TẠNG KINH
BỘ PHÁP HOA (0262-0273)
Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục.
Phẩm 4: Nêu Rõ Hành Tướng Hai Thừa
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị, chúng Bồ-tát Ma-ha-tát thì có đến số vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ.
Lúc bấy giờ, vào khoảng quá nửa đêm, Đức Thế Tôn nhập chánh định Quảng Đại Quang Minh Chiếu, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nhập chánh định Đại quang minh, Bồ-tát Di-lặc cũng nhập chánh định Biến cự. Lúc này, Đức Thế Tôn xuất định, cùng Tôn giả Xá-lợi-phất ra khỏi phòng đi tới chỗ trú của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Chợt Tôn giả Xá-lợi-phất nhìn thấy hai bên trái và phải của phòng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cũng như phòng của Phật thảy đều hiện ra những ao nước đầy, trong ao có vô số lớp lớp những đóa hoa sen trải kín trên mặt nước. Mỗi đóa hoa sen trong ao đều phát ra ánh sáng chiếu khắp khu Kỳ hoàn và nước Xá-vệ, cho đến cả tam thiên đại thiên thế giới thảy đều được chiếu sáng. Lại nghe có tiếng pháp âm lớn vang khắp tất cả các thế giới trong mười phương, nghe rõ có tiếng của các vị Bồ-tát đang thưa hỏi, nêu câu hỏi, luận bàn. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đã bước vào phòng, thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang ngồi nhập định, bèn đứng trước mặt rồi búng mạnh ngón tay để phát ra tiếng.
Lúc này Đức Thế Tôn cùng Tôn giả Xá-lợiphất đều thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử dùng thần thông biến hóa nên đều thấy thân mình đang ở trên mặt nước biển lớn. Tôn giả Xálợi-phất khi ấy muốn ra khỏi phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhưng không thể được, muốn phóng vụt lên hư không mà cũng chẳng được, không tự biết mình từ đâu đến, huống gì là việc vận dụng thần thông bay đi. Thế rồi, Tôn giả liền ngồi kiết già nhập định, đột nhiên nhìn thấy Bồtát Văn-thù-sư-lợi đang ngồi ngay thẳng trước mặt mình, biết đấy là do năng lực thần thông của Bồ-tát thể hiện, nên không rời khỏi chỗ ngồi.
Tôn giả Xá-lợi-phất thấy Bồ-tát Văn-thù-sưlợi. Qua số cõi Phật như cát sông Hằng có một thế giới tên là A-bệ-bạt-trí nghị luận âm thanh, Đức
Phật ở thế giới đó hiệu là Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu, hiện đang ngự trên tòa báu, có vô lượng ngàn ức Bồ-tát vây quanh. Tôn giả thấy các lỗ chân lông trên thân của Đức Phật ấy đều mọc ra hoa sen, mỗi đóa hoa sen đó đều phát ra ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi hoa có ngàn cánh, cọng bằng ngọc lưu ly xanh, tua bằng ngọc mã não, đài bằng các thứ báu, trên mỗi đài đều có các vị Bồ-tát đang ngồi kiết già. Các vị Bồ-tát ấy đều trụ trong pháp không thoái chuyển, sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với các pháp môn Tổng trì đều thành tựu Đại nhẫn, tự trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng, thân sắc màu vàng ròng nhiệm mầu bậc nhất.
Lúc bấy giờ từ nơi rốn Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu mọc ra một đóa hoa sen lớn, rất nhiều mầu sắc, thân cũng bằng ngọc lưu ly xanh, cánh hoa bằng kim cang, tua bằng lưu ly nhân đà, đài bằng Long kiên chiên-đàn vương, nước ở thế gian không thể làm ô nhiễm. Tôn giả Xá-lợi-phất nhìn thấy đài hoa ấy còn bỏ trống nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã lên ngồi nơi đó và cùng với đài hoa sen vụt biến lên cao vút. Rồi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đi nhiễu quanh Phật ba vòng, chắp tay, nhất tâm đảnh lễ dưới chân Phật, sau đó trở lại đài hoa sen ngồi kiết già, chánh niệm hướng về Phật.
Lúc này, Như Lai Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Nhân giả từ nơi nào đến đây?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con từ thế giới Ta-bà đến cõi này. Trong cõi Phật này có hai vị Bồ-tát là Thiện Âm và Thiện Thanh; hai vị Đại Bồ-tát này đều đã an trụ nơi pháp không thoái chuyển quyết định sẽ chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai vị cùng từ nơi đài hoa bước ra, sửa lại y phục ngay ngắn, rồi đầu gối bên phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế giới Ta-bà ấy cách cõi này bao xa?
Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu đáp:
–Thế giới Ta-bà đó cách đây với số thế giới nhiều như số cát sông Hằng, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ cõi ấy đến đây.
Hai vị Bồ-tát cùng hỏi Phật:
–Đức Phật ở thế giới Ta-bà đó hiệu là gì?
Chúng con muốn được biết.
Đức Phật đáp:
–Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Mâuni, là Bậc Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang còn trụ thế giới.
Hai vị Bồ-tát lại hỏi:
–Đức Thích-ca Mâu-ni hiện giờ đang nói pháp gì?
Phật nói:
–Hiện đang nói pháp ba thừa.
Lại hỏi:
–Thế nào gọi là ba thừa?
Phật dạy:
–Đó là giảng về Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Phật thừa. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thường giảng về pháp ba thừa như vậy.
Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Các Đức Phật nói pháp vì sao không giống nhau?
Đức Phật đáp:
–Tất cả các Đức Phật nói pháp đều giống nhau.
Lại hỏi:
–Thế nào là giống nhau?
Đức Phật dạy:
–Đó là Chuyển pháp luân không thoái chuyển, tất cả các Đức Phật đều nói giống nhau.
Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như vậy thì vì sao Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại nói về pháp ba thừa?
Đức Phật dạy:
–Vì tâm của chúng sinh ở thế giới Ta-bà ấy phần nhiều thấp kém, nếu chỉ nói về Nhất thừa thì không thể lãnh hội ngay được. Do đó, Phật Thíchca Mâu-ni đã khéo dùng phương tiện khéo léo phân biệt nói ba thừa, giúp cho chúng sinh ra khỏi thế giới năm trược, dẫn dắt họ lần lượt hội nhập Nhất thừa.
Hai vị Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà ấy nói pháp chắc là hết sức khó khăn?
Đức Phật đáp:
–Đúng vậy! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói pháp thật rất khó khăn.
Hai Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con được lợi ích tốt đẹp nên không sinh vào cõi nước có chúng sinh thấp kém xấu ác như thế.
Phật đáp:
–Các vị chớ nói lời ấy, hãy mau bỏ ý nghĩ ấy.
Hai vị Bồ-tát nói:
–Bạch Thế Tôn! Do đâu mà Thế Tôn dạy chúng con không nên nói những lời ấy. Ở thế giới năm trược như vậy, mà nói pháp này rất là khó khăn, do đó mà chúng con hôm nay chẳng sinh tâm vui mừng, ưa thích.
Đức Phật dạy:
–Ở thế giới này, trong hai mươi ức na-do-tha kiếp tu tập các căn lành, sự việc ấy không khó khăn bằng ở thế giới Ta-bà chỉ trong thời gian một bữa ăn mà tu tập các căn lành. Nhưng Đức Thích-ca Mâu-ni đã luôn thích ứng với các pháp tu Bát-nhã ba-la-mật để dẫn dắt chúng sinh quy y Tam bảo thọ trì năm giới, khiến họ xa lìa tâm Thanh văn, Duyên giác, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng Bồ-đề là những việc hết sức khó khăn. Đức Thích-ca Mâuni Như Lai đã tu tập như thế trải qua những hai mươi ức na-do-tha kiếp, huống chi còn khuyến khích mọi người xuất gia, khen ngợi công đức xuất gia, nói pháp rộng rãi, giúp họ ra khỏi ba cõi, giáo hóa như vậy để được lợi ích cho chính mình, tu tập pháp lành, nhập vào các thiền định. Vì sao? Vì chúng sinh ở thế giới Ta-bà đó luôn bị các thứ phiền não làm cho mê mờ, điên đảo.
Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì sao mà ở thế giới ấy, các chúng sinh lại bị nhiều thứ phiền não trói buộc khiến cho mê mờ điên đảo như vậy?
Phật dạy:
–Nếu ta nói cho các vị nghe về các thứ phiền não của chúng sinh ở thế giới Ta-bà như tham dục, sân hận, ngu si, vô số các pháp bất thiện, xấu ác thì dù hết suốt đời ta cũng không thể nói cho hết được. Chỉ có Phật mới biết rõ về nghiệp báo thiện ác ở thế giới đó.
Bấy giờ, hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh đều khen ngợi:
–Thật là Đấng Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni thật là Bậc Sư Tử trong họ Thích, thật là vị Đại Tiên trong dòng họ Thích!
Hai vị Bồ-tát khen ngợi ba lần như thế, tức thì các vị Thế Tôn ở đấy thảy đều khen ngợi:
–Lành thay! Bậc Đạo Sư thuyết pháp độ sinh, đã khéo biết rõ tâm niệm của muôn loài. Vì vậy mà ta đã nêu rõ về các pháp bất thiện, tham dục, sân si, tà kiến cùng vô lượng những điều xấu ác, khéo léo giảng nói dẫn dắt đưa họ về nẻo thiện, hướng về con đường tu tập của hàng Thanh văn, Duyên giác, đều quy về Phật thừa, thành tựu trí tuệ Phật, thanh tịnh bậc nhất. Lại giúp cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề, thuận theo sự giải thoát, nhập vào trí tuệ Phật, vì giúp cho chúng sinh có đầy đủ căn lành, tâm không bị cấu nhiễm.
Các vị Bồ-tát ấy đều lấy những đóa hoa sen được cấu tạo bằng bảy thứ báu với nhiều màu sắc, mỗi hoa có trăm ngàn muôn ức cánh, như kho báu kim cang, tua bằng ngọc lưu ly xanh cõi trời, đài bằng Chiên-đàn long kiên, thân bằng các thứ châu báu, không hề bị dính các thứ nước ở thế gian, mắt đều nhận thấy rõ, hoa này nhiệm mầu bay lên hư không và tự xoay theo các hướng, khỏi phải nắm giữ, giống như hình ảnh huyễn từ nghiệp báo sinh ra, cũng từ các chánh định giải thoát sinh ra.
Các vị Bồ-tát lấy hoa trong hư không rồi từ xa hướng về thế giới Ta-bà tung rải cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni. Lại cầm các tràng hoa, lọng hoa, đều làm bằng các chất báu, rồi nào mây báu, lọng báu cùng các lọng lụa quý giá để cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai. Sau đó, các vị Bồ-tát gieo năm vóc sát đất, hướng về Phật đảnh lễ, cùng đọc:
–Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật.
Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát ở thế giới Ta-bà này, đã tự trang nghiêm bằng các pháp Đại thừa, luôn tinh tấn không hề biếng trễ, tu tập các công đức, có khả năng giữ gìn tất cả Chánh pháp của các Đức Phật quá khứ, hiện tại cùng vị lai, vì muốn cứu giúp các chúng sinh khổ não nên chiếu sáng rộng lớn và trụ trong Nhất thừa. Chúng con muốn đến ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng chúng Đại Bồ-tát ở thế giới Ta-bà, những Bậc đã dùng sự Đại trang nghiêm để trang nghiêm thân mình, vì tiếp nối hạt giống Phật không để dứt mất.
Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu Như Lai nghe các vị Bồ-tát nói lời ấy, liền quán sát tâm các vị ấy, lại nói cho các vị ấy nghe về công đức của các Đức Phật, chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, bèn bảo các vị Bồ-tát:
–Các ông nên theo học sự hành đạo của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đối với tất cả chúng sinh phát tâm đại Từ bi, phát tâm làm lợi ích an vui cho họ. Đối với các pháp sâu nhiệm không sinh tâm sợ hãi hoặc chê bai, trái lại luôn giữ tâm niệm vô tướng, đầy đủ căn lành, không cầu quả báo. Các vị Đại Bồ-tát như thế đều sẽ đến cõi nước của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, do năng lực của bản nguyện nên đều sinh về thế giới ấy để giữ gìn chánh pháp, thuận theo sự chỉ dạy của các Đức Phật để làm chỗ dựa cho việc tu học của mình. Các ông nên đến thế giới đó để ra mắt Phật.
Hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh cùng bạch Phật:
–Chúng con sẽ nương theo năng lực thần thông của Phật và năng lực của các Đức Phật thời quá khứ, vị lai mà đến được thế giới Ta-bà ấy.
Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu nói với hai vị Bồ-tát:
–Bây giờ, các ông hãy cùng đi với Bồ-tát Vănthù-sư-lợi đến thế giới đó. Rồi Phật nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Ông hãy hướng dẫn hai vị Bồ-tát này cùng đến thế giới Ta-bà.
Hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Chúng tôi muốn ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng các vị Bồ-tát và tất cả đại chúng ở thế giới ấy, xin được nương theo thần lực của Bồ-tát để được ra mắt Đức Phật ấy.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Này các thiện nam! Các vị trước hết phải nên lễ bái Đức Phật ấy, nên luôn luôn gần gũi cung kính cúng dường vô số các Đức Phật đều vì lợi ích cho tất cả chúng sinh trong các thế giới ở mười phương, cũng vì muốn tăng trưởng tánh chất giác ngộ nơi mình tức là thành tựu trí tuệ của Phật.
Hai vị Bồ-tát được nghe lời chỉ dạy của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền cùng thưa:
–Chúng tôi cũng sẽ hết lòng cúng dường các Đức Phật, Như Lai, gần gũi lễ bái tôn trọng khen ngợi, sẽ học hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đảnh lễ Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, cung kính tôn trọng rồi cùng với các vị Bồ-tát và Tôn giả Xá-lợi-phất đến gần Phật để nghe nói pháp, được Phật chỉ dạy quán kỹ Như Lai. Các vị đều tung hoa cúng dường, lại dùng các thứ hương bột, hương xoa; các thứ cờ phướn dù lọng làm bằng lụa là thanh tịnh bậc nhất, tất cả đều được sự hộ trì thần lực của chư Phật quá khứ, khiến cho niệm tuệ được vững chắc, hướng đến cúng dường khắp ba ngôi tôn quý là Phật, Pháp, Tăng, nhằm giúp cho tất cả chúng sinh được giải thoát.
Chỉ trong khoảnh khắc như sự co duỗi cánh tay của vị Đại lực sĩ, thì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các vị đã đi về phương Đông, trải qua các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, ở mỗi cõi Phật ấy, Bồ-tát thảy đều khuyến thỉnh các Đức Phật giảng nói rộng về chuyển pháp luân thanh tịnh không thoái chuyển. Nơi các cõi Phật này không có người nữ, cũng không có danh từ hai thừa Thanh văn, Duyên giác, cũng giống như ở thế giới của Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu không khác. Trong các thế giới ấy được trang nghiêm bằng các vị Đại Bồ-tát. Nơi lỗ chân lông và rốn của các vị Đại Bồ-tát ấy đều hiện ra những đóa hoa sen, trong mỗi hoa sen đều có các vị Bồtát an tọa, trên mỗi đài hoa ấy đều có Bồ-tát Vănthù-sư-lợi là do thần thông của Bồ-tát biến hóa để cúng dường các Đức Phật.
Đến các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và hai phương trên, dưới, cho tới các thế giới trong mười phương, đều có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói chuyển pháp luân không thoái chuyển, đều có hai vị Bồ-tát từ trong đài hoa sen bước ra hỏi Phật: “Vì sao Đức Phật ở thế giới Ta-bà lại giảng nói về giáo pháp ba thừa?” Các vị Bồ-tát đó đều muốn được đi cùng với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thế giới Ta-bà để ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, trong các thế giới ở mười phương đều khuyến khích các vị Bồ-tát ở đó cùng đi với mình đến thế giới Ta-bà, khi tới cõi Diêm-phù-đề, thì trời sắp sáng.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đã thức giấc, dù trời chưa sáng nhưng nhìn qua lỗ trống của chiếc then cửa thấy ánh sáng hắt vào phòng mình, liền rời khỏi chỗ nằm bước ra ngoài, chợt thấy ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn và cả khu vực toàn là nước trong xanh óng ánh đầy khắp, giống như tấm gương lớn sáng loáng không chút bụi bặm, mà cũng không thấy bóng dáng cây cối và tinh xá đâu cả. Trông thấy cảnh tượng ấy, Tôn giả liền nghĩ: “Vì nhân duyên gì mà bỗng nhiên có các hiện tượng này? Cứ theo các điềm lạ hiện ra như thế thì chắc hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa.”
Nghĩ rồi Tôn giả lội vào nước nhưng chân không bị ngập trong nước, nước cũng không bám vào chân, nên tâm ý vui mừng, liền đi thẳng đến phòng Đức Phật, chợt thấy có tới mười ngàn đóa hoa sen đang bay vòng quanh phòng Phật, lại nghe có tiếng nhạc vang khắp, các đóa hoa ấy đều phát ra ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn cùng nước Xá-vệ trong cõi Diêm-phù-đề và cả tam thiên đại thiên thế giới cũng đều được chiếu sáng như ban ngày. Tôn giả A-nan lòng tràn ngập nỗi vui mừng, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính nhất tâm hướng về phía Phật. Lúc này tướng sáng đã xuất hiện, mặt trời sắp mọc, thấy rõ mười ngàn hoa sen đang bay vòng quanh phòng Phật, trong đó có một hoa sen đặc biệt đẹp nhất hiện ra nơi khu vực tinh xá Kỳ hoàn. Tôn giả A-nan liền nghĩ: “Hôm nay, Đức Thế Tôn chắc chắn sẽ nói pháp, ta phải lo sửa soạn chỗ ngồi để đợi Như Lai. Vì thấy có những hiện tượng này là Ngài sẽ nói pháp.”
Rồi Tôn giả lo sắp đặt tòa Sư tử cho Đức Phật ngồi, chỉ trong chốc lát là Phật đã ngồi yên. Lúc đó, mặt đất rung chuyển sáu cách, cho đến hằng hà sa thế giới trong mười phương cũng rung chuyển sáu cách như vậy. Khắp tam thiên đại thiên thế giới hoa trời rải khắp như hoa Câu-vật-đầu, Phân-đàlợi, Ưu-bát-la... cùng các thứ cây đầy hoa trái tự nhiên mọc lên.
Lúc ấy, các vị Tỳ-kheo đều muốn ra khỏi phòng để đến đạo tràng, nhưng trông thấy cả khu vực toàn là nước nên sợ hãi không dám đi. Các vị thấy cả khu Kỳ hoàn, cây cối cùng Tăng phòng, giảng đường, vườn hoa như chìm trong làn nước đầy ắp, trong lành chẳng chút cấu bẩn, lại chỉ thấy ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nơi. Các vị Tỳ-kheo ấy đều nói:
–Hôm nay có những điềm lành này, chắc chắn là Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn xuất định ngồi khoan thai. Tức thì, tất cả các Đức Phật trong các thế giới ở mười phương đều phát ra ánh sáng rực rỡ cùng nhiều mành lưới báu, có trăm ngàn muôn ức vô số màu sắc, mắt đều trông thấy nhưng không thể nắm bắt. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng hằng hà sa số các vị Bồ-tát của các cõi Phật trong mười phương, vì muốn đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh, nên đối với các Đức Phật Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều lễ bái cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, cùng với các vị Đại Bồ-tát như thế, thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, muốn giúp cho chúng sinh tin theo Phật pháp, giáo hóa làm lợi ích, tùy theo sự thích ứng mà đều được nghe thấy, dùng phương tiện giảng nói giúp họ lãnh hội, thông tỏ.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biết Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã an tọa. Tất cả mặt đất đều rung chuyển sáu cách và các vị Bồ-tát từ dưới đất vụt hiện lên, từ một a-tăng-kỳ, trăm a-tăng-kỳ, cho tới trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ vị đều đến nhóm họp trong hội. Tất cả các Bồ-tát đều đi nhiễu quanh Đức Phật đến hàng trăm ngàn vòng.
Lại cầm vô số hoa sen rất nhiều màu sắc, mỗi hoa có vô lượng cánh nhiều không thể tính kể, tất cả được tung rải trên chỗ Phật để cúng dường, nhằm giúp cho chúng sinh nhất tâm chuyên niệm, phát sinh trí tuệ thù thắng, số hoa sen được tung rải cúng dường ấy phủ khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Lại có các loại hương Long kiên, Chiên-đàn, các thứ hương tạp làm bằng Chiên-đàn, do thần thông phương tiện biến hóa là kết quả của sự tu tập các pháp Ba-la-mật là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ mà có, đều là loại hương Vô tướng trợ đạo, được oai thần của các Đức Phật trong mười phương che chở để cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì muốn cúng dường các Đức Như Lai, nên cùng với các Bồ-tát trang sức tháp báu, những cờ phướn, dù lọng bằng lụa là quý đẹp, dùng nhiều loại võng báu giăng mắc khắp phía trên. Bồ-tát cũng dùng ngọc Mani tạo dựng các phòng ốc, cửa ngõ, bình phong, cửa sổ, cửa lớn, tất cả đều đẹp đẽ trang nghiêm. Rồi nào ao hồ, suối khe, kênh ngòi, sông lớn với đủ các loại hoa như hoa Ưu-bát-la, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, các thứ hoa sen báu phủ khắp mặt nước, nước ấy có tám thứ công đức, lại thêm vô số các loài chim lạ cùng bay đến tụ tập hót vang. Các cây báu cõi trời tùy theo ý muốn mà hiện ra, để cứu giúp chúng sinh khiến được giải thoát, vì tu trí Phật, phát ra tâm Bồ-đề, tất cả đều do thần thông không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Văn-thù-sưlợi biến hóa ra, nương theo uy thần của các Đức Phật và năng lực của thệ nguyện, cũng là nguyện lực bản hạnh của Phật Thích-ca Mâu-ni. Bồ-tát Văn-thù biến hóa như vậy là muốn cho sự giáo hóa dẫn dắt chúng sinh được thành tựu trọn vẹn, khiến tâm họ không thể nghĩ bàn, mà sự nhận thức cũng không thể nghĩ bàn nên đã tạo ra vẻ trang nghiêm hết mực cho cảnh giới Phật.
Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các vị Đại Bồ-tát đã tạo đầy đủ vẻ trang nghiêm cho đạo tràng nói pháp của Phật. Khi các vị Bồ-tát sắp sửa an tọa, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chỉ trong một sát-na, trước hết là hiện rõ thân tướng của mình, rồi thì các hoa sen vô tướng từ các lỗ chân lông trên thân hiện ra, mỗi lỗ chân lông là một hoa sen với vô số trăm ngàn màu sắc xen nhau, có vô số cánh không thể nghĩ bàn màn lưới ánh sáng bằng kho báu Kim cang, tua bằng ngọc lưu ly xanh, đài bằng Long kiên chiên-đàn, các vị Bồ-tát đều ngồi kiết già trên các hoa sen ấy.
Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ nơi rốn trên thân tướng phát ra ánh sáng chiếu khắp sáu đường tăm tối, hàng ngàn ức thứ ánh sáng như màu sắc hoa A-đề-mục-đa-già cùng với vô số luồng ánh sáng mềm mại như hoa sen trong lành thơm ngát, lan tỏa khắp mười phương không hề bị trở ngại… từ trong đài hoa sen hiện ra những ngôi lầu gác đẹp đẽ, được các Đức Phật che chở, cùng hòa nhập với pháp giới bao la, như màu sắc của cảnh giới vắng lặng an vui giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô vi, vô sinh, vô diệt, đồng với ba đời, tất cả đều hội nhập vào cõi không, vượt quá sự thấy biết của mắt thường. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thân tướng khôi ngô xinh đẹp, an tọa trên tòa lầu gác đẹp đẽ ấy, tâm không dao động, nghĩ nhớ cảnh giới Phật, tự chứng ngộ pháp Không được chánh định Kim cang, khéo tu học theo pháp của Đức Phật Thíchca Mâu-ni, nhất định sẽ đạt pháp Tam-muội vô duyên, đi sâu vào trí tuệ Phật.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các vị Đại Bồtát đã thực hiện viên mãn các Phật sự trong các thế giới ở mười phương, tâm ưa thích chánh pháp, thường siêng năng tu tập, cũng gieo trồng căn lành đã lâu đối với các Đức Phật đời quá khứ, đều được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi che chở chí tâm dốc sức hành đạo giác ngộ, không thoái chuyển, giống như sư tử mạnh mẽ ngự trên tòa vô úy.
Phật bảo A-nan:
–Ông nên báo cho các Tỳ-kheo trong tinh xá Kỳ hoàn cùng các vị Tỳ-kheo-ni đang tu học nơi các tinh xá trong thành Xá-vệ biết rằng hôm nay Đức Như Lai, Thế Tôn sẽ nói pháp, đồng thời cũng báo cho các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trong kinh thành ấy là những người kính tin, ưa thích Tam bảo, căn lành thuần thục, được biết để đều nhóm họp nghe pháp.
Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, đi tới các phòng Tăng và những chỗ kinh hành để báo rằng Đức Phật sắp nói pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo đã nhóm họp, lại có các Tỳ-kheo đang ở trong phòng, đều nói là đã thấy các hiện tượng lạ báo trước việc Đức Thế Tôn sẽ nói pháp nhưng không thể đến nhóm họp được. Tôn giả A-nan nói:
–Vì sao các vị không đến được?
Các Tỳ-kheo ấy đáp là hôm nay trông thấy cả tinh xá Kỳ hoàn toàn là nước đầy khắp chẳng còn thấy cây cối đâu cả, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nơi, vì thế nên không dám ra đi. Tôn giả A-nan liền trở lại chỗ Phật bạch:
–Bạch Thế Tôn! Có các Tỳ-kheo không thể đến nhóm họp được. Vì họ trông thấy cả tinh xá Kỳ hoàn như ngập chìm trong nước, nước rất trong xanh không chút cấu bẩn, lại còn chẳng thấy tinh xá và cây cối đâu cả, nên các vị ấy không đến được. Phật bảo A-nan:
–Các vị Tỳ-kheo ấy, đối với nơi không có nước mà tưởng là có nước, đối với không có hình sắc mà tưởng là có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức thì lại tưởng là có thọ, tưởng, hành, thức. Chưa đạt quả vị Thanh văn, Duyên giác mà tưởng là đã đạt được các quả vị ấy. Này A-nan! Hãy trở lại nói cho các vị Tỳ-kheo ấy biết để họ còn kịp đến nghe pháp.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan vâng theo lời Phật dạy, đi khắp thành Xá-vệ báo cho tất cả các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di biết là hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói pháp, vậy các vị hãy mau đến tinh xá Kỳ hoàn để nghe pháp.
Phật bảo Mục-liên:
–Tôn giả hãy đi báo cho các vị Đại Bồ-tát trong tam thiên đại thiên thế giới, những người luôn phát tâm tu tập các pháp trang nghiêm và các vị Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, những vị hướng về pháp Đại thừa, tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-nala, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... cũng đều nhóm họp để được nghe Phật nói pháp, những ai chưa được nghe thì hôm nay sẽ được nghe. Nên biết rằng bốn chúng đệ tử và tám bộ chúng sẽ đến nghe pháp ấy vốn đã gieo trồng căn lành từ trước nơi vô lượng các Đức Phật thời quá khứ, luôn phát tâm hướng về các pháp Đại thừa, cầu tu Đại thừa để đạt đến Tối thắng thừa, cũng gọi là thừa thanh tịnh bậc nhất. Riêng các vị Đại Bồ-tát thì luôn dùng các pháp Đại trang nghiêm để tự trang nghiêm cho quá trình tu theo thừa này. Tóm lại Tôn giả hãy thông báo cùng khắp để các vị ấy biết mà đến nhóm họp.
Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
–Con xin vâng lời Thế Tôn!
Thế là chỉ trong khoảnh khắc, Tôn giả Mục-liên đã đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, đến các đạo tràng lớn nhỏ, nhờ thần lực Phật và năng lực bản nguyện nên công việc thông báo đã hoàn tất nhanh chóng. Tôn giả Mục-liên trở lại chỗ Phật, bạch Phật rằng là mình đã làm viên mãn công việc được giao.
Bấy giờ, tất cả bốn chúng đều nhóm họp. Chiếm một khoảng rộng lớn mỗi bề hàng ngàn dotuần, bao quát cả một không gian cao đến năm ngàn do-tuần, tất cả trời, người lòng tràn ngập niềm ưa thích mong được nghe Pháp. Bồ-tát Văn-thùsư-lợi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bốn chúng đã nhóm họp đông đủ.
Lúc này, các vị trời hiện ra đầy khắp hư không, thảy đều chắp tay bạch Phật:
–Hiện giờ cả đại chúng đều kinh sợ trước uy đức của Như Lai nên không dám tự tiện an tọa, kính mong Thế Tôn cho phép họ ngồi.
Bấy giờ, Đức Như Lai liền hiện ra điềm lành, chỉ trong khoảnh khắc, từ dưới đất vụt hiện lên một hoa sen lớn bằng vàng Diêm-phù-đề có trăm ngàn muôn ức cánh, màu sắc ánh sáng tỏa chiếu rực rỡ như một vầng lửa khổng lồ. Đóa hoa sen ấy có tua bằng ngọc lưu ly xanh, đài làm bằng ngọc trai, thân bằng bảy thứ báu. Tất cả đại chúng đều tự biết phải ngồi phía trước Đức Như Lai. Các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thác-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… đều hướng về Đức Phật, chiêm ngưỡng Đức Như Lai.
Đối với các vị Đại Bồ-tát thì Bồ-tát Văn-thùsư-lợi là bậc Thượng thủ, các vị Đại Bồ-tát này đều có ba mươi hai tướng làm tăng thêm vẻ trang nghiêm nơi thân mình, màu sắc như vàng ròng, đều là bậc mạnh mẽ tinh tấn, uy đức rõ ràng.
Bấy giờ, các vị Bồ-tát cùng Bồ-tát Văn-thù-sưlợi đều từ nơi các đài hoa sen bước ra, chắp tay hướng về Đức Phật, khuyến thỉnh Đức Thế Tôn và nhất tâm nghĩ nhớ Phật. Rồi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bốn chúng đã nhóm họp, tất cả đều ngồi yên lặng, tất cả các vị trời hiện ra đầy khắp hư không. Cúi mong Đức Thế Tôn giảng nói rõ về pháp Bất thoái chuyển pháp luân thanh tịnh. Bốn chúng đệ tử hiện có ở đây là các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng vô lượng trăm ngàn vị trời, các vị tín hành, pháp hành, cùng với tám bậc, có Tu-đà-hoàn tưởng, Tư-đà-hàm tưởng, A-nan-hàm tưởng, A-la-hán tưởng, Thanh văn tưởng, Duyên giác tưởng, Phật tưởng, mỗi người đều có ý tưởng. Mong Phật giảng nói để khuyến khích tâm họ là do nhân duyên gì mà nói về tín hành, pháp hành, cho đến tám bậc, Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, do đâu mà nêu lên như vậy?
Đức Thế Tôn yên lặng không đáp.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vào lúc quá nửa đêm, trời gần sáng, con đứng dậy ra khỏi phòng và đi đến phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đến trước cửa phòng sắp sửa bước vào thì chợt thấy nơi phòng của Như Lai có đến mười ngàn đóa hoa sen vụt hiện ra bay vòng quanh, lại nghe có tiếng trống trời tự nhiên vang lên cùng với âm thanh ca vịnh, thấy khắp khu rừng Kỳ hoàn, thành Xá-vệ và cả tam thiên đại thiên thế giới thảy đều được chiếu sáng. Do nhân duyên gì mà hiện ra điềm lành ấy?
Tôn giả Xá-lợi-phất vừa hỏi dứt lời thì Đức Phật liền nói:
–Do hôm nay ta sẽ nói pháp nên mới trước hiện ra điềm lành ấy.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Đức Như Lai sẽ nói pháp gì mà trước hiện điềm lành như vậy.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vào khoảng cuối đêm, lúc trời gần sáng, con thấy ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào phòng mình qua khe cửa, con liền đứng dậy đi ra khỏi phòng trông thấy cả khu rừng Kỳ hoàn toàn là một vùng nước trong xanh chẳng có chút cáu bẩn, nhưng cây cối cùng tinh xá, Tăng phòng đều chẳng thấy đâu cả, chỉ thấy có ánh sáng chiếu rực rỡ. Vậy do nhân duyên gì mà hiện trước điềm lành như thế?
Thế Tôn bảo A-nan:
–Đó là vì hôm nay Như Lai sẽ nói về pháp luân thanh tịnh, cũng là điềm lành khuyến thỉnh do thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã hiện ra. Bây giờ, Đức Thế Tôn vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nên nói bài kệ:
Thừa này thanh tịnh
Thành được trí Phật
Văn-thù diệu biện
Thưa hỏi nghĩa ấy
Nhất thừa dứt nhiễm
Được thượng trí Phật
Văn thù hiểu rõ
Nên hỏi như thế.
Thừa không phân biệt
Lìa sự đùa bỡn,
Văn-thù hiểu rõ
Nên hỏi như thế.
Vốn không có lại
Cũng không có đi
Giống như Niết-bàn
Lời Văn-thù hỏi
Thực không được quả
Cũng không có nói
Chỉ dùng phương tiện
Dẫn dắt chúng sinh.
Xa lìa âm thanh
Âm thanh một tướng
Văn-thù hiểu rõ
Nên hỏi như thế.
Tìm cầu âm thanh
Không âm để tìm
Thanh vốn là không
Lời Văn thù hỏi
Thanh ấy như gió
Không chỗ nương tựa
Thanh tức giải thoát
Lời Văn-thù hỏi
A-nan lắng nghe
Lời Văn-thù hỏi
Phương tiện giác ngộ
Đều không thật có
Phật và giác ngộ
Có tiếng không thật
Cũng chẳng chốn nơi
Các pháp đều thế
Bồ-đề không sắc
Nhân duyên không sinh
Không có đến đi
Là các Phật nói
Vô vi vô tướng
Như không, chẳng thấy
Bồ đề không nói
Lời Văn thù hỏi
Phật khứ, lai, hiện
Tất cả đều thế
Trí không nơi chốn
Không nghe, không thấy
Tánh, tướng như thị
Hiển bày pháp giới
Chỉ là giả danh
Mở bày chân thật
Tu thí thanh tịnh
Giữ giới không lỗi
Nhẫn nhục bền chí
Chí cầu Bồ-đề
Tinh tấn không trễ
Tu thiền nhiếp tâm
Trí tuệ thanh tịnh
Để cầu Bồ đề
Phật dùng phương tiện
Độ các thần thông
Chúng sinh không nương
Vì nói Bồ-đề
Phân rõ ba thừa
Bốn quả khác nhau
Dùng trí như thật
Tùy nên cứu đời
Hiện cõi năm trược
Vì người thấp kém
Đối đạo Nhất thừa
Kinh nghi không tin
Nên nói bốn quả
Mở bày La-hán
Từ cửa Thanh văn
Vào cửa Phật giáo
Nói số vô số
Nhân duyên khác nhau
Nhận rõ bốn Đế
Chứng các pháp tướng
Thanh văn, La-hán
Duyên giác, Bích-chi
Cùng được vô sinh
Đó là Bồ-tát
Hành Không, Vô tướng
Vô nguyện Tam-muội
Vào cửa giải thoát
An trụ Niết-bàn
Đời khứ, lai, nay
Tâm không đắm nhiễm
Mở rộng mười phương
Vô sinh, vô vi
Pháp sâu như vậy
A-nan, Văn-thù
Phương tiện thưa hỏi
Sức tuệ vô tướng
Theo nẻo Nhất thừa
Biết pháp vô tướng
Cho nên hỏi Phật
Nay nói các quả
Ba đời bình đẳng
Biết không, vô tướng
Các tiếng vắng lặng
Không Bồ đề Phật
Vô số hằng sa
Thế giới các Phật
Đến cầu Bồ-đề
Văn thù triệu tập
Nghe các Phật ấy
Việc Bồ-tát làm
Muốn nói ba thừa
Đến cõi Ta-bà
Văn thù thưa hỏi
Nhằm giải nghi hoặc
Phân biệt thừa, quả
Xin nói Bồ-đề
Dùng thần lực Phật
Cùng sức thệ nguyện
Nên nói ba thừa
Độ chúng sinh khổ
Khiến siêng tu tập
Văn-thù biện thuyết
Nói để cứu đời
Việc Bồ tát làm
Ức ngàn vị trời
Cúng dường cứu đời
Kẻ tưởng các quả
An ủi nghi ngờ
Tỳ-kheo như vậy
Và Tỳ-kheo ni
Thanh tín nam nữ
Ý tưởng tốt đẹp
Lời Văn-thù hỏi
Nhằm giải nghi hoặc
Các Bồ-tát ấy
Vì pháp nên đến.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ ấy xong, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:
–Hôm nay Như Lai vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà Chuyển pháp luân không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Đúng thế!
A-nan lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay Như Lai Chuyển pháp luân không thoái chuyển phải không?
Đức Phật dạy:
–Đúng vậy, này A-nan! Như Lai thật sự Chuyển pháp luân không thoái chuyển.
Tôn giả lại bạch Phật:
–Như Lai dùng phương tiện thế nào để nói về Tín hành, Pháp hành, tám bậc như thị? Cũng như nói về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật. Đối với bốn chúng đệ tử đang nghe pháp, Như Lai đều nêu rõ các pháp Bồ-tát chăng? Vì sao Như Lai lại nói: Vì hạng chúng sinh thấp kém nên mới xuất hiện ở cõi đời năm trược, hạng chúng sinh ấy khó lãnh hội pháp Đại thừa.
Như Lai là Bậc Tự Tại, thành tựu phương tiện, nhận thấy chúng sinh hạng có tâm nguyện lớn thì ít, mà hạng tâm niệm thấp kém thì nhiều. Do vậy, vì Thế Tôn biết rõ căn tánh của chúng sinh để mở bày Phật pháp, dùng phương tiện cứu độ, dùng vô lượng các pháp lành để giáo hóa chúng sinh, khiến họ diệt trừ các khổ, được biết sinh tử, lìa các phiền não, khiến trụ nơi Chánh đạo, chứng Niết-bàn vô vi, cho tới đạt được Nhất thiết chủng trí.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:
–Bậc Đại Bồ-tát! Vì vô lượng, vô biên chúng sinh giúp họ phát sinh tin tưởng, hiểu biết các kiến giải về Phật pháp và pháp mà vô số các Đức Phật đã chứng biết. Các pháp ấy là không sắc, cho đến không thọ, tưởng, hành, thức, không tham nhiễm, không mê đắm, nên được gọi là tín hành.
Lại nữa, này A-nan! Bậc Đại Bồ-tát tin tưởng trí tuệ Phật tâm sinh vui mừng. Thế nào là trí tuệ? Trí tuệ là đều không thấy có thật pháp, vì không thấy có thật pháp nên gọi là tín hành.
Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát không đắm nhiễm năm dục lạc, không lìa bỏ lòng tin, nên gọi là Bồ-tát tín hành. Bậc Đại Bồ-tát lại nghĩ rằng: Bố thí pháp không thể nghĩ bàn cho các chúng sinh vẫn giữ tướng như thế, tin tưởng pháp thì không thể nghĩ bàn như thế, đó gọi là Bồ-tát tín hành. Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát luôn tạo được sự hoan hỷ, có thể xả bỏ cả thân mình mà vẫn chưa cho là đủ, đối với mọi hoàn cảnh và nơi chốn đều không hề sinh ganh ghét giận dữ, các việc làm bố thí đều hồi hướng, hồi hướng mà cũng không có ý tưởng để cầu được Bồ-đề, vì không hoại diệt công đức hồi hướng ấy nên gọi là Bồ-tát tín hành.
Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát luôn giữ lòng tin thanh tịnh, chánh niệm hướng về Phật, tâm không cấu uế và cũng tin là không hề bị cấu nhiễm, xem các pháp đều bình đẳng, không có chúng sinh, thọ mạng, ta, người, không có uẩn, giới, nhập, cũng tự mình không mê đắm thọ mạng, nơi chốn, đó gọi là Tín hành giải thoát.
Các vị Đại Bồ-tát giáo hóa chúng sinh khiến họ kính tin Phật pháp, để điều phục tâm hồi hướng về Bồ-đề, cũng không chấp vào tướng của tâm. Nhận thức rõ về sáu giới, năm uẩn, mười hai nhập đều bình đẳng, đều đồng với pháp giới. Vì không phân biệt nên biết pháp giới không có tướng khác, đó là tin tất cả hành là vô thường, tất cả các hành là khổ, tất cả hành là không, tất cả hành là vô ngã. Đối với pháp ấy được năng lực trí tuệ. Tin bố thí, tin vào giới luật của Phật, không rơi vào cõi chỗ đùa bỡn, được năng lực Thiền định, tin vào cõi vắng lặng, đó gọi là Bồ-tát tín hành.
Các vị Đại Bồ-tát tuy giáo hóa chúng sinh thường tin vào sự vắng lặng nhưng không bám víu vào tướng chúng sinh, xem các chúng sinh đồng với giải thoát, khéo biết tất cả chúng sinh là vô tướng, đều đồng với pháp giới, chẳng thể nhận thức, cũng không phải chẳng nhận thức. Vì sao? Vì pháp giới tức là cõi tâm của tất cả chúng sinh, nên gọi là Đại Bồ-tát tín hành.
Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát xem tất cả chúng sinh là không thật có, không trụ, không diệt, tánh tướng vốn không. Vì vậy, chẳng hề thấy tất cả chúng sinh, cũng không thấy có nơi nương tựa, xem tất cả chúng sinh đồng giới cảnh giới Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều nhập vào “không giới”. Bồ-tát có khả năng khiến cho vô lượng chúng sinh như thế đều kính tin và hiểu rõ nên gọi là Đại Bồ-tát tín hành.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ:
Chúng sinh kính tin
Thấy vô số Phật
Không đắm sắc tướng
Đó là Tín hành.
Tin tất cả pháp
Mở bày không tướng
Thành tựu giải thoát
Đó là Tín hành.
Thường tin chánh pháp
Ưa thích cầu Phật
Lúc nào sẽ đạt
Trí không nghĩ bàn
Xét rõ năm dục
Thật không đáng tin,
Được năng lực tin
Đó là Tín hành.
Niềm tin như thế
Rất là tốt đẹp
Phải tu pháp thí
Cúng dường Đại Tiên.
Thí không nghĩ bàn
Nên được tín biện
Không tâm thấp kém
Đó là Tín hành.
Xả bỏ tất cả
Thân mình yêu mến
Nhưng không tưởng xả
Đó là Tín hành.
Bố thí tất cả
Chẳng hề ganh ghét
Lìa tưởng Bồ-đề
Đó là Tín hành.
Tín tâm thanh tịnh
Dứt tất cả nhơ
Cũng không tuổi thọ
Đó là Tín hành.
Tuy tu hạnh thí
Chẳng cầu quả báo
Được sức tin sâu
Đó là Tín hành.
Xả bỏ sáu nhập
Chẳng nghĩ quả báo
Khéo hiểu sáu giới
Đó là Tín hành.
Tự điều phục mình
Và điều phục người
Khiến tin Phật pháp
Đó là Tín hành.
Được niềm tin rồi
Hồi hướng Bồ-đề
Dứt những tướng tâm
Đó là Tín hành.
Biết rõ sáu giới
Đều đồng pháp giới
Tuy nói pháp giới
Chẳng đạt tướng giới.
Các hành vô thường
Khổ, không, vô ngã
Cũng không mê đắm
Đó là Tín hành.
Kính tin giới Thánh
Dứt mọi đùa bỡn
Thành tựu thiền định
Đó là Tín hành.
Tin các chúng sinh
Cùng tướng vắng lặng
Biết vô tướng rồi
Đó là Tín hành.
Chẳng đắm chúng sinh
Cùng nhập pháp giới
Cõi chúng sinh này
Không thể nghĩ bàn
Dùng tín sinh tín
Đó gọi là tín
Bồ-tát vô úy
Đó là Tín hành.
Chúng sinh quyết định
Dứt hết các tưởng
Thể tánh như không
Không chỗ, không chứng
Chúng sinh, Niết-bàn
Cả hai đều không
Nương đó tín sinh
Đó là Tín hành.
Bồ-tát không sợ
Tin các chúng sinh
Không bám tên chữ
Từ tin mà sinh
Tin được như vậy
Thường nhớ chẳng mất
A-nan nhớ ghi
Phân biệt chỉ rõ.
Các pháp như thế
Vô lượng, vô số
Phật đã chứng ngộ
Bồ-tát hiển bày.
Lại nữa, này A-nan! Như Lai Đa-đà A-già-độ đầy đủ tín lực mới có thể giảng nói ý nghĩa sâu mầu như thế. Cho nên gọi là Đại Bồ-tát Tín hành.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy chúng sinh tín lực đã được vững chắc, nên lại nói bài tụng:
Tất cả người nghe
Tâm đều vui mừng
Các Phật tử này
Nói về công đức,
Bồ-tát hiện rõ
Chẳng thể nghĩa bàn
Bồ-đề các Phật
Người chẳng tín tin
Chẳng nhiễm giả danh
Cũng không tâm sở
Chẳng đắm mười phương
Gọi Tín tối thắng.
Bồ-tát bày nói
Thường tu pháp tin
Chẳng chấp vào không
Nêu bày vắng lặng
Cứu đời nên nói
Giải thoát như vậy
Sắc tướng cũng thế
Như thuyết tu hành.
Bồ-tát bày nói
Người trí kính tin
Phật chẳng thể bàn
Vô lượng nhớ nghĩ
Điều Bồ-tát tin
Hư không vô biên
Trí Phật vô lượng
Hiệu là Trượng phu.
Chí cầu không đắm
Chẳng vì tham dục
Tạo tác chẳng lành
Mà bỏ pháp vui
Đó gọi Bồ-tát
Thực hành pháp thí
Tín của Bồ-tát
Thiện Thệ ấn chứng.
Pháp thí chẳng nghĩ bàn
Tín bố thí uống ăn
Ma-ni, vàng, voi, ngựa
Tất cả xe, nô tỳ
Vợ con các nam nữ
Xả thí luôn cõi nước
Tay, chân, các bộ phận
Đầu mắt và não tủy
Mắt tai và mũi miệng
Thắng tín của Bồ-tát
Xả thân không đắm nhiễm
Hành thí cũng không nghĩ
Ta vốn tu Pháp thí
Mong đạt trí tuệ Phật
Xả thân không đắm nhiễm
Tất cả thí vui mừng
Luôn gần gũi bạn lành
Xả bỏ thân mỏng manh
Đối với các chúng sinh
Tín tâm thường thanh tịnh
Nghe pháp, tin các Phật
Đó gọi là Bồ-tát
Biết mắt, tai, mũi, miệng
Các căn đều vô thường
Mỏng manh như bọt nổi
Tín sâu nên bỏ thân
Vì chúng sinh không nương
Lập ra bốn Nhiếp pháp
Tâm Từ với tất cả
Tin Phật vô lượng trí
Thấy chúng sinh làm ác
Nên phát tâm vô thượng.
Kính tín sâu Bồ-đề
Không chấp các tướng tâm
Chúng sinh chẳng cầu đạo
Ngu mê trong ba cõi
Nếu tất cả chân thật
Vô giới nói tướng giới
Thấy chúng sinh trôi lăn
Ngu si đắm các cảnh
Bồ-tát tin vô ngã
Các hành đều vô thường
Thấy những kẻ phá giới
Tin giới chẳng nghĩ bàn
Giới tịnh lập thiền định
Bồ-tát nương nhiếp tâm
Nếu thấy kẻ biếng nhác
Cầu Phật sức tinh tấn
Các chánh định điều phục
Trí thâu tóm chánh pháp
Ngu si đắm tuổi thọ
Xem ấm vốn là không
Tánh chúng sinh vắng lặng
Tướng các pháp cũng vậy
Tin ấm không đi đến
Nghiệp thiện, ác chẳng dứt
Do nghiệp tịnh, bất tịnh
Chẳng xa lìa sinh tử
Chúng sinh, đồng pháp giới
Pháp giới tức sinh tử
Đó gọi chẳng nghĩ bàn.
Tin Bồ-tát không sợ
Thắng tín chẳng nghĩ bàn
Tinh tấn tu pháp trí
Không vì kẻ thiếu trí
Nên vì tịnh tín nói
Cùng tin các chúng sinh
Thường trụ không thật có
Đối không, chẳng mê đắm
Tất cả pháp chẳng trụ
Chúng sinh không cũng không
Đồng như cõi Niết-bàn
Nói pháp thường vô tướng
Khiến chúng sinh tin, hiểu
Tất cả pháp tánh không
Quán chúng sinh bình đẳng
Thắng trí trong ba cõi
Được tín, trì như thế
Cũng gọi tín trên hết
Ưa thích pháp không sợ
Người trí trong Phật pháp
Tự tin, khuyên người tin
Xoay vần dạy như thế
Nuôi lớn các công đức
Tâm tịnh không đắm nhiễm
Ruộng phước thêm lợi ích
Vui mừng điều phục Thí
Tịnh giới và Nhẫn nhục
Tinh tấn, Thiền định thảy
Dùng Trí tuệ dẫn đường
Phương tiện bày tịnh trí
Khiến chúng được an vui.
Khi chết lìa nẻo ác
Trí Bồ-tát trên hết
Thần thông độ muôn loài
Thế giới rung sáu cách
Ánh sáng đều chiếu khắp
Trí mầu của Bồ-tát
Vô tướng, sư tử rống
Khắp Đông, Tây, Nam, Bắc
Bốn góc và dưới, trên
Đều nói ra Pháp âm
Thề không nghi ngờ Phật
Dạy người cũng không nghi
Do nhân duyên như thế
Hiển bày vô lượng tướng
Người trụ trong trí ấy
Chỉ Phật chứng biết được.
Này A-nan! Đó là Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác đã vì các vị Bồ-tát mà dùng phương tiện như thế để giảng nói về Tín hành.
A-nan thưa:
–Vì sao Như Lai lại vì các Bồ-tát mà nói về pháp hành?
Phật bảo A-nan:
–Nay ông nên biết! Các vị Đại Bồ-tát không trụ trong Phật pháp nhưng có khả năng hiển bày không lìa pháp giới, rốt ráo không nghĩ bàn giới; thọ trì các pháp tâm không thấp hèn, tuy giảng nói các pháp nhưng đối với tướng các pháp không hề chấp đắm, vô niệm vô trụ; thâu tóm các pháp, đúng với thật tướng thật tánh của chúng, không chấp các pháp, không lìa bỏ phi pháp, không ưa thích các pháp mà cũng chẳng phải không ưa thích các pháp. Các Đại Bồ-tát tuy được như vậy nhưng đã lìa tướng các pháp, nhờ khéo điều phục, nên tâm thường an vui, khéo nói các pháp không hề bị nhiễu loạn, đối với tướng các pháp không lìa bỏ thân mà cũng không trụ thân, mé trước của thân này đồng với pháp giới, như hư không chẳng đi chẳng đến, đồng với mé chân, như như tướng. Đó là chỗ Phật nói về việc Bồ-tát đã chứng đạt các pháp thanh tịnh, dứt tất cả cấu nhiễm, quán tất cả pháp không, không thể nhìn thấy, chẳng thể nắm bắt. Vì sao? Vì các pháp là không, đã lìa bỏ, không mê đắm cho nên không thấy các pháp. Không thể nắm bắt, không có tranh chấp. Hiển bày pháp giới vô ngôn, vô thuyết. Thể tánh vốn không, chỗ tâm vọng động đều vắng lặng. Tâm này không thật có cũng chẳng thể nghĩ bàn, chỉ lộ rõ tánh chất vắng lặng, không duyên theo cảnh giới, giữ gìn các pháp, không hề nương tựa. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều vô thể vô tướng. Pháp Bồ-tát này là nhất tướng, vô tướng, không thể khen ngợi, không sợ nói pháp. Nếu nói pháp tướng, danh tự, tất cả chương cú cho người nghe thì bản thân mình đã tự chứng, đầy đủ pháp ấy gọi là chủng tánh Đại Bồ-tát. Đạt được thể tánh ấy rồi thì đối với các pháp không còn có đến, có đi, không còn nắm bắt hay lìa bỏ, giữ gìn tất cả pháp nhưng bất động, bất hoại, vì bất hoại nên gọi là pháp hành, vì thành tựu pháp nên luôn thấy tất cả các pháp là vô tướng, vì được pháp lợi nên cũng gọi là pháp hành.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Pháp không thoái chuyển
Các Phật cũng vậy
Nếu giữ gìn được
Đó là Pháp hành.
Nêu rõ Phật pháp
Không hình, không tướng
Rất sâu, không nhiễm
Đó là Pháp hành.
Chẳng lìa các cõi
Không thể nghĩ bàn
Hội nhập pháp giới
Đó là Pháp hành.
Giữ gìn các pháp
Như Phật hiển bày
Tâm không vết nhơ
Đó là Pháp hành.
Pháp không thoái chuyển
Tên là Vô tướng
Dứt mọi bám vướng
Không còn mê đắm
Đó gọi Pháp hành.
Không chấp, không trụ
Thọ trì pháp trí
Người trì như thế
Đó là Pháp hành.
Tâm thường yêu thích
Cầu pháp không chán
Xa lìa biếng nhác
Đó gọi Pháp hành.
Nghe pháp thọ trì
Vô lậu, chẳng nương
Khéo trụ an vui
Đó gọi Pháp hành.
Nếu người nói pháp
Chẳng nghĩ, chẳng đắm
Thọ trì vô tướng
Đó gọi Pháp hành.
Thân khéo an trụ
Trụ nơi không chốn
Là thân, chẳng thân
Là biết thân tướng.
Không mé trước sau
Đồng với Pháp tánh
Không đến, không đi
Là biết thân tướng.
Cũng như các Phật
Thị hiện Bồ-tát
Được pháp ấy rồi
Đó là Pháp hành.
Tánh, tướng cõi không
Tất cả không đắm
Giữ gìn như vậy
Đó gọi Pháp hành.
Lại đối các pháp
Không, vô sở kiến
Nếu vô sở kiến
Thì không chướng ngại.
Hiển bày vô tướng
Dứt các hý luận
Không lời, không nói
Cũng không thật có
Lìa các tướng tâm
Nên không thật có
Nếu tâm vô đắc
Thì chẳng nghĩ bàn
Không đến, không đi
Không chẳng hiển bày.
Không duyên, không nói
Gọi chẳng nghĩ bàn.
Nếu trì pháp này
Không thể nương tựa
Là không thật có
Gọi là giữ pháp.
Pháp như thế ấy
Do Bồ-tát nói
Không hợp, không tan
Hiển bày vô tác.
Gọi là Hành xứ.
Là nơi chủng tánh
Được lợi như thế
Gọi là Hành xứ.
Theo chủng tánh ấy
Không thể chê trách
Được cõi như thế
Đó gọi giữ pháp.
Thấy pháp không giảm
Tuy đi không đi
Đến mà chẳng đến
Chẳng thấy có pháp.
Hoặc đến, hoặc đi
Các pháp cũng vậy
Giữ pháp như thế
Cũng không dao động.
Chẳng thêm, chẳng bớt
Là pháp vô tác
Nếu không thêm, bớt
Đó gọi giữ pháp.
Tướng pháp như như
Không duyên, không nói
Người được pháp này
Gọi là giữ pháp.
Vì vậy, A-nan!
Bồ-tát hiển bày
Được lợi pháp sâu
Đó là giữ pháp.
Vì vậy, A-nan!
Hiển bày giữ pháp
Vì kẻ chẳng tin
Mà nói pháp ấy.
Phân biệt như thế
Nói cho Bồ-tát
Đều dùng phương tiện
Mở bày Phật pháp.
Như thế đấy, A-nan! Như Lai Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát mà dùng phương tiện để nêu rõ việc giữ pháp.
Phật bảo A-nan:
–Do đâu mà Như Lai vì các Đại Bồ-tát nói về tám pháp Chánh đạo? Là vì các vị Đại Bồ-tát đã lìa bỏ tám con đường tà để hướng đến tám con đường giải thoát, vượt khỏi đời sống phàm phu, tu tập tám Chánh đạo nhưng không thấy nơi chốn mình đạt tới, xa lìa hai bên thường đoạn, an trụ trong Trung đạo, vượt thế giới phàm tục, an trụ trong Bồ-đề, cũng không trụ trong tướng Bồ-đề, lìa bỏ các tà kiến, tu tập chánh kiến, không bám vào thân tướng, cũng không trụ trong tướng Bồđề. Thân Phật là vô vi, lìa những khái niệm tính toán, tu theo tướng Phật tức là đạt được diệu lý Nhất tướng vô tướng đối với chúng sinh, ra khỏi ấm giới sinh tử của chúng sinh, an trụ trong ngôi nhà vô vi rốt ráo không, thấy tất cả pháp là vô sinh vô trụ. Vì sao? Vì thể tánh và tướng trạng của các pháp đều là vô trụ.
Đại Bồ-tát xa lìa thế gian và xuất thế gian, an trụ trong chốn vắng lặng, không nhiễm thế gian, cũng không mê đắm con đường xuất thế gian. Đối với pháp, phi pháp, hữu vi, vô vi đều xa lìa, xả bỏ hai bên thường và đoạn, trụ trong tướng bình đẳng, biết tâm sở quá khứ, vị lai, hiện tại, không có tướng khác, cũng không được tướng của tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả tâm đều bình đẳng. Thân tướng cũng thế. Vì thế mà không hề bị các thứ lửa dữ, đao tên làm tổn hại thân mạng. Vì sao? Vì đã lìa tất cả phiền não độc hại, thường được sinh vào các cõi thanh tịnh, xa các đường ác, tuy sống trong các đường mà vẫn chứng đạo Bồ-đề, thường sống trong an ổn, cũng không nương tựa. Vì ý nghĩa như thế nên tất cả các thứ đao binh không thể hại được. Vì sao? Vì thấy Bồ-đề vắng lặng là không, vô trụ xứ, vì vô trụ xứ nên tất cả tên độc đều không hại được. Đó gọi là không bị trói buộc.
Bậc Đại Bồ-tát đi trên cỗ xe nhanh nhất mà không chấp vào cỗ xe ấy, đó gọi là không bị trói buộc. Vì sao? Vì không thật có, do đó mà đao tên không hại được thân. Rõ các pháp là không, chẳng thật có cho nên tất cả thứ độc hại đều không thể xâm hại. Vì sao? Vì hành tâm Từ rộng khắp che phủ tất cả. Thực hành tâm Từ Bồ-đề thấy các chúng sinh là không thật có; thực hành tâm Từ theo lý không thấy các pháp vắng lặng; thực hành tâm Từ không nóng bức xa lìa các phiền não; thực hành tâm Từ bi như vậy có công năng làm cho đao binh đều không hại thân được.
Đại Bồ-tát xem ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc đều bình đẳng, biết tất cả các cõi, tất cả pháp tánh đồng với Bồ-đề, bình đẳng không có khác nhau. Các vị Đại Bồ-tát tâm không suy nghĩ như thế, cũng không đùa bỡn, vắng lặng thanh tịnh. Bậc Đại Bồtát biết tất cả pháp như âm vang tiếng gọi, lìa tất cả tướng, đồng với pháp giới, không nơi hướng tới mà cũng không chốn quay về, khéo hiểu các thứ âm thanh lời nói, không nêu bày, không nói năng, lìa tướng âm thanh, chẳng tự đề cao mình, lìa bỏ ngã tưởng, vượt qua tất cả lời nói, âm thanh mà cũng không chấp vào tướng vượt qua ấy. Cho nên biết tất cả các pháp đều vắng lặng, tất cả pháp tướng cũng không thật có, tâm không có chốn để quay về vì đã vượt qua các pháp. Đối với mọi ngôn ngữ, âm thanh cũng không bị đắm nhiễm.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Lìa tám đường tà
Tu tám nẻo chánh
Chín thứ, tám giải
Đó là tám bậc.
Vượt khỏi phàm phu
Chẳng trụ Bồ-đề
Bậc Hùng trong pháp
Đó là tám bậc.
Vượt khỏi phàm phu
Không trụ Bồ-đề
Lìa tướng Bồ-đề
Đó là tám bậc.
Bỏ các tà kiến
Tu hành chánh kiến
Đạt được đạo rồi
Đó là tám bậc.
Vượt các thân tướng
Chẳng trụ Bồ-đề
Lìa chứng thân Phật
Đó là tám bậc.
Lìa tưởng chúng sinh
Thường tu tưởng Phật
Bỏ tưởng thiền định
Đó là tám bậc.
Lìa hạng chúng sinh
Vào thành Niết-bàn
Không chấp các pháp
Đó là tám bậc.
Ra khỏi thế gian
Mở bày đạo Thánh
Về cõi tịch diệt
Đó là tám bậc.
Lìa các thế gian
Nêu tướng Phật pháp
Tâm không sở chứng
Không có bờ hữu
Đó là tám bậc.
Cũng không cõi vô
Xa lìa hữu vô
Đó là tám bậc.
Vắng lặng vô vi
Bỏ cả đoạn thường
Vào sâu bình đẳng
Đó là tám bậc.
Tâm rời quá khứ
Luôn cả vị lai
Hiện tại cũng thế
Đó là tám bậc.
Nói có sơ tâm
Cầu nẻo Bồ-đề
Tướng tâm vốn không
Gì gọi Bồ-đề?
Không đến, không đi
Cũng không Bồ-đề
Độc, lửa, đao, tên
Không thể hại được,
Dứt hẳn các đường
Lìa hẳn nương tựa
Không đến, không đi
Nên không hại được,
Không hướng Bồ-đề
Bày nói âm thanh
Tự chứng như thật
Chẳng do người dạy,
Không được đường ấy
Và chẳng phải đường
Tiếng niệm, niệm dứt
Đại thừa mau bày,
Thường nói an ổn
Pháp không bậc nhất
Nên mau chứng được
Đó là không buộc.
Mau nương pháp này
Bồ-tát giảng nói
Tâm không lìa bỏ
Đó là không buộc.
Đao, binh, nẻo ác
Không bức hại được
Thân không sợ gì
Độc chẳng hại được.
Bồ-tát hành Từ
Cùng khắp tất cả
Lìa bỏ tranh chấp
Đó là không buộc.
Không chấp thân tướng
Khéo nhận rõ thân
Đến đạo giác ngộ
Từ bỏ nẻo ác,
Dứt bỏ ngu si
Thần thông tự tại
Được Bồ-đề sáng
Đó là tám bậc.
Biết cõi Dục, Sắc
Và cõi Vô sắc
Ba cõi đồng tướng
Đó là tám bậc.
Các cõi bình đẳng
Lìa não, Bồ-đề
Vọng tưởng không trí
Chẳng nhiễm ô được,
Lìa tất cả tướng
Không có chê bai
Nếu có nói năng
Đều hướng pháp giới
Nói không chỗ hướng
Đồng với pháp giới
Tâm trụ pháp Nhẫn
Đó là tám bậc.
Nếu muốn tu hành
Trụ pháp vắng lặng
Chẳng tự đề cao
Chỉ nói cho người,
Vượt tướng âm thanh
Khỏi tướng âm thanh
Chẳng đắm âm thanh
Đó là tám bậc.
Nhờ thanh giải thoát
Biết pháp vô tướng
Cũng không ở đâu
Không hướng, không rời.
A-nan nên biết!
Tám bậc như thế
Đã nêu bày đủ
Ở trong các thuyết
Là bậc thứ nhất.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:
–Nay ông nên biết! Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các Đại Bồ-tát nên dùng phương tiện để nói bày về tám bậc như vậy.
Tôn giả A-nan thưa:
–Do đâu mà Như Lai Thế Tôn giảng nói về quả Tu-đà-hoàn cho các vị Đại Bồ-tát nghe như thế.
Đức Phật dạy:
–Tu-đà-hoàn nghĩ là được vào dòng Thánh, gọi là Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn. Nếu các vị Đại Bồ-tát có thể tu tập như vậy, không thấy đạo cùng nơi chốn mình tu tập đạo ấy, vượt qua tất cả hình tướng, thông tỏ Phật pháp là phi sắc, phi sinh, đối với tất cả pháp không mê đắm, tất cả pháp không nơi chốn, tất cả pháp không nhân duyên, tất cả pháp vô trụ, tất cả pháp không thật có, tất cả pháp không thành tựu.
Nếu bậc Đại Bồ-tát đến được đạo ấy thì tinh tấn vững chắc, thế lực vững chắc, trí tuệ vững chắc, không sinh biếng nhác, an trụ vắng lặng, nương đạo Như Lai, cứu giúp chúng sinh, không gì hơn được.
Bậc Đại Bồ-tát không chấp đạo ấy, cũng không trụ đạo ấy, tu đạo như thế mong đạt được tất cả các pháp, nhưng không thấy có chỗ mình đạt được, không chìm đắm cũng không dao động: không có ý tưởng về trụ, không có ý tưởng về đạo, không có ý tưởng về thế gian, không có ý tưởng về Phật, xem tất cả đều bình đẳng, không hề có những sự ngăn che, trí tuệ quán chiếu các cảnh giới không trở ngại.
Bậc Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp và các tà kiến đều an trụ trong tướng bình đẳng, khai mở tri kiến Phật, bày các pháp môn sâu rộng, phân biệt thân kiến, vượt khỏi vọng tưởng chấp ngã, đó gọi là Tu-đà-hoàn.
Đại Bồ-tát không chấp vào Phật đạo, rốt ráo vô ngại: ưa thích mong cầu Phật đạo nhưng không đắm giới luật, thế gian cũng không chấp vào giới luật của Phật, chẳng phải giới chấp là giới, không chấp tướng giới. Ba hoặc đã dứt, không vướng vào ba cõi, học hỏi theo lời Phật dạy, tu hành Thánh đạo, lìa tất cả tưởng, không chấp các duyên, không các chướng ngại, nhập vào Phật đạo, tâm được vắng lặng, không mê đắm sự sống, về ta, người… các căn thanh tịnh, xa lìa phiền não.
Bậc Đại Bồ-tát tu đạo Bồ-đề thực hành bố thí, xả bỏ tất cả, giúp chúng sinh khổ, vượt qua bốn dòng, đạt đến Niết-bàn, dứt hết các tưởng, hiển bày Vô tướng. Nếu thấy bốn chúng tâm không sinh sợ sệt, chí cầu vắng lặng, an trụ nơi đạo Bồ-đề thanh tịnh, đã lìa sợ hãi, thì không sợ sinh tử. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hiện chứng được vắng lặng, lìa các phiền não cấu uế, khéo đứng vững trong Phật đạo, biết đường đến đi, cũng không còn đến đi, khéo nhận rõ những vọng tưởng của chúng sinh, tâm không đùa bỡn, rốt ráo Phật đạo. Đó gọi là tướng Tu-đà-hoàn của Đại Bồ-tát.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Nói về bốn đường
Phật khó nghĩ bàn
Nếu có người trụ
Bồ-đề không lui,
Giống như hư không
Không chốn nương tựa
Không trụ không duyên
Lìa các chấp đắm.
Đó gọi là đạo
Ý được vững chắc
Đi đúng nẻo ấy
Cứu đời hơn hết.
Không chấp kia đây
Chẳng ở giữa dòng
Chẳng đắm Phật đạo
Là Tu-đà-hoàn,
Tất cả thế gian
Cùng pháp Phật khác
Rốt ráo bờ kia
Là Tu-đà-hoàn.
Dứt những ngăn che
Nêu bày Phật đạo
Dứt tất cả tướng
Gọi Tu-đà-hoàn.
Chẳng đề cao mình
Làm thạnh Phật pháp
Mở bày tri kiến
Vào trí tuệ Phật.
Trước khởi tưởng ngã
Các ác điên đảo
Biết như thế rồi
Không đắm Phật đạo.
Vốn nghi ngờ Phật
Là được, không được
Rốt ráo không đắm
Chẳng chấp tưởng đạo.
Chẳng khởi chấp giới
Khéo trụ giới Phật
Thường tu Chánh cần
Chẳng chấp tưởng giới.
Dứt bỏ ba kết
Không đắm ba cõi
Thực hành Phật đạo
Biết tưởng chúng sinh.
Tuy tu Bồ-đề
Nhưng không chấp tưởng
Tâm hành vắng lặng
Phật đạo thanh tịnh.
Vui vẻ bố thí
Xa lìa ưu sầu
Trụ trong chánh mạng
Tâm không đùa bỡn
Xả bỏ tất cả
Giúp chúng sinh khổ
Đạt thí Vô thượng
Gọi Tu-đà-hoàn.
Dứt bao nhiêu kiếp
Không tướng, không chấp
Lìa xa sợ hãi
Nỗi sợ thế gian.
Pháp và phi pháp
Tất cả đều xả
Chẳng đắm các ấm
Bậc sáng ở đời.
Ở trong bốn chúng
Không hề sợ sệt
Hiển bày vắng lặng
Tịnh tu Phật pháp.
Không tưởng chúng sinh
Cũng chẳng thật tưởng
Đó gọi không nhiễm
Nhận rõ lo sợ
Lìa tất cả sợ
Cũng không sợ chết
An trụ vắng lặng
Lìa cấu, an ổn.
Đã qua nẻo ác
Do đó chẳng sợ
Khéo nói các đạo
Vô lậu, vô tướng.
Pháp của Bồ-tát
Bày Tu-đà-hoàn
Vì hạng thấp kém
Nên nói lời ấy.
Dùng phương tiện khéo
Hiển bày Phật pháp
Vì người buông lung
Nên bày pháp này
Thế Tôn cứu đời
Tìm nhiều cách nói
Mà nêu Phật đạo.
A-nan nên biết!
Là Tu-đà-hoàn
Vì kẻ trí nhỏ
Nói việc như vậy.
Chẳng hiểu phương tiện
Ngu si hẹp hòi
Chẳng thấu pháp sâu
Mà sinh tranh luận.
Dùng trăm ngàn pháp
Bày Tu-đà-hoàn
Bậc Tu-đà-hoàn
Bày pháp Bồ-đề.
Như thế đấy A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát đã dùng phương tiện khéo để nói về Tu-đà-hoàn.
Tôn giả A-nan thưa:
–Do đâu mà Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát nói về Tư-đà-hàm?
Đức Phật nói:
–A-nan nên biết! Bậc Đại Bồ-tát thuận theo trí tuệ, trí tuệ Phật không thể nghĩ bàn, tu tập vô lượng nhân lành, nhưng không chấp vào tướng các nhân ấy, cũng như trí Bồ-đề, có khả năng dứt bỏ tất cả vọng hoặc để cầu trí tuệ Phật, khen ngợi chánh định Kim cang vượt trên tất cả các thiền định, dứt bỏ tất cả kết sử phiền não mê lầm ngăn che để hội nhập tri kiến của Phật, đạt được đầy đủ các pháp chánh quán bình đẳng mà tất cả Phật đã chỉ dạy, dùng vô lượng nhân để cầu Vô sở đắc, như pháp Phật đã chứng đắc; bất động đối với chúng sinh, cũng bất động đối với thế giới chúng sinh mà chấp vào pháp giới. Vô lượng chúng sinh trải qua nhiều kiếp thường chịu thiếu kém, không có khả năng thành tựu đạo Bồ-đề, dắt dẫn các chúng sinh đến chỗ không còn thoái chuyển.
Đại Bồ-tát chí cầu thành Phật, Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền định, Giải thoát gọi là Vô sắc định, nghĩ: “Nay ta sẽ đem các pháp như thế mở bày cho chúng sinh, khiến họ được thông tỏ và cầu Phật đạo, muốn ngồi đạo tràng, mong đạt trí tuệ như thật, mắt Phật thông đạt, là loại mắt không thể nghĩ bàn.”
Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh nên mong cầu mắt Phật, trí tuệ như vậy là cao tột hơn hết, thấu tỏ tướng sâu xa của các pháp, đối với trí tuệ của mình không hề phân biệt. Đại Bồ-tát giúp chúng sinh đứng vững trong Phật pháp, giúp họ hiểu rõ tất cả pháp không dừng trụ, vì muốn đạt được pháp ấy nên đến nhóm họp để nghe Phật nói pháp. Đó gọi là Tư-đà-hàm.
Những người đến nhóm họp thấy thế giới chúng sinh và cảnh giới không thể nghĩ bàn một cách thông suốt không trở ngại nên không chấp vào cảnh giới, cũng không đắc, không đến. Nhưng làm sao để chúng sinh thành tựu mà không thấy chúng thành tựu sinh? Đối với tất cả pháp và thế giới chúng sinh chẳng thấy, cũng chẳng phải chẳng thấy, nhờ vậy mà thấu rõ về chúng sinh, thông đạt pháp giới, rõ biết pháp giới, đồng với Bồ-đề hiểu rõ pháp giới và thế giới chúng sinh giới, vô lượng Phật đạo, không đắc không phân biệt, đồng với đạo trí, gần với Vô đẳng trí, lìa tất cả cấu nhiễm được thanh tịnh, đắc Vô sở đắc chứng Vô sở chứng, đó là trí tuệ chân thật. Đại Bồ-tát mong cầu trí tuệ như thế gọi là Tư-đà-hàm.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Người thuận theo trí này
Gọi là không nghĩ bàn
Vì cầu trí tuệ Phật
Nên gọi Tư-đà-hàm.
Vô lượng nhân duyên nói
Thành tựu đạo Bồ-đề
Nhờ tu hành pháp này
Ta thường qua lại tìm.
Tướng chánh định bất động
Dứt bỏ kiết phiền não
Nên chuyên tâm tu tập
Thành tựu không thoái chuyển.
Cũng biết pháp, phi pháp
Tướng thông đạt vô ngại
Trụ mé thật các pháp
Tu hạnh Tư-đà-hàm
Thuận theo lời Phật dạy
Như nghe pháp tu hành
Vì đạt được pháp ấy
Ta thường qua lại tìm
Pháp giới chưa từng có
Các chúng sinh chẳng động
Đó là Tư-đà-hàm
Không có việc đến, đi
Chúng sinh không trí tuệ
Ngu si chịu khổ não
Vì muốn đưa đến đạo
Mà cầu trí tuệ Phật
Các Căn, Lực, Giác, Đạo
Thiền định và Giải thoát
Siêng tu pháp Chánh định
Mà cầu trí tuệ Phật
Rốt ráo đạo Bồ-đề
Việc làm của các Phật
Đó là Tư-đà-hàm.
Khởi hạnh thường mong cầu
Đạt được pháp như thế
Mắt Phật khó nghĩ bàn
Đó là Tư-đà-hàm.
Thường cầu được mắt Phật
Nên cầu được như Phật
Làm chỗ giúp, nương tựa
Điều ta nay mong cầu
Chính là Nhất thiết trí
Chỗ biết của trí ấy
Tướng các pháp chân thật
Tâm thường không đắm nhiễm
Thường cầu pháp như vậy
Lợi lạc các chúng sinh
Nhất thiết trí trên hết
Đó gọi Tư-đà-hàm.
Chỗ mong cầu qua lại
Quán kỹ về pháp giới
Chúng sinh không nghĩ bàn
Đó gọi Tư-đà-hàm.
Vì cầu cõi chúng sinh
Biết cõi chúng sinh rồi
Không mê đắm chúng sinh
Đó gọi Tư-đà-hàm.
Mà đạt Vô sở đắc
Nên chúng sinh chẳng đạt
Tất cả pháp vô tướng
Tạo được nhận thức ấy
Biết rõ được như thế
Dẫn dắt các chúng sinh
Tuy quán tất cả pháp
Chẳng thấy tướng quán sát
Giữ tâm không loạn động
Mà cầu các pháp Phật
Trí thanh tịnh như thế
Xa lìa tất cả cấu
Không được tướng trí ấy
Đó gọi là cầu đạo
Mở bày các chúng sinh
Điều Bồ-tát không chê
Đó gọi trí rốt ráo
Mong được trí nên đến.
A-nan phải nên biết
Vì nói Tư-đà-hàm
Các chúng sinh trí kém
Vọng chấp tướng phải quấy.
A-nan ông nên biết
Vì nói Tư-đà-hàm
Giúp chúng sinh tinh tấn
Khiến họ hiểu như vậy.
Luôn khéo tu học rộng
Quyết định pháp sâu xa
Tỏ ngộ nghĩa chân thật
Chóng thành đạo Bồ-đề.
Này A-nan! Đó gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì Đại Bồ-tát nên dùng phương tiện nói về Tư-đà-hàm.
Tôn giả A-nan thưa:
–Vì sao gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các Đại Bồ-tát nói về A-na-hàm?
Phật bảo A-nan:
–Các vị Đại Bồ-tát đều ra khỏi tất cả tướng thế gian, rốt ráo hạnh Phật, tâm không hành xứ, tuy biết có đến đi, nhưng thường không chấp vào tướng đến đi, biết tất cả pháp không nương tựa, không an trụ. Vì sao? Vì chẳng thấy các pháp có đi không đi. Đại Bồ-tát vượt khỏi phàm phu, dứt ý tưởng phàm phu, không đắm mê Phật tưởng, đạt được pháp vô trụ. Vì sao? Vì rốt ráo tất cả pháp giới vắng lặng, cũng không thấy sự khác nhau giữa Phật và phàm phu. Xa lìa đường ác, dứt bỏ tham dục, không đắm các vị, xa lìa bốn thứ thực.
Đại Bồ-tát luôn chú tâm đến việc mở bày tri kiến Phật cho chúng sinh, không chấp tất cả sáu mươi hai thứ kiến chấp, không đắm vô tướng, tất cả lìa hữu, vô, đối với các thứ ngăn che đều xem là tướng của Niết-bàn, không lưu chuyển cũng chẳng không lưu chuyển, dứt bỏ những cấu uế của các đường ác, hàng phục các ma, xa lìa ngu si, nhổ sạch ba mũi tên vô minh, và những hạt giống vô minh, giết giặc vô minh, quán chiếu dứt bỏ tham lam giận dữ, dứt bỏ các kết sử, mở bày cho chúng sinh trong ba cõi.
Đại Bồ-tát nhổ mũi tên ái dục, dứt bỏ các kiêu mạn, hiểu rõ tướng các ấm, đạt đến rốt ráo là cõi giác ngộ trong sáng, thường ưa thích Phật thừa, là thừa không thể nghĩ bàn, đạt đến thật tướng của tất cả các pháp. Nếu các vị Đại Bồ-tát ra khỏi được vũng bùn sinh tử như thế, lìa tất cả trói buộc tham đắm, được kho báu bản nguyện, cũng được kho báu của các Đức Phật quá khứ, vị lai, đều nằm trong tất cả kho báu, cũng là chỗ xây dựng của các Phật quá khứ. Tâm luôn bình đẳng, không phân biệt cao thấp. Đạt được thừa như vậy, đối với các chúng sinh là Bậc Tối tôn Tối thắng bậc nhất không gì hơn được.
Đại Bồ-tát luôn nhằm đạt đến Phật thừa rốt ráo, đối với tất cả các pháp đều đạt đến diệu lý vô tướng. Đại Bồ-tát đối với các pháp dứt trừ được lưới nghi, chứng quả Bất hoàn.
Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát thường dùng bốn thệ nguyện lớn để che chở, giúp đỡ tất cả chúng sinh, dẫn dắt họ đến chánh pháp và đứng vững trong chánh pháp, tất cả đều đến được Phật thừa, sống trong đạo Bồ-đề. Làm thế nào ở an trụ trong Bồ-đề? Cái gọi là tướng chúng sinh, thì giác ngộ như thật, an trụ trong thế giới chúng sinh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã khéo biết, Không giới là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, lìa các vọng tưởng về chúng sinh. Vì sao? Vì cảnh giới Hiền thánh tức là cảnh giới chúng sinh, cảnh giới không thể nghĩ bàn tức là không tướng, cũng không có chúng sinh, lìa các kết sử, giống như hư không, không hình không tướng, không thật có, không nhiễm không đắm, biết tất cả chúng sinh đều bình đẳng, chẳng hiện chẳng mất, giác ngộ rốt ráo, lìa tướng chúng sinh, cũng như hư không, không có nơi chốn giác ngộ. Vì sao? Vì không có pháp nào có thể đạt được. Vô đắc như vậy chính là tướng tất cả pháp và tướng chúng sinh, điều tâm giác tỏ ngộ tức là chẳng phải tỏ ngộ. Vì sao? Vì không có pháp nào thật có. Vô đắc như thế tức là Vô chứng, cho nên gọi là A-nahàm. Tất cả chúng sinh, tất cả pháp, Phật, Pháp, Tăng… đều hiện ra các tướng như vậy, gọi là Ana-hàm.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Chẳng hề trở lại
Dứt pháp phàm phu
Bỏ hành thế gian
Gọi A-na-hàm.
Biết không đến, đi
Không trụ, không nương
Không có nơi chốn
Nên gọi Bất lai
Lìa bỏ phàm phu
Được Phật cứu giúp
Không còn trở lại
Gọi A-na-hàm.
Pháp không có đến
Cũng chẳng có đi
Chẳng đến chẳng đi
Gọi A-na-hàm.
Dứt các tham dục
Không đắm bốn thực
Chẳng rời đạo tràng
Gọi A-na-hàm.
Dứt bỏ tất cả
Sáu mươi hai kiến
Mà không chốn đi
Gọi A-na-hàm.
Lìa tất cả cõi
Tướng vô thường tâm
Tỏ ngộ như thật
Nên gọi Bất lai
Niết-bàn vắng lặng
Dứt các phiền não
Lìa tướng đến, đi
Đó là Bất lai.
Dứt các đường ác
Bỏ tất cả cấu
Chứng đắc Niết-bàn
Đó là Bất lai.
Hàng phục kẻ thù
Cùng các ma quân
Vượt các giả danh
Đó là Bất lai.
Nhổ tên vô minh
Dứt tất cả ái
Dứt mọi hỷ, dục
Đó là Bất lai.
Lìa các kết sử
Mở bày tướng ấm
Được trí quyết định
Là A-na-hàm.
Nhổ gai ưu não
Xô núi kiêu mạn
Khéo hiểu năm ấm
Gọi A-na-hàm.
Rốt ráo chiếu sáng
Trang nghiêm Phật thừa
Ra khỏi bùn dục
Gọi A-na-hàm.
Đều biết kho kín
Trên các kho kín
Chỗ Phật đặt để
Gọi là Bất lai.
An trụ Tối thắng
Phật thừa Vô thượng
Dứt bỏ các kết
Gọi A-na-hàm.
Dùng bốn nguyện rộng
Tạo dựng Bồ-đề
Trụ Bồ-đề rồi
Nên gọi Bất lai.
Biết các cõi không
Rất khó nghĩ bàn
Dứt bỏ các tưởng
Nên gọi Bất lai.
Đối với chúng sinh
Và tướng pháp giới
Đều không thật có
Nên gọi Bất lai.
Tâm không chấp đắm
Chẳng chạy theo tướng
An trụ Bồ-đề
Gọi A-na-hàm.
Cõi chúng sinh không
Chẳng thể nghĩ bàn
Biết pháp như vậy
Nên gọi Bất lai.
Như thế A-nan
Hiển bày Na-hàm
Các tướng vô ngại
An lập Phật pháp.
–A-nan nên biết! Như Lai Đẳng Chánh Giác đã vì các Đại Bồ-tát dùng phương tiện thích hợp để nói về A-na-hàm.
Phật bảo A-nan:
–Ta nay lại nói Đại Bồ-tát là A-la-hán. Là vì Bồ-tát đã dứt bỏ tất cả các hành, tu tập theo những điều Phật đã thực hành, lìa các pháp hữu vi, có khả năng thành thục tất cả chúng sinh, cũng dứt bỏ tất cả khổ não cho chúng sinh nên gọi là A-la-hán.
Không vướng vào tướng chúng sinh, cũng không vướng vào tướng khổ não, đó gọi là A-lahán.
Dứt các chấp đắm, an trụ vô tướng, biết các pháp không, lìa tất cả tướng, đều không thật có, trừ sạch tất cả vọng tưởng điên đảo si mê lầm lạc của chúng sinh, hiểu rõ các pháp là không, không thể nghĩ bàn, đó là A-la-hán được Bồ-đề không thể nghĩ bàn, nhờ thành tựu pháp như thế nên gọi là Ala-hán.
Như pháp mà các Đức Phật quá khứ nên nói thì tất cả các Đức Phật hiện tại, vị lai cũng nên nói như vậy. Dứt những đùa bỡn, đầy đủ thanh tịnh, giảng nói pháp Bồ-đề chân thật, đó là A-la-hán.
Khiến cho chúng sinh được an trụ trong đạo Bồ-đề, không hề chấp đắm gọi là A-la-hán.
Nên thực hành các Ba-la-mật, Từ đạt đến tâm đại Từ của Phật, cứu độ đầy đủ đối với chúng sinh, đó là tâm Từ vô tướng, cũng khiến cho tất cả chúng sinh được an lập nơi tâm Từ ấy, tu tập theo tâm Từ ấy không có sự phân biệt, chẳng chấp chúng sinh và tướng của tâm Từ, đó là A-la-hán.
Nói pháp cho tất cả chúng sinh nghe, nhưng đối với các pháp đều không có chỗ chấp đắm. Nếu được như vậy thì gọi là A-la-hán.
Nhận rõ, hiển bày căn lực, giác đạo, đối với các chúng sinh không nhiễm không đắm, gọi là A-lahán.
Khéo biết tâm hành của tất cả chúng sinh, khiến họ phát tâm Bồ-đề, nếu được như vậy gọi là A-lahán.
Giảng nói tất cả các hành pháp hữu vi mà không chấp đắm gọi là A-la-hán.
Cũng nói hạnh không chấp, hạnh không đắm cho tất cả chúng sinh khác nghe, làm được như vậy gọi là A-la-hán.
Đến được các cõi Phật mà tâm không có tướng đến được các cõi Phật, dùng trí vô tướng nhìn các pháp như Phật gọi là A-la-hán.
Nếu thành tựu đầy đủ các công đức của cõi Phật như thế cũng gọi là ruộng phước thanh tịnh bình đẳng không cấu nhiễm, chẳng thể nghĩ bàn. Đó chính là ruộng phước không hạnh, là ruộng phước không còn thoái chuyển, là ruộng phước thanh tịnh bậc nhất không còn tướng người nữ, là ruộng phước lìa hết các kết sử tham dục, là ruộng phước như các Đức Phật chứng tri dứt hết các thứ chướng ngại che phủ, là ruộng phước hàng phục các ma phiền não, là ruộng phước chế ngự tà kiến của ngoại đạo. Đó là ruộng phước của tất cả, ruộng phước trang nghiêm, ruộng phước lìa tất cả sợ hãi, ruộng phước không có tranh chấp, ruộng phước vắng lặng, ruộng phước thần thông, ruộng phước tối thắng, ruộng phước không có hang hốc, ruộng phước vô tận, ruộng phước đầy đủ những việc mà Bồ-tát thực hành, ruộng phước được sự tự tại trên hết của Phật, ruộng phước được Phật che chở, ruộng phước biến hóa, ruộng phước dùng ấn pháp này để ấn vào tâm chúng sinh giúp họ được an vui, nói năng khéo léo, ruộng phước gồm tất cả những châu báu trang nghiêm cõi Phật, quyết định Niếtbàn vắng lặng. Đối với tất cả ruộng phước mà thành tựu ruộng phước như thế, biết được tất cả các pháp là bất sinh bất diệt, gọi là A-la-hán.
Dứt các đắm nhiễm, thấy người đến tức giận mà tâm không buồn bực, đó là A-la-hán. Đối với tất cả các pháp không chấp tướng của nó, đó là Ala-hán.
Dùng tâm Bi dứt trừ những tri thức đầy phiền não để tu hành trí tuệ trên hết, chứng đắc nhanh chóng, gọi là A-la-hán. Dùng oai nghi này để xây dựng Bồ-đề, nhờ thế lực của Bồ-đề nên gọi là Ala-hán; Bồ-đề như vậy cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nghĩ bàn ấy cũng gọi là Bất động. Bất động như thế có công năng khiến cho vô số ức loài chúng sinh được an lập trong Bồ-đề, không hề chấp đắm, đều trụ trong bình đẳng, đồng với tướng hoại, tường không thật có, biết tất cả pháp đều trở về giác ngộ, trụ nơi vô trụ, đó là Ala-hán.
Đã nhận thức như thế, thì có khả năng nói pháp như thế cho chúng sinh nghe mà không đắm nhiễm; tuy có nói năng nhưng không có tướng nói; độ các chúng sinh nhưng không có ý tưởng chấp vào các chúng sinh; thân bất động đối với hai bên đoạn, thường chẳng dứt phiền não và lìa kiêu mạn; đối với tất cả pháp vô sinh, vắng lặng, vô hành, không hoại tướng sắc, không hoại tướng thọ, tưởng, hành, thức và các pháp tướng của phàm phu. Tâm được bất động để cầu giải thoát; an trụ Phật pháp, cũng chẳng phải an trụ vào quả tướng giải thoát của Tu-đà-hoàn, quả tướng giải thoát của Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Vọng kiến tất cả sinh khởi các điên đảo, chấp vào trí tuệ giải thoát của Phật; vọng kiến chấp vào tâm Bồđề giải thoát; vọng kiến tu Bồ-đề thì giải thoát; vọng kiến tu giới Bồ-đề giải thoát; vọng kiến não hại nhẫn nhục giải thoát, vọng kiến biếng nhác tinh tấn giải thoát; vọng kiến loạn tưởng thiền định giải thoát; vọng kiến ngu si trí tuệ giải thoát; vọng kiến Thanh văn phàm phu giải thoát, vọng kiến cha mẹ, vợ con, gái trai, quyến thuộc. Tất cả các giải thoát như thế, vọng kiến tham đắm các dục, vô lượng khổ não, sinh ra thân ái, sinh ra đắm nhiễm. Pháp kết sử này là nơi não hại, đối với pháp này sinh ra hai thứ tướng: Một là dứt bỏ vọng tưởng, độ thoát chúng sinh, đó là A-la-hán; hai là dứt bỏ vọng tưởng tham cầu lợi dưỡng và ý tưởng xuất gia, tại gia.
Đối với các pháp thấp hèn hay tối thắng đều bình đẳng, nhưng cũng không thấy pháp phàm phu này, đó là Phật pháp. Nhằm dứt bỏ vọng tưởng điên đảo như vậy nên nói pháp giải thoát, nếu muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh thành tựu như thế, thì đó gọi là Niết-bàn.
Chúng sinh như thế chẳng thể gọi là Niết-bàn, chúng sinh như thế sinh vào ba cõi; chúng sinh như thế không sinh vào ba cõi. Chúng sinh như thế là thực hành đạo giác ngộ; chúng sinh như thế không thực hành đạo giác ngộ. Chúng sinh như thế là hủy phá giới cấm; chúng sinh như thế vâng giữ giới cấm; chúng sinh như thế gọi là có trí tuệ; chúng sinh như thế gọi là không có trí tuệ. Nếu có chúng sinh khởi lên hai tâm và sinh vọng tưởng, vì dứt bỏ vọng tưởng cho chúng sinh như thế nên; chẳng phải ruộng phước cũng chẳng phải không phải ruộng phước. Chúng sinh như thế siêng năng tinh tấn; chúng sinh như thế là chẳng siêng năng tinh tấn. Là pháp của kẻ ngu si, là pháp của người hiểu biết, là pháp của người nữ, là pháp của người nam, là pháp của bậc Thánh, là chẳng phải pháp của bậc Thánh. Sinh khởi hai ý tưởng như vậy. Nên phải dứt bỏ hai thứ tâm vọng tưởng như thế. Bồ-tát an trụ trong Bồ-đề không lui sụt. Được thọ ký Bồ-đề cũng chẳng phải được thọ ký Bồ-đề. Được gần tòa Bồ-đề cũng chẳng phải được gần tòa Bồ-đề. Chính do hai tâm như vậy mà dấy khởi lên vọng tưởng hư dối. Bồ-tát như vậy là đạt đến Bồ-đề. Bồ-tát như vậy là chẳng đạt Bồ-đề giải thoát chân thật. Tóm lại, chấp đắm vào tất cả pháp đều là vọng tưởng. Vì thế A-nan nên biết! A-la-hán đã dứt bỏ tất cả vọng tưởng về chúng sinh, để đạt đến giải thoát nên có thể nói về pháp Vô tưởng như thế. Đó là Đại Bồ-tát A-la-hán.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Trừ tất cả hành
Lìa hành sinh tử
Ra khỏi thế gian
Gọi A-la-hán.
Dứt hết phiền não
Độ thoát tất cả
Các chúng sinh khổ
Gọi A-la-hán.
Chúng sinh chẳng đạt
Và các kết sử
Đối pháp không lợi
Gọi A-la-hán.
Dứt bỏ vọng tưởng
Trụ không vọng tưởng
Rõ các pháp Không
Là A-la-hán.
Rõ không hơn hết
Đạt được vô tướng
Dứt tất cả tướng
Là A-la-hán.
Diệt các chúng sinh
Tất cả tướng ác
Trừ tất cả tướng
Là A-la-hán.
Trừ các bờ mé
Đạt pháp vô tưởng
Tự mình chứng biết
Là A-la-hán.
Vì được Bồ-đề
Khó thể nghĩ bàn
Phát tinh tấn mạnh
Là A-la-hán.
Nếu nói các pháp
Không báng, không nhơ
An trụ Bồ-đề
Là A-la-hán.
Ruộng phước thanh tịnh
Khiến người được vui
Chúng sinh chẳng được
Là A-la-hán.
Nếu nói các pháp
Tất cả không chấp
Vô pháp, chẳng pháp
Là A-la-hán.
Căn, Lực, Giác, Đạo
Vì chúng hiển bày
Đắc quả bậc nhất
Là A-la-hán.
Khéo rõ chúng sinh
Bồ-đề thanh tịnh
Giảng nói tướng ấy
Là A-la-hán.
Lời thế gian nói
Tất cả các hành
Đối hành không chấp
Là A-la-hán.
Thế Tôn mạnh mẽ
Ruộng phước khó lường
Tùy trú xứ Phật
Giảng nói người nghe,
Nếu muốn thấy Phật
Không thấy, chẳng thấy
Như Phật thấy điều
Là A-la-hán.
Ruộng phước thích hợp
Ruộng phước Thánh hiền
Tinh tấn tột bậc
Là A-la-hán.
Xa lìa dục nhiễm
Đối giận chẳng giận
Cũng nói Bồ-đề
Là A-la-hán.
Rõ tất cả pháp
Vắng lặng vô tướng
Do đó giác ngộ
Là A-la-hán.
Tất cả chẳng động
Các cõi chúng sinh
Khiến vô số ức
An trụ Bồ-đề.
Chúng sinh Bồ-đề
Đều trụ vô tướng
Rõ kia bình đẳng
Là A-la-hán.
Đắc Vô đẳng đẳng
Đồng tất cả pháp
Biết rõ vô tướng
Bồ-đề bình đẳng
Hiểu được như vậy
Gọi là La-hán.
Tỏ pháp như thật
Thanh tịnh không nhơ
Nói pháp chúng nghe
Nhưng không pháp nói
Độ vô lượng chúng
Cũng không dao động.
Chúng sinh chẳng được
Hai bên đoạn, thường
Mà chúng đều thấy
Độ thoát khổ não
Rốt ráo các pháp
Không sinh, không diệt
Mà dùng phương tiện
Độ thoát muôn loài
Chẳng hủy hoại sắc
Thọ, tưởng, hành, thức
Cũng giống như thế
Tức là giải thoát.
Đối với phàm phu
Cũng không tướng động
Kiến lập Phật pháp
An trụ giải thoát.
Khiến các chúng sinh
Nhớ nghĩ quả báo
Tướng giải thoát Phật
Nói pháp người nghe
Chấp lấy Bồ-đề
Tu hành Bố thí
Trì giới, Nhẫn nhục
Để bỏ vọng tưởng
Biếng nhác, buông lung
Giữ sự Tinh tấn
Trừ tướng giải thoát
Lời La-hán nói
Sinh tưởng Thiền định
Người ngu vô trí
Giúp họ giải thoát
Nói pháp La-hán
Pháp vô tướng ấy
Ngăn che hư vọng
Nói pháp như vậy
Là A-la-hán.
Chúng sinh hư vọng
Chấp tưởng Thanh văn
Không tướng, giải thoát
La-hán nói pháp,
Cha mẹ vợ con
Ngu si chấp đắm
Chẳng phải Bồ-đề
Tham đắm sinh tử,
Anh em chị em
Vọng sinh thân ái
Vắng lặng giải thoát
Là A-la-hán.
Tạo các hành nghiệp
Tham đắm thân ái
Thấy liền luyến ái
Vốn là thân mình.
Lại đắm nhiễm nhau
Thân ái lẫn nhau
Chẳng biết lìa bỏ
Khiến ma lộng hành.
Không lìa thế gian
Làm ác cùng cực
Lỗi lầm như vậy
Lời La-hán nói.
Đối các kết sử
Thảy đều giác ngộ
Cả hai hư vọng
Lời La-hán nói.
Lợi ích nhiều người
Không hề đùa bỡn
Giải thoát như vậy
Lời La-hán nói.
Tại gia xuất gia
Thường sinh vọng tưởng
Phàm, ngu chấp đắm
La-hán giải thoát.
Thấy rõ trói buộc
Nêu rộng chánh pháp
Phàm, ngu vọng tưởng
La-hán giải thoát.
Lìa bỏ phàm phu
Không lợi Phật pháp
Bỏ lợi, không lợi
Là A-la-hán.
Thấy có cao thấp
Từng ấy các loài
Chúng sinh chấp đắm
La-hán giải thoát.
Đầy đủ tướng chấp
Tu tập rất nhiều
Chấp tướng như vậy
Khéo léo giải thoát
Được ruộng phước Phật
Rốt ráo chân thật
Vọng chấp là ruộng
La-hán giải thoát.
Không diệt, chẳng diệt
Cũng vật, chẳng vật
Tuy tu Bồ-đề
Chẳng được giác ngộ.
Giữ giới, phá giới
Có trí, không trí
Chúng sinh ngu si
Dấy lên hai tưởng
Nhiều người chấp đắm
Có rất nhiều loài
Giải thoát tưởng ấy
Lời La-hán nói
Khởi tưởng ruộng phước
Chẳng tưởng ruộng phước
Phàm ngu không trí
Sinh các thứ tưởng
Đối với người nữ
Và đối người nam
Pháp Thánh, chẳng Thánh
Sinh hai thứ tâm
Chúng sinh như vậy
Phàm, ngu không trí
Chấp đắm hai tưởng
La-hán giải thoát
Pháp lui, không lui
Có ký, không ký
Gần tòa Bồ-đề
Chẳng chấp Bồ-đề
Được Bồ-đề rồi
Rốt ráo vắng lặng
Lìa hẳn sinh tử
Chấp tưởng Niết-bàn
Dứt buộc chúng sinh
Diệt tất cả tướng
Cho nên La-hán
Gọi là giải thoát.
Bồ-tát pháp nhĩ
Hiện là La-hán
Không khởi pháp nhẫn
Tức trí La-hán.
La-hán như vậy
Bồ-tát khen ngợi
Tâm thường trụ nơi
Bồ-đề trên hết.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:
–Nay ông nên biết! Đó là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát dùng phương tiện nói về A-la-hán.
Tôn giả A-nan thưa:
–Vì sao Như Lai Đẳng Chánh Giác lại vì các Đại Bồ-tát nói về Thanh văn?
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Bồ-tát có khả năng làm cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh, dùng pháp âm của Phật khiến tất cả đều được nghe, do đó gọi là Thanh văn.
Cũng khiến cho họ được nghe âm thanh chẳng thể nghĩ bàn ấy, nghe những âm thanh không thể nghĩ bàn rồi thì đối với đạo Bồ-đề dứt mọi đùa bỡn, chỉ dùng âm thanh thanh tịnh để họ được nghe, cũng gọi là Thanh văn.
Lại khiến cho họ được nghe về niềm an vui của Niết-bàn chư không phải là những niềm an vui khác. Nghe được những âm thanh như vậy cũng gọi là Thanh văn.
Cũng khiến cho họ được nghe các đạo phẩm như Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền định giải thoát, các pháp Tam-muội, Niệm xứ, Chánh cần, chứng đắc Vô dư. Các pháp này đều khiến cho vô số chúng sinh đều được nghe, cũng gọi là Thanh văn.
Lại thân này là khổ, không, vô ngã, nhưng tướng các ấm đều không thật có. Kẻ phàm phu ngu si phân biệt thân ấy vọng khởi chấp đắm nghe những âm thanh như vậy cũng gọi là Thanh văn.
Lại do nhãn giới là hư ngụy không thật, cho đến mắt Phật đều đồng với nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn, có công năng giúp cho chúng sinh thấy biết như thật. Đối với tất cả pháp không có tướng thành tựu, gọi là thành tựu nhãn, tướng các pháp như vậy khiến chúng sinh nghe nên gọi là Thanh văn.
Như âm vang của tiếng gọi, khiến chúng sinh nghe nên gọi là Thanh văn.
Không ứng hợp với âm thanh mà vọng chấp đắm, vì không có tướng âm thanh, cũng không thật có, âm thanh như vậy nên gọi là Thanh văn.
Không ứng hợp với hương mà chấp lấy tướng hương, tướng của hương cũng không thật có; ví như có người nằm mộng ngửi được mùi hương, nhưng thật ra không có mùi hương, ở trong cái không có hương mà vọng khởi tưởng là có hương, chỉ là điên đảo tự sinh ra phân biệt, chấp lấy tướng hương, kẻ phàm phu tin nhận, nghe tiếng như thế gọi là Thanh văn.
Lưỡi tiếp xúc với tướng không giống như cục thịt không thể nhận biết được vị, cũng như chùm bọt nước không thể làm ví dụ. Vì vượt khỏi ví dụ nên chẳng phải vị, chẳng phải thấy, mọi phân biệt về tướng của vị thật sự không thật có. Cảnh giới của vị như vậy và cảnh giới không thể nghĩ bàn là bình đẳng không hai. Lìa tâm, vô niệm cũng không nhớ nghĩ, thật không có tướng của tâm. Nghe âm thanh như vậy gọi là Thanh văn.
Pháp đã biết, lại khiến cho người khác nghe gọi là Thanh văn.
Nếu nghe về thân, thấu rõ tướng thân, thể tánh vốn không, chẳng phải sinh chẳng phải không sinh, đó gọi là Bồ-đề. Khiến cho vô lượng chúng sinh được nghe âm thanh ấy gọi là Thanh văn.
Thể tánh của tâm là không, không thật có, đều như huyễn hóa, chẳng sinh chẳng diệt, có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe nên gọi là Thanh văn...
Phật bảo A-nan:
–Pháp thí của Thanh văn chẳng thể nghĩ bàn, chứng được đạo này gọi là chẳng thể nghĩ bàn, vì Pháp thí chẳng thể nghĩ bàn này có công năng sinh ra Bồ-đề. Vì sao? Vì hạt giống tương tự sinh nên không quả là quả, Tài thí không đạt được, từ nghe mà tin, hiểu nên gọi là Thanh văn. Tài thí nhỏ ít, Pháp thí mới là quan trọng. Pháp thí như vậy không hề ganh ghét kẻ khác, cũng không tướng thí, không đắm vào sự bố thí ấy. Ví như huyễn hóa không phân biệt, không sinh nguyện cầu, không chấp ý tưởng bố thí vì không nguyện cầu. A-nan nên biết! Pháp thí như vậy thành tựu Bồ-đề, từ nghe được tin hiểu nên gọi là Thanh văn. Dứt tất cả tướng, lìa các kết sử, vượt qua tất cả tăng thượng của Thanh văn, phát ra âm thanh lớn để giảng nói Phật pháp. Vì sao? Vì đầy đủ âm thanh vượt qua tất cả các âm thanh, ra khỏi âm thanh này rồi, khiến nghe được Phật pháp. Biết tướng các âm thanh chẳng phải một, chẳng phải khác, chánh tín thành tựu, nói pháp không hai cũng chẳng phải không hai. Nghe được pháp ấy gọi là Thanh văn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:
Vô lượng chúng sinh nghe
Phật pháp chẳng nghĩ bàn
Bồ-tát giảng rộng khắp
Đó gọi là Thanh văn.
Nghe rồi tin Bồ-đề
Không nhơ, không đùa bỡn
Khiến tất cả đều nghe
Đó gọi là Thanh văn.
Nghe Niết-bàn an vui
Là an vui bậc nhất
Đều khiến nghe vắng lặng
Đó gọi là Thanh văn.
Các Lực là Giác đạo
Bốn Niệm xứ, các Căn
Mau đạt tới rốt ráo
Đó gọi là Thanh văn.
Nghe thân này khổ, không
Không vững chắc, chân thật
Bị tham, sân, si lấp
Cho nên chấp lấy thân,
Cũng nghe nơi nhãn nhập
Chẳng thật mà thấy thật
Chúng sinh nhiều ngu si
Phàm phu mù chẳng trí
Nếu đạt được mắt Phật
Chánh kiến chẳng nghĩ bàn
Nếu được mắt như thế
Không còn các ngu si
Các pháp không thành tựu
Tất cả chúng sinh nghe
Do nhân duyên như thế
Cũng gọi là Thanh văn,
Tất cả tướng các pháp
Đều giống như tiếng vang
Nơi ấy không người nghe
Cũng không có người nói
Giúp vô số người nghe
Đó gọi là Thanh văn.
Trong ấy không nghe gì
Không có người đắm nhiễm
Ví như người nằm mộng
Tuy ngửi nhiều mùi hương
Nhưng đều không thật có
Biết thể hương như vậy
Lìa bỏ tất cả cấu
Cũng không người ngửi hương
Bồ-tát thì giải thoát
Chúng sinh nhiều điên đảo
Nghe lưỡi như cục thịt
Chẳng thể biết được vị
Nếu cục thịt biết vị
Cũng nên biết bình đẳng
Phân biệt tướng như thế
Tham vị là ác nhất
Cõi này khó nghĩ bàn
Đó gọi là biết vị,
Quyết định biết vị rồi
Bồ-tát không đắm nhiễm
Khiến chúng sinh quyết định
Đó gọi là Thanh văn.
Quán thân, nhận rõ tướng
Bản tánh không, vô chủ
Nếu biết được chân thật
Không sinh, không năng sinh
Tướng Bồ-đề như vậy
Không sinh, không năng sinh
Khiến mọi chúng sinh tỏ
Đó gọi là Thanh văn.
Ý cũng biết như thế
Thể tánh không thật có
Vì không có thể tánh
Nên khiến tất cả nghe
Như Phật pháp vô sinh
Vô diệt, cũng không hai
Không tướng, không chỗ thấy
Đó gọi là Thanh văn.
Đều khiến nghe thí ấy
Pháp thí chẳng nghĩ bàn
Tu hành đến đạo tràng
Thành tựu được Bồ-đề.
Ví như gieo hạt giống
Được quả như hạt giống
Tu thí chẳng nghĩ bàn
Chứng đắc đạo cũng vậy.
Bố thí các tài vật
Pháp thí là hơn hết
Xả tâm, không tham ganh
Đó gọi đạo Bồ-đề.
Tâm thường không chấp đắm
Tuy thí, không nương tựa
Nếu thí được như vậy
Mau chứng đạo Bồ-đề.
Xa lìa tất cả tướng
Dứt hết các kết sử
Không còn các đắm nhiễm
Đó gọi là Thanh văn.
Âm thanh ấy nhiệm mầu
Hơn các âm thanh khác
Thanh đó giúp nghe xa
Phật pháp chẳng nghĩ bàn,
Khiến mọi người đều rõ
Các thanh không nương tựa
Chẳng một cũng chẳng khác
Đó gọi là Thanh văn.
Muốn cho tất cả nghe
Lời các Phật giảng nói
Tùy pháp âm được nghe
Đều phát tâm Bồ-đề,
Nghe trong các ruộng phước
Ruộng phước Phật trên hết
Tùy theo chỗ Phật ở
Gần gũi Đấng cứu đời,
Khiến ba ngàn cõi nghe
An trụ trong hư không
Chúng sinh cũng như thế
Đều đồng tướng Niết-bàn,
Giảng nói thân bốn đại
Phân biệt là chúng sinh
Giống như tướng hư không
Đều chẳng thể nghĩ bàn.
Tướng như thị các cõi
Cũng không thể biết được
Trong ấy chẳng sinh tử
Không phiền não, Niết-bàn,
Các pháp không chân thật
Chúng sinh cũng như vậy
Đó là cõi tịch diệt
Làm sao thấy kẻ sinh
Vì vô lượng chúng sinh
Ngày đêm thường nghe biết
Chẳng đắm danh lợi mình
Chỉ vì chúng sinh nói
Nên biết là Thanh văn.
Muốn khiến tất cả nghe
Thật không pháp Thanh văn
Chỉ hiện làm Thanh văn
Phật chỉ giả danh nói
Trên hết trong các pháp
Cho nên biết chúng sinh
Tất cả đều tướng như
Đó gọi là Thanh văn.
Vô lậu dứt trói buộc
Giải thoát tất cả kết
Mà nói chúng sinh nghe
Hiển bày lìa trói buộc
Thanh tịnh không đùa bỡn
Thấy rồi nói người nghe
Phật pháp đều cũng thế
Không lâu sẽ được thấy
Đúng như pháp Phật nói
Vị Bồ-tát tu hành
Đối pháp không đắm nhiễm
Đó gọi là Thanh văn.
Không trói buộc, thanh tịnh
Cũng khiến tất cả nghe
Tu hành như đã nghe.
A-nan ông nên biết,
Ta dùng phương tiện nói
Biết Thanh văn như vậy
Bồ-tát không nương tựa.
A-nan nên biết! Đó gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các Đại Bồ-tát phương tiện nói về Thanh văn.
A-nan thưa:
–Thế nào là Như Lai Đẳng Chánh Giác lại vì các Đại Bồ-tát nói về Bích-chi-phật?
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Bồ-tát hiện thấy tất cả pháp!
Thế nào là hiện thấy? Đó là rõ các pháp là không tranh chấp, đều là giả danh, không hủy hoại tánh của các pháp mà thấy được pháp, chứng được pháp, nên gọi là Bích-chi-phật. Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Đối với tất cả pháp và các chúng sinh đồng với tướng Niết-bàn bình đẳng không sai khác. Vô hình, vô tướng, thanh tịnh vắng lặng. Cảnh giới chân thật, cảnh giới chúng sinh, cảnh giới Niếtbàn, giống như hình bóng huyễn hóa, không giới hạn, không thật có. Đối với các cảnh giới này cũng không có tướng của cảnh giới. Không thể dùng lời, không thể diễn tả, không có nơi chốn nương tựa, cũng không thể diễn tả. Vì sao? Vì như ngã không, không sinh, không diệt, biết cảnh giới chúng sinh thì biết cảnh giới các pháp, cảnh giới sinh tử, tức là cảnh giới Phật. Biết các cảnh giới như vậy nên gọi là Bích-chi-phật. Bồ-tát hiện biết đối với sắc, sắc ấy tức là sắc ấm, sắc ấm đã dứt thì chỉ còn có lời nói, không có ngã, ngã sở. Vì sao? Vì như nói về sắc ấm chỉ có lời nói. Nên là không, không sinh, không diệt, lời nói không có tướng của lời nói, vì sao dùng lời nói? Nói về sắc ấm ấy cũng hiện thấy thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Ví như nói về thức ấm, thì biết chỉ giả danh là thức ấm, chỉ có lời nói, lời nói đều không, không sinh không diệt, chẳng phải thật chẳng phải hư. Lời nói còn không, huống gì là tướng ấm, năm ấm như vậy đều từ giả danh mà lập nên, đó gọi là Bích-chi-phật. Vì sao? Vì nhờ vào tên gọi mà nói về là sắc, sắc chỉ là giả danh, không nhân, chẳng phải nhân, nhưng gọi tên là nhân, ấm ấy là do nhân duyên hợp nên không thể nói tướng của nó. Tất cả các pháp đều không nương, không duyên, biết rõ như vậy gọi là Bíchchi-phật.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Hiện thấy tất cả pháp
Đều biết không đối kháng
Chẳng sinh cũng chẳng hoại
Không có tướng trược loạn
Hiện thấy tất cả pháp
Bản tánh đều vắng lặng
Thể tướng là như vậy
Thì không có quyết định.
Hiện thấy chỗ rốt ráo
Tất cả pháp cũng thế
Đó gọi là Chánh trí
Duyên giác chẳng nghĩ bàn.
Niết-bàn và chúng sinh
Đời trước không thật có
Cõi này chẳng có sinh
Phật cũng khó nghĩ bàn.
Như chúng sinh Niết-bàn
Không sinh, không xuất xứ
Như pháp không tướng sinh
Đó gọi là Niết-bàn.
Chúng sinh và Niết-bàn,
Đều như bóng đáy nước
Có hình, không chúng sinh
Đó gọi là Niết-bàn.
Chúng sinh và Niết-bàn,
Đều là giả danh nói
Không sinh, cũng không diệt
Chỉ có tên gọi giả.
Tướng lời nói như thế.
Rõ không có chúng sinh
Nghĩa này phải nên biết
Chúng sinh tức Niết-bàn.
Tất cả lời nói không,
Tâm không, pháp cũng không
Dùng lời nói, chẳng lời
Quyết định không người biết.
Phi ngôn, cõi không nương
Lời nói cũng vô trụ
Tướng lời nói như vậy
Chúng sinh chẳng nghĩ bàn.
Chúng sinh và Niết-bàn
Cõi thật, cõi chẳng thật
Xa lìa, được an ổn
Về hẳn nhà vắng lặng.
Tất cả cõi chúng sinh
Như hình bóng, tiếng vang
Không nhân cũng không duyên
Cõi thật chẳng nghĩ bàn,
Tất cả gốc các pháp
Chỉ dùng giả danh nói
Là chốn không thật có
Tướng tên gọi không thật
Cõi thật không nói năng
Cũng không người biết được
Vì không, không cõi thật,
Chúng sinh chẳng nghĩ bàn.
Cõi thật chẳng nói năng
Lời nói không thành được
Tướng chân thật như như
Chúng sinh không bờ mé
Tướng lời nói tự không
Chẳng dùng lời mà biết
Như điều ông thường nói
Chúng sinh không thể nghĩ
Tướng cõi thật như thế
Chẳng nghĩ bàn biết được
Đó gọi Chánh giác nói
Bích-chi khó nghĩ bàn
Hiện thấy đối sắc ấm
Chỉ có tên gọi giả
Tánh, tướng ấm như thế
Thường xa lìa lời nói
Không có tướng chân thật
Đó gọi là xuất thế.
Biết các ấm như vậy
Bản tánh không trụ xứ
Sắc ấy không thật có
Giả danh gọi là ấm.
Chỉ có tên gọi suông
Chẳng sinh cũng chẳng diệt
Lời nói và các pháp
Không có chỗ quyết định
Nếu không có lời nói
Đó là nói sắc ấm.
Hiện thấy đối thọ ấm
Tưởng, hành cũng như vậy
Cho đến cả thức ấm
Chỉ có lời nói giả
Thấy ấm chẳng thể nói
Xa lìa tất cả tướng
Bản tánh không thật có
Chẳng sinh cũng chẳng trụ
Chân thật như đã nói
Xa lìa tất cả pháp
Biết các tướng như thế
Thể tánh không chỗ ở
Chỉ dùng giả danh nói
Nói ấm thảy cũng không
Biết lời nói không rồi
Không sinh cũng không diệt
Lời nói và các pháp
Không có chỗ quyết định
Nếu không có lời nói
Đó gọi là thức ấm.
Ấm này lìa lời nói
Hạn lượng không thật có
Tướng không sinh, không diệt
Cũng không chỗ nương tựa
Giải thoát các phiền não
Chẳng phải nghiệp, quả báo
Chẳng giác, cũng chẳng che
Chẳng lời, chẳng Niết-bàn
Tướng ấy không quyết định
Cũng không có trí tuệ
Trong ngoài không thật có
Không biếng nhác, tinh tấn
Không đùa bỡn, nghi ngờ
Cũng chẳng có thành tựu
Chẳng kinh, chẳng sợ hãi
Không có tất cả sắc
Cũng chẳng thấy cả không
Vô tướng cũng như thế
Không có một tướng khác
Chẳng buộc cũng chẳng mở
Tất cả các tiếng nói
Thanh ấy không chỗ vào
Đó gọi là Luật-đà.
Lời không diễn tả được
Rốt ráo nơi hiện thấy
Mà nói pháp vô tận
Được chánh định ấy rồi
Chẳng đắm mê lời nói
Trí này như hiện thấy
Đều nói A-luật-đà
Luật-đà đồng các pháp
Im lặng mà giảng nói
Bấy giờ, hiện thấy đến
Chẳng từ nhân duyên khác
Đó gọi là Chánh giác
Duyên giác chẳng nghĩ bàn.
Này A-nan! Các Đại Bồ-tát như thế hiện đã thật sự nhận rõ về minh, vô minh; về hành, vô hành; nhận rõ về thức và tướng của thức; về danh sắc và tướng của danh sắc; về sáu nhập và tướng của sáu nhập; về xúc và tướng của xúc; về thọ và tướng của thọ; về ái và tướng của ái; về thủ và tướng của thủ; về hữu và tướng của hữu; về sinh và tướng của sinh; về già chết và tướng của già chết, tu tập hiện thấy gọi là Bích-chi-phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đọc bài kệ:
Hiện thấy vô minh
Nên không chỗ biết
Cũng không thành tựu
Như bóng trong nước
Sáng cũng chẳng động
Chẳng đắm mê pháp
Nếu không đắm pháp
Đó gọi tướng sáng.
Vô minh như không
Tướng tất cả pháp
Đều đến hiện thấy
Đó gọi Duyên giác.
Nếu nói các hành
Chẳng trong, chẳng ngoài
Cũng chẳng từ Phật
Mà sinh khởi hành
Hành ấy giả danh
Nhất định chẳng có
Chẳng sinh, chẳng diệt
Giống như hư không.
Đều đến hiện thấy
Bồ-tát không sợ
Đó gọi Chánh giác
Duyên giác khó lường.
Biết tất cả pháp
Đều như huyễn hóa
Biết như huyễn rồi
Đó gọi hiện thấy.
Chẳng bằng thật biết
Hành xứ thức này
Là tướng phân biệt
Biết thức là không.
Biết trí chẳng trí
Tất cả không đắm
Nếu biết các pháp
Thức như huyễn tưởng.
Nhân duyên danh sắc
Đều tướng hữu vi
Thể không quyết định
Cũng không thành tựu.
Xa lìa sáu nhập
Nói tướng sáu nhập
Âm thanh lời nói
Thể tánh đều không
Xúc không nhân duyên
Từ sáu nhập sinh
Nhận rõ xúc ấy
Như huyễn, đều không.
Xúc đó vô thể,
Từ vọng tưởng sinh
Xúc không chân thật
Cũng không chỗ ở
Hiện thấy xúc ấy
Biết không tướng xúc
Đều nên chán lìa
Gọi Bích-chi-phật.
Nếu chứng được thọ
Không bền như bọt
Tánh, tướng đều không
Rốt ráo chẳng thật.
Dứt bỏ ái kết
Được pháp dứt ái
Dứt hết các dục
Đó gọi Duyên giác.
Nhận rõ chấp đắm
Không, chẳng thật có
Như ngọn lửa cháy
Không có thành tựu.
Không có khởi tưởng
Sinh tưởng cũng thế
Biết thể tánh sinh
Vắng lặng, chẳng có
Lìa được già suy
Cũng không sợ chết
Không thành tựu gì
Không thọ thân sau.
Thấu đạt pháp này
Chẳng nơi nương tựa
Dùng tiếng Duyên giác
Thật tu Bồ-tát.
Này A-nan! Nay ông nên biết, Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát phương tiện nói về Bích-chi-phật.
Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan liền đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay hướng về Đức Phật, nói kệ:
Niết-bàn, chẳng Niết-bàn
Cứu độ khắp thế gian
Ví như buộc trong không
Dùng không mà tự mở.
Nếu nói được như thế
Cũng gọi có nói được
Thế Tôn phương tiện khéo
Mà nói pháp dứt chấp.
Tôn giả A-nan nói kệ xong liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở thế gian bị ngu si che lấp nên tự khinh mình, không hiểu được ý của Như Lai chỉ dùng giả danh để nói về các pháp như: Tín hành, Pháp hành, tám bậc,… cùng các quả tu như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, Ana-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Duyên giác.
Bấy giờ, Phật bảo A-nan:
–Đối với các Đức Phật quá khứ ông không quên giả danh mà trồng các căn lành, vì khéo hiểu giả danh, nên không bị sự ngu tối cướp đoạt. Vì sao? Vì các pháp giả danh, như huyễn, như bóng dưới nước, như ngọn lửa nóng, như tiếng vang, giả danh như vậy!
Này A-nan! Nay ông nên biết, không để cho các pháp ác xâm hại đến mình. Phải đầy đủ sự trang nghiêm để tự trang nghiêm mình, biết được các pháp là giả danh, do nhân duyên giả hợp, thường luôn ghi nhớ, đầy đủ tinh tấn, nhưng không chấp sự tinh tấn ấy, đừng để quên mất: Đạt được trí tuệ tối thắng nhưng không chấp vào tướng trí tuệ ấy.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Các chúng sinh ngu si
Biếng nhác, trí tuệ kém
Thì không biết giả danh
Phải siêng năng tinh tấn.
Hiểu rõ về giả danh
Biết như thật các ấm
Cứu độ các thế gian
Giúp đạt trí chân thật.
Biết giả danh, không rồi
Tức giác ngộ Bồ-đề
Cũng không được Bồ-đề
Đó gọi là Bồ-đề.
Giả danh là tướng không
Không, chẳng thể biết không
Không chỉ có âm thanh
Lìa tất cả tranh luận
Hiển bày nghĩa như thế
Đối với không chẳng chấp
Cũng không chỗ để chứng
Vì sao có người được?
Đó gọi là Không Không.
Như vậy, A-nan nên biết! Pháp không rất sâu vô lượng, không sinh buông lung, cũng không để cho mất. Đó gọi là nói đầy đủ về hành địa của Bíchchi-phật. Bấy giờ, trong chúng hội có năm trăm ức đồng, thành vị Tỳ-kheo đều được Tín hành, liền đứng dậy đến trước Đức Thế Tôn nói kệ:
Dứt nghi được chánh trí
Bậc Vô Thượng cứu đời
Thế Tôn nói giả danh
Tín hành trụ Bồ-đề.
Trong chúng lại có năm trăm ức vị Tỳ-kheo đã đạt Pháp hành, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy, sửa lại y phục, cùng nói kệ:
Chúng con dứt nghi, lầm
Nẻo giác ngộ sáng tỏ
Như Lai nói giả pháp
Pháp hành trụ Bồ-đề.
Trong chúng lại có mười ức vị Tỳ-kheo đã đạt tám bậc, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, đồng nói kệ:
Con trước dứt nghi hối
Tu tám bậc đã lâu
Như Lai nói giả danh
Tám bậc trụ Bồ-đề.
Trong chúng lại có mười ức vị Tu-đà-hoàn nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:
Con nay nhờ ánh sáng
Bậc Thánh chúa cứu đời
Biết pháp do Phật nói
Mở bày về giả danh.
Trong chúng lại có hai trăm lẻ năm vạn vị Tỳkheo đã chứng quả Tư-đà-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:
Con trước vốn chấp đắm
Mà được Tư-đà-hàm
Nay dứt các vọng tưởng
Vắng lặng không đùa bỡn.
Trong chúng lại có mười ức vị A-na-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:
Bậc Vô Thượng cứu đời
Nay con dứt nói suông
Đã nhổ sạch tưởng quả
Đạo giác ngộ chiếu sáng.
Trong chúng lại có ba mươi lăm ức vị Tỳ-kheo đều trụ trong bốn Thiền đắc quả A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:
Nay con đã lìa cấu
Tự chứng đắc Vô dư
Các thừa nhập Nhất thừa
Như huyễn, không quyết định.
Trong chúng lại có hai muôn vị Tỳ-kheo, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:
Con vốn thích nói suông
Thế Tôn nói giả danh
Tự gọi là Thanh văn
Trụ nơi pháp giả danh.
Trong chúng lại có năm ngàn vị Tỳ-kheo trụ trong Bích-chi-phật thừa nghe bài kệ ấy rồi liền đứng dậy, đến trước Phật, đều nói kệ:
Nay con được hiện thấy
Vì Duyên giác Bồ-đề
Như Lai nói giả danh
Duyên giác không nghĩ bàn.
Trong chúng lại có năm muôn vị Tỳ-kheo-ni, chấp tưởng về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, Ana-hàm, A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:
Nguyện cho tướng người nữ
Đều nhập pháp bình đẳng
Thế Tôn nói không khác
Giác ngộ là Tối thượng.
Trong chúng lại có tám trăm ức muôn vị Ưubà-tắc, Ưu-bà-di đều có ý tưởng về các quả Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đồng nói kệ:
Con nay tâm không cấm
Tịnh như ngọc lưu ly
Nay mới gọi xuất gia
An trụ trong Phật pháp.
Bấy giờ, trong hư không có đến sáu mươi ức na-do-tha các vị trời tung rải hoa Mạn-đà-la cõi trời lên chỗ Phật để cúng dường rồi đến trước Phật, nói kệ:
Con trước chấp tưởng thừa
Tham đắm các quả vị
Nay các quả đều bỏ
Mới giác đạo Bồ-đề.
Lúc bấy giờ, trong chúng lại có vô lượng trăm ngàn vị A-la-hán, đứng đầu là các Tôn giả Xá-lợiphất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, A-na-luật, A-nâulâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề... đứng dậy, sửa lại y phục, đến trước Đức Thế Tôn, cúi mình cung kính bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay xin phát nguyện chân thật lìa tất cả vọng tưởng, phá dẹp chúng ma, gồm đủ cả năm tội nghịch và năm thứ dục lạc, đầy đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến, đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Hôm nay chúng con sẽ làm cho chúng đều thành Bồ-đề, nhập vào Niếtbàn vô dư.
Lúc này, Đức Thế Tôn im lặng, vô lượng trăm ngàn vị trong hội nghe các Tôn giả nói như thế, đều sinh tâm nghi ngờ: “Vì sao các bậc Trưởng lão ấy lại nói như vậy? Hiện giờ chúng ta đều mờ mịt không thể hiểu nổi. Các vị đó đều là bậc Ala-hán mà còn nói như thế, huống chi là hạng phàm phu.” Tất cả đều ngồi một chỗ không dao động, không thể đứng dậy được, nếu có người đứng thì cũng chẳng thể ngồi, đều nói rằng vì sao các Tôn giả lại nói như thế?
Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền vì đại chúng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, do năng lực thần thông của Phật nên tự biết tâm mình và biết tâm người khác liền hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Hiện tại, trăm ngàn ức vị trong đại chúng như thế nghe các vị A-la-hán nói những lời vừa rồi, đều sinh tâm nghi ngờ. Kính mong Bồ-tát hãy phân biệt nói rõ nguyên do cho tôi được nghe.
Lúc này, Đức Như Lai vẫn im lặng. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Tôn giả A-nan:
–Đây là Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển, vì thấy nhân duyên của các Đại đức mà nói như vậy:
Tôn giả A-nan nói:
–Kính thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Địa vị không thoái chuyển là Bồ-tát chăng?
–Đúng vậy, địa vị không thoái chuyển là các Đại đức Bồ-tát.
Tôn giả A-nan hỏi:
–Vì sao các Tôn giả lại nói những lời như thế? Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Tôn giả Anan:
–Vô minh là mẹ, từ hành sinh ái, rốt ráo diệt hết, trừ hết oán hại. Vọng tưởng điên đảo là cha, xa lìa điên đảo, dứt bỏ ái dục, chứng A-la-hán, vững chắc không mất. Dứt sạch những ý tưởng của phàm phu, và ý tưởng của Tăng. Tưởng ấy đã diệt thì tu tập được tất cả các pháp tưởng bất hoại, cho đến không chấp vào ý tưởng về Như Lai, tu tập vô sinh, rốt ráo lìa hẳn.
Này Tôn giả A-nan! Các Đại đức ấy nói: “Hôm nay chúng con làm thế nào có đầy đủ năm tội nghịch. Vì sao? Vì không còn ý tưởng về đến, đi cho nên gọi là đầy đủ năm tội nghịch.”
Lại nữa, này A-nan! Năm dục là gì? Vì các vị Tỳ-kheo này biết rõ năm dục như mộng, như huyễn, như chùm bọt trên mặt nước, như âm vang của tiếng gọi. Trí tuệ như vậy đầy đủ. Thế nào là trí tuệ đầy đủ? Vì các pháp vốn không thêm không bớt. Thế nào là năm dục? Vì năm dục cũng không thêm không bớt. Vì sao? Vì năm món dục lạc như thế, rốt ráo là vô thể vô tướng, biết như thật rồi tức tướng của năm dục, chứng được trí tuệ. Cho nên gọi là đầy đủ năm món dục lạc. Vì ý nghĩa đó mà các vị Đại đức nói như vậy, nay con đầy đủ năm dục.
Này Tôn giả A-nan! Thế nào là đầy đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến? Đối với tất cả các pháp đều chấp thủ vướng mắc thì đó là tà kiến. Tà kiến ấy chính là những ý tưởng hư vọng. Tất cả các pháp đều không nương dựa, cũng không phải là không nương dựa. Ví như hư không chẳng có chốn trở về, cũng không chỗ nương dựa. Vì sao? Vì tất cả các pháp không có thật để chứng đắc, nên nhận thức như vậy, tất cả pháp đều bình đẳng. Dứt trừ các ý tưởng ấy thì đó là chánh kiến. Vì sao? Vì các ý tưởng ấy đều là những ý tưởng ác. Do ý nghĩa đó mà các Đại đức Tỳ-kheo không vướng vào các tưởng ấy cũng không vướng vào các tưởng ác. Vì sao? Vì dứt sạch hết tất cả tưởng. Đó chính là sự giác ngộ của Phật. Đạt được giác ngộ như vậy nhưng cũng không thấy một chút pháp có thể chứng được. A-nan! vì nhân duyên ấy mà các vị Đại đức Tỳ-kheo đã nói rằng xa lìa chánh kiến, đầy đủ tà kiến.
Này A-nan! Vì sao các vị Tỳ-kheo ấy lại nói: “Hôm nay chúng con thật đoạn mạng hàng trăm ngàn chúng sinh”. Lúc các vị trưởng lão nói ra lời ấy, có hàng trăm ngàn muôn ức các vị trời nghe nói như vậy đều liền chứng được pháp giải thoát, như mộng, như huyễn, như bóng đáy nước, như âm vang của tiếng gọi. Hiểu được như thế rồi liền cắt đứt được những ý tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và của những hạng người khác, cũng tức là được giải thoát, không có gieo trồng căn lành Bồ-đề, tất cả các pháp đều không phát khởi, không tạo tác, không tu tập. Nghe nói giả danh thì liền tin tưởng sâu xa không chút nghi ngờ. Các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... đều đoạn trừ các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và những hạng người khác. Dứt được tưởng ấy rồi thì không còn trở lại thọ nhận bao kiếp sinh tử nữa. Vì sao? Vì đã dứt được các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, trượng phu, người, quỷ đói... vì còn ý tưởng ấy nên phải thường chịu sinh tử, nếu lìa được tưởng ấy thì liền rốt ráo tự chứng vô sinh. Do nhân duyên đó mà các Đại đức đã dùng phương tiện như thế khéo nói về giả danh, là đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Cho nên nói rằng đầy đủ chứng được sự giác ngộ của Phật: Hôm nay chúng con ở nơi Niết-bàn Vô dư, mà Bát-niết-bàn, được tướng tốt của Phật, từ đấy mà giáo hóa vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, diệt các kết sử như Phật đã chứng đắc. Vì sao? Vì đã giúp cho các chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được pháp Nhẫn vô sinh rồi thì giúp đạt được giác ngộ, nhưng cũng không xả bỏ phiền não, chẳng gần gũi Phật pháp, từ ý sinh phiền não, dứt hết không còn. Do nhân duyên ấy mà các vị Đại đức đều nói là nay con đạt được giác ngộ.
Này Tôn giả A-nan! Cho nên hôm nay gọi là vô sinh. Vì sao? Vì như các thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiểu rõ các pháp, phát tâm Bồ-đề rồi cũng không thật có, lìa tướng giác ngộ và tướng tất cả pháp ở Niếtbàn Vô dư mà nhập Niết-bàn.
Này Tôn giả A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai nương Bồ-tát thừa, không vì thấy mặt trời mà cho là ban ngày. Kẻ phàm phu ngu si nếu khi thấy mặt trời thì liền cho là ban ngày, cho nên chẳng phải người hiểu biết. Vì sao? Này A-nan! Vì nếu ban ngày là có thể chẳng phải hư vọng, thì có thể chứa nhóm, vì là hư vọng. Do vậy, cũng không có quá khứ, vị lai. Đối với ban đêm cũng như thế. Nếu ban ngày mà tưởng ban ngày, ban đêm tưởng ban đêm thì là cái thấy của phàm phu vọng tưởng.
Này A-nan! Đó là Bồ-tát thừa, tu tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác Thiện tri thức, không nên ban ngày mà sinh ý tưởng là ban ngày, ban đêm sinh ý lên tưởng ban đêm. Vì sao? Vì họ đã xa lìa bỏ tất cả các tưởng, an trụ trọng đạo giác ngộ của Đức Như Lai.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền nói kệ:
Vô minh chính là mẹ
Từ hành mà dấy khởi
Nếu dứt được gốc rễ
Đó gọi là trừ hại.
Ưa thích tưởng điên đảo
Đó được gọi là cha
Nếu biết được như thật
Rốt ráo không thật có,
Biết đó đều hư vọng
Thì dứt được gốc rễ
Không duyên cũng không trụ
Đó gọi là trừ hại.
Nếu nói các La-hán
Phàm phu chẳng nghĩ bàn
Tướng như thật bất hoại
Diệt ấy gọi rốt ráo.
Ta vốn đắm tưởng tăng
Nay biết như thật rồi
Các pháp đều không mất
Cũng khiến tất cả nghe,
Trước chấp lấy Như Lai
Đó gọi là hư vọng.
Biết kia, không tưởng khác
Bình đẳng, đều là không
Nhổ dứt những cội rễ
Đó gọi trí Vô sinh.
Nếu nói được như thế
Hiển bày sức Thiền định
Nếu nói đủ các dục
Năm tên gọi như vậy,
Xa lìa tưởng như thế
Giống như giấc mộng huyễn
Không thêm cũng không bớt
Đó gọi là năm dục.
Trước nhằm để cứu đời
Nên nói lời như thế
Biết dục bản tánh không
Giống như tướng mộng hóa
Rốt ráo không có sinh
Đầy đủ trí như thật
Như các lỗi tà kiến
Hư vọng khởi phân biệt
Dùng trí rốt ráo này
Tất cả đều đầy đủ.
Hư vọng không chấp đắm.
Xa lìa tướng hòa hợp
Khéo biết như vậy rồi
Không tướng, không thật có
Cùng biết tất cả lỗi
Tà kiến và chánh kiến
Đạt đến pháp chân thật
Tướng tà, chánh đều diệt
Tưởng chúng sinh sinh tử
Ngu si vọng phân biệt
Nếu không có chúng sinh
Thì không có sinh tử
Chúng sinh nhiều phương tiện
Lìa bỏ tưởng về mạng
Xa lìa tưởng ấy rồi
Biết tưởng mạng ác nhất
Nếu lìa tưởng chúng sinh
Phân biệt thọ mạng thảy
Đoạn mạng nhiều chúng sinh
Là lời vị ấy nói
Lìa bỏ ý tưởng chết
Kẻ ngu si phân biệt
Rốt ráo được vô sinh
Đó gọi là pháp thật.
Dứt bỏ các kết sử
Thì chứng đắc vô tướng
Giác ngộ không hình sắc
Không diệt cũng không quả
Ma oán không ngăn được
Tự giác nơi Bồ-đề
Các pháp dứt hý luận
Tánh vô sinh vắng lặng.
Bồ-tát Văn-thù nói kệ xong thì có vô lượng trăm ngàn chúng sinh như thế dứt được các mối nghi ngờ hối hận, nhờ đó tâm sinh vui mừng, được pháp sáng tỏ, mỗi người đều cởi y phục quý giá trên người mình để dâng lên cúng dường Bồ-tát và cùng thưa:
–Bồ-tát đã giúp cho chúng tôi đều được pháp này, nên nói lời ấy cũng giúp cho chúng sinh tâm chứng được các pháp, đều được thật tướng như Bồtát Văn-thù-sư-lợi đã giải thích.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì sao trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều sinh tâm nghi ngờ hối hận? Vì sao Như Lai không tự mình nói rõ để họ dứt bỏ được mối nghi ngờ hối hận ấy?
Phật bảo A-nan:
–Trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều từ nơi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà phát tâm Bồ-đề, nhờ Bồ-tát mà được điều phục.
Tôn giả A-nan lại hỏi:
–Họ đều được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?
Đức Phật dạy:
–Đúng vậy, này Tôn giả A-nan! tất cả chúng sinh đều không lui sụt đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì họ đều được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm bậc Thiện tri thức.
Tôn giả A-nan nói:
–Các Tỳ-kheo ấy đã đạt được Tín hành, Pháp hành, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán, Thanh văn, Bích-chi-phật, đã dứt hết các tưởng, thì đều không lui sụt đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?
Đức Phật nói:
–Có người khó tin đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có những kẻ trí tuệ ít ỏi căn trí thấp kém, có những kẻ biếng trễ, lười nhác thiếu tinh tấn, ham thích ăn uống, gần gũi năm thứ dục lạc, thích những chốn ồn ào đông đúc, tâm không muốn xa lìa, quên mất chánh niệm, trở thành kẻ không trí tuệ, tâm không chánh định, thường sợ hãi, tán loạn. Có những kẻ tăng thượng mạn, có những kẻ chấp đắm tăng thượng mạn họ tham đắm đối với thân mình, thích sống lâu, không quán sát vô thường, thường tham lam, ganh ghét, ngu si, vô trí, phá hủy giới cấm, sinh tâm muốn não hại người. Đối với Phật pháp thì thường khởi tâm nghi ngờ, hay nghe theo hạng vô trí, gần gũi bạn xấu, xa lìa ban hành, cũng không cung kính bạn lành, không chịu học theo Trí tuệ ba-la-mật, không tu tập các pháp Tổng trì là pháp đứng đầu các kinh, luôn dấy khởi vọng kiến, chấp thủ vọng kiến, gặp thầy tà ham thích y bát. Đối với các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, tâm không cung kính, cũng chẳng thích gần gũi. Về các giờ giấc tu tập vào lúc đầu hôm, nửa đêm hoặc gần sáng, tâm thường sinh biếng nhác. Thường nói lời hai lưỡi khó tin, ưa thích nói dối, ác khẩu, tham ganh, gần gũi những người tà kiến, học theo tà kiến, rồi thì thường tu tà quán không thích học giới. Tâm không biết xấu hổ, không biết sợ sệt, gần gũi hạng ngu si, thích làm theo ngoại đạo, không tin ba cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh vô diệt. Đối với tất cả pháp không sinh tín tâm...
Này A-nan! Những người như thế khó có thể tỏ ngộ.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn vẫn im lặng.
Tôn giả A-nan nương năng lực thần thông của Phật, hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Vì sao Đức Như Lai im lặng như thế?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Vào thời kỳ mạt pháp, ở những đời vị lai có nhiều chúng sinh tâm địa như vậy, họ không tin chánh pháp, cũng không thể hiểu rõ chánh pháp.
Do vậy mà Đức Thế Tôn im lặng.
Tôn giả A-nan nói:
–Lại có chúng sinh tin tưởng chánh pháp không?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:
–Cũng có chúng sinh ít có lòng tin. Này A-nan! Ít người biết được chánh pháp là quý giá, còn phần đông thì không biết. Này A-nan! Ít có chúng sinh có khả năng tin hiểu. Nói pháp như thế khắp các thành ấp xóm làng, có nhiều chúng sinh đều lìa bỏ chẳng tin. Vì sao? Vì những chúng sinh đó do nhân duyên đời trước vốn gây ra tội chướng bài báng đạo pháp.
A-nan nói:
–Kính mong Bồ-tát vì những chúng sinh đó khiến cho họ được tin hiểu chánh pháp.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:
–Tôn giả nên hỏi Đức Phật, Đức Phật sẽ vì Tôn giả mà phân biệt giải thích.
Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu, các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai tuy sự hiểu biết và tin tưởng còn ít, nhưng nếu được nghe Phật giảng dạy sẽ rất vui mừng.
Lúc này, Đức Thế Tôn liền nhìn khắp bốn phía rồi hiện tướng lưỡi dài che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới. Từ lưỡi ấy phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp các thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc và hai phương trên, dưới đều như thế, mỗi phương đều có thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng.
Lúc ấy, bốn chúng nhờ năng lực thần thông của Phật nên cũng trông thấy các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông, đồng nói pháp này. Cũng đều xa nghe không thêm không bớt. Như vậy lần lượt các thế giới trong mười phương cũng lại như thế, đại chúng đều trông thấy và được nghe các Đức Phật ở các cõi đó nói pháp giống như ở phương Đông. Được thấy và nghe xong, đại chúng đều nhất tâm khuyến thỉnh Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót, phân biệt giảng nói lại cho chúng con hiểu. Chúng con nhờ thần lực Phật được thấy vô lượng, vô biên không thể tính kể các Đức Phật giảng nói chánh pháp. Chánh pháp ấy không thêm không bớt, không thể nghĩ bàn. Kính mong Thế Tôn hãy giảng nói về pháp ấy!
Lúc này, Đức Thế Tôn liền thu lưỡi về rồi bảo Tôn giả A-nan:
–Lẽ nào có những kẻ nói dối mà có thể có được tướng lưỡi như vậy chăng?
Tôn giả A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn, không! Nếu có người nói lời chân thật, mềm mỏng, có nhiều sự hiểu biết, lời nói khéo điều hòa, nhu thuận, làm lợi ích, Từ, Bi, Hỷ, Xả như vậy…, cho đến bậc Nhất thiết trí mới có được tướng lưỡi như vậy. Cúi mong Đức Thế Tôn, vì các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai có ít lòng tin mà phân biệt giải thích, cũng vì thương xót đối với những ai chưa hiểu mà giảng nói, sẽ khiến cho hạng người ấy sinh tâm hối hận.
Bấy giờ, Phật bảo A-nan:
–Bốn chúng đã nhóm họp, ngồi ngay ngắn cùng với tám bộ là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-lagià, Nhân phi nhân... các vị đến ngồi nghe pháp, tâm đều không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị sẽ ở nơi cõi này mà giảng nói chánh pháp, không thêm không bớt, giống như pháp ta hiện đang nói.
Bấy giờ, bốn chúng và Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Nhân phi nhân... đều sinh tâm vui mừng nên cùng nhau cởi những tấm y quý giá trên người mình dâng lên Đức Phật. Có người tung rải hoa, có người tung rải tràng hoa, có người dùng các thứ chuỗi vàng, bạc, lưu ly, pha lê, mã não, có người dùng các thứ chuỗi Tỳ-lô chiên-đàn, có người dùng các loại hoa như Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, có người dùng các thứ hoa do mình làm ra, tất cả đều tung rải lên chỗ Phật. Có người dùng các thứ hoa Ưu-bát-la cõi trời, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đàlợi... để tung rải lên chỗ Đức Phật. Trong hư không, nhạc trời tự nhiên hòa tấu vang lừng. Các vị Long vương thì tung rưới ngọc quý. Các phụ nữ thì dùng những xâu chuỗi ngọc cùng các thứ y phục quý giá dâng lên cúng dường Phật. Xong, tất cả các tín nữ ấy đều sửa lại y phục ngay ngắn, quỳ gối bên phải chạm sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cùng nhau bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai không hai.
Lúc bấy giờ Phật bảo A-nan:
–Đúng thế, đúng như lời họ vừa nói! Đức Như Lai không hai, đã dứt sạch ngu si. Như Lai, Thế Tôn không hề có tiếc lẫn, không còn mảy may lỗi lầm, vì đã lìa mọi tội lỗi, lìa bỏ mọi thứ dục lạc và tất cả phiền não, được thanh tịnh không cấu nhiễm. Mọi thứ kiêu mạn tham lam, ganh ghét đều trừ sạch không còn đầy đủ trí tuệ, giác ngộ chánh pháp, đạt đến bờ giải thoát. Như bậc Đại phạm được tự tại hoàn toàn oai nghi đầy đủ, các hạnh rốt ráo, được bốn thứ đầy đủ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, không còn chấp đắm vào các pháp hữu vi, vô vi, không nhiễm sinh tử, theo Phật, Thế Tôn được giải thoát chân chánh, được đầy đủ tri thức, không hề thiếu sót hay mất mát, đầy đủ sự gần gũi.
Tôn giả A-nan thưa:
–Thế nào gọi là Như Lai được đầy đủ tri thức không thiếu sót, mất mát? Thế nào gọi là đầy đủ nghe Phật, đầy đủ thấy Phật, đầy đủ gần gũi?
Phật bảo A-nan:
–Ông không rõ ư?
Tôn giả A-nan thưa:
–Con thật sự không rõ.
Phật dạy:
–Bây giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ giải thích cho ông hiểu.
Tôn giả A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu.
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Giờ đây ông nghe ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, đã nghe, sẽ nghe như vậy… thì đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì tất cả pháp thân nếu được giảng nói thì người thấy nghe đều được lợi ích.
Này A-nan! Nếu cúng dường Như Lai một cành hoa và sau khi ta nhập Niết-bàn, vì xá-lợi Phật mà xây tháp cúng dường thì cũng được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tôn giả A-nan thưa:
–Cho đến loài súc sinh, nếu được nghe danh hiệu Phật, thì cũng được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư?
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Nếu có người chỉ được nghe âm thanh Phật Thích-ca Mâu-ni rồi xưng niệm danh hiệu ấy thì đều là hạt giống của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu các thiện nam, thiện nữ được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì cũng đạt được những điều như đã nói, hoàn toàn là chân thật không hư dối.
Này A-nan! Ví như cây Ni-câu-đà, tàng cây tỏa rộng có thể che phủ cho một, hai, ba, bốn người, cho tới năm mươi, một trăm, một ngàn hoặc nhiều hơn nữa đi đến dừng nghỉ? Dưới bóng cây ấy, vậy thì theo ý ông, cây Ni-câu-đà con ấy lúc mới đem trồng là lớn hay nhỏ?
Tôn giả A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn, rất nhỏ!
Phật bảo A-nan:
–Cây Ni-câu-đà ấy nhờ mưa, nước, phân bón, đất đai, sức người cùng các trợ duyên khác qua năm tháng dần dần cao lớn.
Tôn giả A-nan thưa:
–Đúng vậy, bạch Thế Tôn!
Phật bảo A-nan:
–Cây Ni-câu-đà vốn rất nhỏ, nhờ đất, nước, thời gian cùng bao nhân duyên khác dần dà cao lớn. Như thế, này A-nan! Cũng như vậy, người được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì hạt giống căn lành đó không bao giờ bị mất đi, không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng giống như thế. Vì sao? Vì hạt giống vô tướng không trụ ở tất cả nơi, cho nên không bị hư thối. Do không bị hư thối nên hạt giống ấy cũng không thể bị hủy hoại, cũng không giữ được hình tướng của nó. Cho nên đối với tất cả pháp đều không bị mất đi.
Tôn giả A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn! Đó là năng lực bản nguyện của Đức Như Lai hay là tất cả pháp của các Đức Phật cũng đều như thế?
Phật liền đáp:
–Do năng lực bản nguyện. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu ta thì đều không bị thoái chuyển trên đường tiếng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Pháp của tất cả các Đức Phật cũng đều như vậy. Vì sao? Vì pháp của tất cả Phật đều bình đẳng.
Tôn giả A-nan thưa:
–Pháp của tất cả Phật bình đẳng có lợi ích gì?
Đức Phật dạy:
–Đó là có thể khiến cho chúng sinh tuy không nghe chánh pháp nhưng nhờ năng lực phát nguyện nên cũng khiến được cùng nghe pháp và đạt được lợi ích.
Bấy giờ, A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như Lai thành tựu pháp chưa từng có, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho các vị Đại Bồ-tát không?
Phật dạy:
–Đúng thế, này A-nan! Nay ta làm lợi ích lớn lao cho chúng sinh. Nếu người nào nghe pháp thì đều được sống trong ruộng phước lợi ích. Trong thời quá khứ ta đã cúng dường các Đức Phật, không hề tiếc rẻ thân mạng, tất cả đều xả bỏ, lìa mọi tham lam ganh ghét, siêng tu tinh tấn, các căn thanh tịnh, đối với tất cả các pháp không chấp không đắm, không hề nương tựa. Cho nên, này Anan! Ta đã đạt được giác ngộ, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho tất cả chúng sinh.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Thế Tôn giảng nói Pháp luân không thoái chuyển này làm cho ác ma không thể đến quấy nhiễu phá phách, vì sao vậy?
Đức Phật nói:
–Đó là do năng lực thần thông của Bồ-tát Vănthù-sư-lợi khiến cho Ma vương Ba-tuần không thể nghe được.
Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền phát lời thệ chân thật, khiến cho ác ma nghe được âm thanh trong hư không Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang chuyển Pháp luân không thoái chuyển.
Bấy giờ, ma vương Ba-tuần cảm thấy rợn người, tâm sinh kinh hãi, liền nói:
–Thấy thế giới này đều chẳng còn là thế giới.
Thế rồi buồn bã khóc lóc biến thành một lão già, như người trăm tuổi, tóc bạc, mặt nhăn nheo, thân thể tiều tụy lụ khụ. Lúc này, Ma vương liền nhóm họp bốn thứ ma binh và các thứ ma ở cõi trời, đều đến chỗ Đức Phật, cũng như khi Đức Như Lai mới thành đạo, chúng sửa soạn các thứ binh khí hăm hở kéo đi, nhưng mỗi người thấy thân mình đều là những người già suy, như người trăm tuổi thân thể lom khom. Chúng cầm khí trượng đi đến trước Phật.
Bấy giờ, bốn thứ binh và các vị trời trong hư không đều nghe Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chuyển Pháp luân không thoái chuyển, khiến chúng không thể tiến tới được, liền đứng qua một bên, lòng kinh hãi nghi ngờ, thảy đều không còn theo sự sai khiến của Ma vương nữa.
Khi ấy, Ma vương một mình, đi đến chỗ Phật, không còn bè bạn, bạch Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hiện giờ tôi đã già suy quá đỗi, mong được Thế Tôn thương xót giúp cho kẻ tay chân. Những cõi nước trước kia vốn là của tôi thì nay đều chẳng còn là của tôi. Như Lai là Đấng Đại Bi luôn thương xót tất cả chúng sinh, lẽ nào không giúp cho tôi một người để làm tay chân hay sao?
Đức Phật bảo Ma vương Ba-tuần:
–Ta xem chúng sinh trong các cõi rất nhiều, ví như cát sông Hằng không thể lường tính được. Giá như ngày ngày đều có các Đức Phật xuất hiện và độ vô số chúng sinh đạt đến giải thoát thì dù trải qua một kiếp hay hơn một kiếp cũng không thể khiến cho số lượng chúng sinh ấy giảm bớt.
Ma vương bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh các loài tuy nhiều vô lượng, nhưng tôi hiện không có được một người để có kẻ hầu hạ giúp đỡ, nếu có bị vấp té thì lấy ai giúp đỡ? Nên kính mong Đức Như Lai từ bi thương xót an ủi vỗ về khiến tôi được vui vẻ trở về cõi trời cùng các quyến thuộc.
Đức Phật bảo:
–Chúng sinh điên đảo chẳng tin chánh pháp đều là quyến thuộc của ngươi, đó chính là tay chân của ngươi, là bạn bè của ngươi!
Ma vương Ba-tuần nghe nói như vậy rất vui mừng, nói:
–Bây giờ tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh không phát khởi lòng tin mà lại luôn sinh nghi ngờ. Đã rơi vào nghi ngờ thì đều là vây cánh của tôi cả. Nghĩ vậy, Ma vương liền bạch Phật:
–Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy một lần nữa khiến tôi được vui mừng. Như Phật đã dạy là: Nếu như có chúng sinh nào được nghe và xưng niệm danh hiệu Phật thì đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vây kính mong Như Lai nên yên lặng đừng nói về Pháp không thoái chuyển ấy. Nếu có chúng sinh nào được nghe danh hiệu Phật thì các chúng sinh đó sẽ siêng năng tinh tấn tu đạo Bồ-đề.
Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy như thế!
Bấy giờ, Đức Phật bảo ma vương Ba-tuần:
–Ngươi chớ nên buồn khổ, nên vui mừng mà trở về cõi trời. Nay ta sẽ khiến cho không một chúng sinh nào phát tâm Bồ-đề. cũng khiến cho không một chúng sinh nào nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, cho đến không một chúng sinh về năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhận thức hiểu biết về thân kiến, nghi, giới, thủ... Cũng không có chúng sinh nào có ý tưởng nhận thức về quá khứ, hiện tại, vị lai. Cũng không một chúng sinh nào đối với các tội như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, tham dục, giận tức, tà kiến mà nhận thức tìm hiểu để trừ bỏ. Cho đến không thấy chúng sinh nào đối với các thứ tà vạy sai lầm mà có thể nhận thức để xa lánh. Ta cũng không thấy chúng sinh tu tập sáu pháp là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Không thấy chúng sinh sẽ dứt hết mọi ý tưởng về chúng sinh, thọ mạng, cha mẹ, anh em, vợ con, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, vài năm, một kiếp... Các ý tưởng về Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, về lực Vô úy, năm Căn, bảy Giác ý, tám Chánh đạo, các ý tưởng về Phật, Pháp, Tăng, về Bồ-đề, vô ngại, tất cả các pháp bất động. Nói chung là không có một chúng sinh nào đối với các ý tưởng ấy mà có thể nhận thức tìm hiểu để học hỏi tu tập.
Này ma vương Ba-tuần! Ngươi chớ sinh lo buồn, hãy vui mừng mà trở về.
Lúc này, ma vương Ba-tuần nghe Phật nói thế tức thì không còn lo buồn, lòng đầy vui mừng, ngay lúc ấy liền trở lại thành một chàng trai, liền tung rải hoa trời lên chỗ Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, lại đến trước Phật nói kệ:
Giờ tâm tôi vui mừng
Bậc Chánh Giác cứu đời
Lời Phật nói không khác
Chân thật chẳng luống dối.
Ma vương Ba-tuần nói bài kệ ấy xong, vui mừng ra đi, trở về cung trời, vui chơi năm thứ dục lạc, không còn dấy khởi tâm quấy phá, nhiễu loạn nữa.
Ma vương vừa đi không bao lâu, tức thì mặt đất rung chuyển sáu cách. A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nay vì sao mặt đất này rung chuyển sáu cách như vậy. Đâu phải là năng lực của ma?
Đức Phật nói:
–Đó là do năng lực thần thông của ta đã đuổi trừ được ma khiến cho mặt đất này rung chuyển sáu cách như thế. Lúc này, có đến sáu mươi bốn trăm ngàn chúng sinh được pháp Nhẫn vô sinh, do đó mà mặt đất rung chuyển đủ sáu cách như thế.
A-nan bạch Phật:
–Có chúng sinh nào khởi tâm nghi ngờ không? Phật bảo:
–Có tới mười ức người sinh tâm nghi ngờ, họ cho rằng, hôm nay chúng ta ở đây không có nghe lầm chăng? Thế rồi tâm ý đều rối loạn mê mờ, không còn biết bốn phương, không biết mình từ đâu đến... đó là do si mê, tăm tối nên không thấy nhau.
A-nan bạch Phật:
–Cúi mong Thế Tôn hãy mau thương xót, giúp cho các chúng sinh ấy tâm ý được trở lại sáng suốt thông tỏ, lìa bỏ mọi nghi hoặc.
Đức Phật dạy:
–Pháp tướng giả danh do Như Lai nói. Nếu không biết được thì đều đọa vào địa ngục.
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai khiến cho Ma vương tâm hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Như Lai lại nói là không có một ai an trụ nơi đạo Bồđề, cũng không có một chúng sinh nào có thể nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, đối với năm ấm, về thân kiến, về sáu mươi hai thứ kiến chấp thường đoạn hữu vô, về quá khứ, hiện tại, vị lai các thứ tướng, cũng không có một chúng sinh nào đối với tội lỗi như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời ác độc, nói lời hai chiều, nói lời thêu dệt, tham lam, sân hận, si mê, tà kiến... mà biết nhận thức tìm hiểu để dứt trừ. Vì sao Như Lai lại an ủi chỉ dẫn ma vương Ba-tuần như thế mà cho rằng: không có chúng sinh tu tập hạnh Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Cũng không có chúng sinh có ý tưởng về thọ mạng, về cha mẹ, vợ con, anh em, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, nhiều năm, thời tiết, nhiều kiếp... Vì sao Như Lai nói như thế là an ủi Ma vương Ba-tuần khiến chúng hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Lại cũng không có chúng sinh nào nhận thức để tìm hiểu, tu tập về tâm Bồ-đề, về các Căn, Lực, Vô úy, Giác ý, Đạo, Phật, Pháp, Tăng...
Kính mong Thế Tôn vì chúng đệ tử hiện có nơi chúng hội này mà nêu rõ soi sáng, khiến cho tất cả chúng sinh ở đời vị lai cũng được hưởng công ân soi sáng chỉ dạy ấy. Đã được thông tỏ thì đối với pháp này sẽ được lần lượt tiếp nối, phát huy không để cho bị gián đoạn, mai một. Nếu có chúng sinh nào phát tâm quyết chí tin tưởng lãnh hội thọ trì pháp này thì sẽ vì người ấy mà nói rõ nguyên do vì sao Như Lai nói như thế.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì vô số trăm ngàn chúng sinh nhằm dứt trừ mối nghi ngờ cho họ, nên nói lại bài kệ:
Bồ-đề không chỗ trụ
Cũng không người an trụ
Do bởi nhân duyên đó
Nói Bồ-đề vô trụ.
Bồ-đề và chúng sinh
Chẳng một, cũng chẳng khác
Do bởi nhân duyên đó
Nói Bồ-đề vô trụ.
Chúng sinh vốn chẳng động
Cõi ấy cũng như thế
Pháp ấy không thành tựu
Rốt ráo không thật có,
Thể tướng chúng sinh không
Cõi ấy khó nghĩ bàn
Không người có thể hiểu
Trí tuệ nhận thức khắp.
Chỉ Nhất thiết trí hiểu
Như các ấm đã nói
Chúng sinh không tướng động
Ấm tức là chúng sinh
Tướng không hai, không trụ,
Thể của ấm là không
Tánh, tướng là bất động
Nếu không tướng giữ được
Thì làm sao có động?
Cho nên biết các ấm
Cũng không có tướng động
Dứt bặt mọi lời nói
Vô tướng cũng vô thể.
Thân chính là tướng ấm
Ấm chính là hành xứ
Không hành xứ mà hành,
Nói ấm gọi là không.
Cõi không như đã nói
Chẳng sinh cũng chẳng khởi
Như thế đồng với ấm
Gọi là chẳng thể động.
Thân thấy tướng vô thế
Cũng không pháp thật có
Không thật, nên vô động
Nay ta nói như thế.
Chẳng chấp tướng chúng sinh
Rốt ráo không chỗ trụ
Cũng không có tướng tâm
Thân, chỗ, không thật có.
Như nói các kiến chấp
Hiển bày sáu mươi hai
Các chúng sinh như thế
Cũng như bóng đáy nước.
Kiến chấp bóng đáy nước
Sáu hai cũng như thế
Vô ngã, không thật có
Tánh ấy chẳng thể động.
Quá khứ và vị lai
Hiện tại cũng như thế
Vô tướng, không thật có
Đều như lửa, bóng nước
Đó gọi là vô ngã
Không có tướng chúng sinh
Chúng sinh chẳng thể động
Cũng không có người động
Ví như kẻ sát sinh
Ở đồng rộng sinh tử
Cũng trụ nơi vắng lặng
Đó gọi là bất động.
Nếu khiến chúng sinh động
Chúng sinh không thật có
Thật chẳng có chúng sinh
Cho nên nói bất động.
Bồ-đề không đứt đoạn
Cũng không có người độ
Cho nên phải siêng tu
Không được đối người động
Pháp thí chẳng nghĩ bàn
Độ chúng sinh quá khứ
Phải nên siêng tu tập
Đó gọi không thể động.
Độ thoát mọi tà dục
Cũng không dấy tưởng tà
Phải nên siêng tu tập
Đó gọi không thể động.
Các chúng sinh nói dối
Vì khiến được giải thoát
Sẽ phát tâm tinh tấn
Như tướng chẳng động kia.
Ác khẩu và hai lưỡi
Thêu dệt cũng như thế
Tướng bình đẳng như vậy
Như ánh lửa không thật.
Các pháp đều như thế
Cũng không chỗ nương dựa
Như âm vang tiếng gọi
Khéo biết tướng vắng lặng
Các vô minh quá khứ
Đắm ngã nên sinh ái
Nếu chứng được vô ngã
Đó gọi là bất động.
Nếu rõ phiền não hại
Thể tánh vốn vô tướng
Vô tướng tức Bồ-đề
Đó gọi là bất động.
Hiểu rõ các tà kiến
Trí chân chánh tu đạt
Tu hành các chánh trí
Lìa rừng rậm tà kiến
Đó gọi là bất động.
Nếu tâm không còn dục
Hiện nhận bảo nữ dâng
Cho đến các đồng nữ
Kẻ trí thường xa lìa.
Dùng tướng tà giữ giới
Nhưng không bỏ chánh pháp
Người trí không tâm ý
Chỉ mong cầu đạo Thánh.
Đó là tu pháp nhẫn
Hiển bày các ngoại đạo
Vô tâm mà hành nhẫn
Cũng không gần Niết-bàn.
Ngoại đạo tự bày khác
Năm nhiệt là tinh tấn
Chẳng phải điều trí tu
Khổ hạnh chẳng Bồ-đề
Định mà ngoại đạo nói
Chấp tướng làm chỗ hành
Không được Phật khen ngợi
Không khiến kẻ khác học.
Bồ-đề không sợ hãi
Che chở các chúng sinh
Do nhân duyên ấy nói
Chấp tướng không hề động.
Chẳng thuộc loại chấp đắm
Sinh ra tâm Bồ-đề
Bồ-đề không chấp tướng
Do đó chẳng thể động.
Cha mẹ anh em thảy
Chị em và vợ con
Ví như vật huyễn hóa
Do đó chẳng thể động.
Tất cả chấp pháp tướng.
Thảy đều không thật có
Nếu trụ không thật có
Do đó chẳng thể động.
Nếu có tưởng ngày đêm
Một tháng và nửa tháng
Tất cả tưởng như thế
Như lửa, bóng đáy nước
Bố thí và Trì giới
Tu Nhẫn nhục, Tinh tấn
Đều khởi lên chấp đắm
Tưởng ấy gọi là động.
Bồ-đề thế lực mạnh
Tu Thiền định, Trí tuệ
Nếu có tưởng Vô úy
Tất cả tưởng chẳng tưởng
Giác ý và chánh đạo
Vốn có tưởng Bồ-đề
Ngu si sinh khởi lên
Người hiểu biết xa lìa
Phật và tưởng các pháp
Cho đến có tưởng tăng
Các thứ tưởng như thế
Đều gọi là tưởng động.
Bồ-đề là vô tưởng
Chủng trí tức Bồ-đề
Xa lìa tưởng như vậy
Bồ-đề khó nghĩ bàn.
Cho nên nói như thế
Kẻ cầu như bóng nước
Nếu động tưởng ấy rồi
Thì chẳng xa Bồ-đề
Bồ-đề và chúng sinh
Tất cả pháp như như
Nên ta nói như thế
Không biết tâm ma ác.
Đức Phật lần lượt nói kệ đuổi trừ bọn ma xong, thì có mười ức chúng sinh dứt bỏ nghi ngờ, đạt được sự thông tỏ đối với các pháp, được pháp Nhẫn vô sinh, thế rồi tất cả các vị ấy đều đến trước Phật nói kệ:
Phật đạo khó nghĩ bàn
Là Tối thắng bậc nhất
Nên hiệu là Thế Tôn
Dứt nghi, được an định.
Tất cả đều sáng tỏ
An trụ trong Phật đạo
Ánh sáng khắp mười phương
Thấy vô số ức Phật.
Thấy Phật, được nghe pháp
Tướng tốt, thân trang nghiêm
Trừ nhơ, được trí tịnh
Bậc Năng Độ cứu đời
Trong trăm ngàn ruộng phước
Ruộng phước Phật tốt nhất
Tùy nơi Phật an trụ
Bậc Cứu đời Vô thượng.
Lúc ấy, có mười ức chúng sinh nghe kệ ấy, rồi đều dâng y phục quý giá lên cúng dường Đức Phật và cúng dường Pháp, đều nói:
–Xin khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe pháp này, đều cùng đến nhóm họp.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã chuyển Pháp luân đuổi ma, các vị nam nữ trong dòng họ của Đức Như Lai đã được nghe, đều được giải thoát, tin nhận không nghi ngờ, thế thì được bao nhiêu phước đức?
Đức Phật dạy:
–Này Tôn giả A-nan! Nếu như có các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai vào lúc mặt trời mới mọc gần gũi cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi một trăm vị Phật, vào giữa trưa gần gũi cúng dường một trăm vị Phật, cho đến buổi chiều cúng dường một trăm vị Phật, vào lúc đầu hôm cúng dường một trăm vị Phật, lúc nửa đêm cúng dường một trăm vị Phật, lúc gần sáng cúng dường một trăm vị Phật, dùng các thứ nhạc cụ hay, y phục quý giá cúng dường Phật trong hai vạn năm, sáu thời trong một ngày tôn trọng khen ngợi, đi đứng ngồi nằm tu hành cúng dường, vẫn như lúc đầu không hề tạm nghỉ.
Này A-nan! Vậy ý của ông nghĩ sao? Phước đức ấy có nhiều hay không?
Tôn giả A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn! Phước đức ấy rất nhiều, không thể dùng thí dụ mà biết được số lượng.
Đức Phật nói:
–Này A-nan! Nếu các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, được nghe về đoạn kinh đuổi trừ ma này, lần lượt nghe về ý nghĩa của nó, lại tin hiểu không sinh nghi ngờ thì công đức của những người ấy còn hơn trường hợp cúng dường kể trên rất nhiều.
Phật bảo:
–Này các thiện nam! Lại có ba vị Đại Bồ-tát từ phương Đông đến an trụ trong đạo Đại thừa, cầm đóa hoa Mạn-đà-la có trăm ngàn muôn cánh tỏa sáng như mặt trời vừa mới mọc.
Tôn giả A-nan cùng tất cả các vị trong chúng hội đều trông thấy và cho là đều chưa từng có. Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:
–Bạch Phật Thế Tôn! Ba vị trong dòng họ của Đức Như Lai từ chốn nào đến?
Đức Phật đáp:
–Về phương Đông, trải qua hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Tu-di liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vân Thượng Công Đức Như Lai, hiện đang trụ thế. Trong đó, ba vị thiện nam, vừa mới nghe pháp, từ cõi ấy đến đây. Bấy giờ, ba vị Bồ-tát đứng trước Đức Thế Tôn, tung rải hoa Mạn-đà-la lên chỗ Phật để cúng dường, sau đó cùng bạch Phật:
–Chúng con đối với pháp này rất sinh tâm tin tưởng, lãnh hội sâu xa, không có nghi ngờ. Vì sao? Vì Đức Như Lai Thế Tôn đã nhờ pháp này mà không còn nghi ngại, cho nên hôm nay chúng con cũng không còn sự nghi ngại.
Lúc này, vị Bồ-tát thứ nhất trong ba vị Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có người gọi Thế Tôn là Như Lai thì con chính là Như Lai. Vì đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.
Vị Bồ-tát thứ hai lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là Thế Tôn, thì con chính là Thế Tôn, cũng đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.
Vị Bồ-tát thứ ba bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà thì con cũng là A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà, vì cũng đối với pháp này không còn nghi ngờ.
Bấy giờ, trong đại chúng có vô lượng trăm ngàn ức người, tất cả đều kinh ngạc, tâm chẳng vui thích, cùng bàn tán với nhau: Chúng ta từ trước đến nay chưa hề nghe nói ở một thế giới mà có tới hai vị Phật. Vì sao hôm nay ba vị Đại sĩ ấy mỗi vị đều tự xưng là Phật, đều ở trước Thế Tôn mà nói như thế?
Chỉ có Phật, Như Lai là Bậc Tôn quý trong trời, Người đối với tất cả các pháp đều được tự tại, thông suốt ba đời không chút trở ngại. Do đâu mà ba vị Bồ-tát hôm nay đều nói như vậy?
Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Ba vị Bồ-tát ấy tên là gì mà có thể ở trước Phật vừa bày tỏ những lời như tiếng rống của Sư tử?
Đức Phật đáp:
–Ba vị Bồ-tát đó, vị thứ nhất tên là Nhạo Dục Như Lai Thanh Chánh Trụ, vị thứ hai tên là Nhạo Dục Thế Tôn Thanh Chánh Trụ, vị thứ ba tên là Nhạo Dục Phật Thanh Chánh Trụ. Này A-nan! Do nhân duyên như thế nên ba vị Đại sĩ ấy mới nói những như vậy.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như vậy là có đến hàng trăm ngàn muôn ức vị trong chúng hội, tâm đều kinh ngạc do nghe ba vị Bồ-tát ấy nói những lời vừa rồi. Lại có người nghe, tâm không kinh ngạc hay nghi ngờ mà lại tăng thêm sự thanh tịnh tốt đẹp. Ví như có người trẻ tuổi luôn trang sức dung mạo mình, hình thể tươi đẹp thanh tịnh, tinh khiết, lại tắm gội, dùng hương thơm, dầu thơm xoa thân, lại dùng nhựa hương chiên-đàn đỏ rảy lên người nữa. Như vậy là người trẻ tuổi ấy càng thêm thơm tho trong sạch bội phần. Cho nên, nếu người nghe được pháp này, tin tưởng thọ trì không nghi ngờ thì cũng ví như người ấy vậy.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì sao các vị Bồ-tát lại nói như thế?
Phật dạy:
–Ba vị Bồ-tát này đã khéo hiểu về giả danh, cho nên nói lời ấy.
Tôn giả A-nan nói:
–Đúng thế, đúng thế! Ba vị Bồ-tát đó đã khéo nói về giả danh. Cúi mong Thế Tôn giải thích lại cho con nghe, cũng khiến cho đại chúng tâm ý được thêm sáng tỏ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì hàng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, nhằm giúp họ cởi bỏ mối nghi ngờ hối hận, gieo trồng căn lành nên liền nói kệ:
Nếu thấy được quá khứ
Vị lai cũng như thế
Biết các pháp như thật
Đó gọi là Như Lai.
Hiện tại cũng như vậy
Quá khứ, vị lai đồng
Chẳng một, cũng chẳng khác
Tướng rốt ráo vắng lặng.
Thệ như Phật quá khứ
Hành thí chẳng nghĩ bàn
Thí ấy cũng như thế
Do vậy nói giả danh.
Ví như Phật quá khứ
Trụ Bồ-đề vô ngại
Trụ ấy cũng như thế
Đó gọi là Như Lai.
Tất cả pháp không trụ
Bồ-đề cũng vắng lặng
Không có tướng Bồ-đề
Đó gọi là Như Lai.
Nếu nói giới quá khứ
Vị lai cũng như vậy
Hiện tại đều đồng nhau
Đó gọi là Như Lai.
Đời quá khứ hành nhẫn
Bồ-tát chặt tay chân
Nhẫn ấy cũng như thế
Đó gọi là trụ nhẫn.
Nếu phát khởi tinh tấn
Vun trồng gốc giác ngộ
Được tinh tấn ấy rồi
Đó gọi là Như Lai.
Tất cả pháp bình đẳng
Được chứng như thật kia
Cũng chẳng chấp tướng ngã
Đó gọi là Như Lai.
Không chấp đối các pháp
Tất cả đều bình đẳng
Biết bình đẳng ấy rồi
Vô tướng, không thật có,
Các chánh định như vậy
Không chấp tướng các pháp
An trụ trong thiền định
Đó gọi là Như Lai.
Tánh, tướng tất cả pháp
Và các pháp đã nói
Biết tánh, tướng ấy rồi
Như thật, không thật có,
Phải biết các pháp không
Trí tuệ chẳng ruộng phước
Biết đó chẳng phải trí
Đạt đến trí giải thoát.
Như đến bờ giác kia
Trí tuệ không nghĩ bàn
Nhưng không được trí này
Đến bờ kia vắng lặng
Tướng như, trí chẳng đạt
Không có bờ này, kia
Trí chẳng đạt như vậy
Đó gọi là Như Lai.
Bồ-đề chẳng như được
Phàm ngu chẳng thể nghĩ
Tất cả pháp vô đắc
Đó gọi là Như Lai.
Nếu đạt được vô ngại
Mà tới chốn Đại trí
Tất cả pháp không lợi
Chứng giác ngộ vô ngại,
Như đạo vốn tu tập
Bậc Cứu đời tế độ
Được đạo không nương kia
Biết rõ được thể, tướng
Tu tập như vậy rồi
Đạt được đạo Tối thắng
Điều phục đạo này rồi
Biết tất cả đều không,
Biết rõ đầu, giữa, sau
Đều đồng với các pháp
Pháp ấy là bình đẳng
Nên gọi là Như Lai.
Nếu đạo như Bồ-đề
Đó gọi trụ Bồ-đề
Giống như tướng hư không
Đó gọi là Như Lai.
Nói pháp như thế rồi
Như tướng đều bình đẳng
Nếu việc ấy vô ngại
Đó là trụ Bồ-đề.
A-nan biết giả danh
Lời nói là Như Lai
Lời nói cũng như thế
Hành xứ của người trí,
Bồ-tát không sợ hãi
Trí sáng chẳng lui sụt
Tất cả các hành xứ
Thảy nêu rõ như vậy,
A-nan biết thứ lớp
Những điều Như Lai nói
Vì các vị Bồ-tát
Khiến đạt được vô ngại.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền nói kệ:
Vì bởi nhân duyên gì
Biết được tướng các pháp
Bồ-tát này vô ngại
Cũng gọi là Thế Tôn?
Đức Thế Tôn đáp:
Trong trăm ngàn muôn ức
Vô lượng vô số kiếp
Mới thành tựu Bồ-đề
Phật đạo khó nghĩ bàn
Thành tựu Bồ-đề rồi
Vì chúng sinh trụ thế
Chốn chốn thật không sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Đã vượt nẻo luân hồi
Chẳng còn bị sinh tử
Vì cứu độ chúng sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Không còn luân hồi nữa
Cũng không còn sinh tử
Làm sao nhổ gốc khổ
Hiệu thế Vô Thượng Tôn
Không nhớ nghĩ các pháp
Cũng không còn nguy khốn
Không có tướng chúng sinh
Vượt qua các khổ não,
Không trôi lăn sinh tử
Cũng không trụ sinh tử
Khiến chúng trụ như thị
Đó gọi là Thế Tôn.
Được các pháp không sợ
Đối Phật cũng như thế
Mênh mông không bờ mé
Nói pháp rất nhiều thứ.
Các pháp rốt ráo không
Thể tánh của Phật pháp
Thành tựu như thế rồi
Nhưng không thấy các pháp.
Nếu tinh chuyên tu hành
Thể tánh pháp là không
Tâm không còn sợ hãi
Đó là biết pháp không.
Biết các pháp như thật
Tất cả đều vọng tưởng
Hiển bày không sợ hãi
Pháp tướng thật như thế.
Đã vượt chốn sợ hãi
Cũng lìa nơi an ổn
Không sợ cũng không hãi
Vượt qua các đường ác.
Cứu giúp bao chúng sinh
Lìa nỗi sợ sinh tử
Chẳng còn bị sinh tử
Cứu độ được chúng sinh.
Đặt để chúng sinh trên
Bờ Niết-bàn vắng lặng
Cũng không tướng chúng sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Các pháp như hư không
Hiện rõ nơi muôn loài
Nơi ấy cũng không sợ
Đó gọi là Thế Tôn.
Tất cả pháp bình đẳng
Hiển hiện ra nhiều loại
Bồ-đề dứt phân biệt
Không có tướng Bồ-đề,
Chúng sinh tu như thế
Được thành tựu giác ngộ
Tu hành đúng lời dạy
Dứt các tưởng lo sợ,
Tưởng phân biệt Bồ-đề
Giống như tưởng chúng sinh
Vượt qua tất cả tưởng
Đó gọi là Thế Tôn.
Dứt bỏ tất cả tưởng
Bồ-tát thì không cấu
Không có tướng tên gọi
Đó gọi là Thế Tôn.
Biết rõ tất cả pháp
Đồng với lìa diệt hết
Quá khứ chẳng thật có
Đó gọi là Thế Tôn.
Vì chẳng trọng tên gọi
Nên gọi chẳng cầu danh
Người lìa chấp tên gọi
Nói pháp rộng họ nghe,
Bồ-đề lìa tên gọi
Như chỗ ở của kia
Chúng sinh trọng tên gọi
Nên xa lìa Bồ-đề.
Tên gọi như tiếng vang
Phân biệt thì nhiều loại
Tiếng cũng không phân biệt
Nương không có tên gọi,
Chẳng đắm tất cả tiếng
Tên cũng không chỗ nương
Bồ-đề không đùa bỡn
Đó gọi là Thế Tôn.
Các pháp như thế ấy
Do Thế Tôn giảng nói
Bồ-tát chẳng đạt được
Đó gọi là Thế Tôn.
Nếu hiểu việc tu đạo
Không, có người biết được
An trụ trong Bồ-đề
Dứt ngại, gọi vô lậu.
A-nan! Giả danh này
Chỉ dùng ngôn ngữ nói
Vì thế ta nay xưng
Danh hiệu là Thế Tôn.
Tôn giả A-nan lại nói kệ:
Vì bởi nhân duyên gì
Bồ-tát nói như thế
Lại vì nhân duyên gì
Được tôn xưng là Phật?
Đức Phật đáp:
A-nan đệ tử Phật
Tất cả pháp không ngại
Giác ngộ pháp vô ngại
Được tôn xưng là Phật.
Phật biết lỗi, phiền não
Làm cho không tự tại
Đã lìa các kết sử
Được tôn xưng là Phật.
Nhờ không được thành Phật
Cũng không có tướng thân
Trong đó không chân thật
Làm sao thân thật được?
Chẳng bền, tưởng bền chắc
Phàm phu chấp là thân
Giác ngộ như thật rồi
Được tôn xưng là Phật.
Biết ngu si không trí
Thể tánh không thật có
Trí tuệ sáng đạt được
Được tôn xưng là Phật.
Vốn tưởng có quá khứ
Giác rồi không còn tưởng
Biết tưởng và vô tưởng
Không để tưởng tự tại.
Hiểu rõ đối sắc ấm
Vốn tự trụ vô sinh
Phàm phu vọng phân biệt
Chẳng sắc, chẳng thành tựu.
Biết rõ không cội gốc
Xưa nay không có tánh
Vì thế không lãnh thọ
Tất cả pháp không nương.
Tưởng như lúc lửa bùng
Nhân duyên không thật có
Do đó dứt bỏ tưởng
Tất cả pháp cũng thế.
Không có thân hành này
Tướng thân không bền chắc
Nếu biết thân hành không
Thì sẽ không đắm thân
Thân này và tướng hành
Thảy đều như cây chuối
Biết chân thật như thế
Nên tôn xưng là Phật.
Cầu tướng chân thật thức
Chẳng nằm ở trong thân
Cũng lại chẳng ở ngoài
Làm sao có chỗ sinh?
Nếu thức ấy không sinh
Thì các pháp cũng vậy
Đều không có nơi chốn
Hữu vi không thật có.
Biết thức như thế rồi
Rốt ráo không thật có
Thể tánh giống như huyễn
Cũng không có kẻ sinh
Nếu chẳng thể thấy thức
Chúng sinh cũng như thế
Thật chẳng có chúng sinh
Làm sao biết được thức?
Thức này không có thật
Các pháp rốt ráo không
Pháp cùng với chúng sinh
Tất cả không thành tựu.
Tất cả pháp vô tướng
Đã tỏ rõ như vậy
Vắng lặng không đùa bỡn
Nên tôn xưng là Phật.
Chứng biết đối Phật pháp
Chỗ chánh giác an trụ
Tất cả pháp đều không
Nên tôn xưng là Phật.
Như Lai là giác ngộ
Chỗ Chánh Giác an trụ
Phật và tướng Bồ-đề
Rốt ráo không thật có
Nếu sinh khởi tâm xứ
Cũng như trụ Bồ-đề
Tâm đồng với Bồ-đề
Phật giống như huyễn hóa.
A-nan! Giả danh này
Chỉ dùng ngôn ngữ nói
Được xưng gọi là Phật
Ta là Đấng cứu đời.
Tương tợ sinh như vậy
Đồng Phật âm thanh nói
Nếu được Pháp âm này
An trụ trong Bồ-đề.
Không đắm mê Bồ-đề
Nên hiểu biết như vậy
Chẳng nên sinh tâm nghi
Tất cả pháp không cầu.
Đối các pháp dứt nghi
Trên hết trong chúng sinh
Pháp tương tự như vậy
Nên biết tướng chân thật.
Đức Phật đã nói về ba danh hiệu Như Lai, Thế Tôn, Phật như thế, bấy giờ có trăm ngàn ức chúng sinh bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con thật sự nhờ ánh sáng của Phật soi sáng nên đã dứt bỏ được các nghi ngờ.
Các vị Đại Bồ-tát ấy đã nêu lên và Đức Thế Tôn đã nhân đó nói về các thứ giả danh, đã nói rõ về các danh hiệu Như Lai, Thế Tôn và Phật. Giờ đây chúng con đã biết như thế, đã hiểu như thế rồi, đối với tất cả các pháp đã được nhẫn lực. Đức Như Lai, Thế Tôn đã làm lợi ích lớn lao, giống như cha mẹ. Nhờ năng lực thần thông của Phật và tay trí tuệ của Phật đã kéo chúng con ra khỏi lầm lạc không còn bị nhiễu loạn nữa. Cũng như Đức Thế Tôn đối với tất cả đều bất động.
Bạch Thế Tôn! Ví như hư không, không ai có thể làm cho lay động. Cũng như vậy bạch Thế Tôn! Chúng con đối với tất cả các pháp tâm cũng bất động. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều đồng với hư không, như Phật đã giác ngộ không có tướng động.
Lúc này, trăm ngàn ức đại chúng đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi ngồi sang một bên cách chỗ Phật không xa.
Khi Phật nói phẩm Như Lai Thế Tôn Phật Danh này, Bồ-tát Thường Chiếu Tịnh Căn liền đứng dậy, sửa sang lại y phục bày vai áo bên phải, đầu gối phải quỳ sát đất, tung rải các thứ hoa lên chỗ Phật, đều nói kệ khen ngợi Phật:
Chúng sinh tham đắm quả
Đều khiến được giải thoát
Lìa tưởng quả trọn nên
Thành tự lìa tưởng quả
Nên con lễ Bậc Trí
Giảng nói các thứ quả
Khiến biết tướng bình đẳng
Chánh giác chứng bình đẳng
Quy mạng lễ Tối Thượng.
Chúng sinh thường tham đắm
Hành xứ các thứ quả
Vì Phật là giải thoát
Nên con lễ Bậc Trí
Hiển bày ra các pháp
An trụ chốn bình đẳng
Biết được bình đẳng rồi
Kính lễ Đấng Mâu-ni
Chúng sinh nhiều trói buộc
Rất nhiều các quả báo
Phật đều khiến giải thoát
Quy mạng lễ Vô Thượng
Thành tựu đạo vắng lặng
Không trụ các quả vị
Khéo biết tướng giả danh
Đảnh lễ Bậc Thế Trí.
Đại Bồ-tát Chiếu Minh Tịnh Căn nói kệ xong liền đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi đến cách chỗ Phật không xa để chiêm ngưỡng dung nhan, mắt không tạm rời.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Liên Hoa Thắng Tạng đứng dậy, sửa lại y phục bày vai bên phải, gối phải chấm đất, tung rải các thứ hoa cúng dường Phật.
Lại khen ngợi Phật bằng bài kệ:
Chúng sinh thường chấp tưởng
Đều khiến dứt trừ hết
Lìa sợ, được vui mừng
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Vắng lặng lìa ba cõi
Không sợ mà nói pháp
Bậc mạnh mẽ trong đời
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Biết pháp vốn vắng lặng
Thế ấy không thật có
Nhiệm mầu trong các pháp
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Đã lìa hẳn ba cõi
Dứt bỏ các kết sử
Lìa sợ, được không sợ
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Không sợ cũng không hãi
Trên hết trong các thí
Vượt hơn tất cả thí
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Lìa sợ được không sợ
Nhổ sạch tên ưu độc
Nêu các pháp giải thoát?
Kính lễ Đấng Mâu-ni.
Đại Bồ-tát Liên Hoa Công Đức Tạng nói kệ khen ngợi Đức Phật như thế xong, liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào vào đời Mạt pháp được nghe kinh này, tâm không kinh sợ thì con sẽ đảnh lễ họ.
Bấy giờ, Bồ-tát Ly Cấu Ý ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Thường nên rải các hoa
Điều người trí tu hành
Được nghe kinh này rồi
Sẽ khiến được giải thoát.
Đại Bồ-tát Quảng Tư Duy ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Pháp Phật rất sâu rộng
Hiển nói kinh như thể
Sẽ có ít chúng sinh
Tin nhận chẳng nghi ngờ
Tham đắm đối ngã kiến
Chấp ý tưởng về thân
Không tin nhân kinh này
Đó là kẻ không trí.
Đại Bồ-tát Liên Hoa Nhãn ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Thật vì các chúng sinh
Mở bày mắt dẫn đường
Đối kinh pháp như thế
Chỉ người lành không nghi.
Đại Bồ-tát Bất Tư Nghị Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Bậc tôn quý trong đời
Chúng sinh khó nghĩ bàn
Nói các kinh như vậy
Nghe dứt các nghi hối.
Đại Bồ-tát Thường Ức Niệm ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:
Nếu người không nhớ nghĩ
Nhiều kiếp trong sinh tử
Không đắm mê các pháp
Tu hành thì không nghi.
Đại Bồ-tát Bảo Y Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:
Y phục nhiều cả ức
Sạch sẽ và mềm mại
Mới, dày, xin phủ kín
Tu hành thì dứt nghi.
Đại Bồ-tát Thí Thực ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Bày biện thức uống ăn
Đầy đủ các món ngon
Hằng ngày phải thường thí
Tu hành không có nghi.
Bồ-tát Bi Hành ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Vì thương các chúng sinh
Nên thường thường kêu khóc
Kinh này thật sâu mầu
Chán ác không tu học.
Nếu từ địa ngục đến
Ắt ưa ở địa ngục
Tuy dường tu công đức
Khoảnh khắc liền sinh nghi
Gần gũi các bạn xấu
Chẳng tin pháp sâu xa
Lưới ngu si tự che
Sinh nghi ngờ như vậy.
Có những kẻ phá giới
Tâm ác thấy tội ấy
Nghe kinh chẳng tin nhận
Phỉ báng các hành này
Biếng nhác, không tinh tấn
Chẳng trụ trong Bồ-đề
Vô trí, tâm thấp hèn
Không hiểu hạnh như thế.
Chúng sinh thường ưa đắm
Ta thấy tâm tự tại
Luôn quanh quẩn ba cõi
Không thể tu hành được
Ngu si khởi tâm ác
Vô trí, đắm các dục
Thích ở chốn ồn náo
Làm điều phỉ báng ấy.
Kẻ ngu si trí kém
Tham lam, thích ăn uống
Chẳng tu pháp thanh tịnh
Nên làm việc phỉ báng
Chúng sinh nhiều tham đắm
Thiên chấp, lấy vọng tưởng
Chẳng biết là giả danh
Chỉ cứu đời độ được.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Năng Viễn Ly Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:
Xa lìa các chúng sinh
Như bỏ vật nhơ uế
Hư giả như tiền bùn
Giải thoát đắm tướng quả.
Ví như thây chết hoại
Ác ấy rất đáng chán
Nếu bài báng hạnh ấy
Nên mau mau xa lìa.
Như giặc cướp xóm làng
Ở nơi đường trống trải
Người nghe đều tránh xa
Mong chẳng gặp ác ấy.
Nếu thấy kẻ hủy hoại
Chán ác như giặc hại
Lại bài báng kinh này
Chớ thấy ác như thế.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ-tát như thế rất là ít có. Tâm ý hiểu rõ, đó là do định lực của mình hay là do thần lực của Phật?
Đức Phật nói:
–Đều là nhờ thần lực Phật mới nói được như vậy, cũng là uy lực công đức của kinh này nên mới được vô ngại. Vì sao? Vì các vị trong dòng họ của Như Lai đó đã từng trải qua sáu mươi hai ức Đức Phật, được nghe chính miệng các Đức Phật nói về pháp này không thêm không bớt, cũng như được nghe ta nói không khác. Do đó, nhớ nghĩ tất cả các năng lực thiền định và năng lực thần thông của các Đức Phật đời quá khứ.
Tôn giả A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn! Đúng thế, đúng thế! Tin tưởng lời Phật dạy, các vị Bồ-tát ấy hiện có thể chứng biết.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, nếu được nghe pháp này, lần lượt tin tưởng hiểu rõ không dấy khởi nghi ngờ, vậy thì các vị ấy sẽ đạt được phước đức như thế nào?
Đức Phật dạy:
–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai an trụ trên đường tiến đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu như có người cúng dường Phật bảy thứ báu đầy khắp trong cõi Diêm-phù-đề thì công đức của người ấy chẳng bằng được nghe kinh này thứ lớp câu nghĩa tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ thì phước đức rất nhiều. Giả sử cúng dường hết toàn bộ bảy thứ báu trong cõi Diêm-phù-đề, cũng như toàn bộ các thứ châu báu trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng lên Đức Phật, nhưng nếu lại có các thiện nam, thiện nữ được nghe kinh này, thứ lớp câu nghĩa, tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ, tâm cũng không hối hận công đức của các vị ấy hơn hẳn trường hợp kia.
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Giả sử khắp tam thiên
Các châu báu đầy dẫy
Cúng dường Đức Như Lai
Cứu độ các thế gian.
Nếu Phật nói kinh này
Mà có người lắng nghe
Trí tuệ được giải thoát
Phước ấy hơn người kia.
Ví như cát sông Hằng
Ở nơi các thế giới
Bảy báu đều đầy khắp
Thảy cúng dường Như Lai.
Đối với lời Phật nói
Tín nhận kinh điển này
Đó là trí giải thoát
Phước ấy cũng hơn kia.
Lúc này, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe thì các vị ấy được bao nhiêu phước đức?
Đức Phật nói:
–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai ấy, trụ trong đạo Vô thượng, trong trăm kiếp tu hạnh bố thí, cúng dường Như Lai, cũng trải qua trăm kiếp tu các pháp Ba-la-mật là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, lại trải qua trăm kiếp được năm thứ thần thông, tu tập đạt được mọi thứ trí thức ở thế gian, đầy đủ giới thân, nhưng nếu các vị đó xa lìa kinh này thì cũng không được gọi là tôn trọng cúng dường các Đức Như Lai. Nếu có các thiện nam, thiện nữ tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe thì những vị ấy sẽ được phước đức nhiều hơn trường hợp trên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Giả sử trong trăm kiếp
Hết thảy các thức ngon
Cúng dường Bậc Cứu đời
Không gọi tôn trọng cúng.
Nếu người muốn cúng dường
Phải thọ trì kinh này
Xả bỏ tưởng phước báo
Tu tập cúng dường pháp,
Người cúng dường như thế
Mới gọi chân cúng dường.
Lấy pháp làm cúng dường
Pháp thân của Như Lai
Giả sử trong trăm kiếp
Dâng y phục cúng dường
Đấng Thế Tôn cứu đời
Thí nhiều các y phục
Không gọi là cúng dường.
Có người trì kinh này
Đó gọi chân cúng dường
Là Bậc nhất, trên hết
Giả sử trong trăm kiếp
Thường rải các hoa trời
Dâng cúng các Thế Tôn
Chưa gọi là cúng dường.
Nếu cúng dường Bậc nhất
Bậc Cứu đời độ thế
Nên thọ trì kinh này
Nên dứt tướng quả báo.
Nếu xây tháp bảy báu
Vì cứu đời mà lập
Tất cả như Tu-di
Không gọi cúng dường Phật.
Đây là cúng lớn nhất
Hơn hẳn cúng dường khác
Người trì được kinh này
Chẳng chấp tướng thân ta
Giả sử trong trăm kiếp
Tu giữ các giới cấm
Mà chẳng trì kinh này
Chưa gọi là hơn hết.
Nghe kinh và giữ giới
Xem giới là hơn hết
Cũng đối việc trì kinh.
Không nghĩ mình trì kinh.
Không gọi là phạm giới
Cũng không gọi phá giới
Tu học được kinh này
Như lời ta giảng dạy.
Nếu tu được kinh này
Cũng khéo tu Bồ-đề
Tuy cùng tu Bồ-đề
Mà thật không điều học.
Giữ giới được như vậy
Điều kinh này hiển bày
Đối giới được đầy đủ
Đó gọi là giữ giới.
Giả sử trong trăm kiếp
Có người tu Nhẫn nhục
Đánh mắng không đánh lại
Tất cả đều nhẫn được.
Cho đến chặt tay chân
Mà không khởi ý khác
Cũng chẳng sinh oán hờn
Tất cả đều không nghĩ
Thực hành được nhẫn này
Đầy đủ trong trăm kiếp
Tuy tu nhẫn như vậy
Tâm không cho là hơn
Đó là nhẫn bậc nhất
Cũng gọi là khéo tu
Nếu được nghe kinh này
Tin hiểu mà thọ trì
Đó là nhẫn trên hết
Bậc nhất không gì hơn
Nếu đối với kinh này
Nghe rồi mà tin hiểu
Mong đạt được vô ngại
Trí tuệ Phật Vô thượng
Nên thọ trì kinh này
Thì sẽ mau đạt được
Giả sử trong trăm kiếp
Tinh tấn thường không ngồi
Giờ kinh hành đã qua
Dứt bỏ sự ngủ nghỉ
Người trí tu kinh này
Nên giảng nói người nghe
Thì được không sợ hãi
Đó gọi tinh tấn nhất.
Giả sử trong trăm kiếp
Chứng được năm thần thông
Nếu chẳng nghe kinh này
Không gọi thần thông nhất.
Nếu trì được kinh này
Gọi là thần thông nhất
Hơn những thần thông khác
Biết nghĩa mà không đắm
Giả sử trong trăm kiếp
Thường làm người trí sáng
Đầy đủ trí thế gian
Biết rõ việc thế gian.
Nếu chẳng học kinh này
Chưa xứng là người trí
Nếu trì được kinh này
Gọi là người sức mạnh.
Nếu biết được như thế
Đó gọi là người trí
Thọ trì kinh điển này
Nghe thì tin, hiểu được.
Hiển bày trong kinh này
Hành xứ của người trí
Nếu trì được kinh này
Phải siêng năng tinh tấn.
Khi ấy, Tôn giả A-nan lại nói kệ:
Đi đủ trăm do-tuần
Hoặc cả ngàn do-tuần
Sẽ đến chỗ người trí
Nơi có kinh pháp này
Thường nên đến chỗ ấy
Để nghe được kinh này
Nghe rồi mà tin hiểu
Tâm họ thường thuận theo
Ví lửa khắp thế giới
Trăm ngàn ức do-tuần
Nếu chỗ có kinh này
Người trí mau đến nghe
Nếu cầu thiền định Phật
Hơn hẳn các thiền định
Nên nói kinh như thế
Dứt bỏ các phiền não
Nếu có người muốn bỏ
Ưa đắm đối thế gian
Vì hiển bày kinh này
Như lời Phật đã nói.
Nếu muốn thấy các Phật
A-súc là trên hết
Trong các thứ thọ trì
Kinh này là Bậc nhất.
Muốn được mọi niềm vui
Tu các hạnh Bồ-tát
Phải nên nói kinh này
Mau đến chỗ an vui.
Muốn thấy Bậc Chánh Giác
An dưỡng khó nghĩ bàn
Nên giảng nói kinh này
Như lời Phật giảng nói.
Lúc bấy giờ, Phật bảo A-nan:
–Lành thay, lành thay! Khi nói kinh này, các nam, nữ trong dòng họ của ta nếu được nghe rồi, tâm không tán loạn, đọc tụng kinh này, xa lìa tất cả những chỗ gần gũi, tất sẽ dứt bỏ tất cả các thứ ràng buộc chấp đắm. Nếu muốn thấy Phật liền được thấy, khi sắp qua đời sẽ được tận mặt thấy trăm ngàn Đức Phật. Vì sao? Vì các vị ấy luôn được tất cả các Đức Phật che chở giữ gìn, nói được kinh này lại còn thọ trì đọc tụng, kính tin, hiểu rõ, cũng giảng nói giải thích cho người khác nghe.
Lúc bấy giờ, trong bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có một vị đồng nữ tên là Sư Tử cùng năm trăm đồng nữ khác bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có người nữ đọc tụng kinh này, lại giải thích, giảng nói cho người khác nghe thì người nữ ấy được phước gì?
Phật bảo đồng nữ Sư Tử:
–Nếu có người nữ, an trụ trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thọ trì đọc kinh điển như vậy, lại giảng nói cho người khác nghe, thì nên biết rằng những người ấy đang mang thân nữ sau cùng, không còn thân nữ nữa. Vì sao? Vì những người ấy chẳng những thọ trì, đọc tụng kinh này, mà còn giảng nói cho người khác nghe, tâm không tán loạn, tất cả phiền não đều được dứt bỏ, nếu có người nữ muốn sinh phiền não thì cũng không sinh được.
Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì sao tướng người nữ này có thể sinh ra phiền não?
Phật dạy:
–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người nữ thấy cô gái khác xinh đẹp, trang sức bằng những xâu chuỗi quý giá làm bằng ngọc Ma-ni và các thứ châu báu khác, thấy như vậy thì rất thích thú, phát khởi tâm tham đắm chứ không biết quan sát, ví như chiếc bình vẽ cảnh trí bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trong đều là một khối chứa đầy những thứ bất tịnh phân dãi nhơ nhớp, kẻ phàm phu ngu si hôi thối cũng giống như thế. Bị chất bất tịnh xông ướp, phẩn tiểu đầy dẫy, không biết quán sát. Các tướng như thế lại sinh ưa đắm mà khởi tâm nhuốm bẩn vì nhân duyên ấy nên thường phải làm thân nữ.
Phật bảo đồng nữ Sư Tử:
–Tất cả người nữ thường sinh tâm ganh ghét, lừa gạt, nói dối, ý nghĩ và lời nói trái nhau, hoặc đối diện trò chuyện thì thường xin xỏ, đến chỗ Tỳkheo không phải vì pháp, sinh tâm giận tức và tâm thích ngủ nghỉ, hoặc đến những nơi ồn ào náo nhiệt, gần gũi chuyện thế tục. Đối với kinh này hay làm những việc không lợi ích, không chịu nghe nhận, không giảng nói, không đọc tụng, ngày đêm thường khởi các tâm phiền não, xa lìa giải thoát. Vì có những thứ tâm như vậy mà phải mang lấy thân nữ, khó lìa bỏ được.
Này đồng nữ Sư Tử! Tất cả người nữ đều phải nên quán sát như thế rằng, ta phải làm thế nào để dứt bỏ các phiền não, không cho chúng sinh khởi trở lại. Người nữ như thế không có việc lợi ích, phải nghe kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe. Vì sao? Vì nếu được nghe kinh này, lần lượt lãnh hội thì chắc chắn sẽ dứt bỏ được tất cả phiền não.
Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:
–Nếu có người nữ, đọc tụng kinh này, lại giải thích cho người khác nghe, nếu muốn xả bỏ thân nữ thì có thể được chăng?
Đức Phật đáp:
–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người thọ trì, đọc tụng kinh này, thì đó là người mang thân nữ sau cùng, sẽ không còn trở lại làm thân nữ nữa, trừ trường hợp phương tiện thần thông biến hóa thị hiện thân nữ.
Này đồng nữ Sư Tử! Ví như có người đốt một đống lửa lớn rồi tự nhảy vào đó, đã nhảy vào lửa rồi mà còn bảo chớ để lửa đốt cháy thân tôi, cũng đừng khiến cho thân tôi bị nám đen, này đồng nữ, theo ý đồng nữ thì thế nào? Người ấy tuy nói như vậy mà có được như lời mình nói hay không?
Đồng nữ thưa:
–Bạch Thế Tôn! không thể được. Vì sao? Vì tánh chất của đống lửa ấy là đốt cháy các vật cũng như hủy diệt thân sắc.
Đức Phật dạy:
–Này đồng nữ Sư Tử! Kinh này cũng giống như thế, có công năng đốt cháy tất cả các thứ củi phiền não hiện hành. Nếu muốn xả bỏ thân tướng người nữ thì phải dứt trừ tham dục, thành tựu Phật pháp, muốn thấy vô lượng vô số a-tăng-kỳ các Đức Phật, được biện tài vô ngại, muốn phát khởi tâm Từ bi đối với tất cả chúng sinh... thì cũng phải thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này.
Bấy giờ, đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con từ thời Phật Định Quang đã được nghe kinh này và thọ trì đọc tụng. Hôm nay chúng con lại vì vô số chúng sinh mà nêu bày lại.
Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nay đồng nữ Sư Tử ấy và năm trăm vị đồng nữ kia vì sao chưa chuyển thân nữ?
Phật bảo A-nan:
–Nay Tôn giả cho rằng đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ kia thật là nữ chăng?
–Bạch Thế Tôn, đúng vậy!
Phật bảo A-nan:
–Chớ nói như thế. Vì sao? Vì đồng nữ Sư Tử này và năm trăm đồng nữ kia đều là thị hiện làm thân người nữ, chứ chẳng phải thật là thân nữ chỉ vì đối với chúng sinh đời vị lai mà thị hiện biến hóa, vì thương xót tất cả các người nữ mà hiện làm người nữ, giúp cho họ điều kiện để chán ghét lìa bỏ thân nữ, vì nếu làm thân người nam thì khó có thể tiếp xúc đi đến tất cả các nơi chốn.
Này Tôn giả A-nan! Đồng nữ Sư Tử này và những đồng nữ kia chẳng phải là nam, cũng chẳng phải là nữ. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều là chẳng phải nam chẳng phải nữ, vượt ngoài tất cả pháp tướng không thật có, đó mới thật sự là thông đạt. Các vị đồng nữ ấy đều thuận theo các pháp thế gian nên làm thân người nữ để hóa độ những người nữ khác tu học theo.
Khi ấy có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni, đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện từ nay về sau sẽ thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Vì sao? Vì chúng con làm thân nữ này không có lợi ích gì, phải mau nhàm chán, lìa bỏ. Chúng con xin nguyện kể từ hôm nay, đối với những người chưa hiểu kinh này thì sẽ khiến cho họ được hiểu, những người chưa nghe thì sẽ khiến cho họ được nghe, vào đầu hôm, nửa đêm hay gần sáng, ngoài việc ngủ nghỉ phải chuyên tâm suy nghĩ, quán tưởng.
Đức Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo-ni, các vị đã phát tâm đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, phát tâm tinh tấn mạnh mẽ bậc nhất, thảy đều nhàm lìa, muốn xả bỏ thân nữ, vì muốn lợi ích đối với tất cả Phật pháp mà thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Các vị đều mang thân nữ này là thân nữ sau cùng.
Các vị Tỳ-kheo-ni nghe Phật nói như vậy, hớn hở vui mừng, liền cởi thượng y dâng lên cúng dường Phật và cùng nói kệ:
Chúng con mong an ủi
Mong được thân người nam
Như Lai không hai lời
Lời trên hết trong đời.
Bấy giờ, trong bốn bộ chúng có năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả, đứng dậy, sửa sang lại y phục, gối bên phải sát đất, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Kể từ hôm nay chúng con cũng thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giải thích cho người khác hiểu. Chúng con chỉ vì mang thân nữ nên luôn bị người khác ràng buộc, chẳng được tự tại. Lại như phải mười tháng mang thai, làm sao tránh khỏi nỗi khổ cực. Cho dù được sinh trong chốn vương giả nhưng vẫn bị trăm mối hệ lụy, hoặc bị ràng buộc bởi cha mẹ, con cái… Kể từ hôm nay trở đi, sẽ dốc tinh tấn siêng năng tu tập, cho đến khi qua đời vẫn thọ trì chánh pháp.
Đức Thế Tôn liền khen ngợi năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả:
–Lành thay! Như lời các vị đã nói, từ hôm nay các vị sẽ được bỏ hẳn thân nữ, không còn phải chịu sự chi phối của người khác, cũng không còn chịu nỗi khổ của mười tháng mang thai, sẽ lìa bỏ dâm dục và các bào thai, đời đời thường sinh về cõi Phật thanh tịnh.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Các vị phu nhân này lìa bỏ được thân gái và sinh về cõi thanh tịnh nào?
Đức Phật nói:
–Các vị phu nhân này sẽ được sinh về thế giới Bảo tạng liên hoa quang.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đức Phật ở thế giới ấy tôn hiệu là gì?
Đức Phật đáp:
–Ở thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Nhất Thiết Bảo Như Ý Vương Quang Minh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, hiện đang nói pháp bằng mọi cách để giáo hóa chúng sinh ở đấy. Như vậy các vị nữ trong dòng họ của Như Lai ấy đều được sinh về cõi Phật ấy, để được nghe kinh này.
Bấy giờ, các vị phu nhân nghe Phật dạy, trong tâm vui mừng hớn hở, liền cởi những xâu chuỗi anh lạc giá trị bằng trăm ngàn lượng vàng dâng lên cúng dường Phật, cúng dường xong cùng nói kệ:
Chúng con được ân sâu
Lìa bỏ thân nữ này
Như Lai không hai lời
Nói ra đều chân thật.
Thân nữ xấu xa nhất
Nên mong sớm lìa bỏ
Kẻ phàm ngu mê lầm
Chẳng rõ tướng chân thật.
Thai sinh thân nữ khổ
Nguyện chẳng làm nữ nữa
Lìa được thai nữ rồi
Giác ngộ là Vô thượng.
Bấy giờ, các vị phu nhân của các Trưởng giả cùng kính chiêm ngưỡng Như Lai mắt không tạm rời. Thích Đề-hoàn Nhân tung rải hoa trời Mạn-đàla lên chỗ Phật để cúng dường và bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ thọ trì kinh này.
Đức Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Nếu khi ông chiến đấu với A-tu-la thì thường được chiến thắng, không bị thất bại.
Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, và trăm ngàn ức chúng sinh đều phát khởi nhân duyên căn lành, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Lúc Như Lai chưa phát tâm Bồ-đề, thì con đã quay bánh xe pháp không thoái chuyển này.
Đức Phật nói:
–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vô lượng ức các vị Bồ-tát trong mười phương thảy đều phát ra ánh sáng rực rỡ giống như vầng mặt trời, mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời tung rải, vô số các loại hoa ngập tới gối.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời rải hoa xuống như mưa như vậy?
Đức Phật nói:
–Đó là do vô lượng trăm ngàn ức vị trời nghe lời dạy của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tâm sinh vui mừng, nên tung rải hoa ấy và cùng nói: “Chúng tôi đều sẽ thọ trì, sao chép đọc tụng kinh này, cũng nguyện sẽ được như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói kinh pháp như thế, được nghe kinh rồi, tâm sinh vui mừng, mặt đất tất cả đều rung chuyển, các vị trời rải hoa như mưa.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Kinh này có công năng thành tựu những công đức lớn lao, kinh này rất sâu xa, ít có nhất. Nếu có chúng sinh nào được nghe kinh này, dù chỉ một lần thì nên biết công đức người ấy không phải nhỏ.
Đức Phật dạy:
–Đúng thế! A-nan nên biết, các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai đều đã cúng dường các Đức Phật đời quá khứ, vì vậy mà hôm nay trong chúng hội này được nghe kinh này, sinh tâm kính tin, hiểu rõ, cho đến thọ trì, đọc tụng, giải thích. Nên biết rằng chỗ nào có kinh này thì nơi đó chính là ngôi tháp của tất cả trời, người, lợi ích vô lượng, phước đức chẳng luống mất. Nếu nơi nào cất giữ kinh điển này và thọ trì cho đến sao chép thì đều nên cúng dường tưởng như cúng dường Thế Tôn. Người được nghe kinh này, khi chết đi không bị rơi vào đường ác, người ấy hàng phục được các loài ma, dựng lên ngọn cờ chánh pháp, thường đốt ngọn đuốc chánh pháp, soi sáng những nơi tối tăm, thổi được ốc pháp, đến tận cội Bồ-đề, gióng lên tiếng trống pháp, khai mở các cửa pháp, tuôn xuống trận mưa pháp lớn, giúp cho những người cầu pháp đều được đầy đủ pháp vị. Kinh này hiển bày pháp giới, mở hết các kho báu tiềm ẩn của các Đức Phật thời quá khứ, thấu rõ tất cả các pháp, dứt bỏ các tưởng về năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xa lìa các tưởng về sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, lìa các tưởng về tất cả pháp cho đến tưởng về Phật. Nếu người được nghe kinh này kính tin, hiểu rõ, thọ trì, đọc tụng thì người ấy là đệ tử Phật chân chánh, đều từ pháp sinh ra.
Này A-nan! Nếu có vị thiện nam nào muốn ăn được pháp vị, ngồi dưới cội Bồ-đề trong đạo tràng như ta không khác thì phải thọ trì, đọc tụng kinh này, giảng nói cho người khác nghe, cho đến tay cầm quyển kinh, cung kính cúng dường.
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ mạt pháp, sẽ có người có khả năng thọ trì đọc tụng, tay cầm kinh này, cung kính cúng dường không?
Phật dạy:
–Nếu hiện giờ nghe kinh mà kính tin và hiểu rõ, thì đời tương lai cũng dốc lòng thọ trì đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe, tay cầm kinh này, lễ bái cúng dường. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la, hiện giờ nghe kinh này mà ở đời vị lai lại chẳng được nghe. Điều ấy không thể có được. Vì sao? Vì nhờ năng lực nhân duyên nghe pháp hiện tại, nên ở đời vị lai cũng được nghe pháp, sẽ kính tin, hiểu rõ. Ví như có vị trưởng giả sinh nhiều người con, gia đình giàu có hết mực, của cải châu báu vô kể, nào vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, ngọc trai... đủ thứ ngọc quý giá, còn có cả voi ngựa, xe cộ, tôi trai tớ gái... tất cả những tài sản ấy đều được sắp đặt cất giấu có nơi có chỗ, rồi ông ta đi dạo chơi qua những nơi chốn khác, khi trở về quê cũ mình thì có thể tìm lại được những của cải quý giá ấy không?
–Bạch Thế Tôn! Tìm lại được. Vì sao? Vì những của cải quý giá ấy ông ta đã biết rõ nơi cất giấu chúng.
Đức Phật nói:
–Này A-nan! Pháp bảo cũng như vậy, hiện nay được nghe thì đó chính là pháp của mình, đời sau lại được nghe. Nay ta dùng mắt Phật thấy đời hiện tại, những người đã thọ trì đọc tụng kinh này, thì đời sau cũng sẽ được như vậy không khác. Nếu ở đời vị lai có các chúng sinh thọ trì kinh này, nếu dùng mắt Phật xem xét thì thấy cũng như hiện nay không khác. Nếu có kẻ phỉ báng kinh điển này, ta dùng mắt Phật thấy rõ những người ấy cũng như hiện nay.
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu người không tin, không hiểu, lại phỉ báng kinh này thì sẽ đến nơi nào?
Đức Phật bảo:
–Hãy thôi, A-nan! Ông đừng nên hỏi như thế!
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy nói rõ về điều ấy, để giúp chúng sinh ở đời vị lai, nếu có kẻ không tin kinh này nghe thấy quả báo như vậy sẽ khiến họ sợ hãi mà phát tâm kính tin, thấu hiểu.
Phật dạy:
–Nếu có kẻ phỉ báng không tin kinh này thì phải chịu quả báo rất đau khổ, tội ấy đồng như năm tội nghịch. Nếu có người dùng dao bén giết hại chúng sinh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, thì theo ý của Tôn giả, tội báo của người ấy phải bị đọa lạc vào đường nào?
Tôn giả A-nan thưa:
–Nghiệp báo của người ấy sẽ bị đọa vào đường ác.
Phật dạy:
–Này A-nan! Nay ông nên biết. Nếu sau khi hằng hà sa Đức Phật nhập Niết-bàn, vì cúng dường xá-lợi các Đức Phật mà xây dựng các tháp miếu tôn thờ, lại có kẻ phát khởi tâm ác thiêu đốt hủy hoại các tháp miếu ấy, thì theo ý của Tôn giả, người đó phải chịu lấy tội báo như thế nào?
Tôn giả A-nan thưa:
–Hạng người như vậy sẽ chịu quả báo rất đau khổ không thể nói hết, cũng không thể nghe hết, nếu phỉ báng kinh này, mà nói về tội lỗi của việc phỉ báng ấy và tội báo phải chịu thì cũng như thế, không thể nói hết hay nghe hết được. Vì sao? Vì người ấy đã hủy hoại tất cả Pháp nhãn của các Đức Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai.
Đức Phật dạy:
–Nếu thấy có người thọ trì, đọc tụng kinh này mà sinh tâm phỉ báng, khinh cười, chê bai, xúi người không tin, khiến cho họ không được đọc tụng, đúng như pháp thọ trì, thì nên biết tội ác của người ấy rất nặng nề, còn hơn trường hợp trước.
A-nan bạch Phật:
–Nếu chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều tu tập đầy đủ mười điều lành, an trụ trong đạo Bồ-đề. Nếu có người hủy hoại đôi mắt của những người ấy, thì tội ác của kẻ ấy như thế nào?
Đức Phật nói:
–Trong vô số a-tăng-kỳ kiếp, người ấy hễ làm thân người thì thường bị mù, ở trong địa ngục chịu khổ không ngừng, thường bị móc mắt.
Phật dạy:
–Nếu có người đối với kinh này tâm hủy báng, không kính tin thì ta nói tội của người ấy cũng giống như trường hợp trên.
A-nan thưa:
–Nếu có vị Bồ-tát, trụ đạo giác ngộ, kính tin, thấu hiểu kinh này, thọ trì không nghi ngờ, thì vị ấy sẽ sinh về cõi nào?
Phật dạy:
–Đó gọi là tùy thuận cúng dường các Đức Phật không hề sai khác.
A-nan bạch Phật:
–Nếu lại có người chẳng tin kinh này, tự mình phỉ báng lại xúi người khác phỉ báng theo những kẻ như thế sẽ thọ thân như thế nào, chịu quả báo đau khổ như thế nào?
Đức Phật dạy:
–Hãy thôi, A-nan! Ông chớ nên hỏi điều ấy.
A-nan bạch Phật:
–Kính mong Thế Tôn hãy giải thích, giúp cho bốn chúng đệ tử ở đây, nếu có vị nào nghi ngờ chẳng tin, thì sau khi nghe Phật chỉ dạy như vậy thì sẽ tự hối cải về những lỗi lầm của mình mà sinh tâm kính tin trở lại.
Phật bảo:
–Nếu có kẻ chẳng tin kinh này mà còn phỉ báng, thì sẽ chịu quả báo có thân hình cao đến mười ngàn do-tuần, phải chịu thân hình cao lớn như vậy và chịu vô lượng sự đau khổ.
A-nan bạch Phật:
–Kẻ đó còn chịu quả báo về lưỡi như thế nào?
Đức Phật nói:
–Tội báo của người đó, lưỡi dài rộng mỗi bề một ngàn do-tuần, lại bị năm trăm ức chiếc lưỡi cày bằng sắt nung đỏ rực cày xới trên lưỡi người ấy, lại còn có năm trăm ức viên sắt nóng lên tuôn xuống như mưa trên lưỡi người đó. Vì sao? Vì người đó không biết ngăn ngừa nghiệp ác, tội lỗi phỉ báng nên phải chịu khổ như thế.
Lúc bấy giờ, bốn chúng nghe Phật nói như vậy, khắp mình đều nổi ốc, buồn bã khóc lóc, ngã lăn ra đất, rồi cùng một lời bày tỏ với Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu như những vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai mà phỉ báng kinh này sẽ phải chịu tội báo như thế. Vì vậy mà chúng con hôm nay xin thay họ sám hối, khiến cho các tội lỗi được tiêu trừ, chẳng phải chịu lấy quả báo xấu xa cực ác như thế. Hôm nay, trước Thế Tôn và trước vô lượng các Đức Phật trong mười phương, chúng con là những kẻ ngu si mê tối, không tự biết tội lỗi của mình, chỉ có mắt Phật thì mới thật thấy thật chứng, chúng con thảy đều xin sám hối, từ nay về sau không dám gây tạo những tội ấy nữa. Ví như đứa trẻ chưa hiểu biết gì, không thể hiểu rõ, phân biệt căn lành. Hôm nay chúng con chí thành thống trách về tội lỗi của mình, kính mong Thế Tôn rủ lòng thương xót nhận cho chúng con sám hối.
Phật dạy:
–Lành thay, lành thay!
Bấy giờ bốn chúng đệ tử cùng thưa:
–Hôm nay chúng con thành tâm tự quy y, tất cả các tội lỗi đều sám hối, không dám che giấu.
Đức Phật nói:
–Các vị đã chí tâm sám hối như vậy, tất cả các pháp lành đều được tăng trưởng.
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hiện nay trong chúng hội này, có người sinh tâm nghi ngờ thì tội ác nghiệp chướng cũng như thế không?
Đức Phật nói:
–Nếu trong chúng hội này có người sinh tâm nghi ngờ liền sám hối thì tất cả những tội khác và chịu quả báo cũng giảm nhẹ.
A-nan thưa:
–Thế nào là chịu tội giảm nhẹ?
Đức Phật nói:
–Lúc người ấy sắp chết, trong các lỗ chân lông trên thân mình đều chịu khổ, giống như đang ở trong địa ngục không khác. Vì sao? Vì người ấy kính tin lời dạy của Như Lai và kính tin vô lượng a-tăng-kỳ các Đức Phật, cũng như đã tự sám hối.
Này A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai không rời bỏ tất cả mắt Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu những người ấy muốn thấy vô lượng a-tăng-kỳ các Đức Phật và thấy vô lượng đóa hoa sen có cánh bằng kim cang với ánh sáng chiếu khắp nơi, tốt đẹp nhiệm mầu.
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân hiện thân thành một vị trưởng giả, rải các thứ hoa khắp bốn chúng trong chúng hội, rồi nói:
–Sẽ dùng các thứ hoa này để cúng dường Phật, cho đến cúng dường kinh này.
Tức thì bốn chúng đệ tử liền tung rải những thứ hoa đó lên chỗ Phật, tạo thành một lọng hoa, cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà hiện ra điềm lành này? Hiện giờ ở trước Thế Tôn, có đóa hoa sen ấy, cũng như ở trước các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng cũng đều có hoa sen như vậy?
Đức Phật dạy:
–Nhờ công đức uy lực do giảng nói kinh này mà có điềm lành ấy. Nên biết các điềm lành ấy đều được năng lực thần thông giữ gìn.
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Năng lực uy thần của Phật có thể giữ gìn được pháp này không?
Đức Phật dạy:
–Này A-nan! Chính là thần lực của ta giữ gìn pháp ấy, cho đến hằng hà sa Đức Phật cũng đều giữ gìn.
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Kinh này sẽ được gọi là kinh gì và thọ trì bằng cách nào?
Đức Phật dạy:
–Kinh này tên là Vô Trước Quả Vô Hữu Chủng Chủng Chư Tạp Ác Báo, nên thọ trì như thế. Đối với các pháp Tín hành, Pháp hành, tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán, Thanh văn, Bích-chi-phật hiểu đó là giả danh, không chân thật, cứ theo ý nghĩa đó mà thọ trì. Gọi là Lìa Bỏ Các Thứ Ma, nên thọ trì như thế. Kinh này cũng gọi là Xả Ma, nên thọ trì như thế. Cũng gọi là Lục Ba-la-mật, nên thọ trì như thế. Vì sao? Này A-nan! Nếu có người kính tin, thấu hiểu thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy đã đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Làm cách nào thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe thì liền được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật?
Đức Phật dạy:
–Nếu các thiện nam, thiện nữ đã kính tin, thấu hiểu kinh này thì liền đầy đủ Đàn ba-la-mật. Đối với pháp này, tâm không phạm giới, đó gọi là Thi ba-la-mật. Nếu đọc tụng kinh này, tâm nhẫn không lui sụt tức là đầy đủ Sằn-đề ba-la-mật. Đối với kinh này, tâm không lui sụt, đó gọi là đầy đủ Tỳ-lê-da ba-la-mật. Kính tin, ưa thích kinh này, tâm không tán loạn, đó gọi là đầy đủ Thiền ba-la-mật. Hiểu rõ diệu lý kinh này, dứt các vọng tưởng phân biệt, đó gọi là đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Cho nên kinh này tương ứng với sáu pháp Ba-la-mật. Cũng gọi là Nhất Thiết Chư Phật Sở Thuyết Bất Thoái Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh.
A-nan bạch Phật:
–Tên gọi kinh này, được nghe đã là khó rồi huống chi là được thấy kinh và vào đầu hôm, nửa đêm, gần sáng lại thọ trì đầy đủ.
Đức Phật dạy:
–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông vừa nói.
A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Người được nghe kinh này sẽ vượt khỏi bao nhiêu kiếp sinh tử?
Phật dạy:
–Nếu người được nghe tên kinh Bất Thoái Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh Phương Đẳng này, thì người ấy sẽ thoát ngàn kiếp sinh tử.
A-nan bạch Phật:
–Nếu có người nghe tên kinh này, kính tin, hiểu rõ và phát tâm Bồ-đề thì công đức người ấy sẽ được trụ ở giai vị nào?
Phật nói:
–Nếu có người nghe tên kinh này thì được thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được địa vị không thoái chuyển.
Bấy giờ, ở trước bốn chúng đều có các tòa hoa sen với nhiều màu sắc, mỗi hoa có trăm ngàn muôn ức cánh hoa. Bốn chúng đệ tử vui mừng hớn hở, liền dâng rải những hoa ấy lên để cúng dường Đức Phật và cùng bạch:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con đều sẽ vì mọi người mà giảng nói rộng khắp kinh này, giải thích hiển bày khiến cho kinh không bị dứt mất.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Tức thì vang lên nhạc trời, gió thơm thổi tới xông tỏa múi hương ngạt ngào. Trong hư không, rất nhiều vị trời cũng trổi vô số các thứ nhạc trời, lại tuôn xuống như mưa các thứ hương trời bột mịn màng, các thứ hương chiên-đàn, trầm thủy, giao lương, mạt vàng Diêm-phù-đàn và các loại mạt bạc, lưới báu ma-ni phủ khắp phía trên và năm thứ hoa năm màu: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa Ca-ca-la, hoa Ma-ha ca-ca-la, và tất cả các thứ hoa Ưu-bát-la, Câu-vậtđầu, Phân-đà-lợi. Rồi nào hương anh lạc, hương xoa, hương bột... tất cả vật cúng dường của các vị trời đều đầy khắp cả hư không. Trên mặt đất thì có vô số chúng dân cũng sửa sang y phục, hoa cúng dường. Lại có các chúng sinh khác đều cởi vô số những vòng ngọc, xuyến vàng, chuỗi ngọc, mũ mão quý giá dâng lên Đức Thế Tôn. Lại có các chúng sinh khác rải vàng bạc lên chỗ Phật để cúng dường. Lại có các chúng sinh khác vui mừng hớn hở cùng nhau hô to: “Lành thay, lành thay!” Và các voi ngựa cũng kêu lên những tiếng êm tai.
Trên không trung muôn ngàn những loài chim chóc hót vang, để cúng dường Phật. Chúng sinh ở địa ngục được tạm vui do ngừng hình phạt. Các loài súc sinh thì tỏ ra thân ái, tưởng như cha mẹ, tất cả chúng sinh ở cõi vua Diêm-la cũng tạm được vui. Chúng sinh ở cõi ngạ quỷ thảy đều dứt hết mọi đói khát khổ não. Tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạxoa,… cũng đều cảm thấy vui sướng, phát khởi lòng thương yêu lẫn nhau, xem nhau như cha con.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì hôm nay Đức Như Lai mỉm cười?
Phật bảo A-nan:
–Hiện nay, bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa… nếu trong đời này, đời sau được nghe kinh này, thì đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có khả năng nói rộng kinh này cho người khác nghe, không hề tổn giảm, cũng như ta hôm nay phân biệt, giảng nói,… không có sai khác.
Này A-nan! Những người nghe kinh này rồi, sinh tâm kính tin, hiểu rõ tức là gieo trồng hạt giống Phật, huống chi là thọ trì, đọc tụng, tu lành. Nên biết người này sẽ bỏ tất cả mọi trí thức thông thường và chẳng bao lâu sẽ đạt đến Nhất thiết trí, Tự nhiên trí. Do đó kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Chi Ấn, kinh này có công năng đem lại những lợi ích lớn lao cho các vị Bồ-tát, cũng như tạo nhân duyên phát tâm đạo Vô thượng cho tất cả chúng sinh. Đã phát tâm rồi thì sẽ thành tựu đầy đủ kinh này.
Này A-nan! Như Lai chỉ bày cho các chúng sinh Nhất thiết trí. Nếu như có người nào, tuy lìa trí tuệ Phật, nhưng nghe kinh này thì được Tự nhiên trí và Phật trí, cũng được Phật thọ ký. Do vậy, kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh cũng gọi là Thành Tựu Cụ Túc Thiện Căn Trang Nghiêm Phương Tiện Vi Tác Lợi Ích Hành Đại Thừa Giả, A-nan nên ghi nhớ.
Bấy giờ, khi Đức Như Lai nói rộng kinh này thì có vô số các vị Bồ-tát đều được thành tựu pháp Nhẫn vô sinh; cùng với vô lượng, vô biên a-tăngkỳ ức số chúng sinh đều được an trụ không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Thế Tôn nói kinh này xong, Bồ-tát Vănthù-sư-lợi, Xá-lợi-phất, A-nan... cùng với bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di và tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân đều rất vui mừng, cung kính thực hành, lễ Phật rồi lui ra.
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10]
[Mục lục bộ Pháp Hoa][262][263][264][265][266][267][268][269][270][271][272][273]