TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ PHÁP HOA (0262-0273)

SỐ 271 - KINH BỒ-TÁT HÀNH PHƯƠNG TIỆN CẢNH GIỚI THẦN THÔNG BIẾN HÓA

Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, người xứ Thiên Trúc.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ


QUYỂN THƯỢNG

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ Đức Phật ngự trong vườn vua Chiên-đà-bát-thọ-đề, thuộc nước Ưu-thiền-diên. Trong vườn này được trang nghiêm bằng nhiều cây Ta-la, cây Đa-la, cây Ca-ni-ca-la, cây Ni-câu-la, cây Bác-xoa, cây Ưu-đàm-bát-la. Lại có hoa Bàsư, hoa Đà-nhị-ca, hoa Chiêm-bà, cây A-phúc-ca, cây Ba-sất-la… Lại trang nghiêm bằng suối, giếng, ao hồ, sông nước trong veo chảy quanh. Lại có hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng khắp trên mặt nước. Chim ngỗng, chim nhạn, chim uyên ương, chim Câu-na-la, chim Bát-tra-quân-đà, chim anh vũ, chim khách... đủ các loài chim, hót lên đủ thứ âm thanh. Có nhiều ong đen kêu lên những âm thanh hay lạ. Có nhiều cỏ êm ái mềm mại mọc khắp trong rừng rộng.

Đức Phật ngự ở đây với mười hai ức vị đại Tỳkheo, như Đại đức Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, A-ni-kiền-đà, Tu-bồ-đề, Đại Cachiên-diên, Ma-ha Kiếp-tân-na, Ly-bà-đa, Ba-tânna, Nan-đề-xí-na-na-đề Ca-diếp, Dà-da Ca-diếp, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Kiều-phạm-ba-đề, Nađà-xí-na, Châu lợi bàn đặc, Thát-bà-ma-la-tử, Khư-đà-bà-lâm, Nan-đà, Ma-ha Câu-hy-la, Lahầu-la, Đại đức A-nan... đều là bậc Thượng thủ. Mười hai ức vị Tỳ-kheo tất cả đã nhập “Nhất pháp giới xứ hành”, tiến nhập tất cả các pháp như tánh hành, hư không hành. Họ không y chỉ xứ, không y chỉ hành, lìa tất cả kết phược chướng ngại che lấp, đã sinh khởi nhập vào Như Lai độ, không có pháp giới gần một pháp giới, hướng về đạo Nhất thiết trí không bỏ phế. Đối với Nhất thiết trí tâm không thoái chuyển, trí tuệ phân biệt rõ ràng, được đến bờ bên kia, tinh tấn tu hành cảnh giới phương tiện.

Tại đây có cả Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Da-du-đàla... cùng tám ức Tỳ-kheo-ni, tất cả đều thành tựu pháp Bạch tịnh, đều có các hạnh lành, tất cả trí đạo gần Nhất thiết trí. Thiện hạnh tiến lên nhập vào pháp tánh vô hữu, quán tất cả pháp không có tánh tướng, tự giải các pháp thật tế không bờ mé, được trí tuệ vô ngại giải thoát, tùy theo chúng sinh mà có phương cách điều phục, khéo léo thị hiện.

Tại nơi đây lại có bảy mươi hai ức chúng Đại

Bồ-tát, các vị đó là: Bồ-tát Đại Lực, Bồ-tát Đại

Lực Trì, Bồ-tát Đại Biến Hóa, Bồ-tát Đại Biến Hóa Vương, Bồ-tát Đại Tinh Tấn Thú, Bồ-tát Đại Tinh Tấn Kiện, Bồ-tát Đại Hống, Bồ-tát Đại Hống Ý, Bồ-tát Đại Chúng Chủ, Bồ-tát Đại Hương Thượng, Bồ-tát Đại Nguyệt, Bồ-tát Thiện Nguyệt, Bồ-tát Công Đức Nguyệt, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Phổ Chiếu Nguyệt, Bồ-tát Pháp Vô Cấu Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Chiếu, Bồ-tát Diệu Danh Nguyệt, Bồ-tát Phóng Quang Nguyệt,

Bồ-tát Mãn Nguyệt, Bồ-tát Phạm Âm, Bồ-tát

Phạm Vương Lôi Âm, Bồ-tát Địa Âm, Bồ-tát Pháp Giới Âm Thanh, Bồ-tát Hành Nhất Thiết Ma Trường Âm, Bồ-tát Diệu Âm Thanh, Bồ-tát Phổ

Cáo Âm, Bồ-tát Vô Vọng Tưởng Phân Biệt Âm, Bồ-tát Địa Luân Âm, Bồ-tát Nhất Thiết Vô Chướng Âm, Bồ-tát Phổ Tạng, Bồ-tát Vô Cấu Phổ Tạng, Bồ-tát Đức Tạng, Bồ-tát Chiếu Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Xí Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Đại Ý, Bồ-tát Ích Ý, Bồ-tát Diệu Ý, Bồ-tát Hảo Ý, Bồtát Thắng Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Vô Biên Ý, Bồ-tát Quảng Ý, Bồ-tát Giác Ý, Bồ-tát Vô Tận Ý, Bồ-tát Tu-di Đăng, Bồ-tát Đại Đăng, Bồ-tát Pháp Cự Đăng, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Phương Đăng, Bồ-tát Phổ Đăng, Bồ-tát Diệt Nhất Thiết Âm

Đăng, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Đạo Đăng, Bồ-tát Nhất Chiếu Minh Đăng, Bồ-tát Nguyệt Đăng, Bồtát Nhật Đăng, Bồ-tát Ly Nhất Thiết Ác Đạo, Bồtát Ma Bất Hàng Phục, Bồ-tát Đại Ma Bất Hàng Phục, Bồ-tát Oai Đức, Bồ-tát Vô Hàng Phục, Bồtát Vô Năng Trắc, Bồ-tát Oai Đức Giác Càn Ác, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Di-lặc, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử Bồ-tát ma-hatát... gồm bảy mươi hai ức vị. Họ đều trong một đời chứng được Đà-la-ni, được các Tam-muội, được Vô biên nhạo thuyết, được Vô ngại, Vô sở úy, được thần thông đến bờ bên kia, có khả năng đi qua vô biên cõi Phật, dạo chơi với thần thông, thân tâm giải thoát. Thành tựu các tri kiến ngại vô ngại. Thế giới không có Phật thì thị hiện Phật ra đời, khéo quay bánh xe pháp, không có lầm lẫn, tùy theo cái tất cả chúng sinh hiểu mà nói pháp, nói pháp vô tác cho họ nghe. Ở trong pháp tánh không có phát động, cũng không phải không phát động, tâm các vị ấy nhập độ đến bờ bên kia, giảng nói pháp không. Rống lên tiếng rống của sư tử, hàng phục phá tan tất cả ngoại đạo, hàng phục kẻ thù được thần thông mà Bồ-tát thực hành, dứt bỏ sân, ái, tâm kia bình đẳng, như đất, nước, lửa, gió. Vào chỗ bí mật của tất cả Như Lai, vì tất cả chúng sinh mà làm các Phật sự, thường được các Đức Phật khen ngợi, thọ trì tất cả kiếp đời vị lai, thọ trì tất cả pháp tánh của Như Lai, mưa xuống Pháp bảo. Khen ngợi tất cả công đức, không thể cùng tận, làm chủ thế giới, bản nguyện thành tựu, thực hành hạnh giải thoát của Như Lai. Trước đã khéo tu, thực hành Đại thừa, mắt tin thanh tịnh không có cấu bẩn, thường tinh tấn cúng dường, thờ phụng các Đức Phật Như Lai. Trang nghiêm bằng điều lành, trang nghiêm bằng sự không lui sụt hướng về đại Bi. Tánh chất giải thoát trong tâm các vị ấy không thể tỷ dụ, dứt bỏ tâm nghi ngờ Đức Phật, tâm do dự mê lầm, được chư Phật quá khứ che chở, giữ gìn.

Ở nơi vườn này lại có vô lượng Ưu-bà-tắc, Ưubà-tư, uy đức không thể ví dụ trong tam thiên đại thiên thế giới này, các Trời và chúa Trời, các Rồng và Rồng đầu đàn, Dạ-xoa và chúa Dạ-xoa, Cànthát-bà và chúa Càn-thát-bà, A-tu-la và chúa A-tula, Ca-lâu-la và chúa Ca-lâu-la, Ma-hầu-la và chúa Ma-hầu-la, Khẩn-na-la và chúa Khẩn-na-la, Nhân phi nhân, và chúa Nhân phi nhân... tất cả cùng trăm ngàn đại quyến thuộc đều đến ngồi trong hội này.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn có vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh. Thế Tôn ngồi trên tòa Đức tạng sư tử, ánh sáng trên thân Thế Tôn che lấp ánh sáng trên thân các đại chúng.

Giống như ánh sáng núi Tu-di hiển hiện giữa biển lớn che lấp ánh sáng các núi. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử ánh sáng che lấp phủ tất cả trời, người như ánh trăng rằm tròn đầy chiếu sáng thanh tịnh che kín các vì sao. Cũng vậy, ánh sáng của Đức Thế Tôn che kín tất cả người, trời, chiếu sáng thanh tịnh.

Giống như hư không trong sáng tịnh khiết không có mây che, mặt trời chiếu ánh sáng che lấp ánh sáng của núi, lửa đom đóm mờ đi trong sự soi sáng thanh tịnh. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử, hàng phục che kín các trời, người đời rất là sáng chói còn che kín ánh sáng của Đế Thích, Phạm Thiên vương, Tứ Thiên vương Hộ thế...

Giống như trong đêm tối, lửa cháy rực rỡ trên đỉnh núi cao, chiếu sáng thanh tịnh. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín các trời, người đời bằng thứ ánh sáng rất sáng thanh tịnh, vô cấu.

Như sư tử đứng đầu các loài thú hàng phục tất cả các loài cầm thú nhỏ. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín tất cả trời, người.

Như ngọc báu như ý tỳ-lưu-ly tám cạnh không cấu bẩn phát ra ánh sáng thanh tịnh. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử trang nghiêm khác thường chiếu sáng mười phương, như vua Chuyển luân hàng phục tất cả chúng sinh trong bốn cõi. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín các trời, người đời.

Như Thích Đề-hoàn Nhân đeo chuỗi ngọc báu Thích-ca Tỳ-lăng-già, ở trong Thiện pháp đường hàng phục, che kín các trời bằng ánh sáng. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín các trời, người đời bằng ánh sáng thanh tịnh.

Lúc bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi đã biết tâm đại chúng, thấy oai đức rạng rỡ của Đức Như Lai, bèn nghĩ: “Đây là điềm ánh sáng gì? Nay Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử rất sáng chói thanh tịnh khác thường, đại chúng rất nhiều, nay ta phải hỏi Như Lai ý nghĩa việc này.”

Khi ấy, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, sửa y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, dùng bài kệ khen ngợi:

Đấng Thập Lực soi sáng
Hàng phục trời, người đời,
Ba cõi không ai bằng
Chúng sinh không qua được
Như trên núi Tu-di
Các phương đều chiếu sáng
Hàng phục che các núi
Mạnh mẽ soi các núi
Phật trì đức cũng vậy
Núi trí vượt thế gian
Hàng phục che các chúng
Thường thanh tịnh chiếu sáng
Như trăng trên hư không
Tháng ngày công đức soi
Viên mãn rất tròn đủ
Hàng phục che các sao
Đấng Thập Lực cũng vậy
Sao đệ tử vây quanh
Phát ánh sáng bạch tịnh
Chiếu sáng cả trời, người
Như cung điện mặt trời
Soi sáng hàng phục hết
Đấng Nhân Tôn cũng vậy
Hàng phục trời, người đời
Giống như lửa đỉnh núi
Đêm tối chiếu các phương
Ánh sáng trí cũng vậy
Điều ngự phát ánh sáng
Như sư tử vua thú
Bày uy đức hàng thú
Chúng ngoại đạo cũng vậy
Bày chiếu sáng hàng phục
Vua Chuyển luân, chúa người
Uy đức hàng phục đời
Đấng Điều Ngự cũng vậy
Hàng phục chiếu sáng đời
Vua trời Tam thập tam
Hàng phục hơn các trời
Đấng Vô Đẳng cũng vậy
Hàng phục soi các chúng.

Lúc bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi dùng kệ khen ngợi xong, chắp tay bạch Phật:

–Giờ đây cúi xin Thế Tôn, vì đại chúng này giảng nói kinh Bồ-tát Hành Phương Tiện Cảnh

Giới Thần Thông Biến Hóa. Nếu chúng sinh nghe rồi hướng thượng tu hành thì sẽ phát tâm A-nậuđa-la tam-miệu tam-bồ-đề, còn họ hướng xuống tu hành thì được dừng lại ở bậc Thắng tấn, rồi phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tăng thêm lợi ích cho cảnh giới Vô thượng Bồ-đề. Chúng sinh lười biếng phát sinh dục lạc dữ dội. Chúng sinh thoái chuyển đạo pháp thì an trụ trong đạo Bồ-đề. Các chúng sinh hướng về đạo Bồ-đề... thì đầy đủ trí độ trang nghiêm của Như Lai.

Văn-thù-sư-lợi thỉnh như vậy rồi, Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:

–Lời của Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri nói rất khó hiểu, phải có duyên gì để nói? Duyên gì để tinh tấn nhập? Đây là vấn đề khó biết, khó hay, khó có thể đo lường, khó dạy, khó độ. Các trời, người đời, những kẻ phá hoại oai nghi, và những người phá giới không thể rõ biết, chúng sinh thấp kém không thể hiểu, các kẻ tâm tánh bại hoại không thể kính tin. Kẻ bị bạn xấu lôi cuốn thì không thể vào. Kẻ rời khỏi bạn tốt thì chẳng thể biết. Kẻ chẳng được chư Phật che chở thì chẳng thể nghe nhận, huống là hiểu rõ ý thú, không bao giờ có việc ấy, chỉ trừ người đã được chư Phật che chở.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Văn-thù nghe ta nói
Sự nghĩa ngươi đã hỏi
Người kém không thể làm
Không biết pháp tánh này.
Điều Phật trước chẳng làm
Đấng Điều Ngự chẳng hộ
Nếu người nghe pháp này
Không có tâm cung kính,
Bị bạn xấu lôi cuốn
Người xa lìa bạn tốt
Nếu nghe pháp như thế
Mau rớt xuống núi lớn,
Hẹp hòi không tiến hành
Không có tâm thắng diệu
Người kém không tín hiểu
Bọn ấy nghe chẳng mừng,
Phật thương họ chẳng nói
Chớ nhiễu chúng sinh kia
Vì chẳng tin pháp này
Đêm dài không ích lợi.

Lúc bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại chúng nhóm họp nơi đây đều thanh tịnh, trước có hạnh lành thường, cúng dường, giúp việc cho các Đức Phật đời quá khứ, được bạn lành che chở, khéo giữ căn lành tịnh tín, cung kính giáo pháp giải thoát, xuất thế, khéo biết tâm thanh tịnh, rốt ráo, khéo hiểu những lời dạy tốt lành; các chúng đều nhóm họp ở đây, có khả năng hiểu biết được pháp này.

Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Giờ đây xin Thế Tôn giảng nói để che chở làm lợi ích cho các chúng sinh!

Rồi Văn-thù nói lại bằng bài kệ rằng:

Nhiều chúng sinh đây cầu pháp lợi
Khéo hiểu biết rõ pháp tánh này
Điều chư Phật quá khứ tu hành
Cho nên Đấng Điều Ngự nói pháp,
Thảy đều cung kính chắp tay đứng
Chiêm ngưỡng ngắm nhìn Điều Ngự Sư
Điều Ngự vì thế sinh thương xót
Nguyện xin Đại Giác nói pháp mầu,
Nay con đều thỉnh với vua pháp
Nguyện xin giảng nói pháp thắng diệu
Vì lợi ích che chở Bồ-tát
Nguyện Nhân Tôn mở kho Pháp tạng.

Văn-thù-sư-lợi thỉnh như vậy rồi, Đức Phật liền khen ngợi:

–Lành thay, lành thay! Văn-thù-sư-lợi! Ông hỏi Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri ý nghĩa như vậy.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông đều biết tất cả pháp hạnh. Đối với các pháp không có nghi ngờ, ông khéo biết phương tiện trí tuệ. Này Văn-thù-sưlợi! Ông có nhiều công hạnh làm lợi ích cho các chúng sinh. Này Văn-thù-sư-lợi! Ông làm vầng ánh sáng lớn cho các Bồ-tát ở đời vị lai.

Này Văn-thù-sư-lợi! Bây giờ ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ giảng nói kinh Bồ-tát Sở Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa.

Văn-thù-sư-lợi và các vị Bồ-tát bạch:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ dốc lòng lắng nghe!

Phật nói:

–Này thiện nam! Nếu có người đầy đủ mười hai pháp công đức thì thiện nam, thiện nữ này sẽ phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, mười hai pháp gồm:

1. Có tánh khéo hiểu lìa hạnh hạ giải.

2. Có tánh hành Từ bi phát sinh bạch tịnh.

3. Có tâm chuyên tu hành thọ trì vững vàng, pháp vô vi.

4. Có thiện trang nghiêm tu tập hạnh lành lâu đời.

5. Có tâm lành cung kính cúng dường các Đức Phật, nhóm họp các pháp bạch tịnh.

6. Có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp không tạo tác, dứt bỏ tất cả điều ác.

7. Xa lìa bạn xấu, gần gũi bạn lành.

8. Lời nói đi đôi với việc làm, không có nịnh hót, lừa dối.

9. Khéo hiểu biết các pháp, chẳng tham đắm mùi vị, ăn uống tiết chế.

10. Được Như Lai che chở không bị ma lôi cuốn.

11. Thường đối với tất cả chúng sinh sinh tâm Từ bi, cũng không buông bỏ tất cả chúng sinh, tâm cũng chẳng tham.

12. Có năng lực nhân duyên công đức trang nghiêm.

Này thiện nam! Đó là đầy đủ mười hai pháp công đức. Thiện nam, thiện nữ phát tâm A-nậu-đala tam-miệu tam-bồ-đề, tâm lợi ích này có công năng đem đến sự an vui cho tất cả chúng sinh, tâm thương xót không làm các việc ác. Tâm đại Bi có khả năng gánh vác các chúng sinh. Tâm đại Từ tiêu diệt tất cả các đường ác. Tâm bạch tịnh chẳng cầu các thừa khác. Tâm không ái nhiễm lìa tất cả kết sử vẩn đục. Tâm thanh tịnh này tánh chất nó thanh tịnh. Tâm như huyễn thì không có vật. Tâm vô sở hữu thì lìa bỏ sở hữu. Tâm vững chắc thì không lay động. Tâm không thoái chuyển thì đạt được các pháp. Tâm độ tất cả chúng sinh thì thực hành như lời nói.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu có Phật tử khéo tu hành
Pháp mầu thanh tịnh đầy trong tâm
Tất cả chúng sinh tâm Từ bi
Tâm mềm mỏng vì đạo Bồ-đề
Vốn trước tiên xa lìa bạn xấu
Gần gũi Bồ-đề và bạn lành
Thề nguyện tinh tấn quả Bồ-đề
Sinh tâm Bồ-đề luôn hiểu biết
Thường chẳng sinh tâm mệt mỏi chán
Điều tu hành đúng như bản tế
Giống như kim cang không thoái tâm
Như vậy cùng sinh tâm Bồ-đề
Có Từ bi tâm với chúng sinh
Đặt các chúng sinh vào chỗ vui
Xa lìa tất cả các điều ác
Hãy cùng chóng phát tâm Bồ-đề
Người tuệ chẳng cầu các thừa khác
Suy nghĩ Bồ-đề công đức mầu
Tịnh tâm không bẩn, cũng không ái
Như thế đều muốn tâm Bồ-đề
Lìa vật, phi vật không có ái
Tánh nó giống như lằn chớp huyễn
Lìa tất cả vật không có tướng
Phật nói tâm Bồ-đề cũng vậy
Lìa tất cả sử, mọi điều ác
Không nhơ sáng rõ như hư không
Tất cả văn tự không thấy được
Đây nói tâm Bồ-đề thanh tịnh.
Là gốc Bồ-đề, hạnh thắng diệu
Cũng là các biện Đà-la-ni
Cũng là các căn cùng vẻ đẹp
Đây là đầy đủ công Đức Phật.

Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:

–Bồ-tát an trụ thấy mười hai công đức như thế phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

Mười hai công đức gồm:

1. Thấy đạo Bồ-đề an hòa thích hợp thì tinh tấn tu hành pháp.

2. Thấy được sự giàu sang thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

3. Thấy sinh trong dòng họ đáng yêu thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

4. Thấy lìa được sự bẩn của bỏn xẻn thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

5. Thấy tâm bố thí đầy đủ thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

6. Thấy đóng bít cửa quỷ đói thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

7. Thấy của cải chung nhiều muốn cầu bền chắc thì phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

8. Thấy các thứ cần dùng đầy đủ, tự tại thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

9. Thấy tu tập thực hành xả bỏ tất cả thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

10. Thấy lìa tham tiếc, xả bỏ tất cả vật thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

11. Thấy ta sẽ đầy đủ Đàn-ba-la-mật thì phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

12. Thấy nên cẩn thận thực hành lời dạy bảo của Đức Như Lai thì phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật.

Tất cả sự bố thí đều hồi hướng về đạo A-nậuđa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Này thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thấy mười hai công đức như thế mà tinh tấn tu hành pháp Đàn bala-mật.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:

Thí cầu trí Nhất thiết vô đẳng
Tay, chân, hai mắt, đầu, xương, tủy
Chẳng tiếc trong ngoài, bỏ tất cả
Sau không tham, tiếc, thêm công đức
Sẽ thành giàu đẹp, sinh nhà tốt
Hàng phục tham cấu, Bồ-đề tăng
Sau thêm Bồ-đề, bỏ nhơ tham
Được tự tại, đầy đủ đàn độ
Tất cả các Phật đều khen thí
Tuệ kiến là các công đức lợi
Ta sẽ tu hành, bỏ tất cả.

Lại nữa, này các thiện nam! Nếu Bồ-tát thấy mười hai việc công đức như vầy thì phải siêng năng tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

Mười hai công đức gồm có:

1. Vì thấy mình phải giữ gìn giới pháp đầy đủ nên tinh tấn tu hành Thi ba-la-mật.

2. Vì thấy mình phải hướng về đạo Bồ-tát nên tinh tấn tu hành Thi ba-la-mật.

3. Vì thấy mình phải cởi mở sự ràng buộc của kết sử nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

4. Vì thấy mình phải ra khỏi tất cả đường ác nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

5. Vì thấy mình phải diệt trừ tất cả đường ác nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

6. Vì thấy mình phải thành tựu việc thân, miệng, ý không tạo nghiệp nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

7. Vì thấy mình phải làm cho người có trí tuệ chẳng quở trách nên tinh tấn tu hành pháp Thi bala-mật.

8. Vì thấy mình phải tu tập chẳng để buông lung nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

9. Vì thấy mình phải bố thí cho tất cả chúng sinh sự không sợ hãi nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

10. Vì thấy mình phải ngăn ngừa lỗi của thân, miệng, ý thì phải tinh tấn tu hành pháp Thi ba-lamật.

11. Vì thấy mình phải đối với các pháp được tự tại nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

12. Vì thấy mình phải tu học giới luật của Đức Như Lai Vô thượng nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật.

Này người thiện nam! Đó là Bồ-tát thấy mười hai việc công đức nên tinh tấn tu hành pháp Thi bala-mật. Công đức tu hành giới này hồi hướng về Nhất thiết trí.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:

Ta sẽ được cởi mở kết sử
Ta phải đóng bít cửa đường ác
Ta phải nghĩ đến việc tốt đẹp
Như trâu giữ đuôi, ta giữ giới.
Ta phải an trụ như Phật dạy
Ta phải được người trí khen ngợi
Ta phải giữ gìn, thường không lìa
Ta phải an trụ giới công đức.
Thân, miệng ta phải được vô tác
Ta sẽ hành pháp ý vô tác
Ta phải khéo giữ thân, miệng, ý
Ta phải không đi trong đường ác,
Nếu không buông lung được Phật khen
Tất cả các gốc nghiệp lành này
Ta phải thường an trụ trong đó
Dứt bỏ tất cả các buông lung.
Ta phải hành Thi ba-la-mật
Ta phải đầy đủ các Phật pháp
Ta phải thanh tịnh giới Như Lai
Tất cả giới này đều vô thượng,
Không hy vọng cầu công đức này
Nếu như Bồ-tát cầu thắng đạo
Giữ giới như trâu yêu đuôi nó
Phải được tất cả công đức lợi.

Lại nữa, các thiện nam! Bồ-tát nhớ nghĩ mười hai hạnh này, tu hành nhẫn.

Mười hai hạnh gồm có:

1. Tất cả “hành không” nên tu hành nhẫn.

2. Không được chấp ngã nên tu hành nhẫn.

3. Chẳng được chúng sinh nên tu hành nhẫn.

4. Chẳng thiên vị ta, người nên tu hành nhẫn.

5. Rốt ráo không giận tức nên tu hành nhẫn.

6. Vì bị kết sử che lấp nên tu hành nhẫn, dứt hẳn tham, sân nên tu hành nhẫn.

7. Vì thành tựu tướng tốt nên tu hành nhẫn.

8. Muốn sinh cõi Phạm nên tu hành nhẫn.

9. Lìa sự áp bức của kẻ khác nên tu hành nhẫn.

10. Vì muốn được trí vô tận, trí vô sinh nên tu hành nhẫn.

11. Vì muốn hàng phục các ma nên tu hành nhẫn.

12. Vì muốn thấy biết thân Như Lai vô biên nên tu hành nhẫn. Hồi hướng công đức nhẫn nhục này về trí Nhất thiết.

Này thiện nam! Đó là Bồ-tát thấy mười hai hạnh tu nên hành nhẫn nhục.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:

Pháp này không, vô hữu
Cầu không được chúng sinh
Biết rõ ràng pháp này
An trụ công đức nhẫn
Xa lìa cả hai bên
Ta, người không có giận
Người trí tu sức nhẫn
Đại Bi dạy như vậy
Rốt ráo không có sân
Tiến tu nhẫn, không lo
Biết rõ đến tận cùng
Tu nhẫn kết sử dứt
Tướng tốt, sắc trang nghiêm
Là sinh nơi cõi Phạm
Bền tiến gần sức nhẫn
Ưa suy nghĩ điều nhẫn
Không có sức đại nhẫn
Khiến sức ma chẳng sức
Tất cả đức chưa đủ
Vậy nên tu diệu nhẫn.

Lại nữa, các thiện nam! Bồ-tát có mười hai thứ trang nghiêm để trang nghiêm tinh tấn.

Mười hai thứ trang nghiêm gồm có:

1. Biết rõ tất cả Phật pháp, siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

2. Đi đến tất cả chỗ Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

3. Cúng dường, giúp việc cho tất cả các Đức Như Lai để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

4. Giáo hóa tất cả chúng sinh để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

5. An trụ tất cả chúng sinh trong Phật pháp để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

6. Dứt bỏ vô minh cho các chúng sinh để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

7. Ban cho chúng sinh trí Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

8. Làm thanh tịnh tất cả các cõi Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

9. Tận kiếp vị lai, tu hạnh Bồ-tát mà chẳng biết mệt mỏi, chán ngán để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

10. Muốn trong thời gian búng ngón tay đến khắp các cõi Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

11. Tất cả cảnh giới Phật, thành đạo Vô thượng.

12. Chuyển bánh xe pháp mầu để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm.

Này các thiện nam! Đó là thứ trang nghiêm để siêng năng tu hành tinh tấn.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng rằng:

Mạnh mẽ vô thượng, không biếng nhác
Ấy là Phật tử hướng Bồ-đề
Đến nhiều cõi Phật cũng vẫn dứt
Ấy là hành xứ không chán mỏi,
Vì hóa chúng sinh bền tinh tấn
Chịu nhóm khổ trăm ngàn ức hiếp
Thường luôn tinh tấn không lười biếng
Thí cho chúng sinh vui diệt độ.
Ta nguyện tịnh tu các cõi Phật
Biết rõ tất cả các phật pháp
Pháp luân ta hơn trong nhiều cõi
Xoay rồi hàng ức chúng sinh thuần,
Một niệm tâm giáo được Bồ-đề
Khiến cho nhiều cõi được điều phục
Phật tử thường vượt qua bờ kia
Vì chúng sinh hiện các trang nghiêm.

Lại nữa, này các thiện nam! Bồ-tát có mười hai hạnh tu thiền định.

Mười hai hạnh ấy gồm có:

1. Hạnh đốt cháy các kết sử vì rốt ráo không phát sinh.

2. Hạnh chánh tâm trụ vì chẳng theo cảnh giới.

3. Hạnh không y chỉ vì lìa cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc.

4. Hạnh vượt ra thế gian, vì hàng phục định của phàm phu chẳng phải Thánh.

5. Hạnh tăng thêm sự thù thắng vì không có tâm chấp ngã.

6. Hạnh thiền định theo thứ lớp, vì phân biệt thiền.

7. Hạnh vô sở hữu, vì lìa khỏi hữu tưởng.

8. Hạnh thiền vô biên vì quở trách Tam-muội thiền hữu biên. Dùng hạnh thiền định này khéo vắng lặng.

9. Hạnh điều tâm vì không có gì chẳng biết.

10. Hạnh vắng lặng vì giữ gìn các căn.

11. Hạnh cảnh giới phương tiện.

12. Bồ-tát tu thiền chẳng bỏ, chẳng phế, phi tuệ, phi mạn, phi kiến, phi ái, phi niệm tu.

Cho nên, Bồ-tát hàng phục tất cả những người tu thiền.

Này các thiện nam! Đó là Bồ-tát thấy mười hai hạnh tu thiền định.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Thiền định này cao quý
Là hạnh Bồ-tát kia
Đốt tất cả kết sử
Rốt ráo không còn sinh,
Chuyên tu thiền vắng lặng
Chẳng tu theo cảnh giới
Nếu có tâm chẳng trụ
Khuyên phải trụ định thiền.
Tu thiền Vô y chỉ
Kia không chỗ nương tựa
Cõi Dục, cõi Vô sắc
Suy nghĩ không mê đắm,
Là thiền siêu thế gian
Là điều Bồ-tát biết
Nên hàng phục tất cả
Các định chẳng phải Thánh.
Thực hành thiền thứ lớp
Muốn được tự tại vậy
Cho nên xả thiền định
Trở lại sinh cõi Dục,
Tăng thêm hạnh thắng diệu
Người trí tuệ tu thiền
Là thiền tâm vô ngã
Vì Bồ-tát mà nói,
Vô lượng, vô biên hạnh
Tu hành thiền tối thượng
Vậy nên ít phần thiền
Soi sáng khiến hàng phục.
Trí tuệ cùng phương tiện
Tu thiền vang tiếng tăm
Đều không chỗ thấy được
Một bề hạnh bạch tịnh
Không có chỗ y chỉ
Cũng chẳng trụ với vật
Người trí tuệ tu thiền
Lìa bỏ các vật tướng
Hành các hạnh như thế
Người trí tuệ tu thiền
Đối Duyên giác tự tại
Cho nên không chỗ hành.

Này thiện nam! Bồ-tát có mười hai hạnh để cho trí nhập vào Bát-nhã ba-la-mật.

Mười hai hạnh gồm:

1. Hạnh sáng suốt rõ ràng chẳng bị tối tăm che lấp.

2. Hạnh đuốc lớn, soi sáng tất cả kết sử.

3. Hạnh bủa lưới sáng trí tuệ, lìa khỏi vô trí.

4. Hạnh móc câu trí tuệ, nhổ hết gốc rễ vô minh.

5. Hạnh giáo bén thiện lợi, xé rách lưới ái.

6. Hạnh kim cang phá tan núi kết sử.

7. Hạnh cung điện của vua mặt trời, đốt khô bùn kết sử.

8. Hạnh lửa lớn, thiêu cháy cây sống.

9. Hạnh báu ma-ni, chẳng mê hoặc.

10. Hạnh không, không có vật.

11. Hạnh vô tướng, không có tướng.

12. Hạnh vô nguyện, vượt qua ba cõi.

Này thiện nam! Đó là Bồ-tát có mười hai hạnh Bồ-tát tu hành để cho trí tuệ nhập vào Bát-nhã bala-mật.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Tuệ này hơn thế gian
Chiếu sáng xua tối tăm
Đuốc mặt trời thanh tịnh
Soi sáng các kết sử
Tuệ lợi diệt vô minh
Giác tri phá hoại ái
Phá các núi kết sử
Chày kim cang Thiên chủ
Phá tan A-tu-la
Tất cả các quân chúng
Được chiếu sáng lìa tối
Tuệ thị hiện như đèn
Mặt trời nung bùn khô
Thắng tuệ như mặt trời
Vượt biển kết đến bờ
Giống như thuyền vượt sông
Chặt đứt cây vô trí
Như dao đốn các cây
Được ma-ni, không mê
Không có vật, tướng tánh
Thường lìa khỏi giác quán
Không nương các “hữu đạo”
Phá tan các nghi ngờ
Hay luận ra lời nói
Thị hiện khổ sinh tử
Thị hiện đuốc Niết-bàn
Tuệ này chữa mắt tục
Hiện sự tướng không mê
Nhân tuệ Bồ-tát khỏe
Lìa tối, tu Bồ-đề.

Này các thiện nam! Bồ-tát thấy biết mười hai cảnh giới thị hiện phương tiện.

Mười hai cảnh giới gồm những gì?

Này thiện nam! Đó là:

1. Bồ-tát đến cảnh giới Niết-bàn, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới sinh tử.

2. Đến cảnh giới vắng lặng, dùng phương tiện thị hiện ở chỗ đông người náo động.

3. Đến cảnh giới thiền, dùng phương tiện thị hiện cảnh cung điện, hoàng hậu, thế nữ.

4. Đến cảnh giới vô tác, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới tạo tác.

5. Đến cảnh giới vô sinh, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới sinh tử.

6. Lìa cảnh giới bốn ma, dùng phương tiện thị hiện cảnh hàng phục các ma.

7. Đến cảnh giới bậc Thánh, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới cận phi Thánh.

8. Lìa cảnh giới thế tục, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới thế gian.

9. Đắc được cảnh giới trí, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới phàm phu.

10. Hiện đã thấy rõ cảnh giới thật tế, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới chẳng rơi vào Thanh văn, Duyên giác.

11. Đạt đến được pháp giới vô tướng, dùng phương tiện thị hiện thân trang nghiêm tướng tốt.

12. Vì hóa độ cảnh giới chúng sinh nên vào cảnh giới Phật dùng phương tiện thị hiện cảnh giới các ma.

Này thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thấy biết mười hai cảnh giới phương tiện thị hiện.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Cảnh giới này phương tiện
Bồ-tát tịnh chúng sinh
Các vị trụ cảnh giới
Thị hiện mọi cảnh giới
Được cảnh giới Niết-bàn
Phương tiện hiện hữu vi
Lại đến cảnh giới này
Không có hai quá hoạn
Được đến chỗ vắng lặng
Phương tiện hiện ồn náo
Cả hai điều không đắm
Hạnh không đắm như ong
Thị hiện trong thể nữ
Vui chơi ở trong cung
Họ được sự vắng lặng
Người giữ đức phương tiện
Chẳng lui mất thiền định
Phương tiện hiện tâm loạn
Thấy không các việc hoảng
Trí phương tiện thị hiện
Cũng không có cung kính
Không vọng tưởng hý luận
Không vọng, cảnh giới vọng
Trí phương tiện thị hiện
Chẳng sinh cũng không biết
Pháp vô sinh quý giá
Thị hiện với chết sống
Trí phương tiện mạnh mẽ
Vượt ra cảnh giới ma
Trụ cõi Phật oai đức
Mà hiện cảnh giới ma
Là phương tiện Phật tử
Đến đỉnh công đức Thánh
Hạnh phàm phu phương tiện
Chúng sinh tịnh trí lực
Trí phương tiện biến hóa
Tất cả pháp không bờ
Biết vốn mé gốc rỗng
Không mong cầu diệt độ
Được phương tiện giữ gìn
Tất cả pháp vô tướng
Là đạt “không”, “vô hữu”
Vì hóa độ chúng sinh
Thị hiện thân tướng hảo
Là cảnh giới phương tiện
Phật tử uy đức lớn
Là Phật tử an trụ
Thị hiện trăm biến hóa.

Này thiện nam! Nay ông phải biết Như Lai phương tiện sinh ra mười hai công đức thành tựu tinh luyện cõi Phật, thành đạo Vô thượng Chánh chân rồi, thị hiện kiếp trược, kiến trược, chúng sinh trược, phiền não trược, mạng trược, hiện các thừa khác nhau, thị hiện cõi Phật ô uế, bất định, thị hiện chúng sinh ngu độn, hiện nói pháp khác, hiện chúng sinh khác, thị hiện dị đạo tranh chấp, hiện ma, nghiệp ma, đều không lỗi lầm, phải biết tất cả điều đó là phương tiện của Như Lai.

Đức Phật nói như thế rồi, khi ấy Đồng tử Vănthù-sư-lợi bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn nói về mười hai công đức thành tựu tinh luyện cõi Phật. Các Đức Phật Thế Tôn đối với công đức tinh luyện cõi Phật này đã thành đạo Vô thượng chánh chân.

Đức Phật nói:

–Này Văn-thù-sư-lợi! Tinh luyện cõi Phật là tinh luyện “kiếp” thành tựu đầy đủ, chẳng bỏ tinh luyện các công đức. Các Đức Phật, Thế Tôn tức đã ở chỗ này thành đạo Vô thượng chánh chân, tinh luyện cõi Phật có tinh luyện “thời” thành tựu đầy đủ chẳng trái lỗi với lúc hành pháp. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện “chúng sinh” thành tựu, không ai không biết pháp. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện rộng phước đầy đủ, khéo nhiệm mầu thanh tịnh. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện dị giải chúng sinh, thành tựu đầy đủ, chẳng đần độn. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện “thừa”, thành tựu đầy đủ, phát xuất nhất thừa. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện diệu địa thành tựu, không có vật. Tinh luyện cõi Phật là tinh luyện diệu địa thành tựu, tất cả không ngoài hạnh đạo. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện công đức thành tựu, không dối lừa. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện có tinh luyện tâm rốt ráo thành tựu, là chúng sinh an trụ tánh bạch tịnh. Tinh luyện cõi Phật là có tinh luyện bậc Thánh nhân thành tựu, ruộng phước bất không. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện đạo tràng thành tựu, chỗ các Đức Phật quá khứ trước kia an trụ.

Này Văn-thù-sư-lợi! Đó là mười hai công đức thành tựu tinh luyện cõi Phật, nơi đây tất cả các Đức Phật Như Lai thành đạo Vô thượng Chánh chân.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông phải biết, ở đây ta không có chỗ an trụ cho Thanh văn, Duyên giác. Vì sao? Vì Như Lai lìa bỏ các dị tướng.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu Như Lai kia, hoặc có người muốn chúng sinh Đại thừa, hoặc có người muốn chúng sinh Tiểu thừa thì Như Lai có tâm bất tịnh, có tâm bất bình đẳng, có lỗi chấp trước, có ít phần đại Bi, có lỗi dị tưởng, thế thì ta có lỗi bỏn xẻn giáo pháp.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu ta vì chúng sinh có nói pháp thì đều hướng họ về đạo Bồ-đề, đều hướng họ về Đại thừa, vào Nhất thiết trí, đạt đến Nhất thiết trí. Do ý nghĩa này nên không có chỗ cho các thừa khác an trụ.

Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu kia không có chỗ cho các thừa khác an trụ thì tại sao Đức Như Lai nói ra ba thừa, nói pháp cho chúng sinh nghe? Đây là Thanh văn thừa, đây là Duyên giác thừa, đây là Đại thừa.

Đức Phật dạy:

–Này Văn-thù-sư-lợi! Thừa là chỗ dừng nghỉ. Như Lai làm ra cõi đất để dừng nghỉ an ổn. Không phải thừa là chỗ đích dừng lại, chẳng phải pháp tướng tạo ra chỗ “an chỉ trụ” mà Như Lai vì người tạo ra chỗ dừng nghỉ yên ổn. Nếu chỗ “an chỉ” kia, thiếu trang nghiêm huy vô lượng trang nghiêm thì đó là thừa không sai, pháp giới không khác.

Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai giảng nói không có cửa chướng ngại, theo thứ lớp đến với “chỗ dừng nghỉ, an ổn”.

Này Văn-thù-sư-lợi! Giống như người thợ mới học việc, theo thầy giỏi khéo. Đạt đến bờ trí tuệ khéo léo, nhiều thứ phương tiện, tùy theo người đệ tử muốn học việc nào, khiến cho tuệ khéo léo kia thị hiện đủ các việc tinh tấn siêng năng. Trí tuệ khéo léo này là bậc nhất.

Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai Thế Tôn cũng vậy, là bậc Thầy có pháp lành khéo léo là bậc Nhất thiết trí, tạo ra ba thứ để nói.

Này Văn-thù-sư-lợi! Giống như lửa ít, dần dần thêm nhiều, có thể thiêu cháy đến tận kiếp.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nhất thiết trí, sáng này cũng lại như vậy, dần dần tăng trưởng cho đến đạt được Đại trí Như Lai, ánh sáng trí tuệ thiêu đốt tất cả kết sử của chúng sinh.

Này Văn-thù-sư-lợi! Núi chúa Tu-di không có phân biệt, nếu có chúng sinh đến chỗ ấy thì tất cả cùng một màu, đó là một màu vàng.

Này Văn-thù-sư-lợi! Là Vô Thượng Như Lai Đại Trí Tu-di cũng vậy, không có phân biệt. Nếu có người quán pháp tánh Như Lai thì đều cùng một màu, đó là màu Nhất thiết trí.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như ở tại chỗ của viên ngọc báu Đại ma-ni xanh biếc. Bên trong cảnh giới của viên ma-ni báu này có ánh sáng dị sắc, đó là các thứ màu sắc, các thứ hình tượng lạ lùng. Do năng lực oai đức của viên báu ma-ni này đều là một màu, đó là màu xanh.

Này Văn-thù-sư-lợi! Viên ngọc báu ma-ni xanh biếc Vô thượng Như Lai cũng vậy. Nếu có chúng sinh tiếp xúc với ánh sáng Như Lai thì tất cả đều một màu, đó là màu Nhất thiết trí.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như biển cả tuy có các cửa vào của các dòng nước nhưng khi nước đã vào biển rồi thì chỉ có một vị, đó là vị mặn, vị mặn này thường trụ.

Này Văn-thù-sư-lợi! Biển cả ấy là Đại Trí Như Lai. Các dòng nước chảy vào là tất cả các pháp Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát vào rồi thì đồng một vị, đó là vị Nhất thừa không sai biệt.

Này Văn-thù-sư-lợi! Do là phương tiện này mà nên biết Như Lai an trụ nơi đất hư vọng, Như Lai phân biệt dẫn đường, giảng nói tạo nơi “an chỉ”, vào chỗ “Như Lai pháp an trụ”. Như Lai thị hiện thứ lớp để vào trong Phật pháp. Để khiến cho tiểu trang nghiêm, Đại trang nghiêm được an trụ trong Phật pháp, Như Lai dùng phương tiện trí biện này, các thứ biến hóa để giảng nói việc ra đời, đó là nghĩa bậc nhất, nhất thừa không hai.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ở cõi Phật này nếu các ngoại đạo có hạnh xuất gia thì Như Lai ở trong đó thị hiện hạnh phương tiện, Như Lai che chở, tự tại dẫn đường. Vì sao? Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai khéo léo hàng phục tất cả các oán thù. Như Lai đối với tất cả thường không oán thù.

QUYỂN TRUNG

Này Văn-thù-sư-lợi! Như vua Chuyển luân thành tựu công đức nhỏ, có đức tụ lại hết, có tham, có sân, có si, có thủ, có kết, có sử. Vua Chuyển luân này tất cả không có gây thù oán. Vì sao?

Này Văn-thù-sư-lợi! Vua Chuyển luân này không có tranh chấp, phiền não.

Này Văn-thù-sư-lợi! Huống chi Như Lai xoay bánh xe pháp lớn vô lượng Đại trí, công đức trang nghiêm thành tựu đầy đủ, đạt được vô đoạn đại Bi, dạo chơi trong hư không pháp vô lậu, thành tựu pháp báu “Thất trợ Bồ-đề” vì chẳng quên pháp nên quay bánh xe pháp lớn. Mà bên ngoài có các kẻ thù sợ hãi, thì không có việc ấy.

Này Văn-thù-sư-lợi nên biết! Nếu thấy ngoại đạo trong cõi Phật này xuất gia, thì thiện nam phải biết tất cả an trụ trong một đạo, đó là Phật đạo.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như các cầm thú không có khả năng an trụ trước sư tử đầu đàn. Cũng vậy, này Văn-thù-sư-lợi! Các ngoại đạo xuất gia không thể tự tiện xâm nhập vào cảnh giới Như Lai, cũng chẳng thể tranh luận với Như Lai. Bậc Sư Tử Đại Nhân giữ gìn mười lực, được bốn vô úy ở trước Ngài mà rống lên, việc này không có, chỉ trừ khi đã có sự gia trì của Như Lai.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như cung của vua mặt trời phát ra màn ánh sáng thì tất cả lửa đom đóm thảy đều bị lấn át, tất cả trân bảo, ánh lửa, các sao thảy không chiếu sáng. Cũng vậy, này Văn-thù sưlợi! Khi cung mặt trời lớn Như Lai Vô thượng xuất hiện, phát ra ánh sáng Đại trí thì các ngoại đạo xuất gia thảy đều bị che khuất, không còn chiếu sáng.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như chỗ vua Thắng Thiết xuất hiện thì tại địa phương ấy tất cả các thứ sắt không có ở đó, vì các thứ sắt tụ lại không chung cùng vậy. Cũng vậy, này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có cõi Phật đã có Phật ra đời thì phải biết, tất cả các ngoại đạo… không xuất gia hành đạo. Vì sao? Vì chẳng cùng chung với Đức Phật ra đời.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như nơi đã xuất hiện Như ý bảo vương thì không sinh ra tất cả các thứ báu ma-ni giả ngụy. Cũng vậy, này Văn-thù-sưlợi! Nơi đã xuất hiện “Vật báu Đại trí Như Lai” thì phải biết. Nơi ấy chẳng xuất hiện các ngoại đạo.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như nơi “tánh báu” có xuất hiện vàng “Diêm-phù-đàn” thì chỗ ấy chẳng sản sinh những thứ đồng thau giá rẻ. Cũng vậy này

Văn-thù-sư-lợi! Nếu có thế giới có Phật ra đời thì nơi ấy chẳng xuất hiện các ngoại đạo.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nên biết phương tiện tùy theo chỗ Phật xuất hiện, chẳng nên xuất hiện các ngoại đạo xuất gia.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông phải biết Như Lai thọ trì cảnh giới phương tiện nhiều không thể suy nghĩ bàn luận. Vì cớ ấy nên ở cõi Phật này xuất hiện tất cả ngoại đạo xuất gia. Vì sao? Vì tất cả bậc thượng thủ ngoại đạo đều an trụ trong giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận, từ Bát nhã ba-la-mật mà ra, dạo chơi trong phương tiện, cũng chẳng lìa bỏ niệm Phật, Pháp, Tăng, giáo hóa chúng sinh đến được bờ kia. Như Lai thọ trì hóa độ chúng sinh.

Khi nói pháp này, tám ngàn Thiên tử nương thừa Thanh văn nghe nói Nhất thừa, phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Năm trăm Tỳ-kheo chứng được Tam-muội Nhất thừa đăng. Một ngàn hai trăm vị Bồ-tát chứng được Vô sinh pháp nhẫn. Khắp tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách, các vị trời ở trên hư không mưa xuống các thứ hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, rải bột chiênđàn cõi trời. Ở trước Đức Phật trăm ngàn Thiên tử đứng trong hư không cất tiếng hô xướng. Áo trời trong hư không, tự xoay chuyển, các vị trời tấu nhạc nói:

–Vốn chưa từng nghe kinh này ra đời, bạch Thế Tôn! Xin để cho kinh điền này lưu hành lâu dài ở cõi Diêm-phù-đề.

Tám trăm vị Tỳ-kheo-ni cởi Ưu đa-la-tăng dâng lên Đức Phật. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại ý nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Cảnh giới phương tiện không nghĩ bàn
Văn-thù-sư lợi phải biết ta
Khi ta tinh luyện giác Bồ đề
Ta lại thị hiện như lúc ấy
Lỗi lầm thời tiết ta không có
Phải thường khi có pháp nhiệm mầu
Chúng sinh nghe pháp ta được độ
Chúng sinh có lỗi, ta không lỗi
Kiếp tinh luyện hết vật công đức
Ruộng phước tinh luyện tịnh vô cấu
Khi ta tinh luyện được Bồ-đề
Cho nên biết ta không có trược
Ta đã từ nhiều ức kiếp qua
Thành tựu vô lượng trí tuệ Phật
Như ta đắc đạo mạng cũng thế
Trong thời gian đó không diệt độ
Ta phương tiện thị hiện diệt độ
Có thường tưởng, nên hiện vô thường
Ta nay thị hiện sự dư tàn
Thọ mạng ta bằng kiếp vị lai
Ta chỉ một thừa một diệt độ
Thừa sai biệt ta không ai được
Nói ba thừa ba thuyết như thế
Phải biết là cảnh giới phương tiện
Kẻ tâm biếng nhác và hẹp hòi
Nghe đến liền sinh lòng sợ hãi
Thị hiện ba thừa vì hạng ấy
Chỉ có một thừa, không có hai
Ta giảng nói tùy người ưa pháp
Vì nhập vào pháp sự Phật đạo
Cho nên một thừa, mà nói ba
Nhưng đối thừa này, không thương tổn
Như trí khéo độ đến bờ kia
Cho nên trí thị hiện có ba
Thế Tôn cũng vậy biết thắng pháp
Do đó một thừa giảng nói ba
Tâm bình đẳng điều phục chúng sinh
Ta đều không có các dị tưởng
Ý ta vui kính đối hạ thừa
Thì ta có lỗi lầm bỏn xẻn
Ngọc biếc lưu ly trên các báu
Tùy theo chỗ có ngọc báu ấy
Tất cả đều cùng một sắc màu
Đó là màu biếc không khác nhau
Trí báu Thế Tôn cũng như thế
Tất cả cõi Phật đều phát sáng
Tất cả chúng sinh đều một màu
Màu Bồ-đề không khác nhau

Như đốm lửa nhỏ đã cháy lên
Dần dần thêm mạnh thành cháy lớn
Lửa trí Thanh văn cũng như thế
Cũng phát ra ánh công đức Phật
Núi chúa Tu-di quy hướng đến
Do uy đức nên cùng sắc màu
Quy y Đức Phật cũng như vậy
Người nhu nhẫn được màu Bồ đề
Giống như tất cả các miệng ong
Hút lấy tinh anh các loài hoa
Tất cả các chất hòa hợp lại
Trở thành một chất mật mà thôi
Bậc trí dạy đời cũng như thế
Thị hiện tạo ra ba thừa rồi
Tất cả sạch trong hòa hợp lại
Tạo tưởng Bồ-đề, không tưởng khác
Vua người chuyển luân không lo buồn
Không có kẻ thù các nơi khác
Ta dùng pháp giới bảo ban khắp
Thì sao lại có hàng ngoại đạo
Giống như khi mặt trời mới mọc
Át lửa đom đóm và các sao
Cung trí tuệ hiện ra cũng thế
Át chen ngoại đạo không chiếu sáng.
Hễ chỗ nào có quặng sắt tốt
Thì tất cả sắt khác không có
Nước có Như Lai ra độ đời
Là nơi không có các ngoại đạo.
Hễ nơi nào có mặt vàng ngọc
Thì chỗ ấy chẳng có đồng thau
Nếu nước có người chứng Bồ-đề
Thì chỗ ấy không các ngoại đạo
Ngọc Như ý, ngọc giả không hòa
Quá khứ, vị lai chẳng lẫn lộn,
Phật bảo, đạo ngoài cũng như vậy
Trong một cõi, thường không lẫn lộn
Thiền định thần thông, tự tại, nhẫn
Tất cả trí môn ngoại đạo này
Người tuệ phương tiện hành trí tuệ
Thị hiện đủ thứ các biến hóa
Sau khi nghe cảnh giới phương tiện
Bấy giờ, Phật tử rất vui mừng
Phát sinh vui mừng hỷ vô lượng
Rải hoa cúng dường Đấng Điều Ngự
Mặt đất rung chuyển mạnh sáu phương
Trên không kỹ nhạc tấu vang xa
Chư Thiên hàng ức chắp tay kính,
Khen ngợi: Lành thay, lời Phật nói!

Khi Đức Phật nói kệ này rồi thì Tát-già Ni-kiền Tử cùng tám mươi ức Ni-càn từ phương Nam tuần tự du hành qua các cõi nước, thẳng đến Đại thành Ưu-thiền-ni. Hàng trăm ngàn đại chúng vây quanh trang nghiêm tiền hô hậu ủng.

Lúc bấy giờ, vua Chiêu-trà-bát-thọ-đề từ xa thấy Tát-già Ni-kiền Tử đến sinh lòng ưa thích, sinh tâm thanh tịnh đối với Tát-già. Nhà vua cùng các Đại thần, nội cung quyến thuộc, nhân dân trong cõi nước, vợ con bốn thứ binh, Đại vương oai đức, Đại vương thần lực... dùng trăm ngàn vật báu để trang nghiêm, trăm ngàn kỹ nhạc, cầm cờ phướn lọng báu để trang nghiêm. Họ liền kéo đến đón nước Tát-già Ni-kiền Tử.

Lúc bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử xa thấy vua Chiên-trà-bát-thọ-đề dùng lời êm ái gọi:

–Lành thay, Đại vương! Trong cõi nước của ông không có kẻ thù áp bức nhau. Không có bệnh hoạn, khổ não nóng bức. Ở nước này bề tôi, thân thuộc, các kỹ tốt, người hư đốn xấu xa, bọn thần giữ quan thuế... tất cả bọn này không làm rối loạn bại hoại đất nước chăng?

Này Đại vương! Đất nước đại vương các bậc Sa-môn, Bà-la-môn được an lạc tu hành chăng? Này Đại vương! Đại vương thường dùng an pháp để cai trị đất nước chăng? Này Đại vương! Không nên sát hại chúng sinh, như săn bắn, chài lưới bức bách các chúng sinh. Vì sao? Này Đại vương phải biết! Tất cả chúng sinh đều yêu mạng sống của mình. Cho nên này Đại vương! Nên thọ giới không sát sinh, không trộm cắp, đối với đất nước của mình nên biết đủ, chẳng nên tà dâm, tự thấy đủ với sắc đẹp của vợ mình. không bao giờ nói dối mà nói lời chân thật. Chẳng nên nói hai lưỡi, nói lời khác lạ. Chẳng nên ác khẩu, thường nói êm dịu, chẳng nên nói thêu dệt mà nghĩ sao nói vậy. Đối với của cải của người khác chớ sinh lòng tham.

Này Đại vương! Nên phải lìa bỏ tức giận, dùng từ bi trang nghiêm thân, miệng, ý. Này Đại vương! Chẳng nên sinh khởi tà kiến, nên tu hành theo chánh kiến của bậc Thánh. Này Đại vương! Nay ông chẳng nên buông lung, khéo quán tưởng vô thường.

Này Đại vương nên biết! Thọ mạng ngắn ngủi chóng sang đời khác. Này Đại vương! Nay nên sợ hãi cho đời sau, nên tin nghiệp báo.

Rồi Tát-già lập lại bằng bài thắng kệ như sau:

Vua người thường nên không buông lung
Giữ gìn đất nước chẳng buông lung
Nếu buông lung phải đọa đường ác
Còn không buông lung sinh cõi lành.
Cũng không giết uổng mạng chúng sinh
Tất cả chúng sinh yêu mạng sống
Người tuệ không nên hại chúng sinh
Che chở chúng sinh như thân mình,
Thường nên xa lánh việc trộm cắp
Thường không nên nói lời hư dối
Thường nên giữ gìn lời chân thật
Đời sau vua sẽ sinh đường lành.
Nói ra lời nói người thích nghe
Không nên nói những lời thô ác
Nên nói lời dịu dàng êm ái
Đại vương không nên nói hai lưỡi
Vua người không nên nói thêu dệt
Có nói lời gì phải lựa lời
Xa lìa sân si, lỗi lầm sấu
Như voi đầu đàn sinh đường lành.
Vua cũng chẳng nên hành tà dâm
Không ham muốn vợ con của người
Thường biết đủ sắc đẹp vợ mình
Đời sau vua sinh vào đường lành.
Đại vương không nên giữ tà kiến
Thường an trụ trong diệu thiện kiến
Phải tu hành chánh pháp như thế
Thì vua sẽ hưởng thú vui trời.
Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới
Và hiếu thuận nuôi nấng mẹ cha
Được lìa xa hẳn đường ác rồi
Sẽ hưởng được vui trên cõi đời.

Tát-già Ni-kiền Tử đem pháp không buông lung này khuyên vua Bát-thọ-đề xong, lúc bấy giờ, vua Chiên-trà-bát-già-thọ-đề hướng về Tát-già Nikiền Tử nói với giọng êm ái an vui:

–Ta chẳng làm những việc như vầy. Này Bà-lamôn! Ông nên đến nhà ta. Vì sao? Vì nay ta thỉnh ông và các quyến thuộc là muốn thiết đãi một bữa cơm.

Ni-kiền Tử nói:

–Lành thay, lành thay! Ông nên làm như vậy! Vì sao? Này Đại vương! Ta đi đường xa đến, đói khát cần phải ăn. Như vậy này Đại vương, ta cần như ông thỉnh.

Lúc bấy giờ, nhà vua đi theo sau Tát-già Nikiền Tử và quyến thuộc, trước vào cung vua, Tátgià Ni-kiền Tử vào ngồi trên tòa ngự, còn các Nicàn theo thứ lớp mà ngồi. Lúc bấy giờ, nhà vua tâm lành cung kính tự tay lo liệu, Tát-già Ni-kiền Tử và quyến thuộc của ông ăn uống no nê rồi.

Lúc bấy giờ, nhà vua nghĩ: “Nay ta sẽ hỏi vị Tát-già Ni-kiền Tử này đối với Đức Như Lai có lòng kính tín chăng?” Nghĩ thế, vua liền lấy cái ghế thấp mà ngồi trước Tát-già-nhi-càn-tử rồi nói:

–Này Bà-la-môn! Ta muốn bàn luận ít vấn đề, nếu ông bằng lòng thì ta sẽ hỏi. Xin ông giảng nói cho ta nghe.

Tát-già Ni-càn Tử nói với Đại vương:

–Đại vương muốn hỏi điều gì cứ tự nhiên, ta sẽ giải đáp để làm vui lòng ông.

Vua nghe xong liền hỏi:

–Này Bà-la-môn! Trong thế giới chúng sinh có thứ chúng sinh trí tuệ sáng suốt, không rối loạn tâm trí, nhưng họ còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Vua lại hỏi:

–Bà-la-môn, này là ai vậy?

Tát-già đáp:

–Đó là Bà-la-môn Bạt-sa.

Nhà vua lại hỏi:

–Bà-la-môn Bạt-sa có lỗi lầm gì?

Tát-già đáp:

–Bà-la-môn Bạt-sa giỏi xem tinh tú niên lịch, giỏi về tiết hội, giỏi học xướng thuyết, giỏi về nguyệt thực, giỏi về động đất, giỏi về năm được mùa, mất mùa, giỏi về thế tục, giỏi học xem tướng, nhưng quả thật ông phạm tà dâm, yêu vợ người khác.

Này Đại vương! Người trí tuệ không nên làm điều tà dâm. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì kẻ làm điều tà dâm thì đời này, đời sau phải chịu khổ dữ dội. Thậm chí còn bị người, trời quở trách.

Rồi nói kệ như sau:

Tham dục vợ con người
Chẳng bỏ cảnh giới ác
Không đủ sắc vợ mình
Bị người đời quở trách.

Nhà vua nói:

–Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian lại có thứ chúng sinh trí tuệ sáng rõ, tâm trí không loạn nhưng họ còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Ai đó?

Tát-già đáp:

–Đó là Bà-la-môn Phả-la-đọa, là người trí tuệ sáng rõ biết lúc nào đúng giờ, lúc nào không đúng giờ mà ông ấy vẫn có lỗi lầm.

Nhà vua lại hỏi:

–Ông ấy có lỗi gì vậy?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Vị Bà-la-môn này ngủ nhiều quá. Thưa Đại vương! Kẻ trí tuệ không nên ngủ nhiều. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì ngủ nhiều làm lui mất các pháp thế gian, xuất thế gian như trí tuệ, như chí quyết đoán.

Rồi nói kệ rằng:

Nếu thích ngủ nghỉ nhiều
Bị biếng nhác che lấp
Ngủ nghỉ, buông lung che
Phàm phu mất các lợi.

Nhà vua lại hỏi:

–Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian có chúng sinh nào thành tựu các pháp như vậy, nhưng còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Vua nói:

–Ai vậy?

Đáp:

–Thưa Đại vương, chính là Hắc vương tử.

Vua lại hỏi:

–Hắc vương tử có lỗi gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Ông ấy thường ganh tỵ. Thưa Đại vương! Người trí tuệ chẳng nên thường hay ganh tỵ. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì nếu được thành tựu ở một ấp giàu có mà có hành vi ganh tỵ thì ấp giàu có của người này chẳng được vững bền, rồi tay không mà chết, chết rồi phải đọa vào thế giới quỷ đói.

Rồi nói kệ rằng:

Ganh tỵ phủ che lòng
Người kia được ấp giàu
Rồi hắn tay không chết
Đọa vào cõi quỷ đói.

Vua lại hỏi:

–Lại có chúng sinh nào thành tựu công đức bậc thượng như trên mà còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là vương tử Cát Quân.

Nhà vua lại hỏi:

–Vương tử Cát Quân có lỗi gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Vương tử Cát Quân này rất thích sát sinh. Thưa Đại vương! Người trí tuệ chẳng nên ưa thích sát sinh. Vì sao? Vì sát sinh thì yểu mạng. Khi chết sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Rồi nói kệ rằng:

Vua người mà sát sinh
Yếu đuối và chết yểu
Khi chết đọa địa ngục
Vậy nên chẳng sát sinh.

Vua lại hỏi:

–Này Bà-la-môn! Lại có chúng sinh trí tuệ sáng rõ tâm trí không loạn động, họ có lỗi lầm, chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là vương tử Vô úy.

Vua lại hỏi:

–Vương tử Vô Úy có lỗi gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Hay thương xót người khác. Thưa Đại vương! người trí tuệ chẳng nên thương xót kẻ khác nhiều quá. Vì sao? Thưa Đại vương! Thường thương xót người khác, nếu tự tại quá là nước nhiều giặc khó có thể hàng phục vì có quá nhiều lỗi lầm.

Rồi nói kệ rằng:

Thường thương xót người khác
Nếu người được tự tại
Không thể hàng phục được
Không thể cầm đuốc to.

Vua lại hỏi:

–Trong chúng sinh lại có chúng sinh trí tuệ được khen ngợi là trí tuệ thì còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là vương tử Thiện Lực đó. Người tuệ được khen là tuệ, nhưng thật ra vẫn có lỗi.

Nhà vua nói:

–Này Bà-la-môn! Vương tử Thiện Lực có lỗi gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Vương tử Thiện Lực hay uống rượu buông lung. Thưa Đại vương! Người trí tuệ không nên thường uống rượu. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì rượu thường làm mất sự nhớ nghĩ, chướng ngại thượng nghĩa. Cũng mất nghĩa thế và xuất thế.

Rồi nói kệ rằng:

Thường hay buông lung
Tất cả việc vua
Rượu buông lung che
Lùi nghĩa xuất thế.

Vua lại hỏi:

–Này Bà-la-môn! Lại có chúng sinh trí tuệ được khen là trí tuệ còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là vương tử Thiên Huân. Được người tuệ khen là trí tuệ song còn có lỗi lầm. Nhà vua nói:

–Này Bà-la-môn! Vương tử Thiên Huân có lỗi lầm gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Vương tử Thiên Huân thường suy nghĩ. Thưa Đại vương! Người trí tuệ chẳng nên suy nghĩ mãi. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì người suy nghĩ mãi làm trở ngại lợi ích khiến cho việc quan trọng khởi lên chẳng được vắng lặng. Cho nên, thưa Đại vương! Người rất thông minh chẳng nên suy nghĩ mãi.

Rồi nói kệ rằng:

Nếu có suy nghĩ mãi
Việc mất không tốt lành
Dùng đây khéo trang nghiêm
Trở ngại việc phát tâm.

Vua lại hỏi:

–Này Tát-già! Lại có chúng sinh được người trí tuệ khen ngợi là trí tuệ còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là vương tử Đại Quân. Được người trí tuệ khen ngợi là trí tuệ, nhưng vẫn có lỗi lầm.

Vua lại hỏi:

–Vương tử Đại Quân có lỗi gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Ông có cái lỗi là bị tánh bỏn xẻn che lấp, cướp đoạt của cải của người khác. Thưa Đại vương! Người trí tuệ không nên có tánh bỏn xẻn.

Rồi nói bài kệ rằng:

Nếu vua người bỏn xẻn
Giàu có chẳng biết đủ
Tài sản chứa nhóm này
Đến đời khác lo buồn.

Vua lại hỏi:

–Này Tát-già! Nếu có người trí tuệ được khen ngợi là trí tuệ nhưng còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Là vua Ba-tư-nặc được người trí tuệ khen là có trí tuệ nhưng còn có lỗi lầm.

Nhà vua nói:

–Này Bà-la-môn! Vua Ba-tư -nặc có lỗi lầm gì? Đáp:

–Vua Ba-tư-nặc có cái lỗi ăn nhiều. Thưa Đại vương! Người có trí tuệ chẳng nên ăn nhiều. Vì sao? Thưa Đại vương! Nếu ăn nhiều thì trở nên lười biếng, thân thể nặng nề, đồ đã ăn khó tiêu.

Rồi nói kệ rằng:

Vua người ăn nhiều
Biếng nhác thân nặng
Lại tổn hiểu biết
Dung nhan chẳng tươi.

Vua lại hỏi:

–Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian có người trí tuệ được khen là trí tuệ nhưng còn có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Là Đại vương đó. Người trí tuệ ở thế gian vẫn khen ngợi Đại vương là trí tuệ nhưng Đại vương cũng có lỗi.

Nhà vua nói:

–Này Bà-la-môn! Ta có lỗi gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Ngài quá bạo ngược, tánh ác, hấp tấp, hung tợn, không có tâm Từ bi. Thưa Đại vương! Phàm người có trí tuệ chẳng nên hung tợn. Nếu người trí tuệ mà hung tợn thì người thường chẳng nương cậy, thậm chí cha mẹ cũng chẳng vừa ý, huống gì là chúng sinh khác. Thưa Đại vương! Nếu là người thông minh thì chẳng nên hung bạo. Thưa Đại vương! Người có trí tuệ nên suy nghĩ sâu xa.

Rồi nói kệ rằng:

Nếu có thô bạo
Chẳng biết nghĩ sâu
Ắt bị quở trách
Người không gần gũi.

Lúc bấy giờ, vua Chiên-trà-bát-thọ-đề nghe người nói lỗi mình trước mặt mình, liền giận dữ, phẫn nộ, không vừa ý. Rồi không chịu được, nhà vua nói với Tát-già Ni-kiền Tử:

–Ông có nên ở trước mặt mọi người mà quở trách ta chăng?

Rồi vì tức giận nên vua ra lệnh xử chém.

Lúc bấy giờ, Tát-già kinh sợ hướng về vua nói:

–Thưa Đại vương! Chẳng nên có thái độ hung ác như vậy. Hãy cho tôi sự không sợ hãi, xin nghe tôi thưa.

Nhà vua nói:

–Ta cho phép ông không sợ, ông muốn nói điều gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Tôi cũng có lỗi là dám trước mặt đức vua mà nói lỗi xấu của vua là quá bạo ngược, tánh ác, hấp tấp, hung tợn, không có tâm Từ bi, cứ như sự thật mà nói. Thưa Đại vương! Người có trí tuệ không nên lúc nào cũng nói ra sự thật của người khác. Thưa Đại vương! Người trí tuệ nên phải biết lúc nào nên nói, lúc nào chẳng nên nói. Thưa Đại vương! Nói sự thật kẻ khác thường không làm vừa ý họ, người sẽ chẳng gần gũi. Kẻ không trí tuệ thì trách mắng.

Rồi nói kệ rằng:

Như thật nói vua người
Kẻ phàm phu bị hủy
Do đó người trí tuệ
Suy nghĩ rồi mới nói.

Lúc bấy giờ, vua khen rằng hay lắm, vua lại bàn bạc hỏi han:

–Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian, có chúng sinh nào trí tuệ, sáng rõ, tâm trí không rối loạn mà không có lỗi lầm chăng?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại vương, thật có!

Nhà vua nói:

–Là ai?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm. Ngài thuộc dòng họ Thích bỏ ngôi đi xuất gia. Như chúng tôi xét thấy thì Ngài không lỗi lầm. Dòng họ Ngài cao quý nên không có lỗi lầm. Ngài sinh trong dòng họ vua Chuyển luân nên không có lỗi lầm. Ngài chẳng sinh trong dòng họ thấp hèn nên không có lỗi lầm. Ngài sinh trong dòng họ Thích nên không có lỗi lầm. Tướng mạo, uy đức Ngài rất trang nghiêm nên không có lỗi lầm. Ngài có tướng tốt trang nghiêm nên không có lỗi lầm. Vì những ý nghĩa đó nên không có lỗi lầm.

Nếu Ngài Cù-đàm họ Thích không xuất gia thì sẽ làm vua đại Chuyển luân, bảy thứ báu đầy đủ. Đó là bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, ma-ni báu, nữ báu, tàng báu, thân báu, chủ binh báu. Ngài có đầy đủ một ngàn người con trai mạnh mẽ khôi ngô, có khả năng hàng phục mọi người, cũng có đầy đủ tướng mạo của vua Chuyển luân. Ngài ở trong bốn châu thiên hạ thống lãnh tự tại, làm vua chánh pháp vương. Ngài chẳng dùng binh trượng mà cai trị đất nước bằng chánh pháp. Nhưng Ngài đã xuất gia, tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày ăn một hột mè, một hạt gạo, ngồi dưới cội Bồ-đề hàng phục các ma. Sau khi hàng phục, Ngài nhất tâm niệm tuệ, sở tri chân như, sở đắc chân như, sở xúc chân như, sở giác chân như, sở chứng chân như, giác ngộ tất cả. Không có chúng sinh nào ngang bằng Ngài, huống là hơn Ngài. Không có ai ngang bằng được vị Samôn Cù-đàm này. Vậy nên Ngài không có lỗi lầm. Vì sao?

Thưa Đại vương! Vì vị Sa-môn Cù-đàm này có gia tộc không ai bằng, oai đức trang nghiêm không ai bằng, uy đức trí tuệ không ai bằng, vậy nên Ngài không có lỗi.

Rồi ông nói kệ:

Giữ gìn ba mươi hai tướng tốt
Sinh ra họ Thích sư tử người
Là thái tử con vua Tịnh Phạn
Thế Tôn, Nhất thiết trí không lỗi.

Tát-già Ni-kiền Tử nói xong, vua Bát-thọ-đề hỏi:

–Này Đại Bà-la-môn! Bây giờ ông hãy nói những gì là ba mươi hai tướng Đại trượng phu của Đức Như Lai?

Vị Bà-la-môn nói:

–Giờ đây tôi sẽ nói.

Nhà vua hỏi:

–Là những gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là:

1. Sa-môn Cù-đàm có chân đứng vững vàng trên bàn chân đầy đặn.

2. Bánh xe ngàn căm tròn đủ.

3. Tay chân mềm mại.

4. Ngón tay dài thon thả.

5. Tay chân có màng mỏng nối liền.

6. Đó là Sa-môn Cù-đàm có gót chân đầy đặn.

7. Đó là Sa-môn Cù-đàm có xương chân móc liền nhau.

8. Đó là Sa-môn Cù-đàm có đùi như đùi nai.

9. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân ngay thẳng.

10. Đó là Sa-môn Cù-đàm có âm tàng ẩn kín.

11. Đó là tóc Sa-môn Cù-đàm từng sợi, từng sợi đều xoắn về bên phải.

12. Đó là Sa-môn Cù-đàm có lông đều hướng lên.

13. Đó là Sa-môn Cù-đàm có tóc xanh biếc.

14. Đó là Sa-môn Cù-đàm có da dẻ màu vàng rất mịn màng.

15. Đó là Sa-môn Cù-đàm có bảy chỗ đầy đặn.

16. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân thể vạm vỡ.

17. Đó là Sa-môn Cù-đàm có các chi tiết rất đẹp.

18. Đó là Sa-môn Cù-đàm khi đi thân chẳng xiêu vẹo.

19. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân thể cao lớn.

20. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân tròn lẳng như thân cây Ni-câu-đà.

21. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân như thân vua sư tử.

22. Đó là Sa-môn Cù-đàm có đủ bốn mươi cái răng.

23. Đó là Sa-môn Cù-đàm có răng khít với nhau.

24. Đó là Sa-môn Cù-đàm có hàm răng bằng đều.

25. Đó là Sa-môn Cù-đàm có hàm răng trắng tươi.

26. Đó là Sa-môn Cù-đàm có được vị giác tuyệt vời.

27. Đó là Sa-môn Cù-đàm có lưỡi rộng dài.

28. Đó là Sa-môn Cù-đàm có âm thanh Phạm thiên.

29. Đó là Sa-môn Cù-đàm có mắt pháp hiền từ.

30. Đó là Sa-môn Cù-đàm có đôi mắt xanh biếc.

31. Đó là Sa-môn Cù-đàm có sợi lông trắng.

32. Đó là Sa-môn Cù-đàm trên đỉnh đầu có bướu thịt.

Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm có đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu. Vì ý nghĩa này nên Ngài không có lỗi lầm.

Rồi nói kệ rằng:

Sinh từ họ Thích, đỉnh bướu thịt
Tóc xoăn về phải màu xanh biếc
Mắt như trâu chúa màu sen xanh
Vậy nên Thế Tôn không lầm lỗi
Tiếng nói như Ca-lăng-tần-già
Lưỡi dài rộng, mỏng sạch tươi tắn
Thế Tôn loài người răng bằng khít
Đủ bốn mươi răng sạch trắng trong
Tất cả người đời và các trời
Nhìn ngắm thân Ngài đều mừng vui
Lưỡi Đức Thế Tôn che khắp mặt
Cho nên chúng sinh không ai bằng
Tất cả các vị đều gom lại
Tiết ra từ tướng lưỡi Như Lai
Tất cả các vị hòa một vị
Vậy nên Thế Tôn không lầm lỗi
Thân như sư tử, môi đỏ thắm
Hai vai vạm vỡ, rộng đầy đẹp
Thân Phật nào khác cây Ni-câu
Giáp vòng tròn trịa, khéo an trụ
Thân Thế Tôn trang nghiêm, ngay thẳng
Thân Sư tử, người rất to cao
Bảy chỗ bằng đầy không ai bằng
Màu vàng thượng diệu tươi sạch trong
Lông như Sư tử hướng lên trên
Da dẻ thân Ngài rất mịn màng
Các sợi tóc xoắn thành trôn ốc
Cho nên chúng sinh không ai bằng
Dáng như sư tử không xiêu vẹo
Âm tàng ẩn kín như ngựa chúa
Vế đùi tròn trịa giống đùi nai
Nhìn Ngài ai ai cũng vui mừng
Chân tay Thế Tôn có màng mỏng
Ngon tay thon dài màu đồng đỏ
Gót chân bằng phẳng, xương móc nhau
Lòng bàn chân thẳng không cao thấp
Tay chân Đức Phật khỏe mềm mại
Ngón tay dài thon có bánh xe
Chân Đấng Nhân Tôn thật vững vàng
Khi đi trên đất không nghiêng động
Tướng như vậy, không có ai bằng
Ngọn đèn thế gian khéo trang nghiêm
Rất nhiệm mầu ngự giữa đại chúng
Giống như mặt trăng, sao vây quanh
Đại tướng phu này sắc như vầy
Thế Tôn làm đèn sáng cho đời
Huống chi pháp vô lậu của Ngài
Nhờ pháp này mà tự giác ngộ.

Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm có sắc thân nhiệm mầu, tất cả chúng sinh không ai sánh bằng. Vì ý nghĩa này nên Ngài không có lỗi lầm. Này Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm đầy đủ năng lực đại Bi. Đối với các chúng sinh, tâm Ngài không hề ngăn ngại. Ngài thường hành đại Từ không ngăn ngại, không mê đắm. Tự nhiên chan hòa khắp tất cả thế giới, thâm nhập vào các chúng sinh.

Thưa Đại vương! Như ngọc báu Ma-ni có công năng làm lắng trong nước bẩn. Tánh báu thanh tịnh có công năng làm cho tất cả nước dơ bẩn trở thành trong sạch. Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm cũng vậy. Bên trong bản thân Ngài thanh tịnh cho nên có khả năng làm thanh tịnh bùn lầy kết sử ô uế của tất cả chúng sinh, cho nên Ngài không có lỗi.

Rồi nói kệ rằng:

Lòng từ trùm thế gian
Các thế giới ba đời
Tất cả tâm chúng sinh
Đức Phật rải tâm Từ.
Không chỗ nào chẳng khắp
Tâm từ không ai bằng
Trùm khắp hư không giới
Nhất thiết trí không lỗi
Báu Ma-ni thanh tịnh
Làm trong sạch nước bẩn
Thế Tôn tịnh ba cõi
Sạch kết tử chúng sinh.

Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm đầy đủ ba mươi hai hạnh đại Bi, ba mươi hai hạnh đại Bi gồm:

1. Thấy chúng sinh ở thế gian chìm đắm trong bóng tối ngu si nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh đại Bi.

2. Thấy chúng sinh ở thế gian sống trong vỏ vô minh nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh đại Bi.

3. Thấy chúng sinh ở thế gian rơi vòng sinh tử nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh đại Bi.

4. Thấy chúng sinh ở thế gian thường siêng làm những việc bất thiện, không vắng lặng nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh đại Bi.

5. Thấy chúng sinh ở thế gian rơi vào dòng nước lớn bị cuốn trôi đi, nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh khởi tâm đại Bi.

Thấy chúng sinh ở thế gian rớt xuống núi lớn bị khổ não dữ dội ép bức, nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh khởi tâm đại Bi.

1. Thấy chúng sinh ở thế gian lìa xa Thánh đạo rơi vào tà đạo, nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh khởi tâm đại Bi.

2. Thấy chúng sinh ở thế gian bị giam trong ngục lớn, tự nhiên bị ràng buộc cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này khởi tâm đại Bi.

3. Thấy chúng sinh ở thế gian tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc nên không biết chán, không biết đủ, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này khởi tâm đại Bi.

4. Thấy chúng sinh ở thế gian thích làm tôi đòi, thường lệ thuộc người khác, cho nên Sa-môn Cùđàm đối với chúng sinh mày mà khởi tâm đại Bi.

5. Thấy chúng sinh ở thế gian bị sinh, già, chết ép ngặt, khốn khổ nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này khởi tâm đại Bi.

6. Thấy chúng sinh ở thế gian thường bị bệnh ép ngặt cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

7. Thấy chúng sinh ở thế gian bị ba thứ lửa thiêu đốt, thường phải tiếp xúc với lửa cho nên Samôn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

8. Thấy chúng sinh ở thế gian bị ba thứ lửa thiêu đốt, thường phải tiếp xúc với lửa cho nên Samôn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

9. Thấy chúng sinh ở thế gian bị hạ triền trói buộc, sinh tử, thêm dài cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

Thấy chúng sinh ở thế gian tâm thường kinh hãi sợ sệt, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

1. Thấy chúng sinh ở thế gian tham đắm chút mùi vị chẳng thấy lỗi lầm cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

2. Thấy chúng sinh ở thế gian mãi ngủ, buông lung, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

3. Thấy chúng sinh ở thế gian chịu sự đói khát, thường hại lẫn nhau, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

4. Thấy chúng sinh ở thế gian thường bị suy tổn, cướp đoạt lẫn nhau, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

5. Thấy chúng sinh ở thế gian bị vô minh che lấp thường không thấy rõ, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

6. Thấy chúng sinh ở thế gian tranh chấp lẫn nhau, não loạn chẳng ngừng, cho nên Sa-môn Cùđàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

7. Thấy chúng sinh ở thế gian như cỏ lan, đậu bò, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

8. Thấy chúng sinh ở thế gian giao hội bất tịnh, lìa xa thanh tịnh, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

9. Thấy chúng sinh ở thế gian làm những việc khó khăn, xa lìa những việc không khó khăn, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

10. Thấy chúng sinh ở thế gian nhiều nghi ngờ, mê đắm các tà kiến, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

11. Thấy chúng sinh ở thế gian như hoa Đầu-la nương theo các thứ “thấy”, cho nên Sa-môn Cùđàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

12. Thấy chúng sinh ở thế gian tâm tưởng đảo kiến, vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là vui, bất tịnh tưởng là tịnh, vô ngã tưởng là ngã, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

13. Thấy chúng sinh ở thế gian mang vác cái gánh nặng nề thường chịu đau khổ thiếu thốn, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

14. Thấy chúng sinh ở thế gian nương cậy sự yếu kém, không có ý tưởng vững chắc, cho nên Samôn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

15. Thấy chúng sinh ở thế gian thường sống trong sự nhơ bẩn, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

16. Thấy chúng sinh ở thế gian bị ràng buộc trong Dục hữu mà lòng sinh tham đắm, cho nên Samôn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

Thấy chúng sinh ở thế gian bị lợi dưỡng che lấp, thường cầu lợi dưỡng, cho nên Sa-môn Cùđàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

Thấy chúng sinh ở thế gian bị các thứ bệnh khổ, lo buồn, khóc lóc, sầu não... các khổ dồn dập nhóm họp, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm đại Bi.

Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này đã thành tựu ba mươi hai hạnh đại Bi như vậy. Nên Ngài không có lỗi.

Rồi nói kệ rằng:

Vô minh, ngu si rất đen tối
Thấy vô minh che đậy chúng sinh
Thấy chúng sinh hướng ngục sinh tử
Nên Đấng Nhân Tôn sinh đại Bi.
Chúng sinh thường siêng tu các hạnh
Đức Phật thấy chúng sinh nổi trôi
Thường hay thuận theo dòng trôi ấy
Đấng Thập Lực sinh tâm đại Bi.
Rớt vào trong núi lớn rất cao
Thấy chúng sinh đi theo đường tà
Khéo đem an trụ trong Thánh đạo
Ở nơi vắng lặng không phiền não
Bị các thứ tà kiến buộc ràng
Cảnh giới giận, yêu không thỏa mãn
Bị sự sinh, già chết nhận chìm
Nên Đấng Thập Lực khởi đại Bi
Bị các thứ khổ luôn ép ngặt
Thấy ba lửa thế gian cháy rực
Kinh sợ người đắp tấm da nai
Vì thế Phật sinh tâm đại Bi.
Chúng sinh tham đắm ưa thích vị
Buông lung tham đắm các cảnh giới
Thấy họ rơi vào đường quỷ đói
Đấng Điều Ngự cứu giúp oán hại.
Thấy các chúng sinh hại lẫn nhau
Bị vô minh tối tăm che phủ
Giống như cỏ lan bò tươi tốt
Đấng Thập Lực vì duyên cớ ấy,
Dâm dục sinh ra các buộc ràng
Thấy các chúng sinh làm việc khó
Thực hành tà kiến trong rừng rậm
Đấng Thập Lực vì duyên cớ đó,
Đối với bất tịnh tưởng là tịnh
Vô thường, hữu thường, vô ngã, ngã
Thấy các chúng sinh mang vác nặng
Nên Đấng Thập Lực sinh Từ bi.
Thấy gánh vác những vật nặng nề
Phàm phu thường nương cậy yếu kém
Thường bị kết sử làm ô nhiễm
Nên Đấng Thập Lực phát đại Bi.
Thấy bị lợi dưỡng làm che lấp
Lại nữa cảnh giới không nhàm đủ
Bị rơi vào biển lớn cõi Dục
Cho nên Phật phát tâm đại Bi.
Có rất nhiều thứ bệnh lo buồn
Thấy các chúng sinh khổ não rồi
Vì tất cả các khổ não đó
Cho nên Phật phát tâm đại Bi.
Biết là phi hữu cũng phi vô
Ngài thường có tâm đại Từ bi
Tất cả chúng sinh tâm trùm khắp
Cho nên Nhất thiết trí không lỗi.

Thưa Đại vương! Nay tôi lại nói lược về Samôn Cù-đàm thành tựu được bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, bốn Thiền, năm Căn, năm Lực, bảy Pháp trợ đạo, tám phần Thánh đạo, Ngài thành tựu đầy đủ. Vậy nên thưa Đại vương!

Sa-môn Cù-đàm này không có lầm lỗi.

Rồi nói kệ rằng:

Thường siêng tinh tấn tu Niệm xứ
Đại Giác khéo biết bốn Chánh cần
Đại Tiên thiền định được tự tại
Hơn hẳn chúng sinh, không lỗi lầm,
Điều Ngự thành tựu các thần thông
Biện tài tự tại, đến bờ kia
Như Lai khéo biết chú giải thoát
Đạt giác khéo thông đạt các Đế,
Đối với phạm hạnh được tự tại
Tu tập Từ, Bi và Hỷ, Xả
Khéo léo an trụ trong định tuệ
Vậy nên thường không có lỗi lầm.
Đại Tiên khéo biết giúp Bồ-đề
Như Lai khéo biết tám đường Thánh
Thấy chúng sinh khổ đối Thánh đạo
Rốt ráo an trụ bền an vui,
Tất cả cõi đời không chúng sinh
Nào bằng được như Đấng Điều Ngự
Nhất thiết trí có mọi công đức
Thường hay chẳng hủy báng người khác.

Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này có đủ mười Lực.

Nhà vua nói:

–Này đại Bà-la-môn! Mười Lực của Như Lai gồm những gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Đó là:

1. Phật Như Lai chỗ này biết như thật, chỗ này chẳng phải chỗ biết như thật.

2. Biết như thật chẳng phải chỗ quá khứ, vị lai, hiện tại tạo nghiệp, thọ nghiệp, chỗ ở, nhân quả, báo ứng.

3. Biết như thật vô lượng các cõi, các thứ thế giới.

4. Biết như thật những người khác, chúng sinh khác... các thứ loại sở giải.

Biết như thật chúng sinh khác, người khác... có căn tánh thù thắng, không có căn tánh thù thắng.

1. Biết như thật tất cả đến với đạo.

2. Biết rõ như thật các Căn, các Lực, trợ Đạo, các Thiền định Giải thoát định, Thứ lớp định, tất cả các kết sử ô nhiễm hay bạch tịnh... tùy từng chỗ của các chúng sinh khác, của những người khác.

3. Biết như thật những điều mà người ta làm, người ta nói ở một đời hay ở vô lượng đời. Khi nghĩ nhớ đến các thứ túc mạng nhiều vô lượng.

4. Biết như thật các thứ sinh tử, đến cả việc sinh lên đường lành hay đường ác của các chúng sinh bằng mắt trời thanh tịnh vượt hơn mắt thường.

5. Biết như thật các lậu đã hết, tâm vô lậu giải thoát và trí tuệ giải thoát.

Thưa Đại vương! Đó là Như Lai đầy đủ mười Lực, vì đầy đủ Lực nên gọi là Trì thập lực, Vô hàng phục. Vậy nên Như Lai không lỗi. Rồi nói kệ rằng:

Là xứ, phi xứ
Biết đúng như thật
Đại nhân nói thật
Ngài không có lỗi.
Quá khứ không chướng
Kia có trí tuệ
Hiện tại, vị lai
Biết không có lỗi,
Khéo biết nghiệp báo
Biết có nhân duyên
Đúng thật, chẳng lầm
Đấng Điều Ngự biết,
Biết đến vô lượng
Các thứ thế giới
Khéo biết các cõi
Người đời không bằng.
Các thứ kiến giải
Vô lượng chư Phật
Soi đời biết rõ
Đúng thật, không khác
Biết kẻ căn chậm,
Cũng biết trung căn
Lại biết căn thục
Đến bờ bên kia
Tất cả đến đạo
Biết đúng như thật
Căn, Lực giúp đạo
Thần thông giải thoát
Trong sạch, nhiễm ô
Mỗi mỗi biết rõ
Không có chướng ngại
Tri kiến vô ngại
Nghĩ nhớ bình đẳng
Xứng thật vô lượng
Thân mình, thêm người
Như thật không khác
Mắt trời sạch trong
Hơn mắt người đời
Chúng sinh sinh chết
Điều Ngự thấy hết
Biết các lậu hết
Cũng biết giải thoát
Vô lậu có khác
Cũng đều thấy biết
Sức Đấng Nhân Tôn
Biết rõ tự tại
Một niệm có này
Tâm không phân biệt
Phát động, chẳng phát
Tự nhiên mà có
Mới quay pháp luân
Không phân biệt hành
Nhất tâm mà biết
Ý nghĩ chúng sinh
Và tâm chúng sinh
Không có hai tướng
Cho nên không lỗi
Phật được tự tại
Tất cả pháp lành
Sinh các công đức.

–Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này có đủ bốn Vô úy.

Nhà vua lại hỏi:

–Này Đại Bà-la-môn! Bốn vô úy của Như Lai gồm những gì?

Đáp:

–Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này tự nói ta chứng được Chánh biến tri. Nếu có Sa-môn, các Bà-la-môn, Thiên ma, Đại phạm và người đời nói là ông đối với các pháp chẳng Chánh biến tri, thì ta chẳng thấy tướng đó, vì chẳng thấy tướng nên được hạnh an ổn, được hạnh vô úy. Ngài tự nói ta đạt được hạnh Tối thắng xứ, ở trước đại chúng, chánh thức rống lên tiếng rống sư tử, có khả năng quay bánh xe Phạm. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chánh pháp này.

Đức Phật có thệ nguyện: “Ta đã dứt hết các lậu. Nếu có ai nói là ta chưa dứt hết các lậu thì Phật không thấy tướng đó, vì không thấy tướng nên Như Lai đắc được hạnh an vui, được hạnh vô úy, được hạnh Thắng xứ, ở trước đại chúng chánh thức rống lên tiếng rống sư tử, có khả năng quay bánh xe Phạm. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chánh pháp này.

Đức Phật nói pháp chướng đạo. Nếu có người nói là gần gũi pháp này không bị chướng ngại, Phật chẳng thấy tướng đó, vì không thấy tướng nên được hạnh an vui, được hạnh vô úy, được hạnh Thắng xứ, ở trước đại chúng chánh thức rống tên tiếng rống sư tử, quay bánh xe “Phạm”. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chánh pháp này. Ta nói “Đạo xuất thế của bậc Thánh”. Nếu có người nói là gần gũi này chẳng thể xuất thế thì Phật chẳng thấy tướng này, vì chẳng thấy tướng này được hạnh an vui, được hạnh vô úy, được hạnh Thắng xứ, ở trước đại chúng chánh thức rống lên tiếng rống Sư tử, có khả năng quay bánh xe “Phạm”. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chánh pháp này.

Thưa Đại vương! Đây là bốn việc không sợ hãi của Như Lai. Đức Như Lai có đủ bốn việc không sợ hãi này, ở trước đại chúng chánh thức rống lên tiếng rống sư tử... cho nên Như Lai không có lỗi.

Rồi nói kệ rằng:

Trước chúng rống sư tử
Phật không hề sợ hãi
Lại không ai bằng ta
Huống chúng sinh lỗi lầm
Nếu ta đã ngộ pháp
Là chân thật không dối
Là Chánh Biến Tri Kiến
Vua nai, sư tử rống
Nếu có kẻ trái ngược
Chẳng thấy có tướng ấy
Vì không thấy tướng nên
Phật không hề sợ hãi
Ta hết tất cả lậu
Thân ta là vô lậu
Không có người bằng ta
Các trời và người đời
Có pháp chướng ngại ấy
Đấng Điều Ngự đã nói
Là chân thật không dối
Không có thể thay đổi
Ta nói đạo xuất thế
Tự giác rồi giảng nói
Người tu hành pháp này
Không có chướng ngại gì
Phật biết điều đó rồi
Như Lai được an vui
Đắc an vui không sợ
Hạnh hơn Đại trượng phu
Quay bánh xe chánh pháp
Kẻ khác không quay được
Thế gian không thể quay
Trừ Đấng Lưỡng Túc Tôn.

QUYỂN HẠ

Lại nữa, này Đại vương! Vị Sa-môn Cù-đàm này thành tựu mười tám pháp Phật bất cộng.

Thưa Đại vương! Những gì là mười tám pháp Phật bất cộng?

Thưa Đại vương! Đó là:

1. Đức Phật Như Lai không có thác loạn.

2. Miệng không lời nói.

3. Không có mất niệm.

4. Không có dị tưởng.

5. Không lúc nào chẳng định tâm.

6. Không lúc nào chẳng biết mình.

7. Bỏ dục không thoái giảm.

8. Tinh tấn không thoái giảm.

9. Niệm không thoái giảm.

10. Tuệ không thoái giảm.

11. Giải thoát không thoái giảm.

12. Giải thoát tri kiến cũng không thoái giảm.

13. Tất cả hành động của thân lấy trí tuệ làm đầu, theo trí tuệ mà hành động.

14. Tất cả hành động của miệng lấy trí tuệ làm đầu, theo trí tuệ mà hành động.

15. Tất cả hoạt động ý của lấy trí tuệ làm đầu, theo trí tuệ mà hành động.

16. Biết quá khứ tri kiến không ngăn ngại.

17. Biết vị lai tri kiến không ngăn ngại.

18. Biết hiện tại tri kiến không ngăn ngại.

Đó gọi là Như Lai thành tựu mười tám pháp Phật bất cộng. Vậy nên Như Lai không lầm lỗi.

Rồi nói kệ rằng:

Thế Tôn không thác loạn
Miệng không có nói lời
Ngài luôn không thất niệm
Vậy nên không lỗi gì.
Lòng không có dị tưởng
Chánh trí không loạn tâm
Theo thời chẳng sinh, xả
Như Lai không lỗi lầm,
Xả dục, không thoái giảm
Thiện Thệ tiến không suy
Niệm Ngài không bị mất
Kia không thể hủy đi
Trí tuệ không tổn giảm
Giải thoát không thoái giảm
Giải thoát tri kiến nguyên
Trí kia không não phiền
Tất cả các thân nghiệp
Khẩu nghiệp và ý nghiệp
Lấy trí lực làm đầu
Trí cũng không lầm đâu
Biết đến đời quá khứ
Trí kia không ngại ngăn
Vị lai cũng không ngại
Hiện tại có gì ngăn
Có công đức như vậy
Chính Sa-môn Cù-đàm
Việc hơn thế vô vàn
Ta chẳng thể nói hết.

Lúc bấy giờ, vua Chiên-trà-bát-thọ-đề nghe các công đức chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai như vậy rồi thì rất là thích ý, vui mừng nhảy nhót, phát sinh lòng ái lạc đối với Tát-già Ni-kiền Tử. Nhà vua sở đắc vô lượng hoan hỷ, sở đắc không thể nghĩ bàn tưởng, sở đắc Thế Tôn tưởng, sở đắc Thiện tri thức tưởng, sở đắc thị Bồ-đề tưởng, sở đắc độ đáo bỉ ngạn Nhất thiết trí tưởng, sở đắc khải thỉnh tưởng, sở đắc niệm tưởng. Vua lại sở đắc cái tưởng của Bồ-tát bất khả tư nghì giải thoát. Vua sở đắc các tưởng tâm như vậy rồi, đem chuỗi ngọc chân châu trị giá hàng trăm ngàn, lại còn đem áo quý giá vô thượng để cúng dường Tátgià Ni-kiền Tử. Rồi ông tán thán lời như vầy:

–Lành thay, lành thay! Tát-già Ni-kiền Tử!

Ông đã khéo nói pháp thứ lớp phương tiện.

Nhà vua lại nói:

–Này Tát-già! Ông đã nói pháp thuận Nhất thiết trí. Ông đã nói pháp đạt đến Nhất thiết trí. Ông đã nói pháp ra khỏi sinh tử. Ông đã nói pháp diệt hết dơ bẩn kết sử. Ông đã nói pháp có thể phá hoại núi ma. Ông đã nói pháp có thể làm khô biển ái. Ông đã nói pháp soi sáng rừng ngu si. Ông đã nói pháp khi giáo hóa chúng sinh chẳng lầm lỗi.

Nhà vua nói như vậy rồi, Tát-già Ni-kiền Tử nói với nhà vua lời như vầy:

–Này Đại vương! Uy nghi của Bồ-tát không bao giờ lại không điều phục các chúng sinh, không có nói pháp trái ngược với Đại thừa. Nếu chẳng có thể tăng thêm Nhất thiết trí, nếu chẳng có thể hết tất cả kết sử, nếu chẳng có thể thị hiện lỗi hoạn sinh tử, nếu chẳng có thể đến với Niếtbàn, nếu chẳng có thể gần hạnh Bồ-tát, nếu chẳng có thể đạt đến tự lợi, lợi tha và đều có lợi cả... tất không hề có việc đó.

Này Đại vương! Nếu có, khi tất cả vừa phát khởi ý bèn đạt đến tự lợi, lợi tha và đều lợi cả.

Khi Tát-già Ni-kiền Tử nói việc này thì vua Chiên-trà-bát-thọ-đề đạt được đoạn nghi, rồi được bất hoại tín. Mười tám vương tử được cảnh giới của hoan hỷ tín hạnh. Tám ngàn Thiên tử thu hoạch được Tam-muội tên là Trang nghiêm Phật hạnh. Có một vạn ba ngàn Ni-càn ngồi ở trong cung vua này phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả đều cởi áo cúng dường Tát-già Ni-kiền Tử xong, nói lời như vầy:

–Chúng tôi nay được thiện lợi, được thấy Tátgià đại thiện nam tử, lại được nghe diễn thuyết pháp tùy thuận.

Họ lại nói:

–Thưa ngài Tát-già! Ngài nên cùng chúng tôi đến yết kiến Đức Thế Tôn. Đức Phật Như Lai này nay đang ở tại vườn của ta.

Tát-già đáp:

–Tất cả đều hòa hợp lại cùng đến.

Khi ấy, Đại vương cùng quyến thuộc, đại thần, thần dân thiết lập Đại trang nghiêm. Lúc bấy giờ Đại vương xướng lệnh đi khắp trong thành như vầy:

–Nếu ai không đến chỗ Đức Như Lai sẽ bị chết chém.

Cả thành, tất cả nam tử, nữ nhân, đồng nam đồng nữ nghe lệnh vua rồi, ai nấy đều mang các thứ hoa thơm, hương xoa, bột hương, các thứ kỷ nhạc... ra đến bên ngoài thành Ưu-thiền rồi đứng hướng về khu vườn mà đợi Đại vương.

Lúc bấy giờ, vua Bát-thọ-đề cùng với Tát-già Ni-kiền Tử, các Đại thần, vương tử, binh chúng, thể nữ nội cung, thần dân trong nước... cỡi xe vây quanh. Đại vương Uy Đức, vua Đại Thần Lực, Vua Đại Biến Hóa, vua Đại Du Hý, tràng phan bảo cái giương lên, trăm ngàn thứ âm nhạc, ca múa, xướng kỹ, sáo địch nhịp nhàng, tạo ra các thứ diệu âm. Voi ngựa mua vui, trăm ngàn bình tốt đẹp xếp hàng ở phía trước. Xe voi, xe ngựa dùng vàng mạ trang trí. Chín mươi tám ức dân chúng vây quanh, tự hướng về khu vườn để đến chỗ Đức Thế Tôn.

Đến nơi, họ đảnh lễ dưới chân Đức Phật, đi quanh bên phải ba vòng, rồi đứng qua một bên. Tát-già Ni-kiền Tử cùng quyến thuộc đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi đều đi quanh vô lượng trăm ngàn vòng xong, họ đứng thẳng, chắp tay nhìn Đức Phật không nháy mắt.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất thấy Tát-già Ni-kiền Tử đứng trước Đức Phật, nhìn Đức Phật không chớp mắt liền suy nghĩ: “Tát-già Ni-kiền Tử vì nhân duyên gì đến đây?” Nghĩ như vậy rồi nói với Tát-già Ni-kiền Tử:

–Này Tát-già! Ông vì duyên cớ gì mà đến chỗ Đức Như Lai? Vì muốn gặp Đức Như Lai hay vì muốn nghe pháp?

Tát-già Ni-kiền Tử đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Ta nay chẳng thấy Phật, chẳng vì nghe pháp. Thưa Đại đức Xálợi-phất! Ta nay chẳng dụng tất cả pháp nên đến chỗ Đức Như Lai. Vì sao vậy? Thưa Đại đức Xálợi-phất! Vì thấy sắc chẳng gọi là thấy Như Lai, thấy thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại thì gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy bằng ngã mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy chúng sinh, chẳng thấy thọ mạng, chẳng thấy dưỡng dục mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy trượng phu mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy “ngã thắng”, “ngã sở thắng” mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy tướng mới gọi là thấy Như Lai.

Này Đại đức Xá-lợi-phất! Chẳng thấy tất cả tướng ấy mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy chấp trước mới gọi là thấy Như Lai. Thấy không có vật mới gọi là thấy Như Lai. Thấy được tánh nên gọi là thấy Như Lai. Thấy đến bản tế nên gọi là thấy Như Lai. Mắt thấy sắc lìa dục mới gọi là thấy Như Lai. Tai nghe tiếng không bị sai khiến mới gọi là thấy Như Lai. Mũi ngửi hương chẳng hòa hợp mới gọi là thấy Như Lai. Lưỡi nếm vị không biết mới gọi là thấy Như Lai. Thân chạm xúc không đắm trước mới gọi là thấy Như Lai. Thấy pháp, ý không phân biệt mới gọi là thấy Như Lai.

Xá-lợi-phất nói:

–Bằng những tướng như thế để thấy Như Lai thì làm sao thấy được Như Lai?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Không phải dùng ‘chủng’ nên đến với Như Lai, chẳng dùng tánh nên đến với Như Lai. Phi tướng, phi vô tướng; phi pháp, phi vô pháp; phi thật, phi bất thật; phi cảnh giới, phi bất cảnh, phi tư duy, phi bất tư duy; phi phân biệt, phi bất phân biệt; phi hữu vi, phi vô vi; phi vật, phi bất vật; phi tụ, phi tán; phi sắc, phi thọ; phi tưởng, phi hành, phi thức; phi thủ, phi bất thủ, nên gọi là thấy Như Lai.

Xá-lợi-phất nói:

–Này Tát-già! Ông dùng những tướng như vậy để thấy Đức Như Lai. Này thiện trượng phu, vậy làm sao thấy được Như Lai?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi chẳng phải dùng sắc để thấy được Như Lai, chẳng rời khỏi sắc để thấy được Như Lai, cũng chẳng hủy hoại sắc để thấy được Như Lai. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Không phải nhờ đến thức để thấy được Như Lai, chẳng rời khỏi thức để thấy được Như Lai, cũng chẳng hủy hoại thức để thấy được Như Lai. Không phải phần hiện thế thấy Như Lai; không phải phần quá khứ thấy Như Lai. Không phải dùng phần ấm thấy Như Lai, không phải dùng phần giới để thấy Như Lai. Ta dùng như vậy thấy được Như Lai. Ta thấy tất cả lời nói không phải lời nói gọi là thấy Như Lai. Ta không phải thấy, không phải chẳng thấy; không phải “hữu”, không phải chẳng “hữu”; không phải phân biệt, không phải chẳng phân biệt; không phải nhớ tưởng, không phải tranh, không phải não, không phải khởi, không phải lấy, không phải bỏ, không phải hý luận, không phải tác tưởng, không phải chẳng tác tưởng, không phải tác vật, không phải chẳng tác vật, không phải động phát, không phải chẳng động phát; không phải tác kiến, không phải không tác kiến; không phải cảnh giới kiến, không phải chẳng cảnh giới kiến; không phải ngôn ngữ, không phải chẳng ngôn ngữ để thấy được Như Lai. Rời khỏi tất cả sở hữu lời nói, đàm luận, âm thanh gọi là thấy được Như Lai, cũng không có sở kiến.

Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Bồ-tát thấy Như Lai như thế, ta cũng như thế thấy Như Lai.

Xá-lợi-phất nói:

–Ông dùng như thế để thấy Như Lai. Ông lại nghe thuyết pháp như thế nào vậy?

Tát-già đáp:

–Này Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu ta nghe Đức Như Lai nói pháp mà phát sinh pháp tưởng thì không phải là pháp tưởng. Vì sao vậy? Này Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả lời nói sở hữu của Bồ-tát đều phát xuất từ pháp nhưng không chấp trước, cũng chẳng sinh trưởng. Vì sao? Vì rời pháp tưởng vậy.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Này Tát-già! Nay ông chẳng cầu nghe pháp thì đến với Như Lai làm gì vậy?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi không phải cầu pháp, không phải chẳng cầu pháp mà lại đến với Như Lai ư? Vì sao? Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Phàm cầu pháp ấy gọi là chẳng cầu đến tất cả các pháp.

Này Đại đức Xá-lợi-phất! Phàm cầu pháp thì chẳng chấp trước nơi Phật mà cầu, chẳng chấp trước nơi Pháp mà cầu, chẳng chấp trước nơi Tăng mà cầu, chẳng biết khổ cầu, không phải đoạn tập cầu, không phải tu đạo cầu, không phải chứng diệt cầu. Không phải qua Dục giới, qua Sắc giới, Vô sắc giới cầu. Không phải sinh tử cầu, không phải Niết-bàn cầu.

Này Đại đức Xá-lợi-phất! Đại đức phải biết đối với tất cả các pháp tôi đều chẳng cầu, nên tôi đến chỗ Đức Như Lai.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Vì nhân duyên gì nên ông nói như vậy?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp không nhân duyên nên ta nói như vậy. Hơn nữa, pháp giới tánh không có nhân duyên, không phải không nhân duyên, đều không thể nắm bắt được vậy.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Nay ông lưu chuyển ở các đường vậy ư?

Tát-già đáp:

–Này Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu có đường thì tôi lưu chuyển, nếu có sinh thì tôi có sinh, nếu có chết thì tôi có chết.

Này Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp không mất đi, không sinh tử.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Này Tát-già! Như Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ-kheo, sinh lão bệnh tử” thì sao?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả chúng sinh y chỉ nơi “hữu đạo” và kiêu mạn vậy. Vì phá cái y chỉ đó nên Đức Như Lai Thế Tôn nói ra như thế. Tánh chân như của pháp không có sinh, lão, bệnh, tử như vậy.

Xá-lợi-phất nói:

–Lành thay, lành thay! Này ông Tát-già! Ông nói nghĩa Đại thừa biết phân biệt.

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Nay tôi có thể biết thế nào là nghĩa, thế nào là phân biệt chăng?

Xá-lợi-phất nói:

–Này thiện nam! Ta không nói mà ta nay muốn nghe thôi. Này thiện nam! Ông phải diễn thuyết cho chúng ta nghe thế nào là nghĩa, thế nào là phân biệt.

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Nghĩa ấy là không lời nói. Nếu có lời nói thì gọi là phân biệt. Lại nữa, nghĩa ấy là chẳng thể nói, nếu có lời nói thì gọi là phân biệt. Lại nữa, nghĩa ấy gọi là mặc nhiên, nếu có lời nói gọi là phân biệt. Lại nữa, nghĩa ấy là không lay động, không các hý luận, không có phân biệt, không có trang nghiêm, không phải hữu, không phải vật, không có ngã tưởng, không phải dũng, chẳng thể lấy, chẳng thể thấy, không có chỗ ở, rời xa tất cả chỗ ở, lời nói. Lại nữa, phân biệt ấy nghĩa là sổ quán không lường đến tận lòng kẻ khác. Lại nữa, nghĩa ấy gọi là biện nghĩa. Phân biệt ấy nghĩa là biện pháp, biện từ, ưa biện thuyết. Này Đại đức Xá-lợi-phất!

Đó gọi là lược nói về nghĩa và phân biệt.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán Tát-già Nikiền Tử:

–Hay thay, hay thay! Này thiện nam, đúng như lời ông đã nói!

Khi ông Tát-già nói pháp này thì ba ngàn Thiên tử đắc được Vô sinh pháp nhẫn. Hai vạn chúng sinh nghe được Đại biện này đã phát đạo tâm Vô thượng chánh chân.

Lúc bấy giờ, Đại đức Mục-liên bạch Đức Thế Tôn:

–Thiện nam Tát-già này mặc y phục ngoại đạo Ni-kiền Tử đó đã hóa độ được bao nhiêu chúng sinh rồi?

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Nếu nghe việc này thì tất cả trời, người đều sẽ mê hoặc, chỉ trừ những vị Đại Bồ-tát.

Này Mục-liên! Ông hãy lắng nghe, ta nay diễn thuyết về việc Tát-già Ni-kiền Tử giáo hóa một phần chúng sinh dưới đủ các hình thức ăn mặc và dáng vẻ oai nghi.

Này Mục-liên! Tát-già thiện nam tử này đã ăn mặc y phục ngoại đạo giáo hóa chúng sinh nhiều như số vi trần, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng chánh chân.

Thiện nam tử này mặc y phục dưới dạng Dilặc hóa độ được số chúng sinh nhiều như vi trần trong bốn thiên hạ, phát đạo tâm Vô thượng chánh chân. Bằng hình tướng xuất gia ở các đạo khác, thiện nam tử này đã hóa độ được số chúng sinh nhiều gấp tám mươi tư lần số cát sông Hằng, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng chánh chân.

Thị hiện hình dáng Thanh văn, thiện nam tử này đã hóa độ được số chúng sinh nhiều bằng mười lần số cát sông Hằng. Thị hiện Thanh văn thừa rồi, sau đó mới hóa độ, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng chánh chân. Làm dáng vẻ Duyên giác, thiện nam tử này đã hóa độ được số chúng sinh lại nhiều hơn thế. Ăn mặc hình thức Bồ-tát, thiện nam tử này giáo hóa số chúng sinh nhiều hơn thế nữa.

Thiện nam tử này còn làm dáng vẻ Đế Thích, dáng vẻ Phạm vương, dáng vẻ Chuyển luân vương, dáng vẻ bốn vua hộ thế, dáng vẻ Khẩn-na-la, dáng vẻ A-tu-la, dáng vẻ Ca-lâu-la, dáng vẻ Ma-hầu-la, dáng vẻ người, dáng vẻ không phải người, dáng vẻ người nam, dáng vẻ người nữ, dáng vẻ đồng tử, dáng vẻ đồng nữ, dáng vẻ Địa thiên, dáng vẻ Tức hóa sinh thiên, dáng vẻ người tiên, dáng vẻ Bà-lamôn tuổi trẻ, dáng vẻ Tỳ-kheo, dáng vẻ Tỳ-kheoni, dáng vẻ Ưu-bà-tắc, dáng vẻ Ưu-bà-di...

Này Mục-liên! Thiện nam Tát-già như thế giáo hóa được chúng sinh rất nhiều.

Lúc bấy giờ, ngài Mục-liên bạch Đức Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Tát-già Ni-kiền Tử phụng sự cúng dường bao nhiêu Đức Như Lai vậy?

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Giả sử hư không kia còn có biên giới, nhưng không thể có được giới hạn các loại hình cúng dường phụng sự các Đức Phật Như Lai của thiện nam Tát-già.

Này Mục-liên! Giả sử khiến ta có được biên giới của địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, chúng sinh giới, nhưng không thể có được giới hạn việc thiện nam Tát-già này phụng sự cúng dường các Đức Phật Như Lai.

Lúc bấy giờ, Đại đức Ca-diếp nói với thiện nam Tát-già:

–Này thiện nam! Ông phụng sự cúng dường nhiều các Đức Phật, công đức của ông thành tựu đầy đủ, vì cớ gì mà ông không thành đạo Vô thượng chánh chân?

Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Ca-diếp! Nếu có Bồ-đề, có người giác ngộ Bồ-đề thì ta sẽ giác đạo Vô thượng chánh chân.

Đại đức Ca-diếp nói với Tát-già:

–Hằng hà sa số các vị Đại Bồ-tát đều phát nguyện Bồ-đề, giác ngộ đạo Vô thượng chánh chân. Họ đã giác ngộ, đang giác ngộ và sẽ giác ngộ. Tát-già đáp:

–Thưa Đại đức Ca-diếp! Vì chúng sinh kiêu mạn nên kể ra như vậy. Nhưng trong “Đệ nhất nghĩa” thì không có Bồ-đề, không có người giác ngộ Bồ-đề. Vì sao vậy? Thưa Đại đức Ca-diếp! Bồ-đề là vô vi, lìa tất cả số. Bồ-đề không phải sắc, không thể thấy vậy. Bồ-đề chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải tía, chẳng phải màu pha lê (trong suốt); không có hình tượng, không tướng không mạo, vượt qua tất cả tướng, không có chỗ đến, dứt tất cả chỗ đến; không phải hữu; lìa tất cả hữu; không phải tướng lìa tất cả tướng. Không có lời nói, khẩu nghiệp bất cập vậy. Chẳng phải thấy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải có vật. Chẳng phải tối, chẳng phải sáng, không hình không thể.

Chẳng có thể nói lời, không phải chẳng thể nói. Chẳng phải xúc, chẳng phải tri, chẳng phải nghe, chẳng phải tiếng, chẳng phải câu, chẳng phải trói, chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Chẳng phải nhiễm, chẳng phải sân, chẳng phải si, chẳng phải tất cả các việc. Chẳng phải giả danh, chẳng phải chẳng giả danh.

Thưa Đại đức Ca-diếp! Đó là tánh Bồ-đề. Lại nữa, Bồ-đề không phải sở giác của thân. Lại nữa, Bồ-đề không phải sở giác của tâm. Vì sao vậy? Thưa Đại đức Ca-diếp! Thân si không trí giống như cỏ cây, tường vách, khối đất. Vậy nên chẳng có thể giác ngộ được tâm Bồ-đề không sắc. Lại chẳng thấy được, cũng chẳng thể giác ngộ được Bồ-đề.

Thưa Đại đức Ca-diếp! Tất cả pháp tánh thảy đều như vậy. Đại đức làm sao nói được đạo Vô thượng chánh chân? Đại đức làm sao thành tựu được đạo Vô thượng Chánh chân?

Lúc bấy giờ, chúng Bồ-tát, chúng Đại Thanh văn, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và Đế Thích, Phạm vương, bốn vua trời Hộ thế suy nghĩ như vầy: “Đức Thế Tôn biết lòng chúng sinh như thật, theo đó mà cởi mở sự hiểu biết. Đức Như Lai sẽ đoạn dứt lòng do dự, nghi hoặc của chúng ta. Đức Như Lai sẽ nói lời ký cho thiện nam Tát-già bao nhiêu lâu nữa ông sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Thế giới của ông ấy tên là gì? Đắc đạo Bồ-đề rồi, danh hiệu ông ấy là gì? Ông ấy trụ thọ bao nhiêu năm? Có bao nhiêu đại chúng?”

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn biết ý niệm trong lòng của các Bồ-tát, Thanh văn, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi và Đế Thích, Phạm vương, bốn vua trời Hộ thế nên liền bảo Văn-thù-sư-lợi:

–Thiện nam Tát-già đó khi kiếp Hiền này qua rồi, về sau trải qua một số kiếp nhiều không tính toán được sẽ được làm Phật hiệu là Thật Ý Tướng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Thế giới của vị Phật đó tên là Thiện quán xưng, kiếp tên là Diệt thứ.

Này Văn-thù-sư-lợi! Thế giới Thiện quán xưng đó đoan nghiêm, rất đáng yêu thích. Hàng trăm ngàn bảy báu trang nghiêm giáp vòng. Tường cao, tường thấp trang nghiêm bằng bảy báu. Có hàng trăm ngàn hào sâu, trong đó đầy nước thơm của bảy loại hương. Lại có hàng trăm ngàn đài quan sát cao lớn làm bằng bảy thứ lưu ly rất quý. Có hàng trăm ngàn vạn lưới bằng vàng Diêm-phù-đàn dùng để trang nghiêm khắp nơi trên cõi ấy. Có hàng trăm ngàn vạn tiên báu ma-ni xen lẫn trong các đài quan sát. Có hàng trăm ngàn vạn ngọc sư tử ma-ni báu hơn dùng trang nghiêm cửa sổ. Có hàng trăm ngàn vạn ngọc báu ma-ni sư tử tràng dùng trang nghiêm bảo tòa. Có hàng trăm ngàn vạn ngọc báu Ma-ni Đại tràng chiếu sáng tất cả. Có hàng trăm ngàn vạn lưới chuông rung phát ra những âm thanh nhiệm mầu, êm dịu, hài hòa, thích hợp khắp trong cõi ấy. Lủng lẳng giữa không trung là hàng trăm ngàn vạn lưới vàng trân báu. Dựng đứng lên hàng trăm ngàn vạn loại tướng tràng.

Này Văn-thù-sư-lợi! Thế giới Thiện quán xưng này đất bằng phẳng như bàn tay, cây báu bao phủ khắp, mọc cỏ mềm mại. Cỏ cõi ấy đều xoay về bên phải, màu như màu cổ chim Khổng tước Nan-đê-bạt-đán. Cỏ này mọc khắp cõi Thiện quán xưng. Có hàng trăm ngàn vạn ngôi vườn để trang nghiêm cõi ấy. Mỗi một ngôi vườn ấy lại dùng trăm ngàn vạn ngôi vườn nhỏ vây quanh để trang nghiêm. Cõi đó có trăm ngàn vạn ao trang nghiêm khắp mọi nơi. Mỗi một cái ao này xen lẫn vào bằng ngọc báu Ma-ni tám cạnh, thềm bậc làm bằng vàng Diêm-phù-đàn, đáy hồ trải cát vàng, chứa đầy nước tám vị. Hoa báu lan cùng khắp, có ngỗng, nhạn, uyên ương cùng hòa điệu hót.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ở thế giới Thiện quán xưng ấy có trăm ngàn vạn quốc độ, thành ấp, thôn xóm đều rất trang nghiêm. Trong mỗi đại thành ấy lại có trăm ngàn vạn thành nhỏ cũng rất trang nghiêm. Các thôn xóm, tụ lạc ở cõi ấy cũng như vậy. Đó là thế giới mà các quốc độ, thành ấp, làng mạc có số lượng người sinh sống cực kỳ sung mãn. Này Văn-thù-sư-lợi! Trong thế giới Thiện quán xưng đó có bốn hạng người đều có tên là “Thích ý kiến” hết sức đặc thù, rất mực đoan trang, rất giàu có và con cháu rất đông đúc. Như Lai Thật Ý Tướng Vương Ứng Cúng Chánh Biến Tri đang trụ thế ở đó.

Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai Thật Ý Tướng Vương ấy xuất thân từ trong dòng họ Bà-la-môn. Thân mẫu tên là Dũng Mãnh, như Ma-gia mẹ ta ngày nay; thân phụ tên là Phạm-ma-bà-tú, như phụ vương ta nay tên là Tịnh Phạn vậy. Con tên là Biến Thanh, như nay con ta tên La-hầu-la vậy. Vợ tên là Đại Ý, như hiền thê của ta nay là người con gái thuộc dòng họ Thích có tên là Cù-bà-già vậy. Nhũ mẫu có tên là Đại Xứng, như nhũ mẫu của ta nay tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di vậy. Đức Phật ấy có người thị vệ tên là Thường Thuận Hành, như thị vệ của ta nay có tên là Xiểnđà vậy. Đức Phật Như Lai ấy có đại Mã vương tên là Đại Lực, và Đức Thật Ý Tướng Vương đã cỡi nó để đi xuất gia, như Mã vương của ta nay có tên là Kiền-trì-ca vậy. Đức Phật Như Lai ấy có đạo tràng tên là Pháp dũng, và Đức Phật ấy đã thành tựu đạo Vô thượng chánh chân tại đạo tràng đó. Xung quanh đạo tràng ấy có đến tám mươi ức cây Bồ-đề bao bọc rất trang nghiêm.

Này Văn-thù-sư-lợi! Bấy giờ chỗ Đức Phật ấy không còn chúng Ma và Thiên ma quấy nhiễu nữa. Này Văn-thù-sư-lợi! Vào thời vị lai, khi Đức Thật Ý Tướng Vương ấy thành tựu đạo quả Vô thượng chánh chân thì tất cả chúng sinh ở cõi Phật đó liền mang vô số hương hoa và nhạc cụ, trỗi lên vô số các thứ âm nhạc và cùng nhau đi đến chỗ đạo tràng Pháp dũng ấy. Trên từ chúng trời A-ca-nị, thảy đều đến tập hội. Tất cả chúng Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già cũng đều đến tập hội. Tất cả chúng Đại Bồ-tát khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc thảy đều về tập hội.

Này Văn-thù-sư-lợi! Lúc Đức Thật Ý Tướng Vương vừa chứng quả Bồ-đề, thì liền ở trong hội chúng đó mà thuyết giảng kinh Bồ-tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa này, cùng vô lượng trăm ngàn ức các kinh khác nữa.

Này Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Như Lai Thật Ý Tướng Vương giảng nói kinh này thì có hằng hà sa số các chúng sinh đều được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Thật Ý Tướng Vương Như Lai chẳng nói đến pháp Tam thừa vì cõi Phật này không có Thanh văn và Duyên giác chỉ có chúng sinh Nhất thừa diệu giải sinh ở thế giới ấy thôi.

Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Thật Ý Tướng Vương Như Lai Thế Tôn mở hội thuyết pháp lần đầu sẽ có hằng hà sa số Bồ-tát đạt được địa vị không thoái chuyển. Đức Phật mở hội thuyết pháp lần thứ hai có tám mươi na-do-tha Bồ-tát sẽ chứng được bậc Nhất sinh và mở hội thuyết pháp lần thứ ba sẽ có sáu mươi tần-bà-la số Bồ-tát. Từ đó về sau sẽ có số Bồ-tát nhiều không tính toán được, an trụ không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh chân.

Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Thật Ý Tướng Vương Phật thành đạo rồi thọ được sáu mươi trung kiếp. Sau khi Đức Phật Niết-bàn, chánh pháp trụ thế tám mươi ức trăm ngàn na-do-tha năm. Xá-lợi của Đức Phật sẽ lưu bố rộng rãi, đã điều hóa số chúng sinh nhiều như trước.

Này Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Phật kia sắp diệt độ thì thọ ký cho Đại Tướng Bồ-tát xong rồi mới diệt độ. Vị Đại Tướng Bồ-tát này xếp ở sau ta và sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân hiệu là

Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Khi ấy, đại chúng ở đây lòng sinh kinh nghi là ai lúc ấy là Đại Tướng Bồ-tát, kế tiếp sau Đức Thế Tôn kia sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đây?

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết được lòng đại chúng nên liền bảo Văn-thù-sư-lợi Đồng tử:

–Đó chính là Tiểu đồng tử ngoại đạo ngồi trước thiện nam Tát-già, tên là Thật Hoan Hỷ, hơn hẳn các đồng tử khác. Đồng tử ấy sẽ thành Phật hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Việc trang nghiêm thế giới Đức Phật kia giống như thế giới Đức Phật Thật Ý Tướng Vương Như Lai không khác.

Mọi người ở đây nghe uy đức của cõi Phật Công đức trang nghiêm kia thì trong pháp hội có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha các vị Bồ-tát phát tâm nguyện sinh vào cõi Phật ấy, nên bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Khi Đức Thật Ý Tướng Vương được thành đạo, chúng con sẽ nguyện sinh vào cõi Phật kia.

Đức Thế Tôn liền thọ ký cho họ sẽ sinh vào cõi đó. Có tám mươi ức các Ni-càn đồng thanh xướng lên:

–Thưa Thế Tôn! Chúng con sẽ sinh vào cõi Phật kia.

Đức Phật thọ ký cho tất cả sẽ sinh vào cõi Phật kia. Khi ấy ở trên không trung có chín mươi ức trăm ngàn na-do-tha các Thiên tử nói lên như vầy:

–Thưa Thế Tôn! Khi Đức Phật Thật Ý Tướng Vương kia đắc đạo Bồ-đề, chúng con sẽ sinh trong thế giới Thiện quán xưng kia để sẽ chứng kiến được công đức trang nghiêm như vậy.

Đức Phật liền nói lời ký:

–Này các Thiên tử! Các ông cũng sẽ sinh vào cõi Thiện quán xưng kia để phụng sự Đức Phật đó. Này các Thiên tử! Các ông cũng sẽ ở tại cõi Thiện quán xưng kia mà thành đạo Vô thượng chánh chân. Mỗi người có tên khác nhau nhưng thọ mạng bằng nhau.

Ngay khi ấy, khắp tam thiên đại thiên thế giới liền có sáu thứ chấn động. Tự nhiên trên mặt đất ấy mọc ra vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha hoa sen báu lớn, cánh sen bằng vàng Diêm-phù-đàn, đài sen bằng ngọc biếc lưu ly ma-ni, tua sen bằng xa cừ, cành sen bằng lưu ly. Trong các hoa sen có các vị Bồ-tát hiện ra ngồi kiết già, thân tướng hảo trang nghiêm cung kính lễ Phật, đem các thứ chuỗi ngọc như lưới mây để cúng dường Đức Phật Thế Tôn. Tất cả đều nói:

–Chúng con mỗi người đều ở tại các cõi Phật khác nhau xa nghe Phật thuyết giảng kinh Công Đức Bồ-Tát chẳng thể nghĩ bàn này nên đi đến đây yết kiến Đức Thế Tôn, cung kính làm lễ đi quanh bên phải Đức Phật. Chúng con cũng vì muốn gặp gỡ thiện nam Tát-già và các đại chúng nữa.

Tất cả lại nói:

–Thưa Thế Tôn! Có vô số chúng sinh trong các cõi Phật nhiều không thể nghĩ bàn, nghe kinh này rồi đều không thoái chuyển đối với đạo Vô thượng chánh chân.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên ý nghĩa kinh này nên nói kệ rằng:

Nghe ta nói nghĩa này
Lắng lòng chớ tán loạn
Lời Như Lai không dối
Điều Ngự chẳng nói sai
Phật Tát-già ra đời
Hơn ức kiếp về trước
Hiệu Thật Ý Tướng Vương
Kiếp thanh tịnh chẳng cấu
Không có hại dâm dục
Không có các tội ác
Cùng các nghiệp ngu si
Không có trong kiếp đó.
Thế giới Thiện quán xưng
Nhiều sắc đẹp trang nghiêm
Trời người xem hoan hỷ
Cõi Phật ấy hiện có
Đài cao báu dạo xem
Thảy đều rất nghiêm tịnh
Lưới vàng bủa hư không
Rung lên tiếng vi diệu
Có bảo tràng sư tử
Mắc trên lưới báu vàng
Thành trân bảo cao ngất
Trong có cung điện trời
Có sông, hồ và giếng
Tất cả đều trang nghiêm
Sen xanh vàng mọc khắp
Nước đầy đủ tám vị
Bốn hạng người cõi đó
Tên là Thích Ý Kiến.
Phật ấy vốn xuất thân
Dòng giỏi Bà-la-môn
Mẹ tên là Dũng Mãnh
Cha: Phạm Ma-bà-tú
Con tên là Biến Thanh
Như La-hầu con ta,
Phật ấy có vợ đẹp
Nàng tên là Đại Ý
Như Cù-bà vợ ta,
Nhũ mẫu tên Đại Xưng
Như nhũ mẫu ta nay
Là Cù-đàm-di vậy
Thị vệ tên Thuận Hành
Theo hầu Đức Phật ấy
Cung phụng Bậc Thiện Thệ
Như Xiển-đà của ta
Phật ấy cỡi Mã vương
Có tên là Đại Lực
Vượt thành đi xuất gia
Như Kiền-trắc của ta.
Đạo tràng của Phật ấy
Có tên là Pháp Dũng
Tám mươi ức trăm ngàn
Cây Bồ-đề bao bọc
Đức Thế Tôn ngồi đó
Thật Ý chẳng ai bằng
Đạo vô thượng vô ưu
Dưới cây chứng đạo lành
Không có các chúng ma
Trọn không còn ma nghiệp
Cõi Phật đó nhu hòa
Chỉ gồm bậc Trượng phu
Chúng sinh ở cõi đó
Đủ công đức trời, người
Mang hoa và kỹ nhạc
Đến đạo tràng Phật ấy
Phật rõ biết chúng hội
Tâm tánh đều thanh tịnh
Nên thuyết kinh vương này
Cùng ức kinh khác nữa.
Khi nghe Đức Thế Tôn
Thuyết giảng Thắng kinh này
Hằng sa ức chúng hội
Được Phật trí không thoái,
Không cầu nghe Hạ thừa
Cùng với Duyên giác thừa
Kiện toàn Bồ-tát tuệ.
Thế giới của Phật ấy
Mở pháp hội lần đầu
Có hằng sa chúng hội
Được công đức không thoái
Đều gọi là Bồ-tát.
Mở pháp hội lần hai
Tám mươi na-do-tha
Chúng hội trụ Nhất sanh.
Trong pháp hội thứ ba
Sáu mươi tần-ba-la
Bồ-tát được lợi ích.
Đức Phật ấy thọ mạng
Trong sáu mươi trung kiếp
Khi Phật diệt độ rồi
Chánh pháp vẫn lưu bố
Đến tám mươi ức ngàn
Na-do-tha năm nữa.
Rộng lưu bố xá-lợi
Điều phục khắp chúng sinh.
Lúc Phật ấy diệt độ,
Truyền Đại Tướng Bồ-tát
“Ông đời sau thành Phật
Hiệu là Đại Trang Nghiêm”
Đại Trang Nghiêm cũng vậy
Vì lợi ích chúng sinh
Thực hành đạo Vô thượng
Của Phật Đại Chánh giác.
Ta tri kiến vô thượng
Biết rõ vô lượng kiếp
Dù loài nào hiện ra
Trí nhất thiết đều rõ.
Hãy vững tin lời ta
Lời Như Lai chẳng dối
Ai ở trong đạo ta
Nên nhớ điều ta dạy.
Nghe Thế Tôn giảng xong
Đại chúng rất hoan hỷ
Đối với cõi Phật kia
Đều nguyện sanh về đó
Đức Thế Tôn dạy rằng
Muốn sanh cõi vô cấu
Các ông nên ngộ đạo
Rộng lợi ích chúng sinh.
Khi thuyết kinh vương này
Sáu lần đất rung chuyển
Trong hoa hiện Bồ-tát
Chắp tay lễ Điều Ngự:
“Lành thay! Bậc Trượng Phu
Khéo nói pháp bất đoạn
Phật thuyết, chúng con nghe
Xa đến đây vì pháp.”

Vào lúc bấy giờ, tất cả đại chúng rất vừa ý kinh ấy nên vui mừng nhảy nhót, ái lạc, thọ trì. Họ chỉ lưu lại trên người một manh áo, bao nhiêu áo còn lại đều đem dâng lên cúng dường Đức Phật. Họ nói lời như vầy:

–Đức Thế Tôn ra đời chuyển pháp luân một lần nữa, ở thành Ba-la-nại lần đầu chuyển pháp luân, nay lại chuyển tối Đại pháp luân nữa.

Tất cả đều nói rằng:

–Thưa Thế Tôn! Nay chúng con nguyện thường không rời Pháp bảo như thế này, cũng thường không rời thiện trượng phu này.

Khi ấy trên không trung tấu lên các thứ Thiên nhạc, mưa các hoa sen lớn xanh, vàng, đỏ, trắng xuống trước Đức Phật. Áo trời của chư Thiên ở giữa hư không bay đi bay lại, họ xướng lên lời như vầy:

–Quả là bậc Thiện trượng phu trong đời đương lai thành tựu công đức chẳng thể nghĩ bàn. Được gọi thế, nếu có thọ trì kinh này như đọc tụng thông lợi, vì người khác thuyết giảng rộng rãi.

Nói lời đó rồi, Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Vậy những thiện nam, thiện nữ... biên chép kinh này, thọ trì đọc tụng cho thông lợi, rồi vì người khác thuyết giảng rộng rãi thì được bao nhiêu công đức?

Hỏi như vậy rồi, Đức Phật nói:

–Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có một thiện nam hay thiện nữ đối với tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, trong các cõi hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng mà có chúng sinh giới, chỉ có Đức Phật mới có thể biết các “hữu” tất cả, chưa được làm thân người, đều được làm thân người, đã thành đạo Vô thượng chánh chân, mà một thiện nam hay thiện nữ đó cung kính cúng dường, tôn trọng lễ bái họ như là tất cả Phật, bố thí cho họ các điều kiện sống an lạc, kéo dài thọ mạng trong một kiếp.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ý ông như thế nào? Người thiện nam hay thiện nữ này do cái nhân duyên đó được phước nhiều chăng?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Rất nhiều, thưa Thế Tôn! Rất nhiều, thưa Đấng Thiện Thệ. Nhiều đến nỗi không có thể tính toán, đo lường được.

Đức Phật bảo:

–Này Văn-thù-sư-lợi! Người thiện nam hay thiện nữ chép tả, thọ trì, đọc tụng thông lợi, vì người khác thuyết giảng rộng rãi kinh này, phước nhiều hơn người thiện nam hay thiện nữ cúng dường các Đức Phật kia.

Ngài Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Thưa Thế Tôn! Thật chưa từng có vậy! Đức Thế Tôn đã vì lợi ích cho tất cả thế gian mà thuyết giảng kinh này. Thưa Đức Thế Tôn! Kinh này sẽ lưu bố ở cõi Diêm-phù-đề trong bao lâu?

Đức Phật nói:

–Này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi ta vào Niết-bàn, xá-lợi của ta sẽ lưu bố rộng rãi. Lúc bấy giờ tám vị vua sẽ dùng hòm báu chứa đựng xá-lợi của ta. Xálợi của ta được chia làm tám phần, rồi ở mỗi nước tự kiến tạo đại tháp. Vua A-xà-thế lấy phần xá-lợi thứ tám của ta đựng trong cái hộp hương báu. Ở ngoài thành Vương xá, nhà vua cho đào xuyên qua đất để giấu kín xá-lợi, đặt để đủ thứ các loại diệu hương, dựng lên đủ loại tràng phan bảo cái, tung các hoa báu, thắp đèn giữ trăm năm. Nhà vua cất giữ hòm xá-lợi để đợi vua A-thúc-ca. Kinh vương này viết trên lá bằng vàng, cất giữ theo hòm xá-lợi đó. Này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi ta vào Niết-bàn một trăm năm, sẽ có vua A-thúc-ca, vua này xuất thân từ dòng Mộ-sát-lợi, làm vua Diêm-phù-đề, được tự tại ở bốn cõi chuyển luân. Lúc bấy giờ vị vua kia tu niệm theo hạnh của ta, ở trong Phật pháp, ông được tâm thanh tịnh.

Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo tên Nhân-đà-xá-ma, đắc đại thần thông, có đại uy đức, nhiếp trì chánh pháp, thọ trì kinh Phương đẳng, xuất gia từ dòng vua, thường ra vào trong cung của Đại vương Athúc-ca.

Này Văn-thù-sư-lợi! Vì lưu bố rộng rãi xá-lợi của ta nên đại vương tự trong uy đức, đem theo rất nhiều các quý nhân..., đem theo các hoa mạn, bột thơm, hương xoa, các thứ kỹ nhạc đến thành Vương xá, thiết Đại lễ cúng dường, đào vỡ chỗ đất ấy, lấy hòm xá-lợi. Trong bảy ngày, nhà vua thiết đủ thứ lễ cúng dường, dùng tất cả hoa hương, tất cả vòng hoa, tất cả bột thơm, tất cả hương xoa, tất cả kỹ nhạc làm Đại lễ cúng dường như vậy rồi, sau đó theo từng chỗ dân chúng cư trú đông đúc, trong một ngày, một giờ, cho khởi dựng tám muôn bốn ngàn tháp. Lúc bấy giờ Pháp sư Nhân-đà-xá-ma từ nơi hòm báu đã lấy ra quyển kinh này. Pháp sư đem an trí kinh này ở phương Bắc, một trụ xứ có nhiều người. Kinh này lại không nhiều người hiểu biết, không nhiều người giải được, không nhiều người thọ được, nên ít người thọ trì đọc tụng kinh này.

Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh này ẩn lâu ở trong cái hòm nhỏ. Tại sao vậy? Vì không người nhận vậy. Chẳng phải pháp khí của họ vậy.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ông phải biết kinh này khó giải, khó tin, khó được chỗ thâm áo của kinh. Không phải là chỗ người thường có thể tín thọ, không phải kẻ phàm thấp hèn mà có thể đọc tụng, có thể thâm nhập được.

Này Văn-thù-sư-lợi! Sau thời gian năm mươi năm, nếu lại có người nghe kinh điển này tín giải, cung kính.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ông chẳng nên nghi ngờ mà phải biết đây là người đã cúng dường nhiều Đức Phật, giỏi hành trì kinh điển Đại thừa này, là người có chân thật khí. Nếu có ai biên chép, thọ trì kinh này, đọc tụng thông lợi thì những chúng sinh đó nên phải tự biết rằng chúng ta đã thấy hằng hà sa số các Đức Phật Như Lai đã phụng sự cúng dường đi nhiễu bên phải, lễ bái; và cũng thấy ta khi thuyết giảng kinh này tại trong vườn đây.

Lúc bấy giờ Đức Phật bảo A-nan:

–Ông thọ kinh này, đọc tụng thông lợi. Hãy thận trọng, chớ thuyết giảng kinh này trước kẻ thấp hèn, chẳng biết căn vậy. Vì sao? Vì đây là Như Lai nói thuần túy không tạp pháp. Đây là ấn Như Lai, đây là kiên pháp Như Lai. Đây là thắng tài của Như Lai.

Này A-nan! Ông phải kiên trì, chớ đem cho người bừa bãi trừ trưởng tử của ta, người giữ Pháp tạng của ta, người hộ Pháp tạng của ta mà thôi.

A-nan bạch Đức Phật:

–Con đã giữ kinh này rồi. Thưa Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Thọ trì ra sao?

Đức Phật bảo A-nan:

–Kinh này tên là kinh nói về Bồ-tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa. Cũng có tên là Như Lai Mật Xứ, cũng có tên là Như Lai Thuyết Thuần Vô Tạp Pháp, cũng có tên là Như Lai Thuyết Xuất Nhất Thừa, cũng có tên là Văn-thù-sư-lợi Sở Vấn, cũng có tên là Tát-đà Thọ Ký, cũng có tên là Tát-đà Phẩm. Cứ như vậy mà thọ trì.

Khi Đức Như Lai diễn thuyết kinh pháp này, có ba mươi na-do-tha các chúng sinh... vốn chưa từng phát tâm thọ Vô thượng chánh chân thì nay đều phát tâm hết. Có sáu vạn Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Có vô lượng chúng sinh đều định được nơi đạo Vô thượng chánh chân.

Đức Phật thuyết kinh đó xong, Đại đức A-nan hoan hỷ thích ý, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi, tất cả Bồtát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Đế Thích, Phạm vương, trời Hộ thế và người đời nghe

Đức Phật thuyết giảng xong thảy đều hoan hỷ tín thọ.


[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28]


[Mục lục bộ Pháp Hoa][262][263][264][265][266][267][268][269][270][271][272][273]


[Mục lục tổng quát]