyện?
Đức Phật nói với Tôn giả A-nan:
–Các Bồ-tát Đại sĩ nghe nói kinh này, giả sử có phát nguyện hoặc không phát nguyện, thế thì các vị trong chúng hội này có thể chứng mình rằng các vị đó đã nghe pháp ấy chăng?
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Không hề có điều ấy. Pháp ấy rất nhiệm mầu, các Đức Phật, Thế Tôn đã đem trí tuệ lớn lao của mình để soi sáng dẫn dắt chúng sinh.
Đức Phật nói:
–Đúng vậy, đúng vậy, này A-nan! Sự giác ngộ của các Đức Phật hết sức lớn lao, sáng suốt nên đã dùng nhiều phương tiện để khai hóa khiến họ được đứng vững trong Thánh đạo. Ta ở nơi cõi Phật, vì lòng Từ bi thương xót chúng sinh, nhất là hạng căn trí thấp kém, nên chẳng hề tiếc rẻ thân mạng, tất cả mọi thứ sở hữu đều bố thí mà không bỏn xẻn, luôn tinh tấn tu tập không biếng nhác, đối với tất cả pháp không còn mê đắm, thực hành pháp Bồ-tát, chứa nhóm công đức, tu theo kinh điển sâu xa, tất cả là nhằm để cứu giúp chúng sinh, nhờ vậy mà đạt được Phật đạo.
A-nan hỏi Phật:
–Bạch Thế Tôn! Điều ấy thật là khó đạt, ít có, nay Thế Tôn nói kinh này sao bọn ma ác không đến quấy phá kẻ tu học, để khiến họ không thấy được công đức mà phát tâm đạt được đạo Vô thượng chánh chân?
Phật bảo:
–Do bọn ma chẳng nghe. Vì sao? Vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã dùng thần thông biến hóa.
Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền thu hồi oai thần. Bấy giờ, Ma vương Ba-tuần ở trên hư không từ xa nghe âm thanh Phật giảng về chuyển pháp luân không thoái chuyển, lắng nghe và biết đó là pháp âm của Đức Phật Thích-ca thì tâm Ma vương liền sinh sợ hãi, khắp mình nổi ốc, miệng lẩm bẩm: –Thế là Bậc ấy đã hoàn toàn hơn ta, đã gồm thâu hết thảy mọi sức mạnh khiến ta chẳng còn chốn nương thân cũng như chẳng còn có cõi nước!
Lẩm bẩm như thế rồi Ma vương buồn bã khóc lóc, thân thể tiều tụy như một lão già trăm tuổi gần đất xa trời. Rồi thì Ma vương, tuy thân thể đã biến đổi như vậy, vẫn cố dấy động bốn thứ binh, tập hợp trong khắp tam thiên đại thiên thế giới các thứ ma khác nhau và các quân ma cùng các vị trời đến chỗ Phật, binh trượng nghiêm chỉnh, uy thần của các ma bức não Bồ-tát lúc mới thành Phật, hiện thân lão suy, cầm gậy thì run rẩy, mặt nhăn nheo, da chùng, bốn thứ binh được bố trí khắp hư không, tất cả đều cùng nghe rõ từ xa pháp âm của Đức Phật Thích-ca đang giảng về pháp không thoái chuyển nên tâm chúng đều được an định.
Lúc này, ma vương Ba-tuần tự biết mình chẳng còn thứ gì là của mình cả, chỉ còn cô độc một thân, không người hầu hạ, rất đổi lão suy, cũng chẳng còn có một vị tướng nào giúp đỡ, thế lực hầu như chẳng còn gì, các cõi nước trong ba cõi chẳng còn nơi nào dung thân được, nên nói:
–Cúi xin Như Lai là Đấng Đại Từ luôn thương xót hết thảy muôn loài thì cũng nên thương tưởng đến thân tôi. Cho dù các cõi của tôi được Như Lai hóa độ tất cả, thì cũng xin Như Lai cho tôi một ít tay chân để phục dịch việc nước nôi chẳng hạn.
Đức Phật bảo Ma vương:
–Loài người rất nhiều không thể suy nghĩ, bàn luận hết được. Giả sử các Đức Phật hằng ngày xuất hiện mỗi lúc một nhiều như số cát sông Hằng, hóa độ các loài chúng sinh vô lượng trăm ức na-do-tha không thể tính kể thì cũng không hết được. Loài người đâu có hết!
Ma vương bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Loài người tuy nhiều nhưng thân tôi hiện nay thì cô độc, chẳng còn kẻ tay chân thuộc hạ để giúp đỡ, ví như đang đi trên đường mà đột nhiên bị trượt ngã lăn nơi đất thì cũng không thể tự mình đứng dậy được, cho nên luôn mong được sự an ủi vỗ về khiến tôi được vui mừng. Kính mong Thế Tôn hãy mau thương xót mà vỗ về khiến đám quyến thuộc của tôi được thêm đông.
Phật bảo Ma vương:
–Ngươi hãy yên tâm, những kẻ không nghe được pháp này và lìa bỏ sự tin tưởng, những kẻ ấy thảy đều là bạn của ngươi.
Ma vương nghe xong rất vui mừng, sinh tâm lành rồi nghĩ:
–Ta sẽ bày vẽ cho con người, tuy nghe pháp này nhưng không thích thú tin tưởng, trong tâm hồ nghi; mà đã do dự nghi ngờ thì tất sẽ theo đường chỉ dẫn của ta.
Nghĩ đoạn, ma vương Ba-tuần lại bạch Phật:
–Kính mong Thế Tôn thương xót, mở rộng lòng đại Từ bi, an ủi vỗ về, khiến tôi vui mừng sung sướng, không còn lo lắng sầu khổ nữa. Ấy là, đối với những người hướng về Phật nghe giảng kinh, chỉ cần nghe danh hiệu Phật Thích-ca liền được không thoái chuyển và sẽ đạt đến đạo Vô thượng chánh chân. Vậy mong Đức Thế Tôn im lặng chớ nên nói pháp ấy. Đó là những người đã huân tập mầm mống căn lành, chỉ cần nghe danh hiệu thì càng thêm tinh tấn, đứng vững nơi đạo lớn.
Đức Phật đáp lời Ma vương:
–Ngươi hãy an tâm, chớ nên lo nghĩ sợ sệt. Ta sẽ khiến cho chúng sinh không đứng vững trong ý đạo, loài người vẫn còn y nguyên, mọi người thảy đều được yên, chẳng bị dao động, chẳng hề biết ghi nhận suy xét về các uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ta sẽ khai dẫn chúng sinh chẳng lìa bỏ tà kiến; không đứng vững trong chánh kiến; đối với sáu mươi hai thứ nghi hoặc, tất cả đều như không hay biết; chẳng còn nhớ nghĩ về quá khứ vị lai cũng như hiện tại; không dứt bỏ sự giết hại chúng sinh như sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt và tham, sân, si; cũng chẳng khuyến khích mọi người theo về với chánh đạo, không hóa độ con người tu tập theo sáu pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ; cũng không dạy người tôn thờ bốn ân, biết thi ân cho người, khéo yêu thương đem lợi lạc cho người khác đều cứu giúp hóa độ họ; không có chỗ nương nhờ, không nghĩ tới loài người, chẳng tưởng nhớ đến anh em, vợ con, cha mẹ cùng với nam nữ thân thuộc, trừ bỏ bạn thân, sớm tối ngày tháng, một tháng nửa tháng, mọi ý tưởng về chuyển biến. Ma vương Ba-tuần hãy yên tâm, ta sẽ khuyến khích con người từ bỏ mọi tư tưởng về sáu Độ vô cực, về đạo lớn, về các hạnh như mười Lực, bốn Vô úy, các Căn, Lực, Giác ý, tám Chánh đạo, Phật pháp Thánh chúng cùng Nhất thiết trí, đạo nghĩa, giáo hóa chúng sinh, đối với tất cả các pháp đều khiến cho chúng chẳng có biến đổi.
Bấy giờ, Ma vương hết sức vui mừng, không kiềm chế được, nên ngay lúc ấy dung mạo tươi tỉnh, mặt mũi sáng sủa, tung rải liền hoa lên mình Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng và nói bài kệ:
Thế Tôn Bình Đẳng Giác
Tâm ta rất vui thích
Chánh Giác lời chắc chắn
Ta làm gì như ý.
Ma vương Ba-tuần nói xong bài kệ liền trở về cõi trời cùng vui chơi năm thứ dục lạc với các quyến thuộc chẳng còn lo buồn sầu khổ, sinh tâm rộng lớn.
Lúc Đức Thế Tôn nói về phẩm Hàng Ma này xong thì khắp các cõi trong tam thiên đại thiên thế giới hiện bị rung chuyển sáu cách.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Hiện giờ, uy đức của Ma vương đã khiến cho mặt đất rung chuyển chăng?
Đức Phật nói:
–Chẳng phải thế đâu! Đó là do lúc ta giảng về phẩm Hàng Ma này có đến sáu vạn bốn ngàn người đạt được pháp Nhẫn bất khởi.
Tôn giả A-nan lại hỏi:
–Có ai hồ nghi chẳng hiểu chăng?
Đức Thế Tôn nói:
–Những người mới hướng tới nghe thấy thảy đều lo nghĩ kết thành mối nghi, tâm họ đều nghĩ rằng, ta đã nghe rõ như vậy, Thế thì những lời nói ấy là nói cái gì, nhằm đi về chốn nào? Tất cả đều chẳng hiểu thấu!
A-nan bạch Phật:
–Kính mong Thế Tôn, hãy mau vì chúng hội này mà hiện ra ánh sáng rực rỡ, xé tan lưới nghi. Thật con chưa rõ do đâu mà Như Lai nói với Ma vương: “Ba-tuần hãy yên tâm, ta giáo hóa chúng sinh khiến họ không đứng vững trong đạo, đối với thế giới chúng sinh này chẳng có dao động, chẳng phát khởi tâm đạo, không dựa vào trí tuệ, không lìa bỏ tà kiến, chẳng trụ nơi chánh quán, đối với sáu mươi hai thứ nghi hoặc chẳng hề chuyển dời, cũng không có ý tưởng về quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng lìa bỏ các giới cấm là sát, đạo, tham dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói lời ác độc, và ghét, sân, si, cũng chẳng có Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, không hòa thuận với cha mẹ, anh em, vợ con, chẳng có ý niệm về ngày đêm, một tháng nửa tháng, lìa mọi ý tưởng ấy, cũng chẳng hề dao động, không tôn thờ sáu Độ vô cực, cùng Vô úy, Căn, Lực, Giác ý, Phật pháp Thánh chúng, Nhất thiết trí, khiến cho chẳng chuyển dời. Ba-tuần cứ yên tâm, ta sẽ khai hóa tất cả chúng sinh khiến họ chẳng tin theo ý nghĩa chuyển biến, chẳng đứng vững nơi các hạnh...”
Kính mong Thế Tôn hãy mau phân biệt nêu rõ nguyên nhân nào mà Thế Tôn đã giảng như vậy, khiến cho các vị trong chúng hội này dứt hết mọi mối nghi hoặc, tâm ý được mở thông, cũng như đối với đời sau, nhất là ở các cõi nước xa xôi biên địa được gặp Chánh pháp sáng tỏ, lãnh thọ các kinh điển, thọ trì đọc tụng, chẳng còn do dự hồ nghi!
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói bài tụng:
Đạo Thánh không chốn trụ
Nẻo tuệ cũng không nơi
Lúc nói nghĩa lớn này
Người hiểu và ứng hợp.
Đường đi cùng với người
Không hai, chẳng nơi chốn
Phật vì thế nên nói
Khiến rõ không có chốn.
Chúng sinh chẳng thể động
Loài người cũng như vậy
Tất cả chẳng có thân
Rốt ráo không chỗ được.
Loại chúng sinh đều không
Cõi người chẳng thể nghĩ
Rốt lại là vô niệm
Hiểu rõ tất cả tuệ.
Mọi người chẳng thể động
Giả danh gọi thân mạng
Do bốn đại hợp thành
Diệt độ vắng lặng này
Nhận rõ năm ấm không
Tự nhiên được, bất động
Diệt độ chẳng thể được
Dù tất cả không dời.
Ấm dứt, không rung chuyển
Hiểu rõ dứt tôi, ta
Lìa thân, vắng lặng không
Rốt ráo không có đắm.
Thân đồng với năm ấm
Suy hành cũng như vậy
Vô hành cho là hành
Các ấm như hư không.
Gọi là cõi vắng lặng
Chẳng khởi cũng chẳng sinh
Các ấm, cái, nhập này
Chưa thể đổi dời được.
Chấp thân mình tôi, ta
Pháp ấy chẳng lay động
Chưa đạt được sao rúng
Nên Phật nói lời đó.
Chúng sinh chẳng xem thường
Gốc tánh chẳng thật có
Vô tâm thì đạt đến
Như nhiên, không thể được.
Cái gọi là kiến chấp
Gồm có sáu mươi hai
Không tự nhiên như vậy
Như bóng trăng dưới nước.
Sáu mươi hai kiến ấy
Cũng ví như bóng hình
Lìa hữu hình vô ngã
Tự nhiên không rung chuyển.
Tưởng quá khứ, vị lai
Hiện tại cũng như thế
Mọi tưởng không nơi chốn
Ví như bóng ngựa đồng.
Pháp ấy Không, Vô niệm
Chấp người không thật có
Các chúng sinh chẳng chốn
Nên không thể dao động.
Người ấy thích sát sinh
Đi vào chốn đồng rộng
Chí vững nẻo Nê-hoàn
Nên chẳng thể dao động.
Tuy chuyển hóa chúng sinh
Xét ra chẳng thật có
Chấp ngày không thật có
Nên gọi không hề động.
Nói đạo có quá khứ
Không hề có sinh ra
Phật đã rõ nên nói
Nên người chẳng thể động.
Giả sử kẻ sát sinh
Pháp thí chẳng nghĩ bàn
Do đấy đạo tuệ nên
Gọi là chẳng thể động.
Gọi là kẻ tà dâm
Ái dục không thật có
Vì thế nói rõ ràng
Gọi là chẳng thể động.
Các pháp nói dối ấy
Kẻ dấy không hề thoát
Tinh tấn dốc một lòng
Gọi là chẳng thể động.
Hai lưỡi và nói ác
Lời sàm cũng như thế
Xem tất cả lời dạy
Như huyễn, như không hình.
Đều chẳng có nơi chốn
Cũng chẳng có chỗ nương
Các ấm như tiếng vang
Niệm ấy cũng chẳng có.
Cái gọi chẳng mong thí
Yêu mình chấp có thân
Thánh đạo vốn không cõi
Gọi là chẳng thể động.
Nhận rõ việc sân hận
Tự nhiên, tưởng chẳng dấy
Nếu kia không dứt được
Nên gọi chẳng lay động.
Hiểu rõ mọi tà kiến
Kính tu hành chánh pháp
Vượt qua mọi lời nói
Gọi là chẳng thể động.
Trí tuệ nên khuyên giúp
Tất cả báu, thanh tịnh
Thương kẻ đắm sắc, tài
Dứt bỏ các tội ác.
Tri kiến và giữ giới
Lìa bỏ cả Thánh đạo
Trí tuệ chẳng thể dấy
Chẳng tìm cầu Chánh chân.
Dị học có tâm tà
Ngoài đây các nhẫn nhục
Tìm cầu đạo bình đẳng
Chẳng nương pháp vô vi.
Tinh tấn đối ba việc
Nói rõ về dị đạo
Chẳng quy về Thánh tuệ
Đó là hạnh Minh trí.
Thường tu hành chánh định
Nương tất cả các tưởng
Chẳng phải việc Phật khen
Cũng không khuyên giúp kia.
Lỗi lầm của ái dục
Không thể gọi Minh triết
Không sinh khởi các tưởng
Tuệ Phật chẳng thể lường.
Hạnh Bồ-tát mạnh mẽ
Thu nhiếp thảy muôn loài
Nên nói rõ nghĩa ấy
Tuy thọ, chẳng chỗ động.
Dứt bỏ tưởng chúng sinh
Mà phát tâm Bồ-tát
Ý đạo không sinh khởi
Gọi là chẳng thể động.
Nghĩ cha mẹ anh em
Chị em và nam nữ
Tất cả giống như huyễn
Gọi là chẳng thể động.
Tất cả các niệm ấy
Xét ra không thật có
Pháp chúng sinh đều không
Gọi là chẳng thể động.
Mọi tưởng về sớm tối
Một tháng và nửa tháng
Dứt tất cả tưởng niệm
Ví như ngựa đồng, nước
Bố thí, Trì giới cấm
Nhẫn nhục và Tinh tấn
Tất cả các niệm ấy
Là các tưởng chẳng động.
Trí tuệ của định ý
Đạo lực của Bồ-tát
Tu tập không sợ hãi
Dứt bỏ các vọng niệm.
Giác ý và nghĩ đạo
Dứt ham chuộng nẻo Thánh
Trí sáng không hề động
Chẳng bị các vọng hoặc.
Những mong cầu Phật pháp
Các tưởng Thánh như vậy
Bao nhiêu niệm có, không
Chỗ động của ngôn, hành.
Tuệ Phật không trở ngại
Chỗ nương ý tưởng đạo
Đều là xa Phật đạo
Phật Thánh chẳng nghĩ bàn.
Lúc Phật nói rõ về phẩm Hàng phục chúng ma thì có đến mười ức chúng sinh xé rách được lưới nghi, thành tựu sự sáng suốt, thông tỏ, đạt pháp Nhẫn bất khởi. Đạt được pháp nhẫn rồi, các vị ấy đều một lòng nói bài kệ:
Bậc Thánh Tôn mở đạo
Nẻo Phật chợt không nghĩ
Là Thầy của chúng con
Giúp đạo, dứt hồ nghi.
Có đủ các ánh sáng
Được trụ cõi Phật sáng
Chiếu khắp cả mười phương
Mắt thấy ngàn ức Phật.
Thấy khắp rõ ngọn nguồn
Không tham đắm hình sắc
Đội ân dày Thế Tôn
Chúng con mắt pháp tịnh.
Bấy giờ, có đến trăm ức người thảy đều cởi áo đang mặc trên người đem che trên chỗ Phật để cúng dường Bậc Đại Thánh và cùng khen ngợi:
–Đức Thế Tôn đã khiến cho tất cả mọi người đều được nghe pháp ấy, ánh sáng rực rỡ, các sở nguyện đều đạt được.
A-nan bạch Phật:
–Nếu có người được nghe Phật chỉ dạy, dẫn dắt nhận rõ về kinh Khai Hóa Ma, lại thọ trì đọc tụng, thì được phước gì?
Đức Phật dạy:
–Phước đức ấy rất rộng lớn.
A-nan lại hỏi:
–Vì sao gọi là rất rộng lớn?
Đức Phật nói:
–Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, vào buổi sáng cúng dường một trăm Đức Phật, đến buổi trưa, buổi chiều, nửa đêm, gần về sáng cũng đều cúng dường một trăm Đức Phật, Thế Tôn như vậy; trong một ngày, một đêm cúng dường sáu trăm Đức Phật, tất cả mọi thứ cần dùng đều dâng cúng đầy đủ, công việc cúng dường như vậy cứ diễn tiến trong một ngàn năm thì phước đức là được nhiều hay ít?
A-nan đáp:
–Bạch Thế Tôn! Phước ấy rất nhiều, không thể ví dụ được.
Đức Phật dạy:
–Nếu như có người đã hiểu rõ kinh Khai Hóa Ma, lại thọ trì, tin tưởng không nghi ngờ thì phước đức ấy còn lớn hơn nữa.
Lúc bấy giờ, có ba vị Bồ-tát đều từ phương xa đến, thể hiện những biến hóa nơi Phật đang giảng nói pháp khiến chúng hội trông thấy cho là điều chưa từng có.
A-nan bạch Phật:
–Ba vị Bồ-tát ấy đã từ cõi nước nào đến đây?
Đức Thế Tôn đáp:
–Về phương Đông, cách đây nhiều cõi nước như số cát sông Hằng có thế giới tên là Thân siêu Tu-di sơn, ba vị Bồ-tát ở tại cõi nước mình, vì nghe ta nói kinh này cho nên đến đây.
Liền đó, ba vị Bồ-tát đến đứng trước Phật, đều dùng hương hoa cúng dường Đức Thế Tôn và cùng thưa:
–Chúng con đều ưa thích tin tưởng pháp ấy, không có tâm hồ nghi. Vì sao? Vì trong lòng hết sức sáng tỏ, ví như mắt nhìn thấy rõ mọi hình sắc trước mặt mình. Đó cũng là nhờ ân che chở của Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.
Rồi một vị Bồ-tát bước đến bạch Phật:
–Như lời con nói là thành thật không hư dối, đối với kinh này con hoàn toàn không còn hồ nghi gì cả.
Vị Bồ-tát thứ hai cũng bạch Phật:
–Đối với pháp này con cũng chẳng có điều gì nghi ngờ.
Rồi vị Bồ-tát thứ ba lại bạch Phật:
–Như lời con nói là hết sức thành thật, không hư dối, Phật là Bậc Giác Ngộ thì con cũng sẽ là Phật, con đã hiểu rõ kinh này không còn nghi hoặc gì nữa.
Bấy giờ, trong chúng hội có vô số trăm ngàn những vị từ phương xa đến nghe pháp, tất cả đều cùng chắp tay, không thích chỗ mình ngồi và cùng nói:
–Phật xuất hiện ở đời, vì sao mà các vị ấy lại nói ra lời như thế?
Mọi người đều im lặng, trong tâm nghĩ: “Nay
Phật hiện tại sẽ giải thích.”
Tôn giả A-nan lại bạch Phật:
–Các vị Bồ-tát ấy danh hiệu là gì?
Phật bảo A-nan:
–Một vị Bồ-tát tên Đắc Như Lai Trụ, vị thứ hai tên là Chí Đắc Thế Tôn Âm, còn vị thứ ba tên Chí
Đãi Đắc Phật Thanh. Như thế, này A-nan! Như lời các vị ấy nói không hề sai khác với nghĩa thú này.
A-nan bạch Phật:
–Hiện nay trong vô số hàng trăm ngàn các vị trong chúng hội, có một số vị tâm ý còn xao động chưa được yên. Các vị ấy đều chắp tay nhất tâm hướng về Phật, bày tỏ là chẳng hay nghĩa này nhằm hướng tới điều gì? Sự so sánh ấy là nhằm nói về công đức chuyển biến sẽ được gia tăng thêm chăng? Ví như có một chàng trai, khôi ngô khác thường, dung mạo tươi đẹp, dùng nước sạch rửa tay, rồi dùng các thứ hương thơm quý giá xông, gội thân mình, lại mặc y phục đẹp đẽ... thì tất nhiên là thể sắc của người đó càng thêm tươi sáng bội phần. Lấy điều ấy để so sánh với công đức của những người tin tưởng, ưa thích đối với Chánh pháp luôn cung kính hướng về Phật thì sự chuyển biến của phước đức không gì sánh kịp.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Như Lai biết quá khứ
Đương lai cũng như vậy
Thấy các pháp vốn không
Nên gọi là Như Lai.
Thông đạt việc hiện tại
Vị lai đều nêu rõ
Chẳng tạo lập ba hành
Rốt ráo như vô tưởng.
Như các Phật thời xưa
Giác ngộ không tính kể
Đều không từ đâu lại
Nên gọi là Như Lai.
Như các Phật thời xưa
Mong cầu được Thánh đạo,
Người giác cũng được vậy
Nên gọi là Như Lai.
Các pháp vốn được lập
Âm thanh đạo vắng lặng
Âm thanh không thật có
Nên gọi là Như Lai.
Chỉ hợp giới quá khứ
Đương lai cũng như vậy
Hiện tại thì vốn không
Nên gọi là Như Lai.
Như nhẫn nhục mạnh mẽ
Mang thân hình Bồ-tát
Học ấy cũng như thế
Bậc ấy là Vô thượng.
Khi còn là Bồ-tát
Lực siêng năng như thế
Chí thực hành tinh tấn
Nên gọi là Như Lai.
Như các pháp bình đẳng
Lời giảng nói không khác
Niệm không đắm vào Hữu
Nên gọi là Như Lai.
Bình đẳng chẳng còn niệm
Luôn an nhiên tự tại
Dứt mọi niệm bình đẳng
Không nghĩ, chớ khởi niệm.
Vốn không, thành Tam-muội
Đầy đủ âm thanh ấy
Tu hành định ý này
Nên gọi là Như Lai.
Các pháp đều vốn tịnh
Vốn không, chẳng chỗ nơi
Tất cả không xưng gọi
Nhân duyên không hình tướng.
Biết rõ tướng trí tuệ
Rõ pháp không cũng thế
Chí thành không nghi ngờ
Trí tuệ độ vô cực.
Chỗ độ như bậc Thánh
Cội gốc không nghĩ bàn
Sáng kia không thật có
Nên diệt độ vô lượng
Như được trí tuệ sáng
Độ khắp cũng như thế
Vì tuệ ấy không chỗ
Nên gọi là Như Lai.
Phật đạo chẳng thể đạt
Như nghĩ tưởng của ý
Chẳng được tất cả pháp
Nên gọi là Như Lai.
Đạt đến cõi vô vi
Ví như nhiều nẻo tới
Các pháp không thể tính
Khen đạo không bến bờ.
Uy thần của Thế Tôn
Pháp tắc vô sở tu
Đạo ấy là chân lý
Đều từ trí tuệ sinh.
Đạo tôn quý, vô lậu
Đều nhận rõ như thế
Đạo ấy là chánh chân
Chí nguyện thuận tự nhiên.
Có hiểu rõ Thánh hóa
Pháp an trụ bình đẳng
Dẫn dắt đến vốn không
Nên gọi là Như Lai.
Thánh đồng với bình đẳng,
Chỗ trụ thuận đường sáng
Đạo và thân vốn không
Nên gọi là Như Lai.
Nay ta giảng nói pháp
Tiếng bình đẳng như thế
Giả sử trụ ở đây
Mà mong cầu đạo lớn.
Ta do vậy, A-nan
Miệng nói ra lời ấy
Việc đó như lời nói
Thảy là hành của thức.
Hiểu rõ không lui sụt
Là Bồ-tát mạnh mẽ
Nên vì tu tinh tấn
Khen ngợi nghĩa lý ấy.
A-nan! Nhân duyên này
Tâm Bồ-tát giảng nói
Cho nên gọi Như Lai
Trí Bồ-tát mạnh mẽ.
Thuận theo các nhân duyên
Pháp đó thuộc loại gì
Vì sao gọi Thế Tôn
Bồ-tát tu Vô úy.
Giảng nói trăm ức kiếp
Nhân ấy thành Đại Thánh
Phật đạo không nghĩ nhớ
Thành tựu trí tuệ sáng.
Đều tự vì thân cầu
Dứt hết nỗi lo sợ
Nên gọi là Thế Tôn
Không hề sợ sinh tử.
Đầu cuối không hề lập
Do vậy độ chúng sinh
Nên gọi là Thế Tôn
Nào sợ hãi sinh tử.
Vì sao trụ đầu cuối
Vì sao độ chúng sinh
Thế Tôn Tối Thượng Giác
Không dẫn người pháp lợi.
Pháp cũng không hư hoại
Không bền, chẳng ly tán
Độ người siêng khổ nhọc
Là chẳng sợ sinh tử.
Đó chẳng trụ đầu cuối
Độ muôn loài như thế
Nên gọi là Thế Tôn
Không hề sợ các pháp.
Không hề sợ các nghĩa
Cùng tất cả kinh Phật
Khiến nghe vô số pháp
Không đáy, không có bờ.
Pháp chúng sinh đều không
Đạo các Phật tự nhiên
Chẳng thấy gốc các pháp
Liền nương theo kinh này.
Chuyên ròng nơi các pháp
Trí không, pháp tự nhiên
Không sợ, không việc sợ
Hiểu rõ đạo tuệ không.
Biết các pháp lừa dối
Phân biệt chẳng chỗ nương
Tinh tấn lần lượt giảng
Sẽ hiểu gốc các pháp.
Những khó khăn gắng vượt
Dứt trừ các đường ác
Không có ý lo sợ
Khỏi đường ác chúng sinh.
Hóa độ hơn ức người
Vượt nỗi sợ đầu, cuối
Thường bất động sinh tử
Từ đấy độ chúng sinh.
Độ qua bờ bên kia
Đến Thượng tôn vô vi
Được mọi người tôn quý
Nên gọi là Thế Tôn.
Giải thích cho người nghe
Các pháp như hư không
Cũng chẳng có nạn, sợ
Nên gọi là Thế Tôn.
Nhờ nương tất cả pháp
Nhiều khai mở dắt dẫn
Đạo bình đẳng không khác
Pháp Thánh chẳng thể đạt.
Chúng sinh bằng với Ngài
Thì đến được đạo Phật
Nói rõ ràng như vậy
Thì không còn sợ khó
Dẫn dắt kẻ lạc loài
Độ vô số chúng sinh
Vượt qua các sợ hãi
Nên gọi là Thế Tôn.
Cởi bỏ tưởng về người
Chỉ tu tập đạo niệm
Nhổ sạch bao mầm mống
Nên gọi là Thế Tôn.
Lìa được các tư tưởng
Bồ-tát không chuộng gì
Cho nên được danh hiệu
Tôn xưng là Thế Tôn.
Pháp bình đẳng vắng lặng
Hiểu rõ tất cả nghĩa
Chí lập đời vị lai
Nên gọi là Thế Tôn.
Không cầu đạo nhiệm mầu
Kia cũng chẳng cầu danh
Giải thoát gọi Vô vi
Giảng nghĩa kinh người nghe.
Đạo dứt các kiêu mạn
Nên không có lập nguyện
Người cầu được tôn xưng
Thì chẳng mến Phật đạo.
Xem âm như tiếng vang
Do đó khởi vọng tưởng
Tham đắm tiếng hư dối
Danh dự ta như thế.
Những vọng tưởng chẳng còn
Lời nói không mê đắm
Bồ-tát không buông lung
Nên gọi là Thế Tôn.
Tiếng Đại Thánh nói ra
Tượng pháp ví như thế
Hiệu Bồ-tát tạm lập
Nên gọi là Thế Tôn.
Cho nên phải hiểu rõ
Không ai không mê hoặc
Chí thành cầu Phật đạo
Các phiền não đều dứt.
Duyên ấy và việc khác
Khen ngợi tiếng Thế Tôn
A-nan! Biết theo nhân
Mà hiệu là Bồ-tát.
A-nan! Ta vì thế
Miệng nói ra lời ấy
Các trí sáng sở duyên
Phật hiệu là Thế Tôn.
Biết rõ các phiền não
Không hề bị hoặc che
Bình đẳng giác trừ dục
Cho nên hiệu là Phật.
Nhờ đâu là Thế Tôn
Nêu rõ danh hiệu đó
Sao theo lời bạch Phật
Mà giảng nói đạo pháp.
Phật pháp không thật có
Hiểu rõ không, vắng lặng
Tất cả không vướng mắc
Nên tôn hiệu là Phật.
Hiểu rõ thân đều không
Thấy thân không ràng buộc
Kia chẳng chút chắc bền
Thân chẳng tồn tại mãi.
Ngu độn lìa tuệ sáng
Không quan trọng nghĩ trọng
Biết đó đều vốn không
Nên tôn hiệu là Phật.
Nhận rõ tuệ vô minh,
Tự nhiên không có thân
Đến được trí Đại Thánh
Nên tôn hiệu là Phật.
Vọng khởi từ quá khứ
Phân biệt học vô tưởng
Rõ các tưởng không chốn
Chẳng bị niệm mê hoặc.
Giác biết sắc xưa kia
Không sinh, không nơi chốn
Kẻ ngu vì vọng tưởng
Chấp sắc chẳng hề thành.
Nhận rõ sắc vốn không
Cội nguồn không thật có
Không đắm tất cả pháp
Nên chẳng có khổ thọ.
Biết tưởng ví như huyễn
Không vật, không có thân
Đã nhận rõ tuệ này
Tất cả pháp như thế.
Thu nhiếp không chỗ đi
Tất cả thân không khổ
Không nghĩa chẳng án trụ
Nên thân không thật có.
Thân người không bền chắc
Cũng giống như cây chuối
Đều nhận rõ nghĩa này
Nên tôn hiệu là Phật.
Biết rõ, tự nhiên, không
Chấp thân chẳng có trong
Ngoài cũng chẳng thể được
Che chở những loại nào?
Quán thức không thật có
Tất cả pháp cũng thế
Không nơi chốn, hình tướng
Rốt ráo không thể được.
Nhận biết các sở tri
Cho rằng vốn vắng lặng
Nếu hiểu rõ vọng tưởng
Thì không có sở kiến.
Rõ không tác là quán
Tất cả người cũng vậy
Chúng sinh các loài đồng
Cho nên không biết được.
Tự nhiên không mở bày
Các pháp không sở hành
Tất cả không có thọ
Nhân, pháp cũng đều thế.
Tất cả pháp nhẫn qua
Biết rõ chưa từng sinh
Dứt bao thứ buông lung
Nên tôn hiệu là Phật.
Hiểu rõ các kinh Phật
Kinh ấy đúng chân lý
Tất cả pháp vô xứ
Nên tôn hiệu là Phật.
Pháp ấy chính là không
Đường giác ngộ vốn không
Như Phật đạo, chẳng khác
Không thể được cội rễ.
Từ phát tâm đến nay
Chí đặt trong Đại đạo
Nên biết không có chí
Các pháp không thật có.
Duyên nào phát chí ấy
Mà mến cầu đạo Thánh
Tâm ấy đồng với đạo
Hiểu rõ không hình tướng.
A-nan! Ta vì thế
Mà nói ra kinh này
Nhân giảng rõ nẻo Thánh
Ta là Phật, Đạo Sư.
Đem pháp ấy so sánh
Âm thanh đó là Phật
Giả sử dạy như thế
Từ đó cầu Phật đạo.
Sẽ được gần Chánh đạo
Kia biết rõ pháp ấy
Chẳng còn có hai tâm
Tất cả pháp như thế.
Không nghi kinh sách Phật
Bậc Tối Thượng ở đời
Nếu hiểu lời giảng ấy
Rộng nói pháp như thế.
Lúc Đức Phật nói rõ về ý nghĩa của Như Lai, Thế Tôn, Phật xong thì có vô số trăm ngàn người trong chúng hội liền bước đến bạch Phật:
–Chúng con đã dứt sạch nghi ngờ, đã xé rách lưới kết sử, đã hiểu do từ nhân duyên gì mà Bồ-tát được danh hiệu là Như Lai, Thế Tôn, Phật; hiểu rõ pháp ấy, tự thấy tâm mình sáng tỏ, hiểu rõ tất cả pháp là không, con người chỉ vì bị phiền não che lấp nên đối với cha mẹ, vợ con có những tình cảm luyến ái, buồn giận. Chúng con được Đức Như Lai dạy trao ý nghĩa sâu nhiệm, khiến tâm chúng con được an trụ vững chắc không còn bị chao đảo, đã ngộ pháp bất động như hư không chẳng thể lay chuyển, không gì làm cho mình sợ hãi được. Như thế đấy, bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp đều không hề đổi dời. Vì sao? Vì các pháp như hư không.
Bấy giờ, vô số trăm ngàn các vị trong chúng hội đều cúi đầu lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại chỗ ngồi của mình.
Lúc bấy giờ, có vị Bồ-tát tên là Chư Căn Thường Duyệt nói bài tụng:
Mọi người sinh tưởng quả
Cứu giúp bằng niệm khác
Bình đẳng đối thật đạo
Đảnh lễ Bậc Minh Trí.
Thường giảng nói đức thật
Giảng nói quả bình đẳng
Được bình đẳng chánh giác
Đảnh lễ Bậc Minh Trí.
Vô số người tham quả
Nương thật hạnh chúng sinh
Phật đều độ tất cả
Đảnh lễ Bậc Minh Trí.
Nói pháp không sai khác
Chỗ trụ đều bình đẳng
Rõ các pháp bình đẳng
Đảnh lễ Bậc Minh Trí.
Người thường chuộng quả đức
Cố gắng chẳng đắm mê
Giải thoát mọi điên đảo
Đảnh lễ Bậc Minh Trí.
Đức sinh khởi đầy đủ
Khiến trụ vững trong đạo
Thành tựu tất cả đức
Đảnh lễ Bậc Minh Trí.
Bồ-tát Chư Căn Thường Duyệt nói bài kệ khen ngợi Phật xong, liền đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi ngồi cách chỗ Phật không xa để chiêm ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn không hề nhàm chán, tâm ý khai mở, vui mừng.
Lúc này, Bồ-tát Liên Hoa Thủ Tạng liền đứng dậy, tung rải hoa sen cúng dường Đức Thế Tôn rồi khen ngợi:
Mọi người đều mong muốn
Độ thoát các chấp đắm
Dứt hẳn các sợ hãi
Đảnh lễ Đấng Năng Nhân.
Dứt bặt hết nơi chốn
Nói pháp không cảnh giới
Anh hùng vượt các thọ
Đảnh lễ Đấng Năng Nhân.
Hiểu rõ các pháp không
Tự nhiên, không bền chắc
Pháp bình đẳng vượt khó
Đảnh lễ Đấng Năng Nhân.
Nhổ bỏ các cội gốc
Chúng sinh đắm phiền não,
Gắng giúp khiến không sợ
Đảnh lễ Đấng Năng Nhân.
Không hãi, cũng không sợ
Là tiếng rống sư tử
Vượt qua các cảnh giới
Đảnh lễ Đấng Năng Nhân.
Dứt những mọi lo buồn
Lo khổ cũng dứt hẳn
Tâm xa trừ hung hại
Đảnh lễ Đấng Năng Nhân.
Bồ-tát Đại sĩ Liên Hoa Thủ Tạng nói kệ khen ngợi Phật xong liền bạch Phật:
–Nếu có người luôn thực hành việc lễ bái Phật như vậy thì vào đời sau cùng nghe được kinh sâu nhiệm này, trí tuệ sáng suốt, không hề có sợ hãi.
Lại có vị Bồ-tát tên Ly Dục Tích bước ra bạch Phật:
–Nếu có người nghe được kinh sâu nhiệm này, tâm vui mừng tin tưởng thì đó là bậc Minh trí, nên dùng hương hoa sớm tối cúng dường.
Lại có vị Bồ-tát hiệu là Quảng Tâm, bước ra bạch Phật:
–Đức Như Lai giảng nói kinh pháp này là đã làm cho Phật đạo hưng thịnh, người không nghi ngờ kinh này thì phúc đức không thể tính lường được, lấy việc cúng dường làm điều lợi lạc, tâm được vững chắc. Đối với kẻ tin tưởng kinh này thì mọi sở nguyện đều đạt được. Trái lại, kẻ không tin thì bị ma làm chủ, tất đi theo đường của ma.
Lại có vị Bồ-tát hiệu là Liên Hoa Mục, bước ra bạch Phật khen ngợi bằng bài tụng:
Nếu người tin kinh này
Là mắt sáng của đời
Không có tâm nghi ngờ
Chỉ người rõ nẻo đạo.
Lại có vị Bồ-tát tên là Tâm Tín Duyệt liền đến trước Phật nói bài tụng:
Người nghe kinh pháp này
Vui mừng tin hơn hết
Được mọi người tôn quý
Bậc Thần minh của đời.
Lại có vị Bồ-tát hiệu là Hỷ Thần Linh nói bài tụng:
Người nào nghe kinh này
Tin tưởng không nghi ngờ
Là uy thần của đời
Được mọi người tôn kính.
Lại có vị Bồ-tát tên là Thường Thích đến trước Phật nói bài tụng:
Nếu người nghi kinh này
Tâm luôn khởi lo buồn
Chí bị hư vọng buộc
Mãi trôi lăn sinh tử.
Lại có vị Bồ-tát tên là Bảo Y nói bài kệ:
Vô số ức y phục
Thanh tịnh, rất nhiệm mầu
Tôn trưởng mau hóa độ
Khiến không sinh tâm nghi.
Lại có vị Bồ-tát tên là Thiền Thực đến trước Phật nói kệ:
Người tin kinh sâu này
Sẽ được ban thức ngon
Đầy đủ tất cả vị
Chuyên tinh theo hạnh Thánh.
Lại có vị Bồ-tát tên là Kiến Nhân Trụ Thánh đến trước Phật nói tụng:
Người nghi ngờ kinh này
Tâm luôn khởi lo buồn
Lại khóc than sầu khổ
Chẳng tin kinh pháp mầu.
Hoặc từ ngục sinh lên
Hoặc trở lại đường ác
Tu-di làm chốn ngăn
Hồ nghi pháp tượng này.
Bị bạn ác lôi kéo
Chẳng hiểu nghĩa sâu mầu
Bị lưới nghi trói buộc
Nên chẳng có chốn về.
Đó không thuận chánh giới,
Quán tức giận buồn lo
Khi ấy nơi trú ngụ
Được ví như thú dữ.
Đã chẳng tu đạo pháp
Biếng nhác, chẳng tinh tấn
Tin tà, không trí tuệ
Chẳng tin kinh pháp này.
Chuộng vòng quay chúng sinh
Ân ái đắm tôi, ta,
Nương vào họa ba cõi
Chẳng tin lẽ nhiệm mầu.
Kẻ ngu tối bị hại
Ưa đắm năm dục lạc
Tham dựa tự thấy thân
Phỉ báng lời chỉ dạy.
Chí chuộng y phục đẹp
Ưa thích thức ăn ngon
Ít có pháp thanh tịnh
Nên phỉ báng kinh này.
Người thích sống cõi Dục
Ham chuộng quả vô phước
Kẻ ấy tự xa cách
Chẳng được gần Thế Tôn.
Lại có vị Bồ-tát tên là Khí Ác Pháp đến trước Phật nói kệ:
Nên bỏ bọn người ấy
Ví như xa hầm phẩn
Kẻ ngu nghi kinh này
Nương cõi Dục cầu thoát.
Nên phải xa lìa chúng
Như xa thây chết thối
Kẻ nghi kinh sâu này
Nên xa cũng như thế.
Lại có người bài báng
Như giặc vây xóm làng
Mãi ở nơi chỗ tối
Thấy ác, ý nên bỏ.
Nhìn việc ấy phải rời
Là giặc, vật hung ác
Nếu bài báng kinh này
Tâm ý mãi cuồng loạn.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bước đến, bạch Phật:
–Bạch Đấng Trời Trong Trời, thật là điều chưa từng có, các vị Bồ-tát này đã nhận rõ trí tuệ của kinh, có đúng như vậy không? Nhờ vào năng lực của chánh định mà nói những lời ấy hay là nhờ vào thánh chỉ của Phật mà hiểu rõ được?
Đức Phật dạy:
–Nương vào uy thần Phật mà duyên theo ý nghĩa của kinh này nên có được năng lực chánh định đạt đến các pháp vô vi. Vì sao? Vì các vị hiện đang có mặt ở đây đều thuộc dòng họ của Như Lai, đã từng ở nơi sáu mươi ức Đức Phật mà nghe được yếu chỉ của kinh này, tin ưa, khen ngợi, cũng như hiện nay chí nguyện gắn bó với năng lực chánh định để nhờ vào uy thần Phật mà giảng kinh này, đúng như nhưng điều ta đã giảng nói không khác, nhằm làm sáng tỏ thêm.
A-nan hỏi Phật:
–Người nào nghe kinh này, liền vui mừng tin tưởng, không hề hồ nghi, thì những người trong dòng họ của Như Lai, là nam hay nữ, được phước đức thế nào?
Phật bảo A-nan:
–Những người trong dòng họ của Như Lai, là nam hay nữ, chí cầu đạo Vô thượng chánh chân, ví như đem bảy chất báu đầy khắp trong thiên hạ này mà cúng dường Như Lai, lại có người nghe được kinh sâu nhiệm này tâm liền vui mừng, tin tưởng, không nghi ngờ thì phước đức còn hơn việc cúng dường các thứ châu báu kia.
Đức Phật nói tiếp:
–Ví như đem hết số châu báu trong thiên hạ cũng như toàn bộ các thứ châu báu trong các thế giới chư Phật nhiều như số cát sông Hằng mà cúng dường Như Lai, lại có người nghe được kinh này, tâm vui mừng, kính tin thì phước đức hơn hẳn việc cúng dường kia.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng:
Ví như trong thiên hạ
Bảy thứ báu đầy khắp
Đem cúng dường Như Lai
Thế Tôn thành Đại Tuệ.
Kẻ trí nghe kinh này
Tin, ưa, không dao động
Phước đức ấy hơn hết
Đức ấy không hạn lượng.
Ví như cát sông Hằng
Các cõi Phật cũng vậy
Cúng dường Đức Thế Tôn
Không bằng nghe kinh này.
A-nan bạch Phật:
–Những người trong dòng họ của Như Lai, hoặc nam hay nữ, nghe kinh pháp này mà vui mừng tin tưởng, thọ trì, đọc tụng thì phước đức ấy thế nào?
Phật dạy:
–Nếu các vị nam, nữ trong dòng họ của Như
Lai cầu đạo Vô thượng chánh giác, thì những vị ấy trải qua trăm kiếp cúng dường Như Lai, cũng như tu các pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ; lại được năm thứ thần thông, mỗi vị trong trăm kiếp ấy luôn hiểu rõ mọi việc ở thế gian, không hề nghi ngờ, nhưng không tin nhận kinh này thì những kẻ ấy chẳng hề biết cúng dường Phật.
Bấy giờ, Đức Phật nói bài tụng:
Nếu trong một trăm kiếp
Kính cúng dường Thế Tôn
Thức ăn uống đầy đủ
Chưa phải thật cúng dường.
Người tin thọ kinh này
Mới thật cúng dường Phật.
Bỏ ý tưởng dựa đạo
Pháp cúng dường các Phật.
Như thế hợp lời dạy
Đúng là kính thờ Phật
Pháp cúng dường Đẳng giác
Như Lai là Pháp thân.
Giả sử trong trăm kiếp
Chọn toàn y phục quý
Mà cúng dường Thế Tôn
Là chưa thật cúng dường.
Người thọ trì kinh này
Luôn tôn quý cung kính
Mới thật kính thờ Phật
Hơn việc cúng y phục.
Nếu trải qua trăm kiếp
Ngọc báu, hương hoa thơm
Cúng dường lên Thế Tôn
Chưa thật cúng dường Phật
Nếu thọ trì kinh này
Dứt ý tưởng dựa quả
Đó chính là cúng dường
Thế Tôn tuệ trên hết.
Nếu xây tháp bảy báu
Để cúng dường Thế Tôn
Đều cao như Tu-di
Chưa là cúng dường Phật.
Nếu thọ trì kinh này
Chẳng còn thấy ta, tôi
Là cúng dường trên hết
Không có gì hơn được.
Nếu trong một trăm kiếp
Có người giữ giới cấm
Chẳng thọ trì kinh này
Giới ấy không tên tuổi.
Người thọ trì kinh này
Giới ấy rất được khen.
Nếu giữ giới thanh tịnh,
Giới này không gì hơn
Vô lượng chẳng nghĩ bàn
Trí sáng thuận kinh này
Theo nhân duyên kính thờ
Giới cấm luôn đầy đủ.
Giới ấy đều rốt ráo
Chẳng gọi là hủy giới
Người tu học kinh này
Liền hợp với lời dạy.
Nếu không tu kinh này
Là chẳng cầu Phật đạo
Tuy thờ Phật đầy đủ
Cũng coi như không tu.
Tu giới giống như thế
Nhận rõ nghĩa kinh này
Thọ trì theo từng quyển
Thì giới cấm đầy đủ.
Giả sử trong trăm kiếp
Nhất tâm tu nhẫn nhục
Ví có kẻ giận mắng
Đều nhẫn với mọi người.
Nếu người trì kinh này
Nghe, thọ trì, đọc tụng
Nhẫn ấy là trên hết
Nhiệm mầu chẳng thể lường.
Hoặc người chặt chân tay
Tâm không hề oán giận
Chẳng bực, chẳng chao đảo
Tâm ấy cũng không khởi.
Nhẫn nhục được như vậy
Thực hành trong trăm kiếp
Kẻ làm được điều đó
Nhẫn ấy chưa đặc biệt.
Nếu người trì kinh này
Nghe, thọ trì, đọc tụng
Nhẫn ấy là trên hết
Nhiệm mầu chẳng thể lường.
Nếu thọ trì kinh này
Nhẫn đó là trên hết
Vòi vọi không gì bằng
Chân thật, chẳng hư dối.
Lời dạy Chân chẳng mất
Tuệ Phật không gì hơn
Không chê bai kinh này
Tất cả được như nguyện.
Giả sử trong trăm kiếp
Tinh tấn không biếng nhác
Sớm tối không ham ngủ
Tất cả được như nguyện.
Nếu tu học kinh này
Giảng nói được, trí sáng
Tinh tấn là trên hết
Siêng tu không ai hơn.
Nếu trong một trăm kiếp
Là Thần tiên, năm thông
Chẳng được nghe kinh này
Thì không có thần túc,
Giả sử thọ pháp này
Nhận rõ, không vướng mắc
Thần thông đã đạt được
Tất cả không ai bằng.
Dù cho trong trăm kiếp
Tu hành các trí tuệ
Vượt mọi trí thế gian
Vui chơi theo năm dục,
Nếu không tu kinh này
Thì chẳng có trí tuệ
Bậc Thánh được mạnh mẽ
Thọ trì kinh mầu này.
Ấy chính bậc Đạo trí
Thông tỏ trí tuệ Thánh
Nếu nghe kinh sâu mầu
Vui mừng và vâng làm
Có tuệ sâu nhận biết
Biết các pháp về đâu
Phải nên nói kinh này
Trí tuệ cũng như thế.
Tu tập kinh điển chánh
Tất cả không có hai
Nên tu hạnh tinh tấn
Tu trì kinh sâu này.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan ở trước Phật nói bài tụng:
Giả sử bốn ngàn dặm
Hoặc xa bốn ngàn dặm
Mà đến nghe kinh này
Thuận theo đức quả Phật
Liền đến nơi nhà ấy
Chẳng cho đạo là khó
Kẻ trí phải mau đến
Nơi nào tìm kinh này.
Người muốn được thiền định
Tất cả đều vượt qua
Tụng đọc, nói kinh này
Thọ trì, giải thích nghĩa.
Nếu cầu, tất cả an
Chỉ chuộng hạnh Bồ-tát
Giảng nói kinh điển này
Đất nước được an vui.
Được thấy Bình đẳng giác
A-di-đà, vô niệm
Mà tu theo nghĩa kinh
Tất cả lời Phật dạy.
Đức Phật nói:
–Lành thay, lành thay! Hiền giả A-nan! Đúng như lời ông nói, không có gì sai khác. Các vị nam nữ trong dòng họ Như Lai, những người khen ngợi kinh này, trong thời gian trì tụng thì tâm không loạn động, xa lìa tất cả vọng tưởng, nơi ở luôn được tự tại, được thấy các Đức Phật Thế Tôn khen ngợi kinh, tâm không tán loạn, khi sắp chết, mắt nhìn thấy vô số các Đức Phật, Thế Tôn. Vì sao? Vì các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai ấy luôn được tất cả các Đức Phật che chở, giúp đỡ, nhờ người ấy thọ trì, đọc tụng này mà được như vậy.
Lúc bấy giờ, đồng nữ Tư Hưu và năm trăm đồng nữ cùng thưa hỏi Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu người nữ tu học theo kinh điển này thì được công đức gì? Nếu thọ trì, đọc tụng thì phước ấy như thế nào?
Phật dạy:
– Nếu người nữ, cầu đạo Vô thượng chánh chân, muốn tu học theo kinh này thì nên quán sát người nữ khác. Vì sao? Vì nếu tu học theo kinh này chuyên tâm tinh tấn không tán loạn, thì sẽ không còn bắt chước theo người nữ khác tham đắm những việc ở đời, nhờ duyên ấy mà bỏ được thân nữ của mình.
Đồng nữ Tư Hưu lại thưa:
–Do đâu mà cho rằng người nữ vốn tham đắm đối với những việc ở đời? Vì bị mê lầm ấy nên phải mang lấy thân nữ?
Đức Phật đáp:
–Nếu có người nữ thấy những cô gái xinh đẹp, thân trang sức nhiều xâu chuỗi quý giá, nhưng không cho đó là điều vui thích, tự quan sát rồi thì xem như đó là nơi nhà xí dơ bẩn, tâm chẳng còn ưa dục, tạo sự quán tưởng, không cho là trong sạch. Còn nếu tham đắm vui thích thì phải thọ thân nữ. Lại nói về người nữ nặng về ganh ghét, ý nghĩ khác với lời nói, chẳng tương ứng nhau, trước sau chẳng hề thuận hợp. Tuy có tiếp xúc các vị Tỳ-kheo nhưng chỉ cầu danh tiếng, không phải để học hỏi kinh pháp, thường có tâm tức giận, ưa thích chốn đông đảo khách khứa, không hề có sự cầu lợi như kinh này nói. Nếu có đọc tụng thì tâm thường mong cầu, khiến cho chí nguyện bị rối loạn, chỉ vui thích với thế tục. Vì thế mà phải làm thân người nữ, không thể dứt trừ tội lỗi. Còn đối với những người nữ đã dứt bỏ ái dục, không khởi những ý tưởng tà vạy thì sẽ tiếp nhận được bản kinh này, thọ trì đọc tụng. Vì sao? Vì kinh này vốn rất thâm sâu nhằm trừ bỏ sắc trần cho người nữ.
Đồng nữ Tư Hưu lại thưa:
–Giả sử người nữ không tham muốn bản thân mình, tiếp nhận kinh pháp này thọ trì đọc tụng thì do nhân duyên nào người ấy có thể chuyển được thân nữ của mình?
Đức Phật dạy:
–Nếu muốn chuyển thân nữ thì phải tiếp nhận kinh này, thọ trì đọc tụng, chẳng còn ham muốn thân nữ, thường sợ hãi thân nữ là nhơ uế. Ví như có người thấy đống lửa lớn đang bốc cháy dữ dội mà lại tự mình nhảy vào trong ấy, miệng lại nói rằng mình chẳng hề bị lửa thiêu đốt, cũng không bị thương tổn đến da thịt. Vậy theo ý của đồng nữ thì thế nào? Người ấy nói như thế có đúng với thực tế chăng?
Đồng nữ Tư Hưu đáp:
–Bạch Đấng Trời Trong Trời, không đúng với thực tế! Vì sao? Vì đối với lửa, thì công dụng chính của nó là thiêu đốt, phải làm phỏng cháy da thịt và không thể không gây thương tích.
Đức Phật dạy:
–Đúng thế! Đối với kinh này cũng vậy, công năng của kinh này là nhằm thiêu đốt tận cùng mọi thứ ái dục, nếu còn tham đắm các hình thái của tình dục, tức là tự mình chuốc lấy sự nguy khốn trói buộc. Do đó, người nữ muốn chuyển thân nữ phải mau rốt ráo thành tựu Phật đạo, được thấy vô số các Đức Phật, Thế Tôn, đầy đủ vô lượng biện tài, thì phải tiếp nhận, thọ trì đọc tụng kinh này.
Đồng nữ Tư Hưu cùng với năm trăm đồng nữ bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con nhớ lại, thuở xưa chúng con đã theo Phật Định Quang Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác tiếp nhận, thọ trì đọc tụng kinh này, giảng nói ý nghĩa cho vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sinh nghe.
A-nan bạch Phật:
–Đồng nữ Tư Hưu này tuy là người nữ nhưng không phải là nữ. Vì sao? Vì theo như thân sau cùng của con hiện nay dùng mắt quán sát thì thấy phải chăng đồng nữ ấy biến hóa thị hiện ra như thế? Vì xót thương người nữ, muốn dùng phương tiện để độ thoát họ nên đã thu nhiếp những người nam để họ không thấy được nơi chốn, nhờ vậy mà cảm hóa những người nữ chăng?
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Đồng nữ Tư Hưu ấy, không phải nam cũng không phải nữ, không ở trong pháp ấy. Vì sao? Vì quan sát cội gốc các pháp thì không thể nói là người nam hay người nữ, vì tất cả các pháp đều không thật có, bình đẳng không sai khác. Vì sao? Vì các pháp là như vậy, chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Đồng nữ Tư Hưu đã nhận rõ ý nghĩa của kinh này, không còn bị vướng mắc, đã đạt được ánh sáng của các pháp. Vì thế, A-nan! Nếu có người nữ muốn cầu được thân nam thì nên theo pháp tu hành của đồng nữ Tư Hưu, tiếp nhận kinh này, thọ trì đọc tụng.
Bấy giờ, có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni liền bước đến bạch Phật:
–Tất cả chúng con, từ hôm nay trở đi đã tiếp nhận kinh này, thọ trì đọc tụng, chẳng còn ham thích thân người nữ, xem đó là nhơ uế nên chán ghét thân này, từ nay trở đi không còn coi trọng chuyện ngủ nghỉ, chuyên tâm trì tụng kinh cho được thông suốt để đạt đến chánh định.
Lúc ấy, Đức Phật khen:
–Lành thay! Những lời nói đó thật đã nêu được ý nghĩa của việc đọc tụng, như mặc áo giáp đức lớn, thông đạt tinh tấn, chẳng còn ham đắm thân nữ, vì thế các nhân giả càng nên siêng năng tu tập tiếp nhận kinh này, thọ trì đọc tụng.
Bấy giờ, các vị Tỳ-kheo-ni nghe lời Phật dạy đều hết sức vui mừng, liền cởi y đang mặc trên mình phủ lên chỗ Phật để cúng dường và khen ngợi bằng bài tụng:
Hôm nay chúng con vui
Mong làm thân người nam
Chẳng khác lời Phật dạy
Sẽ được đời quý trọng.
Bấy giờ, các bà vợ của năm trăm vị trưởng giả nghe các vị Tỳ-kheo-ni được Phật khen là đã mặc áo giáp đức hạnh, liền đứng dậy bước đến bạch Phật:
–Bạch Đấng Trời Trong Trời! Chúng con từ nay trở đi xin tiếp nhận kinh này, thọ trì đọc tụng, mong cho chúng con được sự tự tại, không còn bị người bó buộc ngăn cấm cũng như không còn xét nét soi mói đến nhan sắc của kẻ khác, lìa khỏi mọi sự sai khiến của ma cùng bao lo âu hoạn nạn. Vì sao? Vì dù cho người nữ được sinh ra trong các gia đình vương giả, vẫn luôn có những ràng buộc chẳng được tự tại, suốt đời phục dịch cho chồng con. Vì vậy chúng con kể từ hôm nay trở đi luôn gắng sức tinh tấn, giả sử có người chỉ nói được ý nghĩa của một câu trong kinh này thôi, chúng con cũng không dám bài bác. Cho đến khi thân mạng này chấm dứt, chúng con chẳng gần gũi chồng nữa, để chúng con đọc tụng và hiểu được ý nghĩa kinh này.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi những người vợ của các trưởng giả:
–Lành thay, lành thay! Những người nữ này, nay ở trước Phật đã rống lên tiếng rống của sư tử, những lời ấy thật hết sức tốt đẹp như mặc được áo giáp vô cực. Như chí nguyện của các vị ấy là không còn soi mói đến nhan sắc của người khác, chẳng còn gánh vác những vật nặng nề như mười tháng cưu mang, cũng không còn vào bào thai, mà chỗ sinh là cõi Phật thanh tịnh, chỗ không có người nữ, không có lỗi lầm.
A-nan hỏi Phật:
–Các vị nữ này sẽ sinh vào thế giới tên là gì mà không có lỗi lầm?
Phật nói:
–Thế giới ấy hiệu là Bảo liên hoa tạng, các vị sẽ được sinh về cõi đó.
A-nan lại hỏi:
–Thánh hiệu của Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở thế giới ấy là gì?
Đức Phật nói:
–Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhất Thiết Chư Bảo Diệu Trân Chi Quang Như Lai Chí Chân
Đẳng Chánh Giác, hiện đang nói pháp, vợ các trưởng giả nhờ tu học kinh này mà được thấy Đức Như Lai đó.
Bấy giờ, vợ các trưởng giả vui mừng hớn hở, tâm lành phát khởi, liền cởi trăm ngàn xâu chuỗi bằng bảy thứ ngọc báu đang đeo trên người tung rải lên chỗ Phật để cúng dường và cùng đọc bài kệ:
Nay đạt được nguyện lớn
Sẽ bỏ thân người nữ
Lời Phật dạy không sai
Miệng nói lời chí thành.
Sẽ dứt thân ngu này
Thân tội ương người nữ
Kẻ ngu si tham đắm
Chẳng rõ biết vốn không.
Không còn thọ bào thai
Dứt trừ chỗ thọ thân
Đã được nghĩa vô thượng
Không hề có nơi chốn.
Vợ của các trưởng giả nói kệ xong liền cùng nhau cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn, mắt không hề chớp.
Bấy giờ, trời Đế Thích rải các hoa trời lên chỗ Phật để cúng dường rồi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con xin thọ trì kinh nhiệm mầu này chăng?
Đức Phật đáp:
–Này Câu Dực, chính nhờ công đức của kinh này mà giữa các Trời và A-tu-la chẳng còn dấy khởi chuyện tranh chấp với nhau nữa.
Lúc ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vì muốn khai hóa vô số trăm ngàn người, giúp họ đứng vững trên nền tảng công đức, bèn bước đến trước Phật bạch:
–Bạch Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, vốn phát đạo tâm đọc tụng Đại pháp này.
Đức Phật nói:
–Đúng như vậy đấy, Nhân giả, đối với hàng trăm ức na-do-tha các vị Bồ-tát hết mực tôn quý, các vị ấy đều phát ra ánh sáng chiếu khắp cõi nước của Đức Phật trong mười phương giống như cung điện mặt trời không đâu không soi sáng.
Khi nói lời nói ấy thì cõi nước này rung chuyển sáu cách, các thứ hoa trời được tung rải xuống như mưa.
A-nan hỏi Phật:
–Vì sao mặt đất rung chuyển và hoa trời tung rải xuống như mưa như vậy?
Phật bảo A-nan:
–Vì vô số ức vị trời nghe những lời khen ngợi của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tâm rất vui thích nên đã tung rải các thứ hoa trời ấy để cúng dường và lập thệ nguyện: “Chúng tôi cũng sẽ thọ trì kinh này để đạt được trí tuệ của đạo như ngài Văn-thùsư-lợi vậy”. Vừa nói xong lời ấy tức tất cả tội lỗi đều dứt sạch, được gần kinh này, cho nên vui mừng cúi đầu lễ chân Phật, rồi đảnh lễ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì thế mà mặt đất rung chuyển.
A-nan thưa hỏi Phật:
–Công đức thọ trì kinh này rộng lớn vô cùng tận, những người chỉ được nghe kinh này thì công đức đã không nhỏ, không hề gặp điều hư vọng chăng?
Đức Phật dạy:
–Đúng vậy, này A-nan! Các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai lần lượt đã từng cúng dường vô số các Đức Phật, nên nay mới được nghe kinh pháp này. Nếu nghe mà tin tưởng vui thích, thọ trì đọc tụng thì sẽ được các Thánh thần trong khắp cõi trời, người hộ trì.
Phật bảo A-nan:
–Nếu như kinh này truyền bá đến nơi nào thì chính là Đức Phật đã xuất hiện ở nơi đó. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, tu học, thì sẽ phá được lưới nghi hoặc mê lầm, hàng phục các loài ma xấu ác, đạt được chân lý của các pháp và giảng nói chánh pháp sáng suốt, gắng sức để dứt sạch những tăm tối, đến được đạo tràng. Nếu có người nào nghe ta giảng nói kinh này vui mừng thọ trì, đọc tụng tu học, thì những người ấy đúng là đệ tử Phật, sinh ra từ Pháp thân Phật, có thể mặc áo Phật, ăn cơm Phật, ngồi gốc cây Bồ-đề như lúc ta đã ngồi, giảng nói kinh pháp như Phật đã giảng nói, và sẽ tiếp nhận kinh này, thọ trì đọc tụng.
A-nan hỏi Phật:
–Cúi mong Đức Thế Tôn nói về thời đương lai, về sau này cũng sẽ có những người tiếp nhận kinh pháp ấy, thọ trì đọc tụng không?
Đức Phật nói:
–Này A-nan! Đối với những người hiện đang ở trước Phật đây có lòng tin đối với kinh ấy thì những người đó ở đời sau cũng tin tưởng, thọ trì đọc tụng. Phật xem khắp các cõi trời, dưới nhân gian, từ các loại ma cho tới Phạm thiên, Sa-môn, Phạm chí, các Trời, loài Người cùng A-tu-luân... những ai không được nghe kinh này mà vào đời sau nghe, lại tin tưởng ưa thích thì không thể có được. Chỉ đối với những ai nay đã được nghe thì vào đời sau mới tin tưởng. Ví như có vị Trưởng giả và người con trai, của cải giàu có vô số, đã chọn riêng một nơi để cất giấu các thứ của báu, rồi cả hai cùng đi đến một nước khác. Vậy thì theo ý của A-nan thế nào, hai người ấy trở về có tìm lại được nơi cất giấu của báu kia không?
A-nan đáp:
–Bạch Thế Tôn, tìm được! Vì sao? Vì họ đã biết rõ chỗ mình cất giấu của báu nên tìm là có ngay.
Phật dạy:
–Đúng vậy! Hiện nay được nghe kinh này thì vào đời sau cũng sẽ tìm về hạt giống như là tìm lại nơi cất giữ của báu vậy. Như Phật đã dùng mắt đạo mà xem xét khắp thì những ai ở đời nay được nghe kinh pháp này, vui mừng tin tưởng, thọ trì đọc tụng thì ở đời sau chắc chắn cũng sẽ được như thế. Do vậy mà A-nan đang ngồi trước Phật đây nên cố gắng nghe kinh sâu nhiệm này.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Nếu có người nghe kinh này mà chẳng tin tưởng ưa thích, lại chê bai hủy báng thì mắc tội như thế nào?
Phật bảo A-nan:
–Ông hãy yên lặng, đừng nên hỏi như vậy.
A-nan bạch Phật:
–Cúi xin Thế Tôn nói rõ việc ấy. Nếu người chẳng tin nghe tội phỉ báng thì được tự hối cải không?
Phật nói:
–Người phạm năm tội nghịch, còn thêm việc giết hại mạng người trong tam thiên đại thiên thế giới, thì tội ấy thế nào?
A-nan thưa:
–Rất nặng, bạch Đấng Trời Trong Trời! Tội ác
ấy thật vô lượng!
Đức Phật dạy:
–Người phỉ báng pháp, tội ác cũng bằng như thế, nếu có kẻ phá hoại hủy diệt các ngôi chùa, tháp của Phật nhiều như số cát sông Hằng thì sau khi Phật nhập Nê-hoàn lại thiêu đốt chùa chiền, thì tội đó có nặng không?
A-nan thưa:
–Rất nặng, bạch Đấng Trời Trong Trời! Hạng người ấy thật chẳng nên nghĩ tới!
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Ta sẽ vì hạng người ấy mà nói rõ về tội lỗi như thế. Nếu lại có người phá hủy tận diệt Phật pháp cả trong thời quá khứ, đương lai, hiện tại thì tội ác ấy thế nào?
A-nan thưa:
–Tội ác ấy rất sâu xa, không thể tính kể!
Phật dạy:
–Kẻ bài báng kinh này tội ác cũng như thế, nếu ngăn cấm người khác khiến họ không được học kinh thì tội ấy như thế nào?
Đức Phật nói tiếp:
–Giả sử chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều tu tập theo mười điều lành, lại phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, nếu có kẻ móc mắt hết tất cả những người kia thì tội ác đó thế nào?
A-nan thưa:
–Bạch Đấng Trời Trong Trời! Tội ấy rất nặng, kẻ ấy trong vô số kiếp thường phải chịu mù lòa, lại phải chịu nạn bị lửa thiêu đốt trong địa ngục.
Phật bảo A-nan:
–Vì thế mà ta ân cần dặn dò ông, giả sử có người phỉ báng, ngăn cấm một người khác khiến người đó không được thực hành theo kinh pháp thì tội ấy còn nặng hơn trường hợp kia!
A-nan lại hỏi Phật:
–Nếu như có người phát tâm cầu đạo, mà nghi ngờ kinh này nhưng không phỉ báng, thì tội ấy thế nào?
Phật dạy:
–Kẻ ấy tuy có phát tâm nhưng trước và sau đều hồ nghi nên sẽ luôn xa cách các Đức Phật, Thế Tôn tùy theo mức độ nghi ngờ ấy, rồi cũng tùy theo mức độ nghi ngờ đó mà trong từng ấy kiếp sẽ không được gần gũi Chánh pháp.
A-nan bạch Phật:
–Nếu có kẻ đã không tin tưởng ưa thích kinh này, lại ngăn cấm mọi người khiến họ không được học hỏi, vậy thì kẻ đó phải chịu tai họa là thân hình lớn nhỏ thế nào? Cũng như là phải chịu tội nhiều ít ra sao?
Phật bảo:
–Này A-nan! Đừng nên hỏi như thế.
A-nan lại bạch Phật:
–Cúi mong Thế Tôn giảng nói về điều ấy, trong bốn chúng đệ tử hiện có ở đây cũng có người đã dấy khởi tâm nghi hoặc. Lại nữa, ở đời vị lai, dân chúng ở những vùng biên địa hay các nước lớn nghe được kinh pháp này, mà thường sinh tâm nghi ngờ thì sẽ khiến họ tin tưởng, hiểu rõ, không còn phỉ báng nữa.
Đức Phật nói:
–Người ấy sẽ chịu quả báo là thân cao đến một muôn, khắp thân mình phải chịu bao thứ đau khổ không thể tính kể.
A-nan lại hỏi Phật:
–Lưỡi của kẻ ấy lớn hay nhỏ?
Phật bảo:
–Lưỡi của kẻ đó dài rộng mỗi bề bốn muôn dặm, trên lưỡi ấy luôn bị ngựa giày xéo đến năm trăm ức năm và trong năm trăm ức năm kẻ đó phải luôn uống thứ nước đồng nóng chảy đỏ rực màu lửa, trên thân thường xuyên bị lửa cháy thiêu nướng, nung đốt. Vì sao? Vì kẻ ấy là biểu hiện cho sự thọ nhận tận cùng của ác báo về khẩu nghiệp vậy.
Bấy giờ, bốn chúng đệ tử đến dự hội đang có mặt, nghe rõ lời dạy của Phật đều nổi ốc khắp mình, hết sức kinh sợ, té xỉu xuống đất, liền cùng nhau cất tiếng cầu mong Đức Phật thương xót đến mình, bày tỏ sự sám hối xin Đức Phật hãy vì các thiện nam, thiện nữ ấy mà rủ lòng cứu giúp mọi tội lỗi, nhờ vậy mới ngăn được bao nỗi lo phiền về quả báo cực ác kia, cùng những ý tưởng về thân xác cao lớn chịu bao nhiêu đau khổ không thể nói hết.
Lại có một số vị khác, nước mắt hãy còn tuôn rơi, liền cùng bước đến bạch Phật:
–Vì chúng con tự mình không thể biết được đời này, đời sau nên sinh tâm nghi ngờ đối với lời dạy của Phật hiện tại cùng các Đức Phật, Thế Tôn trong mười phương, vì bị phiền não che lấp nên không tự thấy tội lỗi của mình, nay đều xin quy kính trước Phật, thành tâm thú nhận tội lỗi không dám che giấu, mong được Phật xá tội, ví như kẻ ngu dại chẳng biết gì nên đã làm trái với lẽ phải, nay tự thấy tội lỗi mình gây ra, mong được Phật thương xót xá tội cho.
Phật bảo bốn chúng:
–Lành thay, lành thay! Các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, các vị đã nghi ngờ đối với pháp này, nay đã thấy rõ tội lỗi của mình, sám hối những điều mình đã gây nên thì cũng như ánh sáng mặt trời xua tan tăm tối.
Bấy giờ, A-nan liền bước đến bạch Phật:
–Nay trong chúng hội này có những vị tâm còn nghi ngờ thì sẽ chịu tội báo ra sao?
Phật dạy:
–Này A-nan! Tuy các vị ấy trong tâm nghi ngờ nhưng hiện giờ đã sám hối tội lỗi của mình, như vậy thì tội báo của các vị đó sẽ được giảm nhẹ.
A-nan lại hỏi:
–Cúi mong Thế Tôn giải thích cho chúng con được rõ.
Phật dạy:
–Các vị ấy khi sắp chết sẽ trông thấy hình ảnh địa ngục, các lỗ chân lông trên người đều đau nhức, lại còn gặp phải vô số không thể kể hết những nỗi lo lắng, chịu tội báo như thế rồi dứt. Vì sao? Vì các vị ấy đã đến trước Phật xin sám hối những tội lỗi của mình cùng dứt bỏ mọi điều nghi ngờ nên có được thêm lòng Từ bi cứu độ của vô số các Đức Phật trong mười phương nữa. Vì vậy, này A-nan! Các thiện nam, thiện nữ phải tự xem xét, về tội báo mà kẻ phỉ báng kinh pháp Phật sẽ phải chịu lấy. Cho nên đối với những người nghe kinh này, vui mừng chẳng nghi ngờ thì những vị ấy luôn được gần gũi Phật pháp Thánh chúng, đối với giáo pháp của Phật Thánh ở quá khứ, hiện tại, vị lai giảng nói, sẽ tin tưởng kinh này và thọ trì, đọc tụng.
Tôn giả A-nan bạch với Đức Thế Tôn:
–Chư Phật, Đại Thánh thảy đều nói giống nhau về pháp luân không thoái chuyển không?
Phật dạy:
–Đúng vậy! Các Đức Phật đều cùng nói về pháp ấy không có khác nhau.
A-nan hỏi Phật:
–Giả sử các Đức Phật đều cùng giảng về pháp luân không thoái chuyển, vậy do đâu mà Đức Thế Tôn trước có nói với chúng đệ tử: “Giả sử có người chẳng muốn xa lìa Phật pháp Thánh chúng, đối với sự hưng thịnh, xiển dương Phật pháp các thời quá khứ, hiện tại, vị lai thì người ấy cũng không hề xa lìa kinh này.
A-nan lại hỏi:
–Phật nói pháp để làm sáng tỏ điều gì?
Đức Phật nói:
–Nói pháp cho chúng sinh khiến họ không thoái chuyển, đó là mở mang Phật pháp. Nhóm họp được các hạt giống không thoái chuyển, đó chính là chỗ Như Lai nhằm diễn bày nêu rõ vậy.
Tôn giả A-nan lại thưa:
–Các Bồ-tát Đại sĩ không còn thoái chuyển có ứng hợp với Thánh chúng chăng?
Đức Phật nói:
–Này A-nan! Thanh tịnh chánh ý, phát tâm đối với Đại đạo, quan sát ý này thì bốn chúng đệ tử ở đây đều đã đạt được pháp không thoái chuyển.
A-nan bạch Phật:
–Thật đúng là điều chưa từng có! Các Đức Phật, Thế Tôn đã khéo léo sử dụng những phương tiện, dựa theo ý nghĩa tùy thời để mở mang đạo lớn.
Lúc này, trời Đế Thích liền tung rải các thứ hoa trời lên chỗ Phật để cúng dường rồi khen ngợi:
–Đức Thế Tôn đã khéo dùng phương tiện thích hợp để giảng nói kinh pháp khiến cho tất cả mọi người đều quy kính.
Đức Phật nói:
–Này Câu Dực! Nếu người được nghe kinh này, mà vui mừng tin tưởng thì hạng người đó vẫn phải sử dụng các phương tiện khéo léo để nói pháp khai hóa chúng sinh, làm cho Chánh pháp thường được phát khởi, cũng giống như ta hiện nay không khác.
Bấy giờ, có vô số các vị trời đều cúng dường các thứ hoa trời lên Đức Thế Tôn và cùng nói:
–Như Lai đã khiến cho tất cả mọi người đều đạt được pháp ấy.
A-nan bạch Phật:
–Cúi mong Thế Tôn thể hiện tâm đại Từ bi khiến cho kinh này được lưu truyền đến cho người đời sau được đội ân ấy.
Phật bảo A-nan:
–Những vị thiện nam, thiện nữ hiện có mặt trong chúng hội này ở đời sau đều sẽ được gặp lại kinh này; giả sử như bị vấp ngã rơi xuống biển lớn, ứng theo kinh mà cầu nguyện thì sẽ được các Đức Phật nghe biết. Vì sao? Vì đó là uy thần biến hóa của các Đức Phật đời quá khứ giữ gìn kinh pháp này.
A-nan bạch Phật:
–Tuy được uy thần của các Đức Phật quá khứ che chở, và được sự kiến lập của Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở hiện tại.
Lúc nói xong lời ấy tức thì khắp tam thiên đại thiên thế giới rung chuyển sáu cách, ngay lúc đó, ở trước Phật có vô số trăm ngàn đóa hoa, các thứ hoa sen báu tự nhiên vụt hiện ra, tỏa ánh sáng khắp chúng hội cùng chiếu khắp các cõi nước trong mười phương như số cát sông Hằng.
Bấy giờ, các vị trong chúng hội đều thấy khắp các cõi Phật trong mười phương như số cát sông Hằng, ở trước tòa báu của Phật, Thế Tôn đều có các hoa sen báu với hàng ức trăm ngàn cánh. Lúc ấy, trời Đế Thích liền hóa thành một vị trưởng giả, đưa hai tay nâng cao từng ấy hoa đem phân chia đều khắp bốn chúng và nói:
–Nguyện tung rải những đóa hoa này để cúng dường Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, và cũng để cúng dường ý nghĩa sâu mầu của kinh này.
Bốn chúng y lời thảy đều tung hoa lên chỗ Phật và đều thấy là những hoa được tung rải đó kết lại hóa thành một chiếc lọng hoa. Bốn chúng cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đây là điềm lành gì mà ánh sáng rực rỡ như vậy? Mặt đất rung chuyển và lại có vô số hoa sen báu hóa hiện trước chỗ Phật, rồi những đóa hoa được tung rải lên cúng dường Phật hóa thành lọng báu như thế?
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Đó đều là sự biến hóa ứng hiện của kinh này. Vì vậy phải biết kiến lập kinh này và truyền bá đến khắp chốn, người thọ trì phải luôn nhớ nghĩ.
Bấy giờ, A-nan lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hiện giờ những vị nương theo uy đức của Phật, mà kiến lập kinh này.
Đức Phật nói:
–Đúng vậy! Kiến lập và hộ trì, cũng như đã hộ trì đối với các Phật hiện tại, cũng giống như thế chẳng có gì sai khác.
A-nan hỏi Phật:
–Nay kinh này được đặt tên là gì và phải kính thờ, thọ trì như thế nào?
Phật dạy:
–Này A-nan! Kinh này được gọi là Bất Ỷ Quả Phật Trừ Đắc Tích Tưởng, cũng gọi là Trì Tín, Phụng Pháp, Đạo Tích, Vãng Lai, Bất Hoàn, Vô
Trước, Thanh Văn, Duyên Giác, lại có tên là Khai Hóa Tế Ma, cũng có tên là Tuân Phụng Lục Độ Vô Cực, cứ nên như thế mà kính thờ thọ trì. Vì sao? Vì nếu người được nghe kinh này mà tin tưởng ưa thích thì liền được đầy đủ sáu Độ vô cực.
A-nan lại hỏi:
–Thế nào là người tin tưởng, ưa thích kính thờ thọ trì kinh ấy thì được đầy đủ sáu Độ vô cực?
Phật bảo A-nan:
–Nếu các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai tin tưởng, ưa thích kinh ấy, không nghi ngờ, dốc lòng bố thí thì đó là Độ vô cực. Chẳng làm mất giới hạnh thì gọi là Cấm vô cực. Luôn tỏ ra nhẫn nhục trong mọi hoàn cảnh thì gọi là Nhẫn vô cực. Cũng không biếng trễ cùng lìa những sự khiếp nhược thì gọi là Tấn vô cực. Tạo được sự hứng khởi, vững vàng an nhiên mà không khinh xuất thì gọi là Thiền vô cực. Đối với tất cả các pháp đã đạt được vô niệm thì gọi là Trí vô cực. Cho nên này A-nan! Do đó mà gọi tên kinh này là Lục Độ Vô Cực. Lại cũng có tên là Bất Thoái Chuyển Luân Phương Đẳng Chi Pháp.
A-nan bạch Phật:
–Chỉ được nghe tên kinh thôi cũng được sự lợi ích lớn lao, huống gì là người thọ trì, đọc tụng?
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy, vì kinh này rất khó gặp.
A-nan lại hỏi:
–Người nghe được tên kinh này thì vượt khỏi được bao nhiêu kiếp sinh tử?
Đức Phật nói:
–Này A-nan! Những người được nghe kinh Pháp Luân Không Thoái Chuyển này, mà ưa thích tin tưởng thì sẽ vượt trừ được tai họa đầu cuối trong trăm ngàn kiếp.
–Giả sử có người nghe kinh này, thì dứt bỏ tánh kiêu căng ngã mạn, tin tưởng và đạo tâm phát khởi thì hạng người này như thế nào?
Phật dạy:
–Này A-nan! Đối với những hạng người ấy Phật đều thọ ký là đã được đạo tâm Vô thượng chánh chân.
Lúc bấy giờ, ở trước mặt bốn chúng đệ tử trong hội, đều hiện lên một đóa hoa sen lớn màu sắc ánh sáng rực rỡ vô lượng, rồi từ đóa hoa lớn ấy lại hiện ra vô số trăm ngàn các đóa hoa khác nữa. Các vị đệ tử trông thấy đều rất vui mừng, liền dâng những đóa hoa ấy cúng dường Đức Thế Tôn và cùng khen ngợi:
–Chúng con nguyện được luôn gặp pháp này ở đời, cũng cố gắng học hỏi như hiện nay, để nhận biết rõ và giảng nói.
Bấy giờ, Đức Phật liền mỉm cười, tức thì có tiếng kỹ nhạc tự nhiên vang lên, âm thanh vang xa đến mười phương. Lại có vô số ngàn vị trời từ không trung tung rải các thứ hoa Chiên-đàn túc kim và hoa Thiên tâm, các thứ y phục của các vị trời để cúng dường Đức Thế Tôn.
Tôn giả A-nan liền đến trước Phật, quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật:
–Đức Thế Tôn chẳng khi nào cười suông, vậy nụ cười vừa rồi là có ý nghĩa gì?
Phật bảo A-nan:
–Hiện tại, bốn chúng đệ tử cùng tám bộ chúng Trời, Rồng, Quỷ thần, Nhân phi nhân... đều được nghe kinh này. Đời sau, khi sinh ra cũng liền được gặp kinh ấy và sẽ giảng nói ý nghĩa của kinh chẳng khác gì như ta hiện nay.
Lúc Đức Phật nói kinh này xong, Tôn giả Anan, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, các trời, người đời... tất cả đều vô cùng vui mừng.
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18]
[Mục lục bộ Pháp Hoa][262][263][264][265][266][267][268][269][270][271][272][273]