TẠNG KINH
BỘ PHÁP HOA (0262-0273)
Hán dịch: Đầu đời Ngụy, Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, người xứ Thiên Trúc.
Phẩm 8: Công Đức Không Lỗi Lầm Của Như Lai (Phần 1)
Phẩm 8: Công Đức Không Lỗi Lầm Của Như Lai (Phần 2)
Phẩm 8: Công Đức Không Lỗi Lầm Của Như Lai (Phần 3)
Phẩm 8: Công Đức Không Lỗi Lầm Của Như Lai (Phần 4)
Phẩm 12: Công Đức Của Tín Thọ Trì Kinh
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ở trong vườn vua Nghiêm Sí thuộc thành Uất-xà-diên. Trong vườn ấy, có nhiều cây cối tươi đẹp và kỳ lạ vô cùng như: cây Bà-la, cây Đa-la, cây Đa-ma-la, cây Ca-ni-cala, cây Ni-câu-luật, cây Ba-la-xoa, cây hoa Uấtđàm-bát, cây hoa Bà-sư-ca, cây hoa Đà-nậu-ni-ca, cây hoa A-đề-mục-đa-la, cây hoa Chiêm-bặc, cây hoa Thâu-la, cây hoa Ba-tra-la. Như vậy, khu vườn ấy được trang hoàng vô số trăm ngàn cây cối tươi đẹp.
Lại có các dòng nước khác nhau, như nước suối, nước biển, dòng nước chảy thẳng, dòng nước uốn lượn, nước A-la-ca, nước ao, nước từ trên chảy xuống, nước từ dưới phun lên. Như vậy, có vô lượng trăm ngàn các dòng nước vi diệu tô điểm.
Lại có các loại hoa nhiều màu sắc rất đẹp, như hoa Ưu-ba-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Tha-la, hoa Ma-ha tha-la, hoa Lô-giá, hoa Ma-ha lô-giá. Như vậy, có vô lượng, vô biên trăm ngàn loại hoa đẹp trang trí.
Lại có những loài chim có tiếng hót rất hay, như chim Thiên nga, chim Côn-lôn-già, chim Câu-chỉla, chim Câu-na-la, chim Cu-đa, chim Quật-đa, chim Anh vũ, chim Cà-dục, chim Xà-bà-xà-bá, chim Ca-lăng-tần-già. Như vậy, có vô lượng, vô biên các loài chim có tiếng hót hay.
Lại có những loài ong với nhiều màu sắc rất đẹp, bay trên hư không, xen lẫn nối liền nhau, giống như một tấm lưới được kết lại, che khắp trên bầu trời để làm trang trí.
Lại có các loại cỏ nhiều màu sắc, mềm mại, có hương thơm, cùng với vô lượng trăm ngàn màu sắc đẹp khác nhau, tô điểm trên mảnh đất ấy. Có những thứ trang hoàng đẹp đẽ ở trong vườn như thế.
Ở đây, cũng có đại chúng Tỳ-kheo gồm bảy mươi hai trăm ngàn vạn ức vị, như là: Tuệ mạng
Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp,
A-nậu-lâu-đà, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Kiếp-tân-na, Nan-đà, Na-đề Ca-diếp, Giàda Ca-diếp, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Kiềuphạm-ba-đề, Bàn-tha-ca, Châu-la-bàn-tha-ca, Đàphiêu-ma-la-tử, Khước-đà-lâm-thuần-đà, Ma-ha Câu-hy-la, La-hầu-la và Tuệ mạng A-nan. Đó là những vị làm Thượng thủ trong đại chúng gồm bảy mươi hai trăm ngàn vạn ức vị.
Tất cả các vị đều tu tập các hạnh ở trong các cảnh giới của pháp giới như thật, đã nhập vào thật tánh pháp giới. Tất cả đều đạt được hạnh vi diệu thù thắng của cảnh giới hư không không chướng ngại, đạt được hạnh không đắm trước, xa lìa các cấu nhiễm phiền não và tất cả kết sử; tất cả đều vào nơi ánh sáng pháp tánh của Như Lai chiếu đến, cùng chứng một trí tuệ lớn bình đẳng pháp tánh, đạt được các môn Nhất thiết trí của Như Lai trong hiện tại, đạt được khả năng bằng không ngừng trong đạo Bồ-đề tâm; tất cả đều không thoái lui, đi thẳng đến đại Bồ-đề; tất cả đều chứng được bất thoái chuyển đại Bồ-đề tâm, đạt Đệ nhất tri kiến Bát-nhã, đi đến bờ kia. Tất cả đều đạt được trí tuệ phương tiện cứu cánh đi đến bờ kia.
Lại có Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Dathâu-đà-la... có tám ngàn vị Tỳ-kheo-ni làm thượng thủ trong năm ngàn vạn ức Tỳ-kheo-ni. Tất cả đều đầy đủ hoàn hảo các thiện pháp thắng vi diệu; tất cả đều đi vào đạo Nhất thiết trí hoàn toàn; tất cả đều gần với trí Nhất thiết trí; tất cả đều nhập vào tánh không sở hữu; tất cả đều có khả năng quán sự vô thường của các pháp; tất cả đều có lòng tin hoàn toàn đối với pháp hữu hạn và vô hạn; tất cả đều đạt được giải thoát không chướng ngại; tất cả đều đạt được sự tùy theo nhân duyên có thể giáo hóa chúng sinh, để họ thấy được sắc thân của chư Phật.
Lại có bảy mươi hai trăm ngàn vạn ức Đại Bồtát đang tập hợp, như là: Bồ-tát Đại Tốc Hành, Bồtát Đại Tốc Hành Trụ Trì, Bồ-tát Phấn Tấn, Bồ-tát Đại Phấn Tấn Vương, Bồ-tát Đại Tinh Tấn Phấn Tấn, Bồ-tát Đại Dũng Phấn Tấn, Bồ-tát Hiện Đại Dũng Thế, Bồ-tát Đại Lực Phấn Tấn, Bồ-tát Đại Chúng Tự Tại, Bồ-tát Đại Hương Tượng, Bồ-tát Đại Nguyệt, Bồ-tát Thiện Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Công Đức, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Quang Phổ Chiếu, Bồ-tát Pháp Vô Cấu Nguyệt, Bồ-tát Phổ Chiếu, Bồ-tát Nguyệt Danh Xưng, Bồtát Phóng Nguyệt Quang Minh, Bồ-tát Mãn Nguyệt, Bồ-tát Phạm Thinh, Bồ-tát Phạm Tự Tại Hống Thinh, Bồ-tát Địa Hống Thinh, Bồ-tát Pháp Giới Hống Thinh, Bồ-tát Kinh Bố Nhất Thiết Quỹ Cung Hống Thinh, Bồ-tát Xuất Pháp Cổ Thinh, Bồ-tát Phổ Thức Thinh, Bồ-tát Vô Phân Biệt Ly Phân Biệt Thinh, Bồ-tát Sư Tử Hống Địa Dũng Thinh, Bồ-tát Bế Tắc Nhất Thiết Thinh, Bồ-tát Phổ Tạng, Bồ-tát Công Đức Tạng, Bồ-tát Phổ Chiếu Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồtát Nhật Tạng, Bồ-tát Nhật Quang Tạng, Bồ-tát Ba Đầu Ma Tạng, Bồ-tát Phước Đức Tạng, Bồ-tát Trí Thắng Tạng, Bồ-tát Đại Tuệ, Bồ-tát Thắng Tuệ, Bồ-tát Danh Xưng Tuệ, Bồ-tát Khoái Tuệ, Bồ-tát Thượng Tuệ, Bồ-tát Tăng Trưởng Tuệ, Bồ-tát Vô Biên Tuệ, Bồ-tát Quảng Tuệ, Bồ-tát Phật Tuệ, Bồtát Vô Tận Tuệ, Bồ-tát Di Lưu Sơn Đăng Minh, Bồ-tát Nhiên Đại Đăng Minh, Bồ-tát Pháp Đăng Minh, Bồ-tát Biến Thập Phương Đăng Minh, Bồtát Phổ Chiếu, Bồ-tát Phổ Diệt Nhất Thiết Ám Đăng Minh, Bồ-tát Phổ Chiếu Chư Thúc Đăng Minh, Bồ-tát Thường Phóng Hỏa Quang Đăng
Minh, Bồ-tát Nguyệt Quang Đăng Minh, Bồ-tát Nhật Quang Đăng Minh, Bồ-tát Ly Ác Đạo, Bồtát Hàng Ma, Bồ-tát Đại Hàng Ma, Bồ-tát Hy Sinh, Bồ-tát Nan Hàng, Bồ-tát Nan Lường, Bồtát Nan Tri Trí, Bồ-tát Kiệt Ác Đạo, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Quán Thế Tự Tại, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử. Những vị này làm Thượng thủ trong bảy mươi hai trăm ngàn vạn chúng.
Như vậy, tất cả các Đại Bồ-tát đều đắc Nhất sinh bổ xứ, đạt được Đà-la-ni, đạt đến các biển Tam-muội, đạt được vô biên lạc thuyết, vô ngại biện tài, đạt được khả năng thuyết pháp không còn sợ hãi. Tất cả đều đạt được đệ nhất đến bờ kia, rừng công đức tự tại như ý. Tất cả đều đạt được đại đạo thần thông, tự do nhanh chóng đi đến các quốc độ chư Phật. Tất cả đều đạt được thân tâm giải thoát, tự do không còn chướng ngại. Tất cả đều đạt được tri kiến rốt ráo không còn chướng ngại. Tất cả đều đạt khả năng thị hiện thân Phật đi khắp mười phương, đến những quốc độ không có Phật. Tất cả đều đạt được chánh trí như thật, chuyển đại pháp luân không còn lỗi lầm. Tất cả đều đạt được sự tùy thuận khắp mười phương, lắng nghe tiếng chúng sinh để thuyết pháp cho họ. Tất cả đều đạt được môn Đà-la-ni, không nói phi pháp. Tất cả đều đạt được pháp giới như thật, không thủ không xả. Tất cả đều đạt được khả năng thuyết pháp về nghĩa “Không” của các pháp không còn bị chướng ngại. Tất cả đều có thể rống lên tiếng rống sư tử, có khả năng thu phục ngoại đạo, có khả năng phá tan kẻ thù ma oán. Tất cả đều đạt được thần thông của Bồtát và các hạnh tốt đẹp thù thắng, đều đã xa lìa các sự hận thù, ghen ghét. Tất cả đều đạt được tâm rộng lớn bình đẳng như địa, thủy, hỏa, phong. Tất cả đều vào nơi sâu xa bí mật của các Đức Như Lai, vì chúng sinh giữ gìn Phật sự. Tất cả đều đạt hạnh thù thắng, được các Đức Như Lai khen ngợi, tán thán, tùy hỷ nói về hạnh của những vị ấy và có thể tồn tại vô lượng, vô biên kiếp, có khả năng giữ gìn pháp luân của Đức Như Lai đã thuyết giảng và được phóng ra ánh thù thắng không thể nói hết được. Tất cả đầy đủ sự tự tại ở trong các thế gian, những lời nguyện trong quá khứ đều được thành tựu. Tất cả đều đạt được cảnh giới tánh hạnh của các Đức Như Lai và có đủ hạnh tốt đẹp đã tu trong quá khứ. Tất cả đều đạt được trí vô cấu thanh tịnh của Đức Phật, không dừng nghĩ, thường dũng mãnh tinh tấn cúng dường tất cả các Đức Phật Như Lai. Tất cả đều phát khởi dũng mãnh, giữ gìn vững chắc quả vị không thoái chuyển. Tất cả đều được đại Bi hiện tiền, được tự tánh thanh tịnh thâm tâm giải thoát. Tất cả đều xa lìa các phiền não như nghi, hối, giới thủ, được thần lực của các Đức Phật trong quá khứ gia hộ.
Lại có rất nhiều Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Lại có các vị đầy đủ oai đức thù thắng như Thiên vương ở các cõi Trời, các vị Long vương, Dạ-xoa và vua Dạ-xoa, các Càn-thát-bà và vua Càn-thát-bà, các A-tu-la và vua A-tu-la, các Ca-lâu-la và vua Calâu-la, các Khẩn-na-la và vua Khẩn-na-la, các Mahầu-la-già và vua Ma-hầu-la-già, người và vua người.
Lúc bấy giờ, tất cả các đại chúng đều có trăm ngàn vạn ức bà con quyến thuộc đều có mặt đầy đủ trong chúng hội.
Bấy giờ, vì vô lượng trăm ngàn vạn ức đại chúng cung kính vây quanh, Đức Thế Tôn ngồi kiết già ở trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, chứa đầy công đức thù thắng. Sắc thân nhiệm mầu của Như Lai toát lên uy đức sáng ngời. Tướng ấy rất thù thắng hiển hiện rực rỡ, che khắp cả trời, rồng,… tám bộ chúng.
Ví như núi chúa Tu-di mọc lên giữa biển lớn, ánh sáng uy nghi rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ làm che các núi nhỏ. Cũng vậy, Đức Như Lai Thế Tôn là vua đại Tu-di, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi chói lọi, toát lên rực rỡ thật hiếm có che khắp cả đại chúng.
Giống như trăng đầu tháng, vầng ánh sáng lớn dần dần, cho đến khi mặt trăng tròn, ánh sáng của nó rất đặc biệt tỏa ra rực rỡ làm lu mờ tất cả ánh sáng của các vì sao. Cũng vậy, Đức Như Lai Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu uy nghi sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ sáng khắp tất cả đại chúng trời, người.
Giống như hư không trong sáng, không bụi nhơ, xa lìa tất cả những đám mây che mờ, bụi bặm nhiễm ô. Trong hư không kia, mặt trời phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy rất vượt lên tất cả, tỏa ra rực rỡ sáng che khuất tất cả ánh sáng của các loại côn trùng, đom đóm. Cũng vậy, vầng mặt trời của Đức Thế Tôn khi ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn uy nghi sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ, ánh sáng bao phủ khắp cả làm cho ánh sáng của Thích Đề-hoàn Nhân, các trời Phạm thiên và Tứ Thiên vương không thể xuất hiện.
Giống như đêm tối tăm ở trên đỉnh núi lớn bỗng đốt một vầng lửa lớn, ánh sáng rất rực rỡ, chiếu sáng làm hiện ra tất cả đều thấy. Cũng như ánh sáng của vầng lửa lớn ấy, Đức Như Lai khi ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, ánh sáng đặc biệt tỏa ra rực rỡ, những ai có nhân duyên đều thấy được.
Giống như vua trong các loài thú ở trong núi sâu, uy lực hùng mạnh, toát lên sự hiển hách, hàng phục được tất cả các loài côn trùng cầm thú. Cũng vậy, Đức Như Lai là Sư tử chúa của các pháp, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi chói lọi tỏa ra rực rỡ, thu phục tất cả ngoại đạo và các chúng sinh tà kiến.
Cũng như viên bảo châu như ý ma-ni tám cạnh trong suốt, gắn ở trên phướn cao chiếu ánh sáng rực rỡ, tùy theo tâm nguyện của chúng sinh, mưa xuống các thứ khiến cho họ được đầy đủ. Ánh sáng ấy rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ chiếu khắp mười phương. Cũng vậy, Đức Như Lai như ngọc ma-ni, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, ánh sáng trí tuệ rất lớn, uy nghi chói sáng rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ chiếu khắp mười phương, khiến cho ước nguyện của chúng sang được thỏa mãn.
Giống như bậc Chuyển luân thánh vương tự tại, uy đức thù thắng, tỏa ra rực rỡ, có khả năng vững chắc chinh phục khắp bốn thiên hạ, không ai có thể đối địch được. Cũng vậy, Đức Như Lai Thế Tôn như vua Chuyển pháp luân, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi chói sáng rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ hàng phục tất cả ma quỷ, oán thù.
Giống như Thích Đề-hoàn Nhân trang điểm báu ma-ni, anh lạc của Đế Thích trên cổ, rồi ngồi trên Thiện pháp đường trong các chúng trời, uy đức thù thắng tỏa ra rực rỡ, thu phục tất cả đại chúng chư Thiên. Cũng vậy, Đức Như Lai như Đế Thích ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy đức sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ che khắp trời người.
Lúc bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thấy vô số đại chúng vân tập, thấy Đức Thế Tôn thị hiện tướng rất thù thắng hiếm có, mới nghĩ: “Hôm nay, vì nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn lại thị hiện tướng này trước? Hôm nay có điều nghi vấn, ta phải nên hỏi. Vì sao Đức Như Lai Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ và có vô lượng đại chúng tập hợp như thế? Đây là điều khó có thể gặp được.”
Nghĩ như vậy rồi, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, quỳ gối phải chạm đất, chắp tay hướng về Đức Phật dùng kệ tán thán Đức Như Lai:
Thế Tôn tỏa mười Lực
Trời người các thế gian
Ba cõi không ai bằng
Lẽ đâu có người hơn?
Như núi chúa Tu-di
Vượt biển lớn, núi nhỏ
Vững chắc không lay động
Các trời nhờ an ổn
Như Lai vua Tu-di
Vượt qua biển sinh tử
Đầy đủ các công đức
An trụ không lay động
Thân Tu-di công đức
Hiện trong các thế gian
Tất cả nương Như Lai
An ổn trụ Niết-bàn
Như hư không không chướng
Trăng tròn chiếu sáng nhất
Ánh sáng những vì sao
Lại tắt không xuất hiện
Như Lai mười Lực tịnh
Trăng trí tuệ sáng trong
Thần thông các đệ tử
Chỉ như sao lập lòe
Như ánh sáng mặt trời
Chiếu sáng các thế gian
Trừ sạch mọi tối tăm
Làm mờ ánh sáng nhỏ
Trí mặt trời Như Lai
Trừ si ám thế gian
Ánh sáng các Phạm vương
Lụi tắt không xuất hiện
Như đóm lửa trong đêm
Cháy trên đỉnh núi cao
Vì thể ánh sáng trong
Mười phương tối đầu thấy
Lửa Như Lai sáng rực
Trí tuệ tỏa núi cao
Chiếu cõi tối phiền não
Pháp tánh được hiện ra
Giống như vua sư tử
Hùng mạnh át các thú
Không hiện tướng uy hiếp
Nhưng các thú quy phục
Như Lai vua sư tử
Đầy đủ Lực; Vô úy
Tâm từ với ngoại đạo
Tự nhiên đều quy phục
Giống như ngọc ma-ni
Tỏa sáng chiếu thế gian
Theo các nguyện chúng sinh
Mưa thỏa mãn tất cả
Như Lai ngọc ma-ni
Cờ trí tuệ chiếu xa
Hay tuôn mưa đại pháp
Đầy đủ nguyện chúng sinh
Giống như vua Chuyển luân
Đầy đủ bảy phước báu
Đi khắp bốn thiên hạ
Oán thù thành bằng hữu
Như Lai vua Chuyển luân
Đầy đủ báu mười Lực
Thu phục bốn chúng ma
Đều về đạo Như Lai
Giống như vua Đế Thích
Chủ trời Tam thập tam
Xếp đặt Thiện pháp đường
Chư Thiên vui mừng thọ
Như Lai trời Đế Thích
Vua đại pháp ba cõi
Yêu thương nhìn các cõi
Ngồi pháp đường Niết-bàn
Khởi mây Từ bi lớn
Mưa xuống pháp cam lồ
Trời người vui thọ nhận
Tu tập đạo Vô thượng.
Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nói các kệ tụng khen ngợi Đức Phật xong, chắp tay bạch Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như Lai có thể vì đại chúng nói về pháp môn hạnh Bồ-tát nhanh chóng trong cảnh giới phương tiện. Vì khi nghe kinh này các chúng sinh có thiện căn ưa tin Đại thừa Vô thượng đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và những chúng sinh tin theo Tiểu thừa thấp kém cũng phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Chúng sinh đã phát tâm lớn đối với Vô thượng Bồ-đề thì có thể tăng trưởng niệm Bồ-đề. Những chúng sinh hạnh thấp kém, thấy hẹp hòi cũng có khả năng phát khởi hạnh lớn, từ bỏ con đường chúng sinh, tiến lên nhận lấy đạo lớn Bồ-đề. Những chúng sinh đã nhận lấy đạo thù thắng Bồ-đề, thì có khả năng đi vào pháp thâm mật trang nghiêm trí tuệ của Như Lai.
Khi ấy, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:
–Này Văn-thù-sư-lợi! Pháp thâm mật của các Đức Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri rất khó tin, khó biết, khó hiểu, khó nhận thức, khó suy tính và rất khó thể nhập. Tất cả trời người đều không biết Như Lai dựa vào đâu để nói.
Này Văn-thù-sư-lợi! Như đối với pháp cao xa vi diệu này, nếu có chúng sinh nào thực hành ác hạnh thì không biết pháp này, không hiểu pháp này. Những người phá giới cũng không biết pháp này, không hiểu pháp này. Người thích hạnh Tiểu thừa là không tin pháp này; người phá hoại tâm là không thích pháp này, người bị ác tri thức dẫn dắt là không nhập vào pháp này. Những người không được Thiện tri thức dẫn dắt thì không vào được pháp này. Những chúng sinh nào không được chư Phật giữ gìn là không nghe pháp này. Nếu người không được năng lực Như Lai gia trì mà tin được pháp này thì không có chuyện đó.
Bấy giờ, vì muốn lặp lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:
Pháp tử bằng lời hay
Khéo hỏi ta việc này
Nay ông hãy lắng nghe
Ta sẽ nói cho ông
Chúng sinh vô minh che
Chỉ tin hạnh Tiểu thừa
Nghe pháp Đại thừa này
Không tin nên không nói
Nếu trong vô lượng đời
Quá khứ các Đức Phật
Tu hành các hạnh thiện
Thiện căn đã thành thục
Các chúng sinh như thế
Thường được Như Lai hộ
Nghe nói sinh vui mừng
Khéo tin thọ vững chắc
Nếu vì ác tri thức
Như nọc của rắn độc
Từ bỏ Thiện tri thức
Không nghe pháp cam lồ
Ở trong các thắng pháp
Khởi lên tâm phóng dật
Rơi hầm lớn tà kiến
Nghe nói không tin theo
Tâm chúng sinh hẹp hòi
Không thể nhận pháp lớn
Nghe thời sinh bất tín
Khởi lên tâm chê bai
Vĩnh viễn rơi đường ác
Mãi không nghe Phật pháp
Vì kia khởi tâm Từ
Nên ta không nói vội.
Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bạch Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đại chúng trong hội này đều thanh tịnh hoàn toàn, giỏi thực hành các hạnh; có thể cúng dường chư Phật Như Lai, hay phục vụ các Thiện tri thức; khéo tu tập tín căn thanh tịnh; giỏi nhập vào các cảnh giới đại trí tín; khéo thanh tịnh đầy đủ tâm sâu xa, rộng lớn. Đại chúng trong hội này, tất cả đều có khả năng thấy rõ các cảnh giới, có thể biết pháp này và nhận thức được pháp này.
Lành thay, bạch Thế Tôn! Xin hãy vì tấm lòng khao khát muốn nghe của con và đại chúng mà khéo nói pháp này.
Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nói kệ rằng:
Chúng sinh trong hội này
Trải qua vô lượng kiếp
Ở nơi các Đức Phật
Gieo đầy đủ thiện căn.
Những chúng sinh như vậy
Vào được cảnh giới Phật
Là đầy đủ pháp khí
Nay xin Phật nói mau.
Tất cả đều chiêm ngưỡng
Dung nhan Thầy trời, người
Cung kính chắp tay nhìn
Khát ngưỡng không rời mắt.
Xin Thế Tôn thương đây
Tâm chúng sinh khát ngưỡng
Mưa xuống pháp vi diệu
Khiến sinh mầm pháp thiện.
Nay con thỉnh Như Lai
Vua đại pháp Vô thượng
Xin mở cửa cam lồ
Chuyển xe pháp tối thắng.
Tất cả những chúng sinh
Nếu được nghe Phật thuyết
Sẽ sinh đạo Vô thượng
Pháp cứu cánh Niết-bàn.
Lúc bấy giờ, sau khi nghe Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử hỏi như thế rồi, Đức Thế Tôn bảo:
–Lành thay, này Pháp vương tử! Lành thay, này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông khéo hỏi Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri về pháp môn thực hành sâu xa của Bồ-tát. Vì sao? Này Văn-thù-sư-lợi! Vì ông thấy thật nghĩa các pháp bảo đang hiện hữu rõ ràng, không có nghi ngờ, hoàn toàn đạt đến đến bờ kia của Đệ nhất Trí tuệ ba-la-mật. Nay, vì muốn đem lại lợi ích cho vô số chúng sinh để họ đi vào đạo Vô thượng của Bồ-tát nên mới hỏi điều đó.
Này Văn-thù-sư-lợi! Ông lại có thể vì chúng sinh trong đời vị lai mà đốt lên ngọn đuốc lớn, quét sạch tăm tối nên mới hỏi pháp này.
Hay thay, hay thay, này Văn-thù-sư-lợi! Giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói pháp môn hạnh phương tiện nhanh chóng rốt ráo của Bồ-tát.
Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật:
–Lành thay, bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thuyết giảng, con rất muốn nghe.
Bấy giờ, các đại chúng Bồ-tát nhất tâm đồng thanh bạch Đức Phật:
–Lành thay, bạch Thế Tôn! Chúng con rất muốn được nghe.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuyết pháp này, nên bảo đại chúng rằng:
Này các thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thành tựu hoàn toàn mười hai pháp thì có khả năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những gì là mười hai pháp?
1. Tự tánh tin pháp Đại thừa, để từ bỏ tâm Tiểu thừa thấp kém nên phát tâm Bồ-đề.
2. Tự tánh thành tựu đại Bi rộng lớn, để muốn đầy đủ các bạch pháp nên phát tâm Bồ-đề.
3. Tâm ngay thẳng, hạnh căn bản vững chắc, để nhàm chán sinh tử, hướng đến bờ kia nên phát tâm Bồ-đề.
4. Khéo tích tập các công đức, vì muốn tu đầy đủ các hạnh nguyện nên phát tâm Bồ-đề.
5. Khéo cúng dường các Đức Phật, vì muốn phát khởi tốt các bạch pháp nên phát tâm Bồ-đề.
6. Ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, để lìa bỏ tất cả ác hạnh nên phát tâm Bồ-đề.
7. Xa lìa những bạn ác, vì muốn gần gũi những bạn tốt nên phát tâm Bồ-đề.
8. Nghe pháp, rồi y theo pháp tu hành, vì không dối gạt chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề.
9. Vì muốn lợi ích cho tất cả, tích chứa của cải nhưng không tham lam keo kiệt nên phát tâm Bồđề.
10. Vì được các Đức Phật gia hộ, vì xa lìa các ma oán nên phát tâm Bồ-đề.
11. Đối với những chúng sinh thường khởi lòng Từ bi rộng lớn, có thể xả bỏ tất cả trong ngoài các vật, để xa lìa tánh keo kiệt, đố kỵ nên phát tâm Bồđề.
12. Vì đầy đủ năng lực pháp hành có thể thành tựu các công đức, nên phát tâm Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Đó gọi là mười hai pháp vi diệu. Nếu thiện nam hay nữ nào thành tựu được mười hai pháp này mới có thể phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này thiện nam! Lại có mười hai pháp thù thắng, nếu Bồ-tát thành tựu được thì mới gọi là phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Những gì là mười hai?
1. Tâm an ổn, làm cho tất cả chúng sinh được an lạc nên phát tâm Bồ-đề.
2. Tâm thương xót, tức là khi người khác mang đến đến cho mình thêm nhiều điều xấu thì ta hãy nhẫn nhục giúp đỡ họ, chớ sinh ý nghĩ khác, nên phát tâm Bồ-đề.
3. Tâm đại Bi, vì gánh nặng cho chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề.
4. Tâm đại Từ rộng lớn, vì nhổ sạch tất cả khổ đau trong đường ác nên phát tâm Bồ-đề.
5. Tâm thanh tịnh, đối với các thừa khác không sinh tâm thỏa mãn, lạc thú nên phát tâm Bồ-đề.
6. Tâm không nhiễm, vì xa lìa tất cả cấu đục phiền não nên phát tâm Bồ-đề.
7. Tâm trong sáng, vì cầu tự tánh Vô thượng thanh tịnh sáng chiếu nên phát tâm Bồ-đề.
8. Tâm huyễn, có khả năng biết các pháp hoàn toàn không có gì cả nên phát tâm Bồ-đề.
9. Tâm không vật, có thể biết tất cả đều không có sở hữu nên phát tâm Bồ-đề.
10. Tâm vững chắc, đối với trong các pháp không bị lay động nên phát tâm Bồ-đề.
11. Tâm không thoái lui, có thể chứng các pháp hoàn toàn rốt ráo nên phát tâm Bồ-đề.
12. Tâm cứu độ tất cả chúng sinh mà không nhàm chán, theo giáo pháp tu hành nên phát tâm Bồ-đề.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lại kệ rằng:
Hỡi các Thiện nam tử
Nếu có chúng sinh nào
Muốn tu các pháp thắng
Thành tựu pháp vô cấu
Ở giữa oán và thân
Tâm Từ bi bình đẳng
Những Bồ-tát như thế
Đúng phát tâm Bồ-đề.
Nếu có chúng sinh nào
Đã trong vô lượng kiếp
Dẫn dắt ác tri thức
Cúng dường Thiện tri thức
Giữ gìn pháp Bồ-tát
Khởi các hạnh nguyện lớn
Những Bồ-tát như thế
Đúng phát tâm Bồ-đề.
Nếu có chúng sinh nào
Nghĩ về đời quá khứ
Việc vô lượng ức kiếp
Vững chắc như núi chúa
Tâm siêng năng không chán
Thường tu hành không nghĩ
Những Bồ-tát như thế
Đúng phát tâm Bồ-đề.
Nếu có chúng sinh nào
Xa lìa các pháp ác
Tâm Từ bi đầy đủ
Tâm an ổn thành tựu
Dạy bảo các chúng sinh
Tất cả các đường thiện
Những Bồ-tát như thế
Đúng phát tâm Bồ-đề.
Nếu có chúng sinh nào
Thấy những bậc Thắng trí
Nghĩ đến đại Bồ-đề
Công đức Vô thượng thắng
Muốn đổi các thừa khác
Tâm sạch không chút uế
Những Bồ-tát như thế
Đúng phát tâm Bồ-đề.
Bồ-tát được tâm tịnh
Lìa hư dối phân biệt
Xem thế gian, Niết-bàn
Bình đẳng không sai khác
Tuy hành hóa chúng sinh
Như thấy cảnh trong gương
Người phát tâm như thế
Thật là tâm Bồ-đề.
Đã lìa lỗi phiền não
Tất cả những trần lao
Trí thanh tịnh hư không
Không bị nhuốm dơ bẩn
Các tướng hằng tịch diệt
Ra khỏi đường ngôn ngữ
Đó gọi tu đầy đủ
Tâm Bồ-đề thanh tịnh.
Những Bồ-tát như thế
Không lâu ngồi đạo tràng
Đắc đại Đà-la-ni
Biện tài không ai bằng
Đủ ba hai tướng quý
Thân tám mươi vẻ đẹp
Được ở trong công đức
Bản tánh của chư Phật.
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát có thể trụ trong công đức thù thắng như thế, thì có mười hai hạnh bố thí vi diệu, có lợi ích lớn mau chóng đến Bồ-đề. Bồ-tát nên thực hành Bố thí ba-la-mật. Những gì là mười hai?
1. Bố thí có thể mau chóng tăng trưởng lợi ích, công đức Vô thượng Bồ-đề, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
2. Bố thí được sinh ở nơi giàu có đầy đủ, trong tay tuôn ra vô số của báu, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
3. Bố thí tùy theo lời nguyện sẽ được sinh ở nơi Đế Thích, Phạm thiên, vua và những nhà quyền quý, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-lamật.
4. Bố thí lìa tất cả lỗi tâm keo kiệt, tham lam, xả bỏ các hữu, không sinh lời nguyện hưởng lạc, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
5. Bố thí có thể xả bỏ sự trói buộc tham đắm ở thế gian, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí bala-mật.
6. Bố thí được ra khỏi loài ngạ quỷ, lìa các đường ác, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí bala-mật.
7. Bố thí được xa lìa nhiều người cùng với súc vật thế gian, có khả năng đạt được Bồ-đề, không chung cùng với súc vật, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
8. Bố thí được chúng sinh khen ngợi, tâm rất vui mừng, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí bala-mật.
9. Bố thí có thể xả bỏ trong ngoài, thực hành theo hạnh Đức Phật, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
10. Bố thí thì đối với trong mọi việc ái dục có thể xa lìa tâm trói buộc, cấu uế, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
11. Bố thí có thể thực hành đầy đủ Bố thí bala-mật Vô thượng, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
12. Bố thí có thể thực hành theo lời dạy của
Như Lai và thành tựu sở nguyện, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.
Này thiện nam! Đó là mười hai pháp tu hành Bố thí ba-la-mật, được lợi ích lớn của Đại Bồ-tát, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ tụng khen ngợi Bố thí ba-la-mật như sau:
Muốn cầu đạo Vô thượng
Tu hành các công đức
Bỏ keo kiệt, tham lam
Bố thí là bậc nhất.
Phật tử hành tâm Xả
Thấy người đến cầu xin
Hãy sinh tâm vui mừng
Tất cả không luyến tiếc
Đất nước và vợ con
Cho đến chức vua trời
Da thịt và tay chân
Đầu mắt các tủy não
Mắt thanh tịnh trong sáng
Cho rồi tâm vui vẻ
Hành tâm xả như thế
Là thí Ba-la-mật,
Tất cả chư Như Lai
Đầy đủ các công đức
Trọn vẹn đạo Niết-bàn
Đều do bố thí vậy!
Cho nên những Phật tử
Muốn cầu đạo Vô thượng
Thường phải tu tâm Xả
Hành Thí ba-la-mật.
Bố thí được Bồ-đề
Không trụ ở thế gian
Cho nên các Bồ-tát
Thường thực hành tâm Xả.
Bố thí hết nghèo khó
Giàu đủ bảy tịnh tài
Hết keo kiệt, ghen ghét
Thanh tịnh Phật Bồ-đề,
Bố thí được đầy đủ
Thành tựu mười tự tại
Cho nên chư Như Lai
Khen ngợi hạnh bố thí.
Bồ-tát thấy lợi này
Được thành Ba-la-mật
Cho nên tu tâm Xả
Bố thí tất cả vật.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười hai phương pháp trì giới được lợi ích lớn. Bồ-tát nên thực hành Trì giới ba-la-mật.
Mười hai lợi ích của Trì giới ba-la-mật là gì?
1. Trì giới có thể giữ gìn các thiện căn, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
2. Trì giới được vào đạo Bồ-tát, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
3. Trì giới được giải thoát các sự trói buộc của phiền não, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
4. Trì giới có thể vượt qua tất cả các đường ác, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
5. Trì giới có thể dứt hết đau khổ của chúng sinh trong đường ác, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
6. Trì giới thì nghiệp thân, khẩu, ý không bị chư Phật Như Lai quở trách, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
7. Trì giới được chư Phật Như Lai thường khen ngợi, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-lamật.
8. Trì giới có thể vào trong các cõi nhưng không buông lung, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
9. Trì giới thì đem bố thí cho chúng sinh việc không sợ hãi, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
10. Trì giới được thành tựu nghiệp thiện của thân, miệng và ý, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
11. Trì giới có thể đối với các pháp được tùy thuận tự tại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
12. Trì giới thành tựu nghiệp của Ba-la-mật công đức đến đệ nhất bờ kia, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.
Này thiện nam tử! Đó là mười hai pháp tu hành Trì giới ba-la-mật được lợi ích lớn, hồi hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Đại Bồ-tát.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ khen ngợi Trì giới ba-la-mật như sau:
Muốn lìa các sinh tử
An ổn đến Niết-bàn
Tất cả Như Lai nói
Trì giới là đệ nhất.
Giới như ao nước mát
Hay sinh các hoa đẹp
Giới như lửa cháy mạnh
Thiêu đốt những cỏ xấu.
Giới, người khéo hành trì
Như chim bay trên không
Không sợ đạo sinh tử
Trong những nẻo đường ác.
Đường ác rồng độc lớn
Vô minh các La-sát
Thấy người trì tịnh giới
Cung kính bỏ tâm hại,
Tất cả chư Như Lai
An ổn trụ Niết-bàn
Chấm dứt các đường ác
Đều do trì giới vậy.
Vì thế, các Phật tử
Muốn cầu đạo Vô thượng
Giữ vững các gốc thiện
Trì giới ba-la-mật.
Bồ-tát nên tư duy
Sống hoàn toàn theo giới
Cởi bỏ dây phiền não
Đóng cửa những đường ác.
Nếu muốn trì tịnh giới
Phải nên như trâu đen
Vì giữ một chiếc lông
Thà chết không tiếc mạng,
Giữ các nghiệp cũng vậy
Đó chính là trì giới
Như Lai thường khen ngợi
Chỗ cầu được thành tựu.
Người hay trì tịnh giới
Có công đức như vậy
Cho nên các Bồ-tát
Thường phải giữ tịnh giới,
Thân, khẩu, ý thanh tịnh
Không làm các điều ác
Có thể đến Niết-bàn
Nhất thiết trí hiện tiền.
Trì giới không phóng dật
Các điều thiện vững chắc
Trong pháp được tự tại
Giữ sạch giới chư Phật,
Bồ-tát trì tịnh giới
Xem vật không oán, thân
Bình đẳng với quần sinh
Người thấy không sợ hãi.
Ta sống theo trì giới
Thường tu không phóng dật
Cho nên nay được lìa
Tất cả mọi đường ác,
Đến bờ kia đệ nhất
Như chỗ báu công đức
Vì thế, các Bồ-tát
Thường phải trì tịnh giới.
Bồ-tát nếu muốn cầu
Công đức Bồ-đề Phật
Trì giới như trâu đen
Chánh niệm không buông lung,
Những Bồ-tát như thế
Chính đó là người trí
Mau chóng đến bờ kia
Trụ Bồ-đề quả Phật.
Này thiện nam! Bồ-tát đã tu hành các pháp như thế, lại có mười ba cách quán tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật, được lợi ích lớn. Bồ-tát nên thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
Mười ba lợi ích của Nhẫn nhục ba-la-mật là gì?
1. Hạnh nhẫn tức là nhẫn nại, chịu đựng mọi buồn phiền, có khả năng chứng tất cả pháp không, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-lamật.
2. Hạnh nhẫn là không thấy có ta bị người khác hại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục bala-mật.
3. Hạnh nhẫn là không thấy chúng sinh có kẻ thân người oán, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
4. Hạnh nhẫn là không thấy thân ta, người bị tổn hại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
5. Hạnh nhẫn là khi bị người lăng nhục hay khen ngợi tâm thường không bị dao động, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
6. Hạnh nhẫn có thể đoạn trừ phiền não và các kết sử, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
7. Hạnh nhẫn có thể đoạn trừ sân hận và các kết sử, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục bala-mật.
8. Hạnh nhẫn có thể đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
9. Hạnh nhẫn là có khả năng từ bỏ con đường ác, sinh lên cảnh giới Phạm thiên, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
10. Hạnh nhẫn có thể vượt qua các cảnh giới tổn hại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
11. Hạnh nhẫn có thể chứng đắc được Tận trí và Vô sinh trí, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
12. Hạnh nhẫn có khả năng thu phục tất cả ma ác ở các cảnh giới, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
13. Hạnh nhẫn có khả năng thấy thân Như Lai có vô lượng công đức trang nghiêm, cho nên Bồtát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.
Này thiện nam! Đó là mười ba cách quán chiếu, tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật được lợi ích lớn, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Đại Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền dùng kệ khen ngợi Nhẫn nhục ba-la-mật như sau:
Muốn vì các chúng sinh
Làm nơi về nương tựa
Khiến sinh tâm không sợ
Nhẫn nhục là đệ nhất.
Người hay hành nhẫn nhục
Người thấy đều vui vẻ
Kẻ thù bỏ tâm ác
Xem nhau là bằng hữu.
Tất cả các Như Lai
Thành tựu tâm bình đẳng
Chỗ chúng sinh nương tựa
Đều do hành nhẫn vậy.
Vì thế, các Phật tử
Muốn cầu đạo Vô thượng
Để mọi loài nương tựa
Nên nhẫn nhục vững chắc.
Nếu Bồ-tát muốn nương
Tất cả Bồ-đề Phật
Nên quán các pháp không
Chúng sinh không thể đắc.
Hành nhẫn nhục như thế
Đầy đủ công Đức Phật
Vì thế, các Bồ-tát
Thường phải tu nhẫn nhục.
Nếu Bồ-tát tu nhẫn
Nên lìa hai biên kiến
Không thấy thân ta, người
Có kẻ mất người được,
Như Lai từ bi lớn
Khen ngợi quán như thế
Cho nên các Bồ-tát
Thường phải tu nhẫn nhục.
Nếu muốn được Tận trí
Diệt các sử phiền não
Tu nhẫn không hèn nhát
Tâm thường không phân biệt.
Quán các pháp như thế
Thành Nhẫn ba-la-mật
Cho nên các Bồ-tát
Thường phải tu nhẫn nhục.
Bồ-tát muốn trang nghiêm
Tướng tốt thân Như Lai
Lại sinh thế giới Phạm
Ra khỏi các đường ma
Vui hành hạnh nhẫn nhục
Tất cả đều thành tựu
Cho nên các Bồ-tát
Phải nhẫn nhục vững chắc.
Sức nhẫn nhục tối thượng
Không hạnh nào qua được
Tất cả các công đức
Đều trong hạnh nhẫn nhục
Lực bốn ma khó định
Sức nhẫn tiêu diệt nó
Cho nên các Bồ-tát
Thường phải tu nhẫn nhục.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười hai cách phát tâm dũng mãnh, tu hành Tinh tấn ba-la-mật, được lợi ích lớn. Bồ-tát nên thực hành Tinh tấn bala-mật.
Những gì là mười hai?
1. Tinh tấn có thể mau hiểu rõ những biển Phật pháp, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
2. Tinh tấn có thể mau đến nơi của Đức Phật, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
3. Tinh tấn có khả năng đi khắp mười phương cung kính cúng dường các Đức Phật, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-lamật.
4. Tinh tấn thì những việc làm của mình hay xứng hợp với ý của tất cả chư Phật, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
5. Tinh tấn có thể chuyên cần giáo hóa tất cả chúng sinh, không sinh sự nhàm chán, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-lamật.
6. Tinh tấn có khả năng đưa chúng sinh vào trong pháp của chư Phật, đến thẳng cửa giải thoát, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
7. Tinh tấn có thể mau chóng khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi những ngu si, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
8. Tinh tấn có thể nhanh chóng làm cho chúng sinh được trí tuệ của các Đức Phật, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
9. Tinh tấn có thể nhanh chóng tâm thanh tịnh các cõi Phật, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
10. Thực hành tinh tấn, có thể lập nguyện đến hết tất cả kiếp số tận đời vị lai, vì tất cả chúng sinh thực hành Bồ-tát hạnh, không sinh tâm mệt mỏi hay từ bỏ, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
11. Tinh tấn có khả năng chỉ trong một niệm đi đến khắp các cõi Phật gieo trồng các căn lành, cho nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
12. Thực hành tinh tấn có khả năng đi đến khắp các cõi Phật, thành đạo Vô thượng, xoay chuyển bánh xe đại pháp, nên Bồ-tát phải phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật.
Này thiện nam! Đó là mười hai cách phát tâm dũng mãnh tu hành Tinh tấn ba-la-mật, được lợi ích lớn, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Đại Bồ-tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền dùng kệ khen ngợi hạnh Tinh tấn ba-la-mật như sau:
Nếu muốn vì chúng sinh
Tu hành hạnh Bồ-tát
Mau thành đạo Vô thượng
Tinh tấn là đệ nhất.
Như Lai vô lượng kiếp
Đã tu các hạnh khổ
Tất cả đều nhẫn nhục
Không sinh sợ hãi vậy.
Vì thế, các Phật tử!
Muốn mau thành Phật đạo
Luôn siêng năng tu hành
Tinh tấn ba-la-mật.
Bồ-tát hành tinh tấn
Mau đến chỗ thù thắng
Trải qua trăm ngàn nước
Cúng dường hầu chư Phật.
Bồ-tát cầu Đại thừa
Vì dứt khổ chúng sinh
Tu hành đạo Bồ-tát,
Vững chắc không lay chuyển,
Vô số trăm ngàn kiếp
Luôn vì các chúng sinh
Chịu khổ không lười biếng
Đều do tinh tấn vậy.
Ta nguyện thường tinh tấn
Làm thanh tịnh cõi Phật
Kế đến nguyện hiểu rõ
Tất cả pháp chư Phật
Biến khắp các cõi Phật
Chuyển xe lớn diệu pháp
Nguyện các loài chúng sinh
Tất cả đều hiểu biết,
Vào hết trong Đại thừa
Lìa thừa khác, cõi ma
Đầy đủ các nguyện lớn
Mau đến chỗ vô úy.
Bồ-tát tinh tấn thế
Chỉ ở trong một niệm
Ngộ pháp lớn Bồ-đề
Khai mở cửa Niết-bàn,
Hóa làm vô số thân
Biến khắp mười phương cõi
Vì lợi ích chúng sinh
Chỉ dạy việc thù thắng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười hai cách quán hạnh Thiền ba-la-mật, được lợi ích lớn. Vậy, Bồ-tát nên tu Thiền ba-la-mật.
Những gì là mười hai?
1. Thiền định có khả năng diệt trừ tất cả những cấu nhiễm phiền não, Bồ-tát nên tu Thiền ba-lamật, luôn luôn không có tâm phân biệt.
2. Thiền định tâm trụ nơi vắng lặng, niệm không tán loạn, Bồ-tát nên tu Thiền ba-la-mật, không chấp các cảnh giới.
3. Thiền định tâm không chấp trước, đầy đủ các hạnh, Bồ-tát nên học Thiền ba-la-mật vì có khả năng vượt qua ba cõi.
4. Thiền định có thể vượt ra khỏi thế gian, không chấp vào các cõi, Bồ-tát nên tu Thiền ba-lamật để vượt qua thế gian.
5. Thiền định có thể quán chiếu pháp thù thắng, tâm không mệt mỏi, Bồ-tát nên tu Thiền ba-la-mật không bao giờ cho là đầy đủ.
6. Thiền định được nhu hòa, tự tại, nhưng không lệ thuộc vào các thiền, Bồ-tát nên tu Thiền ba-la-mật, tự tại thay đổi các bậc thiền.
7. Thiền định đạt được tâm vô tướng, không thấy các vật, Bồ-tát nên tu Thiền ba-la-mật để lìa các tướng.
8. Thiền định tâm được trong sáng, thấu tỏ vô số cảnh giới, Bồ-tát phải tu Thiền ba-la-mật, để vượt qua các Tam-muội hữu lượng và vượt các điều đáng chê trách.
9. Thiền định có khả năng chấm dứt tâm quán, không thấy có năng quán, Bồ-tát phải tu Thiền bala-mật vì được tâm vắng lặng.
10. Thiền định chứng được tâm điều hòa, diệt các giác và quán, các căn không còn dao động, Bồtát phải tu Thiền ba-la-mật, vì đắc được tâm điều phục.
11. Thiền định thì tâm được tịch diệt, nhất quán, các căn không dao động, Bồ-tát phải tu Thiền ba-la-mật vì nó chế ngự được những căn bất thiện.
12. Thiền định thì tâm đối với các pháp có được phương tiện lớn, Bồ-tát phải tu Thiền ba-la-mật, vì không xả tâm đại Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát luôn ở trong Thiền định ba-la-mật thì không phát khởi tâm kiêu mạn; vì ở trong Thiền định ba-la-mật thì không khởi tâm tà kiến; vì ở trong Thiền định bala-mật thì không khởi tâm thương ghét. Vì thế, các vị Bồ-tát có thể học và hàng phục tất cả thiền định của Thanh văn, Bích-chi-phật, ngoại đạo phạm hạnh để đưa vào thiền Tam-muội.
Này thiện nam! Đó là mười hai cách tu hành Thiền định ba-la-mật, được lợi ích lớn, hồi hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Đại Bồ-tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền dùng kệ ca ngợi Thiền ba-la-mật như sau:
Muốn tu trí vô lậu
Ra khỏi bùn lầy dục
Diệt trừ các nghiệp chướng
Thiền định là đệ nhất.
Thiền định khó nghĩ bàn
Là cảnh giới chư Phật
Nhị thừa, các phàm phu
Tam-muội không thể biết.
Đất lớn các núi biển
Kiếp lửa có thiêu hết
Nếu tâm trụ thiền định
An ổn không tổn hại,
Mặt trời tuệ của Phật
Ngọc ma-ni vô lậu
Không từ nơi khác sinh
Sinh từ biển thiền định,
Cho nên các Phật tử
Cầu báu đại trí Phật
Nên trừ tâm tán loạn
Niệm Thiền Ba-la-mật.
Thiền định các Bồ-tát
Diệt trừ những phiền não
Cho nên người trí nói
Tu thiền là bậc nhất.
Tâm sâu thường vắng lặng
Không thích các cảnh giới
Hay gom những loạn tâm
Trụ nơi thắng Niết-bàn,
Bồ-tát tu thiền định
Không sinh trong tam giới
Cho nên không dựa vào
Không phải chỗ nương ở,
Thiền, Bồ-tát vượt qua
Thế gian xuất thế gian
Bởi thế, thắng Tam-muội
Vượt thế gian Nhị thừa.
Vì thế, xoay chuyển qua
Sinh ở trong cõi Dục
Thiền của Bồ-tát tu
Hơn hẳn mọi thù thắng,
Các thừa chẳng cứu cánh
Nên Phật nói thù thắng
Lìa các tướng chúng sinh
Và lìa các pháp nhơ.
Cho nên, các Bồ-tát
Tu thiền định thù thắng
Chinh phục thiền định khác
Và các thiền nông cạn
Bồ-tát một mực quán
Thanh tịnh các cảnh giới
Tu thiền định như vậy
Từ phương tiện tuệ sinh,
Chánh trí làm căn bản
Không khởi tâm tà kiến
Cho nên thiền Bồ-tát
Không thể nào nghi ngờ.
Bồ-tát nhập thiền định
Không trụ có và không
Vì quán thật cảnh vậy
Hay lìa tướng có, không,
Thiền thắng trí như thế
Không giống cảnh giới khác
Tuệ La-hán, Bích-chi
Không thể so sánh được.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười hai cách quán tu hành Bát-nhã ba-la-mật, được lợi ích lớn.
Vậy, Bồ-tát nên tu Bát-nhã ba-la-mật.
Những gì là mười hai?
1. Bát-nhã có thể xa lìa nhơ bẩn, phát ra ánh sáng, Bồ-tát nên tu Tuệ ba-la-mật vì có khả năng lìa các pháp đen tối.
2. Tu Bát-nhã chắc chắn hiểu rõ một cách thông suốt về những điều mờ mịt, chướng ngại, Bồ-tát nên tu Tuệ ba-la-mật, vì hay chiếu sáng, dẹp sạch rừng phiền não.
3. Bát-nhã có thể phóng ra ánh sáng trí tuệ, Bồtát nên tu Tuệ ba-la-mật, vì xa lìa tất cả các điều không trí tuệ.
4. Bát-nhã như cày ruộng diệt trừ các loại cỏ xấu, Bồ-tát nên tu Tuệ ba-la-mật, vì có khả năng nhổ sạch gốc rễ vô minh.
5. Bát-nhã như chiếc móc sắt sắc bén, tùy ý móc rách Bồ-tát nên tu Tuệ ba-la-mật, vì có khả năng móc sạch các lưới ái dục.
6. Bát-nhã như chày Kim cang không bị các vật làm hư hoại, Bồ-tát phải tu Tuệ ba-la-mật, vì có khả năng đập nát núi phiền não.
7. Bát-nhã như vầng mặt trời lớn, vượt ra khỏi những đám mây che lấp, Bồ-tát nên tu Tuệ ba-lamật, vì có khả năng làm khô cạn tất cả các bùn ướt phiền não.
8. Bát-nhã như đống lửa lớn thiêu đốt những cỏ xấu, Bồ-tát nên tu Tuệ ba-la-mật, vì có khả năng thiêu đốt rừng cây phiền não.
9. Bát-nhã như ngọc Ma-ni chiếu sáng khắp tất cả, Bồ-tát phải tu Tuệ ba-la-mật, vì tâm không tối tăm, không mê mờ các pháp.
10. Bát-nhã có thể trụ ở địa vị chân thật hoàn toàn tịch diệt, Bồ-tát phải nên tu Tuệ ba-la-mật, vì không có sở hữu.
11. Bát-nhã diệt trừ các hình tướng, tâm không phân biệt, Bồ-tát nên tu Tuệ ba-la-mật vì không có hình tướng vậy.
12. Bát-nhã có thể thành mà không nguyện, tâm không cầu khoái lạc, Bồ-tát phải tu Tuệ bala-mật, vì vượt qua ba cõi vậy.
Này thiện nam! Đó gọi là mười hai cách tu hành Trí tuệ ba-la-mật, được lợi ích lớn của Đại Bồ-tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ ca ngợi Trí tuệ ba-la-mật:
Rốt ráo đoạn các hữu
An ổn vào Niết-bàn
Trong các Ba-la-mật
Trí tuệ là đệ nhất.
Như ngọn đèn thế gian
Phá tan các bóng tối
Như ngọn lửa bốc cao
Quán tối thắng trong đời,
Tất cả Đức Như Lai
Ra khỏi nghiệp sinh tử
Thu phục bốn chúng ma
Trí tuệ là mãnh tướng.
Nếu các Phật tử muốn
Tự lợi và lợi tha
Thường phải siêng tu nghiệp
Bát-nhã ba-la-mật,
Giống như người cày đất
Hay trừ các cỏ xấu
Trí diệt cỏ ngu, ái
Như người cày sạch đất.
Chày Kim cang Đế Thích
Diệt A-tu-la ác
Trí phá núi phiền não
Hoại sạch cũng như thế,
Tất cả Đức Như Lai
Nói năng lực trí tuệ
Như trăng vào mùa hạ
Cũng như đèn thế gian,
Khô cạn biển phiền não
Chiếu trừ tối vô minh
Vì thế vượt thế gian
Ngọn lửa sáng vô lậu,
Trí tuệ hay chặt đứt
Cây vô minh tăm tối
Như cây dao sắc bén
Cắt tiệt các cỏ xấu,
Trí như ngọc ma-ni
Bình đẳng chiếu thế gian
Như không chẳng phân biệt
Không trụ cõi Niết-bàn,
Trí tuệ tâm tự tại
Quyết định ở tất cả
Đoạn trừ các nghi hối
Dứt hẳn các hoài nghi,
Nói nghiệp ác thế gian
Và nêu quả Niết-bàn
Thấy khắp các chúng sinh
Như tối thấy ánh sáng,
Chư Phật mặt trăng sáng
Hiện thấy các pháp tướng
Các Bồ-tát cũng vậy
Tu tập trí vô cấu,
Như đi đêm cầm đuốc
Đến đâu đều sáng cả
Trong sinh tử tối tăm
Tuệ sáng vượt qua khỏi.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười hai cảnh giới tu hành phương tiện sẽ được lợi ích lớn. Vì thế, Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
Những gì là mười hai?
1. Phương tiện không lìa cảnh giới Niết-bàn thanh tịnh mà vẫn thị hiện trong các cảnh giới dơ uế của thế gian, vì thế Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
2. Phương tiện không xa lìa một cảnh giới vắng lặng nào, nhưng vẫn thị hiện trong cảnh giới quen náo nhiệt của thế gian, cho nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
3. Phương tiện không xa lìa cảnh giới thiền định sâu xa mà vẫn thị hiện ở cảnh giới cung vua trong thế gian, cho nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
4. Phương tiện không lìa cảnh giới vô công dụng thanh tịnh, mà vẫn thị hiện trong cảnh giới có hoạt động ở thế gian, nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
5. Phương tiện không lìa cảnh giới chân thật vô sinh nhưng lại thị hiện ở nơi các cảnh giới, sinh đấy chết kia, chết đấy sinh kia của thế gian, cho nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
6. Phương tiện có khả năng vượt qua tất cả cảnh giới bốn ma nhưng vẫn thị hiện trong đó để thu phục ma ở thế gian, cho nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
7. Phương tiện không lìa tất cả cảnh giới Thánh nhân mà vẫn thị hiện ở cảnh giới phàm phu ở thế gian, nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
8. Phương tiện không rời cảnh giới xuất thế gian mà vẫn hiện diện trong các cảnh giới của thế gian, cho nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
9. Phương tiện không lìa các cảnh giới trí tuệ mà vẫn thị hiện trong cảnh giới vô trí ở thế gian, nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
10. Phương tiện không lìa thế giới thật tế của Bồ-tát mà vẫn thị hiện ở các cảnh giới Thanh văn, Duyên giác, cho nên Bồ-tát phải tu Phương tiện bala-mật.
11. Phương tiện là có năng lực khéo biết tất cả các pháp đều vô tướng nhưng vẫn thị hiện ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp để giáo hóa chúng sinh, cho nên Bồ-tát phải tu Phương tiện bala-mật.
12. Phương tiện có năng lực đi vào các cảnh giới ma bình đẳng mà vẫn có thể thị hiện các cảnh giới ma, nên Bồ-tát phải tu Phương tiện ba-la-mật.
Này thiện nam! Đó là mười hai Phương tiện bala-mật mà Bồ-tát trụ ở trong đó thì được lợi ích lớn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ ca ngợi Phương tiện ba-la-mật như sau:
Tất cả những Bồ-tát
Hành các Ba-la-mật
Nếu không có phương tiện
Không thể đến bờ kia
Tự lợi và lợi tha
Ở đời và Niết-bàn
Không tịnh nhiễm như thế
Đều do phương tiện cả.
Tất cả Đức Như Lai
Các cảnh giới hành động
Nhị thừa chẳng nghĩ bàn
Đều do sức phương tiện.
Vì thế, các Phật tử
Muốn hành việc Như Lai
Thường siêng năng tu hành
Phương tiện ba-la-mật
Bồ-tát luôn thanh tịnh
Phương tiện giúp chúng sinh
Thật không các dục cấu
Thị hiện làm hạnh xấu
Tắm trong ao Niết-bàn
Phương tiện hiện các cõi
Gọi là các Bồ-tát
Không trụ ở hai biên.
Thường giữ thân, khẩu, ý
Vắng lặng nghĩa đệ nhất
Vì lợi ích chúng sinh
Phương tiện đồng thế gian
Như ong vào vườn hoa
Không chỉ hút một hoa
Bồ-tát hành phương tiện
Tất cả các cảnh giới.
Hoặc hiện các loại tướng
Tuyệt đẹp trang nghiêm thân
Khắp trong các cung nữ
Thực hành hạnh phóng dật
Hoặc hiện ở địa ngục
Cứu khổ các chúng sinh
Tuy hiện tướng như vậy
Thường không bỏ thiền định,
Không xả các Tam-muội
Mà hiện trong tán loạn
Thị hiện hành tổn hại
Chính là sức phương tiện.
Bồ-tát đã lìa xa
Tất cả hạnh hữu vi
Nhưng trong hữu và vô
Cũng không tâm phân biệt
Lìa hiện hành các nhiễm
Không sinh lửa dâm dục
Thị hiện trong phương tiện
Phân biệt tướng hữu vi.
Bồ-tát trong các cõi
Không sinh cũng không mất
Thị hiện việc sinh mất
Sức trí phương tiện vậy
Từ bỏ chốn ma nghiệp
Ở trong cảnh giới Phật
Trí tuệ không khiếp sợ
Thị hiện các việc ma.
Bồ-tát sức đại Bi
Trí phương tiện nhanh chóng
Trụ nơi Thánh Vô thượng
Nhưng hiện việc phàm phu
Do nhập tướng các pháp
Biết thể các pháp không
Thường ở nơi Niết-bàn
Mà không bỏ thế gian
Tự thể các pháp không
Vắng lặng không tướng trạng
Vì lợi ích chúng sinh
Thân trang nghiêm tướng tốt
Không ngu hiện không trí
Không giận hiện không thương
Để lợi ích chúng sinh
Chính đó là phương tiện.
Các vị Đại Bồ-tát
An trụ vào nơi ấy
Đó gọi là Thánh nhân
Hiện các loại phương tiện.
Lại nữa, thiện nam! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri cũng có phương tiện, các ông phải nên biết. Vì sao? Này thiện nam! Các Đức Phật Như Lai có mười hai công đức thù thắng vi diệu, giống như đề hồ đối với các vị thì ngon bổ hơn cả, là vị hàng đầu có thể làm tịnh tất cả cõi của chư Phật. Như Lai ở trong ấy thành tựu Bồ-đề giải thoát vô thượng.
Những gì là mười hai?
1. Thị hiện kiếp xấu xa.
2. Thị hiện thời gian xấu xa.
3. Thị hiện chúng sinh xấu xa.
4. Thị hiện phiền não vẩn đục.
5. Thị hiện mạng sống xấu xa.
6. Thị hiện ba thừa khác nhau xấu xa.
7. Thị hiện cõi Phật bất tịnh xấu xa.
8. Thị hiện chúng sinh xấu xa khó giáo hóa.
9. Thị hiện nói các loại phiền não xấu xa.
10. Thị hiện ngoại đạo xấu xa, lộn xộn.
11. Thị hiện ma xấu xa.
12. Thị hiện nghiệp ma xấu xa.
Này thiện nam! Tất cả quốc độ của chư Phật đều là công đức xuất thế trang nghiêm đầy đủ thanh tịnh, không có các thứ xấu xa. Như lỗi lầm này đều do năng lực phương tiện của các Đức Phật thị hiện để làm lợi ích cho chúng sinh. Các ông nên biết như vậy!
Lúc bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bạch Đức Thế Tôn:
–Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri nói về mười hai cõi Phật có công đức thanh tịnh tối thắng này. Vậy thì, Như Lai đang ở cõi nào để thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:
–Một là, chúng sinh ở cõi Phật kia hoàn toàn thành kiếp thanh tịnh tối thắng, xa lìa các kiếp xấu xa và có đầy đủ công đức. Cõi thanh tịnh như thế, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hai là, chúng sinh ở cõi Phật kia hoàn toàn thành tựu thời gian tối thắng vi diệu, hành theo pháp của chư Phật không mất thời tiết. Cõi sạch như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ba là, chúng sinh ở cõi Phật, kia đã hoàn toàn thành tựu pháp khí tối thắng, nhận lấy Chánh giác của Đức Phật. Cõi tịnh như thế, Như Lai ở trong ấy thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bốn là, chúng sinh ở cõi Phật kia hoàn toàn thành tựu biển trí trong sạch tuyệt đẹp, làm thanh tịnh tất cả các phiền não xấu xa. Cõi tịnh như thế, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Năm là, chúng sinh ở cõi Phật kia hoàn toàn có khả năng thành tựu tâm nhu hòa, ở trong đó thường là các chúng sinh đã được thu phục. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Sáu là, chúng sinh ở cõi Phật kia đã hoàn toàn thành tựu cỗ xe tối thắng vi diệu, có thể dùng cứu cánh Nhất thừa đạt Niết-bàn Vô thượng. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bảy là, chúng sinh ở cõi Phật kia hoàn toàn thành tựu khí thế gian thù thắng, không có các tướng trạng khác. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tám là, chúng sinh ở cõi Phật kia hoàn toàn thành tựu Chánh giáo của Như Lai, không có các pháp tà của ngoại đạo. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Chín là, chúng sinh ở cõi Phật kia đã hoàn toàn thành tựu tâm ngay thẳng, không quanh co. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Mười là, chúng sinh ở cõi Phật kia hoàn toàn thành tựu công đức không cấu uế, thành tựu tất cả pháp thắng thanh tịnh. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Mười một là, chúng sinh của cõi Phật kia hoàn toàn thành tựu các pháp Thánh nhân, ở trong ấy luôn có những ruộng phước thù thắng. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Mười hai là, chúng sinh của cõi Phật kia rốt ráo thành tựu đạo tràng thắng diệu mà chư Phật trong quá khứ đã thành đạo ở đó. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Văn-thù-sư-lợi! Đó là mười hai công đức tối thắng, thanh tịnh cõi Phật. Cõi tịnh như vậy, Như Lai ở trong ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Văn-thù-sư-lợi! Cõi Phật của ta không nói về sự sai biệt của Thanh văn hay Bích-chi-phật… Vì sao? Vì chư Phật Như Lai đã xa lìa những lỗi lầm chấp tướng.
Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu Như Lai nói pháp Đại thừa cho một loại chúng sinh, nói Duyên giác thừa cho một loại chúng sinh, nói Thanh văn thừa cho một loại chúng sinh. Nói như thế thì Như Lai đã có tâm không thanh tịnh, Như Lai có tâm không bình đẳng, Như Lai có tâm đấu tránh lỗi lầm, Như Lai có tâm không từ bi bình đẳng, Như Lai có tâm các tướng lỗi lầm, Như Lai đối với các pháp sinh tâm keo kiệt.
Này Văn-thù-sư-lợi! Ta đã nói những pháp gì cho chúng sinh, thì tất cả những pháp ấy đều tùy thuận Bồ-đề, tùy thuận Đại thừa mà giữ lấy Nhất thiết trí. Nhất định hoàn toàn đến một nơi, nghĩa là đi đến chỗ Nhất thiết trí.
Này Văn-thù-sư-lợi! Vì thế cõi của ta không có thừa sai khác.
Lúc bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bạch Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu không có ba thừa khác nhau thì tại sao Đức Như Lai nói pháp ba thừa cho chúng sinh, và cho rằng: “Thanh văn học thừa này,
Duyên giác học thừa này và Bồ-tát học thừa này?” Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:
–Chư Phật Như Lai nói ba thừa là chỉ bày quả vị khác nhau chứ chẳng phải thừa khác nhau. Chư Phật Như Lai nói ba thừa là nói pháp tướng khác nhau, chẳng phải thừa khác nhau. Chư Phật Như Lai nói ba thừa là nói người khác nhau, chẳng phải thừa khác nhau. Chư Phật Như Lai nói ba thừa là chỉ bày ít công đức và biết nhiều công đức, nhưng Phật pháp thì không có thừa khác nhau. Vì sao? Vì tánh pháp giới vốn không có sự khác nhau.
Này Văn-thù-sư-lợi! Chư Phật Như Lai nói ba thừa để khiến cho các chúng sinh đều được đi vào pháp môn của chư Phật Như Lai, làm cho các chúng sinh dần dần đi vào pháp môn Đại thừa của Như Lai, cũng như người học nghề phải theo thứ tự để luyện tập.
Này Văn-thù-sư-lợi! Như thợ bắn cung đối với sự hiểu biết về bắn cung đã hoàn toàn đạt đến tài bắn cung số một và có thể dùng vô số phương pháp để dạy những đệ tử, khiến tất cả hoàn toàn có khả năng hiểu biết như mình.
Này Văn-thù-sư-lợi! Cũng vậy, Như Lai như thợ bắn cung, ở trong các pháp đều hoàn toàn đến bờ kia. Như Lai liền dùng Nhất thiết trí phân biệt để nói, để chỉ dạy các chúng sinh ở ba thừa khác nhau, như người thợ bắn cung dạy các đệ tử.
Này Văn-thù-sư-lợi! Như một đóm lửa nhỏ của đống lửa lớn, nó dần dần lớn lên lan khắp cả thế giới, cho đến thành một kiếp lửa thiêu đốt. Vănthù-sư-lợi! Lửa trí tuệ của Như Lai cũng như vậy. Tánh sáng suốt của trí kia dần dần tăng trưởng thành tựu tất cả ánh sáng tri kiến của đại trí Như Lai. Ánh sáng đại trí có thể đốt cháy tất cả các phiền não xấu xa.
Này Văn-thù-sư-lợi! Như các núi lớn Tu-di không có tâm phân biệt, chúng sinh đến đó đều đồng một màu sắc, đó là màu vàng. Này Văn-thùsư-lợi! Cũng vậy, vua núi Tu-di Như Lai Thế Tôn Vô thượng đại trí đối với các chúng sinh không có tâm phân biệt. Nếu chúng sinh nào vào pháp của Đức Phật thì những chúng sinh ấy đều thành một màu sắc, đó là màu sắc vi diệu Nhất thiết chủng trí.
Này Văn-thù-sư-lợi! Như ngọc báu ma-ni Nhân-đà-la có màu xanh trong sạch vi diệu; đem nó đặt trong tất cả vật đựng ở trong thế giới. Tất cả các màu sắc tướng trạng trong những cảnh giới có đặt ngọc ma-ni kia, do năng lực của ngọc ma-ni đều trở thành một màu, đó là màu xanh. Này Vănthù-sư-lợi! Cũng vậy, Như Lai Thế Tôn như là ngọc báu ma-ni màu xanh vô thượng, trí tuệ sáng suốt, khi chiếu đến thì chúng sinh đều đồng một màu sắc, đó là màu sắc Nhất thiết chủng trí.
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như biển lớn, nước từ vô lượng trăm ngàn con sông chảy vào đó. Khi chảy vào biển rồi thì tất cả đều đồng một vị mặn và giữ nguyên như vậy. Văn-thù-sư-lợi! Nước trong biển lớn như là Nhất thiết trí tuệ của Như Lai, còn nước từ những con sông chảy vào biển tượng trưng cho Thanh văn, Duyên giác và Bồtát. Khi chảy vào biển thì tất cả đều đồng một vị mặn gọi là Nhất thừa, thường trụ gọi là Nhất thiết chủng trí không phân biệt.
Này Văn-thù-sư-lợi! Căn cứ vào nghĩa này, ông nên biết không có thừa khác nhau.
Này Văn-thù-sư-lợi! Bởi thế, Đức Phật nói quả vị khác nhau là nhằm chỉ cho các chúng sinh tu tập trong ba thừa rồi thứ tự đi vào. Nói pháp tướng sai biệt là chỉ dạy cho chúng sinh về Như Lai chủng trí để thứ tự đi vào. Nói ít công đức, biết nhiều công đức là chỉ cho các chúng sinh có ba hạng khác nhau, chỉ dạy Như Lai phương tiện nhanh chóng bằng biện tài không ngăn ngại.
Này Văn-thù-sư-lợi! Chư Phật Như Lai dựa vào Tục đế để nói ba thừa, chư Phật Như Lai dựa vào Đệ nhất nghĩa đế để nói Nhất thừa; nhưng Đệ nhất nghĩa chỉ là Nhất thừa, không có thừa thứ hai.
Này Văn-thù-sư-lợi! Ngoại đạo ở cõi Phật ta như là Tăng-khư, Tỳ-thế-sư, Già-lê-ca Ni-kiền Tử… đều là do phương tiện của các Đức Như Lai, đều là thần lực của Như Lai muốn hộ trì thế gian mà hiện ra. Vì sao? Vì các Đức Như Lai khéo trừ tất cả các oán thù.
Này Văn-thù-sư-lợi! Chư Phật Như Lai được gọi là Thiện Thệ. Nếu có oán thù thì không được địa vị ấy.
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như vua Chuyển luân thánh vương trong thế gian, chỉ thành tựu một phần nhỏ công đức thiện căn, căn lành đoạn dứt, chẳng phải pháp cứu cánh, vẫn còn đầy đủ tất cả tham, sân, si…, các kết phiền não, không lìa ba cõi, không từ bỏ tất cả sử phiền não, không lìa tất cả cấu nhiễm phiền não. Vua Chuyển luân kia vẫn hoàn toàn không có những oán đối, rốt ráo không có những kẻ thù. Vì sao? Vì vua Chuyển luân không còn oán thù.
Này Văn-thù-sư-lợi! Huống nữa Như Lai đã thành tựu tất cả công đức trí tuệ, đạt đến tâm đại Từ, đại Bi không gián đoạn, hành động nơi pháp giới hư không vô lậu, đầy đủ các công đức thiện của bảy Giác chi, rốt ráo thành tựu pháp không quên mất, và có khả năng vận chuyển bánh xe chánh pháp vi diệu vô thượng, hoàn toàn thành tựu Bồ-đề vô thượng mà lại còn có những gai nhọn của ma oán, đâm chém của kẻ thù, thì không thể có.
Này Văn-thù-sư-lợi! Những ngoại đạo ở cõi Phật này như Tăng-khư, Tỳ-thế-sư, Già-lê-ca Nikiền Tử… sở dĩ có là đều do năng lực giữ gìn của Như Lai mà phương tiện hiện.
Này Văn-thù-sư-lợi! Những thiện nam tử ngoại đạo này, tuy thực hành các tướng của Nhị thừa, nhưng đều đồng Phật pháp, cùng đi qua một chiếc cầu, không có một con đường nào khác.
Này Văn-thù-sư-lợi! Tất cả cầm thú không thể đứng rống trước sư tử chúa. Văn-thù-sư-lợi! Như Lai là Sư tử chúa Đại trượng phu, đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy. Tất cả ngoại đạo Ni-kiền Tử không có một ai dám ở trong cảnh giới Như Lai tranh luận phải trái với Phật Thế Tôn để rống lên tiếng rống Sư tử, đó là điều không thể có. Chỉ trừ khi năng lực phương tiện của các Đức Như Lai thị hiện mà thôi!
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như mặt trời mọc lên tỏa ánh sáng lớn bao trùm khắp nơi, tất cả những ánh sáng của những loài côn trùng, đom đóm đều lụi tắt; tất cả ánh sáng ngọc ma-ni và ánh sáng của lửa đều không xuất hiện.
Văn-thù-sư-lợi! Như Lai xuất hiện ở thế gian, phóng ánh sáng mặt trời đại trí tuệ thì các ánh sáng trí tuệ đom đóm của các ngoại đạo Ni-kiền Tử đều lụi tắt không thể xuất hiện.
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như sắt chúa tên là Atắc-kiền-đà. Ở chỗ nào các thứ sắt phàm đều không dám ở. Vì sao? Vì tướng nó riêng biệt nên không cùng chung một chỗ với sắt phàm. Vănthù-sư-lợi! Cũng vậy, Như Lai như sắt chúa xuất hiện ở thế gian; dù bất cứ quốc độ nào thì tất cả sắt phàm phu ngoại đạo đều không phát sinh được. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai có tướng xuất thế riêng biệt.
Này Văn-thù-sư-lợi! Bất cứ ở nơi nào có ngọc báu ma-ni Như ý xuất hiện thì ở nơi đó không sinh những ngọc lưu ly giả. Văn-thù-sư-lợi! Như Lai chúa như ngọc báu Như ý đại trí xuất hiện ở thế gian, dù bất cứ quốc độ nào thì nơi ấy đều không phát sinh ngoại đạo.
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như những vật báu nào mà được làm ra từ vàng ròng thì nơi ấy không thể lấy ra các loại đồng sắt… Văn-thù-sư-lợi! Cũng vậy, bảo tánh của Như Lai xuất hiện ở thế gian, dù ở bất cứ quốc độ nào thì nơi ấy không thể phát sinh ngoại đạo.
Này Văn-thù-sư-lợi! Căn cứ vào nghĩa này, ông nên biết, Như Lai xuất hiện ở thế gian, dù ở quốc độ nào thì nơi đó ngoại đạo không xuất hiện. Vì sao? Văn-thù-sư-lợi! Quốc độ của ta sở dĩ có các ngoại đạo Ni-kiền Tử là đều do năng lực bảo trì của Như Lai, để muốn chỉ bày cảnh giới phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì những ngoại đạo này đều ở trong pháp môn giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, đều là môn trí cứu cánh Bát-nhã ba-lamật; tất cả đều được năng lực lớn phương tiện tự tại, nhanh chóng; tất cả được niệm không lìa bỏ Phật, Pháp, Tăng; tất cả đều rốt ráo đến bờ kia, dùng thần lực lớn giáo hóa chúng sinh; tất cả đều được Như Lai trợ giúp năng lực giáo hóa chúng sinh.
Khi Như Lai nói pháp môn Nhất thừa này, có tám ngàn Thiên tử nương vào hạnh Thanh văn được Nhất thừa, rồi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Năm trăm Tỳ-kheo được ở trong Tam-muội, ngọn đuốc sáng Nhất thừa bình đẳng đại trí. Một ngàn hai trăm vạn Bồ-tát được Vô sinh nhẫn. Tam thiên đại thiên thế giới này đều chấn động sáu cách. Tất cả chư Thiên ở giữa hư không mưa xuống hoa trời Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi; mưa xuống hương bột Chiên-đàn của cõi trời; tất cả đều đầy khắp dưới chân Như Lai. Vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở giữa hư không tấu lên trăm ngàn loại âm nhạc, phát ra những âm thanh thật vi diệu cúng dường Như Lai. Lại mưa xuống những tấm vãi thượng diệu, đánh các loại trống trời và thưa rằng:
–Chúng con ở trong thế gian chưa từng được nghe pháp môn hy hữu tối thắng thượng diệu này.
Rồi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin pháp môn này mãi mãi ở trong cõi Diêm-phù-đề để tất cả chúng sinh được lợi ích lớn.
Tám ngàn Tỳ-kheo-ni, mỗi người tự cởi Thượng y trên thân cúng dường Như Lai.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Văn-thù, ông nên biết
Thắng phương tiện của Phật
Ta ra đời thuyết pháp
Phương tiện hiện thời trược
Tất cả thời có pháp
Rốt ráo thường thanh tịnh
Tùy chúng sinh nhận pháp
Nên hiện chúng sinh trược
Chư Phật, Bậc Thắng Trí
Xuất hiện kiếp vi diệu
Quốc độ thường thanh tịnh
Cho nên nói không trược
Ta ở vô lượng kiếp
Tu đủ các khổ hạnh
Thanh tịnh các nghiệp chướng
Được công đức thắng trí
Ở trong vô lượng kiếp
Tuổi thọ không cùng tận
Ngoài sức phương tiện Phật
Thì không có mạng trược
Chúng sinh khởi tưởng thường
Nên ta hiện vô thường
Vì sống vô số kiếp
Thị hiện tướng đoản thọ
Như Lai công đức thắng
Tu từ vô lượng kiếp
Chúng sinh phước mỏng manh
Nghe sinh tâm sợ hãi
Vì những chúng sinh này
Phân biệt nói khác nhau
Cuối cùng đều thành Phật.
Lại không có thừa khác
Ta vì độ chúng sinh
Phân biệt nói đạo khác
Độ khiến vào Nhất thừa
Không có ba thừa khác
Như thầy bắn cung giỏi
Thích biết lực của tên
Vì dạy các đệ tử
Một nghề nói các cách
Như Lai cũng như vậy
Vì chúng sinh thành tựu
Mà ở trong một pháp
Nói những loại khác nhau
Ta đối với chúng sinh
Không có tâm sai khác
Vì trình độ không đồng
Nên nói có phân biệt
Nếu không tâm bình đẳng
Người nói ta ghen ghét
Tự giữ thừa Tối thượng
Cho chúng sinh pháp thấp
Thượng báu Nhân-đà-la
Tùy chỗ sắc sáng xanh
Chiếu sáng khắp các vật
Nhưng báu không phân biệt
Phật trí báu Vô thượng
Ánh sáng chiếu thế gian
Đồng một màu Bồ-đề
Lìa các tâm phân biệt.
Giống như đóm lửa nhỏ
Tăng trưởng thành sáng lớn
Trí nhỏ của La-hán
Tăng trưởng thành Phật tuệ
Tất cả các chúng sinh
Đi đến núi Tu-di
Nương lực sáng Tu-di
Tất cả đồng một màu
Các chúng sinh cũng vậy
Trụ pháp Phật Tu-di
Nhờ pháp lực Như Lai
Sắc thân đồng như Phật.
Giống như ong hút mật
Tập hợp các loài hoa
Đặt chung trong một nơi
Hòa hợp chung một vị
Vậy, Phật nói ba thừa
Vì thuần căn chúng sinh
Nói ra các loại pháp
Thành vị Bồ-đề Phật.
Giống như vua Chuyển luân
Ra ngoài không oán thù
Ta pháp ứng ra đời
Ngoại đạo cũng không có.
Giống như mặt trời mọc
Ánh sáng khác lụi tắt
Mặt trời Phật mọc rồi
Ngoại đạo tự tiêu diệt
Chỗ đã sinh chúa sắt
Không sinh sắt phàm khác
Chỗ Đức Phật ra đời
Không sinh các ngoại đạo
Nơi sinh vàng quý đẹp
Đồng và sắt ẩn mất
Nơi nào Phật thành đạo
Tự nhiên không ngoại đạo.
Giống như báu ma-ni
Không chung với tạp uế
Chỗ sinh ra như vậy
Ngọc lưu ly không giả,
Như Lai ngọc ma-ni
Xuất hiện đâu cũng vậy
Không lẫn các ngoại đạo
Cùng đồng một quốc độ,
Thần thông lớn ngoại đạo
Bồ-tát đều tự tại
Ông nên biết phương tiện
Thị hiện tướng như vậy.
Tất cả các Bồ-tát
Nghe thấy các ngoại đạo
Đầy đủ Lực phương tiện
Đều phát tâm vui mừng,
Tất cả đều tôn trọng
Hiến dâng lòng cung kính
Rải hoa cúng dường Phật
Các hương thơm vi diệu.
Chỗ ấy khi nói pháp
Đại địa động sáu cách
Hư không phát tiếng rằng
“Hiếm có chưa từng nghe”
Vô số các Thiên tử
Giữa không chắp tay khen
Đồng thanh nói “Lành thay!”
“Hay thay, Tu-già-đà!”
Bấy giờ, tại quốc độ phương Nam, Đại Tát-già Ni-kiền Tử cùng với tám mươi tám ngàn vị Ni-kiền Tử khác đi khắp các quốc độ để giáo hóa chúng sinh rồi sau đó, họ đến thành Uất-xà-diên. Lại có vô số quần chúng ca hát hoặc nhảy múa, thổi sáo, xướng họa, tấu lên trăm ngàn vạn các loại âm nhạc; kẻ trước người sau hầu hạ Đại Tát-già Ni-kiền Tử đến thành Uất-xà-diên.
Lúc đó, đại vương chủ nước ấy là vua Nghiêm Sí, nghe nói có chúng Đại Tát-già Ni-kiền Tử cùng vô lượng chúng từ quốc độ phương Nam đến thành Uất-xà-diên. Khi nhà vua nghe như vậy, liền sinh tâm tôn trọng Đại Tát-già Ni-kiền Tử. Đã sinh tâm tôn trọng, vì muốn được chiêm ngưỡng Đại Tát-già Ni-kiền Tử, nên nhà vua bèn dùng uy lực của một bậc đại vương, năng lực thần thông, năng lực tốc hành, cùng với các đại thần và các vương tử, những vị sư trưởng, các vị đại trưởng giả quyến thuộc ở trong nước, các vị chủ ở thành nhỏ, ấp, tụ lạc và đại chúng, bằng phương tiện voi, ngựa, xe, đi bộ. Tất cả kẻ trước người sau cùng nhau, cung kính đi theo, khua chuông đánh trống, trổi lên vô lượng trăm ngàn âm nhạc. Họ đánh trăm ngàn các loại trống âm thanh thật vi diệu; thổi trăm ngàn loại ốc âm thanh vi diệu; trương lên trăm ngàn vạn những loại tràng phan bảo cái được thêu bằng những loại có màu sắc xen lẫn nhau; rải trăm ngàn vạn các thứ hoa thượng diệu khắp những con đường, như hoa Ưu-bát-la, hoa Đầu-ma, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Thâu-ca, hoa Bạc-câu-la, hoa Tỳ-ca-la, hoa A-đề-mục-đa-già. Lại có bình vàng, bình bạc đựng đầy trăm ngàn các loài hoa tuyệt đẹp khác nhau; dùng trăm ngàn những loại lư hương báu đốt hương vô giá, trang nghiêm ở phía trước để đi đến chỗ Tát-già Ni-kiền Tử.
Khi ấy, Đại Tát-già Ni-kiền Tử trông thấy vua Nghiêm Sí và đại chúng đi đến, Tát-già Ni-kiền Tử rẻ qua một bên đường, ở dưới gốc cây trải tọa cụ ngồi. Trong khi đó, vua Nghiêm Sí cũng trông thấy Tát-già Ni-kiền Tử ngồi dưới gốc cây, liền xuống voi đi bộ đến đó, rồi ngồi trên giường báu Như ý được trang nghiêm bằng ngọc báu ma-ni với trăm ngàn vẻ đẹp vô giá bất tuyệt.
Lúc ấy, Đại Tát-già Ni-kiền Tử vấn an nhà vua:
–Quý hóa thay, đại vương đến đây! Hôm nay Đại vương khéo gieo trồng công đức vô thượng hiếm có này, phước báo rất nhiều. Vì sao? Vì đại vương đã chế ngự được tâm tự tôn quý trọng của bậc Thiên vương, cho nên hạ thấp mình, chiếu cố đến đây hỏi thăm sức khỏe của một Sa-môn.
Này Đại vương! Trong nước Đại vương trị vì không có trộm cướp, phóng đảng và những bè đảng quấy nhiễu nhân dân chăng? Không có các quan lại tâm bạo xâm phạm lương thực nhân dân chăng? Không có các nhóm người làm nghề xấu xảo trá, giả dối lừa gạt người dân trong thế gian chăng? Không có những kẻ làm phản, quấy rối các người dân trong quốc độ chăng? Không có những kẻ trộm cướp cùng ăn cắp của nhau chăng? Các quan triều đình của nước chư hầu có khinh thường Đại vương, có thi hành theo mệnh lệnh của Đại vương chăng?
Này Đại vương! Trong nước Đại vương cai trị, có Sa-môn nào tu tịnh hạnh, được sống an lạc chăng? Cung cấp tất cả những đồ cần dùng, như y phục, thức ăn uống, phòng ốc, giường chiếu, thuốc men và những đồ cần dùng không thiếu thốn chăng? Nhân dân trong nước đều có tâm thiện, tôn trọng, cúng dường các Sa-môn tu tịnh hạnh không?
Đại vương! Hiện nay, đất nước Đại vương trị vì, không có các việc mổ giết, săn bắn, giăng lưới ở sông núi, thiêu đốt gò đầm, thả chim ưng, chó săn; thả câu bắt, dùng tên, đạn bắn cầm thú; đào hầm sâu, dùng độc, nỏ, bẫy đi giết hại chim chăng?
Đại vương làm chủ một nước, pháp chế quyền lực, mệnh lệnh dù thiện hay ác không ai dám chống đối. Khi lên vương vị đưa ra mệnh lệnh có đúng với lẽ phải không? Những việc làm thiện ác của dân có biết được không? Người làm điều thiện, có khuyến khích họ phát triển hơn nữa không? Những người làm việc xấu, có khuyến nhắc họ từ bỏ không?
Đại vương có khởi tâm ác mà giết hại tất cả những chúng sinh hai chân, bốn chân, nhiều chân, không chân không? Vì sao? Vì tất cả loài chúng sinh đều là loài có tình thức, quý trọng thân mạng và đều sợ chết. Khi nghiệp đã đến, tuổi thọ trăm năm đã hết thì không kể già hay trẻ, không có một lời lẽ nào mang đi. Vì sao? Vì ai cũng rất yêu quý tánh mạng, tại sao còn hại người khác để sinh khổ não. Sau khi chết, ghen ghét oán thù qua lại với nhau, quả báo ác không biết khi nào được chấm dứt.
Đại vương nên phải chấm dứt tội sát sinh, buông bỏ dao gậy, xả bỏ của cải, mình phải sống đời sống biết đủ, đối với của cải của người khác không khởi lòng ham muốn.
Đại vương nên tránh xa tội tà dâm, sống chung thủy bằng lòng với vợ mình, không mong cầu vợ người khác, không khởi tâm tà loạn.
Đại vương nên tránh xa tội nói dối, thường nói lời chân thật, vì khi mở lời là thành phép tắc, không phát ngôn vô ích.
Đại vương phải nên tránh xa tội nói hai chiều, không nói những lời gây phá hoại. Đối với những người bị chia rẽ nên tìm cách hòa hợp, không khởi tâm phá hoại.
Đại vương nên từ bỏ tội nói lời thô ác, thường nói những lời yêu thương, nói những lời hòa nhã, không nói những lời thô thiển.
Đại vương nên chấm dứt nói lời phù phiếm, thường nói lời quyết định, lời nói có suy nghĩ, không đánh mất chánh ngữ.
Đại vương nên từ bỏ tội tham dục, đối với vật dụng của người khác không có tâm mong cầu, vật của người khác không sinh tâm cướp đoạt nên sinh tâm vui vẻ.
Đại vương phải nên từ bỏ tội giận dữ, thường khởi tâm từ, tâm thanh tịnh, không sinh tâm oán hận.
Đại vương nên chấm dứt tội tà kiến, thấy vào quả báo của chính mình để tùy thuận vào Thánh nhân mà phát khởi chánh kiến, không có cái nhìn sai lạc. Vì sao? Vì tội sát sinh có thể khiến chúng sinh đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh vào trong loài người thì mắc phải hai loại quả báo, đó là chết yểu và nhiều bệnh tật.
Tội trộm cắp cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh trong loài người thì mắc phải hai quả báo: Một là nghèo khổ, hai là có của cải nhưng không được tự do sử dụng.
Tội tà dâm cũng làm cho chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được sinh vào trong loài người thì mắc phải hai quả báo: Một là vợ không nghe lời mình, hai là vợ mình bị người khác chiếm đoạt.
Tội vọng ngữ cũng làm cho chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu được sinh làm người thì mắc phải hai quả báo: Một là thường bị người khác vu khống, hai là thường bị người khác lừa gạt.
Tội nói hai chiều cũng khiến chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu được sinh làm người thì mắc phải hai quả báo: Một là quyến thuộc tan rã, hai là quyến thuộc xấu ác.
Tội nói lời độc ác cũng khiến chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu được sinh làm người thì mắc phải hai quả báo: Một là không nghe tiếng tốt, hai là thường khởi lên sự đấu tranh.
Tội nói dua nịnh có thể khiến chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu được sinh làm người thì mắc phải hai quả báo: Một là lời nói không được tôn trọng; hai là ngôn ngữ không chân thật, không được người khác ưa thích.
Tội tham dục cũng khiến chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu được sinh làm người thì mắc phải hai quả báo: Một là không biết đủ, hai là thường sinh tâm tham lam.
Tội giận dữ cũng làm cho chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu được sinh làm người thì mắc phải hai quả báo: Một là tâm không được an ổn, hai là thường nghĩ đến sự tổn hại, không có tâm từ.
Tội tà kiến cũng khiến chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu được sinh làm người thì mắc phải hai quả báo: Một là thường sinh ở trong nhà tà kiến, hai là tâm luôn không dối trá.
Đại vương! Có vô lượng, vô biên đau khổ hội tụ như vậy đều do nguyên nhân tích tập của mười nghiệp bất thiện. Vì thế, Đại vương chớ nên buông thả, tự do làm nghiệp ác, mà phải nên quán các pháp hữu vi đều là vô thường, tất cả thế gian không thể bảo tồn mãi được. Nhân mạng vô thường chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi nhất, ngài chớ sinh ý tưởng thường còn.
Đại vương nên quán chiếu rằng: Từ xưa đến nay, ngay cả Thiên tôn, vương vị, đất nước, nhân dân đều phải chịu quy luật vô thường, không có một thứ gì tồn tại mãi mãi. Nên biết rằng, thân này không bền chắc, nó như sóng nắng, như tiếng vang, như tia chớp, như trăng trong nước, như bóng trong gương, như khối bọt nước, như bong bóng, như nước, như lõi cây chuối, như lửa trong đá mài ra, như thấy cảnh trong mộng, như nước lũ từ trong hang núi đổ xuống thật nhanh, lan khắp khe rãnh chỉ trong khoảng khắc để hết và khô cạn.
Đại vương! Cũng vậy, nhân mạng không bền vững, vô thường, chỉ trong chốc lát đã héo rụng, đến đời vị lai cũng không thể thoát khỏi. Vì thế, Đại vương chớ ỷ vào hiện tại, mà phải nên lo nghĩ đến tương lai.
Đại vương! Quả báo thiện ác cùng đi theo ta, như tiếng vang theo âm thanh, như bóng theo hình, không ai có thể thoát được. Cũng như cái vòng xích sắt, không có đầu mối chấm dứt. Chớ tùy ý gây nghiệp báo để rồi tự mình chuốc lấy khổ đau nặng nề.
Bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử nói kệ rằng:
Hỡi Đại vương từ nay
Chớ nên hành phóng dật
Nếu không bỏ điều ác
Chết ắt đọa địa ngục
Người làm các điều ác
Nhất định xuống địa ngục
Giữ tâm không phóng dật
Sinh chỗ trời Đế Thích
Tất cả các chúng sinh
Ai cũng yêu mạng sống
Nếu vua cầu sống mãi
Không nên gây giết hại
Đại vương biết, người đời
Gian khổ đoạt của cải
Thường lo không sống được
Không nên nghĩ chiếm đoạt
Vì không có chiếm đoạt
Sinh nơi thường giàu có
Nếu có xâm phạm người
Thường sinh nhà nghèo khó
Đứng đắn chớ dâm người
Biết đủ với vợ mình
Cho nên yêu vợ mình
Chớ xâm phạm vợ người
Không nói lời dối trá
Thường nghĩ lời chân thật
Nói thật sinh Đế Thích
Nói dối sinh ngạ quỷ
Thường nghĩ lìa hai lưỡi
Hòa hợp người chưa rõ
Quyến thuộc thường hòa thuận
Qua đời sinh Phạm thiên
Phát ngôn chớ thô ác
Nói ra người thích nghe
Lời thiện sinh cõi trời
Thường nghe tiếng vi diệu
Nghĩ lìa lời phù phiếm
Khéo nhớ lời tốt đẹp
Phước báo sinh Đế Thích
Chư Thiên kính thọ giáo
Nếu muốn mình lợi ích
Chớ xâm phạm của người
Sinh tham đời sau bị
Tiền tài thuộc năm nhà
Nếu không tu Từ bi
Hay buông tâm giận, hại
Tuy làm các hạnh tốt
Chết đọa chốn địa ngục
Nay đại vương phải nên
Từ bỏ giận, dữ, ngu
Thường thương yêu chúng sinh
Chớ sinh giận dữ hại
Vua nên bỏ tà kiến
Tâm chánh kiến vững chắc
Thường giữ pháp thanh tịnh
Cõi trời thọ thân vui
Tỳ-kheo tu phạm hạnh
Hãy nên thường cúng dường
Bởi thế, bỏ đường ác
Hưởng vui ở cõi trời.
Bấy giờ, Đại Tát-già Ni-kiền Tử thăm hỏi nhà vua và nói cho vua Nghiêm Sí những pháp tương ứng với không phóng dật và mười thiện nghiệp, rồi im lặng.
Bấy giờ, quốc vương Nghiêm Sí nghe Đại Tátgià Ni-kiền Tử nói chánh pháp rồi, rất vui mừng tin nhận. Ngay lúc đó, nhà vua hỏi Đại Tát-già Nikiền Tử:
–Đại Tát-già từ nơi xa xôi đến giáo hóa chúng sinh, trên đường nhiều hiểm trở, không biết Đại sư thân thể, khí lực có an ổn không? Chúng sinh dễ giáo hóa không? Các đại đệ tử có thực hành theo lời dạy của Đại sư không? Hân hạnh, nhờ Đại sư không chê đất nước của con nên được phụng kiến và được nghe chánh pháp, trong lòng vô cùng vui sướng. Như được gặp mẹ hiền, như đói được thức ăn, như khát gặp nước, như trần truồng gặp y phục, như người nghèo gặp của báu, như lúc nóng gặp mát, như lạnh gặp lửa, như mù được thấy, như điếc được nghe, như kẻ ngồi tù được phóng thích, như bần tiện được tôn quý, như kẻ lạc đường được trở về, như người học trò gặp được thầy. Lòng con vui sướng cũng như thế.
Thưa Đại sư! Từ xưa tới nay, con cứ nghĩ rằng: “Chánh pháp khó được nghe, thầy giỏi khó gặp, thân người khó được, các căn khó vẹn toàn, chánh kiến khó sinh, lòng tin khó phát, khó được hội họp, tự do khó được, thái bình khó gặp.” Như thế, những điều khó khăn ấy con đã vượt cả. Hôm nay gặp được Đại sư, như người vào biển muốn nhặt trân bảo liền gặp được một vùng báu lớn. Hôm nay con có sự nghi ngờ, xin được hỏi, cúi mong Đại sư thương xót giải quyết cho con!
Lúc ấy, Tát-già Ni-kiền Tử bảo vua Nghiêm Sí: –Nay nhà vua có điều gì nghi ngờ hãy cứ hỏi, ta sẽ phân biệt giải nói, khai thông, trừ hết sự nghi ngờ để nhà vua được hiểu rõ.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí thấy Tát-già Ni-kiền Tử đã cho phép mình hỏi, trong lòng rất vui mừng rồi đưa ra điều nghi vấn:
–Thưa Đại sư! Những gì là sinh pháp? Những gì là trụ trì? Ở trong những pháp nào mà có tên này?
Đại Tát-già Ni-kiền Tử đáp:
–Đại vương nên biết! Gọi là sinh nghĩa là các chúng sinh; nói trụ trì nghĩa là các quốc độ thế giới. Nói chúng sinh nghĩa là năm thủ ấm. Như vậy, những pháp nào gọi là năm thủ ấm? Đó là sắc thủ ấm, thọ thủ ấm, tưởng thủ ấm, hành thủ ấm và thức thủ ấm. Đại vương! Dựa vào năm pháp này gọi là chúng sinh, gọi là khí thế gian. Nói đến chúng sinh nghĩa là bao gồm bốn loại sinh: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh. Nói khí thế gian nghĩa là bao gồm hư không, đất, nước, gió và lửa.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Ai có khả năng che chở cho tất cả chúng sinh và ai có thể giữ gìn giới này?
Đáp:
–Này Đại vương! Tất cả đều do quả báo nghiệp của chúng sinh và năng lực của nhà vua làm chủ quốc gia, với khả năng đó có thể giữ gìn.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vì sao do quả báo nghiệp chúng sinh có thể bảo hộ chúng sinh?
Đáp:
–Này Đại vương! Do năng lực báo tăng thượng của nghiệp mình cho nên sinh ở nơi tốt đẹp. Nhưng những chúng sinh ấy đối với các vật không có tâm nuối tiếc, giữ gìn; không sinh tâm đây, kia, ta, người. Bởi thế, tất cả các vật để sinh sống, không cần phải thêm công sức mà chỉ tùy theo ý nghĩ là được đầy đủ, đến trọn đời thường sống ở nơi an ổn, hưởng lạc. Lìa khỏi những đau khổ về bệnh thô như lạnh, nóng, đói khát và các thứ đau đớn hành hạ. Họ cũng không có ác tâm xâm lấn, gây thêm sự thiệt thòi cho nhau; cũng không có tâm lường gạt, dối trá nhau. Những thôn xóm, thành ấp đều có bảy báu trang nghiêm, họ thường đi lại ở trong cảnh giới thù thắng vi diệu; sống thọ đến một ngàn tuổi. Khi thọ mạng của họ hết, liền xả thân sinh lên cõi trời hưởng lạc trong đường thiện. Như thế, những chúng sinh này được nghiệp Uất-đơn-việt hộ trì.
Đại vương nên biết! Lại có chúng sinh nhờ năng lực quả báo nghiệp của chính mình, nên được sinh ở nơi thù thắng, thân có ánh sáng, bay trên hư không, lấy niềm vui ở trong thiền định làm món ăn ngon bổ, không sinh vào thai, tuổi thọ vô lượng, sống ở thế gian mãi mãi. Đây gọi là kiếp đầu của chúng sinh.
Đại vương nên biết! Lại có chúng sinh nhờ vào nhân năng lực nghiệp báo của họ trong quá khứ, có công đức thù thắng nên sinh ở trong thế gian, có tâm kính trọng cha mẹ và những bậc trưởng thượng trong gia tộc, cùng các Sa-môn, người tu tịnh hạnh, lấy đó làm ruộng phước. Họ thường làm các việc thiện, làm điều đáng thì nên làm, bỏ hạnh ác, thường thọ trì tốt năm giới và tám giới, thực hành bố thí, tích chứa phước đức. Đây là những chúng sinh có thiện căn ở kiếp thứ hai. Đại vương! Bấy giờ, chúng sinh thiện căn đầy đủ, không khởi lên những điều ác, cho nên thế gian chưa lập vương pháp. Vì thế, gọi là tự nghiệp quả báo có thể che chở chúng sinh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Được nghiệp bảo hộ như thế con đã biết rồi. Vì sao gọi là năng lực của một người làm chủ đất nước có thể bảo hộ chúng sinh?
Đáp:
–Này Đại vương! Các vua chúng sinh là người làm chủ của chúng sinh mà năng lực của các vị ấy có thể che chở cho chúng sinh.
Nhà vua hỏi:
–Những vị ấy, sao gọi là vua?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Vua là cha mẹ của dân. Vì dựa vào phép tắc để bảo hộ chúng sinh, khiến cho họ được sống an lạc, nên gọi là vua. Đại vương! Nhà vua nuôi dưỡng dân như con đỏ, đưa họ từ nơi ẩm ướt đến chỗ khô ráo, không chờ họ kêu gọi. Vì sao? Đại vương nên biết! Vua được đứng vững là nhờ lấy dân làm nền tảng. Tâm nhân dân một khi đã không yên ổn thì nước ắt sẽ diệt vong. Vì thế, nhà vua phải nghĩ đến nhân dân như con đỏ, không bỏ tâm niệm ấy. Phải biết khổ, vui của người dân trong nước, làm việc kịp thời; biết lũ lụt, khô hạn, biết gió, mưa; biết nóng và không nóng; biết thời thịnh vượng, biết nơi thiếu thốn, biết có, biết không; biết buồn, biết vui; biết già, biết trẻ; biết bệnh, biết không bệnh của người dân. Nhà vua phải biết đúng các việc kiện tụng, biết có tội, hay không tội; biết nhẹ hay nặng. Đối với các vương tử, đại thần và các quan, phải biết người có công và người không có công. Người biết như vậy gọi là không lìa tâm.
Đại vương! Người làm vua khi đã biết trong nước như thế, rồi đem khả năng giúp đỡ. Người nên cho thì cấp cho kịp thời, người nên thu thì phải suy nghĩ kỹ. Sai khiến biết đúng thời, không đoạt danh lợi, phải nghiêm ngặt đối với kẻ tham nhũng để nhân dân được yên ổn. Đó là người giúp đỡ, cũng gọi là vua.
Đại vương nên biết! Vua có bốn hạng:
1. Vua Chuyển luân.
2. Vua của từng quốc độ.
3. Vua chư hầu.
4. Vua biên địa.
Vua Chuyển luân nghĩa là vua Sát-lợi có quán đảnh, quán xuyến bốn châu thiên hạ, là bậc Pháp vương độc tôn tối thắng cao quý nhất giữ gìn pháp.
Vua Chuyển luân ấy có đầy đủ bảy báu:
1. Báu phu nhân.
2. Báu Ma-ni.
3. Xe báu.
4. Voi báu.
5. Ngựa báu.
6. Đại thần báu.
7. Chủ kho báu.
Vua Chuyển luân ấy đã có đầy đủ bảy báu, đi khắp mọi nơi không có ai đối địch, không có người oán ghét, không có điều buồn phiền, không dùng các loại binh khí. Chỉ dựa vào chánh pháp, bình đẳng không thiên vị để an ủi và thu phục.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vì sao gọi Chuyển luân thánh vương là người thống lãnh bốn cõi?
Đáp:
–Này Đại vương! Vì vua ấy có quyền lực khắp bốn châu thiên hạ vậy!
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vì sao gọi vua ấy là bậc cao quý tối thắng nhất?
Đáp:
–Đại vương! Vì lệnh của vua Chuyển luân thánh không ai dám chống lại.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vì sao gọi vua ấy là vị Hộ pháp? Đáp:
–Đại vương! Vì vua ấy tu theo mười pháp thiện, không làm theo tà pháp, giết hại… nên gọi là Hộ pháp.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Tại sao gọi là Pháp vương?
Đáp:
–Này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh dùng mười pháp thiện giáo hóa bốn châu thiên hạ, khiến cho tất cả đều giữ gìn, xa lìa mười nghiệp ác, thực hành mười pháp thiện đầy đủ và thành tựu, nên được gọi là Pháp vương.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì mà được đệ nhất phu nhân, và vì sao được thành tựu?
Đáp:
–Này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ nghiệp bất thiện, cho nên được báu phu nhân cùng ở bên mình thọ hưởng niềm vui tối thắng, đó gọi là thành tựu. Vì sao gọi là thọ hưởng niềm vui tối thắng? Đại vương! Phu nhân của vua Chuyển luân thánh ấy trong thân toát ra hương Chiên-đàn vi diệu vô giá; hơi trong miệng thường bay ra hương vô giá của loài hoa Ưu-bát-la; thân thể mềm mại như chim Ca-lănggià. Nếu có loài chúng sinh khác xúc phạm vào thân chim Ca-lăng-già ấy thì thân thể vĩnh viễn không còn mỏi mệt nữa, xa lìa sự đói khát cùng với những nỗi lo âu, buồn phiền; được thọ hưởng sự vui sướng vô cùng tối thắng. Cũng vậy, vua Chuyển luân thánh gặp phu nhân ấy cũng thọ hưởng vui sướng.
Đại vương nên biết! Thân thể phu nhân ấy, lúc thời tiết lạnh có thể làm cho ấm áp, khi thời tiết nóng có thể làm cho mát mẽ. Tay của những người trong thế gian không thể đụng chạm đến thân của phu nhân. Vì sao? Vì nhờ thiện căn, xa lìa tâm tham dục và nghiệp bất thiện. Tất cả chúng sinh chỉ quan sát, kính trọng, như mẹ, như con gái, như chị em. Nhưng phu nhân ấy phát sinh ba tâm đối với vua Chuyển luân thánh:
1. Tâm thường tôn trọng vua, không sinh tâm khác.
2. Tâm thường cung kính vua.
3. Tâm thường nghĩ đến vua Chuyển luân. Vì sao thế? Vì đã xa lìa tâm tham dục cấu bẩn.
Lại nữa, này Đại vương! Phu nhân báu của vua Chuyển luân đã xa lìa năm loại pháp ác của người nữ:
1. Lìa tâm hời hợt không có chí hướng của người nữ.
2. Lìa tâm ham muốn người nam khác.
3. Xa lìa tâm keo kiệt, ghen ghét.
4. Đối với chỗ phi xứ xa lìa tâm dâm dục điên đảo.
5. Khi vua Chuyển luân thánh lâm chung thì người ấy cũng đi theo.
Đại vương! Phu nhân báu ấy có năm công đức:
1. Biết nghĩ đúng với tâm của nhà vua.
2. Có thể sinh đầy đủ ngàn người con.
3. Tự nhiên dòng họ được tôn quý.
4. Làm cho chỗ ở đầy đủ tất cả vật dụng.
5. Nếu khi nhà vua cùng với người nữ khác thụ hưởng dục lạc thì không phát sinh tâm ghen ghét, sân hận.
Đại vương! Phu nhân của vua Chuyển luân thánh ấy đã thành tựu ba công đức.
1. Không nói lời ác.
2. Không tà kiến.
3. Nếu vua đi nơi khác thì không ở trong cảnh giới ngũ dục và không động tâm.
Đại vương! Phu nhân của vua Chuyển luân thánh khi xả thân sẽ sinh lên cõi trời. Vì sao? Vì đã lìa khỏi tham dục, ghen ghét, đó gọi là công đức của phu nhân vua Chuyển luân thánh là như vậy, khiến cho nhà vua hưởng vui tối thắng hơn hết.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được báu Ma-ni ấy?
Đáp:
–Này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện, nên được ngọc báu Ma-ni thứ hai, được thọ hưởng ánh sáng tối thắng và vật dụng an lạc tối thượng. Vì sao tối thắng? Đại vương nên biết! Vì ngọc báu Ma-ni của vua Chuyển luân thánh có tám công đức:
1. Ngọc báu Ma-ni ấy, khi trong đêm tối thì phóng ra ánh sáng lớn, như trăng rằm vào mùa thu; ánh sáng có thể chiếu đến một trăm do tuần. Đến mùa hè chúng sinh bị nóng bức, nhờ ánh sáng báu Ma-ni chiếu đến, thân thể khi tiếp xúc thì được mát mẽ.
2. Nếu vua Chuyển luân thánh đi ở trong đồng vắng, chỗ không có nước, lại gặp các chúng sinh đói khát, báu Ma-ni ấy sẽ phóng ra nước công đức có đầy đủ tám vị thì không còn đói khát.
3. Khi vua Chuyển luân thánh cần điều gì thì tất cả đều phát ra từ báu Ma-ni.
4. Báu Ma-ni có tám cạnh, trong mỗi cạnh phát ra các thứ ánh sáng, như xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, hồng, tía.
5. Báu Ma-ni kia đặt ở đâu thì chúng sinh ở xung quanh trong khoảng một trăm do-tuần đều được xa lìa những khổ đau, bệnh tật, thường định tâm, làm những điều thiện đều có kết quả.
6. Báu Ma-ni ở cảnh giới nào thì không có các loài rồng phóng ra khí độc, sấm chớp, gió dữ, mưa lâu ngày làm tổn hại chúng sinh.
7. Khi nước ở tất cả núi, sông, khe, hang, rãnh, suối khô cạn, ngọc ma-ni làm cho nó được hồi phục trở lại. Khi rừng cây, hoa quả bị khô héo, có thể khiến cho tươi tốt phồn thịnh, hoa ở trong ao và rừng tất cả đều đầy đủ.
8. Báu Ma-ni ở chỗ nào thì chỗ đó người dân không có đau ốm, bệnh tật, bị những chất độc hay chết, và cho đến không bị các loài súc sinh cọp, chó sói, sư tử, rắn, chuột, mèo, hồ ly, chim cắt, diều hâu cùng ăn chung một thức ăn, không sinh tâm hại nhau.
Lại nữa, này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh có đủ ngàn người con, thân thể cao lớn, khỏe mạnh, hùng dũng, có tài sức xuất chúng, chinh phục thế gian, vâng lời vua dạy, có thể giữ gìn đại pháp, thực hành theo pháp, tâm thương yêu tất cả chúng sinh. Đó là nhờ công dụng báu Ma-ni của vua Chuyển luân thánh khiến cho nhà vua hưởng thọ niềm vui tối thượng thù thắng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được xe báu thứ ba?
Đáp:
–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ xa lìa tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được xe báu ấy. Xe báu đi đến chỗ nào thì chinh phục tất cả, được vui đại thắng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là được vui đại thắng?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Xe báu của vua Chuyển luân thánh, có đầy đủ năm công đức:
1. Xe báu kia toàn thân bằng vàng Diêm-phùđàn, có đầy đủ ngàn căm, lớn năm do-tuần, hiển hiện ở thế gian như mặt trời thứ hai.
2. Xe báu kia bay thẳng lên hư không không bị chướng ngại, một ngày có thể đi tám ngàn do-tuần.
3. Tùy theo suy nghĩ của vua Chuyển luân thánh, muốn đi đến chỗ Tứ Thiên vương, đi đến bốn châu thiên hạ, Nam Diêm-phù-đề, Tây Cù-giàni, Bắc Uất-đơn-việt, Đông Phất-ba-đề. Khi đó, tùy theo suy nghĩ của nhà vua liền bay lên hư không đi về phía trước. Nương vào năng lực của bánh xe kia, bốn đội binh voi, ngựa, xe, bộ tất cả đều bay vụt lên hư không.
4. Chỗ nào không phục tùng theo vua Chuyển luân thánh, theo sự suy nghĩ của nhà vua, xe báu kia liền bay đến khiến cho họ phải quy phục.
5. Sức mạnh của xe báu kia không có đối thủ, tất cả vua nhỏ thấy nó đều hàng phục. Vì vua Chuyển luân thánh nương vào pháp mà tu hành, lìa bỏ tâm giận dữ.
Đó gọi là công dụng của xe báu của vua Chuyển luân thánh, làm cho nhà vua hưởng thọ niềm vui đại thắng tối thượng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được voi báu thứ tư?
Đáp:
–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được voi báu, hưởng thọ niềm vui ở cỗ xe tối thắng đệ nhất.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là niềm vui ở trên cổ xe tối thắng.
Đáp:
–Đại vương nên biết! Voi báu lớn kia, giống như con ngựa tốt đã được điều phục thuần thục, dùng nó đi chinh phục các nước khác. Nó có đầy đủ bảy chi vững vàng là: bốn chân, vòi, âm căn và đuôi. Bảy chi ấy trụ vững vàng và rất hùng mạnh, sức lực có thể địch nổi đến mấy ngàn con voi bình thường. Nó có màu trắng giống như tuyết, như voi Y-ta, Ba-la của trời Đế Thích. Tất cả các con voi thường không thể xuất hiện đến trước mặt nó ngửi hương. Đại vương! Con voi kia có khả năng sử dụng tự do ở ba nơi là trên không, đường bộ và đường thủy. Voi ấy đi rất nhanh, một ngày đi quanh Diêm-phù-đề ba vòng.
Đại vương nên biết! Khi vua Chuyển luân cỡi trên voi chúa, nó biết được tâm của nhà vua và đi theo sự suy nghĩ đó. Nó đi rất vững vàng, giống như ngỗng chúa, không nhanh, không chậm, không cong quẹo, không ngang ngược. Người nếu đi cùng đường với nó thì nó không làm người ta sợ, cho đến ngay cả người phụ nữ nào xúc phạm đến nó thì nó cũng không giận dữ. Nhưng khi chiến đấu thì nó thể hiện tướng vô cùng hung dữ, không ai dám đến gần. Lúc bình thường, đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, ăn đều do chủ điều khiển, chỉ dùng sợi dây như sợi tơ là dẫn nó đi, thuận theo không trái lệnh.
Đó là voi báu của vua Chuyển luân thánh sử dụng, khiến cho nhà vua thọ hưởng niềm vui tối thắng khi cỡi nó.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được ngựa báu thứ năm?
Đáp:
–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được ngựa báu, hưởng thọ niềm vui tối thượng nhanh chóng khi cỡi lên nó.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là rất nhanh chóng?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Ngựa báu kia có màu sắc trắng như hoa Câu-nâu-đầu, có những xoáy tròn như cõi trời khắp toàn thân. Thân thể không lớn, không nhỏ, không cao, không thấp, rất sung mãn, tâm tánh thuần hậu rất dễ điều phục. Giống như ngựa Bà-la-hà của trời Đế Thích, tự do đi lại. Một ngày có thể đi quanh Diêm-phù-đề ba vòng không biết đến mệt mỏi. Đại vương! Đó gọi là công dụng ngựa báu của vua Chuyển luân thánh, khiến cho nhà vua hưởng thọ niềm vui nhanh chóng tối thượng khi cỡi trên nó.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được đại thần báu thứ sáu?
Đáp:
–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ nên được đại thần báu để nhà vua đi dạo chơi thoải mái, thọ hưởng niềm vui vô sự thù thắng đệ nhất.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là niềm vui vô sự thù thắng đệ nhất?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Các vị đại thần kia thay nhà vua xử lý đất nước như ý nghĩ của vua. Họ vì nước quên thân, không cầu tư lợi, nghĩ đến việc giúp đỡ trăm họ cũng như hộ vệ đôi mắt của mình. Làm việc theo ý của nhà vua; thực hiện ngay theo suy nghĩ không trở ngại, không lệ thuộc. Họ tu hành theo chánh đạo, từ bỏ phi pháp, tùy thời, tùy nơi không làm tổn hại. Y theo đúng mệnh lệnh của nhà vua thực hành mười pháp thiện, không trái điều thiện, không trái chánh pháp, không trái y nghĩa đúng pháp, đều thực hành đầy đủ tất cả. Đại vương! Như thế gọi là nhờ công dụng của đại thần báu của vua Chuyển luân thánh, làm cho nhà vua thọ hưởng niềm vui đệ nhất tối thắng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được làm chủ kho báu thứ bảy?
Đáp:
–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được làm chủ kho báu, thỏa mãn tâm nguyện nhà vua, yên ổn hưởng thọ vui sướng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là đầy đủ, thỏa mãn, yên ổn hưởng thọ sự vui sướng?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Chủ kho báu ấy có công đức rất lớn. Tất cả các núi lớn, khe sâu, hang tối, đồng hoang, sông, đầm, gò, đồng bằng, bến bãi, hầm hố, những chỗ cao thấp không bằng nhau, thì dùng các trân báu như báu Kim cương, báu Nhânđà-la, báu Ma-la-ca-đa, báu Mã não lấp đầy hết những nơi kia mà báu vẫn không hết; huống gì còn vàng bạc, lưu ly, pha lê không kể số lượng. Chủ kho báu ấy, tâm luôn luôn vui vẻ, không có thái độ dối trá, không có tướng hai lòng, không làm người khác buồn phiền, ai thấy cũng đều hoan hỷ.
Đại vương nên biết! Đó gọi là công dụng của vua Chuyển luân thánh làm chủ kho báu, khiến cho nhà vua vui sướng, thỏa mãn ước nguyện.
Đại vương nên biết! Vua Chuyển luân thánh nhờ có đầy đủ bảy báu như thế, cho nên vua trong bốn thiên hạ và các vua rồng, hai loại vua trời, là Tứ Thiên vương và cõi trời Tam thập tam, cùng với Đế Thích phân chia tòa ngồi. Họ nhờ từ bỏ sân hận, tâm ác, nghiệp bất thiện nên được đầy đủ bảy báu như thế, hưởng thọ niềm vui thù thắng, huống gì thực hành đầy đủ mười thiện nghiệp ư!
Đại vương nên biết! Vua Chuyển luân thánh còn có bảy thứ gọi là báu mềm mại, công đức của nó không bằng bảy báu ở trước. Bảy báu đó là:
1. Kiếm báu.
2. Da báu.
3. Giường báu.
4. Vườn báu.
5. Nhà báu.
6. Y phục báu.
7. Đầy đủ các đồ dùng báu.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là kiếm báu đệ nhất của vua Chuyển luân thánh, nó có công dụng như thế nào?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Kiếm báu ấy, các vua chư hầu trong nước của vua Chuyển luân thánh, nếu người nào có tâm niệm trái lệnh nhà vua thì ngay lúc ấy kiếm báu từ trên hư không bay đến nơi người ấy. Những Tiểu vương trông thấy liền quy phục, đảnh lễ kiếm báu, mà kiếm báu kia không khởi tâm giết hại. Cho nên đó được gọi là công đức kiếm báu của vua Chuyển luân thánh. Tất cả các quốc sĩ không cần dùng dao gậy, tự nhiên tuân theo.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là da báu của vua Chuyển luân thánh?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Da báu của vua Chuyển luân thánh chính là da của vua rồng lấy từ trong biển ra. Chủ thương buôn mang về từ trong biển lớn, dâng lên nhà vua Chuyển luân thánh. Tấm da báu ấy rộng trăm do-tuần, dài mười do-tuần. Thể chất của nó sạch sẽ, tinh khiết, chiếu sáng lóng lánh như mặt trời, lửa đốt không cháy, ngâm nước không mục, gió thổi bạt núi nhưng không lay động được nó, luôn điều hòa nhiệt độ, khử trừ nóng và lạnh. Khi nhà vua đi đến chỗ nào thì nó cũng đi theo đến đấy. Tùy theo số lượng binh lính của vua Chuyển luân thánh, da báu ấy trải rộng mười do tuần che khắp ở trên. Có thể làm nhà đầy đủ cho mọi người ở. Những người ấy đều ở riêng từng phòng, không trở ngại nhau. Đó là công dụng của công đức da báu.
Hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là giường báu của vua Chuyển luân thánh?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Giường báu của vua Chuyển luân thánh được kiến tạo rất bằng phẳng, vững chắc không lay động, không cao, không thấp; không rộng, không hẹp; không dài, không ngắn; không khôn, không điệt; không cứng, không mềm; không rít, không trơn mà chỉ mềm mại dịu dàng. Nếu khi nhà vua ngồi tọa thiền ở trên giường báu kia thì liền nhập vào thiền định Tam-muội giải thoát. Nếu khi nhà vua phát khởi tâm tham, sân, si ngồi trên giường báu kia thì tức thời liền chấm dứt. Người nữ nào thấy vua ngồi trên giường báu ấy thì liền từ bỏ tâm tham, sân, si. Đó là công dụng của công đức giường báu.
Hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là vườn báu của vua Chuyển luân thánh?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Nếu khi vua Chuyển luân thánh muốn nhập thiền định thì đi vào trong vườn ấy, liền được định tâm. Nếu lúc nhà vua muốn thọ hưởng năm thứ dục lạc, đi vào trong vườn ấy và nhờ công đức làm điều thiện của vua thì những thú vui của các cõi trời như hoa quả, các loài chim, nước suối, nước dòng, nước ao, nước sông và tất cả các nhạc cụ, kỹ nhạc, hát múa, xướng ca; những thứ kia đang ở nơi cõi trời tự nhiên biến mất rồi liền hiện ra trước mặt nhà vua. Khi đó, vua Chuyển luân hưởng thọ dục lạc cũng như các vị trời khác.
Đó là dụng của công đức vườn báu.
Hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là nhà báu của vua Chuyển luân thánh?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Nếu khi vua Chuyển luân thánh ngồi trong ngôi nhà ấy muốn thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao thì liền thấy được tất cả ngay trong ngôi nhà đó, và thấy được cả các thứ ngọc báu kỳ lạ của cung trời không trở ngại. Ở trong ngôi nhà này cũng nghe được các loại âm nhạc. Khi nghe những kỹ nhạc này thì buông bỏ những nỗi ưu phiền, mệt mỏi; ở trong giấc ngủ rất sảng khoái, rất hy hữu và có thể mơ thấy các điềm lành. Khi thời tiết lạnh thì lại ấm áp, gió thoang thoảng đưa hương thơm. Khi thời tiết nóng thì lại mát mẻ, gió nhè nhẹ thoảng đưa thật là thích thú và thọ hưởng sự vui sướng. Vào canh hai thì ngủ, canh ba thức dậy hưởng thọ pháp lạc, đến canh tư nói pháp giáo hóa. Đó là dụng của công đức nhà báu.
Hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là y báu của vua Chuyển luân thánh?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Y báu của vua Chuyển luân thánh không như tơ lụa, hay vải vóc ở thế gian, mà nó lại có những đường hoa văn ngang dọc rất tuyệt đẹp, cực kỳ mềm mại, tất cả trần cấu không thể làm nhiễm ô dù một tí nhỏ. Khi mặc y báu ấy thì không còn nóng, lạnh, đói khát, bệnh tật, buồn phiền, mỏi mệt. Đại vương! Y báu đó lửa không thể đốt cháy, dao cắt không đứt, nước ngậm không mục. Đó là dụng của công đức y báu.
Hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là vật dụng báu dưới của chân vua Chuyển luân thánh?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Vật dụng báu dưới chân của chân vua Chuyển luân thánh đó là đôi giày. Khi nhà vua mang nó vào đi trên nước cũng giống như đi trên đất, vào lửa không bị cháy giống như vào ao nước sạch sẽ, mát mẻ. Nhà vua muốn đi thưởng ngoạn, dù đi trăm ngàn do tuần cũng không cảm thấy mệt mỏi. Đó là dụng của công đức vật dụng báu dưới chân.
Đại vương! Đó là bảy thứ báu uyển chuyển của vua Chuyển luân thánh, đó chỉ là phần nhỏ quả báo, tập khí công đức trong mười điều thiện, chứ thực sự chưa nói đầy đủ quả báo của mười thiện nghiệp đạo.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào gọi là đi khắp trời đất không có đối địch?
Thế nào gọi là không có những mũi nhọn?
Thế nào là không có phiền não?
Thế nào là không có đao trượng?
Thế nào là nương theo chánh pháp?
Thế nào là bình đẳng?
Thế nào là an ủi những kẻ hàng phục?
Thế nào là không có sự buồn giận?
Đáp:
–Đại vương! Đi khắp trời đất không có đối địch, vì khắp mọi nơi đều được tự tại.
Không có những mũi nhọn là vì không có những mũi nhọn ác đối với xấu ác oán địch vậy.
Không có sự buồn giận, là vì không dùng sức mạnh, thế lực để uy hiếp người.
Không có binh khí, là vì từ bỏ dao gậy, không làm tổn hại.
Nương theo chánh pháp là vì xa lìa phi pháp tham, sân và si; thực hành theo chánh pháp, cải hóa ngu si tối tăm.
Bình đẳng là đem lòng thương đến khắp tất cả chúng sinh đều như nhau, như nghĩ đến một người con, không thiên vị ai.
An ủi kẻ hàng phục tức là như các vua khác nhau trong chúng sinh, mỗi người đều có phần đất làm chủ, không dời đổi, không chiếm đoạt, sống trong sự an ổn
Vì sao? Vì vua Chuyển luân thánh là vua trong bốn châu thiên hạ. Những thành ấp trong thời đại, trong xứ sở của vua Chuyển luân thánh đều có các vua nhỏ.
Những vị vua nhỏ này phải đón rước vua Chuyển luân thánh và tâu lên:
–Đại vương biết cho! Khắp mọi nơi trong bốn châu thiên hạ đều được yên ổn, đầy đủ, thịnh vượng và rất sung sướng. Như thế là không có bệnh tật; y phục, ăn uống tự nhiên đầy đủ, không có các sự đau khổ. Có rất nhiều các chúng sinh, nhân dân, voi, ngựa, tất cả đều đầy đủ, đều thuộc sở hữu của Đại thiên thánh, tùy ý nhà vua thọ dụng. Chúng con xin vâng theo lời dạy của Đại vương, không dám trái nghịch.
Bấy giờ, vua Chuyển luân bảo các vua:
–Này các chư hầu! Mỗi vị phải làm cho quốc gia của mình được thái bình. Ta đến là vì chư vị, chứ không vì đất nước. Các vị phải y theo chánh pháp cai quản và xây dựng đất nước, không theo tà pháp, phải có tâm bình đẳng, không thiên vị. Trong nước của các vị, nếu có tà pháp thì mau chóng trừ diệt đi, đó là tuân theo lệnh của ta, mới gọi là các vị yêu nước. Nếu không trừ diệt đi thì ta và các vị mắc tội rất nặng.
Đại vương nên biết! Như thế mới gọi là Chuyển luân thánh vương bảo hộ các chúng sinh.
Các tiểu vương là vua cai quản phần nhỏ, dưới vua cai quản phần nhỏ là vua ở biên địa. Hai hạng vua ấy đều tuân theo mệnh lệnh của vua Chuyển luân thánh. Đại vương nên biết! Như thế gọi là vua làm chủ quốc độ giáo hóa chúng sinh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Các tiểu vương khác, nương theo những pháp gì để cai trị đất nước, chăm lo đời sống nhân dân?
Đáp:
–Đại vương! Các vua nhỏ phải y theo pháp Vương luận, lấy đạo đức cai trị đất nước, bảo hộ các chúng sinh, trừ vua Chuyển luân. Vì sao? Khi vua Chuyển luân thánh xuất hiện ở thế gian, khi ấy các chúng sinh từ bỏ pháp bất thiện, tâm tham ác, lìa tâm tham điên đảo, lìa tâm tà kiến. Từ đó các quốc độ ấy không còn phi pháp, không có thợ săn, mổ giết… Vì sao? Vì họ sống theo vương pháp, nhận thức rõ ràng về tội và phước; đối với pháp không mê mờ, lầm lẫn, thực hành hợp với lý, không gây ra lỗi lầm.
Đại vương nên biết! Như thế, vua Chuyển luân thánh chỉ dựa theo công đức nghiệp lực của chính mình để bảo hộ thế gian. Lúc bấy giờ, các vua nhỏ bàn luận với nhau về những việc không nên làm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Ở trong thời kỳ nào, các tiểu vương thực hành pháp vương luận?
Đáp:
–Đại vương! Vào thời kỳ mạt pháp, vua Chuyển luân thánh ẩn mất, không xuất hiện, chánh pháp bị coi thường, chỉ thực hành theo tà pháp, khởi lên sự đấu tranh. Tâm chúng sinh xấu xa, phát sinh ba sự sai lầm:
1. Tâm tham ưa thích phi pháp.
2. Tâm tham khởi lên điên đảo.
3. Mạng lưới tà pháp che khuất tâm.
Những tiểu vương kia chính họ không có trí tuệ, đánh mất sự sáng suốt. Vì thế, Thánh nhân nói: “Các tiểu vương cai trị đất nước bằng luận pháp là thực hành chánh pháp và bảo hộ chúng sinh trong thế gian.”
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm tham ưa thích phi pháp?
Đáp:
–Đại vương! Đối với mười bất thiện nghiệp đạo mà sinh tâm ưa thích, đó gọi là tâm tham ưa thích phi pháp.
Hỏi:
–Thế nào là tâm tham điên đảo?
Đáp:
–Của cải do năng lực của chính mình làm ra, hoặc nhờ thời tiết mà có được, nhờ chánh pháp mà có được, nhờ như pháp mà được, nhưng tâm tham lam lại vô cùng, còn mong cầu của cải của người khác. Như vậy, gọi là tâm tham điên đảo.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm bị màng lưới tà kiến trói buộc?
Đáp:
– Đại vương! Đối với những lập luận không đúng của ngoại đạo mà lại khởi lên tưởng là luận đúng; đối với luân không lợi ích lại khởi tưởng lợi ích; đối với phi pháp mà khởi tưởng là chánh pháp. Vào đời mạt pháp, chẳng phải là bậc trí đã làm ra luận này mà lại cho là chánh luận rồi sinh lòng tin, tu tập theo tà kiến cho là được phước. Đó gọi là màng lưới tà pháp che khuất tâm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Những pháp nào gọi là Vương luận? Nay các tiểu vương theo pháp luận này để cai trị đất nước, dạy dỗ nhân dân, đó có thể bảo hộ chúng sinh như pháp chăng?
Đáp:
–Đại vương! Lìa bỏ các tâm tham dục điên đảo, lìa bỏ các tâm giận dữ điên đảo, lìa bỏ các tâm ngu si điên đảo, nương theo đối trị, nương theo thật thể, nương theo sai biệt, nương theo lợi ích. Nương theo đối trị, nương theo thật thể là thiện căn không tham, không sân và không si. Vì sao có thể phát khởi pháp bị đối trị và pháp đối trị? Pháp bị đối trị là tâm buông thả và tâm không từ bi. Pháp để đối trị là nhà vua thực hành pháp hạnh, tâm vua không buông thả. Có Từ bi rộng lớn, biết thân là vô thường, của cải là vô thường, khéo tự quán sát thân thấy nhiều lỗi lầm; có thể biết như thật, thấy như thật, từ bỏ thọ hưởng của cải, thực hành pháp hạnh của vua; dẫu được tự do nhưng không làm phi pháp. Như thế gọi là tâm không buông lung.
Đại vương nên biết! Theo pháp luận của vương pháp, không nên được vật, được thì không nên lấy; chỗ đáng được nhưng chẳng phải thời thì không lấy. Nếu theo thời tiết, vật đáng được nhưng đối với người nghèo khổ thì không nên cưỡng ép lấy. Cho đến như nạn nguy hiểm, nạn giặc cướp, nạn phản nghịch, nạn tàn sát lẫn nhau, khi có những nạn như thế nên khởi lòng Từ, không xa lánh sự nguy hại để bảo hộ các chúng sinh. Đối với những người nghèo khổ nên ban phát cho họ cơm ăn, áo mặc; đối với người làm ác thì dùng pháp thiện dạy bảo họ. Đó gọi là lòng Từ.
Đại vương nên biết! Nương theo hai pháp này gọi là vua thực hành pháp hạnh, đúng là bảo hộ chúng sinh, tâm không buông thả, tâm Từ bi rộng lớn.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh thì phải có lòng Từ bi. Như thế làm sao xử trị những chúng sinh ác hạnh kia?
Đáp:
–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh, nếu muốn tự phạt những chúng sinh ác hạnh kia, trước hết phải khởi tâm Từ, dùng trí tuệ quán sát, suy nghĩ về năm pháp rồi sau đó mới trị phạt.
Năm pháp đó là:
1. Dựa theo sự thật, chẳng phải không thật.
2. Dựa theo thời, chẳng phải không đúng thời.
3. Theo nghĩa, chẳng phải vô nghĩa.
4. Phải nói những lời từ tốn, không nên nói những lời thô thác.
5. Nương theo lòng Từ bi, chẳng phải tâm giận dữ.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là y theo sự thật, chẳng phải không thật?
Đáp:
–Đại vương! Phải nên như pháp mà tra hỏi, căn cứ vào lời họ tự khai rồi y theo đúng tội trị phạt họ, chứ không theo điều không thật. Đó gọi là y theo sự thật chẳng phải không thật.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là y theo thời, chẳng phải không đúng thời?
Đáp:
–Đại vương! Khi nhà vua có năng lực, người kia trái lệnh vua thì nên trị tội người ấy. Nếu nhà vua không có năng lực thì nên dừng lại không trị.
Đó gọi là y theo thời, chẳng phải không đúng thời. Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là y theo nghĩa, chẳng phải vô nghĩa?
Đáp:
–Đại vương! Nên hỏi người đối địch rằng họ gây nên tội lỗi với tâm như thế nào? Nếu phát xuất từ tâm ác thì nên như pháp mà trị, còn nếu chẳng tâm ác thì không nên trị tội. Đó gọi là dựa theo nghĩa, chẳng phải vô nghĩa.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là lời nói từ tốn, không nói những lời thô ác?
Đáp:
–Đại vương! Khi biết chúng sinh này đã phạm vương pháp, nhưng chỉ quở trách không cần trị phạt gì cả, nên như tội ấy khai báo đúng không che dấu, khéo nói những lời hòa thuận, khéo nói lời nhã nhặn, quở trách như thế mới đúng là quở trách. Đó là gọi là lời nói không thô thác.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm Từ chẳng phải tâm giận dữ?
Đáp:
–Đại vương! Người trí biết tội này không chỉ quở trách, nhưng phán xét tội này đáng bị tử hình thì không được chặt tay, chân, móc mắt, cắt tai, mũi, lưỡi, mà nên y theo tâm đại Từ bi ra lệnh bắt nhốt họ vào nhà lao; hoặc gông, cùm, trói, đánh; dùng những lời lẽ để trách mắng; lấy hết của cải đuổi đi nơi khác. Làm như vậy là để họ hối cải, chẳng phải đem lòng ác từ bỏ chúng sinh này. Đó gọi là tâm Từ, chẳng phải tâm giận dữ.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vì sao vua thực hành pháp hạnh trói nhốt, đánh đập, làm khổ những chúng sinh khác như thế, mà lại còn nói là có lòng đại Từ bi?
Hai điều này đều mâu thuẫn nhau.
Vậy, thế nào là vua thực hành pháp hạnh?
Bấy giờ, Đại Tát-già Ni-kiền Tử nói:
–Đại vương! Theo như nghĩa ở trên, nay ta nói với ông ví dụ này: Ví như cha mẹ có một người con làm điều ác. Vì nghĩ đến con, muốn để nó ăn năn hối cải nên buộc lòng phải trị phạt thật. Ngoại trừ ra không giết, không đoạn dứt các chi phần trên thân thể, mà chỉ trị phạt bằng cách trách mắng, đánh đập, tùy theo tội đó mà trị thật nặng. Đó không thể gọi là vô lương tâm, tâm ác hay tâm làm hại mà chỉ vì quá thương đến con nên phải làm như thế để khiến nó hối cải không tiếp tục làm ác nữa. Người cha mẹ ấy không thể gọi là phi pháp mà gọi là nghĩ đến con, không đánh mất tâm Từ.
Đại vương nên biết! Vua thực hành pháp hạnh phải trị phạt tất cả những chúng sinh làm việc ác cũng như vậy. Với lòng Từ sâu nặng, vì khiến người ác hối cải, tuyệt đối không tử hình, không hủy hoại thân thể. Vì lòng Từ, lòng Bi nên giam cầm, đánh, trói, mắng nhiếc, thu lấy của cải, đuổi đi nơi khác. Đó là muốn khiến cho họ hối cải, bỏ điều ác, làm điều thiện, và cũng khiến những chúng sinh khác có ý nghĩ ác thì không làm phi pháp. Đấy chẳng phải chỉ bình thường đối với tâm ác bỏ những chúng sinh này, cũng không cố tâm làm cho chúng sinh đau khổ và hành hạ họ. Đó là vua thực hành pháp hạnh, vì lòng Từ bi buông ra những lời nói không tốt đẹp để trị tội chúng sinh.
Vì thế, hai hành động này tuy là mâu thuẫn nhau nhưng không trái ngược nhau.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Những chúng sinh nào là ác hạnh?
Đáp:
– Đại vương! Chúng sinh ác hạnh nói sơ lược có năm hạng:
1. Chúng sinh đó đối với vua không có lợi ích.
2. Những chúng sinh đó cùng nhau tụ họp làm những việc không lợi ích.
3. Chúng sinh ấy khởi lên sự chống đối.
4. Chúng sinh tà hạnh.
5. Chúng sinh tà mạng.
Đại vương nên biết! Những chúng sinh đối với nhà vua không lợi ích có mười một hạng:
1. Chúng sinh đó chống đối nhà vua.
2. Chúng sinh đó dạy người khác làm phản.
3. Chúng sinh đó cho nhà vua uống thuốc độc.
4. Chúng sinh đó cướp đoạt của cải của nhà vua.
5. Chúng sinh đó phá hoại những công việc của nhà vua đang làm.
6. Chúng sinh đó xâm phạm hoàng hậu và cung nữ của nhà vua.
7. Chúng sinh đó trái với mệnh lệnh của nhà vua.
8. Chúng sinh đó tiết lộ bí mật của nhà vua.
9. Chúng sinh đó dò xét đất nước.
10. Chúng sinh đó chửi mắng nhà vua.
11. Chúng sinh đó nói xấu hủy nhục nhà vua.
Như vậy, này Đại vương! Đó là những chúng sinh đối với nhà vua không có lợi ích.
Đại vương nên biết! Những chúng sinh cùng nhau tụ họp làm những việc không có lợi ích, có mười hạng:
1. Những chúng sinh tụ họp giết hại lẫn nhau.
2. Những chúng sinh tụ họp cướp đoạt của nhau.
3. Những chúng sinh tụ họp xâm chiếm vợ của nhau.
4. Những chúng sinh dối trá làm chứng cho người khác.
5. Chúng sinh đó không thật, lừa dối người khác.
6. Những chúng sinh đó phá sự thân thiết bạn bè của người khác.
7. Những chúng sinh đó dùng lời ác khẩu mạt sát người khác.
8. Những chúng sinh đó hành ác nghiệp, cân đo đong đếm luôn lường gạt, thu góp của người khác.
9. Những chúng sinh đó tụ họp để hủy báng nhau.
10. Những chúng sinh đó tụ họp thiêu đốt lẫn nhau.
Đại vương! Đó là những chúng sinh quây quần, tụ họp làm những việc không có lợi ích.
Đại vương nên biết! Những chúng sinh phản nghịch, nghĩa là các tiểu vương ở biên địa, thành ấp, hoặc chủ tụ lạc… không tuân mệnh lệnh căn bản của Đại vương đã đưa ra. Đó gọi là những chúng sinh phản nghịch.
Đại vương nên biết! Những chúng sinh tà hạnh là những chúng sinh không có giới. Sao gọi là không có giới? Chúng sinh đó có đầy đủ luật nghi ác, như làm đồ tể, thợ săn, nuôi heo, dê, gà, chó, ngỗng, vịt, mèo, hồ, chim, cú, diều; dùng câu bắt cá, ba ba; giăng lưới, đào hầm, đốt lửa, tên độc để đánh bắt cầm thú, giết hại người khác. Tự mình buông lung làm những việc độc ác. Đó là những chúng sinh có hạnh sai trái.
Đại vương nên biết! Những chúng sinh tà mạng là những chúng sinh đó tuy đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, từ bỏ các thứ của cải, tu hạnh không tham đắm, mặc những thứ y phục khác đời, nhưng lại không có giới, khởi lên tà kiến, làm những việc lạ lùng, tìm mọi phương tiện để cầu lợi dưỡng, đời sống không đúng với chánh pháp; tất cả những ý nghĩ và hành động của họ đều không có trong chánh pháp. Đó là những chúng sinh có đời sống sai trái. Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vì sao vua thực hành pháp hạnh lại tự phạt năm hạng chúng sinh kia?
Đáp:
–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt tội nhân kia, nhưng không tử hình, không thi hành những hình phạt hủy hoại thân thể như móc mắt, cắt tai, mũi, lưỡi, tay chân. Có ba hình thức trị phạt:
1. Trị tội bằng cách quở trách.
2. Trị tội bằng cách tịch thu tài sản của người đó.
3. Trị tội bằng cách dùng dây trói nhốt vào lao, hoặc gông cùm, đánh đập, trách mắng rồi đuổi đi.
Tùy theo những việc làm ác của chúng sinh kia thuộc tội nặng, vừa hay nhẹ mà tự phạt họ trong ba phương pháp này. Đó là vua thực hành pháp hạnh trị phạt năm loại chúng sinh làm ác kia.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh lại trị phạt những chúng sinh đối với nhà vua không có lợi ích như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Những tội nhân như thế, trị tội bằng cách không tử hình, không hủy hoại thân thể mà được dùng dây trói, nhốt vào nhà lao, gông cùm, đánh đập, tịch thu tài sản, đuổi đi nơi khác. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh đối với nhà vua không có lợi ích.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt những chúng sinh cùng nhau tụ họp làm việc không lợi ích như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Ngoài việc không tử hình, không hủy hoại thân thể ra, họ được dùng dây trói, nhốt vào nhà lao, gông cùm, đánh đập. Không nên đoạt hết tất cả tài sản của họ, mà trong sáu phần chỉ tịch thu một phần rồi đuổi đi nơi khác. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh cùng nhau tụ họp làm việc không lợi ích kia.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt những chúng sinh nổi lên chống đối nhà vua kia như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh, trước hết dùng lời nói tốt đẹp như pháp hướng dẫn chỉ dạy họ. Nếu họ nghe theo lệnh vua liền bỏ tâm chống đối, xin vua trị tội mình thì vua nên ban bố đại ân, tha thứ trọng tội cho họ; dựa vào nơi quốc thổ mà nhà vua quản lý, không giảm, không đoạt, không đuổi đi. Vì sao? Vì để họ biết vua có ba việc:
1. Có tánh.
2. Có ân.
3. Có thế lực mạnh.
Để những người chưa hàng phục khiến họ hàng phục, người đã hàng phục khiến họ không làm nữa, người có ý đồ chống lại khiến họ không dám phát khởi.
Đại vương nên biết! Những người có tội kia được miễn tội, họ trở lại kính phục nhà vua, nhân dân an ổn. Nhà vua như pháp kia được phước vô lượng, tiếng tốt lưu truyền khắp nơi. Nếu như người có tội ấy khi nghe lệnh của nhà vua mà không chịu nhận tội thì nên tăng thêm hình phạt nặng, nhưng không được tử hình, không được hủy hoại thân thể, chỉ tịch thu hết tài sản, quốc độ nhân dân và đuổi đến nơi khác. Vì sao? Vì khiến những chúng sinh khác không còn nổi lên phản nghịch. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh, trị phạt những chúng sinh phản nghịch.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, trị tội những chúng sinh tà hạnh như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Người ác như vậy, không tử hình, không hủy hoại các chi tiết trên thân, không được đuổi đi, không được tịch thu tài sản của người đó, mà chỉ trách mắng để trị tội, và nói như thế này: “Nếu còn làm việc như thế, sẽ bị tội nặng”. Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh tà hạnh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt những chúng sinh có đời sống sai trái như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Phải nên tùy thuận chúng Tăng như pháp, nếu vị Tỳ-kheo kia phá giới tà kiến, không theo chánh pháp, như thật để tu hành. Tỳkheo sống không đúng chánh pháp như thế, Tăng nên hòa hợp gọi họ đến trước Tăng bắt họ phải nói lên lỗi của mình. Nếu người kia tự biết việc của mình làm là có tội, tùy theo phạm nặng hay nhẹ nên như pháp mà trị. Hoặc Tỳ-kheo kia chống lại lệnh của Tăng, không nghe theo lời dạy bảo của Thầy bạn, của Thiện tri thức mà còn quấy phá chúng Tăng, không để cho ai tu hành được. Nếu quốc chủ kia là người pháp vương thì Tăng nên đến thưa để nhà vua dạy bảo họ phải tuân theo lệnh của Tăng.
Bấy giờ, vua mới thực hành pháp hạnh. Trước hết, phải gọi Tỳ-kheo phá giới kia đến, dùng lời khéo léo khuyến khích, dẫn dụ để họ tuân theo lệnh của Tăng. Nếu Tỳ-kheo ấy không tuân theo, nên tập hợp hai chúng lại để họ có mặt trước Tăng trả lời sự thật. Nếu có tội thì nên theo pháp của Tăng trị tội Tỳ-kheo kia, nhưng không được tử hình, không được hủy hoại thân thể, không giam cầm, không xiềng xích, không đánh đập, không được cởi bỏ ca-sa, không tịch thu tài sản mà chỉ quở trách rồi đuổi đi.
Đại vương nên biết! Nếu có hai nhóm bè đảng tranh nhau kiện tụng, dựa vào sự phá giới, theo tà kiến, dựa vào tà hạnh điên đảo, dựa vào những việc làm sai trái, khởi lên những cố chấp sai lầm, và những lời nói ngôn ngữ kỳ quái; vua thực hành pháp hạnh tự biết pháp, tự biết nghĩa nên như pháp để chấm dứt sự tranh cãi đó. Nếu quốc vương là kẻ ngu muội, không có trí, không tự biết pháp, không biết nghĩ, không biết chánh pháp, không biết tà pháp, không biết đúng pháp luật, không biết phi pháp luật, không biết đúng pháp ngữ, không biết phi pháp ngữ. Thì nhà vua nên hỏi các vị Sa-môn có đạo đức biết pháp, biết nghĩa, có trí tuệ, thường tu theo chánh pháp, làm lợi ích chúng sinh, khéo biết chấm dứt sự tranh cãi, có thể nói như pháp; nên hỏi các vị ấy, vì đối với chánh pháp các ngài biết phạm hay không phạm. Biết như vậy, rồi sau đó theo đúng như pháp chấm dứt sự tranh cãi đó. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh có đời sống sai trái.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nếu quốc vương kia là một hôn quân, không có trí, trong nước có rất nhiều Samôn, Bà-la-môn mà những việc làm của họ đều khác nhau, đúng sai lẫn lộn. Mỗi người tự nói rằng: “Ta là Sa-môn tu hành chánh đạo, có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Ta là ruộng phước, đáng được dành cúng dường.” Những điều đúng sai lẫn lộn như vậy, làm sao biết được vị nào là Sa-môn chân chánh, vị nào là chẳng phải Sa-môn? Đâu là chánh đạo, đâu là tà đạo? Ai là người nói đúng pháp, ai nói phi pháp?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Có một vị Đại Sa-môn con dòng họ Thích, vì đạo xuất gia, chứng đắc thần thông, có đại danh xưng là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni; ở trong pháp của vị Cù-đàm kia đều là những Samôn chân chánh, thường hành chánh đạo, làm lợi ích cho chúng sinh. Họ là ruộng phước biết rõ chánh pháp, nói đúng như pháp.
Đại vương nên biết! Ngoài pháp của Sa-môn Cù-đàm ra, tất cả các Bà-la-môn khác đều là tà đạo, chẳng phải Sa-môn chân chánh, họ đều nói lời phi pháp. Đại vương không nên nghe theo lời nói ấy. Vì sao? Vì họ không phải chánh pháp thì làm sao nói như pháp?
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nếu quốc vương kia là một kẻ hôn quân, không có trí, không biết pháp vua, không thực hành theo chánh pháp, tự do làm ác. Vậy thì quốc vương ấy có tội ai trị phạt ông ta?
Đáp:
–Đại vương! Vua kia tự thân làm ác thì chính ông ta trị tội mình.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào gọi là tự thân gây tội, rồi tự thân trị tội?
Đáp:
–Đại vương! Vị vua kia nên theo hai pháp để tự trị tội mình:
1. Nương vào nội lực.
2. Nương vào ngoại lực.
Nương vào nội lực, vị vua phải nên suy nghĩ rằng: “Nay hành động của ta là buông lung hay chẳng phải buông lung; có lòng Từ hay không có lòng Từ; là việc nên làm hay không nên làm; là thiện nghiệp hay ác nghiệp.” Nếu người biết việc đó không nên làm, là ác nghiệp liền chấm dứt không làm, sinh tâm hổ thẹn, tự hối hận ăn năn, sợ mang phải tiếng xấu, sợ đọa vào các đạo, nên nương hai pháp để bảo vệ, giữ gìn thân mình:
1. Không lung.
2. Không có tâm Từ.
Như vậy, gọi là nương vào trí lực tự trị tội mình.
Nếu vua không có trí, không có khả năng tư duy như thế, nên đi khắp mọi nơi trong nước tìm cầu các Sa-môn có trí tuệ lớn, khéo biết vương luận, thường thực hành chánh pháp, có thể nói đúng sự thật. Vị vua kia nên đích thân đến chỗ những vị Sa-môn ấy. Nếu nhà vua không đích thân đến được thì nên sai đại thần, vương tử, người tôn quý, hoặc người được tôn trọng đi đến chỗ Sa-môn ấy thưa rằng: “Nhà vua rất quý trọng và mong muốn được gặp, các vị có thể đến chỗ nhà vua”. Nếu những Sa-môn ấy đến thì vua nên ra nghinh đón, đảnh lễ, thăm hỏi, và phải hết lòng cung kính tôn trọng hỏi Sa-môn: “Những gì là việc làm thiện? Những gì là hành động ác? Thực hành những pháp nào có thể được lợi ích? Thực hành những pháp nào không có lợi ích? Tâm ta ám muội, không có trí tuệ, xin vì ta giảng nói.”
Khi ấy, vị Sa-môn nên thuyết giảng rõ ràng cho nhà vua về những pháp các vua trong quá khứ đã làm và các pháp vương luận; dùng lời nói từ tốn nói với nhà vua rằng: “Pháp này nên phụng hành, có lợi ích lớn, đó là mười pháp thiện như không sát sinh… Những pháp thế này không nên thực hành, không có ích lợi, gọi là mười pháp ác, như: sát sinh,… Những pháp thế này là vua thực hành pháp hạnh đã làm. Nay vua chưa biết thì nên bỏ mười pháp ác thực hành mười pháp thiện.” Khi vua đã nghe như vậy rồi phải thọ trì, như pháp hối cải. Nếu được như vậy, gọi là nương vào năng lực bên ngoài tự trị tội mình.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh phải bảo hộ thế gian như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh không thiêu đốt, không phá hoại, không úng nước, đó là hạnh giữ gìn khí thế gian. Vì sao? Vì tất cả những việc làm đó đều là nghiệp bất thiện. Vì thế, vua thực hành pháp hạnh không nên thiêu đốt, phá hoại, úng nước thành ấp, tụ lạc, núi rừng, sông đầm, vườn tược, cung điện trang nghiêm, lầu các. Tất cả đường sá, cầu cống, hang ổ, nhà cửa tự nhiên; tất cả các thứ lúa, đậu, mè, ngô, hoa quả, cỏ cây, rừng rú đều không nên thiêu đốt, phá hoại, úng nước, chặt phá. Vì sao? Vì các vật ấy là vật chung của các chúng sinh ở đó, chúng không có tội lỗi gì, không nên làm mất đi vật thọ dụng của chúng, khiến chúng phải đau khổ.
Lại nữa, ngoài tất cả những rừng cây, các trời thiện tịnh và tất cả quỷ thần đều sống chung ở trong đó và cùng có nhà cửa, cung điện, lầu đài trang nghiêm của các vị trời đó. Vườn, ao, nhà cửa, cung điện, lầu các trang nghiêm nên xem tất cả dưới nước hay trên cạn đều có các côn trùng sinh sống. Đó là các loài chim sẻ, chuột, gà, chó, chim gáy gù, bồ câu, oanh vũ, voi, ngựa, trâu, dê, mèo, hổ, rắn, mọt, ngỗng, vịt, các, ba ba…, cho đến tất cả các loài côn trùng nhỏ bé. Vua thực hành pháp hạnh và các chúng sinh cùng nương vào nơi thế gian này để sinh sống, không nên phá hoại. Như vậy, gọi là vua thực hành pháp hạnh bảo hộ thế gian, làm cho chúng sinh được an lạc.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh có vô lượng chư Thiên hầu hạ, đi theo che chở cho vua, bởi vì năng lực của trời tự trị, có quyền che chở cho người. Nhưng vì sao nói người lại che chở cho trời?
Đáp:
–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh có thể cho trời ăn thức ăn trong sạch để đời sống chân chánh. Nghĩa là, vua nói cho họ về thiền định, giải thoát và mười điều thiện trong pháp môn cam lồ chánh giáo của Như Lai, khiến họ ra khỏi sự đau khổ trong đường ác. Đó gọi là che chở, trừ các sự sát sinh bất thiện, xấu xa… Vì sao? Vì ở trong nghiệp ác để đời sống của mình có một phần của chúng sinh. Cho nên, vua thực hành pháp hạnh, tức là thân có thể tích tập vô lượng công đức, có lợi ích trong hiện tại và vị lai, cũng có thể tích tập các quả thiện.
Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh không nên thiêu đốt, phá hoại, hủy diệt tháp miếu của Như Lai, cho đến phòng ốc, nhà cửa, các vật sinh sống của những vị Sa-môn tịnh hạnh. Vườn tược, lầu các, quán xá, cây rừng, hoa quả không nên chiếm đoạt, không nên phá. Ngoài ra là còn vì muốn có lợi ích cho Phật, Pháp, Tăng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh có quan phụ tá nhà vua là vị quan tể tướng đứng đầu trong triều đình. Nhưng ông ta lại không lo việc nước mà chỉ mưu lợi cho mình; hoặc vì tư thù mà hại đến việc công, hoặc nhận hối lộ bẻ cong pháp luật; để nhân dân tụ họp bè đảng tăng thêm sự khinh thường, làm loạn; dùng sức mạnh uy hiếp kẻ yếu đuối; lấy quyền quý khinh thường sự thấp hèn; lấy sự giàu sang khinh chế người nghèo khổ; lấy việc quanh co, dua nịnh để dối gạt điều ngay thẳng. Kẻ giàu có thì huênh hoang vênh váo, còn người nghèo khổ phải chịu thiệt thòi; kẻ dối trá dua nịnh lại lên nắm chính quyền, còn bậc trung hiền phải lui về ở ẩn; hoặc khi còn ở chốn quan trường sợ lụy đến mình nên phải im lặng, hoặc tìm cầu tiền của hối lộ để được yên thân. Trăm họ bần cùng khốn khổ, không biết đâu để cứu vãn. Vì chán chường sự đau khổ nên họ nghĩ đến việc làm loạn, không nghe theo lệnh vua. Ấy là do các quan lại hành xử không trung tiết, dối gạt người trên, nhiễu loạn kẻ dưới, hô hào để nhận bổng lộc của vua. Những người ác như thế, nên ghép họ vào số những chúng sinh nào?
Đáp:
–Đại vương! Những người ác như thế nên ghép họ vào trong số những chúng sinh cướp đoạt bậc nhất để trị tội. Vì sao? Vì họ nhậm chức quan lớn, hưởng bổng lộc rất nhiều của nhà vua, lại bỏ việc công lo việc tư, không giữ đúng phép tắc, cho nên tai họa làm loạn cũng chính là phát sinh từ đấy. Đây là kẻ giặc rất lớn của quốc gia. Vua là bậc Pháp vương không xử tội họ bằng cách tử hình, cho nên ghép họ vào trong số chúng sinh cướp đoạt ở bậc cao nhất để trị tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, nếu trong nước có chúng sinh bất hiếu, không nghĩ đến ân dưỡng dục của cha mẹ, bỏ cha mẹ để ở với vợ con. Những thứ y phục, thức ăn, thuốc men dùng khi bệnh tật chỉ nghĩ đến cung cấp cho vợ con, không cho cha mẹ. Cha mẹ già yếu không còn sức lực ra vào thì chưa từng lo lắng, gần gũi giúp đỡ, hầu hạ, thế mà đối với vợ con họ ngày đêm không lìa; được một chút ngon ngọt không dám ăn một mình để dành cho vợ con; hoặc trộm của cha mẹ cung cấp cho vợ con ăn chơi thỏa thích. Cha mẹ nói điều tốt không chịu nghe theo, vợ con nói điều ác thì tin dùng không bỏ. Hoặc vì vợ con mà chửi mắng cha mẹ. Hoặc cùng với những người trong thân tộc như cô, chị, em gái sang hèn, trên dưới cùng với họ làm việc dâm dục, không biết hổ thẹn. Những người như thế nên ghép họ vào trong số những chúng sinh nào?
Đáp:
–Đại vương! Những người ác như thế, nên ghép họ vào trong số những chúng sinh cướp đoạt bậc nhất để trị tội họ. Vì sao? Vì ân cha mẹ sâu nặng như thế, hết lòng hiếu dưỡng còn không đền đáp hết, huống gì từ bỏ chống lại mệnh lệnh. Đó gọi là giặc cướp rất lớn trong thế gian.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, trong nước có người buông lung, không có lòng Từ. Đối với vợ con, tôi tớ, bà con, họ thường làm những điều bất nhẫn, sai khiến phi pháp, sai khiến phi thời. Người nào không làm, cưỡng bức khiến họ phải làm, đến cả đánh đập, chửi mắng không có điều gì không làm. Còn áo cơm không đủ ăn mặc, ngủ nghỉ không có chỗ, gọi chưa kịp đến thì thù ghét, lánh mặt; xuất ngôn toàn là những lời mắng chửi giống như oan gia. Những người như thế, nên giúp họ trong thành phần chúng sinh nào? Đáp:
–Đại vương! Nên ghép họ vào hạng chúng sinh tà hạnh bậc trung để trị tội. Vì sao? Vì nhà cửa, của cải, nô tỳ cùng làm ra nên họ có nửa phần ở trong đó, nên phần thực ấy họ tự ý ăn mặc. Nhưng lại phần của nô tỳ thì tiếc giữ không cho, giả sử có cho đi nữa thì không đúng thời tiết, được nhiều thì cho ít, thường làm cho thiếu thốn. Đó là tà hạnh lớn nhất trong thế gian.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, trong nước có người đối với Phật, Pháp, Tăng làm việc không lợi ích, như là: thiêu đốt, phá hoại chùa tháp, tượng Phật và các kinh sách; dùng lời nói hủy nhục, nói xấu, nói rằng: “Làm việc này không có lợi lộc gì. Những người cúng dường trong hiện tại bị hao tổn, trong tương lai cũng không có lợi ích”. Hoặc ghét chùa tháp, và các hình tượng nên làm chướng ngại chỗ đó bằng cách phá hoại, trừ diệt hay đưa đi đặt ở chỗ khác. Hoặc đập phá phòng ốc, nhà cửa của những người Sa-môn tịnh hạnh. Hoặc lấy của Phật, Pháp, Tăng như vườn ruộng, rừng, nhà, voi, ngựa, xe, bò, lừa, lạc đà, nô tỳ, tôi tớ, y phục, đồ ăn thức uống, vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não và tất cả trân bảo. Hoặc bắt Sa-môn sai khiến làm việc, moi móc những lỗi lầm, cởi áo ca-sa. Hoặc khinh khi xem thường, đùa bỡn các Sa-môn, muốn làm trò cười nên không để họ chuẩn bị lúc đó hỏi cung. Hoặc dối gạt, mời thỉnh đến nhưng không cho ăn uống; dẫu có cho ăn uống thì không đúng lúc, cho thức ăn phi pháp. Hoặc có khi xem thường hủy nhục, chửi mắng và dùng những lời thô tục để phỉ báng. Hoặc dùng gậy, hòn đất, gạch đá, đến cả tự tay đánh các Samôn. Hoặc cầm dao, mác, cung tên, giáo, kích để chặt, bắn làm thương tổn. Hoặc xô xuống nước. Hoặc đẩy vào lửa, hoặc đẩy từ trên núi xuống hố, hầm nguy hiểm. Hoặc thả voi, ngựa, cọp, beo, sư tử, chó dữ, thú độc làm hại thương tích thân thể họ.
Những người ác như thế thì nên ghép họ vào loại chúng sinh nào?
Đáp:
–Đại vương! Những người ác như thế phải ghép họ vào trong số những chúng sinh ác nghịch bậc cao để trị tội. Vì sao? Vì họ gây nên tội căn bản rất nặng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư, những gì gọi là tội căn bản?
Đáp:
– Đại vương! Tội căn bản có năm loại:
1. Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng; hoặc lấy vật của Phật, Pháp và Tăng; hoặc dạy người làm, hoặc thấy người làm thì hổ trợ vui mừng. Đó là tội nặng căn bản thứ nhất.
2. Hoặc phỉ báng pháp Thanh văn, Bích-chiphật và pháp Đại thừa; hủy nhục, nói xấu, gây sự khó khăn, ngăn cản, che giấu. Đó là tội nặng căn bản thứ hai.
3. Hoặc có Sa-môn với lòng tin xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, hoặc có người trì giới, hoặc có người không trì giới đều bị họ trói nhốt vào lao ngục, gông cùm đánh đập, bắt sai khiến làm việc, moi móc những lỗi lầm, chửi mắng đủ điều rồi đuổi đi gấp; hoặc cởi ca-sa bức hiếp khiến cho họ hoàn tục, hoặc giết chết. Đó là tội nặng căn bản thứ ba.
4. Gây nên một tội trong năm tội Ngũ nghịch, đó là tội nặng căn bản thứ tư.
5. Phỉ báng, phủ nhận tất cả nghiệp thiện ác, thường làm mười điều bất thiện, không sợ đời sau; đích thân làm, dạy người làm khiến họ giữ mãi không bỏ. Đó là tội nặng căn bản thứ năm.
Đại vương! Nếu người phạm những tội nặng căn bản như thế nhưng lại không tự mình sám hối, nhất định sẽ thiêu đốt tất cả thiện căn, thẳng đến địa ngục lớn, chịu khổ vô cùng.
Đại vương! Vì trong nước của nhà vua thực hành nghiệp bất thiện rất nặng này, cho nên các vị La-hán phạm hạnh, các vị Tiên, Thánh nhân đều bỏ nước ra đi. Chư Thiên thương xót, khóc lóc. Tất cả quỷ thần thiện, các vị thần có sức mạnh lớn không bảo hộ nước ấy. Các đại thần giết hại lẫn nhau, các quan đứng đầu triều đình tranh nhau, nghịch tặc khắp nơi cùng nhau nổi dậy, vua trời không xuống, vua rồng ẩn mất, nắng mưa bất thường, mưa gió trái mùa. Các rồng đều bỏ đi hết nên suối, khe, ao, sông đều khô cạn, cỏ cây cháy rụi, ngũ cốc mất mùa, nhân dân đói khát, giặc cướp hoành hành, ăn thịt lẫn nhau, xương trắng phơi đầy đồng; bệnh hủi, bệnh dịch, tử vong vô số. Khi đó, những người dân không biết tự suy nghĩ là mình đã làm nên tội mà còn oán giận các trời, trách mắng quỷ thần. Vì thế, vua thực hành pháp hạnh, vì cứu những nỗi khổ này nên thực hành pháp trị tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, nếu người với tâm không nhiễm ô, tâm không ác độc, vì sao với tâm Từ lại không được tử hình hoặc hủy hoại thân thể.
Đáp:
–Đại vương! Vì vua thực hành pháp hạnh tâm không nhiễm ô, tâm không ác độc, không thể khởi lên những ý nghĩ như: giết hại chúng sinh hoặc hủy hoại thân thể. Vì sao? Vì vua thực hành pháp hạnh, thấy chúng sinh kia đến nỗi khi chết cũng nương theo kết quả hành động của chính mình, sinh tâm sân hận, chết rồi lại sinh vào đường ác, tâm ác cứ đi theo mãi, không bao giờ chấm dứt. Cho nên, vua thực hành pháp hạnh không tử hình, không hủy hoại thân thể. Vì sao? Vì việc này thật nguy hiểm. Nếu giết hoặc hủy hoại thân thể, một khi đã làm rồi thì sau không thể cứu vãn được. Còn trói nhốt vào nhà lao, hoặc gông cùm, đánh đập, la mắng…, thì không phải từ bỏ vĩnh viễn. Vì thế, Đức Phật dạy: “Vua thực hành pháp hạnh là bảo hộ chúng sinh. Nếu giết họ, hoặc hủy hoại thân thể họ thì không gọi bảo hộ chúng sinh đầy đủ được.”
Đại vương! Giết hoặc hủy hoại thân thể thật là việc sợ hãi lớn nhất ở thế gian. Đức Phật không cho phép vị vua thực hành pháp hạnh làm những việc như thế!
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, những người trong nước phải nộp vật thuế khóa cho nhà vua thì đó là vật của vua hay của người khác?
Đáp:
–Đại vương! Đó chẳng phải vật của vua cũng chẳng phải vật của người khác. Vì sao? Vì vật đó do chính công sức của họ làm ra, cho nên chẳng phải vật của riêng nhà vua. Chẳng phải vật của người khác là vì vua bảo hộ những người này, cho nên chẳng phải vật thuộc về họ. Những chúng sinh kia lập pháp như thế vì thế nên nhà vua cũng được phần, chẳng phải vật của người khác.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, nếu có người dân đóng nộp vật cho nhà vua mà không nộp thì người đó là kẻ ăn cắp vật của nhà vua hay không ăn cắp vật của nhà vua?
Đáp:
–Đại vương! Chẳng phải ăn cắp vật của nhà vua, nhưng người ấy tham tiếc của, coi thường nhà vua không nộp thuế thì bị vô số tội. Vì sao? Vì đóng nộp thuế cho nhà vua mà lại không nộp.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Tất cả mọi người ở trong nước đều nộp thuế cho nhà vua nhưng không cần nộp.
Như vậy, nhà vua liền thi hành biện pháp dùng roi gậy đánh đập, chửi mắng, hoặc lấy vật của họ. Hành động như vậy gọi là cướp đoạt hay không cướp đoạt?
Đáp:
–Đại vương! Đó chẳng phải cướp đoạt. Vì sao? Vì vua có khả năng bảo hộ những hoạn nạn, do đó đời sống của họ được yên ổn, thì phải nộp thuế cho nhà vua. Đó chẳng phải cướp đoạt.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nếu người nghèo khổ phải nộp vật cho nhà vua, nhưng vì không có vật để nộp nên bị cưỡng ép đánh đập, buộc họ phải nộp thuế, đó là cướp đoạt hay chẳng phải cướp đoạt?
Đáp:
–Đại vương! Có người bị coi là cướp đoạt, nhưng có người không phải cướp đoạt. Có người không phải là cướp đoạt, khi người ấy lười biếng, giải đãi, không chuyên cần làm ăn, sống phi pháp, tà dâm, cờ bạc. Với những sự ăn chơi như thế nên cướp đoạt của cải người khác, đến nỗi làm cho họ nghèo khổ. Những người như thế, vua thực hành pháp hạnh phải dùng roi trừng phạt họ, tịch thu hết tài sản, để họ đi vay mượn vật nộp cho nhà vua. Đó gọi là vua chẳng phải cướp đoạt. Vì sao? Vì nhà vua nghĩ rằng, để cho người kia không dám làm việc phi pháp, làm tổn thất của cải. Như vậy, cả vua lẫn dân đều được lợi ích, là đời sống được thành tựu và lại không có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Với những hạng người nào, vua là kẻ cướp đoạt?
Đáp:
–Đại vương! Tất nhiên nhà vua được quyền thu góp. Nhưng nếu biết rõ gia nghiệp của người kia bị giặc cướp đoạt, người thân dối gạt lấy, chủ phi pháp cướp đoạt; hoặc bị lửa thiêu đốt, bị gió dữ, mưa hung, bảo cát, mưa đá làm hư hoại gia nghiệp; hoặc họ ở nơi không được an ổn, nhân dân bỏ đi mất hết gia nghiệp; hoặc bị sâu bọ, chim sẻ, chuột, chim oanh vũ ăn hết ngũ cốc; hoặc gặp thời buổi hạn hán, hoa màu không chín, nước ngập thu hoạch không được. Có những nguyên nhân như thế, không xây dựng được cơ nghiệp, của cải hết sạch. Với những người này thì nên miễn, không nên bắt họ nộp tài sản. Nếu như nhà vua lấy tài sản của họ thì gọi là cướp đoạt. Vì sao? Vì không có lòng thương yêu đối với những người nghèo khổ này, nên không gọi là bảo hộ chúng sinh đầy đủ được.
Đại vương nên biết! Ta nêu ra một ví dụ để minh họa việc này, người trí thì ở ngay nơi ví dụ này sẽ hiểu được. Như có người muốn đem đồ ăn thức uống cúng dường những người Sa-môn tịnh hạnh. Khi đã chuẩn bị đầy đủ những đồ ăn thức uống ngon bổ, nhưng bỗng nhiên nhà ấy bị cháy, gió thổi ngã, nước cuốn trôi; hoặc bị giặc cướp lấy hết đồ ăn, thức uống; hoặc bị đồ bất tịnh làm dơ, không thể ăn được. Đến giờ thọ trai, các vị Sa-môn đến nhà thí chủ, nhưng thấy gia đình họ bị tổn thất, nên trở lại giúp đỡ, chia xẻ khổ đau và khất thực về cho họ. Lòng dạ nào lại dám lấy đồ ăn của thí chủ nữa? Nhưng người thí chủ kia không cúng dường thức ăn cũng không có tội.
Đại vương! Cũng vậy, vua thực hành pháp hạnh tuy nhiên được quyền thu góp, những người ấy không nộp cũng không phạm vương pháp, không nên tịch thu, đánh đập. Vua thực hành pháp hạnh ở trong thế gian cai trị nhân dân là luôn luôn mong muốn họ được hạnh phúc.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Như thế, vua thực hành pháp hạnh không buông lung, họ thành tựu được mấy pháp thì gọi là vua thực hành pháp hạnh?
Đáp:
–Đại vương! Thành tựu mười pháp mới được gọi là vua thực hành pháp hạnh.
Mười pháp đó là:
1. Tự tánh thành tựu.
2. Quyến thuộc có lễ nghĩa.
3. Trí tuệ thành tựu.
4. Thường siêng năng tinh cần.
5. Tôn trọng pháp.
6. Mạnh mẽ lanh lợi.
7. Ân nghĩa sâu nặng.
8. Hiểu rõ mọi hoạt động của sự vật trong thế gian.
9. Có thể chấp nhận những sự đau khổ.
10. Không giữ pháp điên đảo.
Đại vương! Vua thành tựu tự tánh sẽ được thành tựu hai công đức:
1. Thái tử, đại thần, trưởng giả, cư sĩ và nhân dân trong thành ấp, tụ lạc đều yêu mến, và quý trọng nhà vua.
2. Nhà vua không có những thứ bệnh tật.
Vua có quyến thuộc biết lễ nghĩa cũng được thành tựu hai công đức:
1. Đối với những việc làm của nhà vua, các sự tranh luận, nhà vua không cần phải lo âu.
2. Cẩn thận không phạm vương pháp.
Vua thành tựu trí tuệ cũng được thành tựu hai công đức:
1. Biết giỏi phương tiện, dựa theo pháp để bảo hộ chúng sinh.
2. Muốn làm việc gì thì với trí tuệ của mình vua có thể biết được, không cần nhờ người khác.
Vua thường siêng năng chuyên cần cũng có thành tựu hai công đức:
1. Tất cả các kho lẫm đều đầy ắp.
2. Không có giặc cướp, sống an ổn hạnh phúc.
Vua tôn trọng pháp cũng có thành tựu hai công đức:
1. Luôn luôn thực hành theo pháp thiện không gián đoạn.
2. Có khả năng giáo hóa những chúng sinh làm việc ác.
Vua mạnh mẽ, lanh lợi cũng có thành tựu hai công đức:
1. Trong tâm mong cầu việc gì thì mau được đầy đủ.
2. Muốn phát tâm làm việc gì, suy nghĩ không lâu liền thành như pháp.
Ân nghĩa sâu nặng cũng có thành tựu hai công đức:
1. Quyến thuộc đều ưa thích nhà vua.
2. Các đại thần và tất cả nhân dân đều kính tin và tôn trọng nhà vua.
Hiểu rõ mọi hoạt động của sự vật trong thế gian cũng có thành tựu hai công đức:
1. Có khả năng biết những chúng sinh làm ác, chúng sinh làm thiện.
2. Vua giúp người dân ở xa được vật không để mất mát.
Vua có chịu đựng những đau khổ cũng có thành tựu hai công đức:
1. Nhà vua muốn thực hiện điều gì thì có thể thành tựu đầy đủ.
2. Không sợ những sự đau khổ và buồn bực.
Vua không giữ pháp điên đảo cũng có thành tựu hai công đức:
1. Tự mình đạt đến đạo thù thắng.
2. Không bao giờ xa lìa các bậc Thiện tri thức.
Đại vương! Người đầy đủ mười công đức như vậy, gọi là vua thực hành pháp hạnh thành tựu.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thành tựu mười loại công đức như thế mới gọi vua thực hành pháp hạnh. Nếu như trong nước ấy có vua chư hầu phản nghịch, chuẩn bị bốn loại binh mã để chiến đấu tranh giành đất nước với vua pháp hạnh. Hoặc ngay cả vua nước ngoài đến xâm lăng; họ muốn mở một cuộc đại chiến, tập bốn bộ binh mã, tất cả đều sẵn sàng thì vua thực hành pháp hạnh bằng cách nào để đối phó với cuộc chiến tranh này?
Đáp:
–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh nên suy nghĩ ở trong ba thời điểm, đưa ra ba phương tiện để vào trận chiến đấu. Ba thời điểm đó là: vào lúc đầu, vào lúc giữa và vào lúc cuối.
Đại vương! Lúc đầu muốn vào khởi phương tiện, nếu vua thực hành pháp hạnh thấy vua chư hầu phản nghịch thì ngay lúc ấy nên suy nghĩ ba điều này:
1. Suy nghĩ rằng: “Binh mã của vua chư hầu phản nghịch là cũng của chúng ta và họ sẽ chiến thắng ta. Nếu ta cũng chiến đấu với họ thì sẽ tổn thất rất lớn, không có lợi ích gì. Nếu họ chiến thắng ta thì họ sống còn ta chết.” Nhà vua suy nghĩ như thế rồi, nên đi tìm những người bạn thân hoặc người quen của vị vua phản nghịch kia, nhờ họ hòa giải để chấm dứt cuộc chiến này.
2. Vua thực hành pháp hạnh thấy thế lực của vua phản nghịch kia ngang mình hoặc hơn mình, trong tâm tự nghĩ: “Không nên chiến đấu với họ, nên cung cấp của cải cho họ để chấm dứt chiến tranh”.
3. Nếu thấy vua phản nghịch kia có nhiều binh sĩ, quyến thuộc, bè đảng; thế lực bốn binh voi, ngựa, xe và bộ rất hùng mạnh. Còn binh sĩ của vua thực hành pháp hạnh tuy ít, nhưng có thể dùng phương tiện hiện đại hùng mạnh chống cự, làm cho vua phản nghịch kia sinh tâm sợ hãi, chấm dứt chiến tranh.
Đó là trong thời gian đầu suy nghĩ về dụng của ba phương tiện.
Đại vương! Nếu như dùng ba việc bạn thân, của cải và uy hiếp làm cho sợ hãi này mà không dập tắt được cuộc chiến tranh kia. Lúc này, vua thực hành pháp hạnh nên suy nghĩ ba điều rồi, đi thẳng vào trận chiến.
Ba điều suy nghĩ:
1. Nghĩ rằng: “Đây là vua phản nghịch không có tâm Từ bi, tự mình giết hại chúng sinh và thấy người khác giết hại chúng sinh cũng không ngăn chặn. Hôm nay, ta không thể để cho họ giết hại lẫn nhau như thế này.” Đây là tâm ban đầu bảo hộ chúng sinh.
2. Nghĩ rằng: “Ta nên dùng phương tiện thu phục vua phản nghịch để quân sĩ binh mã hai bên không chiến đấu.”
3. Nghĩ rằng: “Ta nên dùng phương tiện bắt sống, trói lại không để họ giết hại lẫn nhau.”
Khởi lên tâm Từ bi này rồi, sau đó chuẩn bị bốn loại binh mã phân bố ra. Các tướng sĩ đọc hiệu lệnh, tuyển chọn binh lính, phân ra làm ba phẩm. Ở trong phẩm thượng thì có thượng, trung và hạ. Chọn những người dũng mãnh của bậc thấp trong phẩm thượng đặt ở phía trước. Tiếp theo, chọn những người khỏe mạnh trong phẩm trung đứng ở thứ hai. Tiếp theo, chọn những binh lính có sức khỏe mạnh nhất của phẩm thượng phân ra ở hai bên bảo hộ các bộ binh, để cho họ sợ hãi.
Lúc ấy, vua thực hành pháp hạnh ở giữa quân ra lệnh cho đại quân hùng mạnh voi, ngựa, xe và bộ của phẩm tối thượng đi vào trận chiến. Vì sao? Vì có năm việc khiến cho đại quân hùng mạnh không thối chí.
Năm việc đó là:
1. Biết hổ thẹn với vua.
2. Tất cả phải sợ vua.
3. Nắm được ý của vua.
4. Làm cho binh lính ở sau không sợ hãi.
5. Khiến cho mọi người nghĩ đến việc báo ân quốc vương.
Với thế lực phân chia như vậy, không sinh sự thoái lui, có khả năng dũng mãnh chiến đấu.
Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh đã thiết lập phương tiện vào trận chiến đấu, lúc ấy dẫu có giết hại chúng sinh thì vị ấy chỉ mắc tội rất nhẹ, không cần sám hối cũng có thể tiêu trừ được. Vì sao? Vì vua thực hành pháp hạnh kia trước khi muốn vào trận chiến đấu đã khởi ba tâm Từ bi, thì dầu cho có làm điều ác này cũng chỉ mắc tội nhẹ, không hẳn chịu quả báo.
Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh kia vì chúng sinh, vì bảo hộ Sa-môn, vì bảo hộ pháp Samôn, vì bảo hộ vợ con, dòng họ và những tư thức mà có thể xả bỏ thân mình và của cải. Nhân tạo những nghiệp như thế, nên vua thực hành pháp hạnh kia được vô lượng phước.
Đại vương! Nếu vì bảo vệ đất nước, chăm lo đời sống nhân dân mà khởi binh chiến đấu, trong lúc ấy, quốc vương trước hết phải khởi ba tâm ở trên, rồi mới ra lệnh vua chư hầu phải một mực tuân theo lệnh của vua, chiến đấu như thế là có phước không có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh thường sinh bao nhiêu tâm để bảo hộ chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh đối với các chúng sinh khởi lên tám tâm.
Tám tâm đó là:
1. Nghĩ đến tất cả chúng sinh như nhớ nghĩ về con của mình.
2. Nghĩ đến những chúng sinh làm việc ác như nghĩ đến đứa con bệnh hoạn của mình.
3. Thường nghĩ chịu khổ thay cho chúng sinh, sinh tâm đại Bi.
4. Nghĩ chia xẻ niềm vui thù thắng của chúng sinh, sinh tâm hoan hỷ.
5. Nghĩ đối với những chúng sinh oan gia, sinh ý tưởng bảo hộ.
6. Có thể đối với những chúng sinh bạn bè thân thuộc thì sinh ý tưởng bảo hộ che chở.
7. Đối với của cải sinh ý tưởng như thuốc.
8. Đối với chúng sinh, sinh ý tưởng vô ngã.
Đại vương! Nghĩ đến các chúng sinh, sinh ý tưởng như con, nên phát khởi hai tâm:
1. Như cha mẹ nghĩ đến con, ngăn ngừa các điều ác.
2. Đối với tất cả chúng sinh thường không bỏ tâm Từ bi.
Nghĩ đến những chúng sinh làm việc ác như nghĩ về đứa con bệnh tật, nên phát khởi hai tâm:
1. Có khả năng chịu đựng, như người bệnh ở thế gian chửi mắng các thầy thuốc giỏi, những thầy thuốc vẫn không tức giận.
2. Vì muốn đoạn dứt tất cả lỗi lầm, nên thực hành tâm như thế.
Nghĩ chịu khổ đau thay cho chúng sinh, sinh tâm đại Từ, nên phát khởi hai tâm:
1. Ở trong hoạn nạn nguy cấp, cứu chúng sinh thoát khỏi khổ đau.
2. Có khả năng hưởng niềm vui an ổn thù thắng.
Đối với những chúng sinh thọ lạc, sinh tâm hoan hỷ, nên phát khởi hai tâm:
1. Đối với của cải và đời sống của người khác không sinh tâm tham.
2. Đối với hạnh phúc và sự giàu sang của người khác không sinh tâm đố kỵ.
Đối với những chúng sinh oan gia sinh ý tưởng bảo hộ, nên phát khởi hai tâm:
1. Thường nghĩ diệt trừ lỗi lầm cho họ, nhân đó xa lìa oan gia.
2. Đối với những chúng sinh oan gia sinh ý nghĩ như bè bạn thân thích, huống gì những chúng sinh khác chẳng phải oan gia?
Đối với những chúng sinh bạn bè thân thích, sinh ý tưởng bảo hộ che chở, nên khởi hai tâm:
1. Nghĩ làm cho tình bạn càng thêm vững chắc.
2. Nghĩ đến cho tất cả chúng sinh không oán thù nhau.
Đối với vật dụng sinh ý tưởng như thuốc, nên khởi hai tâm:
1. Có ái dục nhưng không tà dâm.
2. Đối với sắc, thanh, hương, vị và xúc tùy theo thế gian thọ dụng, không sinh tâm tham đắm.
Đối với tự thân không sinh ý tưởng là ngã, nên khởi hai tâm:
1. Thường đi đến những bậc Sa-môn, người đại trí để nghe Phật pháp.
2. Nghe pháp rồi, y theo lời dạy mà tu hành.
Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh thường tư duy tám pháp như thế, không mong cầu của cải mà người thế gian tự nhiên hiến dâng. Những châu báu, kỹ vật kỳ lạ ở trong nước không có mà kho lẫm vẫn đầy dẫy. Dù cho những vị vua làm việc ác, phi pháp trong thế gian dùng roi đánh đập, bức hiếp nhân dân nộp của cải thì cũng không bằng một phần của vua pháp hạnh.
Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh thực hành tám pháp này, đối với những việc làm thì ở năm tháng, mặt trời, mặt trăng và sao thường hiện điềm lành. Tất cả phi nhân, các loại tà ác quỷ muốn tìm chỗ sơ hở cũng không thể được. Ở trong nước ấy, thời tiết mưa hòa gió thuận, ngũ cốc được mùa, nhân dân no đủ, không còn nghĩ đến việc đói khát nữa. Tất cả những loài có thể mang đến cho thế gian những điều bất lợi như trùng sâu, chim sẻ, chuột, rồng, mưa đá thảy đều tiêu diệt hết. Nếu trong nước ấy có giặc cướp, tất cả đều y theo tội lỗi do hành động của chính mình mà chịu những sự đau khổ, hành động của mình chấm dứt thì quả báo cũng không còn.
Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh có thể bảo hộ chúng sinh như thế, bảo vệ thế gian, không phụ tất cả chúng sinh. Tất cả mọi người làm việc thiện, người trí tuệ và bậc Thánh trong thế gian đều không thể quở trách. Vì sao? Vì không có tội.
Đại vương! Vua thực hành các hạnh thiện như thế, sau khi mạng chung sẽ sinh lên cõi trời và hưởng thọ cảnh giới an lạc vi diệu ở các cõi trời kia.
Rồi nói bài kệ rằng:
Trọng pháp không buông lung
Thường nghĩ lợi chúng sinh
Quyến thuộc có lễ phép
Biết giỏi hạnh lợi tha
Chính mình thường thanh tịnh
Lìa những việc vô ích
Vua kia hơn thế gian
Gọi vua hành pháp hạnh.
Tướng quý, nói hòa nhã
Siêng chuyên cần làm thiện
Biết giỏi việc thế gian
Tất cả các nghề nghiệp,
Vì thường không biếng nhác
Phương tiện hộ tất cả
Chúng sinh được an vui
Không có người đau khổ,
Thường thích việc lợi tha
Tâm muốn hộ tất cả
Phát ngôn lời ái ngữ
Quyết định nói an ổn,
Biết lỗi, có công đức
Biết hơn và biết kém
Vua đều cũng như thế
Chúng sinh sống an lạc.
Với người tâm bình đẳng
Hay thí vật, giải nghĩa
Các quan và quyến thuộc
Tất cả yêu mến vua,
Nhóm đầy đủ điều thiện
Thường có thế lực mạnh
Vua chánh pháp như thế
Ở lâu trên vương vị.
Tâm Từ lìa giết hại
Bố thí diệt trộm cắp
Chánh hạnh phòng tà dâm
Lời thật dứt nói dối,
Hòa hợp lìa chia rẽ
Nói nhẹ ngăn ác khẩu
Nói ngay trị phù phiếm
Sống sạch bỏ uống rượu,
Tịnh tâm bỏ ba độc
Thọ vương vị cõi trời
Đại vương phải nên biết
Thường khéo hộ các giới.
Lúc bấy giờ, vua Nghiêm Sí nghe Tát-già Nikiền Tử thuyết pháp xong, trong lòng rất vui mừng, liền thưa:
–Đại sư nhân từ không bỏ nước ta. Nay ở nơi hoang dã này không thể dừng chân được, xin hãy giáng thần đức cùng đại chúng trở về cung điện nghỉ ngơi. Vì sao? Vì nay ta muốn thiết lễ cúng dường Đại sư và đại chúng.
Tát-già Ni-kiền Tử nói:
–Lành thay, lành thay! Đại vương! Người muốn cúng thức ăn cho ta, nay đã đúng lúc. Vì sao? Vì ta từ xa đến, trên đường đi rất mệt, và đói khát. Lúc này giờ ngọ đã đến, ta nhận lời thỉnh của nhà vua.
Khi ấy, vua Nghiêm Sí nghe Tát-già Ni-kiền Tử nhận lời, trong lòng rất vui mừng, liền thỉnh Tát-già Ni-kiền Tử và đại chúng đi phía trước, vua cùng bốn binh chủng theo hầu trước sau, cùng đi về cung. Khi đã vào cung, nhà vua thỉnh Tátgià Ni-kiền Tử ngồi trên giường báu vô giá, trang hoàng bảy báu xen lẫn nhau. Ngoài ra, tất cả các chúng Ni-kiền Tử đều ngồi xuống tùy theo địa vị của mình.
Sau khi Tát-già Ni-kiền Tử an tọa, vua Nghiêm Sí chí tâm cung kính tôn trọng vô cùng, và sinh tâm hy hữu. Nhà vua tự tay dâng thức ăn cúng dường Tát-già Ni-kiền Tử và đại chúng, với đầy đủ trăm vị thức ăn đồ uống, tùy ý thọ dụng no đủ.
Khi Tát-già Ni-kiền Tử thọ trai xong, vua Nghiêm Sí liền đem trăm ngàn vạn ức thượng y và hạ y có giá trị cúng dường Tát-già Ni-kiền Tử. Các chúng đệ tử, tùy theo ý muốn của mình, tất cả cũng được cúng dường y phục.
Lúc bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử thọ trai đã xong, thu bát rửa, súc miệng sạch sẽ rồi nói với vua Nghiêm Sí:
–Đại vương! Nay người chí thành cúng dường thức ăn, thức uống và y phục cho Sa-môn, phước báo này không thể tính hết được. Nay ta chỉ lược nói về mười lăm công đức.
Những gì là mười lăm?
1. Chấm dứt tâm keo kiệt tham lam.
2. Mở bàn tay bằng tâm bố thí.
3. Diệt trừ tâm tà kiến, cho là bố thí không có phước.
4. Phát sinh quả báo không đánh mất chánh kiến.
5. Tùy thuận theo các bậc Thiện tri thức.
6. Xa lìa kẻ thấp hèn không có trí tuệ.
7. Mở cửa các đường thiện.
8. Đóng cửa các đường ác.
9. Gieo trồng hạt giống thiện.
10. Nhổ sạch gốc bất thiện.
11. Làm mỏng dần những kết sử phiền não.
12. Làm tăng trưởng các chi phần thiện căn.
13. Làm cho tất cả những người trì giới được no đủ.
14. Có thể làm những việc mình muốn làm.
15. Đã làm việc lợi ích cho người khác.
Vì sao? Này Đại vương! Làm việc bố thí thì được quả báo rất giàu có. Bố thí thức ăn có màu sắc đẹp, về sau có sắc đẹp vi diệu, người nhìn không nhàm chán. Bố thí thức ăn có hương thơm, về sau được danh tiếng vang khắp thế gian. Bố thí thức ăn có mùi vị ngon, về sau được của cải hơn các báu vật thắng diệu trong thế gian. Bố thí thức ăn mà khi mới tiếp xúc cảm thấy thích thú, về sau được tay chân nhỏ nhắn, mềm mại. Trong khi bố thí tâm rất chí thành, về sau được tất cả mọi người trong thế gian yêu thương, cung kính cúng dường. Tự tay bố thí, về sau được nhiều tôi tớ vây quanh hầu hạ. Bố thí đúng thời, tùy theo tâm mình cần gì thì về sau được đáp ứng đúng theo thời. Đem vật mình yêu thích bố thí, về sau được của cải ở cảnh giới thắng diệu. Không làm tổn hại sự bố thí, về sau được của cải kiên cố, không hư hoại, không mệt nhọc. Bố thí chỗ ngồi yên ổn, về sau được quả báo quyến thuộc thường yêu thương. Cho người ăn uống, về sau được sức mạnh tự tại vô ngại. Cho y phục, về sau được sắc thân rất đẹp, thế gian yêu kính. Bố thí đèn sáng, về sau được mắt trong sáng, không có các bệnh tật, hư hoại.
Người bố thí âm nhạc về sau được tai không điếc, thường nghe âm thanh vi diệu.
Người bố thí các loại xe, về sau thường được ngồi trên xe kiệu an lạc.
Người bố thí thuốc men, về sau được thân thể mập mạnh, tươi tắn, không bệnh tật.
Người bố thí nhà cửa thì được sống an ổn hạnh phúc, xa lìa khỏi sự khủng bố.
Người bố thí pháp, về sau được pháp được cam lồ bất tử.
Người lìa sát sinh, về sau được sống lâu, không chết yểu.
Người xa lìa đời sống trộm cắp, về sau rất giàu có, của cải không bao giờ hết.
Người xa lìa tà dâm, về sau được vợ đẹp, không bị người khác chiếm đoạt.
Người lìa vọng ngữ, về sau được quả báo chân thật, không bị người khác phỉ báng.
Người lìa nói hai chiều, về sau quyến thuộc được hòa hợp, về sau thường được nghe âm thanh thắng diệu.
Người lìa bỏ lời nói phù phiếm thì về sau lời nói của mình được người khác ghi nhận.
Người lìa tâm tham, về sau không tăng thêm sự tham lam trầm trọng.
Người lìa tâm giận dữ, về sau không tăng thêm tâm giận dữ trầm trọng.
Người xa lìa tà kiến, về sau không tăng thêm tâm ngu si trầm trọng.
Người xa lìa sự kiêu mạng, về sau được sinh trong nhà hào quý, được mọi người tôn kính.
Người xa lìa tâm sân hận, về sau được thân đoan chánh, người thấy đều ưa thích.
Người xa lìa tâm đố kỵ, về sau được uy lực lớn, thành tựu sở nguyện.
Người xa lìa tâm keo kiệt, về sau được sinh ở nơi giàu có, của cải không thiếu.
Người xa lìa sự dâm dục phi xứ thì về sau được các căn thù thắng, đầy đủ tướng trượng phu.
Đại vương! Người bố thí thức ăn thức uống tức là cho sự sống, cho sắc đẹp, cho sức lực, cho niềm vui, cho tài giỏi. Thí chủ yêu mến chúng sinh được người trí khen ngợi, danh tiếng vang khắp mười phương, đi vào trong đại chúng tâm không sợ hãi. Đến khi mạng chung liền được sinh lên cõi trời, hưởng thọ cảnh giới vi diệu và thân sau cùng đắc đạo Vô thượng.
Bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử nói kệ rằng:
Người hết lòng trì giới
Hay sinh tâm hoan hỷ
Bố thí cho Sa-môn
Đời sau được bảy phước.
Sống lâu, đẹp, khỏe mạnh
Ưa biện tài thuyết giảng
Sinh trong cõi trời thiện
Cuối cùng đạt Niết-bàn.
Bởi vì hành bố thí
Chắc chắn được việc kia
Vì ưa cầu bố thí
Đời sau được an lạc.
Phước thí vui tối thắng
Người cầu ắt thành tựu
Sẽ sinh trong trời người
Cõi Sắc và Vô sắc.
Thí chủ Thánh trí tuệ
Nếu tu hạnh tinh tấn
Dứt hoàn toàn các khổ
Được trí tuệ thượng thắng.
Vì tạo vô lượng phước
Thiên ma và quyến thuộc
Người làm ác bất thiện
Không thể gây trở ngại.
Vì thế, thường bố thí
Cầu ba việc thù thắng
Đường tốt và giàu sang
Sẽ chứng đạo Vô thượng.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí nghĩ rằng: “Pháp của Tát-già Ni-kiền Tử đã nói đều là tùy thuận theo chánh pháp của Như Lai.” Rồi vua lại nghĩ: “Hôm nay, ta nên hỏi Tát-già Ni-kiền Tử, Như Lai có tâm tôn trọng không?”
Khi vua Nghiêm Sí nghĩ như vậy rồi, liền rời chỗ ngồi, xuống ngồi chỗ thấp hơn, cung kính hỏi Tát-già Ni-kiền Tử:
–Thưa Đại sư! Nay ta có một chút nghi ngờ, muốn xin hỏi. Đại sư cho phép được hỏi không?
Khi ấy, Tát-già Ni-kiền Tử đáp:
–Đại vương! Có vấn đề gì, xin cứ hỏi. Ta sẽ phân biệt giảng thuyết để nhà vua được hiểu rõ.
Vua Nghiêm Sí nghe Tát-già Ni-kiền Tử cho phép mình hỏi liền thưa rằng:
–Đại sư! Trong thế gian, có chúng sinh nào ở cảnh giới chúng sinh, thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà lại có tội lỗi không?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đấy là những người Năng vũ Bàla-môn. Họ thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ; biết giỏi về tinh tú, biết giỏi về cúng tế các loại trời, biết giỏi chú thuật, biết giỏi việc thờ lửa; biết giỏi thiên văn, mặt trời, mặt trăng, tám ngôi sao; biết rõ về tai họa của mưa đá; biết giỏi về động đất, lành dữ và thay đổi; biết giỏi về nhật thực, nguyệt thực; biết giỏi những năm trong nước mất mùa hay được mùa; biết giỏi về thế gian an ổn hay hoại diệt, nhưng những vị Bà-la-môn ấy cũng có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Những vị Bà-la-môn kia có tội lỗi gì?
Đáp:
–Đại vương! Những người Bà-la-môn này thường nhiều dâm dục, thích chiếm đoạt vợ người khác. Những người thông tuệ không nên xâm phạm vợ người khác. Vì sao? Vì chiếm đoạt vợ của người khác thì đời hiện tại cũng như trong tương lai phải chịu rất nhiều đau khổ, và bị tất cả trời người trách mắng.
Rồi nói kệ rằng:
Vợ mình không biết đủ
Ưa gần vợ người khác
Là người không hổ thẹn
Thường bị đời oán trách,
Đời hiện tại, vị lai
Chịu khổ và đánh đập
Xả thân vào địa ngục
Chịu khổ đau mãi mãi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là Phả-la-đọa Bà-la-môn. Họ thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ, biết pháp, biết lễ mà lại có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Những vị Phả-la-đọa Bà-la-môn kia có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Những vị Phả-la-đọa Bà-la-môn này thường ngủ nhiều. Người thông tuệ không nên ngủ nhiều. Vì sao? Vì ngủ nhiều sẽ làm thoái mất các hạnh, đánh mất pháp thế gian và xuất thế gian, làm chướng ngại trí tuệ, xa lìa các phiền não.
Rồi nói kệ rằng:
Nếu người ngủ quá nhiều
Lười biếng ngăn sở chứng
Người chưa chứng không chứng
Đã chứng làm thoái mất,
Nếu muốn đạt thắng đạo
Trừ ngủ, nghỉ, phóng dật
Tinh tấn giữ các niệm
Lìa ác, công đức nhóm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vương tử Hắc. Ông ta thông minh, lợi căn, đại trí và thông tuệ, có uy lực lớn nhưng cũng có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vương tử Hắc kia có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Vương tử Hắc này có nhiều sự ganh tỵ. Người thông tuệ không nên ganh tỵ. Vì sao? Nếu có người giàu sang phú quý, của cải dẫy đầy, không chịu bố thí mà còn ôm lòng ganh tỵ, những người như thế của cải không thể giữ lâu bền được. Và người ấy lúc chết chỉ bàn tay trắng, sinh vào loài ngạ quỷ chịu đói khát, khổ đau.
Rồi nói kệ rằng:
Tiếc của không bố thí
Cất giấu sợ người biết
Xả thân đi tay không
Chịu khổ trong ngạ quỷ
Đói khát, lạnh và nóng
Khổ đau thường nung nấu
Người trí không tích chứa
Biết bỏ sự tham lam.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vương tử Thắng Tiên. Ông ta thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ, có uy lực lớn, không hèn yếu, thích làm việc bố thí và cũng có công đức lớn nhưng cũng có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vương tử Thắng Tiên kia có tội lỗi gì?
Đáp:
–Đại vương! Vương tử Thắng Tiên này sát sinh rất nhiều. Người thông tuệ không nên làm việc giết hại. Vì sao? Vì tội sát sinh mắc quả báo đoản mạng, sau khi chết sinh vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
Rồi nói kệ rằng:
Sát sinh quả không tốt
Đoản mạng, nhiều bệnh tật
Tương lai sinh đường ác
Chịu đủ thứ khổ đau,
Muốn rũ bỏ khổ đau
Cầu vui thắng tương lai
Nên giúp đỡ thân khác
Như yêu chính thân mình.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vương tử Vô Úy. Ông ta thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ nhưng lại có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vương tử Vô Úy kia có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Vương tử Vô Úy này từ bi thái quá. Người thông tuệ không nên từ bi thái quá. Vì sao? Nếu vương tử của vua từ bi thái quá thì trong nước có rất nhiều giặc cướp nổi lên, quấy nhiễu nhân dân, không thể ngăn chặn được và có rất nhiều hoạn nạn.
Rồi nói kệ rằng:
Nếu vua và vương tử
Tâm Từ bi thái quá
Giặc nổi, nhiều dối gạt
Dân sợ, vua lâm nguy,
Vua nên nghĩ họa này
Cân nhắc hạnh Từ bi
Nghĩ đời chịu khổ đau
Từ bỏ tâm thái quá.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vương tử Thiên Lực. Ông ta thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ nhưng cũng có tội lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vương tử Thiên Lực kia có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Vương tử Thiên Lực này uống rượu thái quá. Người thông tuệ không nên uống rượu thái quá. Vì sao? Uống rượu thái quá sẽ quên mất mọi việc, làm trở ngại tu tập đạo lớn, đánh mất lợi ích thế gian và xuất thế gian.
Rồi nói kệ rằng:
Uống rượu nhiều phóng dật
Hiện đời thường ngu si
Bỏ quên hết mọi việc
Thường bị người trí trách,
Tương lai thường ngu tối
Đánh mất nhiều công đức
Vì thế người thông tuệ
Không uống các thứ rượu.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vương tử Bà-tẩu Thiên. Ông ta thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ, có uy lực lớn, tâm không hèn yếu, thường ưa bố thí, có đại uy đức nhưng vẫn có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vương tử Bà-tẩu Thiên kia có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Vương tử Bà-tẩu Thiên này thông hiểu mọi việc nhưng làm việc rất chậm chạp. Người thông tuệ không nên làm việc quá chậm chạp. Vì sao? Vì người làm việc chậm chạp không đúng tiết thì sẽ mất nhiều lợi ích. Làm cho việc đấu tranh rất khó diệt được. Vì thế, người thông tuệ làm việc phải đúng thời, không nên chậm chạp.
Rồi nói kệ rằng:
Người thi hành chậm chạp
Công việc bị mất nhiều
Việc chưa được không được
Việc được rồi lại mất
Không làm việc chậm nữa
Hãy làm việc đúng lúc
Quá thời không lợi ích
Cho nên, mất mát nhiều.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vương tử Đại Tiên. Ông ta thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ, có uy lực lớn nhưng cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vương tử Đại Tiên có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Vương tử Đại Tiên này tâm tham thái quá. Do sự điên đảo che lấp tâm nên thường cướp đoạt của cải của người khác. Người thông tuệ không nên quá tham lam. Vì sao? Vì người tham lam thái quá thì sẽ không gần gũi chúng sinh. Khi xả thân này liền sinh vào địa ngục.
Rồi nói kệ rằng:
Người tham chứa góp nhiều
Không bao giờ biết đủ
Tâm vô minh điên đảo
Thường nghĩ cướp đoạt người
Hiện tại nhiều oán ghét
Xả thân sinh địa ngục
Cho nên người có trí
Phải nghĩ đến tri túc.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vương tử Đại Thiên. Ông ta thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ có uy lực lớn nhưng lại có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vương tử Đại Thiên kia có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Vương tử Đại Thiên này cười đùa vô độ, phóng túng quá mức. Người thông tuệ không nên đùa giỡn vô độ, phóng túng quá mức. Vì sao? Vì người buông lung quá độ sẽ làm chướng ngại pháp chỉ và pháp quán. Tội đùa giỡn này là nhân của đường ác.
Rồi nói kệ rằng:
Cười đùa tâm cấu uế
Tâm không trụ Tam-muội
Bị người trí quở trách
Hành thiện không giải thoát
Muốn được mau lợi ích
Nên lìa những buông lung
Hiện tại không an ổn
Mất danh tiếng công đức.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Đó là vua Ba-tư-nặc ở nước Kiềutát-la. Ông ta thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ nhưng cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Vua Ba-tư-nặc kia có tội gì?
Đáp:
–Đại vương! Vua Ba-tư-nặc này ăn uống quá nhiều. Người thông tuệ không nên ăn uống quá nhiều. Vì sao? Vì ăn uống quá nhiều thì thân thể đi lại khó khăn, biếng nhác và thức ăn khó tiêu hóa. Hơn nữa, người ấy xa lìa lợi ích pháp thiện trong hai đời hiện tại và vị lai.
Rồi nói kệ rằng:
Người ăn uống thái quá
Thân nặng, nhiều biếng nhác
Đời hiện tại vị lai
Thân mất lợi ích lớn
Ngủ nghỉ tự chuốc khổ
Cũng làm phiền người khác
Mê mờ khó tỉnh thức
Phải thời ăn vừa đủ.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Trong thế gian lại có các chúng sinh thông minh, đại trí, lợi căn và thông tuệ mà có tội lỗi nữa chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ cũng có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những chúng sinh như thế?
Đáp:
–Đại vương! Chúng sinh này chính là nhà vua vậy. Đại vương cũng rất thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ, có uy lực lớn, tâm không hèn kém, thích bố thí và có đầy đủ uy đức nhưng lại có tội.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Con mắc phải tội gì?
Đáp:
–Tội của Đại vương thật bạo ác. Đại vương ăn quá nhiều, rất nôn nóng, vội vã và quá cứng nhắc. Người thông tuệ không nên có những điều xấu như thế. Vì sao? Nếu vua hoặc vương tử tánh tình quá xấu thì mọi người không nghe theo, nhiều người không yêu quý, nhiều người không thích, cho đến cả cha mẹ cũng không muốn nhìn thấy mặt, huống gì người khác như đại thần, vương tử, trưởng giả, cư sĩ…! Vì thế, người thông tuệ không nên quá ác. Người thông tuệ muốn làm việc gì phải bình tĩnh, hiểu rõ tường tận, không nên từ tốn.
Rồi nói kệ rằng:
Nếu vua hành ác hạnh
Tâm sân không thấy việc
Hành động chúng sinh hãi
Ngay cả cha mẹ sợ,
Huống gì đến người khác
Nên có niệm Từ bi
Đại vương phải nên biết
Người trí bỏ giận dữ.
Lúc bấy giờ, vua Nghiêm Sí đang ngồi đối diện, nghe Tát-già Ni-kiền Tử phỉ báng mình, sinh tâm giận dữ, tâm sân hận, buồn bực, không vui, lại còn sinh tâm độc ác nói:
–Tát-già Ni-kiền Tử! Tại sao hôm nay trong đại chúng, người nói tội lỗi của ta và hủy nhục ta như thế? Từ xưa tới nay, không ai dám nhìn thẳng mặt ta. Nay người hủy nhục ta là đáng tội chết.
Nói xong, vua rất tức giận bảo các đại thần:
–Các ngươi nên bắt Sa-môn ngu si nói lời không ái ngữ này giết đi!
Lúc ấy, Tát-già Ni-kiền Tử kinh hãi, lông trên người dựng đứng, nói với vua Nghiêm Sí:
–Đại vương! Xin chớ vội vàng làm việc ác như thế sẽ bất lợi cho ta. Ta có lời thiện, xin nhà vua tạm thời cho tôi sự không sợ sệt tôi sẽ nói.
Nhà vua bảo:
–Sa-môn! Ta cho người sự không sợ sệt, muốn nói gì thì hãy nói mau.
Tát-già Ni-kiền Tử nói:
–Đại vương! Tôi cũng có tội vậy.
Nhà vua hỏi:
–Sa-môn, ông có tội gì? Tát-già Ni-kiền Tử đáp:
–Tội của tôi, do khi nói đến việc gì là nói lời quá chân thật, không nói lời giả dối mà chỉ lời nói đúng sự thật. Vì tôi nói lời chân thật trước người ác hạnh, trước một người đáng sợ, trước người có tánh tình vội vã, trước người không Từ bi và trước người làm việc gấp gáp như thế. Đối với người ác như thế mà nói lời chân thật. Đại vương nên biết! Người thông tuệ không nên lúc nào hay ở đâu cũng đều nói lời chân thật. Vì sao? Vì không có lợi ích.
Đại vương! Người thông tuệ phải nên khéo quán sát, người nào có thể nói, người nào không thể nói; phải nên khéo biết có lúc nên nói, có lúc không nên nói; phải khéo biết có chỗ nên nói, có chỗ không nên nói rồi sau đó mới nói. Vì sao? Vì lời nói chân thật người đời không yêu, không thích; người trí không khen ngợi và người ngu ở thế gian sân giận.
Rồi nói kệ rằng:
Người trí không biết lúc
Vội buông ý nói thật
Bị người trí quở trách
Huống gì người vô trí,
Người trí ở mọi nơi
Không nên nói thật hết
Thật là Kiều-thi-ca
Nói thật vào đường ác.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí nghe Tát-già Ni-kiền Tử nói lỗi mình liền được hiểu rõ, tâm rất vui mừng thưa rằng:
–Thưa Đại sư! Đại sư không có tội, do tôi quá khinh suất. Nay được thầy chỉ dạy, như trong tăm tối được đèn, như người mù được mắt sáng, tôi luôn luôn ghi nhớ. Nay xin sám hối, xin đừng vì tôi mà bỏ lời nói chân thật!
Rồi nhà vua nói kệ rằng:
Tôi thật là ngu tối
Không biết lời tri thức
Bởi thế sinh tâm ác
Buông lời ác như vậy
Nay ở trước Thánh nhân
Sám hối tội lỗi mình
Nguyện thương các chúng sinh
Khiến cho được hết tội.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí đã nghe Tát-già Nikiền Tử nói rồi, tâm rất vui mừng, liền hỏi điều nghi ngờ:
–Thưa Đại sư! Nay những chúng sinh sống trong thế giới này, có người nào thông minh, đại trí, lợi căn, thông tuệ, biết pháp và phi pháp mà không có tội chăng?
Đáp:
–Đại vương! Có những chúng sinh này và họ không có tội lỗi. Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Nay ai là những người như thế? Đáp:
–Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm, con dòng họ Thích, sinh ra ở trong Vương gia họ Thích, vì đạo xuất gia.
Đại vương nên biết! Ở trong kinh Từ-vi-đà có nói: “Sa-môn Cù-đàm dòng họ Thích kia không có tội lỗi. Bởi vì sinh trong Vương gia, không có sự ganh tỵ. Vì sao? Vì sinh ở trong nhà vua Chuyển luân, thuộc dòng họ cao quý nên không thể ganh tỵ. Vì sao? Vì sinh ở trong nhà thuộc dòng họ Cam giá, phước đức trang nghiêm nên không thể có sự ganh tỵ. Vì sao? Vì thân có đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, đầy đủ sự thật không thể ganh tỵ. Vì sao? Vì đầy đủ hoàn toàn thành tựu trì giới, mười Lực, bốn Vô sở úy và mười tám pháp Bất cộng. Như thế, biết Sa-môn Cù-đàm kia không có tội.”
Đại vương! Sa-môn Cù-đàm con của dòng họ Thích kia, nếu không vì đạo bỏ nhà xuất gia thì sẽ thành bậc Chuyển luân thánh vương, làm vua trong bốn châu thiên hạ, sẽ làm vị Pháp vương thực hành pháp hạnh. Ngài có đầy đủ bảy báu, như xe báu, voi báu, ngựa báu, phu nhân báu như ý, đại thần báu, chủ kho báu và có đầy đủ ngàn người con, dũng mãnh tuấn kiệt, lại có tướng trượng phu. Thân của Ngài có đầy đủ uy đức, không thể chê bai được; có năng lực hàng phục các quân đội khác; thành tựu đầy đủ tướng Chuyển luân vương ở trong bốn thiên hạ, đều được tự tại, không có ai hơn Ngài. Ở trong đại địa này không có oán thù, không có não hại, không có vũ khí mà chỉ dựa theo pháp cai trị, sống trong sạch, bình đẳng tự tại.
Hơn thế nữa, Vương tử Sa-môn Cù-đàm kia cũng không thích thú vui ở thế gian, lại bỏ nhà xuất gia, dũng mãnh tinh tấn, thực hành đại khổ hạnh, ngày ăn một hạt vừng hay một hạt gạo, tâm không lười biếng. Trải qua sáu năm tu khổ hạnh, thành Đẳng chánh giác, ngồi nơi đạo tràng tu khổ hạnh, thu phục ma lực, nhất tâm nghĩ về điều mình đã biết, điều mình đã đắc, đã thấy và điều đã chứng ngộ tương ứng với trí tuệ. Tất cả pháp đã chứng ngộ kia không bởi học từ thầy mà chính tự trí của mình thể chứng được giác trí như thật ấy. Cho nên biết rằng, tất cả thế gian Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn không ai có thể bằng Sa-môn Cù-đàm, huống gì có người hơn Sa-môn Cù-đàm là Bậc Vô Đẳng Đẳng, Vô Thắng Đẳng! Bởi thế, Ngài không có lỗi lầm. Vì sao? Vì dòng họ của Samôn Cù-đàm kia không ai bằng, thân tướng không ai bằng, trí tuệ không ai bằng, nên không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Thân sinh dòng họ quý
Các tướng trăm phước quý
Tám mươi vẻ đẹp diệu
Trang nghiêm tự thân Phật
Sáu năm tu khổ hạnh
Ngồi dưới cây Bồ-đề
Thu phục các chúng ma
Đạt đến Nhất thiết trí
Là Thầy các trời người
Thường nghĩ lợi thế gian
Từ bi tâm bình đẳng
Cứu khổ không oán thân
Thành Ba-la-nại nói
Pháp tương ứng Tứ đế
Vô ngã, mạng, chúng sinh
Cho nên không lỗi lầm.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí thưa Tát-già Ni-kiền Tử:
–Thưa Đại sư! Nên nói cho chúng tôi biết thế nào là ba mươi hai tướng Đại trượng phu của Như Lai, và cách dùng ba mươi tướng này trang nghiêm thân và được tên Đại trượng phu sư tử chúa.
Khi ấy, Đại Tát-già Ni-kiền Tử bảo vua Nghiêm Sí:
–Đại vương! Xin chí thành lắng nghe, tôi sẽ nói.
Nhà vua trả lời:
–Thưa Đại sư! Tôi xin được nghe.
Tát-già Ni-kiền Tử nói:
–Đại vương! Ba mươi hai tướng tốt của Sa-môn Cù-đàm, đó là:
1. Dưới bàn chân của Sa-môn Cù-đàm rất bằng phẳng, đứng vững vàng trên đất.
2. Dưới bàn chân của Sa-môn Cù-đàm có đầy đủ tướng “Thiên bức luân” (bánh xe ngàn căm).
3. Sa-môn Cù-đàm tay, chân mềm mại giống như vải hoa trời.
4. Các ngón tay của Sa-môn Cù-đàm dài và rất thon thả.
5. Giữa các ngón tay của Sa-môn Cù-đàm có màng lưới.
6. Gót chân của Sa-môn Cù-đàm rất tròn trịa.
7. Mu bàn chân của Sa-môn Cù-đàm đầy đặn.
8. Sa-môn Cù-đàm có đùi nai chúa.
9. Sa-môn Cù-đàm thân tướng đoan nghiêm.
10. Âm tàng của Sa-môn Cù-đàm như ngựa chúa.
11. Sa-môn Cù-đàm mỗi một lỗ chân lông trên người, chỉ mọc một sợi lông không lẫn lộn nhau.
12. Tóc của Sa-môn Cù-đàm có màu sắc như lưu ly tinh diệu.
13. Lông trên thân Sa-môn Cù-đàm mọc hướng lên trên rất mềm mại.
14. Da của Sa-môn Cù-đàm có màu sắc như vàng.
15. Da của Sa-môn Cù-đàm mịn màng và mềm mại.
16. Bảy chỗ của Sa-môn Cù-đàm bằng phẳng.
17. Hai vai của Sa-môn Cù-đàm tròn dầy.
18. Hai vai của Sa-môn Cù-đàm cao và ngang bằng như núi vàng.
19. Thân thể của Sa-môn Cù-đàm rất cao lớn.
20. Thân thể của Sa-môn Cù-đàm thon thả, ngay thẳng như chúa Ni-câu.
21. Má của Sa-môn Cù-đàm như má của Sư tử.
22. Sa-môn Cù-đàm có đủ bốn mươi chiếc răng.
23. Răng của Sa-môn Cù-đàm khít và sát.
24. Răng của Sa-môn Cù-đàm đều và bằng phẳng.
25. Răng của Sa-môn Cù-đàm trắng như tuyết.
26. Lưỡi của Sa-môn Cù-đàm thưởng thức được vị tối thặng.
27. Lưỡi của Sa-môn Cù-đàm che hết cả mặt.
28. Tiếng nói của Sa-môn Cù-đàm như tiếng Phạm.
29. Mắt của Sa-môn Cù-đàm như mắt trâu chúa, trên dưới đều có thể nhìn lên xuống được.
30. Con mắt của Sa-môn Cù-đàm tươi sáng như cánh hoa sen xanh.
31. Trên trán của Sa-môn Cù-đàm có sợi lông dài thể hiện tướng công đức đầy đủ.
32. Đầu của Sa-môn Cù-đàm rất cao, không thấy đảnh.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm dùng ba mươi hai tướng tốt này trang nghiêm thân, nên gọi là Đại trượng phu sư tử chúa.
Rồi nói kệ rằng:
Đảnh cao tướng vi diệu
Thân trang nghiêm tối thắng
Tóc như lưu ly xanh
Màu đẹp xoáy bên phải.
Mắt đẹp giống trâu chúa
Như cánh hoa sen xanh
Cho nên, thân Cù-đàm
Chỉ khen không ganh tỵ.
Giọng Cù-đàm vi diệu
Vượt các tiếng Phạm thế
Như chim Ca-lăng-già
Các chim đều không bằng.
Lưỡi che khắp cả mặt
Sạch như cánh hoa sen
Diệu tướng vượt quần sinh
Cho nên, đời không bằng.
Lưỡi nếm đến thượng vị
Các vị không sai khác
Mau thành thân tướng đẹp
Nên Phật không lỗi lầm.
Răng công đức Cù-đàm
Tất cả không ai bằng
Trong sáng như ngọc tuyết
Ngang bằng không lồi lõm.
Gò má cao và rộng
Vuông như Sư tử chúa
Môi hồng ai cũng khen
Giống như trái Tần-bà.
Hai vai cao và bằng
Trước sau đều tròn trịa
Thần quang chiếu các mắt
Cao đẹp như núi vàng.
Các tướng thân Cù-đàm
Trang nghiêm ba mươi hai
Trên dưới thân tròn đầy
Như cây chúa Ni-câu.
Thân Cù-đàm cao lớn
Đứng vững không chê được
Trí giả thường mong đợi
Ưa nhìn không biết chán.
Cù-đàm thân công đức
Bảy chỗ đều đầy đủ
Màu da luôn tươi sáng
Như vàng Diêm-phù-đàn.
Lông thân nhỏ mềm mại
Bụi trần không làm nhơ
Mọc xoáy về bên phải
Dựa nhau hướng lên trên.
Tóc sạch màu xanh đẹp
Dày rậm không thưa thớt
Cho nên tướng Cù-đàm
Hơn các tướng thế gian.
Thân Cù-đàm ngay thẳng
Ngồi đứng không cong quẹo
Âm tàng tướng ngựa chúa
Cũng như Đại Long vương.
Đùi như chân nai chúa
Lớn nhỏ trên dưới đều
Cho nên người trí nhìn
Không có tâm nhàm chán.
Ngón tay, chân có màng
Trong ngoài thường tươi sáng
Móng như lá đồng đỏ
Ngón như hình đốt đồng.
Thân mu chân đầy cao
Dáng tròn như viên ngọc
Gót bàn chân rất đẹp
Ngang bằng không cao thấp.
Các ngón nhỏ và dài
Co duỗi rất mềm mại
Dưới chân phẳng đứng vững
Dẫm đất thường an ổn.
Đây là phước Cù-đàm
Công đức như các núi
Theo nhóm công đức đây
Hiện thành thân Cù-đàm.
Thân công đức như vậy
Hơn thế gian trời người
Như trăng tròn sáng kia
Xuất hiện giữa các sao.
Cù-đàm tướng Trượng phu
Công đức trang nghiêm thân
Đại Bi tự tại hiện
Lợi ích các thế gian.
Pháp thanh tịnh không dơ
Vô lượng các công đức
Các diệu tướng như thế
Chỉ cảnh giới Cù-đàm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Tám mươi vẻ đẹp của Như Lai là những nghiêm thân, nên nói Như Lai có trăm phước tướng trang nghiêm thân công đức?
Đáp:
–Đại vương! Nay tôi nói ví dụ về sự thành tựu của việc này. Nếu gom hết chúng sinh thuộc bốn loại sinh trong tam thiên đại thiên thế giới; nghĩa là những loài sinh bằng trứng, sinh bằng thai, sinh bằng ẩm ướt, sinh bằng biến hóa. Tất cả những chúng sinh này, giả sử cùng một lúc được làm thân người. Khi đã được làm thân người rồi, mỗi mỗi chúng sinh ấy đều tu mười thiện nghiệp, thành tựu phước đức của vua Chuyển luân thánh.
Những chúng sinh ấy đã tu thành tựu phước đức hội tụ của vua Chuyển luân thánh rồi, mỗi mỗi phước đức ấy lại tăng lên gấp trăm lần thì chỉ mới thành tựu tướng công đức của một lỗ chân lông Cù-đàm. Đó là công đức trong một lỗ chân lông, còn công đức trong mỗi mỗi lỗ chân lông khác cũng như thế.
Đại vương nên biết! Công đức trong tất cả lỗ chân lông lại tăng lên trăm lần thì chỉ mới thành tựu một công đức tốt ở thân Sa-môn Cù-đàm. Đó là một công đức tốt, còn mỗi công đức khác cũng lại như thế.
Như vậy, tất cả các công đức tốt lại tăng lên trăm lần thì chỉ mới thành tựu một tướng công đức Đại trượng phu trong thân Sa-môn Cù-đàm. Đó là một tướng công đức, còn các tướng công đức khác cũng lại như thế.
Như vậy, ba mươi hai tướng công đức lại tăng lên trăm lần thì chỉ mới thành tựu một tướng công đức giữa lông trắng chân mày của Sa-môn Cùđàm. Như vậy, tướng công đức lông trắng giữa chân mày lại tăng lên trăm lần mới được thành tựu một tướng đỉnh đầu công đức trong tướng Đại trượng phu của Sa-môn Cù-đàm.
Như vậy, công đức tướng đảnh đầu lại tăng thêm trăm, ngàn, vạn, ức lần mới được thành tựu một âm thanh như tiếng ốc công đức trong tướng Đại trượng phu của Sa-môn Cù-đàm.
Sa-môn Cù-đàm với công đức tiếng ốc này, tất cả những âm thanh của tất cả chúng sinh trong cảnh giới chúng sinh, với ngôn ngữ không đồng nhau, cùng một lúc đưa ra trăm ngàn câu hỏi khác nhau. Có những sự việc mà chúng sinh này hỏi rồi, chúng sinh khác không hỏi nữa. Nhưng có thể bằng trí tuệ, chỉ trong một niệm dùng một âm thanh trả lời tất cả các câu hỏi của chúng sinh ấy và có thể khiến cho họ cùng một lúc hiểu rõ vấn đề mình hỏi. Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm dùng công đức này trang nghiêm thân, nên gọi là thành tựu tướng Đại trượng phu. Bởi thế, Sa-môn Cùđàm đã thành tựu thân tướng trăm phước công đức, nên Sa-môn Cù-đàm thành tựu âm thanh vi diệu của Phạm vương.
Rồi nói kệ rằng:
Thân công đức Cù-đàm
Chứa nhóm trăm phước tướng
Giáo hóa các quần sinh
Nên gọi Thầy trời người.
Thấy, nghe và nhận vật
Phước ấy không thể lường
Cù-đàm xuất thế gian
Lợi ích các chúng sinh.
Cõi chúng sinh sai khác
Tùy loài hỏi khác nhau
Cù-đàm chỉ một niệm
Một âm đáp liền hiểu.
Cù-đàm hiện thế gian
Hay dùng âm thanh Phạm
Chuyển pháp luân tối thượng
Khiến trời người hết khổ.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí hỏi Tát-già Ni-kiền Tử bằng bài kệ:
Đại sư hãy nói tên
Các tướng nhỏ Như Lai
Xin vì các chúng sinh
Và tôi, phân biệt nói.
Lúc đó, Tát-già Ni-kiền Tử trả lời vua Nghiêm Sí:
–Đại vương! Người có thể vì các chúng sinh xiển dương thiểu tướng công đức của Như Lai sẽ có lợi ích lớn. Nay người lắng nghe, ta phân biệt nói rõ từng tướng một:
Sa-môn Cù-đàm có tám mươi tướng hảo. Theo những tướng hảo ấy, ta nói rộng về tướng công đức của Sa-môn Cù-đàm, giống như trăng rằm mùa thu xuất hiện giữa các sao.
Tám mươi tướng ấy là:
1. Tướng đầu của Sa-môn Cù-đàm rất uy nghiêm, trên dưới đều tương ứng.
2. Tướng đầu của Sa-môn Cù-đàm tròn đẹp như trái cây Ma-đà-la.
3. Tóc của Sa-môn Cù-đàm dài, đẹp và mềm mại như tơ Uy hắc.
4. Tóc của Sa-môn Cù-đàm suôn thẳng, không rối rắm.
5. Lông và tóc của Sa-môn Cù-đàm uyển chuyển xuôi theo một mái về bên phải.
6. Tóc và da của Sa-môn Cù-đàm có màu sắc bóng loáng như lưu ly xanh.
7. Chân mày của Sa-môn Cù-đàm trắng xóa như trăng mới mọc.
8. Mắt của Sa-môn Cù-đàm dài lớn như cánh hoa sen xanh.
9. Trái tai của Sa-môn Cù-đàm thòng dài như giọt sương nhiễu xuống.
10. Mũi của Sa-môn Cù-đàm dài, cao và thẳng không thấy lỗ.
11. Miệng của Sa-môn Cù-đàm có hương thơm thanh khiết, người ngửi không biết chán.
12. Lưỡi của Sa-môn Cù-đàm có màu sắc sáng đỏ như lá đồng đỏ.
13. Lưỡi của Sa-môn Cù-đàm nhỏ, mỏng, láng sắc và mềm mại.
14. Môi của Sa-môn Cù-đàm có màu sắc đỏ hồng như quả Tần-bà.
15. Răng của Sa-môn Cù-đàm trắng, nhỏ và rất sắc bén, có ánh sáng phản chiếu trong miệng.
16. Sắc mặt của Sa-môn Cù-đàm tươi sáng rực rỡ như tấm gương sáng.
17. Khuôn mặt của Sa-môn Cù-đàm trên dưới, rộng hẹp đều rất tương xứng.
18. Khuôn mặt của Sa-môn Cù-đàm tươi đẹp như vầng trăng tròn.
19. Khuôn mặt của Sa-môn Cù-đàm uy nghiêm thù thắng, ai nhìn cũng thích.
20. Thân thể của Sa-môn Cù-đàm sạch sẽ, bụi trần không làm dơ.
21. Thân thể của Sa-môn Cù-đàm trong sạch, mềm mại, như tấm lụa, trắng như hoa, xanh tươi rực rỡ.
22. Thân Sa-môn Cù-đàm cao lớn, ngay thẳng như cờ Đế Thích.
23. Các vằn chỉ trên thân Sa-môn Cù-đàm có tướng phước đức siêu việt.
24. Thân thể Sa-môn Cù-đàm mềm mại, trơn láng như bôi dầu.
25. Thân thể Sa-môn Cù-đàm to nhỏ như cây chúa Ni-câu thẳng thắng, tròn trịa.
26. Các tướng tốt trên thân Sa-môn Cù-đàm người không thể chê được.
27. Sức mạnh của Sa-môn Cù-đàm không ai địch nổi, như Na-la-diên.
28. Sa-môn Cù-đàm dung mạo, cử chỉ rất uy nghi, tiến hoặc lùi đều có phép tắc.
29. Các tướng tốt ở trên thân Sa-môn Cù-đàm, tất cả chúng sinh thích ngắm không nhàm chán.
30. Các hình tướng trên thân Sa-môn Cù-đàm, các chúng sinh ác trông thấy sẽ sinh tâm vui mừng.
31. Bước đi của Sa-môn Cù-đàm rất uy nghiêm, chúng sinh nhìn không biết chán.
32. Sa-môn Cù-đàm mỗi khi xoay người lại nhìn giống như voi chúa.
33. Sa-môn Cù-đàm cử động thân thể hiện tướng uy nghi như sư tử chúa.
34. Thân Sa-môn Cù-đàm vững vàng luôn ổn định.
35. Thân tướng Sa-môn Cù-đàm cao lớn không thể đo lường được.
36. Thân Sa-môn Cù-đàm cao lớn, không có tướng thấp nhỏ.
37. Vầng ánh sáng khắp trên thân Sa-môn Cùđàm tỏa ra với chu vi một trượng.
38. Thân Sa-môn Cù-đàm có các tướng ánh sáng chiếu soi khắp mười phương.
39. Sa-môn Cù-đàm thân tướng tôn quý, người thấy đều quy phục.
40. Da của Sa-môn Cù-đàm mịn màng, thường có ánh sáng.
41. Da của Sa-môn Cù-đàm trơn láng bằng phẳng, không có tướng già nhăn.
42. Ánh sáng trên thân Sa-môn Cù-đàm chiếu đến thì mắt chúng sinh không dám nhìn thẳng.
43. Thân Sa-môn Cù-đàm sáng tỏ, ban ngày cũng như ban đêm.
44. Những lỗ chân lông trên thân Sa-môn Cùđàm tiết ra mùi thơm vi diệu.
45. Tướng mạo và uy đức của Sa-môn Cù-đàm vượt hẳn thế gian.
46. Các đường gân, mạch máu trên thân Samôn Cù-đàm ẩn sâu, không lộ ra.
47. Các đốt xương của Sa-môn Cù-đàm nối liền nhau như mắt xích.
48. Lông trên thân Sa-môn Cù-đàm nhỏ nhắn, mịn màng và tất cả đều xoáy về bên phải.
49. Lông trên thân Sa-môn Cù-đàm có màu sắc sáng rực rỡ như vàng Diêm-phù-đề.
50. Sa-môn Cù-đàm chân tay có màu sắc đỏ trắng như hoa.
51. Tay chân Sa-môn Cù-đàm tươi tắn, sạch sẽ và luôn luôn mềm mại.
52. Mười ngón tay Sa-môn Cù-đàm nhỏ thon, dài rất đẹp.
53. Mắt cá chân của Sa-môn Cù-đàm không lộ ra, ngang bằng không cao, không thấp.
54. Xương đùi của Sa-môn Cù-đàm cứng dài trên dưới đều đầy đặn đẹp.
55. Tay chân Sa-môn Cù-đàm đều đặn không cao thấp.
56. Các ngón tay của Sa-môn Cù-đàm mềm mại, trong ngoài đều nắm được.
57. Các đường chỉ trong bàn tay Sa-môn Cùđàm nhỏ, hiện rất rõ và kín đáo.
58. Chỉ tay Sa-môn Cù-đàm ngay thẳng rõ ràng.
59. Chỉ tay của Sa-môn Cù-đàm không đứt đoạn.
60. Móng tay Sa-môn Cù-đàm mỏng, láng bóng và có màu sắc như đồng đỏ.
61. Sa-môn Cù-đàm đứng ngay thẳng, vững vàng không nghiêng ngửa.
62. Sa-môn Cù-đàm đứng rất vững vàng, không ai có thể lay chuyển được.
63. Thân Sa-môn Cù-đàm cử động có uy lực giống như sư tử chúa.
64. Sa-môn Cù-đàm quay thân lại nhìn giống như voi đại chúa.
65. Bước đi của Sa-môn Cù-đàm thẳng thắng không xiêu vẹo.
66. Bước đi của Sa-môn Cù-đàm bình thản như voi chúa.
67. Sa-môn Cù-đàm mỗi khi nhấc bước chân đi như ngỗng trắng chúa.
68. Sa-môn Cù-đàm bước đi không chạm đất, nhưng thân tướng in rõ trên đất.
69. Sa-môn Cù-đàm chín lỗ đầy đủ và đều.
70. Bụng của Sa-môn Cù-đàm nhỏ, không lộ ra.
71. Lỗ rốn của Sa-môn Cù-đàm sâu và tròn.
72. Âm thanh của Sa-môn Cù-đàm hòa nhã lớn nhỏ đều hay.
73. Tiếng nói của Sa-môn Cù-đàm rất vi diệu, vang xa, ai nghe cũng đều hiểu được.
74. Giọng nói của Sa-môn Cù-đàm tùy theo ý nghĩ của chúng sinh khi nghe đều được vui vẻ.
75. Giọng nói của Sa-môn Cù-đàm tùy theo phương hướng, không tăng không giảm.
76. Sa-môn Cù-đàm thuyết pháp đúng lúc, đúng trình độ không sai.
77. Sa-môn Cù-đàm có khả năng nói theo tiếng của địa phương ở khắp mọi nơi.
78. Sa-môn Cù-đàm thuyết pháp bằng một thứ tiếng mà khiến cho tất cả mọi loài khác nhau đều hiểu được.
79. Sa-môn Cù-đàm tùy theo nhân duyên thứ tự thuyết pháp.
80. Giữa ngực Sa-môn Cù-đàm có chữ vạn biểu hiện tướng công đức.
Đại vương nên biết! Đó gọi là Sa-môn Cù-đàm thành tựu thân tướng công đức, với tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm. Tất cả Thanh văn, Bích-chiphật, các Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn và các ngoại đạo không ai có được như thế, vì vậy, ta nói không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Đại vương nghe ta nói
Phật tám mươi vẻ đẹp
Đó là các tướng tốt
Trang nghiêm thân Cù-đàm.
Móng tay Ngài tròn đẹp
Hình như nửa ống trúc
Màu đồng đỏ tuyệt vời
Sáng tươi như bôi dầu,
Thịt giữa ngón bằng phẳng
Thứ tự rất đều nhau
Chỉ tay đều ngay thẳng
Sâu nhỏ tướng rõ ràng,
Mạch sâu không tướng khác
Môi đỏ quả Tần-bà
Chân khéo trụ đều nhau
Cho nên thường an ổn.
Mắt cá ẩn không hiện
Cao thấp khó phân biệt
Trong tay phát ánh sáng
Biểu hiện tướng công đức.
Tướng lưỡi rất mềm mại
Như lụa hoa trời mới
Mỏng như lá đồng đỏ
Sắc sáng thường tươi tắn.
Các đốt xương ẩn sâu
Diệu tướng thật khó thấy
Hai tay quá đầu gối
Trời, người đều khen ngợi.
Tiếng diệu vang rất xa
Giống như rồng chúa lớn
Như mưa sấm giữa trời
Tiếng vi diệu vượt hơn.
Cù-đàm thân trăng tròn
Hợp với thật tướng tinh
Hình đẹp rất đoan nghiêm
Trên dưới đều tròn đầy.
Dứt hẳn thân tướng xấu
Đầy đủ các công đức
Ngực nở như Sư tử
Mỗi tướng đẹp khác nhau.
Tay chân ánh sáng đẹp
Da như màu vàng tươi
Cho nên các công đức
Mỗi đức không thể chê.
Thân tướng đẹp thứ tự
Lìa các tướng thô xấu
Tướng rốn tròn và thẳng
Lỗ sâu không quanh co,
Tất cả các phần thân
Công đức tụ hợp thành
Các hạnh đều thanh tịnh
Sáng sạch lìa tối dơ.
Thân công đức như thế
Thiện đủ không nghi ngờ
Vì vậy các thế gian
Thích nhìn không nhàm chán.
Đứng dậy như rồng chúa
Mạnh mẽ động hang sâu
Bước đi như trâu chúa
Uy như sư tử chuyển.
Thân tướng rất mềm mại
Khớp xương không rời nhau
Bước tới như ngỗng chúa
Không mau cũng không chậm.
Bụng thon không lộ ra
Sườn mềm mại bằng phẳng
Lông sáng bóng xuôi phải
Ánh sáng như điện chớp.
Bước đi tới hoặc lui
Các tướng hiện điềm lành
Lìa các màu đen tối
Không có nốt ruồi xấu.
Mày như trăng đầu tháng
Cũng như vàng đen huyền
Mắt trong không đục dơ
Mắt lớn sáng như sao.
Miệng Ngài vuông tròn đẹp
Tiếng hay phát âm hòa
Các tướng vượt quần sinh
Lìa những dây phiền não.
Lông mày rất tươi đẹp
Mũi thẳng ống treo ngược
Hai mắt lớn và dài
Như cánh hoa sen xanh,
Mi đều giáp liền nhau
Tướng tròn đầy như khuôn
Răng dài sắc đều nhau
Răng sáng tỏa trong miệng,
Lông thân ngang bằng nhau
Cổ, họng không cao thấp
Cho nên tướng Cù-đàm
Người, trời không bằng được.
Đầu tròn như chiếc dù
Xương trên đỉnh ngang bằng
Da trán không nhăn nheo
Như viên ngọc thật tròn.
Lông Cù-đàm mịn màng
Không rối, không phân tán
Uyển chuyển xoáy về phải
Thường xuất tỏa hương thơm,
Lông Cù-đàm tươi sạch
Trần cấu không thể nhiễm
Như lưu ly trong sáng
Không bị vẫy bùn dơ,
Lông Cù-đàm đầy đủ
Từng sợi thứ tự mọc
Như cây cỏ Lăng chỉ
Đều mịn không rối nhau,
Lông Cù-đàm mềm mại
Như lông bụng ong chúa
Lìa tướng bệnh yếu già
Tóc đen không đổi trắng.
Ngực Cù-đàm nở nang
Giống như sư tử vương
Như voi, như lộng cao
Cũng như mốc Kim cang,
Như bình vàng đứng thẳng
Như bức tranh cuốn tròn
Như hoa Bát-đầu-ma
Như ngọc công đức trời,
Như ngồi xếp kiết già
Mỗi mỗi trong các đốt
Sức như Na-la-diên
Vì vậy, vượt thế gian.
Cù-đàm, ngực chữ vạn
Đầy đủ ngàn căm xe
Tay chân tướng không khác
Ngàn căm không khác nhau,
Chủ nhân chính là đây
Các tiểu tướng Cù-đàm
Nhị thừa và ngoại đạo
Trời người đều không bằng.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã thành tựu thân với các tướng đẹp như thế. Tất cả chúng sinh không ai có được như vậy, nên ta nói Sa-môn Cù-đàm không có lỗi lầm.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu năng lực tâm đại Từ, có thể làm đến lợi ích rất lớn cho tất cả chúng sinh, không có tâm hại. Tâm đại Từ ấy không bị ngăn ngại, không bị cách trở, luôn luôn vận hành, tự nhiên tỏa chiếu khắp các cảnh giới trong thế gian, đi thẳng vào phiền não sử của các chúng sinh.
Đại vương nên biết! Giống như nước trong sạch, nhờ ngọc báu Ma-ni, vì bản chất của nó làm trong sạch nước, tự nó là trong sáng mà làm cho tất cả nước đục thành trong. Cũng vậy, nước tâm đại Từ, tự thân thanh tịnh, lại có khả năng làm cho thanh tịnh tất cả nước đục kiến chấp, bùn phiền não của tất cả chúng sinh. Sa-môn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu rộng lớn như thế, nên ta nói Sa-môn Cù-đàm không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Cù-đàm đại Từ bi
Xem khắp mười phương cõi
Tâm đối các chúng sinh
Không lúc nào rời bỏ,
Nên gọi Phật Thế Tôn
Thành tựu tâm đại Bi
Vì thế, Nhất thiết trí
Không có những lỗi lầm.
Như nước trong sạch kia
Ngọc như ý ma-ni
Tự thể vốn sáng trong
Làm sạch các nước đục,
Cũng vậy, Đức Cù-đàm
Tự tánh lìa cấu bẩn
Dùng nước tâm đại Từ
Sạch tâm nhơ chúng sinh.
Đại vương nên biết! Đối với chúng sinh, Samôn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu ba mươi hai quán tâm đại Bi.
Ba mươi hai quán tâm đó là:
1. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh rơi vào chỗ tối tăm, ngu si, nên khởi tâm Từ bi.
2. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh rơi vào sự ràng buộc của vô minh, nên khởi tâm đại Bi.
3. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị rơi vào nơi rất nguy hiểm trong thế gian, nên khởi tâm đại Bi.
4. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh từ bỏ chốn tịch tịnh, đi theo thế gian, nên khởi tâm đại Bi.
5. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh rơi xuống thác dữ, trôi theo dòng, nên khởi tâm đại Bi.
6. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh rơi vào chốn điên đảo, nguy hiểm đau khổ tột cùng, nên khởi tâm đại Bi.
7. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh đi theo đường ác, từ bỏ Thánh đạo, nên khởi tâm đại Bi.
8. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị dây phiền não lớn trói buộc và luôn luôn bị các lưới phiền não vây bủa, nên khởi tâm đại Bi.
9. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh ở trong các cảnh giới thường không đầy đủ, không thỏa mãn, nên khởi tâm đại Bi.
10. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị các ái nhiễm làm chủ, không được tự tại, nên khởi tâm đại Bi.
11. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh thường bị khổ đau lớn của già, chết dày vò, nhưng không sinh nhàm chán, nên khởi tâm đại Bi.
12. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh không thoát khỏi bệnh tật, thường bị đau khổ bởi những căn bệnh hành hạ, nên khởi tâm đại Bi.
13. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị ba ngọn lửa thiêu đốt suốt ngày đêm, không bao giờ dừng nghỉ, nên khởi tâm đại Bi.
14. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị trói buộc trong nghề nghiệp thấp hèn làm tăng trưởng sự khổ đau ở thế gian, nên khởi tâm đại Bi.
15. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh thường ôm lòng sợ hãi không an ổn, nên khởi tâm đại Bi.
16. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị lợi nhỏ cám dỗ mà quên đi họa lớn, nên khởi tâm đại Bi.
17. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị say sưa theo những điều buông lung, không biết rắn độc từ xưa đang ngủ trong tâm, trên đường, đồng trống; thường bị oan gia năm ấm theo đuổi, nên khởi tâm đại Bi.
18. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh thường bị các triền cái cướp đoạt tài sản thiện, nên khởi tâm đại Bi.
19. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị vô minh che mắt, thường mờ mịt không thấy được bậc thiện tri thức, nên khởi tâm đại Bi.
20. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh thường bị mọi việc làm rối loạn tâm, giống như tơ rối không ai gỡ ra được, nên khởi tâm đại Bi.
21. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh thường ở chỗ ồn ào náo nhiệt, xa lìa nơi tịch tĩnh, nên khởi tâm đại Bi.
22. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh thường ở chỗ hoạn nạn, lìa chốn bình an, nên khởi tâm đại Bi.
23. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị tà kiến trói buộc, nên khởi tâm đại Bi.
24. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh rơi vào sự cám dỗ của miếng mồi ngon, nương theo tà kiến sử, nên khởi tâm đại Bi.
25. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh ở trong đêm dài chấp tưởng điên đảo, tâm điên đảo; ở trong pháp vô thường mà khởi ý tưởng là thường, ở trong pháp đau khổ khởi ý tưởng là vui; ở trong pháp bất tịnh sinh ý tưởng là tịnh, ở trong pháp vô ngã mà sinh ý tưởng là ngã, nên khởi tâm đại Bi.
26. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh từ vô thỉ đến nay phải nhận lấy việc sinh tử, gánh vác những điều ác xa, chịu đau khổ vô cùng mà không hề mỏi mệt, nên khởi tâm đại Bi.
27. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh nương theo thế gian, sức lực yếu kém, chẳng phải vững chắc mà cho là vững chắc, nên khởi tâm đại Bi.
28. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị nhiễm ô làm bẩn, thường ở trong vô số những cấu uế, nên khởi tâm đại Bi.
29. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị sự tham ái trói buộc, không biết nhàm chán xa lìa, nên khởi tâm đại Bi.
30. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh bị các việc cúng dường, cung kính chinh phục mà thường mong cầu của cải và các vật cúng dường, nên khởi tâm đại Bi.
31. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh thường bị các cảnh giới trói buộc, sinh tâm lo âu và bực bội, nên khởi tâm đại Bi.
32. Sa-môn Cù-đàm thấy các chúng sinh rơi vào chỗ kiêu căng, ngã mạn, nên khởi tâm đại Bi.
Đại vương nên biết! Đó là Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh đã thành tựu hoàn toàn ba mươi hai tâm quán đại Bi. Cho nên ta nói Sa-môn Cù-đàm không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Cù-đàm thấy chúng sinh
Nhốt trong ngục thế gian
Luân chuyển đi các cõi
Thường chịu mọi đau khổ,
Ngu tối che tâm họ
Không biết sinh chán lìa
Cho nên Vô Thượng Tôn
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Ưa đắm các thế gian
Bốn dòng trời về đâu?
Trôi xuôi không trở lại,
Thường chìm biển sinh tử
Không biết cầu ra khỏi
Cho nên Đấng Mười Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Rơi vào hiểm họa lớn
Đi theo con đường tà
Không có người cứu giúp,
Cho nên Cù-đàm quán
Phát khởi tâm đại Bi
Dẫn đến Bồ-đề Phật
Chỗ tối thắng không sợ.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Bị trói trong lao ngục
Làm tôi tớ cho ái
Sai đi các cảnh giới,
Trôi lăn biển già chết
Không hay biết gì cả
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Đốt mạnh ba loại lửa
Thường ở các đường ác
Bao điều khổ hành hạ,
Rất sợ các đường ác
Không có nơi nương tựa
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Ưa đắm trong các cõi
Tâm tự do buông thả
Tham đắm các cảnh giới,
Thường bị mọi điều hại
Nhưng không sinh sợ hãi
Cho nên Đấng Mười Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Vô minh tăm tối che
Các thứ lộng che chắn,
Không lìa khỏi triền cái
Tà kiến rối như tơ
Không có người tháo mở
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Rơi vào đường tà kiến
Vì ở chỗ ái lâu
Tâm thường bị trói buộc,
Trong các nạn như thế
Thích thú không nhàm chán
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Khởi lên tâm điên đảo
Ở trong khổ bất tịnh
Sinh vui ý tưởng tịnh,
Trong vô thường vô ngã
Lại cho thật ngã thường
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Nương theo sức yếu kém
Thường mang vác nặng nhọc
Không sinh tâm chán lìa,
Khởi ý tưởng cố chấp
Đắm nhiễm không buông bỏ
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Ở trong biển tham ái
Lợi dưỡng che mất tâm
Thường cầu cảnh giới dục,
Tâm tham như lửa rừng
Cháy mãi không dừng nghỉ
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm thấy chúng sinh
Tạo đủ mọi nghiệp khổ
Thường bị mọi buồn bực
Khổ đau dày xéo mãi,
Vì cứu chúng sinh kia
Các phiền não làm hại
Cho nên Đấng Thập Lực
Thường khởi tâm đại Bi.
Cù-đàm luôn quán sát
Tất cả giới chúng sinh
Thường khởi tâm đại Bi
Cho nên không tội lỗi.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu ba niệm xứ.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Những gì là ba niệm xứ của Như Lai?
Đáp:
–Này Đại vương! Đó là tâm không vui, tâm không giận và tâm không giận không vui.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm không vui?
Đáp:
–Đại vương! Tâm không vui tức là khi Sa-môn Cù-đàm ở trong nội chúng thuyết pháp, nếu có chúng sinh với thân tâm đoan chánh cung kính, im lặng nghe, tùy thuận tiếp nhận lời dạy và theo lời dạy tu hành, thì đối với chúng sinh này, Sa-môn Cù-đàm cũng không sinh tâm vui mừng, không thích thú, không hớn hở. Vì sao? Vì Sa-môn Cùđàm có tâm xả, bình đẳng an trụ trong nhất tâm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm không giận?
Đáp:
–Đại vương! Sa-môn Cù-đàm ở trong chúng thuyết pháp. Nếu có chúng sinh thân không cung kính, không chuyên tâm lắng nghe, quay lòng lại với Thánh giáo, thực hành không đúng lời dạy, thì đối với chúng sinh này Sa-môn Cù-đàm cũng không tức giận, chỉ khởi tâm nhẫn, không sinh tâm không tin, cũng không sinh tâm nghĩ người kia không nghe theo lời dạy của mình. Vì sao? Vì Samôn Cù-đàm đã có tâm xả, bình đẳng và an trụ trong nhất tâm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm không giận, không vui?
Đáp:
–Đại vương! Sa-môn Cù-đàm ở trong chúng thuyết pháp. Trong chúng ấy, có người thân nghiêm chỉnh cung kính, lắng tai nghe, tùy thuận ghi nhớ lời dạy và theo lời dạy để tu hành; hoặc có người không cung kính, để ngoài tai, quay lưng với Thánh giáo, không tu hành như pháp. Đối với hai hạng người này, Sa-môn Cù-đàm không sinh tâm vui mừng, thích thú, hớn hở và cũng không sinh tâm giận, không khởi tâm bất nhẫn, không khởi tâm không tin, cũng không nghĩ rằng người kia trái với lời dạy của ta. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm đã có tâm xả, bình đẳng và an trụ trong nhất tâm. Đại vương! Sa-môn Cù-đàm trụ tâm vào ba niệm này, không ô nhiễm. Cho nên ta nói, Sa-môn Cù-đàm không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Cù-đàm khi thuyết pháp
Người nhất tâm tiếp nhận
Thường trụ ở chánh niệm
Không khởi tâm vui mừng.
Cù-đàm khi thuyết pháp
Người không lắng tâm nghe
Thường trụ ở chánh niệm
Cũng không khởi tâm giận.
Cù-đàm khi thuyết pháp
Người nghe hay không nghe
Thường trụ ở bình đẳng
Không giận cũng không vui.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu ba nghiệp không giữ gìn.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Như Lai hoàn toàn thành tựu ba nghiệp không giữ gìn là những gì?
Đáp:
–Đại vương! ba nghiệp đó là:
1. Không cần giữ gìn thân nghiệp.
2. Không cần giữ gìn khẩu nghiệp.
3. Không cần giữ gìn ý nghiệp.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là không cần giữ gìn thân nghiệp?
Đáp:
–Đại vương! Những hành động về thân của Samôn Cù-đàm đều thanh tịnh. Sa-môn Cù-đàm không có các hạnh bất tịnh. Cho nên Sa-môn Cùđàm không nghĩ rằng, hành động về thân của ta bất tịnh, sợ người khác biết nên khởi tâm giữ gìn đề phòng. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm không có hành động về thân bất tịnh. Đó là không giữ gìn thân nghiệp thứ nhất.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là không giữ gìn khẩu nghiệp?
Đáp:
–Đại vương! Miệng của Sa-môn Cù-đàm thanh tịnh. Sa-môn Cù-đàm là người có khẩu nghiệp thanh tịnh, cho nên không nghĩ rằng hành động của miệng là bất tịnh, sợ người khác biết nên giữ gìn đề phòng. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm có khẩu nghiệp thanh tịnh. Đó là không cần giữ gìn khẩu nghiệp thứ hai.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là không cần giữ gìn ý nghiệp?
Đáp:
–Đại vương! Ý nghiệp của Sa-môn Cù-đàm thanh tịnh. Sa-môn Cù-đàm là người có ý nghiệp thanh tịnh, cho nên Sa-môn Cù-đàm không nghĩ rằng ý nghĩ của là bất tịnh, sợ người khác biết nên khởi tâm đề phòng giữ gìn. Vì sao? Vì Sa-môn Cùđàm có ý nghiệp thanh tịnh. Đó là không cần giữ gìn ý nghiệp thứ ba.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu ba việc không cần giữ gìn nghiệp. Cho nên ta nói Sa-môn Cù-đàm không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Ba nghiệp của Cù-đàm
Lìa vọng và vô úy
Cho nên thường thanh tịnh
Ra đời hộ thế giới,
Vì các chúng đệ tử
Tâm bình đẳng thuyết pháp
Người có lỗi thì bỏ
Người không lỗi khiến giữ.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm thành tựu Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Sa-môn Cù-đàm, có bốn thứ.
1. Thân Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
2. Quán Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
3. Tâm Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
4. Trí Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là Thân Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Thân Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Sa-môn Cù-đàm là lìa các phiền não; tất cả những tập khí đều chấm dứt không còn nữa, tùy ý muốn hay xả, sinh khởi hay thoái lui, ở trong tất cả mọi nơi thân được tự tại. Đó là Thân Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là Quán Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Như Lai.
Đáp:
–Đại vương! Quán Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Sa-môn Cù-đàm là đối với thân ứng hóa đã lìa khỏi tất cả phiền não và tập khí phiền não, chấm dứt không còn sự luân chuyển chìm nổi, trong các quán được tự tại. Đó là Quán Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là Tâm Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Tâm Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Sa-môn Cù-đàm là đã xa lìa hết tất cả phiền não, tập khí phiền não và tâm nhiễm ô, tâm được tự tại, chứa đầy đủ các thiện căn. Đó là Tâm Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là Trí Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Trí Nhất thiết chủng trí thanh tịnh của Sa-môn Cù-đàm là tất cả các phần vô minh và các phiền não và tập khí phiền não đều đã dứt trừ không còn nữa, được tự tại trong các pháp, không còn chướng ngại. Đó là Trí Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu Nhất thiết chủng trí thanh tịnh như thế. Cho nên ta nói, Sa-môn Cù-đàm không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Cù-đàm Nhất thiết trí
Nương theo bốn tịnh pháp
Cho nên thấy vô cấu
Trí tuệ thân tự tại
Cù-đàm tuệ thanh tịnh
Đầy đủ bốn loại trí
Phiền não tập khí diệt
Cho nên không lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Như Lai tự tại như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Sa-môn Cù-đàm có mười sự tự tại.
1. Mạng tự tại.
2. Tâm tự tại.
3. Vật tự tại.
4. Nghiệp tự tại.
5. Sinh tự tại.
6. Như ý tự tại.
7. Tín tự tại.
8. Nguyện tự tại.
9. Trí tự tại.
10. Pháp tự tại.
Đại vương nên biết! Được cam lồ thượng diệu, nên gọi là Thọ mạng tự tại. Có thể biết tất cả chỉ trong một tâm, nên gọi Tâm tự tại. Ở trong hư không nắm được trân báu gọi là Vật tự tại. Xa lìa tất cả phiền não và tập khí vô minh các sử gọi là Nghiệp tự tại. Ở trong thiền định sâu xa, giải thoát Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, tùy ý vận hành, đó gọi là Sinh tự tại. Đối với tất cả mọi hành động thực hành một cách tự nhiên gọi là Như ý tự tại. Ở trong các nhập đạt được quán tự tại gọi là Tín tự tại. Khi mới vừa khởi tâm thì ngay lúc đó thành tựu tất cả mọi việc, đó gọi là Nguyện tự tại. Ba nghiệp thân, khẩu, ý lấy trí làm căn bản nên gọi là Trí tự tại. Hiện tại trụ trong pháp giới bình đẳng, chân như thật tế vô cấu đó là Pháp tự tại.
Đại vương nên biết! Xa lìa sát sinh, không có tâm giận hại, đó là nhân của Mạng tự tại. ([1]) Tâm bình đẳng, xả bỏ tất cả sự vật, cầu đại Bồ-đề, đó là nhân của Vật tự tại. Hành động của ba nghiệp thanh tịnh không nhiễm ô, đó là nhân của Nghiệp tự tại. Dùng tâm Bồ-đề giữ gìn các thiện căn, đó là nhân của Sinh tự tại. Xả bỏ tất cả những sự cúng dường, cung kính, lễ bái, khen ngợi mà bố thí như voi ngựa, xe cộ cho chúng sinh, đó là nhân của Như ý tự tại. Thường nói về Tam bảo, giáo hóa chúng sinh, đó là nhân của Tín tự tại. Tùy theo sự mong cầu của tất cả chúng sinh để đáp ứng kịp thời cho họ, đó là nhân của Nguyện tự tại. Thường thực hành bố thí pháp, không vì lợi dưỡng, tiếng tăm và sự cung kính, đó là nhân của Trí tự tại. Thường vì chúng sinh nói về lấy Pháp thân bình đẳng như của các chúng sinh và các Đức Như Lai làm thể, chứ không phải thân ăn uống, đó là nhân của Pháp tự tại.
Đại vương nên biết! Đạt được Thọ mạng tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về sinh tử. Đạt được Tâm tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về phiền não. Đạt được Vật tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về nghèo khổ. Đạt được Hành động tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về đường ác. Đạt được Sinh tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về trói buộc của sinh. Đạt được Như ý tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về sự truy cầu. Đạt được Tín tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về sự hủy báng pháp. Đạt được Nguyện tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về sự trói buộc của tâm niệm. Đạt được Trí tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi về ngu si. Đạt được Pháp tự tại để đối trị tất cả nỗi sợ hãi ở trong đại chúng.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu sự tự tại như thế, cho nên ta nói Samôn Cù-đàm không có lỗi lầm.
Rồi nói kệ rằng:
Cù-đàm tu chánh hạnh
Vì lợi các quần sinh
Nên đối với các pháp
Tất cả được tự tại.
Nghĩ hộ các chúng sinh
Không hành tâm giết, trộm
Bởi thế với tài mạng
Sinh đâu cũng tự tại.
Thường hành thiền, thí pháp
Dứt hẳn các nhân ác
Nghiệp tâm không chướng ngại
Sinh nơi thường tự tại.
Thường nghĩ gốc Bồ-đề
Tâm không buồn chúng sinh
Khen ngợi phước Tam bảo
Lợi ích khắp chúng sinh,
Ba nghiệp hành theo trí
Tâm thường trụ pháp giới
Sinh nơi Ý, Tánh, Nguyện
Trí, Pháp thường tự tại.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu pháp ba mươi bảy phẩm Bồ-đề phần, đó là: Bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần và tám Thánh đạo.
Sa-môn Cù-đàm đã thành tựu pháp thanh tịnh như thế. Cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là bốn Niệm xứ của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Bốn Niệm xứ của Sa-môn Cùđàm là:
1. Thân niệm xứ.
2. Thọ niệm xứ.
3. Tâm niệm xứ.
4. Pháp niệm xứ.
Đại vương nên biết! Thân niệm xứ của Samôn Cù-đàm nghĩa là quán chiếu trong thân, ngoài thân và trong ngoài thân. Ngay ở thân này khởi lên hai cách quán: Một là quán bất tịnh, hai là quán tịnh.
Quán bất tịnh là quán sát thân này không thanh tịnh, đầy dẫy ô uế, dối gạt phàm phu.
Quán tịnh là suy nghĩ rằng, nay ta nhờ thân bất tịnh này mà được thân thanh tịnh của Phật, được pháp thân thanh tịnh, được thân công đức thanh tịnh, được thân mà tất cả chúng sinh thích nhìn.
Quán như thế rồi, biết thân thanh tịnh có hai hạnh; đó là vô thường và thường.
Thế nào là vô thường? Quán rồi, không vì tấm thân này mà tạo những nghiệp ác, mưu sống bằng tà mạng. Vì thân này tu tập ba pháp kiên cố: Một là tu thân vững chắc; hai là tu mạng vững chắc; ba là tu tài của vững chắc.
Quán như thế rồi, xa lìa tất cả mọi sự quanh co về thân, khẩu và ý, làm theo tâm chánh trực.
Thế nào là thường? Quán vô thường rồi được thân thường. Nhân vô thường nên đạt được thân công đức. Nhờ vô thường nên không đoạn hạt giống Phật, Pháp, Tăng. Vì sao? Tu Thân niệm xứ, quán sát tất cả thân chúng sinh rốt ráo được thành tựu Pháp thân chư Phật. Vì có Pháp thân nên khi khởi quán chiếu đạt được tâm bình đẳng, không có tâm phân biệt; không khởi các lậu; nghĩa là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu; không thấy có ngã và ngã sở, trụ ở cảnh giới như thật, thành Nhất thiết trí. Đó gọi là Thân niệm xứ.
Đại vương nên biết! Thọ niệm xứ của Sa-môn Cù-đàm, nghĩa là quán nội cảm thọ, ngoại cảm thọ và nội ngoại cảm thọ. Ở trong sự cảm thọ đó khởi lên hai cách quán: thường và vô thường. Khởi tâm Từ bi quán các chúng sinh. Nếu khi cảm thọ vui thì sinh tâm tham đắm, còn khi cảm thọ khổ đau thì sinh tâm sân hận. Nếu khi thọ nhận cái cảm thọ không khổ, không vui thì sinh tâm si. Ta suy nghĩ rằng: “Hễ có cảm thọ đều đau khổ”. Người muốn an lạc hoàn toàn phải đoạn dứt mọi cảm thọ, tức là thường lạc, tùy chỗ thọ sinh và thường sinh lòng Từ bi. Nếu khi thọ nhận cảm thọ vui của mình hay cảm thọ vui của người thì phải xa lìa tâm nhiễm ô và sinh tâm Từ bi. Nếu khi thọ khổ nên quán chiếu ba đường ác, xa lìa tâm sân hận và sinh tâm Từ bi. Nếu khi thọ cái cảm thọ không khổ, không vui, thì xa lìa tâm vô minh, phát sinh tâm xả. Quán chiếu tất cả mọi cảm thọ đều vô thường, khổ và vô ngã.
Khi thấy người thọ vui liền biết là khổ. Khi thấy người thọ khổ thì biết như ung nhọt, lở loét. Khi thấy người thọ cái cảm thọ không khổ không lạc là không phải tịch tịnh. Quán thọ lạc liền biết vô thường; quán khổ liền biết là không; quán thọ không khổ, không vui liền biết là vô ngã. Người quán như thế gọi là Thọ niệm xứ.
Đại vương nên biết! Tâm niệm xứ của Sa-môn Cù-đàm, nghĩa là quán nội tâm, ngoại tâm và nội ngoại tâm. Ở trong tâm khởi lên hai cách quán: thường và vô thường. Quán thường là quán tánh Bồ-đề của tự thân, không quên, không mất, chánh niệm không loạn, quán tâm như thế. Lại quán chỗ phát tâm Bồ-đề, tánh của tâm là sinh rồi liền diệt, niệm niệm không dừng; không ở nội nhập, không ở ngoại nhập và không ở nội ngoại nhập; không ở trong ấm, không ở trong giới. Lúc này, khởi suy nghĩ: duyên tâm như thế là khác hay không khác. Nếu tâm khác duyên thì trong lúc ấy sẽ có hai tâm. Nếu tâm là duyên thì không được trở lại quán ở tự tâm. Cũng như đầu ngón tay không tự tiếp xúc. Cũng vậy, tâm khởi quán rồi, thấy tâm không trụ, vô thường và biến đổi thì mới biết rằng, tâm này chẳng phải từ duyên sinh, không phải không từ duyên sinh, không thường, không đoạn, không trong, không ngoài, không có, không không. Tâm Bồ-đề cũng vậy. Nó là tâm chẳng phải sắc nên không thể thấy được, như huyễn, như hóa, không có chướng ngại. Tự quán tâm rồi, quán tâm tánh của tất cả các chúng sinh, cũng như tánh tâm của chính mình, như tướng tâm của chính mình thì tánh tâm và tướng tâm của tất cả chúng sinh cũng đều như vậy. Biết tự tâm vốn không thì tâm tất cả chúng sinh cũng đều không. Tự quán tâm bình đẳng và quán tâm bình đẳng của các chúng sinh cũng đều như vậy. Đó gọi là Tâm niệm xứ.
Đại vương nên biết! Pháp niệm xứ của Sa-môn Cù-đàm, nghĩa là quán nội pháp, ngoại pháp và nội ngoại pháp. Ở trong pháp ấy khởi lên hai cách quán: thường và vô thường. Thường là dùng Phật nhãn để thấy tất cả các pháp, cho đến lúc ngồi trong đạo tràng chưa từng mất. Khi quán các pháp không thấy có một pháp nào, dầu cho tất cả các tướng vi tế cũng không lìa Không, Vô tướng, Vô nguyện; không tạo tác, không sinh, không diệt, không vật. Không thấy tất cả pháp cho đến một tướng vi tế, mà không nằm trong mười hai duyên khởi. Thấy pháp, phi pháp đều là pháp.
Thế nào là pháp? Nghĩa là không có ta, không có chúng sinh, không có thọ mạng và không có người, đó gọi là pháp.
Thế nào là phi pháp? Nghĩa là thấy có ta, thấy có chúng sinh, thấy có thọ mạng, thấy có người, thấy đoạn, thấy thường, thấy có và thấy không, đó gọi là phi pháp.
Sa-môn Cù-đàm thấy tất cả pháp là pháp và phi pháp. Vì sao? Quán Không, Vô tướng và Vô nguyện, đó gọi là tất cả pháp là pháp. Quán ngã mạn, kiêu mạn, ngã và ngã sở, bao gồm các kiến hoặc, đó gọi là quán tất cả pháp là phi pháp. Khởi quán chiếu tánh các pháp như thế rồi, không thấy pháp nào mà chẳng phải là nhân Bồ-đề, chẳng phải là nhân đạo xuất thế, chắc chắn là pháp xuất thế. Nếu không như vậy mà cầu các pháp thì gọi là diệt pháp. Nhưng người xuất ly từ duyên, diệt cũng từ duyên.
Khi quán như thế thì phải quán ba hạnh: hạnh ác, hạnh thiện và hạnh bất động. Ở trong ba hạnh này thường thực hành hạnh phước; thực hành mười thiện pháp làm thanh tịnh ba nghiệp. Thanh tịnh thân nghiệp vì cầu ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp chư Phật, người khác không thể hại. Thanh tịnh khẩu nghiệp thì khi thuyết pháp chúng sinh thích nghe. Thanh tịnh ý nghiệp, tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, thường nhập vào thiền định. Dùng phương tiện như vậy để quán chiếu Pháp niệm xứ, lìa bỏ tất cả những sự chướng ngại làm cấu nhiễm Bồ-đề; không chấp thường kiến, không rơi vào đoạn kiến, thực hành trung đạo kiến. Trung đạo như vậy thì trí tuệ thế gian không thể thấy được, không thể tuyên thuyết và không thể chỉ bày, không có tướng trạng, không có cảnh sắc, không có chỗ, không lấy và không bỏ mà thanh tịnh vắng lặng. Không thể dùng mắt để thấy, cho đến không thể tiếp xúc, cũng không có chỗ đến, không ở tại thế gian, không ra khỏi thế gian, không thể tuyên thuyết; chẳng nhiều, chẳng ít; chẳng thường, chẳng đoạn; chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng; chẳng phải giác, chẳng phải không giác; không hư, không thật; không đây, không kia; chẳng có chẳng không; không hữu vi, không vô vi; chẳng phải hạnh, chẳng phải phi hạnh; không sinh không diệt; không Niết-bàn không tác pháp. Đó gọi là Trung đạo.
Không thể dùng Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn để quán Pháp niệm xứ. Vì sao? Vì ba mắt này không có tướng trạng. Cho nên quán pháp phải dùng Pháp nhãn để quán, nhưng không đắm trước, không đánh mất các pháp. Đó gọi là Pháp niệm xứ.
Đại vương nên biết! Tu tập bốn Niệm xứ thì đạt được bốn cách lìa pháp: Quán thân bất tịnh để ra khỏi sự thanh tịnh điên đảo. Quán thọ là khổ để ra khỏi cái vui điên đảo. Quán tâm vô thường để ra khỏi cái thường điên đảo. Quán pháp vô ngã để ra khỏi cái ngã điên đảo.
Lại nữa, quán Thân niệm xứ xa lìa đoàn thực; quán Thọ niệm xứ xa lìa xúc thực; quán Tâm niệm xứ xa lìa thức thực; quán Pháp niệm xứ xa lìa tư thực.
Đại vương! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu Niệm xứ như thế, cho nên ta nói Ngài không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Những gì là bốn pháp Chánh cần của Đức Như Lai?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Bốn pháp Chánh cần của Sa-môn Cù-đàm nghĩa là bốn pháp tinh tấn để ngăn ngừa hai loại ác pháp và tích tập hai loại pháp thiện. Sa-môn Cù-đàm thành tựu tánh thiện, tâm trụ trong pháp thiện. Những pháp ác chưa sinh và đã sinh, không cần tinh tấn khiến nó tiêu diệt. Những pháp thiện chưa sinh và đã sinh cũng không cần dùng tinh tấn khiến nó phát sinh. Vì sao? Vì ở trong vô lượng đời, Sa-môn Cù-đàm thường tu tánh thiện, tất cả pháp ác tự nhiên không sinh và tất cả pháp thiện tự nhiên đầy đủ. Pháp ác, là bè đảng với phi giới uẩn, bè bạn với phi định uẩn, bè bạn với tuệ uẩn. Khi quán bốn Niệm xứ thì phải lìa các tâm biếng nhác, và năm triền cái phiền não ngăn che tâm mắt. Nếu xa lìa năm thiện căn như Tín…, tức là các pháp ác chưa sinh thì không để phát sinh, sinh rồi liền diệt, đó là siêng cần tinh tấn vậy. Pháp thiện là đối với các thiện căn chưa sinh khiến sinh, sinh rồi làm tăng trưởng, đó là cầu tinh tấn vậy. Đó gọi là bốn pháp Chánh cần.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm thành tựu hoàn toàn bốn pháp Chánh cần như thế, cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là bốn phần Như ý của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Bốn phần Như ý của Sa-môn Cùđàm là:
1. Dục như ý.
2. Tinh tấn như ý.
3. Tâm như ý.
4. Tư duy như ý.
Đó là bốn pháp, lấy Từ, Bi, Hỷ, Xả làm căn bản, là thường gần gũi bốn Vô lượng tâm. Thường gần gũi nên tâm đạt được sự điều hòa. Tâm điều hòa nên được nhập vào Sơ thiền, đệ Nhị thiền, đệ Tam thiền, đệ Tứ thiền. Nhập vào các thiền định thân được khinh an, thành tựu được thân thanh thoát. Tâm điều hòa như thế thì đã nhập vào phần Như ý. Nhập vào phần Như ý liền sinh thần thông, hoặc dục, hoặc tinh tấn là thành tựu được pháp ấy. Tâm là quán sát pháp ấy. Tư duy là phương tiện thành tựu pháp ấy. Phần Như ý như thế thì đã đạt được thần thông. Dục là trang nghiêm, Tinh tấn là thành tựu, Tâm là trụ trong chánh niệm, Tư duy là có khả năng phân biệt hoàn toàn.
Sa-môn Cù-đàm đã đạt được bốn điều Như ý, hiểu theo pháp ấy và hành động như pháp ấy. Tâm được tự tại, tùy ý đi lại, làm các nghiệp thiện, hoàn toàn thành tựu tất cả bốn hạnh, như gió bay giữa hư không bị chướng ngại và đạt được bốn pháp tự tại:
1. Thọ mạng tự tại.
2. Thân tự tại.
3. Pháp tự tại.
4. Thần lực tự tại.
Thọ mạng tự tại là điều phục chúng sinh, tùy theo chỗ thọ sinh, hoặc trời, hoặc người; ở trong tuổi thọ ngắn thì thể hiện sự trường thọ, ở trong chỗ trường thọ thể hiện sự tuổi thọ ngắn. Đó gọi là Mạng tự tại.
Thân tự tại là vì tự tại nên theo tâm mà hiện thân, theo tâm khởi các cảnh sắc, thể hiện oai nghi; vì chúng sinh nên muốn cùng với tất cả chúng sinh đồng thân tướng ấy, thường đều làm được. Đó gọi là Thân tự tại.
Pháp tự tại là có khả năng biết tất cả pháp xuất thế, nhưng vẫn thị hiện việc thế gian chúng sinh, khéo biết sâu xa mười hai nhân duyên, đạt được biện tài vô ngại, có khả năng nói tùy theo từng ngôn ngữ của chúng sinh, khiến họ trụ trong chánh tín. Đó gọi là Pháp tự tại.
Thần thông tự tại là có khả năng làm cho nước trong bốn biển lớn hợp thành một biển, không đến, không đi, không có tướng xao động. Có thể khiến cho các núi Tu-di trong tam thiên đại thiên thế giới hợp thành một hòn núi, không đến, không đi và không có sự tăng giảm, như cũ không thay đổi. Ở địa vị Tứ Thiên vương của cõi trời Tam thập tam không bị chướng ngại; muốn khiến cho tam thiên đại thiên thế giới đều được trang nghiêm bằng bảy báu, vàng bạc, chiên-đàn, hương hoa đều hiện ra để làm, có thể làm theo ý muốn. Đó gọi là Thần lực tự tại.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm rốt ráo thành tựu bốn phần Như ý như thế. Cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Đại vương! Sa-môn Cù-đàm đã thành tựu bốn phần Như ý như thế rồi, có thể nhập vào tất cả các cảnh giới thiền định, thần thông, giải thoát, bốn Vô lượng tâm, không còn ngăn ngại.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là thiền định của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Sa-môn Cù-đàm có chín bậc thiền định theo thứ tự nhập vào Tam-ma-bạt-đề:
1. Sơ thiền.
2. Nhị thiền.
3. Tam thiền.
4. Tứ thiền.
5. Không xứ.
6. Thức xứ.
7. Bất dụng xứ.
8. Phi hữu tưởng và phi vô tưởng xứ.
9. Diệt tận định xứ.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã xa lìa các dục, pháp ác bất thiện; có giác, có quán, lìa sự phát sinh hỷ lạc, nhập vào hạnh Sơ thiền.
Lìa các dục ác nghĩa là Sơ thiền đối trị các pháp ái nhiễm, xa lìa pháp ấy gọi là lìa các dục. Lìa các pháp bất thiện, nghĩa là nhân lúc tham, sân, si khởi lên mười nghiệp bất thiện như sát sinh…, đó gọi là pháp bất thiện. Lìa bỏ pháp ấy gọi là Sơ thiền.
Có giác, nghĩa là có đủ giác vậy. Vậy giác là cái gì? Nương vào cảnh giới nào để tùy thuận Sơ thiền? Giác có nhiều loại, nghĩa là tri giác, tư duy, quán thiền định…, đó gọi là giác. Thế nào là quán? Tức là nói tùy thuận theo Sơ thiền giác hạnh, tư duy quán, thọ dục định và tri giác, đó gọi là quán. Nương vào hạnh nhàm chán cùng với nó có giác, có quán mà thành Sơ thiền y. Đối với hạnh nhàm chán cùng với nó có hỷ có lạc mà thành Sơ thiền hành. Đó gọi là có hỷ, có lạc, nhập vào Sơ thiền hành. Hành là thọ trì, niệm, hộ, hỷ, lạc và tri, đó gọi là hành.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm trụ trong Sơ thiền đạt được Vô sinh pháp nhẫn, Tăng thượng dục tâm. Cho nên nhập vào Sơ thiền cầu Vô sinh pháp nhẫn.
Vì cầu chuyển thắng vô sinh nhẫn nên ở trong
Sơ thiền sinh tưởng không kiên cố, phát khởi tâm mong muốn hướng lên trên, nên xả bỏ Sơ thiền ấy và cầu Nhị thiền. Vì muốn vào đệ Nhị thiền ấy nên lìa bỏ tâm có giác có quán của Sơ thiền kia; diệt tận tâm ấy, xa lìa tâm ấy và thanh tịnh tâm ấy, tịch tĩnh tâm ấy. Thanh tịnh bên trong, tâm gồm một chỗ, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, nhập vào đệ Nhị thiền hành. Thanh tịnh bên trong là đối trị pháp kia làm chướng ngại Nhị thiền; tịch tĩnh, pháp ấy thanh tịnh không cấu dục. Đó gọi là thanh tịnh bên trong. Tâm một chỗ là diệt trừ tất cả giác quán của Sơ thiền kia, vắng lặng chỉ một vị. Thí như biển lớn, tất cả các dòng nước chỉ chảy vào đó đều thành một vị đó là vị mặn. Vào đệ Nhị thiền diệt trừ tất cả giác quan của Sơ thiền kia, vắng lặng một vị không giác không quán. Cho nên gọi đạt được Tam-muội không giác, không quán. Nương vào Tam-muội ấy phát sinh hỷ lạc, nghĩa là ở trong Phật, Pháp, Tăng sinh tâm hoan hỷ; nương vào tâm hoan hỷ ấy mà các công đức thiện tự nhiên đầy đủ.
Vì muốn làm cho Vô sinh pháp nhẫn kia chuyển dần đến chỗ cao hơn, chuyển dần đến ánh sáng, chuyển dần đến chỗ thắng diệu, chuyển dần đến chỗ nhu nhuyến; đạt được tâm dục hướng lên và đối với đệ Nhị thiền không trụ, không lạc. Lại mong cầu đệ Tam thiền hành thắng thượng. Sinh tâm như thế, mới biết tâm hỷ kia vẫn làm chướng ngại đệ Tam thiền và Vô sinh pháp nhẫn. Cho nên lìa bỏ hạnh hỷ hành xả, bặt dứt sự ghi nhớ, an trụ trong tuệ, thân thọ lạc. Lạc này Thánh nhân cũng gọi là xả. Nương vào tâm dục thắng thượng Vô sinh pháp nhẫn của Nhị thiền kia, lìa hỷ lạc kia, nhập vào Tam thiền hành, đạt được lạc Tam-muội và nhàm chán hỷ trước. Sinh tâm như thế này mới biết là không có hỷ lạc nữa mà là vô thường lạc, là pháp tận diệt, chẳng có lạc chân thật, không thường không hằng.
Biết như vậy rồi! Lại chuyển dần tâm dục tăng thượng của Vô sinh nhẫn. Nương vào tâm dục thắng thượng ở trên không thích, khổ hay lạc, xa lìa khổ lạc. Diệt ưu hỷ ở trước, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, nhập vào thiền hành thứ tư, đạt được tâm Tam-ma-bạt-đề của thiền thứ tư, tâm nhu nhuyến, tâm tự tại, tâm tịch tĩnh, tâm sáng suốt, tâm ngay thẳng. Xả bỏ tất cả những lạc sự ấy cho các chúng sinh, và khi đoạn cho các chúng sinh kia an ổn thì ngay lúc ấy được thắng Vô sinh nhẫn sáng suốt kia xuất hiện. Đạt được thắng nhẫn sáng suốt kia xuất hiện nên khiến cho hành mau chóng. Ở trong thiền thứ tư thắng diệu lạc không sinh tâm lạc, xa lìa tâm lạc kia, xả niệm thanh tịnh, chỉ thấy hư không vô biên xuất hiện. Vượt qua tất cả sắc tướng, diệt hết tất cả các tướng hữu đối và không nghĩ đến các tướng; biết vô biên hư không tức là nhập vào vô biên hư không. Quán sắc như thế, đại khái có hai loại: một là bốn đại, hai là nương gá vào bốn đại phát sinh. Bốn đại là đất, nước, gió, lửa. Nương gá vào bốn đại là sắc, hương, vị và xúc. Như vậy, rộng có tám loại sắc tướng. Lìa những sắc tướng ấy, không còn những sắc tướng ấy, diệt trừ tất cả các sắc tướng ấy gọi là vượt qua tất cả sắc tướng.
Theo những pháp nào có sắc tướng ấy? Pháp ấy chắc có tướng đối ngại. Diệt tất cả tướng đối ngại ấy, không nghĩ, không hành các tướng khác mà có thể vượt qua các tướng khác, mà cũng không nghĩ đến các tướng khác đó, chỉ thấy tướng hư không. Cho nên biết rằng, vô biên hư không tức là nhập vào vô biên hư không hạnh. Do đó mà nói là vượt qua tất cả sắc tướng. Nhập vào vô biên hư không Tam-muội kia rồi, sinh tâm như vầy: hư không vô biên, hư không không biên giới, hư không không bờ bến, theo những pháp nào? Vì vô biên nên pháp ấy không có sinh giới trước, sinh giới giữa và sinh giới sau. Như vậy, quán tất cả pháp đều không có sinh giới trước, giữa và sau. Nhập vào Tam-muội. Như thế, liền đối với tất cả chúng sinh khởi tâm đại Từ bi, xả bỏ tất cả pháp, đạt được trí bình đẳng hiện tiền. Lúc bấy giờ, ở trong pháp Vô sinh nhẫn kia mới đạt được thắng tiến sáng suốt hiện tiền.
Vượt qua tất cả tướng vô biên hư không và hiện tại biết tướng vô biên thức nhập vào hạnh Thức vô biên xứ. Sinh tâm thế này là tướng vô biên hư không, chỉ là do phân biệt thức tưởng. Đạt được tâm như thế này thì biết rằng các pháp chỉ là tướng của thức, thức là thức vô lượng. Nhập vào Tam-muội như thế, đạt được Vô sinh pháp nhẫn, nhưng chưa phải hoàn toàn thành tựu Vô sinh pháp nhẫn.
Vượt qua tất cả chỗ vô biên thức tướng, hiện tại biết chỗ vô sở hữu, nhập vào hạnh chỗ vô sở hữu thiểu xứ. Vô sở hữu là không bị sở hữu bởi tâm tham, sân, si…, phân biệt, các loại phân biệt, hư vọng phân biệt. Tất cả pháp hữu vi ở trong thế gian đều phát sinh từ tâm hư vọng phân biệt. Không sở hữu ấy nên nói là vô sở hữu. Thiểu là như trước đã nói, tướng ít, tướng nhỏ, tướng vi tế ở trong pháp…, gọi là tướng thiểu. Vì không có thiểu tướng ấy nên nói không thiểu.
Vượt qua tất cả tưởng thô tế nên nói vô sở hữu, vô sở thiểu, trú vào Tam-muội này, Vô sinh pháp nhẫn chuyển thắng có ánh sáng hiện tiền. Vì được thắng vô sinh nhẫn ấy rồi mà không còn thích Tammuội vô sở hữu, vô thiểu kia; sinh tâm thắng dục cầu tăng thượng hạnh thù thắng Tam-muội. Sinh tâm như thế là tướng vô sở hữu, vô thiểu hạnh, cũng là tướng vi tế hư vọng phân biệt.
Tiếp theo quán Phi tưởng và phi phi tưởng xứ. Những gì là phi tưởng, phi phi tưởng xứ? Phi tưởng là không. Phi phi tưởng là từ nhân duyên sinh. Lúc ấy, phi tưởng phi phi tưởng Tam-muội hiện tiền.
Vượt qua tất cả thiểu tướng Vô sở hữu xứ, nhập vào phi tưởng phi phi tưởng xứ Tam-muội rồi, trú ở chỗ ấy. Sinh tâm như thế thì phi tưởng phi phi tưởng xứ kia không thể vui được, nên xa lìa pháp ấy, tức là chứng nghiệm được các pháp không sinh, không diệt Tam-muội hiện tiền. Biết được tất cả pháp không sinh, không diệt, thấy các pháp tự tánh tịch diệt, không hành, không trụ. Khi đó, gọi là đạt được Vô sinh pháp nhẫn thanh tịnh thắng thượng. Đó gọi là chín thứ tự nhập vào Tam-ma-đạt-đề.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm thành tựu hoàn toàn định pháp như thế, cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tướng giải thoát của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Tướng giải thoát của Sa-môn Cùđàm có tám loại:
1. Có sắc thấy sắc.
2. Trong có sắc tướng thấy sắc ở ngoài.
3. Tín thanh tịnh.
4. Vượt tất cả sắc tướng, diệt trừ tất cả các tướng hữu đối, không nghĩ các tướng khác; biết hư không vô biên tức là nhập vào hạnh Hư không vô biên.
Vượt qua tất cả tướng hư không vô biên; biết vô biên thức tức là nhập vào hạnh Vô biên thức.
1. Vượt qua tất cả tướng vô biên thức, biết không còn một chỗ nào cả, tức nhập vào hạnh Vô sở hữu xứ.
2. Vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, biết phi hữu tưởng phi vô tưởng an ổn, tức là nhập vào hạnh Hữu tưởng và vô tưởng xứ.
3. Vượt qua tất cả hạnh phi hữu tưởng và phi vô tưởng, diệt trừ tất cả thọ tưởng, nhập vào hạnh Diệt tận định. Đó gọi là tám giải thoát.
Có sắc thấy sắc: Có sắc là pháp do nhân duyên sinh, thấy không là không tuổi thọ. Có khả năng thấy như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Trong có sắc tướng thấy sắc ở ngoài thấy sắc ở ngoài là thấy không, không có tuổi thọ đều là pháp do nhân duyên sinh. Có khả năng thấy như vậy, được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Tín thanh tịnh, là nếu phân biệt tướng tịnh và bất tịnh thì gọi là kiến. Vì tin thanh tịnh, nên được giải thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua tất cả sắc tướng là diệt trừ tất cả tướng hữu, đối đãi, không nghĩ phân biệt tướng khác, thoát khỏi trói buộc, nên gọi là giải thoát.
Người biết hư không vô biên, liền nhập vào hạnh Hư không vô biên, có thể biết vô lượng hư không như thế thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua tất cả tướng hư không vô biên, biết vô biên thức liền nhập vào hạnh Vô biên thức, vô lượng thức, vô biên thức. Vô biên thức này tức là không. Có khả năng biết như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, đó gọi là giải thoát.
Vượt qua vô biên thức, biết không có chút nào cả liền nhập vào hạnh Vô sở hữu. Sở hữu là phiền não tham, sân, si. Nhập vào hạnh Vô sở hữu thì diệt trừ được phiền não kia. Có khả năng biết như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua vô sở hữu, biết an ổn ở trong phi hữu tưởng, phi vô tưởng liền nhập vào hạnh Phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Phi hữu tưởng là tánh vốn rỗng không, vắng lặng. Phi vô tưởng là do nương vào nhân duyên mà có. Có khả năng nhận biết như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Vượt qua tất cả phi hữu tưởng, phi vô tưởng, chấm dứt tất cả tưởng thọ, nhập vào hạnh Diệt tận định. Như vậy, thấy tưởng như ánh nắng, thọ như bong bóng nước, tưởng tức là thọ, thọ tức là tưởng, không thể thọ, không người biết. Có khả năng thấy như vậy thì được thoát khỏi sự trói buộc, gọi là giải thoát.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu giải thoát như thế, cho nên ta nói Ngài không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là thần thông trí hạnh của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Thần thông của Sa-môn Cù-đàm có sáu thứ:
1. Thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Tha tâm thông.
4. Túc mạng thông.
5. Như ý thông.
6. Lậu tận thông.
Đại vương! Thiên nhãn của Sa-môn Cù-đàm vượt hẳn Thiên nhãn của tất cả trời, rồng, tám bộ, Thanh văn và Duyên giác. Thấy rõ tất cả trong mười phương do công đức trí tuệ mà thành, đều thấy cảnh sắc, ánh sáng. Những hình tượng hoặc thô, hoặc tế, hoặc gần hoặc xa trong mười phương, tất cả đều thấy, phân biệt rõ ràng ở trong ấy có các chúng sinh, sinh tử tương trụ khắp mọi nẻo. Hoặc nghiệp quả phân biệt, các căn đều biết không sót và cũng thấy được quốc độ trang nghiêm tịnh diệu của chư Phật trong mười phương thế giới. Ở trong ấy đều thấy không khác việc tu tịnh nghiệp của Bồ-tát, Thanh văn và chúng sinh trong năm đường. Vì sao? Vì mắt thanh tịnh thấy không còn bị ngăn ngại, vì mắt không cấu đục, không đắm trước sắc; vì mắt đã giải thoát, xa lìa sự trói buộc của các kiến hoặc phiền não; vì mắt thanh tịnh, tánh sáng suốt thông tỏ; vì mắt không thiển cận, lìa bỏ sở duyên; vì mắt không phát khởi, đoạn dứt phiền não; vì mắt không cấu nhiễm, đoạn đứt các điều ác; vì mắt không bị màng, cắt đứt lưới nghi; vì mắt không sinh khởi, dứt chướng ngại; mắt này không tham, sân, si, đoạn trừ tất cả các kết sử vì mắt sáng suốt, thấu tỏ được pháp; vì mắt do niệm mà biết, không hành theo thức; vì mắt này Vô thượng rốt ráo đạo Thánh; vì mắt không ngại bình đẳng chiếu khắp chúng sinh; vì mắt không nhiễm, tánh thanh tịnh. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm bằng tâm đại bi, khéo phân biệt nghĩa, không có sự tranh luận, nói theo sự thấy và nghe, bỏ tâm bất thiện, thẳng đến đạo tràng, tâm không chướng ngại. Thấy người keo kiệt, tham lam có thể dạy họ đem tài sản bố thí; thấy người phạm giới khuyên họ giữ gìn các căn; thấy người sân hận khuyên họ nhẫn nhục, không tranh cãi; thấy người lười biếng khuyên họ siêng năng tinh tấn; thấy người tán loạn dạy họ niềm vui trong thiền định; thấy người ngu si dạy họ tu trí tuệ, cho nên đạt được Thiên nhãn thanh tịnh, không chướng ngại. Đó gọi là Thiên nhãn thần thông trí hạnh.
Đại vương! Thiên nhĩ thông của Sa-môn Cùđàm, đối với tất cả những tiếng nói trong các thế giới khắp mười phương như tiếng nói của Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân thảy đều phân biệt được. Và biết được tiếng của chư Phật thuyết pháp, tiếng nói của Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác. Tất cả những tiếng nói có thể dùng tai nghe được. Cho đến các tiếng của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, muỗi mòng, ruồi nhặng và bọ chét đều có thể nghe được. Nếu tâm các chúng sinh duyên với đối tượng nào rồi phát ra âm thanh từ thiện ác hay vô úy thì cũng đều biết rõ cả; các âm thanh quá khứ, hiện tại và vị lai đều nghe hết đến tận ngọn ngành. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm an trụ trong đại Bi, có thể nghe các âm thanh không bị chướng ngại, đoạn diệt các phiền não tập khí. Đó gọi là Thiên nhĩ thần thông trí hạnh.
Đại vương! Tha tâm thần thông trí hạnh của Samôn Cù-đàm, thâu nhiếp toàn bộ chúng sinh và tâm niệm của họ. Nghĩa là, tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô úy, tâm thuận theo phiền não, tâm trái với phiền não, tâm Thanh văn, tâm Bích-chi-phật, tâm Bồ-tát, tâm Phật, tâm Trời, tâm Rồng, tâm Dạxoa, tâm Càn-thát-bà, tâm A-tu-la, tâm Ca-lâu-la, tâm Khẩn-na-la, tâm Ma-hầu-la-già, tâm người, tâm chẳng phải người, tâm địa ngục, tâm súc sinh, tâm ngạ quỷ, tâm Diêm-la xử chúng sinh, tâm quá khứ, tâm vị lai… thảy đều phân biệt biết được. Samôn Cù-đàm an trụ trong tâm đại Bi có thể biết tâm người khác không chướng ngại, không có những phiền não, đoạn trừ những tập khí, thấu tỏ các pháp. Có khả năng hiểu rõ như thế gọi là Tha tâm thần thông trí hạnh.
Đại vương! Túc mạng thần thông trí hạnh của Sa-môn Cù-đàm là nghĩ biết được trong quá khứ một đời, hai đời, cho đến mười đời, ngàn đời, vô lượng trăm đời, vô lượng ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời. Biết sự thành hoại của trời đất, vô lượng thế giới hình thành rồi hoại diệt, vô lượng kiếp hình thành hoại diệt. Biết các chúng sinh ở trong đó có dòng họ như thế, tên như thế, thân hình như thế, thọ mạng như thế, chịu đau khổ như thế và thọ hưởng vui sướng như thế, sống ở nơi như thế, y phục, ăn uống như thế; chết ở trong đó rồi sinh trở lại trong đó, chết ở chỗ kia rồi sinh trở lại chỗ kia, chết đây sinh kia, chết kia sinh đây. Lại biết hết quá khứ, biết các Đức Phật trong tận quá khứ này đến quá khứ khác. Như vậy, quyến thuộc, cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, từ lúc mới phát tâm xuất gia cầu đạo, cho đến tu tập hạnh nguyện cúng dường chư Phật, giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh, ngồi dưới cội Bồ-đề thành Đẳng chánh giác. Những danh hiệu như thế, trụ xứ như thế, ngồi tòa thù thắng, Thanh văn, thị giả, trời, người, đại chúng, hoặc ngoại đạo như thế.
Lại nữa, thuyết pháp, độ chúng sinh, thọ mạng, diệt độ, thời kỳ chánh pháp tồn tại, thời kỳ tượng pháp tồn tại như thế, tất cả đều có khả năng nghĩ biết được. Vì sao? Vì Như Lai an trụ trong đại Bi, khéo hiểu rõ khởi nghiệp; là trí không có phiền não, vì an trụ trong thiền định; là trí không sợ hãi, khéo giữ gìn trí tuệ; là trí tự nhiên, không tìm cầu từ người khác, hiện tại khéo biết được; là trí hoàn toàn không quên; là trí công đức, Đại thừa cứu cánh; là trí thiện căn, từ Ba-la-mật sinh đến bờ kia. Đây gọi là biết bằng Túc mạng thần thông trí hạnh.
Đại vương nên biết! Như ý thần thông trí hạnh của Sa-môn Cù-đàm là vì muốn điều phục những chúng sinh tà kiến, kiên cường khó giáo hóa, khiến họ theo chánh pháp. Cho nên Sa-môn Cù-đàm thị hiện các loại thần thông để giáo hóa, hoặc bằng sắc tướng, hoặc bằng thế lực, hoặc bằng biến hóa. Sắc tướng là thị hiện thân Phật, thân Bồ-tát, thân Duyên giác, thân Thanh văn, thân Thích Đề-hoàn Nhân, thân Phạm, vua trời và vua bốn cõi trời. Hoặc thân Chuyển luân thánh vương và các thân khác, cho đến thân súc sinh. Tùy theo chúng sinh mà ứng hiện để giáo hóa, đều có thể thị hiện để thuyết pháp. Nếu có chúng sinh tự ỷ vào sức mạnh của tự thân mà khởi lên thái độ kiêu mạn, sân giận, cống cao, vì muốn giáo hóa những chúng sinh như thế, nên Ngài thị hiện đại lực Na-la-diên, lấy núi
Tu-di đặt ở đầu ngón tay, rồi ném vào trong vô lượng thế giới ở các phương khác. Hoặc có khi gom nắm tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến tận cùng thủy tế rồi dùng một tay nhấc cao lên đến trời Hữu đảnh, trải qua một kiếp. Thị hiện năng lực như vậy để làm cho chúng sinh kia dứt bỏ tâm kiêu mạn, tự đại và cống cao mà thuyết pháp cho họ.
Biến hóa là dùng năng lực biến hóa, có thể biến biển lớn kia thành nước trong lỗ dấu chân trâu, biển lớn không giảm mà lỗ chân trâu cũng không lớn ra. Ngược lại, biến nước trong lỗ dấu chân trâu trở thành biển lớn. Hoặc khi kiếp số sắp kết hỏa tai nổi lên cầu ứng hiện nước thì liền biến làm nước; cầu ứng hiện gió thì liền biến làm gió. Khi thủy tai nổi lên, cầu ứng hiện lửa thì liền biến làm lửa, cầu ứng hiện gió thì liền biến làm gió. Khi phong tai nổi lên, cầu ứng hiện nước thì liền biến làm nước, cầu ứng hiện lửa thì liền biến làm lửa. Thể hiện những loại biến hóa như thế, chỉ dạy các chúng sinh, khiến họ sinh tâm vui mừng mà thuyết pháp cho họ. Vì sao? Vì sức thần thông Như Lai bao gồm các pháp tín, dục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ; điều phục tâm nhu hòa, đạt được sự tự tại, tu tập hoàn hảo. Đó gọi là Thần thông như ý.
Đại vương nên biết! Lậu tận thông trí hạnh của Sa-môn Cù-đàm là các lậu hoặc đã hết, xa lìa tất cả phiền não tập khí; đó là dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu. Nó không giống chỗ đạt được lậu tận của tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật. Vì sao?
Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật tuy đạt được lậu tận, nhưng đối với các sinh xứ vẫn còn bị chướng ngại, không đủ sức tự tại giáo hóa chúng sinh. Vì thế, họ còn có sự chướng ngại. Sa-môn Cù-đàm không còn có sự chướng ngại, nên gọi là Lậu tận trí thông.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu thần thông trí hạnh như thế, cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là bốn Trí vô ngại của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Bốn Trí vô ngại của Như Lai là:
1. Pháp vô ngại.
2. Nghĩa vô ngại.
3. Từ vô ngại.
4. Nhạo thuyết vô ngại.
Đại vương! Pháp vô ngại của Sa-môn Cù-đàm nghĩa là quán chúng sinh mới phát tâm, hành tâm nhiều dục, hành tâm ít dục và pháp thiện, pháp ác, pháp thế gian và pháp xuất thế gian, pháp có thể làm, pháp không thể làm, có pháp hữu lậu và pháp vô lậu, có pháp hữu vi và vô vi, pháp đen và pháp trắng, pháp sinh tử và pháp Niết-bàn, Bồ-đề bình đẳng, pháp tánh bình đẳng. Biết đúng như thật, tùy theo đối tượng nghe để thuyết pháp. Đó gọi là Pháp vô ngại.
Đại vương nên biết! Nghĩa vô ngại của Sa-môn Cù-đàm là đối với các pháp nhận thức bằng trí đệ nhất nghĩa, là vô ngã trí, vô chúng sinh trí, vô nhân trí, vô thọ mạng trí; biết về quá khứ bằng trí không chướng ngại; biết về vị lai bằng trí vô biên; biết hiện tại bằng trí Nhất thiết chủng. Biết rõ về trí của bốn Đế, đó là Khổ không hòa hợp trí, biết Tập không tạo tác trí, biết Diệt tự tánh trí, biết Đạo có thể không tạo tác trí; biết tâm các chúng sinh thực hành theo trí. Tất cả đều đúng như thật, tùy theo đối tượng nghe để thuyết pháp. Đó gọi là Nghĩa vô ngại trí.
Đại vương nên biết! Trí của Sa-môn Cù-đàm đối với ngôn từ không ngại là hoàn toàn hiểu rõ các âm thanh, ngôn ngữ. Nghĩa là, biết được âm thanh, ngôn ngữ văn tự của Trời, Rồng, Quỷ thần, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già, người và chẳng phải người. Tùy theo đối tượng nghe của từng loại khác nhau, tùy theo từng loại với âm thanh khác nhau của từng địa phương mà thuyết pháp thuyết nghĩa. Đó gọi là Từ vô ngại trí.
Đại vương nên biết! Nhạo thuyết vô ngại trí của Sa-môn Cù-đàm là tùy theo đối tượng nghe và người cầu hỏi, tất cả ngôn ngữ văn tự, ngay trong miệng phân biệt mà trả lời thẳng ngay. Tâm không nhàm chán mệt mỏi, nghĩa là tất cả thiền định Tamma-bạt-đề, biện thuyết ba thừa, tùy theo những tâm hạnh của chúng sinh để trả lời đúng như yêu cầu. Ngôn ngữ bóng bẫy, nói không trở ngại, giống như dòng nước chảy không bao giờ cùng tận. Đó gọi là Nhạo thuyết vô ngại trí.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã thành tựu bốn vô ngại trí như thế, cho nên ta nói Ngài không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là bốn Tâm vô lượng của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Bốn Tâm vô lượng của Như Lai là tâm Từ vô lượng, tâm Bi vô lượng, tâm Hỷ vô lượng và tâm Xả vô lượng. Đại vương! Sa-môn Cù-đàm có mười loại tâm đại Từ vô lượng:
1. Tâm Từ rộng lớn bình đẳng, đối với chúng sinh không có sự lựa chọn.
2. Tâm Từ rộng lớn làm lợi ích; có khả năng khai mở con đường thiện Niết-bàn cho trời và người, đóng cửa những con đường ác.
3. Tâm Từ rộng lớn cứu độ, hoàn toàn có khả năng đưa tất cả chúng sinh qua khỏi hiểm nạn của sinh tử.
4. Tâm Từ rộng lớn thương xót, không bỏ tất cả chúng sinh, nuôi dưỡng các căn.
5. Tâm Từ rộng lớn giải thoát, diệt trừ những phiền não nóng bức của chúng sinh.
6. Tâm Từ rộng lớn phát sinh Bồ-đề, dạy các chúng sinh về Bồ-đề Niết-bàn Vô thượng.
7. Đối với chúng sinh tâm Từ rộng lớn không bị trở ngại, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả cảnh giới của chúng sinh.
8. Tâm Từ rộng lớn như hư không, cứu hộ tất cả chúng sinh.
9. Tâm Từ rộng lớn duyên với pháp, giác ngộ tất cả chúng sinh cùng biết được pháp chân thật.
10. Vô duyên đại Từ, chứng được tánh thật pháp, xa lìa sinh tử.
Đại vương nên biết! Đó gọi là tâm Từ vô lượng. Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm có mười loại tâm đại Bi vô lượng:
1. Đại Bi bất cộng, vì tánh đại Bi.
2. Đại Bi không nhàm chán, thay tất cả chúng sinh chịu mọi sự đau khổ.
3. Đại Bi đi vào tất cả đường ác, ở trong sinh tử giáo hóa chúng sinh.
4. Đại Bi thọ sinh trong các cõi trời người, thị hiện các pháp đều vô thường.
5. Đại Bi không bỏ các tà định của chúng sinh, ở trong vô lượng kiếp khởi tâm thệ lớn trang nghiêm thành tựu.
6. Đại Bi không đắm trước niềm vui của chính mình mà đem cho niềm vui của tất cả chúng sinh.
7. Đại Bi không cần báo đáp, tự tâm thanh tịnh.
8. Đại Bi diệt trừ tâm điên đảo của tất cả chúng sinh, để nói pháp chân thật.
9. Đại Bi nói pháp tánh chân thật, biết các pháp giới tự tánh thanh tịnh.
10. Đại Bi nói về không, không có sở hữu, không bị các khách trần phiền não làm ô nhiễm.
Đại vương! Đó gọi là tâm Bi vô lượng.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm có mười loại tâm đại Hỷ vô lượng:
1. Tâm đại Hỷ vui mừng các chúng sinh phát tâm Bồ-đề.
2. Tâm đại Hỷ nghĩ đến các chúng sinh đã từ bỏ các cõi.
3. Tâm đại Hỷ đối với người phạm giới, không sinh tâm ác, giáo hóa họ được thành tựu.
4. Tâm đại Hỷ đối với tất cả các chúng sinh hay đấu tranh, kiện tụng đều khiến cho họ hòa hợp và được trí Vô thượng.
5. Tâm đại Hỷ vì các chúng sinh thường hộ chánh pháp.
6. Tâm đại Hỷ vì xa lìa thế gian và xuất thế gian.
7. Tâm đại Hỷ khiến cho các chúng sinh không đắm trước mọi thứ của cải, thường vui trong chánh pháp.
8. Tâm đại Hỷ không để cho những khó khăn khuất phục.
9. Tâm đại Hỷ không hoại diệt pháp giới, làm cho các chúng sinh thường ưa thích thiền định, giải thoát Tam-muội liên tục không gián đoạn.
10. Tâm đại Hỷ khiến các chúng sinh chuyên cầu sự tịch tĩnh, diệt trừ tâm loạn, đạt được trí tuệ Vô thượng, xa lìa tà kiến và có đầy đủ các hạnh nguyện.
Đó gọi là tâm đại Hỷ vô lượng.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm có mười loại tâm xả vô lượng:
1. Tâm đại Xả là tất cả chúng sinh cung kính, cúng dường mà vẫn không tăng thêm tâm vui mừng. Còn đối với tất cả những chúng sinh khinh mạn, hủy nhục cũng không sinh tâm buồn giận.
2. Tâm đại Xả là thường sống ở trong thế gian nhưng không bị nhiễm bởi tám pháp của thế gian.
3. Tâm đại Xả là biết khả năng, biết thời, đối với khả năng hay chẳng phải khả năng, tâm vẫn thực hành bình đẳng.
4. Tâm đại Xả không đem cho chúng sinh pháp học và vô học của Thanh văn, Bích-chi-phật.
5. Tâm đại Xả là lìa xa tất cả phiền não tập khí.
6. Tâm đại Xả không vui tu hành Bồ-đề Nhị thừa để nhàm chán sinh tử.
7. Tâm đại Xả là xa lìa ngôn ngữ thế gian và Niết-bàn, ngôn ngữ chẳng lìa dục, ngôn ngữ cười đùa, ngôn ngữ làm người khác buồn bực, ngôn ngữ Thanh văn và Duyên giác, cho đến tất cả các ngôn ngữ làm chướng ngại Bồ-đề.
8. Tâm đại Xả, nếu có chúng sinh đợi thời cơ được giáo hóa thì lúc đó Như Lai tạm thời xả bỏ cho họ.
9. Tâm đại Xả, nếu có chúng sinh đáng được Đức Phật giáo hóa thì tùy theo đó liền thấy các sắc thân ứng hiện.
10. Tâm đại Xả là lìa xa hai pháp không cao và không thấp, không giữ không bỏ, không hư không thật, quán sát bình đẳng, an trụ ở chân thật và đạt được nhẫn thanh tịnh.
Đó gọi là tâm đại Xả vô lượng.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu bốn Vô lượng tâm như vậy. Cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! thế nào là tướng năm Căn của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! tướng năm Căn của Như Lai là: Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn.
Đại vương nên biết! Tín căn của Sa-môn Cùđàm là tin ở bốn pháp. Bốn pháp ấy là:
1. Ở trong sinh tử thực hành chánh kiến, tin ở nghiệp báo, thậm chí bị mất mạng cũng không làm điều ác.
2. Tin hạnh Bồ-tát, không theo tà kiến, chuyên cầu Bồ-đề, không cầu các thừa khác.
3. Tin hiểu các pháp, đồng với Không, Vô tướng và Vô nguyện, đồng với Đệ nhất nghĩa đế; đồng với hiểu rõ nghĩa lý nhân duyên sâu xa, không có ta không có người, không có chúng sinh, không có phân biệt.
4. Tin vào mười Lực, bốn pháp Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Khi tin như thế rồi, cắt bỏ những lưới nghi, tóm thâu tất cả giáo pháp của Đức Phật.
Đó gọi là Tín căn.
Đại vương nên biết! Tinh tấn căn của Sa-môn Cù-đàm là nếu pháp nào thuộc về Tín căn thì pháp ấy chính là pháp tu Tinh tấn căn, do đó gọi là Tinh tấn căn.
Nếu pháp nào thuộc về Tinh tấn căn thì pháp ấy không bao giờ bị quên mất, do đó gọi là Niệm căn.
Nếu pháp nào được thuộc về Niệm căn thì pháp ấy không quên, không mất và nhất tâm bất loạn, do đó gọi là Định căn.
Nếu pháp nào được thuộc về Định căn là đối tượng quán của tuệ, là thể tánh của tuệ, bên trong tự chiếu tỏ, không biết do người khác, tự trụ trong chánh hạnh, đó gọi là Tuệ căn.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu Năm căn như vậy, cho nên ta nói là không có lỗi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tướng năm Lực của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Tướng năm Lực của Như Lai là: Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực và Tuệ lực.
Đại vương nên biết! Tín lực của Sa-môn Cùđàm là tin vào một mục đích không bao giờ thay đổi; đến nỗi trời ma biến làm thân Phật, thị hiện ra vào thiền định giải thoát cũng không lay chuyển được, đó gọi là Tín lực.
Ở trong các pháp thiện đạt tâm kiên cố. Đạt được sức như thế, tu các thiền định, các trời và người không thể phá hoại, đều được thành tựu như sở nguyện, đó gọi là Tinh tấn lực.
Trụ ở trong các pháp nhưng không bị phiền não phá hoại. Vì sao? Vì có năng lực chánh niệm nên có thể thu phục được. Bởi vậy, không đánh mất năng lực của niệm, đó gọi là Niệm lực.
Xa lìa nơi ồn ào náo nhiệt, thích độc hành. Tuy có nói ngôn ngữ, âm thanh, nhưng không làm chướng ngại Sơ thiền, khéo trụ ở giác quán, không chướng ngại Nhị thiền. Tâm sinh hoan hỷ không chướng ngại Tam thiền; dẫu thích giáo hóa tất cả chúng sinh nhưng không bỏ Phật pháp và cũng không làm chướng ngại Tứ thiền. Khi thực hành Tứ thiền không bị chướng ngại bởi các pháp chướng ngại định, không bỏ các định cũng không theo định mà có thể tự tại thọ sinh bất cứ ở đâu, đó gọi là Định lực.
Biết pháp thế gian và pháp xuất thế gian, không có một pháp nào có thể hoại đó là trí. Trong đời sống, tất cả nghề nghiệp không học từ thầy mà chỉ tự nhiên biết. Tất cả hạnh khổ của thế gian và ngoại đạo, vì giáo hóa chúng sinh nên đều thọ nhận thực hành, là pháp xuất thế gian. Nó có khả năng vượt qua thế gian, thành tựu năng lực tuệ, đó gọi là Tuệ lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu năm lực như thế, cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tướng bảy Giác phần của Sa-môn Cù-đàm?
Đáp:
–Đại vương! Bảy Giác phần của Sa-môn Cùđàm là: Niệm giác phần, Trạch pháp giác phần, Tinh tấn giác phần, Hỷ giác phần, Ỷ giác phần, Định giác phần và Xả giác phần.
Đại vương nên biết! Niệm giác phần của Samôn Cù-đàm là khả năng quán các pháp, có khả năng phân biệt các pháp và cũng có khả năng quán sát tự tướng các pháp. Thế nào là tự tướng? Quán các pháp tự tánh vốn không. Niệm biết tường tận tất cả như thế, gọi là Niệm giác phần.
Nếu có khả năng phân biệt hiểu rõ tám vạn bốn ngàn pháp tụ (pháp môn). Hiểu được pháp như thế, hiểu nghĩa là hiểu nghĩa, không hiểu nghĩa là không hiểu nghĩa, thế đế là thế đế, Đệ nhất nghĩa đế là Đệ nhất nghĩa đế, giả danh là giả danh, hiểu chính chắn không nghi. Phân biệt chọn lựa được những pháp như thế, đó gọi là Trạch pháp giác phần.
Nếu Niệm pháp, Trạch pháp, Hỷ pháp, Ỷ pháp, Định pháp và Xả pháp thì dùng trí tuệ gom lấy, tinh tấn dũng mãnh; muốn không thoái chuyển nên siêng năng tu tiến lên, không xả bỏ ý mình, thực hành chánh đạo, đó gọi là Tinh tấn giác phần.
Đối với việc tu hành ở trong pháp vô lượng thanh tịnh thắng lạc, tâm sinh phấn chấn không lười biếng, thì là vui mừng hớn hở, có khả năng dứt trừ phiền não, đó gọi là Hỷ giác phần.
Nếu diệt trừ các phiền não cấu uế trong thân tâm thì lìa khỏi các triền cái, nhập vào cảnh giới định, khiến tâm trụ vững, đó gọi là Ỷ giác phần.
Như chỗ nhập định đều có thể liễu giác. Hễ nhập định là hiểu rõ pháp, lại hiểu rõ sự trói buộc của các kiến hoặc phiền não, tâm ấy bình đẳng, tất cả các pháp không có tướng sai khác. Có khả năng biết rõ như thế, đó gọi là Định giác phần.
Nếu đối với pháp vui, buồn mà tâm ấy không mất, lại cũng không bị pháp thế gian lôi kéo, không cao, không thấp, trụ vững không lay động, không có các lậu, không vui, không đắm, không có các sự chướng ngại, tùy thuận chân đế, thẳng đến chánh đạo, đó gọi là Xả giác phần.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu bảy Giác phần như thế, cho nên ta nói Ngài không có lỗi lầm.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là tám phần Thánh đạo của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Tám phần Thánh đạo của Như Lai là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.
Đại vương nên biết! Chánh kiến của Sa-môn Cù-đàm là nếu thấy xuất thế là không khởi ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, dưỡng dục, đàn ông, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến. Lại cũng không khởi cái thấy thiện, bất thiện và vô úy; cho đến không khởi lên thấy hai tướng Niết-bàn và sinh tử, đó gọi là Chánh kiến.
Nếu các phiền não tham dục, sân hận, ngu si kia thường sinh khởi thì gọi là bất chánh. Không sinh khởi việc ấy, chỉ suy nghĩ về giới, định, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Có khả năng suy nghĩ, trụ trong giới uẩn như thế, gọi là Chánh tư duy.
Phàm khi nói năng không làm cho chính mình và người khác buồn phiền, tổn thương. Thành tựu lời nói tốt đẹp như thế, sinh khởi chánh đạo, đó gọi là Chánh ngữ.
Nếu nghiệp đen thì có quả báo đen; nghiệp trắng thì có quả báo trắng; hoặc nghiệp vừa đen vừa trắng thì cũng có quả báo vừa đen vừa trắng, rốt cuộc không dám làm. Nếu nghiệp không đen, không trắng thì quả báo không đen không trắng. Nếu hành động nào có khả năng dứt nghiệp thì hành động đó nên làm, đó gọi là Chánh nghiệp.
Tu hành theo Thánh chủng, Đầu-đà, oai nghi, không vọng động, không thay đổi, không dối gạt quanh co, không bị chi phối bởi lợi dưỡng của thế gian. Thấy người khác được lợi dưỡng tâm không sinh buồn bã, mình được lợi dưỡng thường nên biết đủ. Hạnh chân chánh như thế sẽ được Thánh nhân khen ngợi, đó gọi là Chánh mạng.
Nếu như tinh tấn hướng đến điều sai trái, không được bậc Thánh khen ngợi; vì đó là phiền não, tham dục, sân hận và ngu si. Là người có Chánh tinh tấn thì hoàn toàn không làm việc ấy. Nếu pháp nào có thể đi vào Thánh đạo vững chắc, tịch diệt Niết-bàn, đó gọi là Chánh tinh tấn.
Nếu không đánh mất chánh niệm, ở trong pháp không bị dao động, ngay thẳng không quanh co, vì thấy họa sinh tử nên cầu tiến đến Niết-bàn; buộc tâm không quên, không mất chánh đạo, đó gọi là Chánh niệm.
Nếu định không tán loạn, khi trụ ở trong các pháp là định, thành tựu quyết định, đó gọi là Chánh định.
Đại vương nên biết! Trụ chính là Tam-muội, vì tất cả chúng sinh đạt được giải thoát, thành chánh quyết định, đó gọi là Chánh định. Tám Thánh đạo này chính là chỗ thực hành của chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, cho nên gọi là Thánh đạo.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm thành tựu đầy đủ ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề. Sa-môn Cùđàm nương vào pháp này nên gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Rồi nói bài kệ rằng:
Cù-đàm bốn Niệm xứ
Và đến bốn Chánh cần
Thiền định các Tam-muội
Được tự tại trong ấy,
Chỉ Cù-đàm hoàn hảo
Lại không người thứ hai
Cho nên nói Cù-đàm
Không có các lỗi lầm.
Đạo như ý Cù-đàm
Tối thắng không gì hơn
Tu tập bốn vô ngại
Đầy đủ đến bờ kia.
Đại Thánh hay hiểu rõ
Vượt khỏi mọi sai biệt
Cho nên biết như thật
Làm thanh tịnh chúng sinh,
Phạm hạnh được tự tại
Từ, Bi và Hỷ, Xả
Được chánh kiến tịch tĩnh
Cho nên không lỗi lầm.
Nước tám Thánh chánh đạo
Trong sạch không đục nhơ
Rửa các tội chúng sinh
Mặc y báu bảy Giác,
Đem đặt chỗ không động
Chỗ vô úy Niết-bàn
Cho nên nói Cù-đàm
Không có các lỗi lầm.
Cù-đàm như trâu chúa
Riêng vượt hẳn quần chúng
Thánh chúng đều kính ngưỡng
Thế gian không ai bằng,
Lìa hết mọi điều ác
Đầy đủ các công đức
Thường nghĩ lợi thế gian
Cho nên không lỗi lầm.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm rốt ráo thành tựu mười thứ trí lực.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là mười thứ trí lực của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Mười trí lực của Như Lai là: Biết Xứ chẳng phải xứ trí lực; biết Tập nghiệp trí lực; biết Tánh trí lực; biết Tín trí lực; biết Căn trí lực; biết Chí xứ đạo trí lực; biết Định trí lực; biết Túc mạng trí lực; biết Thiên nhãn trí lực; biết Lậu tận trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết Xứ chẳng phải xứ lực tức là, trí đối với nhân quả quyết định hiểu rõ. Biết từ nhân này có thể sinh là quả kia, không sinh quả khác; biết hành bất thiện nhất định bị quả báo khổ, không sinh quả báo vui, tu hành nhân thiện nhất định được quả vui, không sinh quả báo khổ. Thị xứ là có quả báo, phi xứ là không có quả báo, đó gọi là biết rõ về Trí lực thị xứ, phi xứ.
Đại vương! Sa-môn Cù-đàm biết Tập nghiệp trí lực tức là có khả năng biết đúng như thật quả báo của các nghiệp (hành động) trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Biết chỗ, biết việc, biết nhân, biết quả, hoặc là việc quá khứ đoạn diệt không còn. Sa-môn
Cù-đàm nói ở quá khứ tuy không hiện tướng, nhưng nghiệp đó có thể đưa đến quả báo trong đời vị lai. Nếu có tác nghiệp là nhân Thanh văn, nhân Bích-chi-phật, nhân Bồ-tát, nhân Như Lai. Sa-môn Cù-đàm đều có khả năng biết rõ, cho nên gọi là biết Tập nghiệp trí lực.
Sa-môn Cù-đàm biết Dục trí lực là có khả năng biết đúng như thật về tất cả những thứ dục lạc của chúng sinh. Biết rõ chúng sinh vui trong năm dục, biết rõ chúng sinh vui trong đường tu tập, biết rõ chúng sinh ở trong định tà tụ, biết rõ chúng sinh ở trong các bất định tụ, biết rõ chúng sinh thích đạo Thanh văn, biết rõ chúng sinh thích đạo Bích-chiphật, biết rõ chúng sinh thích đạo Vô thượng. Biết như vậy rồi, tùy nghi để thuyết pháp, giáo hóa khắp tất cả chúng sinh, đó gọi là biết Dục trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết Tánh trí lực là có khả năng biết đúng như thật vô lượng chủng tánh của tất cả chúng sinh. Có chủng tánh vô lậu; có chủng tánh hữu lậu, chủng tánh thế gian và chủng tánh xuất thế gian; tánh thường và tánh vô thường; tánh pháp giới, tánh không sai biệt. Lại biết sở thích của chúng sinh thành thói quen khó cải đổi từ tánh sinh dục, biết chỗ ưa thích ấy phát khởi từ tánh dục, và biết chỗ phát khởi tánh thiện và bất thiện, khởi tánh Thanh văn, tánh Bích-chi-phật và tánh Vô thượng Bồ-đề đều biết đúng như thật, tùy nghi để thuyết pháp, đó gọi là biết Tánh trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết Căn trí lực là có khả năng biết rõ đúng như thật những căn sai biệt của tất cả chúng sinh. Biết căn hữu lậu, căn vô lậu, căn lanh lợi, căn chậm lụt, biết tăng, biết giảm. Có khả năng biết đúng như thật về tham dục, sân hận, ngu si có vô số loại; mỗi thứ có nặng, có nhẹ. Biết rõ những căn nào có thể làm tăng trưởng sinh tử; biết có những căn nào làm giảm bớt sinh tử, biết căn thiện và căn bất thiện, biết căn phi thiện và phi bất thiện; biết nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn; biết nam căn, nữ căn, mạng căn, khổ căn, lạc căn, ưu căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn; biết tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Biết vị tri dục tri căn; biết tri dĩ tri căn; biết nhân nhãn căn cho đến nhân ý căn; biết nhân nhĩ căn làm duyên nhãn căn, biết nhân tỷ căn làm duyên thiệt căn; biết nhân thiệt căn là duyên thân căn, biết giới trang nghiêm có thể tu tập ở bố thí; biết bố thí trang nghiêm tu tập ở giới. Có thể biết ai nói thí, nói giới, cho đến trí tuệ cũng như vậy. Có khả năng biết ai nói bốn Niệm xứ, cho đến tám Chánh đạo phần; biết ai có thể nói được Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa và Vô thượng thừa. Biết căn Duyên giác học Thanh văn thừa; biết căn Chánh giác học Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa. Biết người hạ căn có thể tu tập thượng căn, người thượng căn có thể tu tập hạ căn; biết căn chúng sinh người chưa điều phục được thì sinh tâm xả, người có thể điều phục thì thuyết pháp chánh pháp; biết căn thuần thục, tướng không thuần thục; biết căn không thuần thục, tướng thuần thục; biết căn không thuần thục tướng không thuần thục, căn thuần thục có tướng thuần thục. Biết căn sinh tử, biết căn giải thoát; biết căn trang nghiêm, biết căn đầy đủ. Biết như thế rồi, thuyết pháp cho họ, đó gọi là biết Căn trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết Chí xứ đạo trí lực tức là có khả năng biết đúng như thật người thực hành đạo như thế nào thì đọa ở địa ngục, hay là sinh lên cõi trời; người thực hành đạo như thế nào thì được đạt đến Niết-bàn. Những nghiệp như vậy đều phát sinh từ tánh căn dục. Biết có nghiệp hữu lậu cho nên sinh ở năm đường, nghiệp vô lậu nên đạt đến Niết-bàn. Như vậy, có khả năng biết các chánh định tụ, các tà định tụ và những bất định tụ. Biết năng lực của nhân, năng lực quả báo; biết nhân duyên phước đức đời quá khứ; biết nhân duyên trang nghiêm đời hiện tại, biết khó điều phục, dễ điều phục, nói lược hiểu rộng, nói rộng hiểu lược. Biết chúng sinh ấy có thể đạt giải thoát, biết chúng sinh như thể không đạt được giải thoát. Biết người chưa được định lại gặp Thiện tri thức được trụ ở các chánh định tụ, không gặp được bạn tốt thì không giải thoát. Biết như vậy rồi, tùy theo khả năng nghe của họ mà thuyết pháp, đó gọi là biết Chí xứ đạo trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết
Thiền định trí lực, tức là có khả năng biết đúng như thật thiền định, giải thoát Tam-muội, Tam-ma-bạtđề. Biết cấu, biết tịnh, biết trụ, biết tăng; biết các chúng sinh do nhân duyên nào mà ham thích sinh tử, do nhân duyên nào lại ham thích Niết-bàn. Thế nào là nhân? Thế nào là duyên? Biết các chúng sinh suy nghĩ điều bất thiện là nhân duyên sinh tử. Do suy nghĩ bất thiện nên sinh trưởng vô minh, vì thế bất thiện là nhân, vô minh là duyên. Do nhân vô minh nên phát sinh ra hành, cho nên vô minh là nhân, các hành là duyên. Như vậy, cho đến do sinh mà có những đau khổ về già và chết, cho nên sinh là nhân, già chết là duyên; phiền não là nhân, năm cái là duyên, cho nên gọi là nhân duyên. Vì thế, các chúng sinh do nhân duyên ham thích sinh tử. Do nhân duyên gì mà ham thích Niết-bàn? Có hai nguyên nhân và hai pháp làm cho các chúng sinh ưa thích Niết-bàn, đó là Chỉ và Quán. Lại biết thuyết pháp nhân duyên, đắc Thanh văn Tammuội, Duyên giác Tam-muội, Bồ-tát Tam-muội. Biết như thế rồi, thuyết pháp cho họ, đó gọi là biết Định trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết Túc mạng trí lực, tức là có khả năng biết đúng như thật tất cả mọi nơi mình đã thọ sinh trong quá khứ, có sắc, không sắc, dòng họ, tên, ăn uống, sắc đẹp, hình tướng, khổ, vui và tuổi thọ dài ngắn; nghĩ nhớ chết nơi cõi kia và sinh ở nơi cõi khác. Biết thân ta và thân người cũng như vậy. Biết nghiệp nhân của chúng sinh do các chúng sinh ấy tạo những nghiệp nhân này nên được thân ở cõi khác; biết tâm và nhân duyên của các chúng sinh, tâm diệt như thế rồi thì tuần tự sinh; biết rõ ba đời không có bắt đầu và cuối cùng. Khuyên các chúng sinh nên quán các quả báo thiện ác, khổ vui trong quá khứ. Biết như thế rồi, tùy theo người nghe mà thuyết pháp, đó gọi là biết Túc mạng trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết
Thiên nhãn trí lực, tức là biết đúng như thật. Thấy tất cả chúng sinh sinh diệt đọa lạc, hoặc thọ hình sắc thiện hoặc thọ hình sắc ác, hoặc sinh cõi thiện, hoặc sinh cõi ác. Biết rõ tất cả các nghiệp nhân, biết thân, miệng, ý của chúng sinh làm ác và phỉ báng Thánh nhân, tăng thêm tà kiến. Vì nghiệp ác nên bỏ thân này liền đọa vào địa ngục. Biết thân, miệng, ý của chúng sinh thiện là không phỉ báng Thánh nhân, tăng thêm chánh kiến. Do nghiệp duyên, do bỏ thân này liền sinh ở cõi thiện. Có thể thấy thế giới mười phương chư Phật không cùng tận, giống như hư không không có giới hạn. Thấy rõ chúng sinh lúc sinh, lúc diệt, thấy lúc thành lúc hoại của các thế giới; cũng biết tâm Bồđề của các chúng sinh lúc sinh lúc diệt. Thấy tất cả chư Phật từ khi mới thành chánh giác, chuyển bánh xe chánh pháp cho đến lúc nhập Niết-bàn; thấy các bậc Thanh văn khi chứng giải thoát rồi thì nhập Niết-bàn; thấy các bậc Duyên giác dùng sức thần thông bảo các chúng sinh ở ân bố thí. Những việc như thế, tất cả năm phép thần thông của Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát không thể thấy được. Thiên nhãn Sa-môn Cù-đàm thành tựu công đức như thế. Dùng Thiên nhãn quán các chúng sinh, ai đáng được Phật hóa độ, ai đáng được Thanh văn, Duyên giác hóa độ. Thấy như vậy rồi, tùy theo người được độ mà hiện thân ấy để thuyết pháp, đó gọi là biết Thiên nhãn trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm biết Lậu tận trí lực, các lậu hoặc đã hết, giải thoát hoàn toàn. Cho nên tuyên bố rằng: Ta đã chấm dứt việc thọ sinh, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, lại không có đời sau. Trí lậu tận của Phật thanh tịnh vi diệu. Nói thanh tịnh là không còn tập khí. Trí Thanh văn còn có giới hạn. Vì sao? Vì còn có tập khí. Trí Bích-chi-phật cũng còn có giới hạn. Vì sao? Vì không có đại Bi. Trí lậu tận của Phật vô lượng, vô biên. Vì sao? Biết tất cả các hạnh, thành tựu đầy đủ Nhất thiết trí, đoạn sạch tất cả những tập khí, có đủ đại Từ, đại Bi, trang nghiêm bằng bốn Vô sở úy. Đối với tất cả pháp không thủ tướng, tất cả thế gian không thể hơn được; đi, đứng, nằm, ngồi không có những lỗi lầm. Giống như hư không trong sạch, không chướng ngại, không có xen lẫn những khói mây. Cũng vậy, Lậu tận trí của Đức Phật không lẫn những tập khí phiền não; thường thuyết pháp cho tất cả chúng sinh, khiến người nghe đoạn dứt các phiền não, đó gọi là Lậu tận trí lực.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm thành tựu hoàn toàn mười loại trí lực như thế để trang nghiêm, nên được gọi là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Cho nên ta nói là không có lỗi lầm. Rồi nói bài kệ rằng:
Thị xứ và phi xứ
Chư Phật biết như thật
Lời Thế Tôn chân thật
Nên không có lỗi lầm.
Các đời trong quá khứ
Thánh chiếu không chướng ngại
Vị lai và hiện tại
Trí tuệ không chìm mất,
Nghiệp và quả báo nghiệp
Trí về nhân và quả
Đều hay biết như thật
Cho nên gọi là Phật.
Thế gian vô số tánh
Từng loại biết như thật
Trong tánh khéo hiểu rõ
Cho nên người không bằng.
Thế gian nhiều loại tin
Và vô số người tin
Trí tuệ biết như thật
Cho nên nói lời thật.
Như thật biết căn thuần
Với căn được tự tại
Sức thần thông thiền định
Giác phần và giải thoát,
Biết nhiễm và thanh tịnh
Như thật hiểu sai khác
Như Lai không cách trở
Vì lìa mọi chướng ngại,
Quá khứ vô số đời
Mỗi mỗi trí lực thấy
Chính mình và thân người
Trí ấy biết như thật.
Mắt Phật trong không đục
Vượt thế gian trời người
Dùng mắt thanh tịnh ấy
Thấy chúng sinh sinh diệt,
Biết các Lậu tận trí
Và biết chỗ giải thoát
Là cảnh giới vô lậu
Thánh nhân biết như thật.
Năng lực không ai bằng
Phật Thế Tôn tự tại
Hiện ở trong nhất tâm
Mà tâm không sai khác,
Không lấy cũng không bỏ
Tự nhiên ở hiện tiền
Như bánh xe theo nghiệp
Tự nhiên mà xoay chuyển,
Nhất niệm biết như thật
Các tâm niệm chúng sinh
Ở tâm và chúng sinh
Không khởi có hai tướng,
Ở trong tất cả pháp
Đầy đủ các công đức
Cho nên nói Cù-đàm
Tự tại không lỗi lầm.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu bốn Vô sở úy.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là bốn Vô sở úy của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Đó là Nhất thiết trí vô úy, Lậu tận vô úy, Chướng đạo vô úy và Tận khổ đạo vô úy.
Đại vương nên biết! Nhất thiết trí vô úy tức là
Sa-môn Cù-đàm đều biết rõ hết tất cả pháp. Nếu Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian đều nói rằng: “Sa-môn Cù-đàm không thể biết rõ tất cả các pháp”. Nếu lời nói ấy đúng như thật, là điều không thể có. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm có khả năng biết rõ tất cả các pháp. Cho nên gọi là Bình Đẳng Chánh Giác, nghĩa là biết rõ các pháp phàm phu, pháp Thánh nhân, pháp Thanh văn, pháp Duyên giác, pháp Phật, pháp Bồ-tát, pháp học, pháp vô học, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp thiện, pháp bất thiện, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, cho nên gọi là Chánh Giác. Nói Bình Đẳng tức là thấy bình đẳng, vì pháp chân thật, nói vô tướng bình đẳng, vì không có các tướng; nói vô nguyện bình đẳng, vì không đắm nhiễm ba cõi, không sinh bình đẳng vì tánh vô sinh; không hành bình đẳng, vì tánh vô hành, vô xuất bình đẳng, vì tánh vô xuất, vô chí xứ bình đẳng vì tánh vô chí xứ; chân thật bình đẳng vì không có ba đời; giải thoát bình đẳng vì tánh vô minh; Niết-bàn bình đẳng vì không sinh tử. Vì thế, Sa-môn Cù-đàm đều có khả năng biết rõ tất cả pháp đến chỗ không còn sợ hãi. Với tâm thương yêu rộng lớn, ở trong đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, vận chuyển bánh xe pháp Phật, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian không ai có khả năng chuyển vận chánh pháp như thế. Đó gọi là Nhất thiết trí vô úy.
Đại vương nên biết! Lậu tận vô úy là Sa-môn Cù-đàm các lậu hoặc đã hết, cho nên đã tuyên bố rằng: “Ta lậu hoặc đã hết.” Nếu như Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian nói rằng: “Sa-môn Cù-đàm các lậu hoặc chưa hết.” Nếu nói lời như thế thì không đúng sự thật. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm các lậu hoặc đã hết. Đối với dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu và kiến lậu tâm đạt được giải thoát, các tập khí đã diệt. Cho nên, Samôn Cù-đàm các lậu hoặc đã hết, đến chỗ vô úy, ở trong đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, xoay chuyển bánh xe Phật pháp. Tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian, chưa từng có ai có khả năng vận chuyển như thế, đó gọi là Lậu tận vô úy.
Đại vương nên biết! Chướng đạo vô úy là Samôn Cù-đàm biết các pháp dục có thể chướng ngại Thánh đạo, cho nên đã nói rằng: “Dục có thể làm chướng ngại đạo.” Nếu như Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian đều nói rằng; “Các pháp dục không làm chướng ngại đạo.” Nếu nói lời như vậy là không đúng sự thật. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm biết rõ đúng như thật là pháp chướng đạo. Pháp chướng đạo nghĩa là mười nghiệp bất thiện, có thể làm chướng ngại Thánh đạo. Sa-môn Cù-đàm có khả năng biết đúng như thật đến chỗ vô úy. Ở trong đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, xoay chuyển bánh xe Phật pháp, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian chưa từng có ai có khả năng chuyển vận bánh xe Phật pháp như thế, đó gọi là Chướng đạo vô úy.
Đại vương nên biết! Tận khổ đạo vô úy là Samôn Cù-đàm nói: “Tu tập đạo Thánh tận diệt ngọn nguồn khổ đau, đạt giải thoát vô thượng.” Nếu như tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian đều nói, tu tập Thánh đạo không thể chấm dứt hoàn toàn ngọn nguồn các đau khổ. Nếu nói như vậy thì không đúng sự thật. Vì sao? Vì Samôn Cù-đàm đã chứng Vô thượng giải thoát, chấm dứt mọi đau khổ.
Thế nào gọi là Thánh đạo chân thật? Đó là Nhất thừa. Nó có hai loại: Chỉ và Quán. Lại có ba loại: Không Tam-muội, Vô tướng Tam-muội và Vô nguyện Tam-muội. Lại có bảy pháp: Từ bốn Niệm xứ cho đến tám Thánh đạo, đó gọi là Thánh đạo hoàn toàn chân thật. Đạo rốt ráo là không tăng, không giảm, không giữ, không bỏ, không nắm, không buông, không chánh, không tà, không một, không hai, đó gọi là Chánh đạo chân thật hoàn toàn. Sa-môn Cù-đàm có khả năng biết đúng như thật đến chỗ vô úy, ở trong đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, xoay chuyển bánh xe Phật pháp, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bàla-môn chưa từng có người nào có khả năng xoay chuyển bánh xe pháp như vậy nên gọi là Tận khổ đạo vô úy.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm đã hoàn toàn thành tựu trí bốn Vô úy như thế, có khả năng rống lên tiếng rống sư tử, cho nên ta nói là không có lỗi lầm.
Rồi nói bài kệ rằng:
Cù-đàm như sư tử
Trong chúng nói vô úy
Thế gian không ai bằng
Làm gì có người hơn?
Cù-đàm chứng các pháp
Như thật không hư vọng
Do thấy đúng như thật
Rống tiếng sư tử chúa.
Nếu có ai nói rằng:
“Cù-đàm nói không đúng”
“Cù-đàm không thể thấy”
Là không có điều đó.
Vì người không thấy tướng
Ở trong trời và người
Sư tử rống tự tại
Phát tiếng diệu vô úy.
Cù-đàm hết lậu hoặc
Đã đắc thân vô lậu
Vượt thế gian trời người
Nên nói không ai bằng.
Cù-đàm vì chúng sinh
Nói các pháp chướng đạo
Tất cả đều như thật
Nên không nói hư vọng.
Cù-đàm nói tiến thủ
Tự chứng nói như thế
Người tu hành pháp ấy
Không có các chướng ngại.
Cù-đàm biết như vậy
Đến chỗ thắng vô úy
Đạt diệu lạc vô úy
Cù-đàm trụ an ổn.
Chuyển bánh xe chánh pháp
Chưa ai từng xoay chuyển
Thế gian không thể chuyển
Trừ Bậc Lưỡng Túc Tôn.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu pháp Bất cộng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là pháp Bất cộng của Như Lai?
Đáp:
–Đại vương! Pháp Bất cộng của Sa-môn Cùđàm nghĩa là Ngài không có những lỗi lầm, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì thân nghiệp của Sa-môn Cù-đàm không sai trái, không có các lỗi lầm nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì khẩu nghiệp của Sa-môn Cù-đàm không sai trái, không có những hư dối nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì ý nghiệp của Sa-môn Cù-đàm không sai trái, không có các tưởng, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm khi được cúng dường không sinh tâm tự cao; hoặc bị hủy nhục cũng không sinh tâm thấp hèn, luôn luôn định tâm nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm hoặc đi, đứng, nằm, ngồi; hoặc nói hoặc im lặng thường ở trong định, luôn trú trụ tâm, xả tâm nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm tu thân, tu giới, tu tâm và tu tuệ, đoạn ngu si nên gọi là bậc Thánh, xả bỏ dục không dừng nghỉ, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm đại Từ, đại Bi, thuyết pháp độ người, an trụ nơi vắng lặng, không tăng, không giảm, siêng năng không ngừng nghỉ, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì tất cả chúng sinh, mà Sa-môn Cùđàm ở trong vô số kiếp chịu khổ đau rất lớn mà vẫn không sinh nhàm chán mệt mỏi, niệm không dừng nghỉ, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm khi vừa mới thành đạo, Ngài quán sát khắp tâm của tất cả chúng sinh ở quá khứ, vị lai và hiện tại, sau đó thuyết pháp không cần quán lại mà vẫn không đánh mất niệm ban đầu, trí tuệ không ngừng nghỉ, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì đối với trong ba đời; Sa-môn Cùđàm nhớ nghĩ không quên, giải thoát không ngừng nghỉ, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm không học từ Thầy mà giác ngộ tự nhiên; không như Nhị thừa phải nghe từ người khác, do quán nhân duyên sinh mà giải thoát tri kiến không ngừng nghỉ, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm đạt được trí vô ngại, biết tất cả nghĩa, tất cả chữ, tất cả câu. Đối với một câu pháp trải qua vô số kiếp Ngài nói nghĩa không cùng tận. Tất cả trí của thân nghiệp, nhờ bản trí biến chuyển, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Thân nghiệp của Sa-môn Cù-đàm đều hành động theo trí. Tất cả trí khẩu nghiệp triển chuyển theo căn bản trí, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì khẩu nghiệp của Sa-môn Cù-đàm hành động theo trí. Tất cả trí ý nghiệp vì triển chuyển theo căn bản trí, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì ý nghiệp của Sa-môn Cù-đàm thực hành theo trí, biết đời quá khứ không chướng, không ngại, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm đầy đủ Túc mạng minh mà biết đời tương lai không chướng ngại, nên gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm đạt được Thiên nhãn minh nên biết đời hiện tại không chướng ngại, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm đạt được Lậu tận minh, người không ác thấy được đảnh đầu, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Thân Sa-môn Cù-đàm vô biên nên người không thể hơn được, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm vượt hẳn các trời, người, Thanh văn, Bích-chi-phật nên chúng sinh mỗi người đều thấy Ngài ở trước mình, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Thân Sa-môn Cù-đàm chẳng thể nghĩ bàn nên lời nói của Ngài, người nghe sinh thiện, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm thành tựu tất cả các công đức, nên tiếng thuyết pháp tùy theo người nghe, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm khéo biết người khác nghĩ điều mà không lợi ích gì nên lời nói phát ra thanh tịnh, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Miệng Sa-môn Cù-đàm thường không nói lời phi nghĩa, nên khi phát ra giọng nói nhẹ nhàng, khiến cho người nghe ưa thích, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Tâm của Sa-môn Cù-đàm bình đẳng, lìa bỏ oán thân, nên Ngài nói ra âm thanh khiến người nghe không nhàm chán, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm nói vi diệu, nên ở trong chúng không sợ, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm thanh tịnh tất cả các trí chướng, nên những lời nói của Ngài không sinh sự sợ hãi, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu bốn Vô úy, nên tùy ý nói năng, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm khéo biết tâm tất cả chúng sinh nên đệ tử tịch tịnh, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Đồ chúng của Sa-môn Cù-đàm đều tùy thuận theo lời dạy nên tự lìa bỏ bực bội, trừ các pháp bất thiện, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm thường nguyện thân mình như cây thuốc chúa, nên thấy không nhàm chán, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm có khả năng khiến người thấy biết rõ tất cả pháp, nên khi cử động thân quay lại như voi chúa, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm nhìn như rồng chúa, oai nghi thanh tịnh, nên ở trong bốn chúng có thể rống lên tiếng rống sư tử, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm đầy đủ mười Lực, khéo quyết định những điều nghi ngờ của đại chúng, nên thường nhận sự cúng dường của bậc trên, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm là ruộng phước vô thượng, nên công đức vô tận, gọi là pháp Bất cộng. Vì sao? Sa-môn Cù-đàm tu tập các hạnh không cầu quả báo, nên tất cả Trời, Người, Ma vương, Phạm vương không phá hoại được, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Trong mỗi mỗi thời đều có Na-la-diên hộ vệ nên ghi nhớ mọi việc không sai lầm, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì khéo biết tất cả các căn nên biết được các hạnh, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm biết rõ tất cả các pháp nên trí tuệ của Ngài không trở ngại, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm biết rõ ba đời, trí tuệ thanh tịnh, nên tập khí phiền não đã tận diệt hết, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm khéo thanh tịnh nhân phiền não, nên ở trong thế gian làm Thầy Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm thông đạt tất cả pháp tướng, nên đạt được Pháp thân, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm thọ mạng vô tận, nên ai được thấy nghe, gần gũi thì được lợi ích lớn, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm thành tựu pháp thiện, ba nghiệp bất không, nên người nào làm thân là chảy máu thì phạm tội nghịch ác, gọi là pháp Bất cộng.
Vì sao? Sa-môn Cù-đàm thành tựu thiện căn Vô thượng thù thắng.
Đại vương nên biết! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn thành tựu pháp Bất cộng như thế, cho nên ta nói Ngài không có lỗi lầm.
Rồi nói bài kệ rằng:
Cù-đàm không lỗi lầm
Cũng không có tập khí
Các niệm đều thanh tịnh
Bậc trí ấy không lỗi.
Tất cả tướng không khác
Nhưng tâm không quên mất
Xả bỏ tâm tạo tác
Các dục đều không giảm.
Tinh tấn không lười biếng
Có niệm chưa từng quên
Không thoái tuệ giải thoát
Chánh kiến không mất giảm.
Trí tuệ không dao động
Nghiệp thân khẩu cũng vậy
Lấy trí làm căn bản
Thường triển chuyển như thế.
Trí thường không lỗi lầm
Đời quá khứ cũng vậy
Vị lai và hiện tại
Các nơi không chướng ngại.
Cù-đàm là người trí
Các công đức như thế
Lại có pháp thắng khác
Làm chủ rất nhiều nơi.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Như Lai thành tựu thân trang nghiêm bằng công đức như thế là thường hay là vô thường? Công đức như thế là có giới hạn hay không có giới hạn?
Đáp:
–Đại vương! Sa-môn Cù-đàm trụ ở công đức ấy, chấm dứt ngọn nguồn sinh tử. Thân sau cùng là thân thường trụ, chẳng phải vô thường. Đại vương! Ngài chớ quán sát thân Cù-đàm đồng với vô thường.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thân thường trụ như vậy, nên quán như thế nào?
Đáp:
–Đại vương! Như tự quán chiếu thân pháp tánh của mình, quán thân Cù-đàm cũng như thế. Thân ấy là sắc, vì không giống như sắc thấy được. Thân ấy là tâm, vì không giống như tâm biết được. Thân ấy là cây đuốc, vì tánh không tối tăm. Thân ấy cường tráng, vì thu phục các điều ác. Thân ấy có sức mạnh, vì không thể bị hàng phục. Thân ấy không trái ngược, vì tánh bình đẳng. Thân ấy là không, vì lìa thấy nghe. Thân ấy là vô tướng, vì lìa giác quán. Thân ấy là vô nguyện, vì ra khỏi ba cõi.
Thân ấy là một tướng, vì không có tướng khác. Thân ấy như hư không, vì không giống nhau. Thân ấy chẳng phải sinh, bởi vì từ duyên sinh. Thân ấy chẳng diệt, vì nó vốn không sinh. Thân ấy chẳng trụ, vì không có ba đời. Thân ấy chẳng có phương hướng, nên không lìa phương hướng. Thân ấy chẳng phải chúng sinh nên không lìa tất cả chúng sinh.
Đại vương nên biết! Người nào quán như thế gọi là quán thân thường trụ, gọi là thấy Pháp thân. Người nào quán như thế gọi là chánh quán. Người nào quán khác gọi là quán tà.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là chẳng phải sinh mà từ duyên sinh?
Đáp:
–Đại vương! Pháp thân chẳng phải sinh mà từ duyên sinh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là từ duyên sinh?
Đáp:
–Đại vương nên biết! Nói từ duyên sinh tức là sinh từ công đức trí tuệ ở vô số kiếp; sinh từ Giới, sinh từ Định, sinh từ Tuệ, sinh từ Giải thoát, sinh từ Giải thoát trí kiến; sinh từ Từ, Bi, Hỷ, Xả; sinh từ Bố thí, sinh từ Trì giới, sinh từ Nhẫn nhục, sinh từ Tinh tấn, sinh từ Thiền định, sinh từ Trí tuệ, sinh từ Giải thoát Tam-muội, sinh từ các Phương tiện ba-la-mật, sinh từ sáu phép thần thông, sinh từ ba Minh, sinh từ bốn Vô ngại; sinh từ mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng; sinh từ đoạn dứt các pháp bất thiện, tích tập các pháp thiện, sinh từ trí tuệ chân thật, sinh từ không phóng dật.
Đại vương nên biết! Sinh pháp vô lượng công đức thanh tịnh như thế, nên thân của Cù-đàm có công đức vô tận, Pháp thân vô tận.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Pháp sinh có cùng tận. Như vậy, thế nào là có sinh mà không tận?
Đáp:
–Đại vương! Vì vốn không sinh nên không có tận.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là vốn không sinh?
Đáp:
–Pháp thân chẳng sinh, vì bản thân nó có, vì duyên sinh nên gọi là sinh.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Pháp thân sinh từ duyên vô lượng, vô biên như thế. Nếu muốn thực hành nó thì lấy gì làm gốc và bắt đầu làm từ đâu?
Đáp:
–Đại vương! Tất cả những công đức là hạnh trợ giúp đạo. Nói tóm lại là lấy giới làm căn bản và bắt đầu bằng trì giới. Nếu không trì giới, thậm chí đến thân dã can cũng không được, huống gì được thân công đức.
Đại vương! Vì giới thanh tịnh nên không đoạn giống Phật, thành Đẳng chánh giác không đoạn giống Pháp, phân biệt pháp tánh không đoạn giống Tăng, tu đạo vô biên. Vì trì giới thanh tịnh liên tục không gián đoạn nên công đức vô tận.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Tất cả giới thiện đều không cùng tận và cũng có cùng tận chăng?
Đáp:
–Đại vương! Tất cả không có cùng tận mà cũng có cùng tận. Vì sao? Vì sự liên tục gián đoạn nên có cùng tận, vì không gián đoạn nên vô tận.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Thế nào là liên tục gián đoạn?
Thế nào là liên tục không gián đoạn?
Đáp:
–Đại vương! Giới thanh tịnh liên tục không gián đoạn nên công đức không cùng tận. Vì sao? Giới của người phạm ở chỗ thọ sinh gián đoạn nên có chấm dứt. Người ở trong giới thập thiện đạt được quả báo gián đoạn nên có chấm dứt. Công đức phước báo của các trời ở cõi Dục gián đoạn nên có sự chấm dứt. Chư Thiên cõi Sắc đi vào các định mà tâm còn gián đoạn nên có chấm dứt. Chư Thiên cõi Vô sắc đi vào các thiền định có gián đoạn nên có chấm dứt. Tất cả các Thanh văn giới Học, Vô học đi vào cõi Niết-bàn có gián đoạn nên có chấm dứt. Giới Bích-chi-phật không có tâm đại Bi có gián đoạn nên có chấm dứt. Các giới Bồ-tát đạt đến Bồ-đề, thành tựu tâm đại Bi nên công đức không cùng tận. Vì sao? Vì ở trong giới đó phát sinh ra tất cả các giới phàm tục, nhị thừa. Như vậy, hạt giống vô tận nên quả cũng vô cùng.
Nhà vua hỏi:
–Thưa Đại sư! Pháp thân này, nên nương vào pháp gì để khởi lên sự quán chiếu như thế?
Đáp:
–Đại vương! Nên nương vào tất cả thân phiền não của chúng sinh để quán chiếu; nên nương vào trong tham dục, sân hận, ngu si của chúng sinh để quán chiếu; nên nương vào bốn cái thấy điên đảo của chúng sinh để quán chiếu; nên nương vào trong ấm, giới, các nhập của chúng sinh để quán chiếu; nên nương vào các thân trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cho đến A-tu-la để quán chiếu. Vì sao? Vì những thân này tức là Như Lai tạng. Ở trong tất cả tạng phiền não, các cấu nhiễm đều có tánh Như Lai hiển nhiên đầy đủ, như vàng ở trong đá, như lửa ở trong cây, như nước ở trong đất, như bơ ở trong dừa, như dầu ở trong mè, như mầm ở trong hạt, như báu ở trong kho, như tượng ở trong khuôn, như thai ở trong bào thai, như mặt trời trong mây, cho nên, ta nói trong thân phiền não có Như Lai tạng.
Bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử nói kệ:
Cù-đàm thân Pháp tánh
Sắc diệu thường sáng ngời
Thanh tịnh thường vắng lặng
Thân ấy như hư không,
Cho nên thân pháp tánh
Chúng sinh không gì khác
Cảnh giới này thậm thâm
Nhị thừa làm sao biết?
Lúc bấy giờ, vua Nghiêm Sí nghe Đại Tát-già Ni-kiền Tử nói về Pháp thân công đức chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, sinh tâm vui mừng, thích thú, hớn hở và tâm vô cùng hoan hỷ; sinh tâm kính ngưỡng vô lượng, sinh tâm ái niệm vô lượng và sinh tâm vui mừng vô lượng. Đối với Đại Tátgià Ni-kiền Tử, nhà vua lại sinh tâm chẳng thể nghĩ bàn, sinh tâm không thể lường, sinh tâm tôn kính, sinh tâm tôn trọng, sinh tâm cung kính, sinh tâm biết rõ đạo Bồ-đề, sinh tâm Nhất thiết trí, sinh tâm đến bờ kia, sinh tâm như ngủ say thức dậy, sinh tâm khởi niệm, sinh tâm trụ Bồ-đề giải thoát chẳng thể nghĩ bàn.
Khi sinh những tâm chẳng thể nghĩ bàn như thế rồi, nhà vua lấy trăm ngàn vạn a-tăng-kỳ anh lạc có giá trị và vô số y phục đẹp có giá trị tự tay dâng lên cúng dường Đại Tát-già Ni-kiền Tử.
Nhà vua lại thưa:
–Lành thay, thưa Đại sư Tát-già! Đại sư có khả năng nói pháp môn khéo léo đại thắng phương tiện.
Thưa Đại sư Tát-già! Pháp ngài nói rất khéo léo, tùy thuận trí Nhất thiết trí. Pháp này có khả năng đến địa vị Nhất thiết trí. Pháp thầy nói có thể vượt qua các dòng thế gian. Pháp của Đại sư nói có thể rửa sạch tất cả cấu nhiễm phiền não. Pháp của Đại sư nói có khả năng phá vỡ cánh cửa tật đố. Pháp của Đại sư nói có khả năng nhổ sạch những khổ đau trong đường ác. Pháp của Đại sư nói là phương tiện rất tốt phá hoại tất cả các núi lớn kiêu mạn. Pháp của Đại sư nói đều có thể làm khô cạn tất cả biển lớn ái dục trong thế gian. Pháp của Đại sư nói có khả năng chiếu đến những khu rừng rậm vô trí. Pháp của Đại sư nói không mất thời gian, không mất khi tiếp nhận.
Bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử bảo với vua Nghiêm Sí:
–Đại vương! Đúng như vậy. Các Đại Bồ-tát không có oai nghi thì không giáo hóa chúng sinh; không có một pháp thì không thể tùy thuận theo pháp môn Đại thừa; không có một pháp thì không thể đến được địa vị Nhất thiết trí; không có một pháp thì không thể đoạn tất cả phiền não; không có một pháp thì không thấy các lỗi lầm thế gian; không có một pháp thì không thấy công đức vô thượng của Niết-bàn; không có một pháp thì không thấy hạnh thù thắng vô thượng của Bồ-tát.
Đại vương! Tất cả hạnh mà các Đại Bồ-tát thực hành đều vì tự lợi và lợi tha, phải có đầy đủ hai sự lợi ích ấy.
Khi Tát-già Ni-kiền Tử nói pháp môn này, vua Nghiêm Sí đạt được tâm kiên cố, không thoái chuyển nơi đạo Bồ-đề.
Mười sáu người con của vua đạt được chỗ gọi là cảnh giới tín tâm vui mừng, hớn hở. Tám ngàn Thiên tử được gọi là quán Phật Tam-muội trang nghiêm.
Bấy giờ, mười ba ngàn quyến thuộc của vua Nghiêm Sí và quyến thuộc của Đại Tát-già Nikiền Tử phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những chúng sinh ấy, mỗi người tự cởi y ngoài trên thân mình mang đến cúng dường Tátgià Ni-kiền Tử và thưa rằng:
–Hôm nay chúng con được lợi ích rất lớn, vì chúng con được thấy Tát-già Ni-kiền Tử, được nghe nói pháp môn thắng diệu Nhất thiết trí tuệ này.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí cùng các quyến thuộc thưa:
–Thưa Đại Tát-già Ni-kiền Tử! Nay Đại sư nên đi đến chỗ Đức Như Lai, gặp Phật Thế Tôn, lễ bái Như Lai, cúng dường Như Lai. Vì sao? Nay Đức Phật Thế Tôn đang ở tại nước con, đang thuyết pháp vi diệu cho đại chúng.
Tát-già Ni-kiền Tử nói:
–Lành thay, này Đại vương! Ta cũng muốn gặp Đức Như Lai, nay đã đúng lúc.
Bấy giờ, cùng với tất cả các vua nhỏ trong nước, thành ấp, chủ các tụ lạc, đại thần, vương tử, trưởng giả, cư sĩ và phu nhân của vua, cung phi, mỹ nữ, cùng với vương đại thần của vua, tất cả mọi người đều đồng tâm đi đến chỗ Phật.
Bấy giờ, vua Nghiêm Sí hạ chiếu cho tất cả thành ấp, cho đến chủ tụ lạc ở trong nước, mỗi nơi phải thống lĩnh tất cả quyến thuộc của mình và đều trang nghiêm để cùng đi đến chỗ Đức Phật. Nếu người nào không đi đến chỗ Đức Như Lai sẽ bị chém đầu.
Bấy giờ, tất cả những thiện nam, thiện nữ và các đồng nam, đồng nữ ở trong nước khi nghe lệnh của nhà vua ban ra thì đều muốn cùng với Đại Tát-già Ni-kiền Tử đến chỗ Đức Phật, trong lòng họ rất vui mừng. Mọi người trang hoàng các thứ rất đẹp, chuẩn bị đầy đủ các loại hương hoa, như: hương bột, hương xoa, vòng hoa, lộng và mang các loại âm nhạc ra khỏi thành Uất-xà-diên, từ bên đường lớn đợi vua Nghiêm Sí.
Lúc đó, vua Nghiêm Sí ngự giá trên chiếc xe được trang hoàng bằng bảy báu, lấy vô số những bình vàng bình bạc đựng các loại hoa đặt ở hai bên thùng xe, thể hiện sức mạnh của Đại vương, thể hiện thế lực của Đại vương, thể hiện thần thông và sự mạnh mẽ của Đại vương. Voi, ngựa, xe, bộ là thể hiện sự vui chơi thỏa thích của bậc Đại vương. Dựng các thứ tràng phan, lộng hoa, đánh tám ngàn loại trống khác nhau, có tiếng rất hay và các loại ca múa.
Đại Tát-già Ni-kiền Tử cùng với đại thần, vương tử, Vương Đại Lực phu nhân, cung phi và các tiểu vương, trưởng giả, cư sĩ, những người giữ cửa, giữ cung. Tất cả chín vạn tám ngàn vạn người vây quanh trước sau nhà vua cùng đi đến chỗ Đức Phật. Khi đến rồi, họ đảnh lễ dưới chân Đức Phật và đi nhiễu quanh ba vòng. Còn Tát-già Ni-kiền Tử cùng với các quyến thuộc đảnh lễ dưới chân Đức Phật và đi nhiễu quanh Ngài vô số trăm ngàn vòng rồi ngồi xuống một bên, chí thành chắp tay trụ quán Đức Phật im lặng không rời mắt.
Bấy giờ, Tuệ mạng Xá-lợi-phất thấy Tát-già Ni-kiền Tử ngồi trước Đức Phật chí thành chắp tay trụ im lặng, quán Đức Phật không rời mắt, tự nghĩ rằng: “Tát-già Ni-kiền Tử này vì chuyện gì mà đến chỗ Đức Phật?” Nghĩ như vậy rồi, Xá-lợi-phất liền hỏi Tát-già Ni-kiền Tử:
–Ông đến chỗ Phật vì chuyện gì? Vì để gặp Đức Phật, hay vì nghe pháp chăng?
Khi ấy, Tát-già Ni-kiền Tử nói với Tuệ mạng Xá-lợi-phất:
–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Hôm nay tôi đến chỗ Đức Thế Tôn không phải vì được diện kiến Phật, cũng không vì nghe pháp. Đại đức Xá-lợiphất! Hôm nay tôi không phải vì tất cả pháp mà đến chỗ Đức Phật. Vì sao? Thưa Đại đức Xá-lợiphất! Không thấy sắc, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy thọ, tưởng, hành, thức nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy tánh đất, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy tánh nước, gió, lửa nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy ngã, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy chúng sinh, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy thọ mạng, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy người, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy chủ thể, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy ngã sở, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy cái việc thấy, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy tướng, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy vô tướng, nên mới gọi là thấy Như Lai. Vì sao?
Thưa ngài Xá-lợi-phất! Không thấy tất cả tướng, mới gọi là thấy Như Lai; không chấp trước cái thấy mới gọi là thấy Như Lai; không thấy vật mới gọi là thấy Như Lai. Thấy đúng như thật tế, nên mới gọi là thấy Như Lai; thấy thật tế chẳng phải thật tế, nên mới gọi là thấy Như Lai; chán ghét mắt, chán ghét sắc, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy tai, không nghe âm thanh, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy mũi, không ngửi được hương, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy lưỡi, không nếm mùi vị, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy thân, không thấy xúc, nên mới gọi là thấy Như Lai; không thấy ý pháp, không thấy phân biệt ý pháp, nên mới gọi là thấy Như Lai.
Xá-lợi-phất nói:
–Thưa Đại đức Tát-già! Nếu thấy như thế gọi là thấy Như Lai. Vậy thì, làm sao gọi là thấy Phật Thế Tôn?
Tát-già Ni-kiền Tử đáp:
–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Không thấy nhà nên gọi là thấy Như Lai; chẳng thấy họ nên gọi là thấy Như Lai; không tướng nên gọi là thấy Như Lai; không phi tướng nên gọi là thấy Như Lai; phi pháp nên gọi là thấy Như Lai; không phi pháp nên gọi là thấy Như Lai; không thật nên gọi là thấy Như Lai; không phải không chân thật nên gọi là thấy Như Lai; không quán nên gọi là thấy Như Lai; không phải không quán nên gọi là thấy Như Lai; không niệm nên gọi là thấy Như Lai; không phải không niệm nên gọi là thấy Như Lai; chẳng phân biệt nên gọi là thấy Như Lai; không phải không phân biệt nên gọi là thấy Như Lai; không hữu vi nên gọi là thấy Như Lai; chẳng phải vô vi nên gọi là thấy Như Lai; chẳng phải có vật nên gọi là thấy Như Lai; chẳng phải không vật nên gọi là thấy Như Lai; không hòa hợp nên gọi là thấy Như Lai; không biệt ly nên gọi là thấy Như Lai; không phải sắc nên gọi là thấy Như Lai; không phải thọ, tưởng, hành và thức nên gọi là thấy Như Lai; không phải thủ nên gọi là thấy Như Lai; không phải không thủ nên gọi là thấy Như Lai; không phải sinh nên gọi là thấy Như Lai; không phải không sinh nên gọi là thấy Như Lai.
Bấy giờ, Tuệ mạng Xá-lợi-phất nói với Đại Tát-già Ni-kiền Tử:
–Thưa Đại đức Tát-già! Nếu người thấy như thế gọi là thấy Như Lai. Vậy thì thế nào là thấy Phật Thế Tôn?
Tát-già Ni-kiền Tử đáp:
–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Ta chẳng phải thấy sắc là thấy Như Lai, cũng không phải lìa sắc thấy Như Lai.
Ta không hủy diệt sắc gọi là thấy Như Lai. Như vậy, không phải thấy thọ, tưởng, hành và thức gọi là thấy Như Lai; không lìa thọ, tưởng, hành và thức gọi là thấy Như Lai.
Ta không hoại diệt thọ, tưởng, hành, thức gọi là thấy Như Lai. Ta không thấy Như Lai thuộc về thế gian, cũng không thấy Như Lai thuộc về xuất thế gian.
Ta không thấy Như Lai thuộc về ấm, cũng không thấy Như Lai thuộc về giới, không thấy Như Lai thuộc về nhập.
Ta không thấy Như Lai lìa tất cả âm thanh, ngôn ngữ. Nay, đối với Như Lai ta thấy như vậy, không thấy và chẳng không thấy như vậy; không biết, không phân biệt, không khởi, không thị hiện, không sinh, không tăng trưởng, không giữ, không bỏ, không lý luận, không tạo ra tướng, không làm cũng chẳng không làm, không tạo ra vật cũng chẳng không tạo ra vật, không thọ nhận, không giữ gìn, không khởi tâm thấy, không tự nhiên thấy, không quán thấy, không phải không quán thấy, không thể nói thấy, không thể không nói thấy.
Lìa bỏ tất cả ngôn ngữ, danh tự, âm thanh, chương cú mới gọi là thấy Như Lai. Vì sao? Vì không thể dùng tướng như thế để thấy Như Lai.
Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát thấy Phật như thế. Ta đối với Như Lai cũng thấy như vậy.
Xá-lợi-phất nói:
–Thưa Đại đức Tát-già! Người có thể thấy Như Lai như thế. Vậy thì, Như Lai thuyết pháp làm sao để nghe được?
Đáp:
–Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu ta khởi lên ý nghĩ pháp tướng chẳng phải pháp tướng mới đúng là nghe pháp Như Lai thuyết. Vì sao? Vì các Đại Bồtát đối với những âm thanh của tất cả danh tự, chương cú, ngôn ngữ để nghe âm thanh của Như Lai thuyết pháp không tạo tác tâm pháp tướng, chẳng phải pháp tướng. Vì sao? Vì xa lìa tất cả pháp tướng.
Xá-lợi-phất nói:
–Thưa Đại đức Tát-già! Người đến chỗ Đức Phật chẳng phải vì pháp chăng?
Đáp:
–Đại đức Xá-lợi-phất! Ta đến chỗ Đức Phật không vì pháp cũng không không phải không vì pháp. Vì sao? Đại đức Xá-lợi-phất! Phàm người vì pháp thì không vì tất cả pháp mới gọi là vì pháp. Nếu có người nói rằng, vì pháp mà đến thì người ấy không nên chấp trước pháp này mới gọi là vì Phật, không thấy pháp này mới gọi là vì Pháp, không chấp trước sinh tử mới gọi là vì Tăng.
Phàm người vì pháp, không vì biết khổ, không vì dứt tập, không vì tu đạo, không vì chứng diệt, không vì ra khỏi Dục giới, không vì vượt ra khỏi Sắc giới, không vì ra khỏi Vô sắc giới, không vì đạt được Niết-bàn.
Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Dựa trên những pháp này thì cũng đủ biết rằng, nay ta không phải vì pháp mà đến chỗ Đức Phật.
Bấy giờ, Đại đức Xá-lợi-phất bảo Đại Tát-già Ni-kiền Tử:
–Đại đức Tát-già! Nay Đại đức dựa vào pháp gì mà nói như thế?
Đáp:
–Đại đức Xá-lợi-phất! Nay ta hoàn toàn không dựa vào một pháp nào để nói như thế. Vì sao? Vì trong pháp giới không nương dựa, trong pháp giới nương dựa không thể được. Trong pháp giới không nương dựa thì cũng không thể được. Vì sao? Vì không thấy có hai vậy.
Xá-lợi-phất nói:
–Đại đức Tát-già! Hôm nay, Đại đức nương dựa vào sáu đường đến đi chăng?
Đáp:
–Thưa Đại đức! Nếu ta thấy có tướng sáu đường ấy thì phải có đến đi. Nếu ta thấy có sinh cũng phải thọ sinh, thấy có thoái lui thì phải có thoái lui, có đi thì phải đi. Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả pháp không động, không chuyển, không tới, không lui và không sinh.
Xá-lợi-phất nói:
–Tát-già Ni-kiền Tử! Nếu quả như vậy, tại sao Đức Như Lai nói: “Này các Tỳ-kheo! Sinh, lão, bệnh, tử cũng có sinh cũng có diệt?”
Đáp:
–Đại đức Xá-lợi-phất! Như Lai căn cứ vào chúng sinh trong sáu đường mà nói như thế. Vì muốn phá bỏ sự lệ thuộc vào sáu đường của chúng sinh, cho nên Như Lai nói như thế.
Đại đức Xá-lợi-phất! Ở trong Phật pháp không có đến, không đi, không sinh, không diệt.
Xá-lợi-phất nói:
–Lành thay, lành thay! Đại đức Tát-già! Như điều Đại đức nói thì người thực hành Đại thừa phải biết nghĩa, biết chữ.
Tát-già Ni-kiền Tử nói:
–Đại đức Xá-lợi-phất! Đại đức có biết thế nào là nghĩa, thế nào là chữ không?
Xá-lợi-phất nói:
–Đại đức Tát-già! Tôi không muốn nói. Tôi muốn nghe Đại đức nói. Đại đức nên nói thế nào là nghĩa và thế nào là chữ?
Bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử bảo Xá-lợi-phất:
–Đại đức Xá-lợi-phất! Nói về nghĩa là không thể nói, nhưng nói rằng không thể nói thì tên của nó là văn tự. Nếu nói nghĩa là tên không phải ngôn ngữ, nói ngôn ngữ ấy thì tên của nó là văn tự. Nói nghĩa là tên không phải tên, thì nói tên ấy của nó là văn tự. Nói nghĩa, là không thể chuyển động, không thể biết, không thể hý luận, không thể phân biệt, không thể sinh, không thể tụ hội, chẳng phải vật, chẳng phải thật, vô ngã, không khởi, không giữ, không nương tựa, xa lìa tất cả những bám víu vào ngôn ngữ danh tự.
Nói văn tự suy nghĩ, luôn cân nhắc quán sát, làm cho người khác hiểu gọi là chữ. Nói về nghĩa là vì nghĩa vô ngại. Nói về văn tự là tên pháp vô ngại, từ ngữ vô ngại, nói giỏi vô ngại.
Đại đức Xá-lợi-phất! Đó gọi là nói sơ lược về nghĩa, nói sơ lược về văn tự.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tát-già Ni-kiền Tử: –Hay thay, hay thay! Này Tát-già! Ông nói rất hay. Nếu có thiện nam tử nào muốn nói pháp thì nên nói như vậy, như ông đã nói pháp môn này.
Khi ấy, trong đại chúng có ba ngàn Thiên tử nghe Đại Tát-già Ni-kiền Tử nói năng tài giỏi rất hay liền đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Hai mươi ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
KINH ĐẠI TÁT-GIÀ NI-KIỀN TỬ SỞ THUYẾT
Bấy giờ, Tuệ mạng Đại Mục-kiền-liên bạch Đức Phật:
–Thưa Thế Tôn! Nay Tát-già Ni-kiền Tử thị hiện tướng ngoại đạo này giáo hóa được bao nhiêu chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Đức Phật bảo Mục-kiền-liên:
–Mục-liên! Nay ông hỏi ta việc này, trời người nghe nói thảy đều hoang mang, chỉ trừ chúng Đại Bồ-tát.
Mục-liên! Nay ta chỉ nói về phần nhỏ ấy khiến chúng sinh dễ hiểu. Thiện nam tử Tát-già dùng những loại hình tướng, những loại sắc, các thứ oai nghi để giáo hóa chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Mục-liên! Số chúng sinh nhiều như vi trần của núi Tu-di ở trong pháp ngoại đạo, thiện nam tử Tátgià thực hành pháp ngoại đạo, giáo hóa khiến cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Số chúng sinh nhiều như vi trần trong bốn thiên hạ ở trong pháp ngoại đạo Già-la-già, thiện nam tử Tát-già thực hành pháp Già-la-già giáo hóa khiến cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tám vạn bốn ngàn hằng hà sa số những chúng sinh sống ở trong pháp ngoại đạo Ba-lợi-bà-xà.
Thiện nam tử Tát-già thực hành pháp ngoại đạo Ba-lợi-bà-xà giáo hóa, khiến họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Mười hằng hà sa những chúng sinh thích hạnh Thanh văn, thiện nam tử Tát-già thị hiện hạnh Thanh văn giáo hóa, khiến họ trụ trong Bồ-đề Thanh văn rồi, sau đó phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vượt hơn vô số những thân Thanh văn ấy, thị hiện hạnh hình tướng Bích-chi-phật giáo hóa, khiến họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Người nào cầu thị hiện thân Đế Thích để giáo hóa, thì liền hiện thân Đế Thích giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Phạm vương để giáo hóa, liền thị hiện thân Phạm vương giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân vua Chuyển luân để giáo hóa thì liền hiện thân vua Chuyển luân giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân vua bốn cõi trời để giáo hóa thì liền hiện thân vua bốn cõi trời giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Khẩn-na-la để giáo hóa thì liền hiện thân Khẩn-na-la giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân A-tu-la để giáo hóa, liền hiện thân A-tu-la để giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Ca-lâu-la để giáo hóa, liền hiện thân Ca-lâu-la giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Ma-hầu-la-già để giáo hóa, liền hiện thân Ma-hầu-la-già giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân người để giáo hóa, liền hiện thân người giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân người nữ để giáo hóa, liền hiện thân người nữ giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân đồng nam, đồng nữ để giáo hóa, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân trời đất để giáo hóa, liền hiện thân trời đất để giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân cùng sinh ở cõi trời, liền hiện thân cùng sinh ở cõi trời giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Thánh nhân để giáo hóa, liền thị hiện thân Thánh nhân giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Ma-na-bà để giáo hóa, liền hiện thân Ma-na-bà giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni để giáo hóa, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni để giáo hóa chúng sinh.
Cần phải thị hiện thân Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để giáo hóa, liền hiện thân Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di giáo hóa chúng sinh.
Mục-liên! Thiện nam tử Tát-già đã thị hiện vô số những loại thân tướng như thể, giáo hóa vô số chúng sinh như thế phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Mục-liên bạch Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử Tát-già cúng dường bao nhiêu chư Phật?
Đức Phật bảo Mục-liên:
–Này Mục-liên! Cõi đất, cõi gió và cõi hư không… đều có thể tính được. Còn thiện nam tử Tát-già dùng các loại thân cúng dường chư Phật thì không thể nào tính được số lượng.
Bấy giờ, Đại đức Ma-ha Ca-diếp bảo thiện nam tử Tát-già:
–Thiện nam tử! Người đã cúng dường vô số chư Phật, thành tựu đầy đủ vô lượng, vô biên các công đức, nhưng vì sao chưa thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Tát-già đáp:
–Đại đức Ca-diếp! Nếu tôi có thấy Bồ-đề như thế, thấy chứng như thế thì tôi mới chứng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ca-diếp nói:
–Thiện nam tử Tát-già! Có vô lượng, vô biên Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng phải đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và đang thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tát-già đáp:
–Đại đức Ca-diếp! Hôm nay Đại đức nói có vô lượng, vô biên các chúng sinh thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây là số chúng sinh kiêu mạn. Vì sao? Đại đức Ca-diếp! Vì trong Đệ nhất nghĩa, Bồ-đề không thể đắc, Bồ-tát không thể đắc. Vì sao? Vì Bồ-đề gọi là vô vi, Bồ-đề là lìa bỏ tất cả số, Bồ-đề chẳng phải sắc pháp, Bồđề không thể thấy. Bồ-đề là không phải xanh, không phải vàng, không phải đỏ, không phải trắng, không phải hồng, không phải đen, không phải màu sắc pha lê. Nó không có sắc, không có hình, không có tướng, không có biểu hiện, vượt qua tất cả tướng; không nương tựa, lìa tất cả nương tựa; không vật lìa tất cả vật, vô tướng lìa tất cả tướng. Không thể nói, không thể thuyết, không thể thấy, không thể hòa hợp để biết, không thể riêng biệt để biết; chẳng tối, chẳng sáng. Không có hình, không có tướng, không thể quán. Không ngôn ngữ, lìa ngôn ngữ, không thể tiếp xúc, không thể biết, không thể nghe; chẳng phải âm thanh, chẳng phải miệng, không ngăn, không ngại, không trói buộc, không giải thoát, không giận dữ, không ngu si. Không thể đem tất cả mọi việc thị hiện, không thể nói.
Đại đức Ca-diếp! Thể của Bồ-đề có tướng trạng như thế. Nó không thể dùng thân để chứng, không thể dùng tâm để biết. Vì sao? Vì thân ấy vô tri như cỏ cây, thân ấy không hiểu như vách đá, thân ấy không nhận thức như tấm gương. Vì thế, không thể dùng thân để chứng đắc Bồ-đề. Tâm cũng không thể thấy, không thể hiện ra, cho nên không thể dùng tâm chứng đắc Bồ-đề.
Đại đức Ca-diếp! Chúng sinh không thể thấy, vì không có chúng sinh cho nên không đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả các pháp cũng đều như thế.
Đại đức Ca-diếp! Đại đức nghĩ như thế nào mà nói rằng, tôi đã cúng dường vô số chư Phật, đầy đủ vô lượng, vô biên công đức mà sao không thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Bấy giờ, trong chúng hội, các Đại Bồ-tát, Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thích Đềhoàn Nhân, vua bốn cõi Trời, Phạm và vua trời… Tất cả đại chúng cùng nghĩ rằng: “Như Lai Thế Tôn vì trừ tâm nghi hoặc của chúng ta, tuy thuận theo lòng tin của chúng ta mà Ngài đã thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho thiện nam tử Tát-già, với thời gian bao nhiêu sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở trong kiếp nào? Dòng họ gì? Gia đình nào? Quyến thuộc nào? Xuất gia như thế nào? Ở dưới cây gì thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Sau khi thành Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác rồi, danh hiệu Phật là gì? Trụ thế được bao lâu? Có bao nhiêu chúng hội?”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm nghĩ của các Đại Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di, Thích Đề-hoàn Nhân, vua bốn cõi Trời, Phạm, vua trời… trong chúng hội rồi, liền bảo Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử rằng:
Văn-thù-sư-lợi! Thiện nam tử Tát-già, trải qua hiền kiếp này, lại trải qua vô lượng vô số kiếp sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với danh hiệu Phật là Bảo Tuệ Tràng Vương, thế giới tên Thiện quán danh xưng. Trong thế giới ấy, không có những sự oán thù. Thế giới Thiện quán danh xưng ấy được trang nghiêm bằng những thứ hiếm có, đặc biệt rất cực đẹp và thật sung sướng. Đất ấy được trải bảy báu trang hoàng. Tường xung quanh thành quách được làm bằng bảy báu, che chắn trăm ngàn vạn lớp. Trong ấy lại có bảy trăm ngàn vạn lớp biển đại hương thủy chảy bao bọc xung quanh; lấy bảy báu trăm ngàn vạn đại Tỳ-lưu-ly, Ma-ni, bảo châu làm cửa và cổng, lấy mười trăm ngàn vạn vàng Diêm-phù-đàn làm lưới che khắp thế giới; dùng mười trăm ngàn Ma-ni lát trải ở ngoài cổng ấy; dùng mười trăm ngàn vạn báu Ma-ni sư tử ái treo khắp các cung điện để trang hoàng; dùng mười trăm ngàn vạn báu Ma-ni sư tử tràng trang hoàng những ngã tư đường; có mười trăm ngàn vạn báu vạn báu Ma-ni hỏa tràng suốt ngày đêm thường sáng chiếu khắp thế giới; có mười trăm ngàn vạn báu vạn linh hòa bảy báu thường phát ra âm thanh rất vi diệu, khắp các thế giới; dựng mười trăm ngàn vạn cờ cao báu Ma-ni, khắp các thế giới treo mười trăm ngàn vạn lộng vàng ở trên cờ cao.
Văn-thù-sư-lợi! Thế giới Thiện quán danh xưng kia đất bằng phẳng như bàn tay, có cây báu che phủ. Các loại cỏ mềm mại mọc xoay về bên hữu giống như một bức họa tuyệt đẹp, như lông ở cổ chim Khổng tước. Khi xúc chạm vào nó rất mềm mại, như chim Ca-lăng-tần-già trải khắp cả thế giới; có mười trăm ngàn vạn khu vườn được trang hoàng rất đẹp khắp cả thế giới; trong mỗi khu vườn ấy có mười trăm ngàn vạn những ao báu lớn trang hoàng khắp cả; trong mỗi cái ao đó lại có tám con đường chảy theo mỗi hướng, dùng loại báu lăng Ma-ni tám mặt đan nhau, lấy vàng cát bằng Diêm-phù-đàn trải ở dưới đáy. Trong mỗi ao đều có đủ nước có tám mùi hương thơm; dùng hoa Bátđầu-ma bảy báu rải che ở trên mặt nước. Những loài chim như chim Côn loan, chim Xà-bà-xà-bà thường hót với âm thanh rất vi diệu vang khắp thế giới.
Văn-thù-sư-lợi! Thế giới Thiện quán danh xưng kia có tám ngàn vạn thành, ấp, tụ lạc khắp cả đất nước để làm trang nghiêm. Trong một thành lớn lại có mười trăm ngàn vạn các thành nhỏ làm trang nghiêm. Tất cả những thành ấp khác cũng đều như thế. Mỗi mỗi thành ấp, tụ lạc đều có đầy đủ trăm ngàn vạn người, đồng nam, đồng nữ.
Văn-thù-sư-lợi! Trong thế giới Thiện quán danh xưng kia, có một Tứ thiên hạ gọi là thế giới người thấy ưa thích. Xinh đẹp thù thắng nhất trong các bốn thế giới, nhân dân phồn thịnh, an ổn hạnh phúc. Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương ứng Cúng Chánh Tri xuất hiện ở trong thế giới đó.
Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương kia sinh trong gia đình Bà-la-môn. Thân mẫu tên là Tốc Hành, giống như mẹ ta hiện tên là Ma-da. Thân phụ tên là Phạm Tài, giống như cha của ta hiện nay tên Bạch Tịnh. Con tên Diệu Xưng, giống như con của ta hiện nay tên La-hầula. Vợ tên Đại Tuệ, giống như vợ của ta hiện đời tên là Cù-di dòng họ Thích. Nhũ mẫu tên Đại Xưng, giống như Ma-ha-ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di của ta hiện nay. Người hầu tên là Thường Tùy Thuận, giống như Đàn-đà-ca của ta hiện nay. Ngựa tên là Đại Tốc, giống như ngựa chúa Kiềntrắc của ta hiện nay.
Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương cỡi trên con ngựa Đại Tốc, vượt thành xuất gia, giống như ta hiện nay cỡi ngựa chúa Kiền-trắc vượt thành xuất gia. Đạo tràng của Đức Phật Thật Tuệ Tràng Vương tên là Pháp thượng và ở trong đạo tràng ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giống như ta ở đạo tràng Tịch diệt. Ở trong đạo tràng kia lại có tám mươi vạn trăm ngàn vạn ức cây cối làm quyến thuộc.
Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương, khi ra đời, ở kiếp ấy không có các ma oán và quyến thuộc của ma. Khi Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả các chúng sinh trong thế giới ấy mang các loại hương hoa, hương thoa, hương bột, hương tán và thổi các loại âm nhạc, ca múa, một lúc cùng nhau đi đến đạo tràng Pháp thượng. Thậm chí trời Hữu đảnh và các chúng trời trổi lên các âm nhạc vi diệu của trời, tập hợp ở đạo tràng ấy. Tất cả chúng Dạ-xoa cũng trổi các âm nhạc tập trung ở đạo tràng ấy. Tất cả chúng Càn-thát-bà, tất cả chúng A-tu-la, tất cả chúng Ca-lầu-la, tất cả chúng Khẩn-na-la, tất cả chúng Ma-hầu-la-già ở trong thế giới ấy, mỗi mỗi đều trổi lên những loại âm nhạc và cùng với quyến thuộc của họ tập hợp ở đạo tràng ấy. Các vị Bồ-tát ở vô lượng, vô biên thế giới khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới đều đến tập hợp.
Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương vừa mới thành Chánh giác, đại chúng đã được tập họp, Đức Như Lai nói pháp môn lớn Bồ-tát Hành phương tiện cảnh giới phấn tấn này. Có vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha Tu-đala làm quyến thuộc. Khi Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương kia nói pháp môn này, có hằng hà sa những chúng sinh đạt được địa vị không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương kia ra đời không nói pháp ba thừa để giáo hóa. Vì sao? Vì cõi Phật kia không có hàng Thanh văn và Bíchchi-phật. Chúng sinh ở trong thế giới ấy đều tin Nhất thừa, đều tịnh hạnh thượng diệu thù thắng của Bồ-tát.
Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương kia, hội thuyết pháp đầu tiên có vô lượng hằng hà sa những vị Bồ-tát bất thoái đến tập hội. Hội thuyết pháp thứ hai có tám mươi ức trăm ngàn vạn na-do-tha vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đến tập hội. Hội thuyết pháp thứ ba có sáu mươi Tần-bà-la Bồ-tát đến tập hội. Hội thuyết pháp sau cùng có vô lượng, vô biên chúng sinh đạt địa vị không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương kia, khi chứng địa vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, trụ thế ở thế gian thuyết pháp đến sáu mươi tiểu kiếp, sau đó nhập vào Niết-bàn.
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, chánh pháp tồn tại ở thế gian tám mươi vạn trăm ngàn ức na-dotha kiếp. Chánh pháp lưu hành giáo hóa chúng sinh, số lượng chúng sinh được lợi ích bằng với số lượng được độ khi Đức Phật còn tại thế.
Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương trước khi sắp Niết-bàn đã thọ ký cho Bồ-tát Đại tràng vương rồi, sau đó mới nhập Niết-bàn. Ngài thọ ký rằng: “Đại Tràng Vương Bồ-tát sẽ kế thừa ta và sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với danh hiệu Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Giác Biến Tri.”
Bấy giờ, đại chúng muốn biết trong chúng này người nào là Bồ-tát Đại Tràng Vương sẽ tiếp thừa kế Đức Như Lai Thật Tuệ Tràng Vương thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người nào có danh hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết được ý nghĩ của chúng sinh lúc ấy. Biết tâm niệm chúng sinh như thế rồi, Ngài bảo Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:
–Văn-thù-sư-lợi! Thiện nam tử Tát-già này đang ngồi trước mặt đây tên là Đồng tử Thật Hỷ, tối thắng đệ nhất ở trong chúng đệ tử. Vào thời đó, Đồng tử này sẽ thành Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Thế giới Trang nghiêm diệu lạc của Đức Phật đó cũng giống như thế giới của Thật Tuệ Tràng Vương không khác.
Bấy giờ, trong chúng hội nghe Đức Phật nói về công đức thù thắng vi diệu trang nghiêm ở quốc độ Đức Phật kia thì có sáu mươi trăm ngàn vạn ức nado-tha Bồ-tát nguyện được sinh về quốc độ ấy mà thưa rằng: Khi Thật Tuệ Tràng Vương Như Lai này thành Phật, chúng con nguyện được sinh về quốc độ của Đức Phật ấy. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền thọ ký cho họ đều được vãng sinh về quốc độ của Đức Phật ấy. Có tám mươi ngàn vạn chúng Ni-kiền Tử đồng thời cùng nhau thưa:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện sinh về quốc độ của Đức Phật ấy.
Đức Thế Tôn cũng liền thọ ký cho họ:
–Thiện nam tử! Các ông đều sẽ được sinh về quốc độ của Đức Phật ấy.
Có tám ngàn vạn ức na-do-tha Thiên tử ở giữa hư không thưa rằng:
–Bạch Thế Tôn! Khi Thật Tuệ Tràng Vương Như Lai đạt được Bồ-đề, chúng con nguyện đều được sinh về thế giới Thiện quán danh xưng kia, được thấy quốc độ với công đức chẳng thể nghĩ bàn trang nghiêm thanh tịnh của Đức Phật ấy.
Lúc đó, Đức Phật liền bảo các Thiên tử:
–Các thiện nam! Các ông đều sẽ sinh về thế giới Thiện quán danh xưng kia để cúng dường Đức Phật ấy. Các ông cũng ở trong thế giới Thiện quán danh xưng ấy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, với các loại danh hiệu, tuổi thọ ở đời kiếp số bao nhiêu, giống như Thật Tuệ Tràng Vương Như Lai kia trụ thế, không khác.
Khi ấy, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, đại địa xuất hiện trăm ngàn vạn ức hoa Bát-đầu-ma; lá bằng Diêm-phù-đàn, đài bằng báu đại thanh Nhân-đà-la ni, tua hoa bằng báu mã não nhật quang, cọng hoa bằng báu đại Tỳ-lưu-ly mani. Ở trên tất cả các đóa hoa Bát-đầu-ma ấy thấy có trăm ngàn vạn ức những vị Bồ-tát ngồi kiết già, với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Tất cả đều cùng quy mạng Đức Như Lai.
Những vị Bồ-tát ấy, mỗi người dùng các loại lưới mây báu cúng dường Đức Như Lai rồi thưa rằng:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con từ các thế giới đến chỗ Đức Phật để nghe ngài nói về pháp môn công đức chẳng thể nghĩ bàn thị hiện Bồ-tát; vì được yết kiến Như Lai, đảnh lễ Như Lai và cúng dường Như Lai; để thấy được thiện nam tử Tát-già, vì muốn thấy các chúng Bồ-tát ở trong đại hội này.
Khi Đức Như Lai thuyết pháp môn vi diệu này, vô lượng, vô biên các Bồ-tát ở trong quốc độ Phật chẳng thể nghĩ bàn đều đạt được địa vị không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Nhất tâm giữ các căn
Nghe ta nói pháp diệu
Như Lai không vọng ngữ
Chư Phật nói chân thật.
Tát-già và đại chúng
Vô lượng đời tương lai
Trải qua vô số kiếp
Trong kiếp Vô thích tịnh.
Vị ấy sẽ thành Phật
Hiệu Thật Tuệ Tràng Vương
Đời ấy không dơ, bại
Nên gọi kiếp Vô thích.
Thế giới Phật lúc đó
Hiệu Thiện quán danh xưng
Đầy đủ các công đức
Trời người đều kính ngưỡng,
Đồ trang hoàng thế giới
Tất cả đều thù thắng
Cổng cửa các lầu gác
Trăm ngàn các thành báu,
Lưới vàng Diêm-phù-đàn
Che khắp, phát tướng sáng
Ánh sáng thường chiếu khắp
Ngày đêm không sai khác,
Treo trăm ngàn châu báu
Kiến lập cờ sư tử
Linh báu phát tiếng hay
Thuyết pháp đúng như thật,
Báu vô cấu làm tường
Hơn cung điện các trời
Dòng suối, các ao nước
Đầy đủ tám mỹ vị,
Các hoa Bát-đầu-ma
Và Câu-ca-na-đà
Tươi sáng đầy các ao
Không nhiễm những bụi nhơ,
Trụ xứ thế giới ấy
Vượt hẳn bốn thiên hạ
Trang hoàng đẹp đầy đủ
Cho nên gọi Lạc kiến,
Chỗ ấy Như Lai sinh
Bà-la-môn xuất gia
Mẹ tên là Tốc Hành
Cha tên là Phạm Tài,
Con tên là Diệu Xưng
Như nay La-hầu-la
Phu nhân tên Đại Tuệ
Như Cù-di vợ ta
Dì tên Đại Danh Xưng
Như là Ba-xà-đề
Người hầu tên Tùy Thuận
Cũng gọi Đàn-ni-ca
Như là Đàn-ni-ca
Cung kính tùy tâm ta
Ngựa đệ nhất tối thắng
Tên gọi là Đại Tốc
Nó đưa Như Lai đi
Như ta cỡi Kiền-trắc
Cây Bồ-đề Phật kia
Có tên là Pháp thượng
Nhiều cây làm quyến thuộc
Tám mươi trăm ngàn vạn
Pháp Vương dưới cây ấy
Tên là Thật Tuệ Phật
Ngồi dưới đạo tràng kia
Thành tựu đại Bồ-đề
Không ma làm quyến thuộc
Không có các nghiệp ma
Trong quốc độ Phật kia
Không có các oán thù
Vô lượng các trời, người
Tập hợp cõi tịnh ấy
Đều cầm vòng hoa đẹp
Trăm ngàn các âm nhạc
Họ với tâm cung kính
Cùng nhau đến chỗ Phật.
Như Lai biết tâm họ
Nên thuyết các diệu pháp
Vô lượng Tu-đa-la
Lấy làm các quyến thuộc,
Hội thứ nhất của Phật
Người nghe pháp môn này
Vượt hằng sa trần chúng
Không thoái quả Bồ-đề,
Không có Thanh văn thừa
Và không Bích-chi-phật
Các Bồ-tát dũng mãnh
Đầy khắp cõi tịnh ấy.
Trong pháp hội thứ hai
Có các chúng Bồ-tát
Tám mươi na-do-tha
Một đời trụ Bổ xứ.
Trong pháp hội thứ ba
Các đại thắng Bồ-tát
Sáu mươi Tần-bà-la
Trụ ở chỗ như thật,
Như Lai kia trụ thế
Tuổi thọ sáu mươi kiếp
Sau khi Phật diệt độ
Đàn pháp trụ thế gian,
Xá-lợi lưu bố khắp
Tám mươi ức ngàn vạn
Trụ na-do-tha kiếp
Lợi ích các chúng sinh,
Phật thọ ký Đại Tràng
Sau mới nhập Niết-bàn
Phật tên Đại Trang Nghiêm
Danh tiếng khắp thế gian,
Thế giới kia xinh đẹp
Giống cõi Phật Thật Tuệ
Ở trong quốc độ ấy
Thành Bồ-đề vô cấu.
Các ông nên tin ta
Trí tuệ như hư không
Tánh vô tận thường trụ
Ở khắp không chướng ngại
Thảy đều thấy tương lai
Việc chưa có sẽ có
Huống gì kiếp quá khứ
Từng có mà không nhớ,
Ta trụ nghĩa đệ nhất
Bằng trí tuệ như thật
Phát ngôn không hư dối
Không thể nói lời khác,
Nay ta nói chân thật
Pháp cam lồ tuyệt mỹ
Nên ông và đại chúng
Nghe tin thọ vững chắc.
Đại chúng nghe Phật thuyết
Đều sinh tâm vui mừng
Khi Phật kia thành đạo
Nguyện sinh về nước ấy.
Thế Tôn thọ ký họ
Vô lượng các chúng sinh
Phật kia hiện ở đời
Các ông đều sinh về,
Ông cùng thế giới đó
Giáo hóa các chúng sinh
Ở đó thành Bồ-đề
Thế giới cũng không khác.
Khi nói pháp môn này
Đại địa động sáu cách
Bồ-tát trong hoa sen
Chắp tay hướng Phật thưa:
Lành thay. Phật Thế Tôn!
Thật không thể nghĩ bàn
Vì vô lượng các chúng
Khéo nói pháp môn này,
Chúng con, các đại chúng
Đến từ vô số cõi
Đều muốn nghe pháp này
Pháp luân tối thượng diệu.
Bấy giờ, tất cả đại chúng trong hội đều rất vui mừng hớn hở, mỗi người tự cởi chiếc áo ngoài trên thân mình cúng dường Đức Như Lai rồi thưa rằng:
–Như Lai Thế Tôn! Nay đối với thế gian chuyển pháp luân lần hai, khi xưa ở thành Ba-lanại, Như Lai đã sơ chuyển pháp luân. Và bây giờ, Như Lai lại ở thành Uất-xà-diên này chuyển đệ nhị pháp luân.
Lại thưa:
–Thưa Thế Tôn! Chúng con thường nghe, không bao giờ bỏ pháp môn báu vi diệu này; chúng con nguyện mãi mãi ở bên cạnh thiện nam tử Tátgià.
Bấy giờ, ở trong hư không, âm nhạc tiếng trống vi diệu phát ra của chư Thiên; mưa trời các loài hoa, như hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câunâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Bà-sư-ca đầy cả dưới chân Đức Phật.
Trời ở trong hư không rải xuống các loại y báu đầy cả trời giống như mây và thưa:
–Nếu có thiện nam, thiện nữ nào có khả năng thọ trì, đọc tụng, biên chép, vì người khác giải nói pháp môn vi diệu này thì người kia nhất định được vô lượng, vô biên công đức.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thưa Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào có khả năng thọ trì, đọc tụng, biên chép và nói rộng pháp môn vi diệu này cho người khác thì thành tựu được bao nhiêu công đức?
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:
–Văn-thù-sư-lợi! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đến được những chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, không tưởng. Đối với chúng sinh ở trong thế giới chúng sinh, trí tuệ Đức Phật biết tất cả chúng sinh ở trong thế giới chúng sinh, cùng một lúc đều được sinh làm người. Khi được sinh làm người rồi, họ đều cùng nhau tu hạnh Ba-la-mật, cùng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chư Phật kia trụ một kiếp ở thế gian. Có thiện nam, thiện nữ nào, suốt một kiếp đó cúng dường các chư Phật Như Lai ấy, lễ bái, cung kính, tôn trọng, khen ngợi; đầy đủ tất cả những sự cúng dường thù thắng, cho đến tất cả các thứ hoa, hương và âm nhạc.
Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghĩ sao? Thiện nam, thiện nữ kia được phước nhiều không?
Văn-thù-sư-lợi thưa:
–Thưa Thế Tôn, rất nhiều! Thưa Thiện Thệ, rất nhiều! Thiện nam, thiện nữ kia được vô lượng, vô biên công đức không thể tính được, không thể đếm được, không thể biết, không thể nói.
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:
–Nếu có thiện nam! Thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, xiển dương và vì người khác nói rộng pháp môn Bồ-tát Hành Phương Tiện Công Đức này thì được công đức vượt hơn công đức của thiện nam, thiện nữ cúng dường chư Phật vô lượng, vô biên không thể kể hết, không thể so sánh kia.
Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, thật là hiếm có. Đức Như Lai vì muốn tất cả chúng sinh đều được an lạc, nên nói pháp môn này.
Lại thưa Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đối với cõi Diêm-phù-đàn Thế Tôn trụ thế được bao lâu?
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:
–Khi ta nhập Niết-bàn, có tám đại quốc vương vì muốn lưu bố xá-lợi của ta nên lúc đó chia làm tám phần cho tám nước, đặt trong tám chiếc hộp. Mỗi người giữ lấy một hộp mang về nước mình, lập tháp miếu tôn thờ, cúng dường. Bấy giờ, vua A-xà-thế cũng được một phần xá-lợi của ta. Chép kinh này ở trên bảng vàng, cùng với xá-lợi; tất cả đều đặt ở trong hộp bảy báu. Ở phía ngoài thành Vương xá đào đất làm hồ, ở giữa xây tháp trang hoàng rất đặc biệt, đặt hộp xá-lợi ở trong tháp ấy; treo trăm ngàn vạn a-tăng-kỳ cờ báu, lộng báu, rải tất cả những loại hương hoa vô giá, bình hương bảy báu đựng đầy nước hoa thơm, đèn đuốc lớn sáng mãi một trăm năm không tắt.
Văn-thù-sư-lợi! Sau một trăm năm ta nhập Niết-bàn, có vua A-thâu-ca, xuất hiện ở thế gian, sinh vào trong nhà Mao-lê, làm vua Chuyển luân thánh vương ở Diêm-phù-đề, đạt được tự tại và có năng lực đầy đủ, khéo hàng phục các chúng sinh kiên cường. Lúc ấy, vị vua kia chắc chắn quan sát ta, có thể nghĩ về ta, hộ trì pháp của ta, tôn trọng, cung kính đối với pháp thân của ta.
Văn-thù-sư-lợi! Vua A-thâu-ca kia có một Tỳkheo tên là Tịnh Tự Tại, sinh ở trong hàng vương tử, rồi xuất gia cầu đạo. Vua A-thâu-ca nhận làm Thầy. Vị ấy có năng lực thần thông rất lớn, có năng lực uy đức rất lớn, hộ trì pháp chư Phật, hộ trì đại phương quảng. Vua A-thâu-ca rất tôn trọng Tỳ-kheo Tịnh Tự Tại nên không để cho Tỳ-kheo ấy đi nơi khác, thường ở trong cung, nhà vua đích thân cúng dường.
Văn-thù-sư-lợi! Vua A-thâu-ca vì muốn lưu bố xá-lợi của ta, vì muốn tất cả chúng sinh được lợi ích nên muốn mở hộp đựng xá-lợi ra nên cùng với vô lượng đại thần, vương tử, trưởng giả, cư sĩ quyến thuộc vây quanh nhà vua; trần thiết rất trang nghiêm, thể hiện uy lực lớn của nhà vua, rồi mang các loại hương hoa, hương bột, hương tán và trổi lên trăm ngàn loại âm nhạc vi diệu, cùng nhà vua đi đến thành Vương xá; thiết lập tất cả sự cúng dường vi diệu thù thắng vô lượng, vô biên không thể tính được. Nhà vua cho đào đất lấy hộp báu xá-lợi, để bảy ngày, dùng tất cả các loại hương thơm, tất cả các loại hoa, tất cả vòng hoa, tất cả hương tán, tất cả hương hoa và tất cả các loại âm nhạc cung kính cúng dường. Trải qua bảy ngày, tất cả các quốc độ trong Diêm-phù-đề, chẳng phải lúc trước, lúc sau mà ở trong một lúc, một ngày, trong một khoảng khắc, khắp cả Diêmphù-đàn cùng xây dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp thờ xá-lợi Phật.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Tịnh Tự Tại lấy pháp môn này từ ở trong hộp đựng xá-lợi mang đến cõi nước lớn Bắc cương để truyền bá rộng rãi.
Văn-thù-sư-lợi! Mặc dù Tỳ-kheo Tịnh Tự Tại kia nỗ lực truyền bá, nhưng người lãnh hội thọ trì pháp môn này rất ít. Có nhiều người không biết, nhiều người không hiểu, nhiều người không giữ gìn, nhiều người không thọ trì đọc tụng pháp môn này. Vì sao? Vì đây là pháp môn thù thắng, chúng sinh bạc phước không thể nghe được. Nhiều người giấu kín đặt ở trong hộp kinh, trong các kho lẩm. Vì sao? Vì không có pháp khí thì không thể gieo trồng thiện căn Vô thượng được. Vì sao? Vì pháp môn này khó tin, khó thực hành và khó lường.
Văn-thù-sư-lợi! Phàm người nào không có thiện căn đời trước, đã từng nghe Đại thừa sinh tâm nghi ngờ phỉ báng. Cho nên, khi nghe pháp môn vô thượng này không thể sinh lòng tin, không thể hội nhập được.
Văn-thù-sư-lợi! Đến thời kỳ mạt pháp, khi tượng pháp sắp diệt, nếu có người nghe pháp môn này có thể sinh lòng tin, người có khả năng tìm cầu, người có khả năng ngộ nhập thì nên biết rằng, những người này trong quá khứ đã từng cúng dường vô lượng, vô biên chư Phật, khéo thực hành các hạnh nên mới có khả năng tin hiểu và ngộ nhập pháp môn Đại thừa này.
Văn-thù-sư-lợi! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào ở trong thời kỳ mạt pháp nghe tên kinh này. Nghe rồi có thể sinh lòng tin, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói. Biên chép rồi tôn trọng cúng dường quyển kinh. Những chúng sinh ấy nên tự suy nghĩ biết rằng, trong quá khứ đã từng gặp vô lượng hằng sa chư Phật, cung kính cúng dường hằng sa chư Phật.
Văn-thù-sư-lợi! Những chúng sinh ấy cũng thấy ra ở tại nước này thuyết pháp môn này và cũng thấy các chúng trong đại hội này.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:
–Này A-nan! Ông nên thọ trì, đọc tụng pháp môn vi diệu này, tuyên thuyết rộng rãi cho các chúng sinh. Ông nên quán chúng sinh, xem người nào có căn Đại thừa, có thể tin thọ rồi mới thuyết pháp môn này cho họ, không được sơ xuất, không quán mà nói. Vì sao? Vì những chúng sinh ít phước nghe pháp môn này sẽ sinh tâm bất tín, chịu tội vô lượng.
Này A-nan! Pháp môn này gọi là Công đức chân thật của Như Lai, gọi là Tạng bí mật của Như Lai, gọi là Tạng thuần tịnh vi diệu của Như Lai, gọi là Tạng pháp ấn của Như Lai, gọi là Tạng hộ tâm của Như Lai, gọi là Tạng hiện thật tánh của Như Lai. Vì vậy, ông nên giữ kỹ, chớ vội vàng tuyên thuyết, ngoại trừ các Phật tử Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì thiện nam ấy, đối với chư Phật đã gieo trồng thiện căn sâu xa, có khả năng hộ trì tạng pháp, có thể lợi mình và lợi người thì ông nên nói cho người đó.
A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con đã lãnh hội pháp môn vi diệu này. Thưa Thế Tôn! Nay pháp môn này gọi tên là gì? Thọ trì như thế nào?
Đức Phật bảo A-nan:
–Pháp môn vi diệu này gọi là Pháp Môn Bồ-tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Phấn Tấn, gọi là Tạng Bí Mật Sâu Xa Của Như Lai, gọi là Như Lai
Đầy Đủ Công Đức, gọi là Cảnh Giới Sâu Xa Của Như Lai, gọi là Thuyết Nhất Thừa, gọi là kinh Vănthù-sư-lợi Sở Thuyết, gọi là kinh Tát-già Ni-kiền Tử Thọ Ký, gọi là kinh Tát-già Ni-kiền Tử Sở Thuyết. Nay ông nên tụng trì như vậy!
Khi Đức Như Lai nói pháp môn này, có ba mươi ức na-do-tha chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có sáu mươi ngàn Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn; có vô lượng, vô biên chúng sinh rốt ráo không thoái tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi Đức Phật thuyết kinh này xong, Tuệ mạng A-nan, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử và tất cả các Đại Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di, Thích Đề-hoàn Nhân, Tứ Thiên vương, Phạm Thiên vương, Trời, Người, A-tu-la… đều rất hoan hỷ tin thọ phụng hành.
[Đầu trang][1][2][3.1][3.2][4][5.1][5.2][5.3][6][7][8.1][8.2][8.3][8.4][9][10.1][10.2][11][12]
[Mục lục bộ Pháp Hoa][262][263][264][265][266][267][268][269][270][271][272][273]