TẠNG KINH
BỘ ĐẠI TẬP (397 - 424)
SỐ 400 - KINH NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Duy Tịnh.
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn trú trong cung của Đại Bồ-tát, là đạo tràng Đại bảo trang nghiêm tối thắng, là cảnh giới thần thông của Như Lai. Đạo tràng ấy là do oai thần của Như Lai kiến lập, tích tập thắng phước trang nghiêm rộng lớn, viên mãn phước trí, diệu hạnh rộng lớn, hiện chuyển tất cả phước báo thù thắng của pháp Phật, hiện bày vô biên năng lực thần biến gia trì của Như Lai, khéo vào cảnh giới đại trí vô ngại. Tất cả người trông thấy đều sinh sự mừng vui khôn xiết, nhập hạnh niệm tuệ, vận hành khắp cả diệu trí bất động; ở trong vô biên kiếp, tu tập vô lượng công đức. Đức Phật Thế Tôn hiện chứng đạo bình đẳng chánh giác các pháp, chuyển pháp luân mầu nhiệm, có thể khéo điều phục vô biên học chúng, đối với các pháp đã đạt tự tại lớn, khéo biết tâm ý và căn tánh của mọi chúng sinh, đã có thể đạt đến giải thoát tối thượng, khéo đoạn trừ tất cả chủng tử tập khí, chứng đắc pháp không gì đắc, ngộ, thân Phật khinh an.
Khi ấy, Đức Thế Tôn cùng với chúng đại Bísô sáu trăm tám mươi vạn người hội đủ, đều trụ nơi chân tâm, đoạn trừ tất cả thứ phiền não tích chứa, đều là các vị Pháp vương tử của Như Lai, có năng lực phát sinh pháp hạnh vô sở đắc sâu xa, thân tướng đoan nghiêm, oai nghi đầy đủ, làm ruộng phước lớn, đầy đủ chánh trí. Lại có vô lượng, vô số các chúng Đại Bồ-tát không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, không thể nói hết, không nói hết được, tất cả đều đạt trí nhẫn Bồ-tát vô sở đắc, đã vượt qua quả vị quán đảnh của Bồ-tát, có khả năng hiển bày diệu dụng thần thông của Bồ-tát ở địa vị vô gia hạnh, đắc Đà-la-ni Vô tận và các môn Đà-la-ni; được tự tại trong Tam-ma-địa Thủlăng-nghiêm vương của các Bồ-tát, tất cả chúng sinh đều mừng vui mong được thấy; đã chứng đắc các sự hiểu biết vô ngại, xuất sinh hạnh không phát khởi tỏ ngộ của Bồ-tát, thâm tâm an trú nơi chốn trang nghiêm thù thắng. Tên của các vị là Đại Bồ-tát Vô Tận Tạng, Đại Bồ-tát Vô Lượng Tuệ, Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ, Đại Bồ-tát Vô Duyên Quán, Đại Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Đại Bồ-tát Tinh Tấn Tuệ, Đại Bồ-tát Vô Đoạn Biện Tài, Đại Bồ-tát Vô Trước Vô Úy Tích, Đại Bồ-tát Tất Cánh Nghĩa
Tuệ. Có vô lượng vô số, chẳng thể nghĩ bàn, không thể sánh kịp, chẳng thể nói hết, nói chẳng thể hết các chúng Đại Bồ-tát như thế, đều cùng tụ hội.
Bấy giờ, Thế Tôn dùng quả vị Bồ-tát hạnh, nên theo phương tiện xuất sinh pháp môn vô chướng ngại là chánh pháp sâu xa dùng để trang nghiêm nơi đạo các Bồ-tát, thành tựu tất cả pháp Phật với lực vô úy trí hạnh chân thật, nhập môn ấn Tổng trì tự tại tối thượng của tất cả pháp, nhập môn vô ngại giải, quyết định xuất sinh cảnh giới của diệu Trí đại thần thông, hiển bày tất cả pháp luân không thoái chuyển, thâu hết các thừa, trụ lý bình đẳng, nhập vào tánh không phân biệt của pháp giới tùy thuận căn tánh, ý thích của chúng sinh mà mở bày diễn thuyết, tùy theo đó nhận biết rõ chánh pháp chân thật quyết định, phá bỏ các cảnh ma, dùng lý pháp vững chắc sâu xa để dứt trừ tất cả tri kiến phiền não, nhập vào tuệ không vướng mắc, tuyên thuyết trí phương tiện khéo léo, hồi hướng rộng khắp, nhập vào tánh trí bình đẳng của tất cả chư Phật, dùng pháp môn gia trì không ngại, như thật, quyết định nêu bày các pháp, đối với không phân biệt, chẳng phải không phân biệt đều nhập vào bình đẳng, hiểu rõ pháp duyên sinh, tích tập vô lượng phước trí diệu hạnh; thân, lời, tâm Phật trang nghiêm bình đẳng, nhân đó mà biết tất cả tuệ môn vô tận như niệm, tuệ, hạnh… đem lý bốn Thánh đế, hiển bày pháp của thừa Thanh văn, dùng trí hiểu rõ về thân tâm, làm rõ pháp của thừa Duyên giác, dùng quán đảnh đắc Nhất thiết trí, hiển bày pháp Đại thừa, nhập vào lý tự tại của tất cả pháp, xuất sinh công đức vô biên của Như Lai. Vì vậy Như Lai khai mở, diễn nói, nêu bày biểu hiện, phân biệt giải thích rõ ràng thông suốt.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn sắp giảng nói pháp quyết định rất sâu xa rộng lớn như vậy, bỗng nhiên trong tam thiên đại thiên thế giới này, nước dâng tràn ngập giống như biển cả, dưới thì đến mặt đất, trên thì đến đạo tràng Đại bảo trang nghiêm tối thắng. Lại như khi kiếp hoại thủy tai xuất hiện, tất cả tam thiên đại thiên thế giới, nước dâng đầy ắp, dưới đến thủy luân, mênh mông như biển, nay ở đây nước lớn cũng giống như thế. Tuy tam thiên đại thiên thế giới này, nước dâng tràn đầy như vậy, nhưng trong đó các quốc độ, thành ấp làng xóm và dân chúng đều không bị tổn hại, cũng không bị trở ngại. Và bốn châu lớn trong cõi Diêm-phù-đề, cho đến biển cả, núi Tu-di…, hết thảy cung điện của chư Thiên thuộc Dục giới đều không bị hủy hoại hay chướng ngại mảy may. Trước tiên hiện tướng như thế rồi, sau đó, ở trong cơn hồng thủy ấy xuất hiện vô số trăm ngàn hoa sen vĩ đại. Hoa ấy cao lớn, thân bằng lưu ly, cành bằng đế thanh, lá bằng vàng Diêm-phù-đàn, tua bằng tạng bảo cát tường, đài bằng mã não, chân châu quấn quanh. Mỗi hoa lại có vô số ức trăm ngàn cánh, cánh ấy rộng một câu-lô-xá. Những hoa sen này từ nơi đạo tràng Đại bảo trang nghiêm tối thắng, vọt hiện trên hư không, cao một cây Đa-la, tất cả đại chúng đều ngồi trên hoa sen. Trong hoa sen ấy, tùy theo màu sắc của hoa mà phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp vô lượng vô số cõi Phật ở mười phương khiến tất cả đại chúng trong pháp hội vui mừng cho là điều chưa từng có, chắp tay cung kính, đều nói:
–Nay hiện tướng lành hy hữu như thế, có lẽ Đức Thế Tôn sẽ giảng nói pháp mầu?
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị, thấy việc thần biến lớn lao như thế, liền từ chỗ ngồi trên đài hoa sen, đứng dậy bày áo vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay hướng đến Phật, cung kính đảnh lễ, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì lẽ gì hôm nay, trước hết hiện ra tướng lạ, tức trong tam thiên đại thiên thế giới này, nước lớn dâng tràn, cuồn cuộn như biển, rồi lại hiện ra vô số ức trăm ngàn hoa sen to lớn.
Bạch Đức Thế Tôn! Từ xưa nay con chưa được nghe, chưa được thấy thần biến vĩ đại ít có như thế. Xin Phật giảng nói cho.
Phật bảo Bồ-tát Từ Thị:
–Từ Thị nên biết! Ở phương dưới, cách cõi Phật này hơn ức triệu trăm ngàn cõi Phật không thể nói hết, nhiều như số vi trần nơi mười cõi Phật, có thế giới tên là Vô lượng công đức bảo vô cấu thù diệu trang nghiêm, cõi ấy có Phật hiệu là Hải Thắng Trì Tuệ Du Hý Xuất Cao Thần Thông Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, hiện đang trụ ở đó thuyết pháp giáo hóa. Nơi ấy có Bồ-tát tên là Hải Ý cùng với các chúng Đại Bồ-tát vượt ngoài tính toán, tất cả cùng đến thế giới Ta-bà này, để chiêm ngưỡng lễ bái, cung kính cúng dường Như Lai. Lại nữa, đối với pháp ta giảng nói, họ có điều thưa hỏi. Vì lý do đó, nên hiện bày tướng lành này. Lúc này, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Hải Ý ở cách đây quá xa, vì sao Đức Thế Tôn nói Bồ-tát kia có thể nghe Phật thuyết pháp nơi hội này?
Phật bảo:
–Này Xá-lợi Tử! Như ông bây giờ ở trước ta, nghe ta giảng nói chánh pháp, Bồ-tát Hải Ý tuy ở thế giới kia nhưng có thể nghe pháp ta nói, cũng giống như thế.
Này Xá-lợi Tử! Lại như ông hiện tại thấy ta và các đại chúng, Bồ-tát Hải Ý kia có thể thấy ta và đại chúng, cũng giống như thế.
Tôn giả Xá-lợi Tử nói:
–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có trí lực thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Bồ-tát Hải Ý ấy, ở nơi cõi nước rất xa có thể dùng mắt không chướng ngại thấy rõ cảnh tượng ở đây, dùng tai không chướng ngại nghe rõ âm thanh nơi cõi này.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người được nghe về công đức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của các Đại Bồ-tát tức không ai là không phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi Tôn giả Xá-lợi Tử nói như thế, có hai vạn bốn ngàn Thiên tử đều phát tâm cầu đạo quả Bồđề vô thượng.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hải Ý cùng các chúng Đại Bồ-tát, số lượng vượt quá sự tính toán, cung kính vây quanh, đồng thời chiêm ngưỡng Đức Phật Thế Tôn Hải Thắng Trì Tuệ Du Hý Xuất Cao Thần Thông Như Lai rồi, liền lãnh thọ lời dạy, nương nơi sức thần thông của đức Như Lai kia và thần thông đã thành tựu không gia hạnh của Bồ-tát, trong khoảng một niệm, một nháy mắt, ẩn phục thân tướng nơi thế giới kia, tức thì ngay trong đạo tràng Đại bảo trang nghiêm tối thắng ở thế giới Ta-bà này vọt hiện trên không trung, cao một cây đa-la, an nhiên ngồi vào trong tòa sư tử trên đài hoa sen cao lớn. Các Bồ-tát khác cũng đều ngồi vào tòa trên đài hoa sen. Trong vô số vô lượng các cõi Phật ở thế giới phương dưới, lại có vô lượng vô số chúng Bồ-tát đi theo Bồ-tát Hải Ý để đến nghe pháp.
Khi ấy, trong đạo tràng Đại bảo trang nghiêm tối thắng có tất cả chúng Đại Bồ-tát ở mười phương thế giới tụ hội đến, đều ngồi nơi tòa trên đài hoa sen, chung quanh có đầy đủ điều kỳ diệu đặc biệt, tất cả các đại chúng đến dự, tâm đều hoan hỷ, đều được thanh tịnh, tán thán là việc chưa từng có, chắp tay đảnh lễ chư Bồ-tát kia.
Bồ-tát Hải Ý dùng các hoa thắng diệu trong thế giới Trang nghiêm thù diệu vô cấu vô lượng công đức bảo kia, hoa ấy tên là Vô ưu thích duyệt ái lạc hỷ kiến, rộng một câu-lô-xá; hoa có vô số trăm ngàn cánh để cúng dường Như Lai một cách ứng hợp các Bồ-tát, tất cả trông thấy tâm đều dứt hết cấu uế, thiện căn từ đời trước đều được thanh tịnh. Các chúng hội đó đều sinh hoan hỷ, ưa thích. Hoa có ánh sáng, lại có mùi thơm thượng diệu. Ở trước Đức Thế Tôn, Đại Bồ-tát dùng các loại hoa bậc nhất cúng dường xong, lại tung rải hoa tươi đẹp to lớn, mỗi mỗi hoa lớn bảy người, rải khắp tràn ngập đạo tràng Đại bảo trang nghiêm, tất cả đại chúng đều đạt được vị thiền duyệt Ly sinh hỷ lạc. Trong hư không, tự nhiên các loại tiếng trống vang lên, phát ra âm thanh khả ái, mọi người nghe đều được niềm vui vi diệu của thiền định.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hải Ý làm các việc cúng dường như thế rồi, từ trên không hạ xuống, đầu mặt sát đất lễ chân Đức Thế Tôn, vòng quanh bên phải bảy vòng, chắp tay cung kính đứng yên trước Phật, bạch:
–Bạch Thế Tôn! Như Lai Hải Thắng Trì Tuệ Du Hý Xuất Cao Thần Thông gởi lời thăm hỏi Như Lai Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni, ít bệnh, ít phiền não, đi đứng nhẹ nhàng, sức khỏe được nhiều an lạc, được an vui chăng?
Khi ấy, tất cả Bồ-tát cùng đi đều từ trên không hạ xuống, đầu mặt đảnh lễ chân Phật xong, vòng quanh bên phải bảy vòng rồi thảy đều về lại chỗ ngồi.
Bấy giờ, nơi tam thiên thế giới này, có Đại Phạm vương tên là Đại Bi Tư Duy hiện ở tại cõi Phạm thế nơi bốn đại châu an ổn không lo, bỗng nhiên thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới này, nước lớn tràn ngập, cuồn cuộn như biển, lại có vô số trăm ngàn hoa sen to lớn, cao rộng xuất hiện với đủ loại tướng thù thắng và tại đạo tràng Đại bảo trang nghiêm kia có vô số Bồ-tát đầy khắp. Thấy hiện tượng ấy rồi Đại Phạm vương liền nghĩ: “Kiếp hỏa chưa có tướng hoại thiêu đốt thì đâu có nước lớn đầy khắp. Như vậy thì do duyên cớ gì? Chẳng lẽ là do thần lực của Như Lai? Nay ta nên đến hỏi Phật Thế Tôn về tướng hy hữu này là do nhân duyên gì.”
Khi ấy, Đại phạm Thiên vương Đại Bi Tư Duy nghĩ như thế rồi, liền cùng sáu vạn tám ngàn Phạm chúng, rời khỏi cõi Phạm, cung kính vây quanh, đến trước Thế Tôn ở đạo tràng Đại bảo trang nghiêm tối thắng, đứng trong hư không, cúi mình chắp tay đảnh lễ Thế Tôn và bạch:
–Bạch Thế Tôn! Do duyên gì mà nay tam thiên đại thiên thế giới này, nước lớn tràn ngập, cuồn cuộn như biển? Lại có vô số trăm ngàn hoa sen to lớn xuất hiện? Và các Bồ-tát đại sĩ đều ngồi trên tòa hoa sen, nhưng tất cả cõi nước, thành ấp, xóm làng, dân chúng và bốn đại châu ở cõi Diêm-phùđề, các cung trời thuộc Dục giới cho đến biển lớn, Tu-di, các núi trong tam đại thiên thế giới này đều không bị tổn hại và cũng không có chướng ngại? Những hiện tượng như thế rất là ít có. Đây là do nhân duyên gì? Hay là thần lực gì? Xin Thế Tôn vì con mà diễn nói.
Bấy giờ, Phật bảo Phạm thiên Đại Bi Tư Duy:
–Đại Phạm nên biết! Ở thế giới phương dưới, có một cõi Phật, tên là Vô lượng công đức bảo vô cấu thù diệu trang nghiêm, Đức Phật Thế Tôn cõi đó hiệu là Như Lai Hải Thắng Trì Tuệ Du Hý Xuất Cao Thần Thông. Cõi đó hiện có Bồ-tát tên là Hải Ý cùng với các chúng Đại Bồ-tát đông đảo vượt ngoài sự tính đếm, vân tập đến thế giới Ta-bà để chiêm ngưỡng, lễ bái, cung kính cúng dường ta. Lại ở trong pháp hội rộng lớn hôm nay có điều thưa hỏi. Đó là diệu lực thần thông của Bồ-tát kia nên ở thế giới này, trước hiện ra điềm lành như thế.
Phạm thiên bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Trong pháp hội đại tập này đã có chánh pháp, nay còn giảng nói gì nữa?
Phật nói:
–Này Phạm thiên! Cảnh giới chư Phật là chẳng thể nghĩ bàn, trí tuệ biện tài và sức oai thần của Như Lai cũng thể hạn lượng. Ông thấy Như Lai im lặng chớ cho là không nói. Ta thường vì các Bồ-tát từ mười phương thế giới đến mà tuyên nói chánh pháp quyết định một cách rộng rãi.
Bấy giờ, Đại phạm Thiên vương Đại Bi Tư Duy lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Phật nói việc hiện thần biến ấy là do Đại Bồ-tát Hải Ý, vị ấy là ai vậy?
Phật nói:
–Này Đại phạm! Nay trong pháp hội này có hoa sen lớn, rộng mười do-tuần. Nơi hoa có đài, trên đài lại có tòa Sư tử trang hoàng bằng các báu. Trong tòa có một vị Bồ-tát Đại sĩ ngồi trên đó, thân sắc vàng ròng, tướng hảo đoan nghiêm, chỉ trừ Như Lai, ngoài ra thân tướng của các Bồ-tát khác đều bị thâu tóm theo sắc tướng đó, có vô số ngàn chúng Bồ-tát vây quanh đảnh lễ, ông có thấy không?
Đáp:
–Đã thấy!
Phật bảo:
–Này Đại phạm! Vị có tướng thần thông viên mãn như thế chính là Bồ-tát Hải Ý.
Khi ấy, Phạm thiên Đại Bi Tư Duy mới hướng về Bồ-tát Hải Ý cung kính đảnh lễ, rồi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh được nghe tên của Bồ-tát Hải Ý như thế, nên biết người ấy tức đạt được điều lợi ích, tốt đẹp lớn. Hôm nay, con được nghe tên của vị Đại sĩ Bồ-tát này, được trông thấy sắc tướng của Bồ-tát như thế thật rất vui mừng, nhanh chóng được lợi ích tốt đẹp.
Phạm thiên lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Pháp hội đại tập này sẽ tồn tại lâu dài như thế nào?
Phật nói:
–Này Đại phạm! Nay chánh pháp này, tùy theo thọ mạng dài hay ngắn của Phật mà tồn tại. Sau khi Phật Niết-bàn, có các Bồ-tát, đối với chánh pháp này, thọ trì đọc tụng, rộng vì mọi người mở bày diễn nói. Vì sao? Này Đại phạm! Vì chư Phật, Bồ-tát có trong thế gian đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ đây mà ra.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hải Ý nương vào thần lực của Phật, vì khắp tất cả chúng sinh hoan hỷ trong pháp hội này và vì Đại phạm Thiên vương Đại Bi Tư Duy đã khởi tâm kính tín, lại vì trang nghiêm chánh pháp ở đây, cũng vì hiển bày diệu lực trí tuệ biện tài của mình, nên tức khắc, Bồ-tát ấy cùng với hoa sen cao lớn và tòa Sư tử kia đều vọt lên hư không, cao bảy cây Đa-la, rồi ở trên không nói kệ:
Phương dưới, quá vô số cõi nước
Có cõi Phật tên Công đức nghiêm
Phật hiệu Hải Thắng Thần Thông Tuệ
Hiện ở nơi ấy làm hóa chủ.
Cõi ấy, các đức đều tròn đủ
Bồ-tát an trú không lo sợ
Pháp môn Phật Như Lai kia nói
Chúng ta nghe rồi đều thọ trì.
Cho nên chúng ta đến cõi ấy
Chiêm ngưỡng, kính lễ Bậc Thập Lực
Các Bồ-tát ấy đến nơi này
Đều thăm hỏi Phật Đại Ngưu Vương.
Nay con đảnh lễ Pháp vương rồi
Cũng lễ Phật đại trí khó sánh
Chỗ nên cúng dường theo đó làm
Cúng dường khắp hết Phật Chánh Giác.
Thường quán thân Phật sắc vô sắc
Lìa thọ lìa hành cũng lìa thức
Ba thứ nhận lãnh này cũng không
Trong đó trong lặng thường thanh tịnh.
Nếu không sắc tướng và vẻ đẹp
Đó là chánh quán Phật Thế Tôn
Tuệ nhãn thanh tịnh chiếu Pháp thân
Mới thấy nghĩa chân thật vô cấu.
Với pháp, không thủ cũng không xả
Không ngã, không ngã sở nhị biên
An trú nội nhập tánh tịch nhiên
Dứt trừ mọi chấp thủ ngoài tâm.
Phân biệt hữu, vô, lìa phân biệt
Tâm ấy vắng lặng như hư không
Là luôn cúng dường chư Thế Tôn
Nơi cờ chánh pháp khéo kiến lập.
Nếu quán các pháp giống như huyễn
Trong đó, cho nhận đều là không
Tuy biết tạo tác vốn không có
Cũng không lìa bỏ nơi các pháp.
Mà không quyết định cầu Bồ-đề
Lại không quyết định trụ sinh tử
Không tâm xan tham, không người thí
Xa lìa lỗi lầm trong bố thí.
Dừng nghĩ, điều tịch thân ngữ tâm
Hành theo ba nghiệp không bức não
Trừ các phiền não, dứt thiêu đốt
Trí sáng, các căn thường tịch tĩnh.
Tuy biết Bồ-đề vô sở đắc
Chẳng bỏ chúng sinh trụ vô ngã
Để độ các chúng sinh phá giới
Trì giới hạnh rộng lớn thanh tịnh.
Hiểu rõ tánh sát-na các pháp
Cũng không bị các cảnh phá hoại
Trong tâm vắng lặng như hư không
Quán ngoài thế gian giống như huyễn.
Dù cắt thân thể ra từng mảnh
Cũng không khởi lên tâm sân hận
Cho đến ngồi cây thành Bồ-đề
Quyết giữ hạnh nhẫn Phật đã dạy.
Thường quán pháp như trăng đáy nước
Như bọt, như huyễn, như sóng nắng
Hiểu rõ không “thọ” cũng không “nhân”
Và cũng không Ma-noa-phạ-ca.
Bồ-đề chúng sinh tuy “vô đắc”
Vì lợi tha nên cầu Bồ-đề
Nếu nghe lý này, sợ chẳng sinh
Trong ấy luôn phát hạnh tinh tấn.
Nếu thường nơi tâm không chấp trước
Đối với ngoại cảnh không sinh chán
Biết được tâm hành của chúng sinh
Ở trong ba đời tùy thuận chuyển.
Khiến các chúng ma chẳng thể biết
Tâm sở hành tùy chỗ biến chuyển
Đến bờ bên kia khéo trụ tâm
Viên mãn thiền định, tuệ thần thông.
Con nghe pháp chư Phật đã nói
Tùy theo chỗ nghe thường thọ trì
Dù trải qua trong vô biên kiếp
Biện tài của Phật không cùng tận.
Lại ở trong tất cả Phật pháp
Chúng sinh không đọa, cũng không đắm
Đủ tạng trí tuệ năng lực quý
Bậc vắng lặng, tự tại ba cõi.
Người đến, chỗ đến đều xa lìa
Trong đó, không đến cũng không đi
Tùy tâm sở hành của chúng sinh
Chỗ đến không trú, cũng không động.
Tuy đến bờ kia đủ các đức
Đối với các đức không chấp tướng
Thích-ca Đại Ngưu Vương tuyệt vời
Vì vậy nay con xin đảnh lễ.
Như mặt trời trong lành tỏa chiếu
Làm mờ ánh sáng các vì sao
Lại như ánh sáng của kiếp hỏa
Trên đến Phạm thế, dưới tới đất.
Lại như núi chúa lớn Tu-di
Giữ đất cũng như giữ các núi
Trong hào tướng Ngưu Vương Thích-ca
Quang minh tối thắng vượt tam giới.
Tất cả chúng Bồ-tát mười phương
Đều từ trong trăm cõi Phật đến
Chiêm ngưỡng sắc tướng oai quang Phật
Tất cả đều sinh vui mừng lớn.
Tùy theo ý nguyện tâm chúng sinh
Như Lai đều vì họ khai thị
Con biết đại oai thần Như Lai
Nên từ nước con đến cõi này.
Phật dùng một âm diễn nói pháp
Tùy loại chúng sinh đều biết rõ
Cho đến tiếng chúng sinh sai khác
Như Lai tùy nghi vì họ nói.
Tất cả chúng sinh, ý sai biệt
Như cát như bụi còn tính được
Âm thanh vi diệu của Mâu-ni
Ngang bằng hư không, không thể tính.
Hư không, không thể lường ranh giới
Chúng sinh không thể biết hết số
Cho đến sinh tử trong đời trước
Cũng lại không thể biết hạn lượng.
Biên giới hư không, số chúng sinh
Sinh tử đời trước còn thể biết
Cảnh giới định tuệ của chư Phật
Rốt ráo không thể biết phần nhỏ.
Chúng sinh vô lượng đều quy mạng
Ngưu vương, pháp chủ Bậc tôn quý
Nhiều kiếp chuyên tu, trang nghiêm đức
Biên vực sắc tướng không sánh được.
Phật ta đủ sức oai thần lớn
Biết khắp sự tin hiểu chúng sinh
Đấng hy hữu này gặp khó biết
Đảnh lễ Bậc khéo độ các cõi.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hải Ý nói kệ như thế rồi, từ trên không hạ xuống, hướng về Phật chắp tay cung kính đảnh lễ, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nay con có điều muốn thưa hỏi Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu Đức Thế Tôn cho phép, con mới dám hỏi.
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này thiện nam! Ông cứ hỏi tự nhiên. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác tùy theo từng điều nghi vấn đều có thể tuyên bày diễn nói khiến cho tâm ông khai mở.
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Trước đây, con nghe có các Bồ-tát tự nói pháp môn Tam-ma-địa Tịnh ấn. Nếu có Đại Bồ-tát trụ Tam-ma-địa này thì có thể mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Vậy Bồ-tát nên làm thế nào để đạt được pháp môn Tam-ma-địa Tịnh ấn như thế? Lại dùng hành tướng gì mà gọi là tự thuyết? Thế nào là Tịnh ấn? Làm sao có thể được nhập vào cửa của cảnh giới ấy? Lại nữa, các Bồtát, nếu được nghe Tam-ma-địa ấy rồi thì làm thế nào để mau chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột?
Cúi xin Thế Tôn vì con mà thuyết.
Phật bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:
–Hay thay, hay thay! Bồ-tát Đại sĩ! Điều nghi vấn ấy của ông rất có ý nghĩa. Này thiện nam! Ông nên khởi tâm chuyên nhất, vững chãi, lắng nghe và thọ trì. Nay ta vì ông diễn nói. Nếu các Bồ-tát nào đạt được Tam-ma-địa Tịnh ấn tự thuyết ấy thì có thể mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được nghe.
Khi ấy, Bồ-tát Hải Ý vâng lời lắng nghe.
Phật nói:
–Này Hải Ý! Nếu có Bồ-tát đối với các căn lành, phát khởi, chuyên cần tinh tấn, tâm thiện đầy đủ, trụ nơi tụ chánh định, thì ở trong sinh tử có thể dùng lợi căn chứa nhóm các điều thiện, được Thiện tri thức thâu nhận, oai thần của chư Phật kiến lập, năng lực, nhân duyên đầy đủ, sẽ thường gần gũi chư Phật Thế Tôn, tôn trọng cung kính, dùng hương hoa vi diệu, hương xoa, hương bột, vòng hoa, y phục, lọng báu, cờ, phướn, nhiều màu để cúng dường. Nếu lại thấy tướng đầy đủ của chư
Phật Như Lai, hoặc nghe ngôn từ mỹ diệu của chánh pháp, hoặc thấy các thứ thanh tịnh viên mãn, lại được nghe trí vô ngại, hoặc thấy thần cảnh trí thông của Phật, hoặc thấy các việc biến hóa để điều phục chúng sinh của Như Lai, hoặc thần biến dạy bảo, hoặc khen ngợi thần biến, thấy như thế rồi, thì ở chỗ chúng sinh thường dùng tâm đại Bi, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khởi đại tinh tấn, siêng cầu pháp thiện, đối với Nhất thiết trí, tâm không quên mất, dùng hạnh tương ưng làm cho tâm ban đầu thanh tịnh; tâm ban đầu đã thanh tịnh rồi, liền đắc Tam-ma-địa thanh tịnh ấy.
Này Hải Ý! Ví như ngọc báu đại ma-ni, trao nơi người khéo giũa ngọc báu, người ấy khéo léo gò sửa, lại mài giũa cho trong sáng, đến khi ngọc báu ấy được trong suốt rồi, người làm ngọc kia liền tự nói: “Ngọc ma-ni báu này đã loại trừ các cấu bẩn, bỏ các tỳ vết đây là ngọc báu đại ma-ni trong suốt, các bậc có trí đều ưa thích”.
Này Hải Ý! Từ chủng tánh Bồ-tát phát ra tâm báu Nhất thiết trí, cũng giống như thế, vì cuối cùng có thể thành tựu quả vị giác ngộ cao tột. Do Bồ-tát ấy, trước hết vì thiện căn từ đời trước và hiện tại nghe pháp thiện rồi dùng để tôi luyện tâm báu Nhất thiết trí ấy cho đến khi thành báu, trừ bỏ các pháp hư giả nơi tâm, xa lìa tội lỗi. Chư Phật Thế Tôn ở mười phương ba đời đều quý mến nên Bồ-tát ấy mới có thể tự nói đạt được pháp môn Tamma-địa Tịnh ấn.
Này Hải Ý! Lại như ngọc báu đại ma-ni trong suốt vượt lên tánh chất của chín loại báu khác.
Những gì là chín?
1. Tánh chất vàng.
2. Tánh chất bạc.
3. Tánh chất pha-để-ca.
4. Tánh chất phệ-lưu-ly.
5. Tánh chất mã não.
6. Tánh chất san hô.
7. Tánh chất xích châu.
8. Tánh chất bảo kê tát lê.
9. Tánh chất tạng bảo cát tường.
Vượt lên chín chất báu như thế, mới gọi là ngọc báu đại ma-ni sáng ngời, trong suốt vừa ý, tối thắng vô giá, là vật Chuyển luân thánh vương thọ dụng chứ chẳng phải là vật các vua khác thọ dụng. Lại nữa, ngọc báu đại ma-ni có ánh sáng diệu kỳ, các loại ánh sáng khác cũng chẳng sánh kịp.
Này Hải Ý! Tâm báu Nhất thiết trí của các Bồ-tát cũng lại như thế, có thể siêu vượt chín chủng tánh quý báu khác. Những gì là chín?
1. Tánh báu tốt của tánh dị sinh (phàm phu).
2. Tánh quý báu của bậc Tùy tín hành.
3. Tánh quý báu của bậc Tùy pháp hành.
4. Tánh báu Vô tướng hành.
5. Tánh báu Tu-đà-hoàn.
6. Tánh báu Tư-đà-hàm.
7. Tánh báu A-na-hàm.
8. Tánh báu A-la-hán.
9. Tánh báu Duyên giác.
Siêu vượt chín tánh báu như thế mới gọi tánh báu tâm đại Bi sâu xa kiên cố thứ mười tất cả chư Phật cùng gia trì. Bồ-tát tôi luyện như thế sẽ phát sinh tâm báu Nhất thiết trí. Khi vượt trên tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác nên có thể chiếu soi chủng tử tương tục của tất cả chúng sinh.
Này Hải Ý! Lại như ngọc báu đại ma-ni chân thật có thể chịu đựng sự mài giũa, mặc tình đập ép, khoan dùi cũng không sứt mẻ. Ngọc báu mani kia đối với thế gian có tác dụng tốt, làm các việc phước cho chúng sinh. Bồ-tát trồng các căn lành đã lâu cũng giống như thế. Khi vị ấy phát tâm báu Nhất thiết trí thì chịu đựng mọi sự va chạm phá hoại, xuyên tạc, tạo chướng ngại cũng không suy suyễn, đó là tâm báu chân thật, lìa các lỗi lầm, tâm báu Nhất thiết trí đó có thể vì tất cả chúng sinh làm lợi ích lớn.
Lại nữa, Hải Ý! Làm thế nào để có thể tôi luyện tâm báu Nhất thiết trí? Đó là, trước phải tu đủ ba tịnh giới, mười nghiệp thiện; tâm Từ tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa nên dùng tâm thanh tịnh quán xem tất cả chúng sinh; vì tâm Bi tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa, nên tùy theo các chúng sinh làm việc gì đều đến giúp đỡ; vì tâm Hỷ tùy theo chúng sinh mà chuyển hóa, nên tất cả chúng sinh có các pháp thiện đều vì họ mà làm cho thành tựu; vì tâm Xả tùy chúng sinh mà chuyển hóa, nên đối với tất cả chúng sinh không làm tổn hại; vì không dua nịnh, dối trá nên tâm chánh trực; vì không lười biếng nên đối với việc lợi ích, tâm luôn siêng làm; vì tâm tự tại nên có thể phát khởi tất cả thiện căn, được chánh niệm, chánh tri; vì khéo điều phục tâm nên tâm ung dung; vì thường ít ham muốn nên có thể tu các công đức Đầu-đà; vì có thể khéo nuôi dưỡng, phát sinh biết đủ nên không đoạn Thánh chủng; vì đối với Tôn sư, Thánh hiền, không sinh tâm xem thường, mà luôn phát khởi sự khiêm tốn, cung kính nên tâm an định; vì lìa ngã mạn và tăng thượng mạn, không ô trược loạn động nên tâm thanh tịnh; vì không ỷ lại nên luôn tu hành; vì không chê bai người khác nên có thể bảo hộ chúng sinh; vì lìa tăng thượng mạn nên có thể gần gũi chánh pháp, nhận lãnh thuốc pháp; vì đối với các nghĩa có thể thấu rõ nên làm người cầu pháp; vì đối với các pháp, lúc đầu còn cạn sau sâu rộng tăng dần nên có thể đầy đủ pháp dục; vì tu hạnh không tranh cãi nên thường được pháp lạc; vì xa lìa phi pháp nên thường xuyên cầu chánh pháp; vì đối với Tam bảo luôn biết hổ thẹn nên thường không dứt lòng tin trong sạch; vì tin vào nghiệp báo nên đối với tất cả pháp thiện đều tác ý như lý; vì tu hạnh chân chánh nên đối với dáng vẻ oai nghi luôn ẩn tàng tịch tĩnh; vì tâm không cao ngạo nên thường nhu hòa; vì siêng hành thiền định nên xa lìa trạo cử; vì khéo an trú tuệ nên không chê, không khen; vì an nhiên bất động nên tâm như núi chúa; vì luôn rời bỏ các sự ngăn cách cao thấp nên tâm như đất; vì trong ý thanh tịnh nên tâm như nước; vì không có tưởng sai khác nên tâm như lửa; vì không dính mắc nên tâm như gió; vì vi diệu không cấu bẩn nên tâm như hư không; vì dốc cầu xuất gia nên tâm có thể khiến cho Phật nhãn vĩnh viễn không mất; vì thân thường lìa bỏ nên ưa tu hạnh vắng lặng; vì tâm luôn xa dứt nên thường hành chánh pháp; vì đối với các việc làm không bị cảnh trần chi phối nên nói lời chân thật; vì thệ nguyện soi sáng nên có thể làm như lời nói; vì không bị phiền não lôi kéo nên tâm thường thanh tịnh; vì rốt ráo không bị phá hoại nên có thể tu tập tịnh giới, cho đến vì còn lo sợ tội nhỏ nên đối với giới không hề thiếu sót hủy hoại; vì chẳng cầu sinh thiên nên đối với giới không dứt; vì giữ hạnh thuần nhất trong trắng nên giới không ô nhiễm; vì luôn gần gũi Thiện tri thức nên được khai mở đạo đại Bồ-đề; vì mắt thanh tịnh nên được ánh sáng vô ngại; vì tai thanh tịnh nên được âm thanh vô ngại; vì mũi thanh tịnh nên được mùi thơm vô ngại; vì lưỡi thanh tịnh nên được vị vô ngại; vì thân thanh tịnh nên được xúc vô ngại; vì ý thanh tịnh nên được pháp vô ngại.
Lại nữa, này Bồ-tát Hải Ý! Nếu người muốn lìa sự ràng buộc của tham thì cần phải thường tu quán Bất tịnh; muốn lìa sự ràng buộc của sân thì tu quán tâm Từ; muốn lìa sự ràng buộc của si thì tu quán Duyên sinh; muốn trừ năm sự ngăn che thì quán kỹ năm Căn; muốn nhổ các chướng thì làm thanh tịnh năm Lực; vì muốn dứt các phiền não hiện khởi nên ở nơi đạo xuất ly thường phải thanh tịnh; vì tu chánh hạnh nên có thể xa lìa sự sợ hãi, tham, sân, si, mạn…; vì tâm không keo kiệt nên có thể hành pháp thí; vì không tiếc rẻ, gồm thâu, nên có thể hành tài thí; vì tâm đại Bồ-đề thường kiên cố nên không ưa pháp của thừa khác; vì nội tâm vắng lặng nên các căn ẩn mật; vì ngoại cảnh vắng lặng nên khéo quán xét các lầm lỗi; vì ở trong sinh tử thường sợ hãi, nên không tạo các tội; vì tâm không mệt mỏi nên chứa nhóm thiện căn mà không biết đủ; vì vượt qua bốn dòng chảy nên thường khéo tu tập thuyền pháp Đại thừa; vì khiến cho chúng sinh đạt đến bờ kia nên khéo làm cầu đường. Bồ-tát thường dùng tâm không lười biếng, thoái thất, dẫn dắt các chúng sinh ra khỏi bùn lầy sinh tử, đưa đến chỗ an ổn.
Này Hải Ý! Nếu Bồ-tát tu tập đủ các hành tướng như thế thì liền đắc hạnh bố thí viên mãn, cũng có thể đắc hạnh trì giới thanh tịnh. Đây là tâm báu Nhất thiết trí khéo tu sửa mà Bồ-tát đã phát.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại ý nghĩa trên bằng bài tụng:
Trước phải giữ thân ngữ tâm tốt
Phòng hộ bằng mười nghiệp thanh tịnh
Tâm từ quán xem các chúng sinh
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Tâm bi giúp đỡ việc của người
Tâm hỷ mừng người khác thành công
Tâm xả chẳng hại các chúng sinh
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Không nịnh, không dối, tâm thường chánh
Dừng tội, thường tu việc lợi ích
Thâm tâm tăng trưởng các thiện căn
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Tâm tự tại nên nghĩ chánh tri
Khéo điều phục tâm, tâm ung dung
Thiểu dục là nhân tu Đầu-đà
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Vui đủ khéo hành nơi dòng Thánh
Lại thường cung kính bậc Tôn sư
Không bao giờ sinh tâm khinh rẻ
Ngã mạn, tà mạn đều xa lìa
Tâm định, không khởi tăng thượng mạn
Vì không trược loạn, tâm thanh tịnh
Không ỷ mình nên tự biết rõ
Không chê người nên được người giúp.
Gần gũi thấm sâu thuốc diệu pháp
Lìa tăng thượng mạn trị các bệnh
Mong pháp gọi là người cầu pháp
Siêng cầu pháp mới đủ pháp lực.
Tu hạnh không tranh là mộ pháp
Lìa phi pháp nên luôn cầu pháp
Chẳng hoại Tam bảo đủ tín tâm
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Với pháp bất thiện, tâm xấu hổ
Đối các Như Lai, khởi tâm thẹn
Đầy đủ hổ thẹn hộ các căn
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Hiểu rõ nghiệp báo, việc làm tốt
Tin hiểu không đắm tâm thiên chấp
Với pháp duyên sinh không chống trái
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Khéo giữ oai nghi tu chánh hạnh
Tâm không cao ngạo, thường nhu hòa
Trạo cử chẳng sinh, tu chánh hạnh
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Khéo trú tuệ nên không khen, chê
Người thấy an nhiên như núi chúa
Bền vững với nguyện, không thoái tâm
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Khổ vui bất động, tâm như đất
Ý trong như nước, lắng cáu bẩn
Tâm như lửa, không sinh tưởng khác
Tâm như gió thổi không vướng mắc.
Tâm như hư không đẹp, trong sạch
Cần cầu xuất gia Phật nhãn sáng
Thân xa lìa, tâm tu vắng lặng
Tâm xa lìa, thường nương chánh pháp.
Làm việc thường nói lời chân thật
Làm như lời nói, thệ nguyện sáng
Thanh tịnh, không hề bị cấu nhiễm
Vì không phá hủy, tu giới hạnh.
Nơi giới không khuyết cũng không hoại
Tội nhỏ bị phạm, tâm rất sợ
Giữ giới cũng không cầu sinh Thiên
Giới thường trong trắng, không ô trược.
Thường hay gần gũi Thiện tri thức
Đều vì khai sáng tâm Bồ-đề
Ánh sáng suốt thông chiếu thế gian
Đều do đạt được mắt thanh tịnh.
Người trí tùy nghe các thứ âm
Chẳng sinh mừng vui, chẳng sinh chán
Tất cả âm thanh rõ nghĩa “vô”
Là do đạt được mắt thanh tịnh.
Mũi hương, lưỡi vị đều như thế
Thân xúc, ý pháp cũng như vậy
Xúc chạm cao thấp, tưởng chẳng sinh
Đều do đạt được căn thanh tịnh.
Muốn lìa tham nhiễm và sân si
Nên tu tâm Từ, quán bất tịnh
Lại khéo léo tu pháp duyên sinh
Đó là ngọc sáng Nhất thiết trí.
Nếu muốn trừ bỏ năm triền cái
Cần phải khéo léo quán năm Căn
Muốn dứt buộc ràng của các chướng
Khéo an trú năm Lực thanh tịnh.
Biết đạo xuất ly trừ chướng ngại
Xa lìa không chắc, trụ bền chắc
Luôn siêng tu tập bốn Niệm xứ
Với chánh đoạn, thần túc cũng vậy.
Lại thường tăng tiến bảy Giác phần
Cũng lại tiến tu tám Thánh đạo
Không tham, không sân, không sợ hãi
Khéo giữ các căn lìa sân kết.
Không keo kiệt thường hành pháp thí
Không sinh tiếc nuối, ái hộ tâm
Của cải không gom thường bố thí
Tâm Bồ-đề ấy nay thành tựu.
Với của báu không mong thu lấy
Không bỏ Bồ-đề, chẳng cầu báo
Thâu tóm chúng sinh nên thường hành
Bố thí, Ái ngữ, Lợi, Đồng sự.
Đối với tâm Bồ-đề không bỏ
Cũng không mến ưa các thừa khác
Quán pháp môn công đức Như Lai
Tâm vững chắc như núi Tu-di.
Nội tâm vắng lặng biết lỗi mình
Ngoài hộ người khác, chịu chê trách
Trong các việc làm lìa lầm lỗi
Vì sợ sinh tử, chẳng tạo tội.
Siêng hành pháp thiện không biếng lười
Nghiêm tịnh cõi Phật chẳng mệt mỏi
Hộ pháp chẳng sinh tâm giảm sút
Độ thoát chúng sinh không thoái đọa.
Thường siêng tu bổ thuyền đại pháp
Cứu vớt biển sinh tử bốn loài
Lại làm cầu, bè đưa chúng sinh
Dẫn đến Niết-bàn, nơi an lạc.
Vớt chúng sinh ra khỏi bùn sâu
Đưa đến nơi sạch sẽ, không sợ
Chúng sinh sợ hãi, ban an ủi
Tự độ, độ tha đến bờ kia.
Nếu đối pháp này khéo thành tựu
Tức là Bồ-tát không còn sợ
Vị ấy thường tịnh tâm Bồ-đề
Các bẩn phiền não không thể nhiễm.
Hư không không bẩn, còn thể nhiễm
Hư không không dấu còn thể thấy
Tâm Bồ-đề không nhiễm phiền não
Tự tánh xưa nay thường thanh tịnh.
Lại nữa, Hải Ý! Thế nào là Bồ-tát đối với tâm báu Nhất thiết trí đã phát ấy có thể nhận lãnh sự bức bách phá tan? Còn thế nào gọi là hành tướng phá hoại, bức bách? Này Hải Ý! Nếu Bồ-tát này đối với tâm báu Nhất thiết trí ấy, hoặc có người phá giới bất mãn, hoặc các ma, hoặc đệ tử của ma, hoặc dựa vào sức thủ lãnh nơi cung ma, hoặc sứ giả của ma cố đến quấy nhiễu, não loạn, khiêu khích, lung lạc, đánh đập thì ngay khi ấy Bồ-tát giữ vững tâm Bồ-đề, không để cho hủy hoại, lại cũng không hủy hoại lòng đại Bi tinh tấn độ thoát tất cả chúng sinh, lại cũng không tiêu tan sức khuyến trợ, hộ trì để hạt giống Tam bảo không đoạn, không dứt; lại cũng không hủy hoại tất cả thiện căn đã siêng năng tu hành tích tập trong pháp Phật; lại cũng không hủy hoại sự thành tựu tướng hảo, nên tu hành, tích tập hạnh phước; lại cũng không hủy hoại sự nghiêm tịnh cõi Phật nên dũng lực tăng tiến; lại cũng chẳng hủy hoại sự hộ trì chánh pháp nên không tiếc thân mạng; lại cũng không hủy hoại sự độ thoát khắp các chúng sinh nên không đắm vào cái vui của mình. Nếu Bồ-tát có đầy đủ tâm sâu xa như thế, khởi ý như thế, mới có thể ở chỗ các chúng sinh kia, hoặc bị kẻ sân giận đánh đập, nhục mạ, chê bai thì khi ấy, Bồ-tát đều có thể nhận chịu; hoặc bị tất cả chúng sinh phá hoại, bức bách cũng đều chịu đựng, vì Bồ-tát ấy cứu độ khắp tất cả chúng sinh, không mệt mỏi, không biếng lười, không thối chí, không buông xuôi, luôn tăng cường sức mạnh, quyết khởi tinh tấn, hết sức chịu khổ, thu giữ tâm ý. Nếu có tha nhân cố đến gây sân giận thì khi ấy Bồ-tát không dùng sân giận đáp trả. Họ đến đánh, ném, hoặc phá phách, thì lúc đó Bồ-tát không đáp trả mà nghĩ thế này: Ta nay nên khoác áo giáp nhẫn nhục Đại thừa. Vì sao? Vì pháp Đại thừa này rất trái ngược với thế gian. Chúng sinh ở thế gian thuận theo dòng sinh tử, còn pháp Đại thừa của ta thì ngược dòng sinh tử. Chúng sinh thế gian mâu thuẫn với nhau, pháp Đại thừa của ta làm cho chúng sinh dứt trừ mâu thuẫn. Chúng sinh nơi thế gian nổi giận bừng bừng, pháp Đại thừa của ta tăng cường sức nhẫn. Chúng sinh ở thế gian lừa dối lẫn nhau, pháp Đại thừa của ta khiến tuệ tâm của các chúng sinh viên mãn. Lại, ở thế gian, hoặc có chúng sinh đi đến mười phương, cầm nắm gậy gộc, đuổi theo Bồ-tát đến khắp mọi nơi, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm; hoặc thấy có người phát tâm đại Bồ-đề, hoặc có người tu tâm bố thí, hoặc có người tu tâm trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, cho đến hoặc nghe người phát một tâm thiện, thì sẽ theo người ấy ở bất cứ nơi đâu, cắt đứt thân vị ấy ra từng mảnh giống như lá táo. Bồ-tát dù gặp những việc như vậy, đều có thể nhẫn chịu. Lại nếu tất cả chúng sinh trong thế gian đều khởi sân giận thốt ra lời ác chê bai nhục mạ, khi ấy Bồ-tát đối với các chúng sinh đó, tâm chẳng móng khởi mảy may kích động. Vì sao? Vì Bồ-tát nghĩ: Nay thân này của ta, ở trong vô lượng, vô số sinh tử, từ trước đến nay trải qua các cõi không việc gì là không làm, hoặc ở địa ngục, hoặc tại ngạ quỷ, hoặc ở súc sinh…, cho đến nay đây ở trong loài người đam mê ăn uống, thọ hưởng các dục, nghe điều phi pháp, đuổi tìm gian khổ, nuôi dưỡng tà mạng, nhiều loại bức bách đối với thân mình đều hoàn toàn vô ích. Tuy mong cầu nhiều điều nhưng chẳng lợi mình, cũng không lợi người. Vì vậy, nên từ nay cho đến trong sinh tử đời sau, giả sử tất cả chúng sinh cắt xẻo thân ta ra từng mảnh, ta thà chịu đựng các khổ chứ không bao giờ xả bỏ tâm Nhất thiết trí, lại cũng không xả bỏ tất cả chúng sinh, lại cũng không xả bỏ các pháp dục thiện. Vì sao? Vì nay thân này của ta bị nhiều thứ khổ não bức bách, hủy hoại, so với nỗi khổ phải chịu ở trong địa ngục thì không bằng một phần trong trăm phần, ngàn phần, cho đến một phần trong vô lượng vô số phần. Vì vậy, nên ta ở trong pháp Phật, vĩnh viễn không bỏ, lại cũng không bỏ tâm đại Bi độ thoát chúng sinh hữu duyên. Vì sao? Vì như Phật đã dạy, tất cả pháp thiện có nhiều chướng nạn. Chúng sinh thế gian phần nhiều đối với pháp bất thiện thì luôn trợ giúp, còn ít ai thường trợ giúp các pháp thiện. Vì vậy ta nay ở trong pháp thiện phát khởi siêng năng tinh tấn hỗ trợ tu tập, chứ chẳng phải ở trong pháp bất thiện mà trợ lực. Do đó, ta đối với tất cả chúng sinh sân giận… đều có thể chịu đựng. Nếu các chúng sinh theo ta gây sự thì ta liền thi hành sự đối trị: Nếu có chúng sinh khởi sân hận và ganh ghét giận dữ ta, thì ta liền ban cho họ pháp nhẫn nhục. Vì ta ban cho họ pháp nhẫn nhục rồi, thì sức nhẫn hiện ra nên đối với họ, ta thà bỏ thân mạng chứ không bao giờ nổi sân. Vì vậy, nếu Bồ-tát tu như thế thì đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không khó. Nếu khi ấy, mà khởi sự sân giận thì Bồ-tát phải nghĩ nhớ: “Ta khởi pháp đoạn sân”. Pháp đoạn đó thế nào? Đó là, nếu ưa thích thân, hoặc lệ thuộc thân, hoặc chấp trước thân, nếu có những pháp như vậy đều phải xả bỏ xa lìa, do luôn luôn xả bỏ, thân như thế nên sân hận không khởi.
Này Bồ-tát Hải Ý! Nếu đối với các pháp như thế, luôn khéo tư duy, siêng năng tu tập thì liền có thể chịu đựng tất cả sự bức bách của chúng sinh mà đối với tâm Nhất thiết trí không hoại, không mất.
Hải Ý nên biết! Chịu đựng sự bức bách có ba thứ.
1. Chịu đựng sự bức bách về thân.
2. Chịu đựng sự bức bách về lời nói.
3. Chịu đựng sự bức bách về tâm.
Lại nữa, Hải Ý! Thế nào là Bồ-tát có thể chịu đựng sự bức bách về thân? Nghĩa là nếu Bồ-tát gặp khi thân phần sắp đoạn hoại thì Bồ-tát phải y theo pháp quán sát các chúng sinh khác. Lại nữa, nếu Bồ-tát có đầy đủ phương tiện khéo léo thì có thể tu hành viên mãn sáu pháp Ba-la-mật. Những hành tướng nào gọi là phương tiện khéo léo để Bồ-tát tu tập viên mãn sáu Ba-la-mật? Nghĩa là Bồ-tát khi thấy thân mình sắp bị đoạn hoại thì không tiếc thân ấy, từ bỏ thân ấy, cũng không ưa thích, như thế tức là có thể tu Thí ba-la-mật. Lại nữa, nếu khi thấy thân sắp hoại, đối với tất cả chúng sinh khởi tâm đại Từ không bỏ họ, như thế tức là có thể tu Giới ba-la-mật. Lại nữa, nếu khi thấy thân sắp hoại, Bồ-tát vì độ tất cả chúng sinh nên dù thân bị đoạn hoại cũng có thể chịu đựng, tâm không lay động, sức nhẫn hiện khởi, như thế tức có thể tu Nhẫn ba-la-mật. Lại nữa, nếu khi thấy thân sắp hoại thì không bỏ tâm Nhất thiết trí mà phát khởi sức tinh tấn lớn để thâu nhận nó, ở trong sinh tử khởi các thiện căn, như thế tức có thể tu Tinh tấn ba-la-mật. Lại nữa, nếu khi thấy thân sắp hoại, đối với chí phát tâm báu Nhất thiết trí không từ bỏ, phải khéo léo chăm sóc tâm đại Bồ-đề; chăm sóc như vậy, trong ngoài vắng lặng, như thế tức có thể tu Định ba-la-mật. Lại nữa, nếu khi thấy thân sắp hoại, Bồ-tát nên quán kỹ thân mình giống như các loại cây cỏ, đất đá, hiểu rõ thân này không thật, như huyễn. Nghĩa như thật các hành là vô thường, các hành là khổ, các hành là vô ngã, Niết-bàn vắng lặng. Nếu có thể quán kỹ thân như thế thì đó là có thể tu Tuệ ba-la-mật. Bồ-tát tu hành viên mãn hành tướng sáu Ba-la-mật như thế mới được không thoái chuyển đối với pháp Đại thừa. Như vậy gọi là Bồ-tát có thể nhẫn chịu sự bức bách về thân.
Lại nữa, Hải Ý! Thế nào là Bồ-tát có thể nhận lãnh sự bức bách về lời nói? Nghĩa là nếu có người đến, hoặc thử hoặc thật, dùng lời ác chê bai, mắng nhiếc, nhục mạ giận dữ, khi ấy Bồ-tát có thể nhận lãnh, không khởi sân giận, cắt đứt sự ràng buộc oan nghiệt ấy. Lại nữa, nếu Bồ-tát có đủ phương tiện khéo léo, khi thấy người khác đến chê bai nhục mạ, thì khi nghe rồi, Bồ-tát cần phải tu hành viên mãn sáu Ba-la-mật. Những hành tướng nào gọi là phương tiện khéo léo để Bồ-tát tu tập viên mãn sáu Ba-la-mật? Nghĩa là Bồ-tát khi bị người khác đến dùng lời ác chê bai, nhục mạ, Bồ-tát nghe xong, liền nghĩ thế này: Người này, đời trước tạo nhân keo kiệt, cho nên bị keo kiệt làm nhiễm ô, nay mới hiện khởi; lại cũng không gần gũi bạn hiền, vì vậy người ấy không bỏ được sân giận, nay ta nói pháp đoạn trừ sân giận cho người ấy. Vì sao? Vì ta luôn tin hiểu pháp thí xả nên không keo kiệt, cũng từng gần gũi các Thiện tri thức. Vì vậy ta nay buông bỏ lời nói ác, xa lìa sân giận. Như vậy tức là có thể tu Thí ba-la-mật. Lại nữa, người kia đến chê bai nhục mạ, khi ấy Bồ-tát liền nghĩ thế này: Người này hiện rõ nghiệp ác phá giới nên đến nhục mạ giận dữ ta. Nay ta tu tập cấm giới thanh tịnh nên đối với người này, ta không sinh sân giận, vì ta giữ gìn tâm Bồ-đề, vì nghĩ đến nghiệp báo. Như vậy tức là có thể tu Giới ba-lamật. Lại nữa, người khác đến chê bai nhục mạ, khi ấy Bồ-tát liền nghĩ: Người này quá thô lỗ, tội lỗi, nhiều sân giận cho nên đến chê bai nhục mạ ta. Nay ta đầy đủ sức nhẫn nhục, rộng tu hạnh Từ cho nên đối với người này, ta không sân giận. Như vậy tức là có thể tu Nhẫn ba-la-mật. Lại nữa, có người đến chê bai nhục mạ, khi ấy Bồ-tát liền nghĩ thế này: Người này lười biếng, xa lìa pháp thiện, cho nên đến nhục mạ giận dữ ta, nay ta phát khởi tinh tấn rộng lớn, khuyến khích thực hành tu tập, vun trồng các gốc lành, không hề chán nản. Ta cầu cho người này, trước hết được ngồi nơi đạo tràng Bồđề, còn ta sau cùng mới chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng. Nếu người mang áo giáp tinh tấn như thế thì đó tức có thể tu Tinh tấn ba-la-mật. Lại nữa, nếu có người đến chê bai nhục mạ, khi ấy Bồ-tát liền nghĩ thế này: Người ấy mất chánh niệm nên không hiểu biết đúng đắn, lại cũng không dứt bỏ phiền não nên đến giận dữ nhục mạ ta. Nay ta dứt trừ phiền não, nghĩ đúng, biết đúng, chuyên chú vào một cảnh; lại không quên mất tâm đại Bồ-đề. Nay ta nên vì những chúng sinh ấy, người không điều phục, người không vắng lặng, người không giữ gìn các căn, người không dừng nghỉ, ta đều làm lợi ích cho họ nên mang áo giáp Đại thừa. Nếu người có thể an định tâm như thế thì đó tức có thể tu Định ba-la-mật. Lại nữa, nếu có người đến chê bai nhục mạ, khi ấy Bồ-tát liền nghĩ thế này: Người này chấp trước tướng ngã, thấy có cảnh sở đắc, nên đến chê bai nhục mạ ta. Nay ta nương vào pháp, đối với hai loại sân đã khởi, hoặc sân chưa khởi, quán sát như thật thì người sân và pháp sân đều chẳng thể nắm bắt được, như lý suy tìm, hoặc tự, hoặc tha đều xa lìa. Có sự hiểu biết như thế nên có thể nhận lãnh. Như vậy tức có thể tu Tuệ ba-lamật.
Này Hải Ý! Bồ-tát tu hành viên mãn hành tướng của sáu Ba-la-mật như thế mới được không thoái chuyển đối với pháp Đại thừa. Như vậy gọi là Bồ-tát có thể lãnh chịu sự bức bách về lời nói.
Lại nữa, Hải Ý! Thế nào là Bồ-tát có thể nhận lãnh sự bức bách về tâm? Nghĩa là nếu khi Bồ-tát thấy các loại ma đến quấy nhiễu, phá hoại, Bồ-tát cần phải giữ tâm đại Bồ-đề vững chắc, bất động. Lại khi có người dùng tất cả lời nói tà vạy tự cho là “có sở đắc”, “có tướng chấp trước” đến quấy nhiễu thì cũng nên như thật an trú nội tâm, đối với tâm Nhất thiết trí chớ nên quên mất. Vì sao? Vì loại ma ấy có thế lực lớn, cho đến cuối cùng hóa làm hình Phật hiện đến trước người ấy, nói thế này: “Ngươi ở trong pháp Đại thừa, có năng lực gì? Ngươi nên bỏ gánh nặng như thế xuống đi! Hãy ngừng việc làm cần khổ tinh tấn lại, Bồ-đề khó đắc, pháp Phật khó đạt; ở trong sinh tử chỉ trải qua nhiều khổ não. Nay ngươi là Đại sĩ, nếu muốn chấm dứt khổ ấy thì hãy mau thủ chứng Niết-bàn Thanh văn.” Nếu Bồ-tát khi bị ma đến dùng lời cố quấy nhiễu như thế thì nên mang áo giáp kiên cố như trước, chẳng nên xả bỏ; nội tâm cũng chẳng động, chẳng hoại. Nếu được như thế thì tâm không gì sánh hơn không thể hoại diệt. Bồ-tát khi ấy nghĩ thế này: Ta phải quyết định đi đến đạo tràng, ta phải quyết định dùng sức đại trí trừ dẹp quân ma rồi, sau đó mới chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Ta phải quyết định chuyển pháp luân mầu nhiệm. Ta phải quyết định nói pháp rộng lớn khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Ta phải mời gọi tất cả chúng sinh, ban pháp thí khắp cho họ, làm cho họ được tròn đủ. Tất cả chư Phật dùng tha tâm trí soi chiếu ta; tất cả Hiền thánh chứng tri tâm đại Bồ-đề này của ta, thật sự có thể nhận lãnh các việc bức bách. Ta không lừa dối tất cả chư Phật, tất cả Hiền thánh, tất cả chúng sinh, cho đến cũng không tự lừa dối mình.
Này Hải Ý! Nếu chư Bồ-tát tu hành như thế tức có thể chịu đựng sự bức bách về tâm, mới đạt được pháp Đại thừa không thoái chuyển. Những hành tướng này, đối với những Bồ-tát nào đã phát tâm báu Nhất thiết trí thì có thể nhận lãnh sự bức bách. Nếu đối với Nhẫn nhục ba-la-mật mặc áo giáp kiên cố thì đối với Tinh tấn ba-la-mật không biếng trễ thoái lui. Nếu đối với hai Ba-la-mật này có thể viên mãn được tức là Đại Bồ-tát với tâm báu Nhất thiết trí có thể nhận lãnh sự bức bách.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lại bằng bài kệ:
Tâm đạo đại Bồ-đề không hoại
Lại cũng không hoại tâm đại Bi
Đối với Tam bảo khéo hộ trì
Chứa nhóm Phật pháp cũng không mất.
Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ
Mười Lực trang nghiêm thân tướng tốt
Tu hành nhiều pháp, tròn phước trí
Chịu được bức bách nên không thối.
Công đức cõi Phật nhiều vô biên
Nhờ sức vô nguyện đều nghiêm tịnh
Pháp bảo vô thượng, môn tối thắng
Ta nguyện luôn giữ gìn vững chắc.
Vô số chúng sinh, vô biên cõi
Ta nguyện đều độ thoát khắp cả
Nội tâm không hoại, nhân lợi lạc
Vì vậy lãnh chịu sự bức bách.
Tất cả thế giới trong mười phương
Khắp hết tất cả các chúng sinh
Cho đến vô biên cõi chúng sinh
Đều cầm gậy gộc đến bức não.
Gây gỗ khủng bố nổi sân giận
Đánh đập như thế mong khắc phục
Bồ-tát nhờ tu nhân công đức
Khởi tâm mạnh mẽ nhẫn chịu được.
Trải qua vô lượng trăm ngàn kiếp
Từ gốc sinh tử đời trước đến
Khi chúng dùng lời ác nhục mạ
Tâm Bồ-tát ấy không não hại.
Do đại trí nên nhẫn chịu được
Chẳng sinh phẫn nộ, chẳng sinh sân.
Bức bách như vậy tùy chỗ biết
Có thể nhẫn chịu, được thanh tịnh.
Lại nữa, khắp hết các chúng sinh
Đều cầm khí giới đến gia hại
Cắt xẻo thân phần ra từng mảnh
Cho đến phân thây ra từng khúc.
Khi ấy Bồ-tát, tâm không động
Chẳng sinh mảy may tâm sân giận
Kiên cố giữ tâm đại Bồ-đề
Chịu đựng bức bách được thanh tịnh.
Bồ-tát đi đứng hoặc ngồi nằm
Hiện oai nghi ấy khiến người tịnh
Trong đó, tìm kiếm hoặc có người
Tâm đại Bồ-đề không xả bỏ.
Hoặc hành bố thí và các hạnh
Hoặc lại phát khởi tâm thiện khác
Ngay khi người khác cắt thân mình
Ra từng miếng nhỏ nằm tứ tán.
Bồ-tát dù gặp cảnh khổ này
Tâm cũng vui vẻ với người ấy
Nhớ nghĩ vô biên kiếp đến nay
Trải khắp các nẻo đều tạo tác.
Ba đường địa ngục, quỷ, súc sinh
Cho đến ngày nay được thân người
Tuy thân tan nát quả vẫn còn
Vì cầu trí Phật, thân xả bỏ.
Tuy ta nay được thọ thân người
Vô số các khổ thường bức bách
Nếu so với khổ ngục A-tỳ
Khổ này chẳng bằng một phần trăm.
Ta thà ở trong địa ngục ấy
Chịu đựng khổ ấy qua trăm kiếp
Phật và chánh pháp cùng chúng sinh
Ta quyết trọn đời không xả bỏ.
Ta quán thân này pháp vô thường
Sát-na diệt, tạ giống như huyễn
Bốn đại hư giả cùng hợp thành
Phật dạy bốn đại như rắn độc.
Nếu ta xả bỏ được thân này
Xa lìa độc hại ở trong thân
Độc phiền não ấy muốn tiêu trừ
Mình, người thành Phật, trí tự nhiên.
Thân này của ta ở thế gian
Nhiều việc sợ hãi sinh sợ hãi
Vì cầu thân các duyên an lạc
Do các dục ăn uống vân vân.
Nếu ta từ bỏ được thân ấy
Dứt được các duyên lìa sợ hãi
Nếu thường hiểu rõ tư duy này
Có thể nhẫn chịu các bức bách.
Chúng sinh thế gian nhiều trăm ngàn
Thường bao che các pháp bất thiện
Ít có người ở trong pháp thiện
Theo sức mình hết sức chở che.
Nên ta đối với pháp bất thiện
Không bao giờ lại giúp sức thêm
Ta nên giúp tu pháp nhẫn nhục
Lời nhẫn nhục Phật đã dạy bảo.
Tất cả Phật mười phương hiện có
Xin chư Phật chứng minh cho con
Con nay phát khởi tâm quyết định
Ở trong Phật thừa, chẳng chuyển lay.
Chư Hiền thánh có oai lực lớn
Đều chứng cho tâm nhẫn của con
Con sẽ nhẫn chịu sự bức bách
Mà chẳng hề tạo các lỗi lầm.
Như Phật đã dạy thân, ngữ, ý
Cả ba có nhiều thứ áp bức
Với dũng mãnh, đều chịu đựng được
Như trước đã nói, đều không hoại.
Thân ấy có đủ những loại khổ
Những nỗi khổ ấy không biên giới
Đối với khổ đó nếu chịu được
Thân bị bức bách cũng thanh tịnh.
Nếu khi gặp khổ thân chia cắt
Đoạn ra từng khúc, từng miếng nhỏ
Sáu Ba-la-mật nếu viên thành
Bậc đại trí đức quyền phương tiện.
Đó là Bố thí và Trì giới
Nhẫn nhục, Tinh tấn và Thiền định
Cùng tu ngang bằng tuệ tối thắng
Khoảnh khắc nhiếp thọ đều viên mãn.
Hoặc chỉ nhất thời xả bỏ thân
Lại cũng không thương và không tiếc
Khi ấy cần phải tu thế này
Viên mãn Bố thí ba-la-mật.
Nếu đối chúng sinh, hành từ rộng
Thì không phá giới hạnh thanh tịnh
Hiện chứng Bồ-đề được thâu nhận
Viên mãn tịnh Giới ba-la-mật.
Dù khi thân ấy sắp đoạn hoại
Cần phải giữ vững sức nhẫn nhục
Do đó nếu siêng hành sức nhẫn
Viên mãn Nhẫn nhục ba-la-mật.
Tinh tấn gánh nặng không mệt mỏi
Trong lòng cũng lại không sinh chán
Thân tuy tan hoại, lực giữ vững
Viên mãn Tinh tấn ba-la mật.
Dù khi thân ấy sắp đoạn hoại
Chẳng nghĩ xả bỏ tâm Bồ-đề
Ở trong bụi phiền não tối tăm
Ra sức khiến chúng đều tiêu diệt.
Vì sức tu thiền định giải thoát
Thà nên hủy hoại thân của mình
Khiến khắp chúng sinh được lìa cấu
Viên mãn Thiền định ba la-mật.
Ta quán thân này thật vô ngã
Giống như huyễn hóa, như ánh chớp
Người làm, người thọ thảy đều không
Trong đó, thật không mảy may pháp.
Với tấm thân khổ đau ràng buộc
Vì chúng sinh khéo độ thoát họ
Đến bờ kia, tự tha trọn vẹn
Viên mãn thắng Tuệ ba-la-mật.
Thường đối với pháp sâu chắc này
Phương tiện tư duy thường khéo tu
Có thể nhẫn chịu bức bách thân
Trong đó, không khởi các tội lỗi.
Nếu khi Bồ-tát nghe lời ác
Chớ có chê bai và hủy báng
Nghe rồi, không sinh tâm sân giận
Luôn khởi tâm Từ khéo điều phục.
Xả bỏ sân hận các lỗi lầm
Bố thí thanh tịnh ba-la-mật
Tâm từ rộng lớn vận hành khắp
Trì giới thanh tịnh Ba la-mật.
Hiện khởi sức nhẫn đối trị lại
Nhẫn nhục thanh tịnh Ba-la-mật
Luôn khởi tinh tấn cầu trí Phật
Tinh tấn thanh tịnh Ba-la-mật.
Ở trong các cảnh tâm thường định
Thiền định thanh tịnh Ba-la-mật
Hiểu các âm thanh, không thủ đắc
Thắng tuệ thanh tịnh Ba-la-mật.
Bồ-tát nghe các lời ác rồi
Cần phải tư duy pháp sâu xa
Lãnh chịu được lời nói bức bách
Vì vậy chẳng chấp các lỗi lầm.
Giả sử trăm ngàn các chúng ma
Tà kiến, ngoại đạo cùng đi đến
Khuyên bảo xả bỏ phương tiện tu
Cho rằng quả Bồ-đề khó đắc.
Khi ấy, Bồ-tát tâm bất động
Sức mạnh tăng tiến tu tinh tấn
Vì vậy lãnh chịu bức bách tâm
Dù nhiều bức bách, đều không hoại.
Nhẫn nhục, tinh tấn đều song hành
Khéo tu an trú như núi chúa
Các điều bức bách đều lãnh chịu
Các chúng sinh cùng nhau dũng mãnh.
Tâm báu sửa trị người bức hại
Mười Lực Như Lai đều biết hết
Được thấy Đấng Giác Ngộ hiện chứng
Lại cũng được thọ ký thành Phật.
Lại nữa, Hải Ý! Thế nào là tâm báu Nhất thiết trí đã phát của Bồ-tát giả như đâm cũng không thủng? Nghĩa là nếu Bồ-tát đối với tâm Nhất thiết trí kia không chỗ lãnh nạp, không chỗ chấp nương, cũng không chỗ trụ, không xuất, không nhập, không hý luận, không phân biệt, phá bỏ phân biệt, không chỗ an lập, nên dùng chánh trí như thật quán sát nơi pháp thâm diệu. Pháp thâm sâu ấy là những pháp nào? Đó là pháp tùy thuận duyên sinh, biết rõ, không nhờ đối tượng duyên, không đoạn, không thường, xa lìa sự hiểu biết thiên lệch, tự tánh vô ngã; vì tự tánh vô ngã nên tất cả pháp cũng không có tự tánh; các pháp xưa nay, sinh từ chỗ vô sinh, hiểu rõ về không, tin thuận vô tướng, vô nguyện, vô cầu; đối với tuệ chân thật không có tạo tác, rốt ráo vô thường, sắc như khối bọt, thọ như bọt nổi, tưởng như sóng nắng, hành như cây chuối, thức như trò huyễn. Các giới không động, các nhập cùng sinh, tâm không chỗ dừng, cũng không tác ý; đối với việc làm tăng thượng hay việc làm chẳng tăng thượng, ở nơi pháp bình đẳng, hiểu rõ như thật; không có các loại hành tướng cùng một vị như nhau đều cùng trụ nơi đạo Nhất thừa, tu trí đạo hạnh, dựa vào thắng nghĩa, dùng trí rõ hiểu nơi nghĩa, không chấp trước. Tất cả âm thanh ấy ngộ nhập phi âm thanh, trí biết tất cả âm thanh, đời trước, đời sau đều dứt, hai loại văn và nghĩa, trí nhập vô nhị, hiện chứng các pháp, nghĩa bất khả thuyết, nghĩa vô ngã là khổ trí; nghĩa rốt ráo là tập trí; nghĩa không hòa hợp là diệt trí; ngộ nhập hữu vi, vô vi bình đẳng là đạo trí. Lìa khoảng trước sau là Thân niệm xứ; sinh diệt không ngừng là Thọ niệm xứ; quán không đối tượng duyên là Tâm niệm xứ; pháp giới phi tánh giới bình đẳng, nghĩa là Pháp niệm xứ. Nghĩa tâm tự tại là bốn Chánh đoạn; lìa các chướng ngại là bốn Thần túc. Nghĩa xuất sinh là tín căn; vô niệm là tinh tấn căn; không tác ý là niệm căn; siêu vượt hý luận là định căn; không tin vào khác là tuệ căn. Đối tượng duyên không chướng ngại là tín lực; thông đạt các lực là tinh tấn lực; tâm đình trụ là niệm lực; không gì lay động là định lực; ở nơi niệm mà tùy niệm là tuệ lực. Bình đẳng ương ưng với tất cả pháp là Niệm giác phần; không xuất, không nhập là Trạch pháp giác phần; không có ngã sở là Tinh tấn giác phần; thân tâm khéo an trú là Hỷ giác phần; bình đẳng giác ngộ là Khinh an giác phần; lìa nhị pháp là Định giác phần; xa lìa các kiến là Xả giác phần. Trong tất cả phân biệt và vô phân biệt, lìa các biến kế là chánh kiến; ngộ nhập tất cả âm thanh bình đẳng là chánh tư duy; lìa pháp nơi thân tâm là chánh ngữ; tất cả việc làm đều được tự tại gọi là chánh nghiệp; không cao, hạ là chánh mạng; bình đẳng an trú trong thiện hay bất thiện đã hiện bày là chánh cần; bình đẳng ngộ nhập tâm nơi chốn duyên là chánh niệm; tĩnh lặng an trú vào Xa-matha mầu nhiệm là chánh định. Đối với kiến hay phi kiến đều mang nghĩa thanh tịnh, không chỗ sinh là nghĩa vô thường; nghĩa xưa nay bất sinh là nghĩa khổ; nghĩa không chỗ hành là nghĩa vô ngã; nghĩa dừng nghỉ là nghĩa tịch diệt vắng lặng; khéo điều phục tâm là nghĩa bố thí; an trú tánh trong mát là nghĩa trì giới; tùy thuận chúng sinh mà nhận biết tất cả pháp là nghĩa nhẫn nhục; đối với tất cả pháp có thể khéo léo chọn lựa là nghĩa tinh tấn; nội tâm ngừng nghỉ là nghĩa thiền định; hiểu biết như thật các pháp vô tướng là nghĩa thắng tuệ. Tất cả chúng sinh xưa nay thanh tịnh là nghĩa Từ, ngang bằng với hư không là nghĩa Bi; vui với cái không chỗ thủ đắc là nghĩa Hỷ; tất cả việc làm đều được rốt ráo là nghĩa Xả; tất cả các pháp từ đời trước đến nay, ba luân thanh tịnh là nghĩa không; đời sau thanh tịnh là nghĩa lìa; hiện tại thanh tịnh là nghĩa vô ngã.
Này Hải Ý! Nếu các Bồ-tát đối với các pháp sâu xa như thế, không khởi không diệt, lìa các văn tự, ngang bằng với hư không; nơi thuận và nghịch trí đều nhập bình đẳng. Nếu thường tư duy quán sát việc làm như thế thì Bồ-tát ấy có thể đối với tâm báu Nhất thiết trí đã phát ấy, giả như đâm cũng không thủng. Lại nữa, tuy đâm như thế nhưng tâm Nhất thiết trí kia không hay biết, tức là ở trong lý tự tại của các pháp, mới có thể hiện chứng.
Này Hải Ý! Ví như nhật nguyệt tự chiếu ở mọi nơi, chiếu sáng khắp bốn châu lớn nhưng Thiên tử nhật nguyệt kia hoàn toàn không hay biết, cũng chẳng nghĩ: Ta có thể đến khắp mọi nơi, hoặc không đến mà chiếu sáng khắp; chỉ do sức báo ứng quả phước của tất cả chúng sinh mà được chiếu sáng như thế.
Này Hải Ý! Bồ-tát đầy đủ trí khéo chọn lựa, cũng giống như thế. Tuy ở trong vô lượng cõi Phật, rộng vì chúng sinh làm lợi ích lớn nhưng Bồ-tát ấy hoàn toàn không hay biết, chưa từng khởi các tưởng tác ý, nhưng việc làm kia tùy theo chỗ thích ứng tự hiện phát.
Lại nữa, Hải Ý! Nếu Bồ-tát đầy đủ trí chọn lựa thì nên ở trong Định ba-la-mật và Tuệ ba-la-mật, như lý quán sát kỹ. Vì sao? Vì Bồ-tát trụ nơi tâm đẳng dẫn thì không tu quán pháp; tu quán hạnh Bồ-tát thì không trụ tâm đẳng dẫn. Nếu người nào tu quán hạnh thì người ấy có tuệ; do có tuệ nên có thể khéo quán sát. Quán sát cái gì? Đó là quán thật tướng của các pháp. Thế nào là thật tướng các pháp? Nếu đối với các tướng không có chỗ hành thì đó tức là thật tướng của các pháp. Thế nào là tướng của các pháp? Nghĩa là có cái hiện rõ, tức là tướng các pháp; đây cũng gọi là thật tướng các pháp. Nếu hiểu biết tất cả như thế tức là có thể đạt ngộ vô tướng, vô vô tướng. Cái gì là tướng? Cái gì là vô tướng? Tướng tức là sinh; vô tướng là diệt. Nếu vô tướng, vô vô tướng tức là không sinh cũng không diệt. Nếu pháp không sinh cũng không diệt, tức là các pháp tánh xưa nay thường trụ, pháp giới không hoại, chân như bất động, thật tế bất biến. Pháp tánh như thế, đó chính là hiểu đúng như thật về pháp duyên sinh. Giác ngộ tướng chân thật của các pháp, hiện chứng thật tế chân lý vô nhị, như vậy phải dùng trí hiện lượng mới nhận biết được.
Này Hải Ý! Đó gọi là Đại Bồ-tát đầy đủ trí chọn lựa.
Ngay khi Phật Thế Tôn thuyết giảng pháp nhẫn chịu sự bức bách phá chẳng thể hoại, lãnh chịu sự mài giũa như thế, trong pháp hội này, có mười ức trời, người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, một vạn sáu ngàn Bồ-tát đều đắc pháp Nhẫn vô sinh.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:
Nếu Bồ-tát nghe tâm Bồ-đề
Có thể suốt thông tất cả pháp
Tức trí xuyên suốt tất cả ấy
Ở trong các pháp, không chấp trước.
Lại tuy hiểu rõ pháp sâu xa
Bồ-tát trong đó, không sợ hãi
Và cũng không khởi tâm khiếp nhược
Vị ấy thường được đạo tối thắng.
Các pháp, hoặc nhân hoặc sở duyên
Biết rõ như thật pháp duyên sinh
Bậc trí tuệ thuận các pháp sinh
Nhưng thật chẳng chấp vào biên kiến.
Trong các pháp hoặc đoạn hoặc thường
Người trí không sinh sự vướng mắc
Hiểu rõ trong ấy cũng như vậy
Vì vậy thật tế bất tư nghì.
Tự tánh các pháp vốn vô ngã
Trong đó, ngã cũng không tự tánh
Các pháp không tánh cũng như vậy
Xưa nay không sinh đều vắng lặng.
Các pháp không sinh cũng không khởi
Không, không chỗ nắm, thường thanh tịnh
Xa lìa hý luận cửa vô tướng
Tất cả bình đẳng như hư không.
Vô tâm lại cũng không cầu nguyện
Xa lìa tất cả các tham dục
Hiện quán các sắc trong tự tánh
Giống như bọt nước, biết không thật.
Thọ như bọt nổi tạm sinh, diệt
Tưởng như sóng nắng, do vọng sinh
Hành như cây chuối không bền chắc
Thức như trò huyễn chẳng lâu bền.
Bốn giới hiện có tánh không động
Cùng cõi hư không kia đồng đẳng
Các nhập trong ngoài cũng như vậy
Cảnh cùng sinh ra nhưng thầm lặng.
Nên biết tâm, pháp không ở trong
Cũng chẳng hiện hữu ở bên ngoài
Ý pháp vô ngã cũng như vậy
Trong đó, các thức đều vô trụ.
Tất cả pháp ấy không tác ý
Và cũng xa lìa hẳn tướng ngã
Trong tất cả pháp đều bình đẳng
Biết rõ như thật nơi chánh tánh.
Pháp chỉ một vị, không tánh khác
Nhất đạo Nhất thừa đều đồng đẳng
Nếu hiểu rõ trí đạo như thật
Nghĩa này hiển bày nơi thắng nghĩa.
Người trí với nghĩa được ngộ nhập
Quán thanh phi thanh được tỏ ngộ
Tất cả âm thanh trong thế gian
Đời trước, đời sau đều dứt hết.
Hoặc văn, hoặc nghĩa tuy hiểu rõ
Trong ấy biết rõ không hai pháp
Hiểu nghĩa môn bất khả thuyết này
Tức thời hiện chứng tánh chân thật.
Các pháp không sinh là Khổ trí
Các pháp bình đẳng là Trí
Các pháp nghĩa tận là Diệt trí
Các pháp vô vi là Đạo trí.
Ở trong thân, thọ, tâm, pháp kia
Như lý tùy quán mỗi một pháp
Vô niệm lại không hành tác ý
Đây gọi là quán bốn Niệm xứ.
Quán pháp giới chẳng phải tánh giới
Bình đẳng, rốt cùng cũng bình đẳng
Pháp môn chánh đoạn mà không đoạn
Thì đấy gọi là bốn Chánh đoạn.
Với tâm nếu đắc tự tại lớn
Thì đấy gọi là bốn Thần túc.
Siêu vượt tất cả tâm chấp trước
Chính đây được gọi là tín căn.
Với tất cả pháp được tịch tĩnh
Thì đấy gọi là tinh tấn căn.
Chánh pháp môn niệm mà vô niệm
Thì đấy được gọi là niệm căn.
Nếu không tác ý, rõ các pháp
Thì đấy được gọi là định căn.
Siêu vượt các pháp cửa hý luận
Thì đấy được gọi là tuệ căn.
Nếu không dấy khởi tin pháp khác
Thì liền đạt được trí chân thật.
Với tâm cũng không chỗ tri giác
Đây là tín lực, tinh tấn lực.
Nếu hiểu trí vô sinh vô diệt
Thì đấy được gọi là niệm lực.
Tịch tĩnh nơi tâm, không chốn hành
Đây là thành tựu được định lực.
Chẳng có, chẳng lìa sự phân biệt
Thì đấy được gọi là tuệ lực.
Thật hiểu rõ nghĩa của các pháp
Thì đấy gọi là bảy Giác phần.
Nơi pháp bình đẳng không sai khác
Thì đây được gọi là chánh kiến.
Như thật quán chiếu pháp vô nhị
Vô sinh là quán các Chánh đạo.
Vô sinh chính là nghĩa vô thường
Vô khởi thì gọi là nghĩa khổ.
Vô hành gọi là nghĩa vô ngã
Dừng nghỉ gọi là nghĩa tịch tĩnh.
Tâm điều phục tức là Bố thí,
Tâm tĩnh lặng tức là Trì giới,
Tùy thuận vạn pháp là Nhẫn nhục,
Quán kỹ chánh tuệ là Tinh tấn,
Rốt ráo tĩnh lặng là Thiền định,
Biết đúng như thật là Trí tuệ.
Tâm chúng sinh xưa nay thanh tịnh
Biết rõ việc này gọi là Từ,
Ngang bằng với hư không là Bi,
Vui thích thanh tịnh gọi là Hỷ,
Tất cả sở duyên không trụ tâm
Thì đấy được gọi là hành Xả.
Lại nếu ba luân được thanh tịnh
Có thể hiểu rõ tất cả pháp
Thông suốt các pháp môn như thế
Mà còn dứt hẳn các kiến chấp
Trong đó có cả định và tuệ
Tức hai pháp này được thông suốt
Vào khắp vô lượng cửa cảnh giới
Thì đấy gọi là trí chánh pháp.
Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Nếu Bồ-tát được sự thanh tịnh khắp như thế rồi, đối với tất cả chúng sinh khởi ý không hư dối thì dù bị chúng sinh bức hại cũng không sinh phiền bực và chướng ngại, đắc trí biết rõ hoàn toàn, đắc tuệ quyết định. Bồ-tát ấy liền có thể, đối với Tam-ma-địa căn bản Tịnh ấn tự thuyết này, an trú trong vô trụ.
Thế nào là an trú Tam-ma-địa căn bản? Nghĩa là đối với tất cả chúng sinh không chướng ngại nên khởi tâm đại Bi; vì khởi tâm đại Bi nên thường được tất cả chúng sinh cung kính, tâm cũng không tự cao, hoặc không được cung kính thì tâm cũng không tự ty. Vì vậy cho nên, pháp không có chỗ sinh khởi, cũng không có tâm ngã mạn. Do đó mới có thể tùy thuận an trú nơi các pháp, không trụ pháp si, thường sinh pháp trí, khắp cùng đều được trí tuệ dẫn dắt thân nghiệp hoàn hảo, trí tuệ dẫn dắt ngữ nghiệp hoàn hảo, trí tuệ dẫn dắt ý nghiệp hoàn hảo. Nếu các việc làm của thân, ngữ, ý, tất cả đều do trí tuệ dẫn dắt thì Bồ-tát liền có thể chuyển theo trí.
Thế nào là Bồ-tát được trí tuệ dẫn dắt thân nghiệp hoàn hảo? Nghĩa là, nếu chúng sinh cần thấy sắc thân để có thể hóa độ và điều phục thì Bồ-tát liền hiện tướng oai nghi khiến tâm chúng sinh ấy được điều phục. Bồ-tát tuy hiện tướng như thế nhưng không thấy thật có sự giác ngộ, cũng không phân biệt. Hoặc nếu thân Bồ-tát khởi lầm lỗi, đắm chấp nơi thân, thân khởi tướng kỳ dị, thân đi không thẳng, thân có loạn động, thân sinh so lường; nếu như thế thì các tội lỗi của Bồ-tát ấy nhóm tập hiện tiền, như chặt lõi cây đa-la, về sau các pháp không còn sinh lại nữa. Còn nếu Bồ-tát, thân được thanh tịnh thì tất cả tướng tốt đẹp trang nghiêm thân ấy, tay chân mềm mại, đẹp đẽ dễ mến, phước thành sinh thân, các căn không khuyết, thân phần đầy đủ. Tuy có thân đẹp đẽ hoàn toàn như thế nhưng Bồ-tát đối với sắc tướng cũng không kiêu hãnh; thân tuy đẹp đẽ mà không sinh ý tưởng ưa thích. Nếu Bồ-tát thấy các loại sắc tướng của tất cả chúng sinh có người nào bị khiếm khuyết thì bấy giờ Bồ-tát không khởi tâm kiêu mạn, mà vì cầu pháp nên khởi tâm khiêm hạ, cung kính. Vì sao? Vì pháp tánh của tự thân cùng với pháp tánh của tất cả thân chúng sinh đều bình đẳng, nương vào trí tuệ. Bồ-tát đối với thân và pháp tánh của thân đều biết rõ rồi, liền đắc Pháp thân, không thọ thân phần đoạn. Sao gọi là Pháp thân? Đó là thân dùng thiền duyệt làm thức ăn uống, không dùng đoàn thực. Bồ-tát vì muốn tùy thuận thế gian, vì thương yêu chúng sinh nên thị hiện thọ nhận thức ăn của thế gian, chứ không vì sự gầy ốm của thân. Bồ-tát chỉ đối với Pháp thân, dùng pháp mạng ấy mà nuôi dưỡng, chẳng nhờ đoàn thực của thế gian nuôi dưỡng. Sao gọi là pháp mạng? Nghĩa là chỗ nuôi dưỡng không do nhân duyên tạo tác, không vượt Thánh hạnh. Sao gọi là Thánh hạnh? Nghĩa là không tham, không sân, không si, lìa các phiền não, tùy chỗ hiện bày mà âm thầm hộ trì giới cấm thì gọi là Thánh hạnh. Bồ-tát do trí này dẫn dắt mà thân nghiệp hoàn hảo, nên đạt được các trí thông, thành tựu thần lực, dùng tâm không phát khởi tỏ ngộ, ở trong tất cả cõi ấy, hiện thân cùng khắp, tùy theo từng loại chúng sinh nơi các cõi Phật mà ứng hiện thân hình trang nghiêm, sắc tướng sáng ngời của Bồ-tát. Bồ-tát an trú trong không phát, ngộ, không phân biệt, thân tướng trang nghiêm chói sáng hoàn hảo; ở trong thân ấy, phóng ra hào quang lớn; hào quang này chiếu khắp vô lượng, vô số quốc độ của chư Phật. Tất cả chúng sinh ở địa ngục, cõi ác đều nhờ xúc tiếp với ánh sáng chiếu đến mà được an vui. Do an vui nên ưa tiếp xúc với hiện tiền, vì ưa được tiếp xúc nên phiền não thiêu đốt tất cả chúng sinh đều tiêu trừ, tất cả đều được mát mẻ, thân tâm an lạc. Các chúng sinh ấy vì được an lạc nên khéo làm Phật sự.
Này Hải Ý! Các pháp như thế gọi là trí Bồ-tát dẫn dắt thân nghiệp hoàn hảo.
Lại nữa, Hải Ý! Thế nào là trí Bồ-tát dẫn dắt ngữ nghiệp hoàn hảo? Nghĩa là nếu Bồ-tát nói ra lời nào thì trong lời nói ấy, thường xa lìa tất cả tội lỗi thô ác.
Này Hải Ý! Thế nào là lỗi lầm thô ác trong lời nói? Nghĩa là Bồ-tát luôn luôn xa lìa sáu mươi bốn thứ lỗi lầm trong lời nói. Những gì là sáu mươi bốn?
1. Bồ-tát không nói lời khúc mắc.
2. Không nói lời thô tục.
3. Không nói lời gây đổ vỡ.
4. Không nói lời gây nhụt chí.
5. Không nói lời quá cầu kỳ.
6. Không nói lời quá kém cỏi.
7. Không nói lời quá ác.
8. Không nói cạnh khóe.
9. Không nuốt lời.
10. Không nói lời khiêu khích.
11. Không nói chia rẽ.
12. Không nói lời chọc giận.
13. Không nói lời mê hoặc.
14. Không nói lời oán hận.
15. Không nói lời lén.
16. Không nói lời ô nhiễm.
17. Không nói lời như rên rỉ.
18. Không nói lời như trẻ con.
19. Không nói lời như rống.
20. Không nói lời thô bạo.
21. Không nói lời xúc phạm.
22. Không nói phi thời.
23. Không nói lời tham lam thấp kém.
24. Không nói lời giận dữ ngăn cách.
25. Không nói lời si mê cuồng loạn.
26. Không nói lời kinh sợ.
27. Không nói lời khinh mạn, cố chấp.
28. Không nói lời phá hoại.
29. Không nói lời dua nịnh.
30. Không nói lời cao ngạo.
31. Không nói lời tự tôn, tự ti.
32. Không nói lời tùy theo sự yêu mến mà che giấu.
33. Không nói lời bới móc không thương yêu.
34. Không nói lời chẳng thật.
35. Không nói lời thiếu sót.
36. Không nói lời hư vọng.
37. Không nói lời tranh chấp gây rối.
38. Không nói lời hai lưỡi.
39. Không nói lời ác độc.
40. Không nói lời thêu dệt.
41. Không nói lời phá hoại bè bạn.
42. Không nói lời quá sắc bén.
43. Không nói lời quá mềm mỏng.
44. Không nói lời phàm tục.
45. Không nói lời không che chở.
46. Không nói nhiều.
47. Không nói lời giận dữ.
48. Không nói lời tranh giành.
49. Không nói lời thấp hèn.
50. Không nói lời loạn động.
51. Không nói lời khinh rẻ.
52. Không nói lời chê bai trước mặt.
53. Không nói lời bỡn cợt.
54. Không nói lời như ca hát.
55. Không nói lời phi pháp.
56. Không nói lời ly gián.
57. Không nói lời tự khen.
58. Không nói lời chê bai người.
59. Không nói lời khinh nhờn.
60. Không nói lời kích bác.
61. Không nói lời chống trái Phật, Pháp, Tăng.
62. Không nói lời hủy báng Hiền thánh.
63. Không nói lời làm chứng phi lý.
64. Không nói tất cả lời thô ác tội lỗi.
Này Hải Ý! Trong sáu mươi bốn thứ lời nói tội lỗi như thế, phàm nói ra điều gì Bồ-tát, đều mau xa lìa, liền được ngữ nghiệp thanh tịnh. Phàm nói ra điều gì đều nói lời không gián đoạn, nói lời như thật, nói lời chân chánh, nói lời thành thật rõ ràng, nói lời thuận theo sự thật, tùy theo ngôn ngữ của hết thảy chúng sinh, biết tâm ưa thích của tất cả các loài, khiến các chúng sinh đều sinh hoan hỷ, soi rõ căn tánh của tất cả chúng, dứt các phiền não, trụ trong oai thần của Phật, nắm giữ chánh pháp, nói ra điều gì phân minh rõ ràng, êm ái dễ mến, lìa các lầm lỗi; vì đều do phước hạnh thành tựu nên lời nói không sinh tham lam mà gồm thâu công đức, chẳng sinh sân giận, sâu xa vô cùng, không sinh si mê; ở trong mười phương thế giới hiện bày ngôn ngữ đều được lợi ích, đến tất cả nơi đều không hiện tướng.
Này Hải Ý! Đó là trí Bồ-tát dẫn dắt ngữ nghiệp hoàn hảo.
Lại nữa, Hải Ý! Thế nào là trí Bồ-tát dẫn dắt ý nghiệp hoàn hảo? Nghĩa là Bồ-tát trong một sátna, nhất tâm vào khắp tâm hành của tất cả chúng sinh đều thấu rõ cả, an trú trong Tam-ma-sí-đa, hiện các việc oai nghi, nhưng cũng không hiện khởi Tam-ma-địa ấy; tất cả chúng ma đều không thể biết nghiệp tâm của Bồ-tát; vào khắp tâm của tất cả Thanh văn, Duyên giác, họ cũng không biết. Bồ-tát ấy không bao giờ sinh tâm tự hại mình và hại người, cũng không hại cả hai, chẳng biểu hiện ở tâm ý, không bị chướng ngại nơi một pháp nhỏ nào; ở trong tất cả pháp, khởi trí biết rõ. Vì tâm ý của vị ấy không biểu hiện nên không chỗ biết rõ được, không thọ mà thọ, chưa đủ pháp Phật, cũng không diệt thọ mà thủ chứng.
Này Hải Ý! Đây gọi là trí Bồ-tát dẫn dắt ý nghiệp hoàn hảo.
Này Hải Ý! Những pháp như thế là căn bản Tam-ma-địa Tịnh ấn của Bồ-tát an trú tự thuyết. Pháp căn bản này tức là thân, ngữ, ý nghiệp của Bồ-tát, đều dùng trí để dẫn dắt. Vì ba nghiệp ấy trí là dẫn đầu nên có thể đạt được pháp Tam-ma-địa Tịnh ấn tự thuyết.
Hải Ý nên biết! Có mười pháp mà Tam-ma-địa này được gọi là tự thuyết. Những gì là mười?
1. Hạnh mới phát khởi, gọi là tự thuyết vì thâm tâm thanh tịnh.
2. Hạnh Bồ-tát, gọi là tự thuyết vì sáu Ba-lamật-đa thanh tịnh.
3. Hạnh hiển bày sự trong sạch, gọi là tự thuyết vì tất cả pháp thiện thanh tịnh.
4. Hạnh tướng hảo viên mãn, gọi là tự thuyết vì phước hạnh vô ngại thanh tịnh.
5. Hạnh đắc biện tài, gọi là tự thuyết vì, nghe theo pháp hành thiện khiến người khác thanh tịnh.
6. Trí niệm định không tán loạn, gọi là tự thuyết vì xa lìa tất cả sự ngăn che thô nặng, phiền não hiện khởi được thanh tịnh.
7. Trí pháp phần Bồ-đề, gọi là tự thuyết vì bất phóng dật thanh tịnh.
8. Trí biểu thị chỉ quán, gọi là tự thuyết vì tâm ý thức thanh tịnh.
9. Trí nơi mười Địa thứ lớp, gọi là tự thuyết vì trong tất cả pháp, kiến lập đối trị siêu vượt chướng ngại, đều được thanh tịnh.
10. Trí trang nghiêm đạo tràng đại Bồ-đề, gọi là tự thuyết vì dứt trừ tất cả pháp bất thiện, tập hợp tất cả pháp thiện thanh tịnh.
Này Hải Ý! Vì đầy đủ mười pháp ấy nên Tamma-địa này gọi là tự thuyết.
Hải Ý nên biết! Lại có hai mươi pháp nên Tamma-địa này gọi là Tịnh ấn. Những gì là hai mươi?
1. Nội tịnh, gọi là tịnh ấn vì ngã thanh tịnh.
2. Ngoại tịnh, gọi là tịnh ấn vì ngã sở thanh tịnh.
3. Thân tịnh, gọi là Tịnh ấn vì tất cả nhận thức đều thanh tịnh.
4. Tất cả pháp vô ngã thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì xưa nay thanh tịnh.
5. Đối với tất cả pháp bình đẳng, hiểu rõ thanh tịnh, gọi là tịnh ấn vì nhất vị thanh tịnh.
6. Không, Vô tướng, Vô nguyện thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì tất cả giải thoát thanh tịnh.
7. Hư không thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì rốt ráo thanh tịnh.
8. Chúng sinh giới, pháp giới thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì xa lìa các sự tạo tác.
9. Chỗ nhận biết hiện tại thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì tự trí thông thanh tịnh.
10. Nhật luân quang minh thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì thường chiếu sáng thanh tịnh.
11. Tri kiến ba đời vô ngại thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì lìa các chướng ngại, thanh tịnh.
12. Môn biểu thị thấu đạt thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì thức trí vô trụ thanh tịnh.
13. Vô vi thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì tự tánh hữu vi thanh tịnh.
14. Hiểu rõ duyên sinh thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì khéo quán pháp duyên sinh.
15. Tùy sức chứng vô sở úy, pháp Phật thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì thật trí thanh tịnh không thể sánh.
16. Hiểu rõ tướng pháp Phật thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì nghiệp trước thanh tịnh.
17. Đại Từ, đại Bi thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì không bỏ chúng sinh khiến họ thanh tịnh.
18. Hàng phục các ma, ngoại đạo khiến họ thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì tất cả việc làm thanh tịnh.
19. Phá trừ tất cả hạt giống tập khí phiền não khiến cho thanh tịnh, gọi là Tịnh ấn vì tự tánh các pháp thanh tịnh.
20. Ở trong một sát-na tâm biết khắp tất cả môn pháp Phật, tùy theo chỗ biết thanh tịnh, gọi là tịnh ấn vì tích tập sự thanh tịnh viên mãn.
Này Hải Ý! Vì đầy đủ hai mươi pháp ấy nên Tam-ma-địa này gọi là Tịnh ấn.
Hải Ý nên biết! Bồ-tát khi ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề mới có thể đạt được Tam-ma-địa này; sau khi đắc Tam-ma-địa ấy, sẽ đạt được tám loại tướng đại thần thông Bất cộng. Những gì là tám?
1. Bỗng nhiên cõi tam thiên đại thiên này, đất đều biến thành kim cang.
2. Tất cả rừng cây, hoa quả cành lá đều rộ nở, nẩy mầm và hướng về cây Bồ-đề, tất cả đều cong mình cúi xuống bày tỏ tướng cung kính.
3. Tất cả chúng sinh, trong khoảng sát-na, không bị tất cả phiền não gây hại.
4. Tất cả địa ngục, cõi ác, chúng sinh đều thấy Bồ-tát ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề; thấy rồi đều được an vui hoàn toàn.
5. Tất cả thế giới, ở trên không đều hiện ra hào quang sắc vàng chiếu sáng rộng khắp.
6. Đại địa chấn động, nhưng trong đó, không có một phần nhỏ chúng sinh nào bị nhiễu hại.
7. Chư Phật Thế Tôn hiện trú thuyết pháp giáo hóa trong mười phương, dùng pháp vô úy thí để an ủi, nói thế này: Thiện nam! Các ngươi rất tốt, rất tốt, là Đạo sư lớn.
8. Trong một sát-na, tất cả pháp Phật đều tập trung hiện ra trước tâm.
Này Hải Ý! Những Bồ-tát ấy đắc Tam-ma-địa Tịnh ấn, sau đạt được tám loại tướng đại thần thông bất cộng như thế rồi, có thể xuất sinh vô lượng việc công đức như vậy, tất cả đều đồng oai lực thần thông của Tam-ma-địa này.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:
Pháp này thiện, tịnh lại sáng trong
Vốn không hòa hợp, ngang hư không
Không trụ, không diệt, không sinh khởi
Ấn ấy tùy thâu vào Phật ấn.
Trụ căn bản kia được Tổng trì
Tu tập lâu dài hành Từ bi
Thế gian cung kính hoặc xem thường
Trong tuệ bình đẳng, không vui, giận.
Trí bình đẳng trụ trong pháp tánh
Không trụ trong si và pháp si
Tuy trụ trong trí tâm vô đắc
Trụ trí bình đẳng thường thanh tịnh.
Trí thường hiểu rõ việc thân làm
Dùng các trí làm lợi thế gian
Chúng sinh nếu thấy thân thanh tịnh
Đắc trí Phật thù thắng lìa cấu.
Oai nghi, giới thiện không tán loạn
Theo việc làm phân biệt hữu, vô
Tội lỗi của thân tuy vô tận
Xưa nay không sinh cũng không mất.
Đạt được thân diệu tướng trang nghiêm
Tay chân mềm mại, phước nghiêm trang
Các thân căn viên mãn thanh tịnh
Không ỷ sắc tướng do trí tạo.
Nếu thấy chúng sinh nghèo hèn khổ
Khiêm hạ cung kính chứ chẳng khinh
Tôn phụng người trì giới biết pháp
Nghe pháp ở họ được Thánh đạo.
Thật biết pháp tánh thân mình, người
Biết thật tánh thân của chúng sinh
Đắc Pháp thân thắng diệu thanh tịnh
Chẳng thọ phần đoạn, thân lìa nhiễm.
Thường thọ thực thiền duyệt trong định
Chẳng dùng đoàn thực, thêm oai quang
Thuận đời thọ thực, chẳng giúp sức
Pháp mạng nuôi dưỡng thành cam lồ.
Thường đạt hạnh Thánh, luôn tĩnh lặng
Giải thoát khối nhiễm tham, sân, si
Âm thầm hộ giới, không thuận nghịch
Thà bỏ thân mình, không tạo tội.
Dùng thần lực thường đến ức cõi
Tùy thân ứng hiện mà thuyết pháp
Thế gian chiêm ngưỡng thân diệu tướng
Họ đều đạt được thân cao đẹp.
Thân phóng quang minh diệu thanh tịnh
Chiếu khắp vô biên các quốc độ
Thắng phước chói sáng, xúc mềm mại
Trừ hết phiền não hại chúng sinh.
Chúng sinh địa ngục thường chịu khổ
Tiếp xúc hào quang được an vui.
Thân ý ung dung, khổ đau ngừng
Do đấy được lìa khổ địa ngục.
Như vậy cùng các thân nghiệp khác
Tùy trí thù diệu thiện vô biên.
Khai mở Phật sự cửa điều phục
Bồ-tát thân nghiệp thanh tịnh ấy.
Ngôn ngữ diệu âm ý sạch vui
Trời người thế gian nghe đều thích.
Pháp đã nói ra đều như thật
Pháp này có thể thành cam lồ.
Ngôn ngữ lỗi lầm và đọa lạc
Phước trí thanh tịnh có thể đoạn.
Ngữ nghiệp và âm thanh chúng sinh
Khiến đồng đẳng khắp đều hoan hỷ.
Chân thật nói bình đẳng tương tục
Lời không đục loạn đều như thật.
Điều nói ra là hạnh thành thật
Trí theo sự thật thành thanh tịnh.
Lời nói ngọt ngào, tham chấm dứt
Gồm lời công đức giải thoát sân
Thâm diệu vô cùng, đoạn trừ si
Ở trong ngàn cõi làm thiện ích.
Nói ra lời này không phân biệt
Chẳng nhờ siêng năng mà giải thoát
Tùy căn chúng sinh, hoan hỷ sinh
Việc làm trí này lời thanh tịnh.
Khéo tu ý nghiệp thường vô chướng
Trong một sát-na, biết khắp đời
Chẳng định khởi diệt, hiện oai nghi
Ma không thể biết ý Bồ-tát.
Thanh văn, Duyên giác, chẳng thể lường
Ý đạo sâu xa của Bồ-tát
Chẳng sinh tâm tổn hại mình, người
Không cao, vô ngại, trí bình đẳng.
Bồ-tát thuận đời, khéo giác ngộ
Không thọ, không nghĩ, không quán sát
Không nhập diệt định, chứng môn lạc
Biện tài vô biên, đủ Tổng trì.
Nghe pháp, việc làm trí thường trụ
Niệm định không loạn trụ bình đẳng
Các chướng thanh tịnh, phiền não dứt
Hoàn toàn không thấy lỗi lầm nhỏ.
Pháp phần Bồ-đề lượng vô biên
Đều gồm thâu hết, lìa phóng dật
Trí thường tùy, trụ trong chỉ quán
Mười địa thứ bậc, nay chứng thành.
Cho đến cây đạo thành quả trí
Nếu đủ mười loại pháp thanh tịnh
Bồ-tát đắc định gọi tự thuyết
Hiện tu các hành tịnh viên mãn.
Tất cả đạo thiện tịnh, thù thắng
Tùy các quả vị, tịnh các độ
Tất cả pháp thiện thật thù thắng
Tướng hảo thượng diệu phước quả tròn.
Ngồi tràng Bồ-đề thiện tột cùng
Pháp nhiễm, oán sâu đều dứt hết
Chứa các pháp thiện bằng Tu-di
Thành tựu tịnh quang bất tư nghì.
Đắc định ấy là đạt phúc đức
Đủ hai mươi pháp là Tịnh ấn
Như mặt trời chiếu sáng thế gian
Chứng đại Bồ-đề thắng trí Phật.
Bồ-tát khi ngồi Đạo thọ rồi
Đắc tướng tám thần thông bất cộng
Ở trong trăm quốc độ của Phật
Thường rộng làm lợi lạc thế gian.
Chư Phật đều đến ban vô úy
Ngợi khen rất dũng mãnh tối thắng
Có thể hàng phục các ma quân
Chứng Bồ-đề thù thắng vô thượng.
Được thân tâm ấy thắng công đức
Quyết định thành tựu Phật ấn này
Nếu muốn tu môn công đức ấy
Với tâm Bồ-đề phải kiên dũng.
Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Vì duyên cớ ấy, nếu Bồ-tát muốn đắc pháp môn Tam-ma-địa Tịnh ấn tự thuyết và tuệ vô cấu tự thuyết thì phải trụ nơi hai loại tâm.
1. Tâm không trược loạn.
2. Tâm không cấu bẩn.
Tâm không trược loạn là tự tánh của tâm thanh tịnh sáng suốt, không chấp chứa khách trần phiền não. Pháp tánh thường trú vốn tự sáng suốt, tất cả sự tác ý không có chỗ tích tập, vì không trần cấu nên lìa tham, vì không phân biệt nên lìa sân, vì vô ngã nên lìa si, hoàn toàn thanh tịnh, rốt ráo không cấu uế, quang minh tự tại. Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo chân như bình đẳng; như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo pháp giới bình đẳng; như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo thật tế bình đẳng; như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo không bình đẳng, vì an trú theo vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sinh, vô khởi bình đẳng; như chỗ giải thoát, pháp hữu vi cũng vậy, vì an trú theo pháp vô vi bình đẳng, tức là pháp bình đẳng tùy trú này không tụ, không tan, chẳng phải là chỗ biết của trí, đây gọi là tâm không trược loạn, tức là dùng pháp này vì chúng sinh và Bổ-đặc-già-la khác mà hiển bày khai thị; đối với pháp tự tha không khởi loạn động, đây tức là tâm không cấu bẩn.
Này Hải Ý! Đầy đủ tâm không trược loạn, tâm không cáu bẩn đó tức là có thể đạt đến môn Tamma-địa Tịnh ấn tự thuyết.
Bấy giờ, Hải Ý Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này hết mực sâu xa.
Phật nói:
–Không đạt đến chỗ tột cùng.
Hải Ý lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này rất khó gặp!
Phật nói:
–Vì lìa hai pháp.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này rất khó hiểu.
Phật nói:
–Vì vô ngã và ngã sở.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này rất khó biết.
Phật nói:
–Vì biết hai pháp thức và trí đều bình đẳng.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này không trược loạn.
Phật nói:
–Vì đắc giải thoát vô ngại.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này rất vi diệu.
Phật nói:
–Vì lìa các ví dụ.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này rất tinh thật.
Phật nói:
–Vì đắc trí kim cang dụ.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này không hư hoại.
Phật nói:
–Vì trước sau không bị phá vỡ.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này không đắm chấp.
Phật nói:
–Vì siêu vượt tất cả tham đắm vướng mắc.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này đắc quang minh lớn.
Phật nói:
–Vì lìa các sự tăm tối.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này rất thanh tịnh.
Phật nói:
–Vì rốt ráo không nhiễm ô.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này bản tánh vô cấu.
Phật nói:
–Vì lìa mọi tham trần.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này không có chốn hành.
Phật nói:
–Vì ba cõi không hành.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này không hý luận.
Phật nói:
–Vì siêu việt hý luận.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này không động.
Phật nói:
–Vì rốt ráo vắng lặng.
Lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này thuận nhập hết thảy xứ.
Phật nói:
–Vì ngang bằng với hư không.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì làm sao có thể phát khởi thắng hạnh? Làm thế nào để đạt được môn Tam-ma-địa Tịnh ấn tự thuyết?
Phật nói:
–Này Hải Ý! Ví như có người muốn đánh nhau với hư không, khi ấy, đối với hư không kia bèn mang giáp mũ. Bồ-tát cũng như thế muốn đắc Tam-ma-địa tịnh ấn tự thuyết thì cần phải trang bị bằng giáp mũ các pháp bình đẳng. Vì sao? Này Hải Ý! Vì hễ có cái diệt liền có cái khởi. Lại nữa, Hải Ý! Chủng tử thức là hữu vi, chủng tử vô biểu là vô vi. Tam-ma-địa này chẳng phải chỗ biết của nhãn thức, chẳng phải chỗ biết của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Tam-ma-địa này không thể biểu hiện, nên biết nó vô tri cũng chẳng phải vô tri. Tam-mađịa này không có tướng biểu hiện, vì đối với tất cả pháp biết rõ bình đẳng, đây gọi là Chánh đẳng Chánh giác. Lại nữa, Hải Ý! Vì ta không thấy có pháp nào là tướng nhiễm nên thành Đẳng chánh giác, cũng chẳng thấy có pháp nào là tướng tịnh nên thành Đẳng chánh giác. Nếu có tướng là nhiễm thì chính tướng ấy là tịnh, chỗ gọi là tướng thì tự tánh thanh tịnh. Nếu là tướng với tự tánh thanh tịnh tức là vô tướng. Nếu là vô tướng tức là tướng vô hành. Nếu là tướng vô hành tức không có một pháp nhỏ nào có thể biểu hiện. Do không biểu hiện nên không biết được tất cả pháp. Nếu pháp không có chủ thể biểu hiện và đối tượng biểu hiện thì như vậy là không có văn tự ghi chép. Nếu không có văn tự ghi chép thì gọi là “như”. Nhưng tại sao gọi là “như”? Đó là đối với sau, trước, giữa cũng thế, tức tất cả pháp ba đời đều không. Sao gọi là không? Đó là vô tác, nghĩa là vô tác này cũng vô tác, cũng chẳng phải vô tác. Vì vậy, đây gọi là không. Nói vô tác, nghĩa là gì? Vô tác là không có các hành hiện tiền tạo tác, vì không có mảy may pháp nào có thể tạo tác, vì vậy đây gọi là vô tác. Còn tại sao gọi là không có hành hiện tiền? Nghĩa là không có hành hiện tiền của thân, hành hiện tiền của miệng và hành hiện tiền của tâm, đây gọi là không có hành hiện tiền. Nếu không có hành hiện tiền tức là vô vi. Nếu là vô vi thì không sinh không diệt, cũng không xứ sở, tức là pháp không sinh không diệt không xứ sở, lại cũng không xứ. Sao gọi là không xứ? Đó là hiện tiền các hành không có trú xứ, vì vậy gọi là không xứ. Vì sao? Nghĩa là thức không ở trong sắc, cũng không ở trong, thọ tưởng, hành. Nếu thức không chỗ trú tức là chánh trí, mà chánh trí ấy tức là trí không lãnh nạp. Nếu trí không lãnh nạp tức là không ý lạc tăng thượng; nếu không ý lạc tăng thượng tức là không tranh luận; nếu không tranh luận tức là không loạn động; nếu không loạn động tức là không bức não; nếu không bức não tức là không thiêu đốt; nếu không thiêu đốt tức được dừng nghỉ; nếu được dừng nghỉ tức là an trú sự vắng lặng cùng khắp; nếu an trú nơi sự vắng lặng cùng khắp tức là an trú gần sự vắng lặng; nếu an trú gần sự vắng lặng thì được gọi là sự vắng lặng lớn. Vì vậy, trước đã nói là trí không lãnh nạp. Đó là lời Phật dạy.
Này Hải Ý! Pháp này sâu xa khó thấy khó hiểu. Nếu có người được nghe pháp như thế mà phát sinh tin hiểu thì người ấy có tất cả pháp điên đảo, phiền não, chấp trước, ràng buộc… đều được giải thoát, tức là có thể nắm giữ tạng pháp của chư Phật, Thế Tôn ở quá khứ, vị lai, hiện tại; làm đại Đạo sư mở bày vô lượng chánh đạo cho tất cả chúng sinh; làm Đại y vương khéo trị lành tất cả bệnh phiền não vô tướng của chúng sinh. Như thế là dùng sự cúng dường to lớn cúng dường khắp Như Lai, chẳng bao lâu sẽ chứng đắc môn Tamma-địa Tịnh ấn tự thuyết, việc làm quyết định; ở trong pháp Đại thừa này có thể khéo tích tập, làm thuyền pháp lớn có thể giúp đưa vô lượng chúng sinh ra khỏi biển sinh tử, làm Đại chánh sĩ hàng phục các ma, vĩnh viễn không rơi vào chốn dụ dẫn của ma.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm thế nào có thể hàng phục tất cả ma oán?
Phật nói:
–Này Hải Ý! Nếu Bồ-tát dùng tâm không tạo tác thì đối với tất cả có thể thâu nhận hết, tức là Bồ-tát ấy có thể hàng phục tất cả ma oán. Lại, nếu Bồ-tát dùng tâm không tạo tác thì ở nơi tất cả tướng của đối tượng duyên kia, có thể phát khởi, tức là Bồ-tát ấy có thể hàng phục tất cả ma oán.
Hải Ý nên biết! Ma có bốn loại. Những gì là bốn?
1. Uẩn ma.
2. Phiền não ma.
3. Tử ma.
4. Thiên ma.
Nếu quán sát kỹ pháp huyễn tức là có thể hàng phục Uẩn ma; nếu an trụ pháp không thì có thể hàng phục Phiền não ma; quán sát kỹ pháp không sinh khởi là có thể hàng phục Tử ma; cùng lúc nương dừng tất cả pháp ý, hướng đến diệt đạo tức có thể hàng phục Thiên ma.
Lại nữa, biết Khổ có thể hàng phục Uẩn ma; đoạn Tập có thể hàng phục Phiền não ma; chứng Diệt có thể hàng phục Tử ma; tu Đạo có thể hàng phục Thiên ma.
Lại nữa, quán sát các hành là khổ, có thể hàng phục Uẩn ma; quán sát các hành là vô thường, có thể hàng phục Phiền não ma; quán sát các pháp là vô ngã có thể hàng phục Tử ma; quán sát Niết-bàn tịch tĩnh có thể hàng phục Thiên ma.
Lại nữa, Bồ-tát bên trong đoạn trừ phiền não cấu bẩn nhưng không quên mất tâm đại Bồ-đề, thực hành bố thí tức là có thể thu phục Uẩn ma; nếu Bồ-tát không tiếc thân mạng cũng không bị ràng buộc, khi hành bố thí xong, có thể hồi hướng về Nhất thiết trí thì có thể thu phục Phiền não ma; nếu Bồ-tát luôn nghĩ, của cải giàu có là vô thường, ta sẽ cùng với tất cả họ sử dụng chung, thành thật với họ, bố thí như thế rồi, có thể hồi hướng về Nhất thiết trí, thì có thể thu phục Tử ma; nếu Bồ-tát ở chỗ tất cả chúng sinh, không bỏ mất tâm đại Bi, dùng trí tuệ giải thoát, thu phục khắp chúng sinh, thực hành bố thí rồi, có thể hồi hướng về Nhất thiết trí, thì như vậy là có thể thu phục Thiên ma.
Lại nữa, này Hải Ý! Nếu Bồ-tát tuy sinh vào các cõi không chỗ mong cầu nhưng khéo giữ gìn giới hạnh thì có thể hàng phục Uẩn ma; nếu ngã kiến không chỗ nương tựa mà khéo giữ gìn giới hạnh thì có thể hàng phục Phiền não ma; nếu dùng tịnh giới khiến các chúng sinh xuất ly sinh tử, tự giữ gìn giới hạnh thì có thể hàng phục Tử ma; nếu khởi niệm này: Ta khiến cho tất cả chúng sinh hủy hoại giới cấm đều được an trú trong tịnh giới của bậc Thánh, tự giữ gìn giới hạnh thì có thể hàng phục Thiên ma.
Lại nữa, Bồ-tát ở nơi “ngã” không chỗ thủ đắc, tu hành nhẫn nhục thì có thể hàng phục Uẩn ma; đối với chúng sinh, không chỗ thủ đắc, tu hành nhẫn nhục thì có thể hàng phục Phiền não ma; đối với sinh tử, không chỗ thủ đắc, tu hành nhẫn nhục thì có thể hàng phục Tử ma; đối với Niết-bàn, không chỗ thủ đắc, tu hành nhẫn nhục thì có thể hàng phục Thiên ma.
Lại nữa, Bồ-tát vì thân tịch tĩnh nên phát khởi tinh tấn, có thể vượt Uẩn ma; vì tâm tịch tĩnh nên phát khởi tinh tấn, có thể vượt Phiền não ma; vì thấu đạt vô sinh, vô khởi nên phát khởi tinh tấn, có thể vượt Tử ma; ở trong sinh tử chưa từng mệt mỏi, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, thâu nhận chánh pháp, phát khởi tinh tấn, có thể vượt Thiên ma.
Lại nữa, Bồ-tát không nương tựa Uẩn mà tu định, có thể vượt Uẩn ma; không nương tựa giới mà tu định, có thể vượt Phiền não ma; không nương tựa xứ mà tu định, có thể vượt Tử ma; đối với các thiền chi khác, tất cả đều hồi hướng đến Bồ-đề thì có thể vượt Thiên ma.
Lại nữa, Bồ-tát có thể dùng chánh tuệ biết rõ các uẩn, thì có thể hàng phục Uẩn ma; khéo biết các giới, có thể hàng phục Phiền não ma; khéo biết các nhập, có thể hàng phục Tử ma; tuy biết rõ duyên sinh nhưng đối với thật tế cũng không thủ chứng, tức có thể hàng phục Thiên ma.
Lại nữa, Bồ-tát hiểu các pháp Không thì Uẩn ma kia không thể thao túng; ý luôn tin các pháp là Vô tướng thì Phiền não ma không thể thao túng; biết tất cả pháp mà Vô nguyện thì Tử ma không thể thao túng; biết tất cả pháp mà không tạo tác, cũng không nghi hoặc, nhưng đối với hạnh lành tâm không nhàm chán thì Thiên ma không thể thao túng.
Lại nữa, Bồ-tát quán niệm xứ thân trong thân mà tu hành, cũng không cùng thân khởi sự tìm cầu thì có thể phá trừ Uẩn ma; theo quán niệm xứ thọ trong thọ mà tu hành, cũng không cùng thọ khởi sự tìm cầu thì có thể phá trừ Phiền não ma; theo quán niệm xứ tâm trong tâm mà tu hành, cũng không cùng tâm khởi sự tìm cầu thì có thể phá trừ Tử ma; tùy quán niệm xứ pháp trong pháp mà tu hành, cũng không cùng pháp khởi tìm cầu, đối với quả Bồ-đề, ý cũng không động thì có thể phá trừ Thiên ma.
Lại nữa, Hải Ý! Nay ông nên biết, các loại ma nghiệp như thế này đều do ngã làm căn bản. Nếu Bồ-tát đối với ngã căn bản mà không khởi tức là đối với ngã là vô ngã. Trong đó không có một pháp nhỏ nào có thể khởi, như thế tức là dùng trí hiện lượng để biết.
Lại nữa, nếu Bồ-tát vì các chúng sinh vô trí kia mà mang giáp Đại thừa thì Bồ-tát cần phải cùng lúc không nương tựa vào mình và người thì mới nên mang áo giáp ấy. Bồ-tát bèn tự tư duy: Ta sẽ làm thế nào để được áo giáp kiên cố bất hoại này. Lại tư duy: Áo giáp mà ta mang không làm hoại ta, cũng không hoại chúng sinh, cũng không hoại các loại thọ nhận, sĩ phu, nuôi dưỡng, Bổ-đặc-giàla, ý sinh… Hoặc nếu nương tựa vào các kiến về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, Bổ-đặc-già-la… tức là có chấp trước. Vì vậy, ta nay bỏ hết các thứ nương tựa. Vậy nương tựa cái gì? Nghĩa là nương tựa điên đảo trong uẩn, xứ, giới. Điên đảo chỗ nào? Vì các chúng sinh ở trong vô thường, tưởng là thường, khổ tưởng là vui, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh. Nếu Bồ-tát có thể biết đúng về các tưởng ấy tức là đáp ứng đúng căn cơ mà thuyết pháp yếu. Thế nào là biết đúng tưởng? Nghĩa là nếu không lãnh thọ, không nắm bắt thì có thể biết đúng. Vì sao? Vì nếu đây không lãnh thọ thì kia không nắm bắt; nếu đây không nắm bắt thì kia không lãnh thọ. Nếu như thế thì không si mê, có thể biết đúng tưởng.
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Làm sao biết tưởng là quá khứ, vị lai và hiện tại?
Phật nói:
–Chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì tưởng quá khứ đã qua, tưởng vị lai chưa đến, tưởng hiện tại không đứng yên. Vì vậy nên biết, tưởng trong ba đời không thể nắm bắt được. Như thế mới có thể biết đúng tưởng. Do biết đúng tưởng nên có thể làm thanh tịnh tất cả hành của đối tượng hành nơi Bồ-tát, lại hiểu rõ các loại hành của tất cả chúng sinh.
Này Hải Ý! Nếu Bồ-tát không thể làm thanh tịnh các hành của Bồ-tát thì không thể biết việc làm của chúng sinh. Lại nữa, nếu có thể biết các việc làm của chúng sinh thì mới có thể làm thanh tịnh các hành của Bồ-tát. Vì hiểu rõ việc làm của chúng sinh như thế nên vì chúng sinh thuyết pháp đúng căn cơ, mới có thể tùy theo tâm của các chúng sinh mà chuyển hóa, chỗ cần thị hiện đều có thể biết hết.
Hải Ý nên biết! Hoặc có chúng sinh hành sân với ý tham, có chúng sinh hành tham với ý sân, có chúng sinh hành sân với ý si, có chúng sinh hành tham với ý si, có chúng sinh hành si với ý tham, có chúng sinh hành si với ý sân, có chúng sinh hành tham với ý sân si, có chúng sinh hành sân với ý si tham. Lại có chúng sinh giả hiện tham mà thủ sân, giả hiện sân mà thủ tham, giả hiện sân mà thủ si, giả hiện si mà thủ sân, giả hiện si mà thủ tham, giả hiện tham mà thủ si, giả hiện tham sân mà thủ si, giả hiện sân si mà thủ tham, giả hiện si tham mà thủ sân. Lại có chúng sinh trước tham sau sân, trước sân sau tham, trước sân sau si, trước si sau sân, trước si sau tham, trước tham sau si, trước tham sân sau si, trước sân si sau tham, trước si tham sau sân, trước si sân sau tham. Lại có chúng sinh đối với sắc khởi tham, đối với thanh khởi sân, đối với thanh khởi tham, đối với sắc khởi sân, đối với hương khởi tham, đối với vị khởi sân, đối với vị khởi tham, đối với hương khởi sân, đối với xúc khởi tham, đối với pháp khởi sân, đối với pháp khởi tham, đối với xúc khởi sân. Lại có chúng sinh do lìa sắc nên được điều phục chứ không do lìa thanh; có chúng sinh lìa thanh nên được điều phục chứ không do lìa sắc; có chúng sinh lìa hương nên được điều phục chứ không do lìa vị; có chúng sinh lìa vị nên được điều phục chứ không do lìa hương; có chúng sinh lìa xúc mà được điều phục chứ không do lìa pháp; có chúng sinh lìa pháp mà được điều phục chứ không do lìa xúc. Lại có chúng sinh do lìa thân mà được điều phục chứ không do lìa tâm, do lìa tâm mà được điều phục chứ không do lìa thân; Lại có chúng sinh cũng do lìa thân, cũng do lìa tâm mà được điều phục; có chúng sinh không do lìa thân, không do lìa tâm mà được điều phục. Lại có chúng sinh do âm thanh vô thường mà được điều phục, chứ không do âm thanh khổ, vô ngã, tịch tĩnh…; có chúng sinh do âm thanh khổ chứ không do âm thanh vô thường, vô ngã, tịch tĩnh; có chúng sinh do âm thanh vô ngã chứ không do âm thanh vô thường, khổ, tịch tĩnh; có chúng sinh do âm thanh tịch tĩnh chứ không do âm thanh vô thường, khổ, vô ngã. Lại có chúng sinh do có thuyết pháp thần biến mà được điều phục, chứ không do giáo giới thần biến; có chúng sinh do giáo giới thần biến mà được điều phục, chứ không do thuyết pháp thần biến; có chúng sinh do thần cảnh thần biến mà được điều phục, chứ không do thuyết pháp giáo giới thần biến. Lại có chúng sinh do thuyết pháp thần biến mà sinh tin hiểu; có chúng sinh do giáo giới thần biến mà được xa trần; có chúng sinh do thần cảnh thần biến mà được giải thoát. Lại có chúng sinh lợi căn siêng tu hành giải thoát độn căn; có chúng sinh độn căn siêng tu hành giải thoát lợi căn; có chúng sinh độn căn siêng tu hành giải thoát độn căn, có chúng sinh lợi căn siêng tu hành giải thoát lợi căn. Lại có chúng sinh do nhân mà được giải thoát chứ không do duyên; có chúng sinh do duyên mà được giải thoát chứ không do nhân; cũng có chúng sinh do nhân cũng do duyên mà được giải thoát; có chúng sinh không do nhân, không do duyên mà được giải thoát. Lại có chúng sinh do quán tội lỗi bên trong mà được giải thoát, chứ không do quán tội lỗi bên ngoài; có chúng sinh do quán tội lỗi bên ngoài mà được giải thoát, chứ không do quán tội lỗi bên trong; có chúng sinh cũng do quán các tội lỗi bên trong cũng do quán tội lỗi bên ngoài mà được giải thoát; có chúng sinh không do quán các tội lỗi bên trong, không do quán tội lỗi bên ngoài mà được giải thoát. Lại có chúng sinh tu lạc mà chứng thành giải thoát chứ không do tu khổ; có chúng sinh do tu khổ, chứ không do tu lạc; có chúng sinh cũng do tu khổ cũng do tu lạc; có chúng sinh không do tu lạc cũng không do tu khổ. Lại có chúng sinh do tướng cảnh phát khởi mà được điều phục, do tướng an chỉ mà được điều phục, do tướng hàng phục mà được điều phục, do tướng khéo thâu nhiếp mà được điều phục; có chúng sinh do tướng thiện mà được điều phục; có chúng sinh do tướng bất thiện mà được điều phục, có chúng sinh do tướng sân mà được điều phục, có chúng sinh do ba tướng mà được điều phục; có chúng sinh do tướng hòa hoãn mà được điều phục; có chúng sinh do pháp duyên sinh mà được điều phục; có chúng sinh do hạnh im lặng mà được giải thoát; có chúng sinh do hạnh sai biệt mà được giải thoát; có chúng sinh do tiếng pháp niệm xứ, có chúng sinh do tiếng chánh đoạn, có chúng sinh do tiếng thần túc; có chúng sinh do tiếng căn, có chúng sinh do tiếng lực, có chúng sinh do tiếng giác chi, có chúng sinh do tiếng chánh đạo, có chúng sinh do tiếng Xama-tha, có chúng sinh do tiếng Tỳ-bát-xá-na, có chúng sinh do tiếng bốn Thánh đế mà được giải thoát.
Này Hải Ý! Những pháp như thế, chẳng thể nghĩ bàn, việc làm của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, tâm ý của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Bồ-tát nhập trí chẳng thể nghĩ bàn, thì khi nhập rồi, liền có thể vào khắp cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chúng sinh.
Này Hải Ý! Ví như có người đi khắp bốn phương dùng dây đan lưới; vì nhân duyên ấy, người đó bỗng nhiên ở trong lưới. Người này muốn thoát ra khỏi lưới đó, khéo dùng sức thần chú, nên sau đó, lưới này bị sức thần chú gia trì nên đều bị đứt hết. Người ấy tùy ý ra khỏi, không vướng mắc. Bồ-tát cũng giống như thế, do đầy đủ phương tiện khéo léo nên vào khắp tất cả tâm ý chúng sinh, vào rồi liền có thể dùng sức minh chú Bát-nhã ba-la-mật-đa dứt hết phiền não buộc ràng của tất cả chúng sinh, nhưng Bồ-tát cũng không chứng Phật trí mà vì khắp tất cả chúng sinh hiện khởi, hành dụng tất cả Phật sự.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử tiến tới trước, thưa với Thế Tôn:
–Hy hữu thay, Thế Tôn! Có vô lượng tâm hành của chúng sinh cho đến trí Phật chẳng thể nghĩ bàn, thật rất kỳ diệu! Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát mới phát tâm, nghe nói vô lượng tâm hành này của chúng sinh và vô lượng trí Phật thì khi nghe rồi có sinh kinh sợ không?
Phật nói:
–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo ý ông thì sao? Ví như sư tử con mới sinh nghe tiếng sư tử gầm có kinh sợ chăng?
Xá-lợi Tử thưa:
–Bạch Thế Tôn! Không!
Phật nói:
–Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát mới phát tâm, cũng giống như thế, nghe Phật Như Lai gầm lên tiếng gầm sư tử rồi, chẳng sinh kinh sợ. Nghe nói vô lượng tâm hành của chúng sinh rồi cũng không kinh sợ. Này Xá-lợi Tử! Lại như một đốm lửa nhỏ không sợ hãi tất cả cỏ cây, lửa cũng không nghĩ: Ta không có năng lực thiêu đốt các cỏ cây. Bồ-tát mới phát tâm cũng giống như thế, ánh sáng trí tuệ tuy rất nhỏ nhưng đối với phiền não của tất cả chúng sinh không sinh sợ hãi. Bồ-tát cũng không nghĩ thế này: Ta không thể dứt phiền não của chúng sinh. Vì sao? Nếu Bồ-tát khởi ý sâu xa kiên cố và dùng tuệ thành tựu mà quán sát như thật thì liền có thể dứt trừ phiền não của chúng sinh.
Này Xá-lợi Tử! Lại như vào thời kỳ kiếp tận, có lửa cùng với tất cả cỏ cây, lùm rừng, hoa quả trên mặt đất hẹn sẽ đánh nhau; đến ngày thứ bảy, sẽ khởi chiến. Khi ấy, cỏ cây trên mặt đất và tất cả cỏ cây khác nhóm họp lại, bàn luận với nhau: “Quý vị có sức mạnh có thể viện trợ cho chúng tôi”. Bấy giờ, các loại cây cỏ dồn chứa lại thành đống cao như núi Tu-di. Có người đến bảo với lửa: “Cỏ cây dồn lại quá nhiều, ngươi chỉ lẻ loi một mình, tại sao ngươi không cầu trợ giúp cho nhiều? Sức của ngươi làm sao có thể địch lại với số đông cỏ cây?” Lửa kia đáp: “Tôi nay không cần cầu ai giúp sức. Vì sao? Vì các cỏ cây tuy nhiều, nhưng sức của tôi có thể địch lại tất cả, làm cho lũ cỏ cây kia đều bị tiêu diệt, không còn gì.” Bồ-tát cũng vậy, tùy theo tất cả phiền não của vô lượng chúng sinh, Bồ-tát tức thời phóng vô lượng lửa trí tuệ, sức lửa ấy sẽ thắng địch. Lại nữa, Bồ-tát phát khởi ý sâu xa kiên cố, ở trong khối phiền não của tất cả chúng sinh, dùng tuệ đã thành tựu mà quán sát như thật, liền có thể dứt trừ phiền não của các chúng sinh. Hoặc nếu Bồ-tát thủ chứng pháp lìa phiền não mà xả phiền não thì liền nhanh chóng rơi vào quả vị Thanh văn, Duyên giác.
Này Xá-lợi Tử! Vì vậy cho nên, ông phải biết, nếu Bồ-tát nào ở trong khối tất cả phiền não mà có thể tác ý sâu xa kiên cố, quán sát như thật thì đối với sức của tất cả các loại phiền não đều có thể thắng phục. Này Xá-lợi Tử! Nếu có người được nghe nói như thế rồi, mà chẳng kinh sợ thì nên biết, đó là Bồ-tát có phương tiện khéo léo.
Này Xá-lợi Tử! Lại như rắn độc khi cắn thì không có bạn giúp sức. Bồ-tát mới phát tâm cũng vậy, khi tu tập pháp phần Bồ-đề, cũng một mình, không có bạn bè giúp sức, chỉ tự tu tập pháp phần Bồ-đề. Lại như lửa đom đóm chẳng thể hơn ánh sáng to lớn của trăm ngàn mặt trời, tất cả phiền não, cũng lại như thế, chẳng thể địch nổi ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát. Lại như loại thuốc trừ độc, hình dạng tuy rất nhỏ nhưng có thể giải trừ sự độc hại to lớn. Bồ-tát cũng vậy, loại thuốc trí tuệ, tuy rất nhỏ nhưng có thể dứt trừ các độc phiền não. Lại như trời mưa, cơn mưa đồng một vị, tùy theo chỗ mưa rơi, đồ chứa có khác nên thành ra các loại mùi vị sai khác. Bồ-tát cũng vậy, tu tập trí Nhất vị giải thoát, tùy theo căn tánh của các loài chúng sinh mà có các loại thuyết pháp khác nhau. Lại như vàng Diêm-phù-đàn xuất hiện trên đời, sáng chói, làm lu mờ các loại châu báu khác. Bồ-tát đại bảo xuất hiện thế gian cũng giống như vậy, sáng chói che mờ tất cả Thanh văn, Duyên giác. Lại như Chuyển luân thánh vương xuất hiện ở thế gian, tất cả tiểu vương đều quy hướng. Bồ-tát là con của đấng Pháp vương, cũng lại như thế, nếu phát tâm đại Bồ-đề, tất cả Trời, Người, A-tu-la… ở trong thế gian, đều đảnh lễ quy hướng. Lại như chúng sinh mỏng phước, tuy gặp được cơn mưa báu nhưng không tiếp nhận được gì. Các loại chúng sinh không trồng thiện căn, cũng giống như vậy, tuy phát tâm Bồ-đề nhưng không thành tựu. Lại như thế gian nếu không có giống mía thì không thể sinh vị ngọt. Bồ-tát cũng vậy, nếu không có hạt giống tâm đại Bồ-đề thì không thể thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Phật bảo:
–Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ví như y vương Kỳ-bà xem khắp tất cả cỏ cây trên mặt đất không có loại nào chẳng phải là thuốc. Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng giống như thế, quán tất cả pháp đều là Bồ-đề.
Xá-lợi Tử! Ví như vua A-tu-la La-hầu tuy có thế lực nhưng đối với mặt trời, mặt trăng không thể làm chướng ngại được. Tất cả chúng ma cũng giống như thế, tuy có thế lực nhưng đối với đạo Bồ-đề chỗ siêng năng tinh tấn tu tập của Bồ-tát thì chúng không thể làm chướng ngại được.
Xá-lợi Tử! Ví như cung điện của các chúng Thiên tử ở cõi Sắc nương vào hư không mà trụ. Các chúng Bồ-tát tu hành hạnh sâu xa cũng lại như thế, giống như hư không, bình đẳng vô ngại, các pháp cũng vậy ngang bằng với hư không, như thế mới đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác.
Xá-lợi Tử! Ví như các đồ dùng ở thế gian, khi đã thành hình rồi thì tùy theo độ lớn nhỏ mà có lượng hư không ở trong ấy, lượng hư không đó không tăng không giảm. Bồ-tát cũng lại như thế, tu các lực thiện đã thành thục rồi, tùy theo độ sâu, cạn mà có thể thọ nhận pháp Phật, pháp Phật ấy không tăng, không giảm.
Xá-lợi Tử! Ví như lực sĩ đem hết sức mình giương cung bắn vào hư không, nhưng chẳng bao giờ tên có thể đến mức tận cùng của hư không. Bồ-tát cũng giống như thế, hết sức tin tưởng, đối với pháp Phật phát sinh tin hiểu, nhưng không thể đạt đến giới hạn cuối cùng của pháp Phật.
Xá-lợi Tử! Ví như ở đời, khi đồ gốm nung chưa chín thì không thể thành đồ gốm hữu dụng. Bồ-tát cũng như thế, khi căn lành Bồ-đề chưa thành thục thì không thể được gọi là Ba-la-mật.
Xá-lợi Tử! Như người được thấy Chuyển luân thánh vương rồi lại không muốn nhìn vua các nước nhỏ. Bồ-tát cũng như thế, được thấy Đại Pháp Vương Như Lai rồi, lại không muốn thấy các Thanh văn, Duyên giác.
Xá-lợi Tử! Ví như nước ở vết chân bò không thể sinh ra tất cả châu báu. Giới Thanh văn cũng giống như thế, không thể sinh ra Phật, Pháp, Tăng bảo.
Xá-lợi Tử! Ví như biển lớn mới có thể sinh ra các châu báu kỳ diệu. Bồ-tát cũng như thế, nghe trong biển giới có thể sinh ra Phật, Pháp, Tăng bảo.
Xá-lợi Tử! Ví như Thái tử mới sinh không gọi là vua mà chẳng phải không gọi là vua. Bồ-tát mới phát tâm cũng giống như thế, không gọi là Phật mà chẳng phải không gọi là Phật.
Xá-lợi Tử! Ví như ngọc báu ma-ni chưa trải qua mài giũa, không ai ưa thích. Bồ-tát mới phát tâm tuy thuyết pháp nhưng chưa được vô úy cũng giống như thế.
Xá-lợi Tử! Như ngọc báu ma-ni đã qua mài giũa, trong suốt sáng chói, ai cũng ưa thích. Bồ-tát tu đủ thắng hạnh cũng giống như thế, đạt được vô úy, khéo nói pháp, tất cả chúng sinh đều ưa thích.
Xá-lợi Tử! Như trong sông hồ sinh loại báu nhỏ, không nên coi thường. Vì sao? Vì báu ấy tuy nhỏ nhưng nếu đem để trong phòng, hoặc để trong tối thì ánh sáng có thể chiếu soi cùng khắp. Bồ-tát mới phát tâm cũng giống như thế, chớ xem thường họ. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy chứng đắc Bồ-đề rồi, có thể phóng hào quang to lớn chiếu soi khắp tất cả cõi Phật.
Xá-lợi Tử! Ví như ngọc báu đại ma-ni vô giá, vô cùng kỳ diệu, lìa mọi trần cấu. Bồ-tát không thoái chuyển cũng giống như thế, lìa tâm kiêu mạn.
Xá-lợi Tử! Ở thế gian, khi lúa chín, bông lúa rủ xuống. Bồ-tát cũng vậy, pháp thiện đã tu được viên mãn rồi, đối các chúng sinh, khiêm hạ không ngại.
Xá-lợi Tử! Ví như thế gian, khi kiếp hỏa bùng phát thì tất cả cỏ cây trên đại địa này bị đốt cháy không còn gì. Bồ-tát cũng giống như thế, nếu lửa trí đốt lên thì tất cả tập khí chủng tử phiền não đều bị đốt cháy tiêu tan; đã diệt hết rồi, sau đó mới chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Lại, Xá-lợi Tử! Ví như có lửa, hoặc nhỏ, hoặc lớn, đốt thiêu tam thiên thế giới, nhưng tánh của hư không vốn tự như thế. Bồ-tát cũng giống như thế, hoặc có Bồ-tát thành Đẳng chánh giác, hoặc không có Bồ-tát thành Đẳng chánh giác thì tự tánh của tất cả pháp cũng như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Các ví dụ mà Như Lai đã nói đó có thể thâu giữ nơi các chúng Bồ-tát. Nếu có Bồ-tát nghe nói như thế rồi, phát sinh sự hiểu biết thù thắng thì tất cả những ví dụ ấy đều được thành tựu.
Khi Phật giảng nói pháp nhận thức và về các lãnh vực như thế, trong chúng hội có hai vạn bốn ngàn người phát tâm Bồ-đề.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:
Quả Bồ-đề tối thượng khó đắc
Thâm diệu vô cấu, vô sở hữu
Người muốn viên mãn quả vị này
Thì chớ nên sinh tâm nghi hoặc.
Trí tuệ tịnh diệu không hư giả
Ánh sáng chân thật chiếu soi khắp
An trú trong diệu ấn vô cấu
Bồ-đề Phật ấy thường quán chiếu.
Tự tánh của tâm tịnh sáng trong
Đời trước đời sau cũng như thế
Khi trong ý nhiễm ô phiền não
Chớ nên lìa xa ý sâu bền.
Không người làm ra, không người thọ
Các pháp tự tại, không chủ tể
Không ngã, nhân nên nói vô ngã
Như không như mộng, không tự tánh.
Thường quán pháp này, chẳng thân nghiệp
Chẳng ngữ, chẳng tâm chỗ phân biệt
Tự tánh vô vi, không tưởng khác
Thí dụ, ngôn từ, không thể nói.
Như hư không, tự tánh thanh tịnh
Chẳng phải sắc tướng, không thể quán
Nhãn, nhĩ, tỷ, thức chẳng biết được
Thiệt thân và ý cũng như vậy.
Xa lìa không tướng, không vô tướng
Không nương, tĩnh lặng, sáng như trăng
Chẳng phải chỗ hành của ý, tâm
Chẳng phải suy lường của thức, tưởng.
Chẳng phải trí nghiệp có thể biết
Thì làm sao thức tâm hiểu được
Do tâm Phật đại Bi vô thượng
Tạm mượn văn tự để thuyết pháp.
Chúng sinh nhờ thắng nghiệp đời trước
Cũng được Thiện tri thức thâu giữ
Nhờ như thế, khi nghe pháp rồi
Được vui vô cùng, không đắm chấp.
Chẳng bị các ma tìm sơ hở
Chẳng thể biết tâm và cảnh giới
Bất cứ làm gì và nghĩ gì
Nghiệp ma ấy chẳng thể hơn được.
Bồ-tát vượt thoát bốn ma rồi
Như lý, như giáo, tu phước tuệ
Khéo an trú cảnh giới chư Phật
Là bậc tu Bồ-đề thù thắng.
Chúng sinh không thể biết việc làm
Của bậc tu Bồ-đề thù thắng
Tạm bày trong nhiều loại pháp môn
Tùy theo từng tướng mà thuyết pháp.
Như vậy các việc làm thế gian
Các duyên nương nhau mà hòa hợp
Đại trí hiểu rõ trong các hành
Tùy chỗ tuyên thuyết không gián đoạn.
Hoặc có chúng sinh nhiều tham nhiễm
Hoặc nhiều sân giận đều biết rõ
Khi thấy phiền não, sân bức bách
Trong tánh si kia sinh tổn hại.
Các hành tướng thế gian như vậy
Bồ-tát tùy rõ có thể vào
Hành tướng sở duyên và duyên thành
Tùy theo tướng ấy mà tuyên thuyết.
Ví như lưới dây bủa giăng khắp
Người đại trí sáng soi biết hết
Có thể phá trừ các lưới rồi
Ra khỏi sở quán không chướng ngại.
Bồ-tát dõng trí cũng như vậy
Có thể vào tâm ý thế gian
Làm cho phiền não thảy tiêu trừ
Nẻo hành cùng khắp, không chướng ngại.
Như ánh mặt trời không cần giúp
Loài rắn độc cũng không bạn hữu
Sư tử gầm vang cũng như vậy
Bồ-tát tu hành không bạn giúp.
Bồ-tát một mình không có hai
Tích tập các pháp Phật tối thượng
Sức mạnh tinh tấn đều tròn đầy
Dẹp trừ các phiền não thế gian.
Ví như có lửa gặp củi khô
Sức cháy tùy chỗ càng thêm mạnh
Trí tuệ Bồ-tát càng thêm sáng
Có thể chiếu, trừ các phiền não.
Bấy gờ, Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:
–Nếu Bồ-tát thường phát khởi tinh tấn, luôn nỗ lực giữ vững lòng mong muốn với chỗ khởi tinh tấn ấy không hề ngừng nghỉ thì Bồ-tát ấy chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột không khó. Vì sao? Này Hải Ý! Vì do tinh tấn mới đắc Bồ-đề. Nếu người lười biếng đối với quả vị Bồ-đề đã xa lại càng xa hơn. Người không lười biếng thường hành bố thí; người không lười biếng thường trì giới; người không lười biếng thường khởi tinh tấn; người không lười biếng thường tu thiền định; người không lười biếng thường tập trí tuệ; người không lười biếng thường hành tự lợi; người không lười biếng thường hành lợi tha. Vì duyên cớ ấy, ông nay nên biết, nếu Bồ-tát thường phát khởi tinh tấn thì Bồ-tát ấy mới đắc quả vị giác ngộ cao tột không khó.
Này Hải Ý! Ta nhớ nghĩ trong đời quá khứ, từ vô số kiếp về trước, khi ấy, có Phật xuất hiện thế gian, hiệu là Dũng Mãnh Tinh Tấn gồm đủ tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật Thế Tôn; thế giới tên là Thiện kiến, kiếp ấy tên là Hoa tích. Vì sao kiếp ấy tên là Hoa tích? Này Hải Ý! Khi ấy tại tam thiên đại thiên thế giới, nước lớn tràn ngập; trong nước lại xuất hiện tám vạn bốn ngàn hoa sen to lớn; hoa ấy có vô số ức trăm ngàn cánh đẹp đẽ khả ái, người xem đều vui thích. Bấy giờ, chúng trời Tịnh cư thấy hoa sen ấy rồi, đều sinh hoan hỷ mừng, tâm ý ưa thích đều nói thế này: “Nếu loại hoa sen to lớn ấy xuất hiện thì nhất định sẽ có bậc Chánh đẳng Chánh giác xuất hiện trong kiếp này, kiếp này không trống vắng. Có Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời giống như chất chứa bông hoa, vì vậy kiếp này gọi là Hoa tích. Lại do duyên gì mà thế giới kia gọi là Thiện kiến? Vì thế giới ấy rất đẹp đẽ, thanh tịnh, vô lượng vô số chúng Bồ-tát ở trong tất cả các cõi Phật khắp mười phương đều cùng đi đến thế giới ấy để chiêm ngưỡng. Khi đang chiêm ngưỡng, tất cả đại chúng ở thế giới ấy đều đắc Tam-ma-địa Hỷ tướng; tất cả đều đầy đủ niềm vui vi diệu, vì cảnh quan của thế giới ấy hoàn toàn đẹp đẽ cho nên gọi là Thiện kiến.
Này Hải Ý! Thế giới Thiện kiến này do bảy báu tạo thành, có các cây báu và các lầu gác báu; ánh sáng của các loại báu ấy chiếu tỏa cùng khắp. Thế giới ấy không có người nữ, không có việc thụ thai, mà hóa sinh từ hoa sen, ngồi kiết già. Thế giới đó không có thừa nào khác, các người tu hành chỉ trụ nơi Đại thừa. Sự thọ dụng của nhân chúng ở cõi này giống như trời Đâu-suất, người muốn ăn uống thì đều được như ý, lại được thần thông diệu dụng, có thể đi trên hư không. Họ tinh tấn dũng mãnh ở trong pháp của Như Lai. Có hai mươi sáu ức Bồ-tát xuất gia đủ Bồ-tát đạo nhập chúng Bồtát. Lại có vô lượng chúng tại gia tu hạnh Đại thừa. Khi ấy, vị Phật đó vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp siêng năng tinh tấn. Phật dạy: “Này các Đại sĩ! Nên siêng năng tinh tấn, luôn luôn kiên cố, hết sức chuyên cần, thiết tha mong muốn, không hề ngừng nghỉ.”
Này Hải Ý! Ở trong pháp hội của vị Phật đó, có một Bồ-tát tên là Kiên Cố Khải, từ chỗ ngồi đứng dậy, thưa với Phật đó: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát thường phát tinh tấn? Lại dùng pháp gì để giáo thọ các chúng Bồ-tát?”
Khi ấy, Như Lai Dũng Mãnh Tinh Tấn bảo với Bồ-tát Kiên Cố Khải: “Này thiện nam! Tinh tấn có bốn việc, có thể gồm thâu hết tất cả pháp thiện.
Những gì là bốn?
1. Phát khởi.
2. Siêng làm.
3. Quán sát.
4. Tu hành.
Bốn việc như thế có thể gồm thâu hết tất cả pháp thiện. Thế nào gọi là phát khởi? Thế nào là siêng làm? Thế nào là quán sát? Thế nào là tu hành? Này thiện nam! Phát khởi là phát tâm đại Bồ-đề; siêng làm là tích tập tất cả thiện căn rộng khắp; quán sát là đối với tất cả chúng sinh làm việc lợi ích; tu hành là tu theo bất kỳ pháp nào đều trụ nơi nhẫn. Phát khởi là siêng cầu đa văn; siêng làm là nói được như đã nghe; quán sát là tác ý sâu bền; tu hành là khởi chánh kiến bậc Thánh. Phát khởi là đình chỉ tâm xan; siêng làm là xả bỏ sở hữu; quán sát là có việc tốt đẹp lợi ích đều chia sẻ cho tất cả chúng sinh, hồi hướng Bồ-đề; tu hành là không cầu quả báo. Phát khởi là làm chấn động âm thanh xả bỏ; siêng làm là đối với người đến cầu xin, khởi tưởng như Thiện tri thức; quán sát là đối với những cái đang thọ dụng, quán là vô thường; tu hành là cho rồi không tiếc. Phát khởi là y pháp mà cầu các thứ vật dụng; siêng làm là tự nuôi dưỡng thân mạng bằng việc làm trong sạch; quán sát là thực hành bố thí chân thật; tu hành là khi bố thí không khởi phân biệt. Phát khởi là tẩy sạch sự cấu bẩn về giới; siêng làm là giới cấm không khuyết; quán sát là ngăn chặn chúng sinh phá giới; tu hành là tuy đủ giới đức nhưng không khởi phân biệt. Phát khởi là thân nghiệp thanh tịnh; siêng làm là ngữ nghiệp thanh tịnh; quán sát là tâm nghiệp thanh tịnh; tu hành là các pháp thanh tịnh. Phát khởi là không chất chứa tâm sân giận; siêng làm là phát khởi sức nhẫn; quán sát là bảo hộ mình, người; tu hành là tuy trụ nơi nhẫn nhục nhưng không khởi phân biệt. Phát khởi là người có sân giận đều khiến hoan hỷ, lại được thanh tịnh; siêng làm là khiến các người sân giận hoan hỷ, hòa hợp; quán sát là nội tâm trong mát không có phiền muộn; tu hành là mình, người đều vô sở đắc. Phát khởi là trừ bỏ lười biếng; siêng làm là ở nơi sức tinh tấn khéo chọn lựa; quán sát là cứu hộ các chúng sinh lười biếng; tu hành là tu theo pháp gì cũng trụ nơi nhẫn. Phát khởi là tích tập pháp thiện; siêng làm là thành tựu pháp thiện; quán sát là không thích thừa khác; tu hành là không hoại các nghiệp. Phát khởi là niệm; siêng làm là hành; quán sát là tuệ; tu hành là trụ. Phát khởi là lý; siêng làm là giáo; quán sát là cửa ngõ; tu hành là đạo xuất ly. Phát khởi là tích tập văn tự; siêng làm là văn nghĩa, Tổng trì; quán sát là hoặc thanh, hoặc văn đều không đắm chấp; tu hành là hiểu rõ các pháp đều bất khả thuyết. Phát khởi là gần gũi bạn lành; siêng làm là xa lìa bạn ác; quán sát là đối với bạn lành, bạn ác đều khởi tâm bình đẳng; tu hành là luôn nhớ hành trì đúng như lời nói. Phát khởi là khởi tâm xuất gia; siêng làm là đối với điều ưa thích hoặc không ưa thích đều quán bình đẳng; quán sát là đối với bất cứ điều thiện nào đều ưa mong cầu; tu hành là đắc trí hiện lượng. Phát khởi là ưa ở chỗ trống vắng; siêng làm là xa lìa nơi ồn ào; quán sát là ưa ở chỗ thanh tịnh; tu hành là tu hạnh tịch tĩnh. Phát khởi là ít ham muốn; siêng làm là biết đủ; quán sát là được niềm vui vi diệu; tu hành là biết thích nghi. Phát khởi là tu giới học tăng thượng; siêng làm là việc tu hành không tạp; quán sát là tu tâm học tăng thượng; tu hành là tu tuệ học tăng thượng. Phát khởi là Bố thí; siêng làm là Ái ngữ; quán sát là Lợi hành; tu hành là Đồng sự. Phát khởi là đại Từ; siêng làm là đại Bi; quán sát là đại Hỷ; tu hành là đại Xả. Phát khởi là cõi nước thanh tịnh; siêng làm là tướng hảo viên mãn; quán sát là hộ trì chánh pháp; tu hành là cứu độ chúng sinh. Phát khởi là hiểu rõ Uẩn ma; siêng làm là vượt Phiền não ma; quán sát là xa lìa Tử ma; tu hành là bẻ dẹp Thiên ma. Phát khởi là biết khổ; siêng làm là đoạn tập; quán sát là tu đạo; tu hành là chứng diệt. Phát khởi là tu quán niệm thân; siêng làm là tu quán niệm thọ; quán sát là tu quán niệm tâm; tu hành là tu quán niệm pháp. Phát khởi là niềm tin; siêng làm là tinh tấn; quán sát là niệm định; tu hành là tuệ. Phát khởi là ngăn ngừa, dứt bỏ pháp bất thiện; siêng làm là làm sinh khởi và viên mãn tất cả pháp thiện; quán sát là hoặc thân hoặc tâm nhẹ nhàng tự tại; tu hành là đạt được thần túc vô gia hạnh. Phát khởi là tu bảy Giác phần; siêng làm là hành tám Chánh đạo; quán sát là tu tập chỉ quán; tu hành là đắc minh giải thoát. Lại nữa, phát khởi là phát khởi các hạnh; siêng làm là biểu thị hạnh trong sạch; quán sát là tâm được khinh an; tu hành là trí tướng cảnh giới không chuyển.”
Lại nữa, Hải Ý! Đức Như Lai Dũng Mãnh Tinh Tấn đó bảo với Bồ-tát Kiên Cố Khải: “Thiện nam! Do tinh tấn nên thân tâm nhẹ nhàng, tức là tinh tấn này hoặc nhân, hoặc kiến đều xa lìa. Lại nữa, tinh tấn này có thể biết danh sắc; tinh tấn này có thể diệt ngã và sở kiến của ngã; tinh tấn này có thể cởi bỏ sự buộc ràng của thủ; tinh tấn này có thể trừ năm cái và tất cả phiền não hiện khởi; tinh tấn này có thể dứt việc làm ác và nghi hoặc; tinh tấn này phá các bệnh trói buộc; tinh tấn này có thể nỗ lực đoạn trừ các chướng; tinh tấn này xa lìa tăng thượng mạn; tinh tấn này siêu vượt tất cả chỗ nương tựa, chỗ vướng mắc; tinh tấn này lìa các mừng, giận; tinh tấn này đối với vô minh, hữu, ái đều không nhiễm vướng; tinh tấn này đối với pháp tham sân đều không làm; tinh tấn này thường quán sát pháp si; tinh tấn này biết mười hai pháp xứ trong ngoài; tinh tấn này hiểu rõ năm uẩn và mười tám giới xưa nay bất sinh; tinh tấn này tâm trụ tịch tĩnh, biến tịnh, cận tịnh; tinh tấn này biết chắc các pháp đều chẳng thể nắm bắt được; tinh tấn này đối với tất cả pháp, không chấp thủ hai tướng; tinh tấn này biết rõ pháp tánh xưa nay thường trụ; tinh tấn này biết tất cả pháp không đến không đi; tinh tấn này biết tất cả pháp không thủ không xả; tinh tấn này biết tất cả pháp không tạo tác, không ngừng nghỉ; tinh tấn này biết tất cả pháp không cao, không thấp; tinh tấn này biết tất cả pháp không xuất, không nhập; tinh tấn này biết tất cả pháp không trói, không mở; tinh tấn này biết tất cả pháp không siêng, không lười; tinh tấn này biết tất cả pháp không phóng túng, không không phóng túng; tinh tấn này biết tất cả pháp không chủ thể tạo tác, không đối tượng tạo tác; tinh tấn này biết tất cả pháp không quán, không không quán; tinh tấn này biết tất cả pháp không chấm dứt, không bừng phát; tinh tấn này biết tất cả pháp không được bảo hộ, không không bảo hộ; tinh tấn này biết tất cả pháp không tụ, không tan.”
Này Hải Ý! Lúc Như Lai Dũng Mãnh Tinh Tấn đó vì các Bồ-tát nói pháp siêng năng tinh tấn như thế, trong chúng hội có một vạn người đắc pháp Nhẫn vô sinh. Bồ-tát Kiên Cố Khải ở chỗ Phật đó được nghe pháp tinh tấn như thế rồi, lại phát khởi tinh tấn, dốc cầu pháp thiện. Tinh tấn như thế, thường không dừng nghỉ, trải qua hàng ức năm; quá số ấy rồi, sau mới đắc nhẫn nhu thuận. Tinh tấn cần cầu pháp thiện như thế, trải qua thời gian như thế họ liền tịch diệt; diệt rồi trở lại trước Như Lai ấy hóa sinh và nghe thọ chánh pháp được tuyên thuyết ở hội Đại tập, lại tinh tấn cần cầu pháp thiện.
Này Hải Ý! Bồ-tát Kiên Cố Khải vì duyên cớ ấy, trải qua thời gian như thế gần gũi cùng khắp tám vạn bốn ngàn Phật, ở trong kiếp Hoa tích, phát khởi tinh tấn, siêng cầu pháp thiện; trải qua thời gian như thế siêng năng tu hành tất cả pháp.
Này Hải Ý! Ông nay chớ sinh niệm nghi ngờ. Bồ-tát Kiên Cố Khải bấy giờ đâu phải người nào xa lạ, chính là thân ta. Xưa kia, ta từng trải qua nhiều phần vị Bồ-tát, từ bỏ sinh tử, siêng cầu Bồđề cho đến nay ta được thành Chánh giác. Hạnh lớn tinh tấn, trải qua gian khổ dạn dày, lẽ nào hạng chúng sinh lười biếng trong thế gian khởi tinh tấn yếu kém mà có thể đạt được quả vị Bồ-đề?
Này Hải Ý! Nếu các chúng sinh ở trong pháp của ta luôn phát khởi tinh tấn thì liền được thanh tịnh chứ chẳng phải lười biếng mà được thành tựu. Vì duyên cớ ấy, nay ngươi nên biết, những người tinh tấn, không buông thả thì đắc Bồ-đề.
Ngay khi Phật giảng nói pháp tinh tấn đã hành trong quá khứ như thế, trong pháp hội có năm ngàn Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh, bảy ngàn thiên nhân phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:
Ta nhớ quá khứ Phật xuất thế
Hiệu ngài là Dũng Mãnh Tinh Tấn
Kiếp tên Hoa tích cần quán biết
Thế giới tối thượng tên Thiện kiến.
Bốn vạn tám ngàn hoa sen hiện
Có Phật ra đời trong kiếp ấy
Thế giới giống như trời Đâu-suất
Nhu cầu, ăn uống đều như ý.
Không có người nữ, không mang thai
Chúng sinh hóa sinh đều đẹp đẽ
Cũng lại chẳng tu thừa nào khác
Bồ-tát đều trụ pháp Đại thừa.
Chúng Bồ-tát từ mười phương đến
Ở thế giới ấy khéo quán biết
Đều đạt môn diệu định hỷ tướng
Thọ hưởng pháp lạc chưa từng có.
Có hai sáu câu-chi Bồ-tát
Là chúng trang nghiêm Đấng Lưỡng Túc
Có số trời, người nhiều hơn vậy
Đều an trú Phật thừa tối thượng.
Trí Đức Phật ấy rộng như biển
Luôn luôn tuyên thuyết môn tinh tấn
Có Bồ-tát tên Kiên Cố Khải
Mở lời thưa hỏi Phật nghĩa này.
Nếu muốn an trú lực tinh tấn
Bồ-tát tu tinh tấn thế nào
Xin Phật vì con nói nghĩa này
Trụ trong pháp ấy con tu hành.
Đại Pháp chủ kia biết ý rồi
Về họ khuyến phát đức tinh tấn
Khởi siêng năng làm hạnh tương ưng
Thường trụ chỗ quán sát tu hành.
Phát khởi nghĩa là tâm Bồ-đề
Siêng làm là thành tựu pháp thiện
Quán sát là lợi ích chúng sinh
Tu hành là pháp nào cũng nhẫn.
Phát khởi là cung kính nghe nhận
Siêng làm là tuyên nói sáng tỏ
Quán sát là tác ý sâu bền
Tu hành là khởi chánh kiến Thánh.
Phát khởi là tẩy trừ xan cấu
Siêng làm là xả bỏ sở hữu
Đủ tâm Bồ-đề là quán sát
Tu hành là làm không cầu báo.
Phát khởi là làm vang hạnh xả
Thương người hành khất là siêng làm
Quán sát quán thọ dụng vô thường
Tu hành là cho rồi không tiếc
Nương pháp làm theo là phát khởi
Lương thiện tự sống là siêng làm.
Chân thật bố thí là quán sát
Tu hành bố thí không phân biệt
Phát khởi phá trừ bẩn phá giới
Giới cấm không khuyết là siêng làm.
Quán sát hộ trì người phá giới
Tu hành trọn giới không phân biệt
Phát khởi là thân nghiệp thanh tịnh
Siêng làm là ngữ nghiệp thanh tịnh.
Quán sát là tâm nghiệp thanh tịnh
Tu hành là các pháp thanh tịnh
Không nuôi dưỡng sân là phát khởi
Sức nhẫn hiện hành là siêng làm.
Giữ gìn tự, tha là quán sát
Nhẫn không phân biệt là tu hành
Phát khởi là làm sạch người sân
Siêng làm là không xa lìa họ.
Quán sát là nội tâm thanh tịnh
Tu hành mình, người vô sở đắc
Dứt cấu, lười biếng là phát khởi
Chọn sức tinh tấn là siêng làm.
Giúp người lười biếng là quán sát
Tu hành là tùy pháp trụ nhẫn
Phát khởi là chứa nhóm pháp lành
Siêng làm là thành tựu pháp thiện.
Quán sát là không ưa thừa khác
Tu hành là không hoại nghiệp báo
Hiểu rõ chánh niệm là phát khởi
Ngộ nhập pháp hành là siêng làm.
Khéo hộ chánh tuệ là quán sát
An trú bền chắc là tu hành
Phát khởi: Sửa đổi, siêng làm: Dạy
Quán sát là các pháp môn ấy
Tu hành là biết đạo xuất ly
Phương tiện thiện quyền phát tinh tấn
Phát khởi nghĩa là văn Tổng trì
Siêng làm là khéo tuyên thuyết nghĩa
Không chấp âm thanh là quán sát
Tu hành hiểu pháp bất khả thuyết.
Gần gũi thiện hữu là phát khởi
Xa lìa bạn ác là siêng làm
Quán tánh thiện ác là quán sát
Trì niệm các pháp là tu hành.
Xuất gia trong pháp là phát khởi
Bỏ ái, phi ái là siêng làm
Mong cầu pháp thiện là quán sát
Nơi pháp không chướng là tu hành.
Phát khởi là thích ở đồng vắng
Siêng làm là xa chốn ồn ào
Quán sát là ưa ở tĩnh lặng
Tu hành là tu hạnh tịch tĩnh.
Thiểu dục khéo nói là phát khởi
Hoan hỷ biết phận là siêng làm
Thọ được diệu lạc là quán sát
Biết chỗ ứng lượng là tu hành.
Phát khởi là giới học tăng thượng
Siêng làm là việc tu không tạp
Quán sát là tâm học tăng thượng
Tu hành là tuệ học tăng thượng.
Bố thí trì giới là phát khởi
Nhẫn nhục tinh tấn là siêng làm
Thiền định trí tuệ là quán sát
Khởi trí phương tiện là tu hành.
Bố thí tài pháp là phát khởi
Ái ngữ có nghĩa là siêng làm
Lợi hành có nghĩa là quán sát
Đồng sự là chân thật tu hành.
Phát khởi là viên mãn đại Từ
Siêng làm là đầy đủ đại Bi
Quán sát là với pháp đại Hỷ
Tu hành tức là trí đại Xả.
Phát khởi là làm sạch cõi Phật
Siêng làm là viên mãn tướng tốt
Quán sát là hộ trì chánh pháp
Tu hành là độ thoát chúng sinh.
Không chấp Uẩn ma là phát khởi
Thoát Phiền não ma là siêng làm
Thu phục Tử ma là quán sát
Dẹp trừ Thiên ma là tu hành.
Hiểu rõ khổ quả là phát khởi
Không tham ái dục là siêng làm
Tu đạo tức là cửa quán sát
Trụ trí tịch diệt là tu hành.
Phát khởi là lìa Thân niệm xứ
Siêng làm là quán Thọ niệm xứ
Quán sát là quán Tâm niệm xứ
Tu hành là quán Pháp niệm xứ.
Phát khởi nghĩa là tín căn lực
Siêng làm nghĩa là tấn căn lực
Quán sát là niệm định căn lực
Tu hành tức là tuệ căn lực.
Phòng trừ bất thiện là phát khởi
Không hoại pháp thiện là siêng làm
Thân tâm nhẹ nhàng là quán sát
Tu hành trí khởi bốn Thần túc.
Phát khởi là tu bảy Giác phần
Siêng làm là hành tám Chánh đạo
Quán sát là tu tập chỉ, quán
Tu hành là giải thoát chân thật.
Phát khởi siêng làm khởi các hành
Tâm được nhẹ nhàng là quán sát
Trong cảnh giới các tướng không chuyển
Đấy gọi là tu hành an trú.
Hoặc thân hoặc tâm được khinh an
Nơi kiến nơi nhân phải xuất ly
Trong ấy nếu hiểu rõ danh sắc
Chư Thánh khen ngợi là tinh tấn.
Nếu diệt được ngã và ngã sở
Là cởi bỏ tất cả trói buộc
Năm cái hiện rõ đều dứt sạch
Ác tác, nghi hoặc đều đoạn diệt.
Có thể phá các bệnh kết sử
Sức ấy trừ chướng, hết ngăn che
Mạn và quá mạn dứt trừ hết
Việc này đều do sức tinh tấn.
Trừ bỏ tất cả tướng các cõi
Ngừng nghỉ tất cả các hý luận
Đoạn diệt tất cả nhân phiền não
Người trí ngợi khen tinh tấn này.
Nghe xong công đức tinh tấn rồi
Ngợi khen dũng mãnh cùng tinh tấn
Mười ngàn Bồ-tát ở trong hội
Đều đạt được pháp Nhẫn vô sinh.
Như Lai Thích-ca trong hội này
Vì các Bồ-tát rộng tuyên thuyết
Nghe nói tinh tấn trước khi hành
Năm ngàn Bồ-tát nhẫn thanh tịnh.
Lại có thiên nhân A-tu-la
Và Khẩn-na-la, các hội chúng
Bấy giờ trong hội có trăm ngàn
Phát tâm Bồ-đề, khéo an trú.
Xưa ta tên là Kiên Cố Khải
Đắc quả Bồ-tát nhẫn tối thượng
Xả bỏ thân mạng tinh tấn tu
Qua thời gian dài không biếng trễ.
Gần gũi tám vạn bốn ngàn Phật
Xả bỏ thân mình để phụng sự
Hầu hạ chư Phật trong một kiếp
Trải qua vô số địa Bồ-tát.
Bấy giờ, Đại phạm Thiên vương Đại Bi Tư Duy thưa với Bồ-tát Hải Ý:
–Thưa Đại sĩ! Pháp Phật có những ý nghĩa gì? Bồ-tát Hải Ý đáp:
–Này Đại phạm! Ở đây nói pháp Phật tức là nghĩa của tất cả pháp. Vì sao? Vì Như Lai không tướng phân biệt, như thật chứng đắc Bồ-đề. Tướng vô phân biệt tức là tướng bình đẳng của tất cả pháp. Như Lai ở trong đó như thật chứng đắc Bồđề.
Này Đại phạm! Nếu hiểu rõ tất cả pháp bình đẳng tức là Bồ-đề nên ở đây nói tất cả pháp tức là pháp Phật. Nếu tất cả pháp như thế tức là pháp Phật thì tự tánh của tất cả pháp cũng như thế, đó là tự tánh pháp Phật. Vì lìa tất cả pháp nên biết pháp Phật cũng lìa; vì tất cả pháp không, nên biết pháp Phật cũng không.
Này Đại phạm! Tất cả pháp là duyên sinh. Nếu có thể hiểu rõ các pháp duyên sinh tức là Bồ-đề. Như Đức Như Lai đối với tất cả pháp thấy như thế nên đối với pháp Phật cũng thấy như thế.
Phạm thiên thưa:
–Thưa Đại sĩ! Há chẳng phải pháp Phật vượt trên ba cõi sao?
Bồ-tát đáp:
–Này Đại phạm! Tự tánh của ba cõi tức là pháp Phật. Vì sao? Này Đại phạm! Vì trong tướng bình đẳng của pháp Phật không có cao thấp, giống như hư không, cũng không cao thấp. Pháp Phật cũng như vậy, giống như hư không không cao không thấp. Này Đại phạm! Tất cả pháp cũng vậy, tự tánh không bình đẳng không cao không thấp. Này Đại phạm! Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn biết pháp Phật thì nên nhận biết như thế, nhưng đối với cái biết đó chỉ là phương tiện, không nên chấp trước.
Lại nữa, Đại phạm! Pháp Phật không phương hướng, không xứ sở, không sinh, không diệt, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, nên không có sắc hiển hiện, chẳng có hình tướng nên không sắc hình; vì không hình hiển sắc nên vô tướng. Này Đại phạm! Nghĩa vô tướng tức là nghĩa pháp Phật; nghĩa pháp Phật thì không rơi vào cú nghĩa; không rơi vào cú nghĩa tức là nghĩa vắng lặng; nghĩa vắng lặng tức là nghĩa ly; nghĩa ly tức là nghĩa không; nghĩa không tức là nghĩa không ràng buộc; nghĩa không ràng buộc tức là nghĩa thật tánh; nghĩa thật tánh tức là nghĩa chân như; nghĩa chân như tức là nghĩa cứu cánh bất sinh; nghĩa bất sinh tức là nghĩa bất diệt; nghĩa bất diệt tức là nghĩa không trụ xứ.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý lặp lại bằng bài tụng:
Nói là nghĩa vô tướng
Là nghĩa thắng pháp Phật
Nói nghĩa pháp Phật ấy
Không rơi vào cú nghĩa.
Không rơi nghĩa tịch tĩnh
Tịch tĩnh là nghĩa ly
Nghĩa ly tức nghĩa không
Nghĩa không là không chấp.
Không chấp là thật tánh
Thật tánh là chân như
Chân như tức cứu cánh
Nghĩa bất sinh bất diệt.
Bất diệt nghĩa vô xứ
Nghĩa pháp trụ như thế
Như chỗ trụ pháp giới
Các pháp trụ cũng vậy.
Như chỗ các pháp trụ
Pháp Phật trụ cũng vậy
Như chỗ không pháp trụ
Pháp sinh diệt cũng vậy.
Không chấp nghĩa các pháp
Trụ chân như không khác
Pháp Thanh văn, Duyên giác
Cũng tùy trú bình đẳng.
Trú pháp chỗ như vậy
Pháp Phật mầu vô thượng
Không phương hướng xứ sở
Nên an trú pháp Phật.
Chớ ở trong sinh diệt
Tùy quán các pháp Phật
Chẳng chẳng hiện hình sắc
Không pháp nhỏ khả đắc.
Không hình cũng không tướng
Mà sáng tỏ pháp Phật
Như tự tánh các pháp
Pháp Phật cũng như thế.
Nói về bình đẳng này
Không tướng, không sai biệt
Cầu pháp Phật như thế
Cầu các pháp cũng vậy.
Nếu pháp không sở đắc
Tức là không phân biệt
Phật và pháp chư Phật
Tất cả pháp đều vậy.
Đại Tiên ở đạo tràng
Đắc chánh pháp bình đẳng
Phật và pháp chư Phật
Ở đạo tràng quán sát.
Nói về pháp Phật ấy
Bình đẳng nên thường còn
Bình đẳng không cao thấp
Như hư không thanh tịnh.
Như Phật và trí Phật
Phật kia nói thế này
Các pháp do duyên sinh
Tự tánh không sở hữu.
Nếu tự tánh không có
Không pháp nhỏ nào sinh
Thật tế nếu biết vậy
Thế gian không biên vực.
Trong giới hạn khởi trí
Tùy chuyển tất cả pháp
Gọi là pháp quá khứ
Và pháp vị lai kia.
Đều là pháp hiện tại
Đó là pháp chư Phật.
Như vậy trong ba thời
Trí Phật không chấp trước.
Do trí không chấp trước
Nên Mâu-ni nói pháp.
Gọi là mười Lực Phật
Và bốn Vô sở úy.
Mười tám pháp Bất cộng
Pháp công đức của Phật
Trong đó gồm thâu hết
Tất cả pháp hiện hữu.
Tất cả pháp như thế
Tức là các pháp Phật.
Đại phạm Thiên vương Đại Bi Tư Duy lại thưa với Bồ-tát Hải Ý:
–Thưa Đại sĩ! Đối với pháp như thế, Đại sĩ làm sao thấy được?
Bồ-tát đáp:
–Này Đại phạm! Pháp Phật có rơi vào sắc chăng?
Phạm thiên đáp:
–Không!
Bồ-tát nói:
–Nếu pháp chẳng phải sắc thì chẳng thể thấy. Nếu không đối ngại tức là không hiện rõ thì làm sao có cái thấy ở trong đó?
Phạm thiên thưa:
–Không, thưa Đại Bồ-tát!
Bồ-tát Hải Ý nói:
–Này Đại phạm! Nếu pháp Phật không thể thấy thì tất cả pháp cũng vậy. Vì sao? Vì pháp vốn không hai. Pháp không hai này tức là tất cả pháp. Này Đại phạm! Nếu pháp có thể thấy được tức pháp ấy có tướng. Nghĩa là dùng sự không phân biệt để có thể thấy pháp Phật không phân biệt. Nếu thấy đúng như thế thì đó chính là pháp Phật. Nếu thấy pháp Phật như thế thì đó là thấy đúng.
Phạm thiên thưa:
–Thưa Đại Bồ-tát! Nếu như thế thì đối với tất cả pháp, Như Lai không thấy?
Bồ-tát đáp:
–Nếu Như Lai đối với pháp Phật có cái để thấy tức là Như Lai và các pháp Phật thật có định tính có thể nắm bắt.
Đại Phạm thưa:
–Thưa Bồ-tát! Nếu đúng như vậy thì pháp Phật không có sao?
Bồ-tát đáp:
–Này Đại phạm! Nếu pháp không có tánh cố định chân thật thì trong đó, có hay không đều bất khả thuyết. Nếu pháp chẳng phải có hay không thì nó không có cái để thấy (sở kiến).
Phạm thiên thưa:
–Nếu vậy thì do duyên cớ gì nay ở trong hội này, Thế Tôn thuyết pháp Phật?
Bồ-tát đáp:
–Này Đại phạm! Như nói hư không, chẳng phải hư không kia có tánh cố định chân thật, pháp Phật cũng giống như thế. Ở đây nói Phật pháp, chẳng phải pháp Phật kia có tánh cố định chân thật.
Phạm thiên khen:
–Hy hữu thay, thưa Bồ-tát! Nếu Bồ-tát mới phát tâm nghe nói điều này rồi mà không sinh kinh sợ thì Bồ-tát ấy, ở trong pháp Phật, đã mang áo giáp kiên cố.
Bồ-tát nói:
–Này Đại phạm! Nếu chúng sinh nào được Phật gia trì rồi, phát tâm Bồ-đề thì khi nghe nói pháp Phật sâu xa này sẽ không sinh sợ hãi. Lại nữa, này Đại phạm! Chúng sinh nào có thủ, có chấp thì liền sinh sợ hãi, còn chúng sinh nào không thủ không chấp thì không sinh sợ hãi. Chúng sinh nào có nương tựa, có buộc ràng thì liền sinh sợ hãi, còn chúng sinh nào không nương tựa, không buộc ràng thì không sinh sợ hãi. Chúng sinh nào có ngã và sở kiến của ngã thì liền sinh sợ hãi, còn chúng sinh nào lìa ngã và sở kiến của ngã thì không sinh sợ hãi.
Đại Phạm thưa:
–Thưa Bồ-tát! Bồ-tát có bao nhiêu loại năng lực, nếu các Bồ-tát có đủ năng lực đó thì ở trong pháp Phật sâu xa như thế không sinh sợ hãi?
Bồ-tát đáp:
–Này Đại phạm! Các Bồ-tát có tám loại năng lực, nếu các Bồ-tát nào có đủ năng lực ấy thì ở trong pháp Phật sâu xa như thế mới không sinh sợ hãi. Những gì là tám?
1. Lực tin không chướng ngại, nên đối với các pháp Phật phát sinh sự hiểu biết thù thắng.
2. Lực Thiện tri thức do sự tôn trọng phát sinh, vì thành ý nghe theo lời tôn sư.
3. Lực tuệ, do đa văn phát sinh, vì pháp xuất thế gian đều viên mãn.
4. Thừa lực sự, do phước hạnh phát sinh vì vô lượng phước hạnh đều viên mãn.
5. Lực trí do tác ý sâu bền phát sinh vì phá diệt các ma.
6. Lực đại Bi do đại Từ phát sinh vì ở nơi không ngã, pháp, lìa nghi hoặc.
7. Lực khéo tư duy do an định phát sinh vì không quên mất tâm Bồ-đề.
8. Lực nhẫn do không tin pháp nào khác phát sinh vì đạt được pháp Nhẫn vô sinh mầu nhiệm.
Này Đại phạm! Đó là tám loại năng lực thù thắng của Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát nào có đủ những năng lực ấy thì có thể ở trong pháp Phật sâu xa mà không sinh sợ hãi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Đại Bồ-tát Hải Ý: –Hay thay, hay thay, Hải Ý! Ông khéo giảng nói tám năng lực này của Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát đầy đủ những năng lực đó thì có thể ở trong pháp Phật sâu xa không sinh sợ hãi. Lại nữa, ở trong pháp Phật, tùy theo pháp đã nghe, không sinh sợ hãi.
Hải Ý nên biết! Các âm thanh thuyết pháp đều là phân biệt; nếu ở trong thắng nghĩa đế của Bồđề thì không thể thuyết. Vì sao? Vì thắng nghĩa đế ấy chẳng phải ngữ ngôn, chẳng phải diễn đạt, cũng chẳng phải nẻo hành của văn tự tích tập; lại càng chẳng phải tâm và tâm sở pháp có thể chuyển, huống là nẻo hành của văn tự.
Này Hải Ý! Như chỗ ông quán sát, pháp chư Phật Thế Tôn đã nói chỉ là đại Bi chuyển của tất cả chúng sinh không thể nghĩ bàn, mới ở trong pháp sâu xa như thế thành Chánh giác. Ở trong pháp không văn tự, không ngữ ngôn, không ghi chép, không diễn đạt vì chúng sinh và Bổ-đặc-giàla khác mà mượn văn tự kiến lập tuyên thuyết.
Này Hải Ý! Ví như có người biết hư không này chẳng có sắc tướng nên không thể thấy, chẳng gì ngăn trở nên không hiện rõ, nhưng trong hư không, hiện đủ các loại sắc tướng hình tượng màu sắc rực rỡ như voi ngựa, xe cộ, Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà…
Này Hải Ý! Theo ý ông thì sao? Người kia làm ra những thứ ấy có khó không?
Bồ-tát Hải Ý thưa:
–Bạch Thế Tôn! Người kia làm ra những thứ ấy vô cùng khó khăn.
Phật nói:
–Này Hải Ý! Chư Phật Thế Tôn lại càng khó khăn hơn người ấy. Vì sao? Vì ở trong pháp bất khả thuyết, thành Chánh giác rồi, mượn ngôn thuyết vì chúng sinh và các Bổ-đặc-già-la khác, kiến lập tuyên thuyết. Bởi vì ở trong nghĩa bất khả thuyết biết rõ như thật nên chư Phật có thể làm được việc khó làm.
Này Hải Ý! Nếu lại có người ở trong pháp Phật sâu xa này chẳng kinh chẳng sợ, chẳng sinh khiếp đảm thì nên biết người ấy đã ở đời Phật quá khứ trồng sâu căn lành, tu các thắng hạnh, vì vậy ở trong pháp Phật sâu xa này không sinh sợ hãi. Lại nữa, nếu có người đối với kinh điển sâu xa, là pháp tất cả thế gian khó tin khó hiểu, mà biết rõ như thật, thọ trì đọc tụng, rộng vì mọi người nói thì nên biết người ấy có thể giữ gìn tất cả pháp tạng của Như Lai, có thể giữ gìn tất cả các phần pháp thiện của chúng sinh.
Lại nữa, Hải Ý! Nếu có Bồ-tát được Phật nhãn soi chiếu thì có thể ở trong vô lượng cõi Phật, chứa đầy châu báu dùng để cúng dường các Đấng Như Lai ấy, bố thí rộng khắp, thì theo ý ông như thế nào? Vị Bồ-tát ấy do duyên cớ này được phước nhiều chăng?
Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô lượng vô số, cho đến cũng không thể ví dụ được.
Phật nói:
–Này Hải Ý! Nay ta nói với ông, ông nên biết, nếu có Bồ-tát có thể ở trong pháp của Như Lai, khéo léo giữ gìn, khiến hạt giống Tam bảo không đoạn không tuyệt, thì đối với các chúng sinh không bỏ đại Bi. Đối với kinh điển sâu xa như thế, ở trong pháp đại trí của Như Lai có thể biết rõ rồi thọ trì, đọc tụng, huống là trong ấy như lý tu hành thì phước đức Bồ-tát này đạt được nhiều hơn phước đức trước. Vì sao? Vì nếu bố thí về của cải thì chỉ có thế gian ưa thích, còn người bố thí pháp thì việc này vượt lên trên tất cả thế gian.
Lại nữa, này Hải Ý! Nếu Bồ-tát nào có thể hộ trì chánh pháp thì Bồ-tát ấy được bốn thứ thâu nhận.
1. Được Phật thâu nhận.
2. Được trời thâu nhận.
3. Được phước thâu nhận.
4. Được trí thâu nhận.
Nếu các Bồ-tát được Phật thâu nhận thì sẽ được bốn loại pháp tối thắng. Những gì là bốn?
1. Thường được gần gũi chiêm ngưỡng Như Lai.
2. Tất cả ma không tìm thấy chỗ sơ hở.
3. Được môn Đà-la-ni vô tận.
4. Mau đủ thần lực, trụ quả vị không thoái chuyển.
Này Hải Ý! Các Bồ-tát được Phật thâu nhận thì đạt được bốn loại pháp tối thắng như thế. Còn các Bồ-tát được trời thâu nhận thì sẽ được bốn thứ thanh tịnh. Những gì là bốn?
1. Do thần lực của chúng trời khiến chúng hội của Bồ-tát thanh tịnh.
2. Khiến cho người nghe nhận chánh pháp chuyên chú nhất tâm.
3. Trừ bỏ tất cả chúng ngoại ma.
4. Do oai thần của trời có thể khiến cho tất cả đều thanh tịnh, đều được tịnh tâm.
Này Hải Ý! Các Bồ-tát được trời thâu nhận đạt được bốn thứ thanh tịnh như vậy. Còn các Bồ-tát được phước thâu nhận thì sẽ đạt được bốn thứ tướng trang nghiêm. Những gì là bốn?
1. Thân trang nghiêm, nghĩa là tướng hảo viên mãn.
2. Ngôn ngữ trang nghiêm, nghĩa là vượt lên trên âm thanh ngữ ngôn của tất cả chúng sinh.
3. Quốc độ trang nghiêm, nghĩa là các việc làm đều sáng tỏ.
4. Chỗ sinh ra trang nghiêm, nghĩa là sinh ra ở các nơi như là Phạm thiên, Đế Thích, Hộ thế thiên…
Này Hải Ý! Các Bồ-tát được phước thâu nhận đạt được bốn loại trang nghiêm như thế. Còn các Bồ-tát nếu được trí thâu nhận thì sẽ được bốn thứ pháp chiếu sáng. Những gì là bốn?
1. Chiếu sáng căn tánh của tất cả chúng sinh, đúng như chỗ thích ứng của họ mà nói pháp.
2. Chiếu sáng tất cả bệnh phiền não, chứa nhóm pháp dược, tùy bệnh trị liệu.
3. Chiếu sáng thần lực, đều có thể đến khắp các cõi Phật khác.
4. Chiếu sáng pháp giới, như thật hiểu rõ tất cả pháp.
Này Hải Ý! Các Bồ-tát được trí thâu giữ đạt được bốn sự chiếu sáng như thế. Vì lẽ ấy, Đại Bồ-tát muốn được pháp công đức khen ngợi sự thâu giữ như thế, cần phải siêng năng hộ trì chánh pháp. Nếu các Bồ-tát luôn siêng năng hộ trì chánh pháp thì sẽ đạt được vô lượng công đức tối thắng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:
Luôn hộ trì chánh pháp chư Phật
Sẽ được các pháp khen ngợi tốt
Pháp khen ngợi kia ta lược nói
Như một giọt nước trong biển cả.
Biết ân chư Phật thường báo đáp
Chư Phật phó thác giữ tạng pháp
Luôn hộ trì chánh pháp chư Phật
Tức là cúng khắp mười phương Phật.
Phật nhãn chiếu sáng quán cõi Phật
Diệu bảo cúng dường chư Thế Tôn
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
So phước cúng trước thì hơn hẳn.
Tuy dùng của cải cúng dường Phật
Không thể giải thoát hành thế gian
Nếu cầu pháp thù thắng xuất thế
Người trí ra khỏi pháp thế gian.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Liền được chư Phật luôn thâu nhận
Trời, rồng… cũng thâu nhận
Đều được phước và trí thâu giữ.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Được niệm tuệ hành đều đầy đủ
Thắng tuệ rộng lớn đều biết hết
Người trí nhổ sạch giống phiền não.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Chẳng bị các ma tìm sơ hở
Ác tác nghi hoặc đều dứt trừ
Không có các chướng, không ràng buộc.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Sinh vào quốc độ không lầm lỗi
Trong tất cả đời thấy thân Phật
Thấy rồi tâm liền được thanh tịnh.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Đạt được pháp đại trí túc mạng
Xuất gia thuận lợi luôn thành tựu
Tu hành chân thật hạnh thanh tịnh.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Giới, văn phát sinh các phạm hạnh
Được năm trí thông rất khinh an
Thiền định giải thoát đều vô ngại.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Nhập vào trong các pháp sâu xa
Cảnh giới Phật không, không ngăn ngại
Tin hiểu chúng sinh không ngã, pháp.
Người thọ trì chánh pháp chư Phật
Được tuệ sắc bén hiểu vô ngại
Đắc môn vô úy nói không ngại
Phá lưới nghi hoặc của chúng sinh.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Đắc đại Tổng trì, lợi thù thắng
Chẳng cần nghe thọ trong trăm kiếp
Do đủ biện tài đều vô ngại.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Được các bậc Trí thường khen ngợi
Trời, A tu-la… cũng vui lòng
Chư Phật khen ngợi như con Phật
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Được Đế thích, Phạm vương không khó
Và Chuyển luân vương trong loài người
Cho đến vui thắng diệu Bồ-đề.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Đủ ba mươi hai tướng thù diệu
Đại trí viên thành thân bất hoại
Tất cả người xem không nhàm chán.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Được Thiện tri thức cũng chẳng khó
Vì họ nói rõ môn pháp ấn
Nghe nhận tạng chánh pháp vô tận.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Nghiệp thân, ngữ tâm đều thanh tịnh
Giới định tuệ thanh tịnh cũng vậy
Đắc trí giải thoát khéo thanh tịnh.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Thường không xa lìa tâm Bồ-đề
Không rời bỏ hạnh Ba-la-mật
Mà thường thâu giữ nhiều pháp thiện.
Người hộ trì chánh pháp chư Phật
Khen ngợi rộng lớn công đức ấy
Dù cho sống trọn trong một kiếp
Cũng không thể nói hết công đức.
Bấy giờ, trong pháp hội có một Bồ-tát tên là Công Đức Quang Vương, từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như vừa rồi Thế Tôn đã bảo thế này: Ta ở trong pháp bất khả thuyết mà thành Chánh giác. Bạch Thế Tôn! Nếu là pháp bất khả thuyết thì vì sao nay nói là hộ trì chánh pháp?
Phật nói:
–Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nam! Như ông đã nói, ta ở trong pháp bất khả thuyết mà thành Chánh giác. Nhưng này thiện nam, bất khả thuyết có nghĩa là vì văn tự ngôn ngữ của thế tục đối với pháp vô vi, không thể diễn nói. Nếu dùng văn tự ngữ ngôn diễn nói môn Tổng trì, phô bày, thiết lập, khai thị chỉ rõ thì mới có chỗ diễn nói. Như thế tức là hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Có pháp sư thuyết pháp, ở trong kinh điển sâu xa như thế, thọ trì rộng rãi, vì người diễn thuyết, như lý tu hành, nếu người nào thường ở chỗ Pháp sư này cung kính tôn trọng, phụng sự, âm thầm hộ trì, cúng dường các thứ đồ dùng như thức ăn uống, y phục, đồ nằm ngồi, khi ốm đau cung cấp thuốc thang đầy đủ, có thể hộ trì chánh pháp khéo hộ ngôn ngữ, ở nơi phi ngôn ngữ mà hàm chứa, đó là hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Nếu người có thể hiểu rõ, ở nơi “không” mà tín thuận không tướng, không nguyện, không cầu, ở trong không gia hạnh mà chân thật an chỉ, đó là hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Nếu người có thể đối với lời nói của mình không có tranh cãi hơn thua và cả lời nói phi pháp của người khác, cả hai đều thâu giữ vào trong pháp thì đó là hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Nếu người có thể dùng tâm vô chướng ngại liên tục thâu nhận hết tất cả chúng sinh vào trong tuệ giải thoát, không dùng tâm tài lợi của thế gian mà bố thí pháp cho người thì đó là hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Nếu người có thể xả bỏ thân mạng, đối với kinh điển sâu xa như thế âm thầm hộ trì, ở nơi thanh vắng, y pháp tu hành thì đó là hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Nếu có người thường vì nhân duyên nghe pháp hoặc vì nhân duyên thuyết pháp, cho đến đi một bước, hoặc một hơi thở ra vào mà luôn chuyên chú thì đó là hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Nếu hiểu tất cả pháp là không bảo vệ, không chỗ chấp thủ thì đó là hộ trì chánh pháp.
Lại nữa, này Công Đức Quang Vương! Những duyên như thế ngươi cần phải biết.
Này thiện nam! Ta nhớ vô số kiếp và hơn vô số kiếp về trước ở quá khứ, khi ấy, có Phật xuất hiện nơi thế gian, hiệu là Đại Trí Lực Thanh gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn; thế giới tên là Tịnh quang, kiếp số tên là Hỷ thượng.
Này thiện nam! Thế giới Tịnh quang kia do lưu ly tạo thành, rộng rãi thanh tịnh, ánh sáng chiếu khắp mười phương. Nơi ấy có các chúng Đại Bồ-tát thanh tịnh, nương vào sức diệu dụng nơi đại thần thông, xuất sinh từ pháp sâu xa. Các thứ thọ dụng của chúng Đại Bồ-tát ấy đều giống như Thiên tử cõi Hóa lạc, đều dưới hình dạng Thiên tử, ở chỗ Phật ấy nghe nhận thuyết pháp, lại không có các loại hình tướng tại gia hay xuất gia. Khi ấy, Đức Đạo Trí Lực Thanh Như Lai thường vì các chúng Bồ-tát ở pháp hội đó mà rộng rãi tuyên thuyết việc hộ trì chánh pháp. Đức Phật nói thế này: “Thiện nam! Các ông cần phải siêng năng hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng”.
Trong hội đó có một Đại Bồ-tát tên là Pháp
Ngữ thưa với Thế Tôn Đại Trí Lực Thanh Như Lai: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là các Bồ-tát có thể hộ trì chánh pháp? Lại nữa thế nào là pháp được hộ trì?”
Đức Phật ấy đáp: “Này thiện nam! Nếu ở trong cảnh giới của sắc tâm, khéo ngăn các chướng, chuyên chú một cảnh, điều phục, dừng nghỉ, trụ pháp tịch tĩnh thì đó là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì nhãn căn, sắc cảnh và nhãn thức, ba thứ này chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp; nhĩ căn, thanh cảnh và nhĩ thức, tỷ căn, hương cảnh và tỷ thức, thiệt căn, vị cảnh và thiệt thức, thân căn, xúc cảnh và thân thức, ý căn, pháp cảnh và ý thức chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Nếu có thể hiểu rõ nhãn sắc là không thì nhãn và sắc không có sự phân biệt, nhãn thức vô trú, đó là chánh pháp. Nếu Bồ-tát ở trong trí như thật, khéo làm cho người khác được pháp như thế thì đó là hộ trì chánh pháp. Cũng như thế, nhĩ và thanh, tỷ và hương, thiệt và vị, thân và xúc, ý và pháp, hiểu rõ là không thì ý và pháp không chỗ phân biệt; ý thức vô trú, đó là chánh pháp. Nếu Bồ-tát ở trong trí như thật khéo làm cho người khác được pháp như thế thì đó là hộ trì chánh pháp.
Thiện nam! Nếu có pháp ở trong các pháp mà có thể chuyển biến thì pháp ấy không có chỗ bảo vệ, không có chỗ giữ lấy. Hiểu như thế thì đó là hộ trì chánh pháp.
Lại nữa, ở trong các kiến, y cứ vào tà kiến thì loại kiến ấy không có bảo vệ, không có giữ lấy. Hiểu như thế thì đó là hộ trì chánh pháp.
Lại nữa, vì sự vô trí, si chướng ấy nên tâm không trong sáng, nếu ở trong vô trí, si chướng ấy không gìn giữ, không nắm bắt. Hiểu biết như thế thì đó là hộ trì chánh pháp.
Lại, thiện nam! Nếu pháp có tụ có tán tức chẳng phải pháp, chẳng phải luật; nếu không tụ không tán tức là pháp, là luật. Những pháp nào là tụ là tán? Nghĩa là các pháp thuộc về hữu vi có tụ tán. Nếu là chẳng phải pháp chẳng phải luật thì làm sao mà không tụ không tán. Vì vậy nên biết, nếu vô thủ tức vô sinh, do vô sinh nên không tụ cũng không tán; vì không tụ không tán nên đó là pháp là luật. Cái gì là pháp là luật? Đó là tự tánh bất sinh, các phiền não… không sinh khởi, đó tức là pháp là luật. Nếu là pháp là luật thì không sinh không diệt, tức là vô tận. Cái vô tận này tức là pháp luật vô sinh. Pháp vô sinh như thế mới không chỗ hộ trì, mà không chỗ hộ trì tức là hộ trì chân thật chánh pháp.
Lại nữa, này Công Đức Quang Vương! Khi Đức Đại Trí Lực Thanh Như Lai giảng nói pháp ấy, trong chúng hội đó, có ba vạn hai ngàn Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh. Bồ-tát Pháp Ngữ ở chỗ Phật ấy được nghe pháp rồi, tâm ý vui thích, hết mực vui mừng, tiến tới trước Phật thưa:
–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn khéo tuyên thuyết pháp môn hộ trì chánh pháp sâu xa như thế. Bạch Thế Tôn! Như chỗ con hiểu nghĩa Phật đã dạy và như điều con sở đắc thì tất cả pháp là vô pháp, mà vô pháp tức là hữu pháp. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nếu tất cả pháp có chỗ nắm bắt tức là vô pháp, nếu không có chỗ nắm bắt tức là có pháp. Vì hai tưởng pháp và phi pháp, ở trong tất cả pháp đều không có hai tưởng pháp và phi pháp có thể biết.
Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp và phi pháp, nếu ở trong Thắng nghĩa đế thì không pháp nào có thể nắm bắt được, cũng không có phi pháp có thể nắm bắt được. Do không có tưởng pháp, cũng không có tưởng phi pháp nên không pháp nào có thể kể ra. Vì không có pháp có thể kể ra nên trụ nơi thật tế, nếu trụ thật tế tức là không giới hạn. Vì sao? Vì ranh giới của hư không tức là ranh giới của các pháp. Như hư không không từ đâu đến nên cũng không giới hạn, các pháp cũng vậy, không từ đâu đến nên cũng không có giới hạn, nên nói giới hạn của các pháp tức là giới hạn của hư không.
Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát được nghe pháp thật tế như vậy rồi, hiểu rõ như thật thì vị ấy đã thông đạt các pháp không có hai tướng.
Bạch Thế Tôn! Con thấy không có một pháp nhỏ nào có thể đắc. Nếu pháp không sở hữu nên con nói là hộ trì chánh pháp.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Khi con nói pháp này có khế hợp với lời Như Lai nói chăng? Là pháp ngữ không? Pháp tùy thuận, pháp tuyên thuyết, con nói đúng chăng?
Phật nói:
–Này thiện nam! Lời ông đã nói quả thật khế hợp với lời của Như Lai, đúng là pháp ngữ. Pháp tùy thuận, pháp tuyên thuyết đó là chánh thuyết.
Lại nữa, này Công Đức Quang Vương! Khi Bồ-tát Pháp Ngữ nói pháp ấy, trong chúng Thiên tử kia có mười ngàn Thiên tử đắc pháp nhẫn nhu thuận.
Này Công Đức Quang Vương! Ông chớ sinh niệm nghi ngờ. Bồ-tát Pháp Ngữ khi ấy đâu phải người nào khác mà chính là Công Đức Quang Vương là ông đó. Nay ông ở trước đại chúng pháp hội này khuyến thỉnh ta. Vì vậy, nay ta đem pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tích tập trong vô số ức kiếp kia phó chúc cho ông. Ông nên thọ trì, rộng vì mọi người nói, diễn bày phổ biến.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn giảng nói pháp ấy rồi, trong hội này có sáu mươi ức chúng Đại Bồ-tát đều đứng trước Phật, khác miệng cùng lời đồng nói thế này:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện hộ trì chánh pháp Bồ-đề của Như Lai và diễn nói truyền bá rộng rãi.
Phật bảo các Bồ-tát:
–Này các thiện nam! Các ngươi đã tu hành an trú nơi pháp nào rồi mà hộ trì pháp Bồ-đề đã tích tập vô số ức kiếp của Như Lai?
Khi ấy, trong chúng hội có một Bồ-tát tên là Sơn Tự Tại Vương tiến tới trước bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu tiếc giữ thân mạng thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con không tiếc thân mạng vì vậy mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Cát Tường Phong Vương thưa:
–Bạch Thế Tôn! Đối với lợi dưỡng, nếu có sự mong cầu thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con đối với các việc danh tiếng, lợi dưỡng… đều xả bỏ, chẳng phải điều mà bậc Thánh cho phép thì đều xa lìa; như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Đại Tràng thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có hai tưởng pháp hoặc phi pháp thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Nếu lìa hai tưởng ấy, được pháp bình đẳng như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Thắng Mật thưa:
–Nếu bị bệnh phiền não bức bách thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con được sức trí tuệ của chư Thánh, điều phục phá bỏ phiền não, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Trì Cự thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu ở trong cảnh giới tối tăm ngu muội thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con được trí quang vô ngại lìa các si ám, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Điện Thiên thưa:
–Bạch Thế Tôn! Trong pháp, nếu khởi trí tỷ lượng thì như thế không thể hộ trì chánh pháp. Con đã chứng được trí hiện lượng, ở trong các pháp không khởi sự tin tưởng nào khác, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Phổ Mật thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu là căn tánh và tâm tán loạn của thế tục, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Đối với các căn, các môn, các xứ, con khéo điều phục sâu kín, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Tịnh Quang thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu đối với pháp chúng sinh có các loại tánh và các loại tưởng, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Đối với tất cả chúng sinh, con khởi tâm bình đẳng và tất cả pháp cũng được bình đẳng, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Tối Thắng Bộ thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu khởi tán loạn chẳng phải tâm định đẳng dẫn, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con trụ tâm định đẳng dẫn không tán loạn, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Đạo Sư thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu không biết rõ pháp chánh đạo, tu hành tà đạo, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đã biết rõ pháp trí Chánh đạo, đem chúng sinh tà đạo đặt vào đạo như thật, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Thiện Tuệ thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu tâm do dự khởi phân biệt, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con nay đã lìa tâm do dự, dứt các phân biệt, lại khiến cho tất cả chúng sinh trừ được bệnh nghi hoặc, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Biến Chiếu thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu trụ nơi phi pháp, hủy hoại đạo tu hành, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con trụ chánh pháp, chân thật tu hành, lại đặt tất cả chúng sinh đều trụ trong đạo như thật, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Minh Quán thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu còn đầy tuệ nhiễm, lìa pháp quang minh, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đã đắc tuệ quyết định viên mãn, trí thiện xảo, đầy đủ pháp quang minh, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Vô Ngại Tuệ thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có tâm chướng ngại, không thể theo hộ tuệ chúng sinh, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con dùng tâm không chướng ngại, theo hộ chúng sinh, khiến trụ nơi thắng tuệ, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Hành Tịnh Tuệ thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu không khéo hiểu căn cơ các chúng sinh, lại không thể biết việc làm của các chúng sinh, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đối với căn hành của tất cả chúng sinh đều hiểu biết, thâm nhập, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Trang Nghiêm Vương thưa:
–Bạch Thế Tôn! Đối với pháp, nếu có tưởng phân biệt, còn nương vào ngã, nhân và nương vào pháp, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Đối với tất cả phân biệt, phi phân biệt, con đều lìa biến kế, ba luân thanh tịnh, không ngã, không nhân, không pháp nương tựa, cũng không tạo tác, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Sư Tử Tràng thưa:
–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh nơi thế gian nghe tất cả pháp không sinh không khởi đều hoảng sợ, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đã biết rõ tất cả pháp không sinh, không khởi, lại không kinh sợ, không thấy có pháp hoặc gần, hoặc xa, an trụ ở như thật, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Từ Thị thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu đối với Bồ-đề, khởi tưởng xa vời, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Nếu có Bồ-tát khởi tư duy thế này: Ta tuy đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhưng không thấy Bồ-đề đối với thân hoặc tâm, có sự hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp, Bồ-tát như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Công Đức Quang Vương thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu trụ nơi phi công đức, lìa công đức chân thật không cầu công đức thù thắng của Như Lai, như thế thì không thể hộ trì chánh pháp. Con đã xa lìa các phi công đức, an trú nơi công đức chân thật của Bồ-tát, dốc cầu công đức tối thắng của Như Lai, như thế mới có thể hộ trì chánh pháp.
Bồ-tát Diệu Cát Tường thưa:
–Bạch Thế Tôn! Như người cuồng loạn trong đời nói như thế này: Con có thể hộ trì chánh pháp của Như Lai, thì đấy chẳng phải lời thành tín. Vì sao? Vì như khi Phật Thế Tôn ngồi ở đạo tràng không pháp nào có thể đắc, cũng chẳng có chỗ chứng, trong đó làm gì có pháp để có thể hộ trì! Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp, hoàn toàn con không hộ trì, lìa các chấp trước, chỉ dùng đại Bi giữ các pháp tánh. Nhưng đối với các pháp không có sự thành tựu, chẳng phải không thành tựu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Bồ-tát Đồng tử Diệu Cát Tường:
–Lành thay, lành thay, Diệu Cát Tường! Đúng như vậy, đúng như vậy, Đúng như lời ông nói! Khi ta ngồi nơi đạo tràng không có pháp nhỏ nào có thể đắc. Khi không có chỗ thủ đắc mới nói là ngồi nơi đạo tràng.
Diệu Cát Tường bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn ngồi nơi đạo tràng vào lúc nào? Nếu có chỗ ngồi tức là đối với Bồ-đề có chỗ thủ đắc. Như vậy mới có hai, là có sự đối ngại riêng biệt và có Bồ-đề riêng biệt.
Bạch Thế Tôn! Nghĩa là vì Phật và Bồ-đề không có hai sự đối ngại.
Phật nói:
–Này Diệu Cát Tường! Tự tánh của Bồ-đề tràng ta đã thông đạt, cho nên ta mới ngồi nơi Bồđề tràng, vì tự tánh của ta tức là tự tánh Bồ-đề tràng; mà tự tánh của Bồ-đề tức là tự tánh của tất cả chúng sinh; tự tánh của tất cả chúng sinh tức là tự tánh của tất cả pháp. Này Diệu Cát Tường! Vì tự tánh đồng nhất, bình đẳng nhất vị. Khi ta thành Chánh giác ở Bồ-đề tràng, quán Bồ-đề tràng, không có pháp nhỏ nào mà không giải thoát, nghĩa là vì Bồ-đề bình đẳng nên hiện chứng các pháp cũng bình đẳng. Nhưng trong pháp bình đẳng không rơi vào các số, vì số cùng phi số đều xa lìa.
Vì vậy, pháp bình đẳng ấy Như Lai gọi là vô vi. Này Diệu Cát Tường! Như Lai đắc vô vi, siêu việt tất cả pháp hữu vi.
Khi Như Lai nói pháp ấy, Bồ-tát Diệu Cát Tường sinh tin hiểu sâu xa và tất cả hội chúng đều tin hiểu pháp giải thoát của Như Lai. Do tin hiểu nên tất cả đều bình đẳng trong pháp, không có gì vượt ra.
Bấy giờ, các chúng Đại Bồ-tát ở thế giới Vô lượng công đức bảo vô cấu thù diệu trang nghiêm, trước hết cùng đến thế giới Ta-bà này với Bồ-tát Hải Ý, nghe pháp ấy rồi, tâm ý sung sướng, hết mực vui mừng, đều hân hoan cùng phát lời:
–Chúng con đến cõi Phật này được vui thích được lợi ích tốt đẹp, được thấy Thế Tôn, lại diện kiến Đại sĩ Đồng tử Diệu Cát Tường, được nghe thuyết chánh pháp sâu xa này, gặp Phật xuất thế, chuyển đại pháp luân, thấy chánh pháp này hiện trú ở thế gian. Bạch Thế Tôn! Nếu chánh pháp này ở nơi nào được truyền bá rộng rãi thì các chúng sinh nơi ấy được lợi ích lớn. Lại nữa, nếu có người, ngay khi Phật tại thế hay sau khi Niết-bàn, có thể nghe nhận chánh pháp như thế, nghe rồi tin hiểu, thọ trì đọc tụng, rộng vì người nói thì nên biết, người ấy được lợi ích lớn.
Phật nói:
–Này chư Thiện nam! Như các ngươi biết thì Bồ-tát được bao nhiêu điều lợi ích lớn?
Các Bồ-tát ấy bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát được mười điều lợi ích lớn. Đây tức là những điều lợi ích đạt được chẳng thể nghĩ bàn:
1. Được lợi ích lớn, gặp Phật ra đời và luôn luôn gần gũi.
2. Được gặp Phật rồi, thâm tâm thanh tịnh.
3. Khởi tâm thanh tịnh nghe thọ chánh pháp.
4. Nghe chánh pháp rồi lìa các nghi hoặc.
5. Lìa nghi hoặc rồi, liền được xuất gia.
6. Đã xuất gia rồi tự nuôi sống bằng sinh hoạt thanh tịnh.
7. Vì đã tự nuôi sống bằng sinh hoạt thanh tịnh nên có thể khéo giảng nói pháp.
8. Khéo giảng nói pháp rồi, phát tâm Bồ-đề.
9. Do không quên mất tâm Bồ-đề nên có thể nghe thọ pháp tạng Bồ-tát.
10. Nghe pháp tạng sâu xa của Bồ-tát rồi, dựa vào pháp tu hành, được đại lợi này.
Bạch Thế Tôn! Các pháp như thế là mười thứ lợi ích lớn của Bồ-tát. Đây tức là lợi ích tốt đẹp được hình thành, nếu các Bồ-tát an trú như thế thì đó gọi là khéo được lợi ích lớn.
Khi ấy, Phật khen ngợi:
–Lành thay, lành thay! Đại sĩ các vị! Khéo nói lợi ích lớn mà Bồ-tát đạt được.
Khi Phật giảng nói pháp này rồi, trong chúng hội có ba vạn sáu ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Người tu Đại thừa tạo lợi ích rất nhiều cho tất cả chúng sinh. Nghĩa là các Thiên nhân thọ hưởng niềm vui của trời người mới có thể gần gũi niềm vui tối thắng vi diệu của Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu loại pháp để có thể tùy chuyển, nhiếp thọ? Có bao nhiêu pháp có thể thường làm ở trong Đại thừa? Lại có bao nhiêu pháp rất khó làm ở trong Đại thừa? Lại có bao nhiêu pháp làm tăng trưởng Đại thừa? Lại có bao nhiêu pháp là chướng nạn ở trong Đại thừa? Bạch Thế Tôn! Lại vì duyên gì mà gọi là Đại thừa?
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Ông nên nghe kỹ. Nay ta sẽ giảng nói. Hải Ý nên biết! Có một loại pháp Đại thừa thâu nhận. Loại pháp đó là gì? Đó là không quên mất tâm đại Bồ-đề, lại không phóng dật.
Này Hải Ý! Lại có một pháp Đại thừa thâu nhận, đó là tin mọi việc làm đều mang theo nghiệp báo.
Lại có một pháp, đó là phát khởi chánh kiến, đối với pháp duyên sinh không chống trái.
Lại có một pháp, đó là lìa ái, phi ái, đối với tất cả chúng sinh khởi tâm bình đẳng.
Lại có một pháp, đó là an trú theo đại Từ để tự cứu độ.
Lại có một pháp, đó là khởi tâm đại Bi, không tham đắm cái vui của mình.
Lại có một pháp, đó là mong cầu Phật thân, tùy niệm nơi Phật.
Lại có một pháp, đó là nương pháp chân tu tùy niệm Pháp.
Lại có một pháp, đó là an trú trong chúng bất thoái chuyển, tùy niệm Chúng.
Lại có một pháp, đó là dứt trừ tất cả phiền não, tùy niệm Xả.
Lại có một pháp, đó là thường không quên mất tâm Bồ-đề nên tùy niệm Giới.
Lại có một pháp, đó là an trú nơi pháp thanh tịnh, tùy niệm Thiên.
Lại có một pháp, đó là tùy trụ lợi lạc khiến người hoan hỷ.
Lại có một pháp, đó là trụ nơi ý kiên cố, vui muốn cực thiện.
Lại có một pháp, đó là khởi tâm hoan hỷ vì tất cả chúng sinh mở bày giải thoát.
Lại có một pháp, đó là từ pháp sâu xa như lý xuất sinh, dốc cầu chánh pháp.
Lại có một pháp, đó là không vì tâm tài lợi mà hành pháp thí.
Lại có một pháp, đó là đối với người nghe pháp, khởi tưởng là bệnh nhân.
Lại có một pháp, đó là đối với pháp đã giảng nói, tưởng như thuốc hay, người đã thuyết pháp tưởng như Y vương.
Lại có một pháp, đó là thường hộ vệ khiến pháp tồn tại lâu dài.
Lại có một pháp, đó là khiến hạt giống Tam bảo không đoạn, không tuyệt.
Lại có một pháp, đó là không tham, tương tục thường xuyên sinh hỷ túc.
Lại có một pháp, đó là xả bỏ các sở hữu, không khởi ái trước.
Lại có một pháp, đó là tự giữ giới và thường ngăn chặn các người phá giới.
Lại có một pháp, đó là đối với người làm ác, không xem xét lỗi của họ, mà an trú nơi nhẫn.
Lại có một pháp, đó là đối với người làm lành, phát khởi giúp đỡ và an trú nhẫn.
Lại có một pháp, đó là đối với người bội ơn, khởi tuệ thương yêu.
Lại có một pháp, đó là đối với người biết ơn, khởi lòng thương cung kính.
Lại có một pháp, đó là đối với người vô trí, không khởi tâm kiêu mạn.
Lại có một pháp, đó là đối với người có trí theo họ thọ học.
Lại có một pháp, đó là với thiện căn sâu bền, tâm không chán bỏ.
Lại có một pháp, đó là đối với các pháp thiện, tâm luôn theo đuổi.
Lại có một pháp, đó là không dua nịnh quanh co nên ba giới thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là đối với người thuyết pháp, ái kính phụng sự tưởng như tôn sư.
Lại có một pháp, đó là bỏ các sách vở ngoại đạo, khéo nghe chánh pháp.
Lại có một pháp, đó là tu các thiện căn, tuy là gian khổ, ở trong sinh tử, cũng không mệt mỏi.
Lại có một pháp, đó là đối với chư Phật Như Lai hiện trú ở đời và đã nhập Niết-bàn, phụng sự cúng dường không chán nản.
Lại có một pháp, đó là làm bạn không mời thỉnh của các chúng sinh.
Lại có một pháp, đó là dùng tâm không nương, không giữ, không đắm, mà tu bốn Nhiếp pháp.
Lại có một pháp, đó là hiểu rõ các tội lỗi của tại gia, rồi ưa xuất gia.
Lại có một pháp, đó là đối với sự nghiệp Chánh sĩ thường khai triển.
Lại có một pháp, đó là việc làm quyết định, trụ đạo Bồ-đề, tu thêm thắng hạnh.
Lại có một pháp, đó là đối với người đồng trụ Đại thừa, không sinh buồn giận.
Lại có một pháp, đó là dạy trao tâm pháp Bồđề, không sinh mệt mỏi.
Lại có một pháp, đó là khéo hộ pháp bí mật, khiến không tan hoại.
Lại có một pháp, đó là thường nên siêng cầu trí pháp thiện xảo.
Lại có một pháp, đó là dùng lời chân thật kiến lập pháp tràng.
Lại có một pháp, đó là đã phát thệ nguyện phải khiến hoàn mãn.
Lại có một pháp, đó là dùng tâm không biến đổi để hành bố thí.
Lại có một pháp, đó là thường nên hiểu rõ việc làm của các ma.
Lại có một pháp, đó là thường phải phát khởi trí nghiệp lìa mạn.
Lại có một pháp, đó là xa lìa bạn bè, ưa ở chỗ thanh vắng.
Lại có một pháp, đó là lìa tăng thượng mạn và tâm cao ngạo, không khởi tâm chê bai người.
Lại có một pháp, đó là tuy biết rõ các phiền não rồi nhưng cũng tùy thuận hành tướng thế gian.
Lại có một pháp, đó là sinh hoạt thanh tịnh để tự nuôi sống, lìa các tham nhiễm.
Lại có một pháp, đó là tương ưng với sự sâu bền thường ngồi nơi vắng vẻ.
Lại có một pháp, đó là tuy đa văn nhưng thường định tĩnh.
Lại có một pháp, đó là như lý chánh tu hành địa Du-già.
Lại có một pháp, đó là như thật quán sát cảnh giới pháp không.
Lại có một pháp, đó là đối với lợi hay suy, tâm không phân biệt.
Lại có một pháp, đó là sợ chỗ ồn ào, một mình ở chốn núi rừng.
Lại có một pháp, đó là nếu được pháp lợi, cùng chia sẻ cho người.
Lại có một pháp, đó là trí khéo hiểu bốn Thánh đế.
Lại có một pháp, đó là đối với các pháp trí không tiếc giấu.
Lại có một pháp, đó là vì người chưa học, thành tựu việc học cho ho, mà tâm không thấy cao hơn.
Lại có một pháp, đó là hoặc được hoặc mất, tin tưởng nghiệp báo, không sinh nhiệt não.
Lại có một pháp, đó là đối với người cung kính nghe pháp thì khéo vì họ giảng nói pháp.
Lại có một pháp, đó là đối với thân hữu, lìa các tham ái, đối với tất cả chúng sinh khởi tâm bình đẳng.
Lại có một pháp, đó là đối với pháp sư thuyết pháp không khởi tâm dua nịnh mà thường tán thán.
Lại có một pháp, đó là dùng tâm điều thuận gánh vác tất cả chúng sinh.
Lại có một pháp, đó là đối với các Ba-la-mật, tương ưng dốc cầu.
Lại có một pháp, đó là tinh tấn trưởng nuôi dưỡng đạo hạnh Bồ-đề.
Lại có một pháp, đó là kiến lập tín căn, khiến không động chuyển.
Lại có một pháp, đó là ở trong quốc thành không phải không thọ thực.
Lại có một pháp, đó là tích tập bảy thứ Thánh tài không để thiếu thốn.
Lại có một pháp, đó là trong lòng chân thật, mạng căn an ổn vững vàng.
Lại có một pháp, đó là dùng phương tiện khéo léo, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh.
Lại có một pháp, đó là vì hành pháp thí nên khéo thâu giữ pháp.
Lại có một pháp, đó là lìa các tranh luận, thuyết pháp tối thượng.
Lại có một pháp, đó là dùng tâm không thủ đắc, nghe thọ chánh pháp.
Lại có một pháp, đó là xa lìa cấu nhiễm của Sa-môn để thành tựu Sa-môn.
Lại có một pháp, đó là dùng tâm không nhiễm ái vào vương thành, xóm làng.
Lại có một pháp, đó là thường nên quán sát lỗi lầm, khéo hộ trì tất cả chúng sinh.
Lại có một pháp, đó là từ bỏ các nghề nghiệp tạp nhạp của thế gian.
Lại có một pháp, đó là đối với Thiện tri thức cần phải thành thật.
Lại có một pháp, đó là tự tâm thanh tịnh rồi, lại khởi trí khiến tất cả tâm chúng sinh được thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là không hư dối nên nội tâm thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là hướng đến đạo tối thắng nên thâm tâm thanh tịnh, rồi dùng pháp này khéo làm cho phương tiện thắng nghiệp thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là phước thanh tịnh rồi thì các tướng thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là trí thanh tịnh rồi, phiền não thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là chúng sinh thanh tịnh rồi thì cõi nước thanh tịnh.
Lại có một pháp, đó là tuy quán vô tướng nhưng khéo hồi hướng.
Lại có một pháp, đó là tu nhẫn tùy thuận.
Lại có một pháp, đó là đối với ba cửa giải thoát, thường nên quán sát tu tập xuất ly.
Lại có một pháp, đó là trụ vô sở trụ.
Lại có một pháp, đó là chứng trí lậu tận thần thông diệu dụng.
Lại có một pháp, đó là trụ chỉ quán, việc làm thành tựu, đắc minh giải thoát.
Lại có một pháp, đó là siêng tu tuệ thuộc về phương tiện.
Lại có một pháp, đó là trụ trong ba cõi chứng đắc Bồ-đề tràng trang nghiêm.
Lại có một pháp, đó là tất cả pháp bình đẳng, hiện thành Chánh giác.
Lại có một pháp, đó là thâu nhận Đại thừa, nghĩa là tự tánh vô tánh của tất cả pháp vô sinh vô khởi. Biết như thế rồi liền đắc pháp Nhẫn vô sinh. Này Hải Ý! Đó là một pháp có thể thâu giữ Đại thừa. Những pháp của một pháp có thể thâu giữ Đại thừa như vậy rồi, còn các việc nương tựa, thâu giữ khác đều lìa bỏ.
Lại nữa, Hải Ý! Có hai pháp ở trong Đại thừa có thể làm nhiều. Những gì là hai?
1. Đối với pháp Phật, sinh tin hiểu thanh tịnh.
2. Chẳng ưa pháp Thanh văn, Duyên giác thừa.
Lại có hai pháp, ở trong Đại thừa khó làm. Những gì là hai?
1. Tự mình giải thoát khéo giúp người chưa giải thoát.
2. Theo họ, vì họ mà thuyết pháp giải thoát.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường không hoại diệt tâm đại Bồ-đề.
2. Quán sát chúng sinh, khéo vì họ mà kiến lập.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán tâm Bồ-đề giống như pháp huyễn.
2. Quán tất cả chúng sinh đều vô ngã.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tâm không nhàm chán xa lìa.
2. Phương tiện tu hành không hư giả.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Nội tâm thanh tịnh để làm căn bản.
2. Vì không tạo tác, không không tạo tác nên tu các phước hạnh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Siêng tu nơi phương tiện thiện căn.
2. Phương tiện tu hành khiến cho rốt ráo.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Không hý luận nên tu phương tiện.
2. Phương tiện tu hành trụ nơi cứu cánh nên tâm thanh tịnh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thâm tâm hướng đến thắng đạo.
2. Trong pháp tối thắng tạo chỗ duyên tối thắng.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Nói ra sự ăn năn lỗi mình.
2. Khiến người hết tội.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Bỏ các sở hữu.
2. Không cầu quả báo.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Khởi tâm bình đẳng hành bố thí.
2. Thường khéo hồi hướng.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Giữ giới không khuyết.
2. Không cầu sinh Thiên.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Đối với người hủy giới khởi tâm thương yêu.
2. Tự đầy đủ giới đức mà không khởi cao ngạo.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Ưa thích nhẫn nhục.
2. Hồi hướng Bồ-đề.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Lìa bỏ tâm tự cao.
2. Tôn kính người nhẫn.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Phát khởi tinh tấn, cầu các pháp lành.
2. Đối với các căn lành sinh tâm hoan hỷ.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Thân tâm tịch tĩnh.
2. Tâm lìa nương tựa.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tích tập thiền chỉ.
2. Tâm nghiệp tự tại.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Không tham đắm thiền vị.
2. Không chán Dục giới.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Siêng cầu chánh pháp.
2. Thường sinh pháp mong muốn.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát pháp.
2. Ở nơi pháp tịch định.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Gần gũi bạn lành.
2. Đối với sư trưởng tăng thêm tôn trọng.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Chuyên cần phụng sự.
2. Khéo nói tùy thuận.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đúng thời hay phi thời thường thưa hỏi.
2. Theo nghĩa đạt được ghi nhận vào tâm.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu trí nghĩa.
2. Tu trí pháp.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Văn tài không chán.
2. Văn tuệ không chán.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát pháp sâu bền.
2. Xa lìa pháp không sâu bền.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Như lý vì người nói pháp.
2. Đối với người nghe pháp khởi tâm thương yêu.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Không tiếc pháp.
2. Tâm không vì tài lợi vì người nói pháp.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đình chỉ nghe việc ngoài.
2. Thâu giữ các tâm.
Lại có hai việc khó làm:
1. Dứt trừ năm cái.
2. Tu bảy Giác phần.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đạt được hoan hỷ.
2. Tương ưng hỷ thọ.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Biết pháp biết lượng.
2. Tự biết cảnh giới mình.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tin ở nghiệp báo.
2. Khéo tu thắng hạnh.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Biết rõ các nghiệp báo tội lỗi.
2. Tăng trưởng tất cả pháp thiện.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Nói lời thành thật.
2. Không dối Thánh nhân.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Có thể làm như lời nói.
2. Không hoại Phật nhãn.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thân nghiệp thanh tịnh.
2. Lìa ba điều bất thiện về thân.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán thân giống như ảnh tượng.
2. Quán như cỏ cây ngói đá.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Ngữ nghiệp thanh tịnh.
2. Lìa bốn lỗi về lời nói.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tỏ ngộ pháp bất khả thuyết.
2. Trí rõ các âm thanh như tiếng vang.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tâm nghiệp thanh tịnh.
2. Xa lìa tham sân tà kiến.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Nội tâm dừng lặng.
2. Bên ngoài không giong ruổi.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tu quán tâm Từ.
2. Đối với các chúng sinh khởi tâm bình đẳng.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tâm như hư không, thanh tịnh vô cấu.
2. Tự độ độ tha, khéo hồi hướng.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường không xa lìa tâm đại Bi.
2. Siêng tu thiện căn không mệt mỏi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát vô sinh.
2. Khéo hộ xuất ly.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Du hành nơi vườn pháp.
2. Trừ tâm chán nản xa lìa.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Viên mãn pháp tịch mặc.
2. Khiến người chưa đủ pháp luôn tu hành.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Lìa bỏ ái nhiễm.
2. Dứt các tổn hại.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu hạnh xả.
2. Quán sát chúng sinh mà không thấy gian khổ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tu quán niệm Phật.
2. Trụ nơi vô niệm mà khởi tâm niệm.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán Pháp thân.
2. Thành tựu thân tướng hảo.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tu quán niệm pháp.
2. Thành tựu các pháp của chúng sinh.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát lìa tham.
2. Đối với chúng sinh hành tham, khởi tâm đại Bi.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tùy niệm các chúng Bồ-tát.
2. Quy hướng chúng Bất thoái chuyển.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát vô vi.
2. Hộ người đắc quả.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tùy niệm giới.
2. Thường không quên mất tâm đại Bồ-đề.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát giới không gia hạnh.
2. Thâu giữ ngăn chặn chúng sinh phá giới.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tùy niệm xả.
2. Xả rồi không sinh hối tiếc.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Dứt trừ phiền não của mình.
2. Vì chúng sinh thuyết pháp đoạn phiền não cho họ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tùy niệm thiên.
2. Không cầu sinh thiên.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Trụ tuệ chánh niệm.
2. Khiến người tâm tán loạn trụ nơi niệm xứ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tăng tu phước hạnh.
2. Tăng tu trí hạnh.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Khéo tu trí vô gia hạnh.
2. Đối với các phước hạnh không sinh chán nản, xa lìa.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Siêu việt các thứ chấp trước.
2. Đối với các ái chấp đều có thể giải thoát.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Ưa muốn thiện cao tột.
2. Không sinh dua nịnh dối trá.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tri ân.
2. Báo ân.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Đoạn trừ dục tham.
2. Đối với dục pháp thiện, không chán bỏ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Nói ra sự hối cải các tội lỗi.
2. Không gây các tội lỗi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Không làm ác.
2. Không khởi tùy miên.
Lại có hai việc thường làm:
1. Tùy hỷ phước của người.
2. Không chán phước mình.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Đối với tất cả tội, khởi trí diệt tận.
2. Đối với tất cả phước khởi trí nuôi dưỡng tăng trưởng.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Khuyến thỉnh chư Phật.
2. Hộ trì chánh pháp.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Biết pháp giới vốn không phân biệt.
2. Trí khéo phân biệt nói các cú nghĩa.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Khéo biết hồi hướng.
2. Tùy theo chỗ hồi hướng, cùng tất cả chúng sinh đều hồi hướng.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quyết trạch tướng vô.
2. Tu tướng các cõi.
Lại có hai việc thường làm:
1. Quán không.
2. Quán chiếu chúng sinh.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tuệ khởi, không có sự vui mừng.
2. Theo phương tiện mà có niềm vui.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Mong cầu thiện căn.
2. Vì các chúng sinh thành tựu thiện căn.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu tập vô nguyện.
2. Tích tập trí sở sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Không chấp trước.
2. Không động.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Không kiêu mạn.
2. Ưa thích an lạc.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Ưa ở chỗ tịch tĩnh.
2. Lãnh nạp công đức tịch tĩnh.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu hạnh tịch tĩnh.
2. Tự độ và độ tất cả chúng sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thiểu dục.
2. Tri túc.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tỉnh táo quán sát phiền não của mình.
2. Quán xét, đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường cảnh tỉnh lỗi mình.
2. Không quán lỗi người.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tự xa lìa cao ngạo.
2. Không hủy báng.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán ngã là vô ngã.
2. Quán chúng sinh là vô chúng sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. An định.
2. Quán sát.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường tự hành bố thí.
2. Nhận của người bố thí.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Xuất ly luân hồi.
2. Cứu độ tất cả chúng sinh trong luân hồi.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Siêng cầu Ba-la-mật.
2. Tùy theo các Ba-la-mật-đa đã cầu, trụ như đã nói.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Đắc trí hiện lượng.
2. Thành tựu trí khác.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Không cầu danh vọng, lợi dưỡng thế gian.
2. Siêng cầu chánh pháp.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Vì người không có lợi ích, làm cho họ lợi ích.
2. Người đã là lợi ích rồi khiến tăng thêm mãi.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thực hiện đại Từ không giới hạn.
2. Thực hành đại Bi không gián đoạn.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Người đã được độ thoát làm cho chứng ngộ.
2. Người chưa được độ vì họ mà cứu độ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Vì các chúng sinh thành tựu công đức.
2. Đối với chúng sinh vô đức, khởi tâm đại Bi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Người không có lợi ích, làm hạnh lợi ích.
2. Đã làm lợi ích rồi, không khởi tưởng nào khác.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường khởi quán Thân niệm xứ.
2. Thân trụ thanh tịnh.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tác quán tùy niệm thân trong thân.
2. Không cùng thân đồng khởi tầm từ và đạo tầm tứ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường tác quán Thọ niệm xứ.
2. Đối với cảm thọ khổ lạc… không lãnh nạp.
Lại có hai việc khó làm:
1. Tác quán tùy niệm thọ trong thọ.
2. Không cùng thọ đồng khởi tầm tứ và đạo tầm tứ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường tác quán Tâm niệm xứ.
2. Tâm trụ thanh tịnh.
Lại có hai việc khó làm:
1. Tác quán tùy niệm tâm trong tâm.
2. Không cùng tâm đồng khởi tầm tứ và đạo tầm tứ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường tác quán Pháp niệm xứ.
2. Thường khởi trí quyết trạch pháp.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tác quán niệm xứ pháp trong pháp.
2. Không cùng pháp đồng khởi tầm tứ và đạo tầm tứ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đoạn trừ tất cả pháp bất thiện đã sinh.
2. Có thể giữ gìn tất cả pháp thiện đã sinh.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Các pháp bất thiện chưa sinh phòng hộ khiến không sinh.
2. Tất cả pháp thiện chưa sinh, phải làm cho sinh khởi.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường tu bốn thứ Thần túc là dục cần tâm tuệ.
2. Nên dùng thần túc độ được chúng sinh mà khéo độ họ.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Đạt được thần biến vô gia hạnh.
2. Pháp giới bất động có thể ở trong tất cả cõi Phật hiển hiện thần biến.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Niềm tin đã đạt được không lay chuyển.
2. Đối với người chưa tin khiến đầy đủ lòng tin.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tự tâm không tạp nhiễm.
2. Khiến chúng sinh tâm nhiễm được thanh tịnh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Phát khởi các tinh tấn căn.
2. An trú niệm căn, không sinh tán loạn.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quyết trạch khéo quán các tinh tấn căn.
2. Không chấp trước tướng không mà khởi niệm.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đối với định tuệ căn, siêng năng tu các hạnh.
2. Các hạnh đã tu, không sinh mệt mỏi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu trí không chỗ hành.
2. Thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, có chốn hành.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Quán các phiền não, lìa phiền não.
2. Phiền não đã sinh, dốc cầu ra khỏi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tất cả pháp không hòa hợp, vì vốn lìa phiền não.
2. Ba cõi hòa hợp vì đoạn các phiền não của tất cả chúng sinh.
Lại nữa, này Đại Bồ-tát Hải Ý! Lại có hai pháp ở trong Đại thừa có thể thường làm:
1. Tinh tấn tu bảy Giác chi.
2. Thâm tâm thuyết giảng pháp Giác chi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Không trú tận trí.
2. Đạt Trí nhẫn vô sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Khéo hành chánh đạo.
2. Khéo biết phi đạo mà không làm.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu hướng Đạo trí.
2. An lập chánh đạo.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tùy thuận pháp duyên sinh.
2. Lìa kiến nhị biên.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Khéo biết nhân nhiễm, duyên nhiễm của tất cả chúng sinh.
2. Khéo biết nhân tịnh, duyên tịnh của tất cả chúng sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Biết rõ việc của ma.
2. Xa lìa việc ma.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Xa lìa các ma.
2. Khiến các ma quy phục.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Pháp đã tận lại không chỗ tận.
2. Pháp vô tận mà không thể tận.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Hiểu rõ xưa nay vô tận.
2. Quán rõ sát-na hoại diệt của các pháp.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Từ mới phát tâm liền quán sát Đại Bồ-đề tràng.
2. Quán sát Bồ-đề tràng nên không thích thừa khác.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Lúc mới phát tâm là liền xuất sinh nhân Bồđề tràng.
2. Trí khởi các tâm thiện mà không chấp giữ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đoạn các kết sử cho kẻ sinh tử tương tục.
2. Người có thiện căn tương tục khiến họ phát tâm không sinh chán nản.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Hoặc có phương phần hoặc không phương phần, tất cả đều đem hồi hướng về Bồ-đề vô thượng.
2. Tuy hồi hướng Bồ-đề mà luôn khởi tâm quán rõ đều như pháp huyễn.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Khiến khắp chúng sinh quán Bồ-đề.
2. Chúng sinh đã quán Bồ-đề thì khiến họ quán giải thoát.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát Bồ-đề là bình đẳng nên chúng sinh cũng bình đẳng.
2. Thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, tinh tấn không mỏi mệt.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Phát tâm như lý mà quyết trạch tất cả các pháp thiện.
2. Phát tâm đại Bi, đem chúng sinh vào đạo Niết-bàn.
Này Hải Ý! Đó là hai pháp ở trong Đại thừa mà thường làm.
Lại có hai pháp ở trong Đại thừa rất khó làm:
1. Vô sinh mà sinh.
2. Vô khởi mà khởi.
Đó là hai pháp ở trong Đại thừa rất khó làm.
Lại nữa, này Hải Ý! Có ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa. Những gì là ba?
1. Phát tâm Bồ-đề tăng tu thiện căn.
2. Được Thiện tri thức thâu nhận không hề sinh chán mệt.
3. Kiến lập đại Bi mà không thoái chuyển.
Lại có ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa:
1. Siêng tu thắng hạnh.
2. Quán sát các hành.
3. Ở trong thắng hạnh vì các chúng sinh mà khéo thành thục.
Lại có ba pháp:
1. Dừng chỉ tâm xan tham.
2. Hành thí xả rộng lớn.
3. Hồi hướng Bồ-đề.
Lại có ba pháp:
1. Tự tích tập tịnh giới.
2. Theo hộ người phá giới.
3. Hồi hướng Bồ-đề.
Lại có ba pháp:
1. Tâm không chướng ngại.
2. Chúng sinh sân hận khiến họ được thanh tịnh.
3. Hồi hướng Bồ-đề.
Lại có ba pháp:
1. Tinh tấn không mệt.
2. Có thể hộ trì chúng sinh biếng nhác.
3. Hồi hướng Bồ-đề.
Lại có ba pháp:
1. Sinh theo thiền định.
2. Không đắm chấp nơi thiền định.
3. Hồi hướng Bồ-đề. Lại có ba pháp:
1. Siêng cầu đa văn.
2. Như đa văn mà quán sát.
3. Hồi hướng Bồ-đề.
Lại có ba pháp:
1. Khởi tâm Từ nơi duyên chúng sinh.
2. Khởi tâm Từ nơi duyên pháp.
3. Khởi tâm Từ nơi không duyên.
Lại có ba pháp:
1. Khởi tâm Bi nơi việc làm của chính mình.
2. Khởi tâm Bi vì việc làm của người khác.
3. Khởi tâm Bi vì lìa nhị biên.
Lại có ba pháp:
1. Siêng cầu trí tự lợi.
2. Siêng cầu trí lợi tha.
3. Siêng phát khởi tinh tấn, tự lợi và lợi tha đều viên mãn.
Lại có ba pháp:
1. Biết trí quá khứ đã qua.
2. Biết trí vị lai chưa đến.
3. Trí hiện tại trú pháp giới.
Lại có ba pháp:
1. Khởi Từ phương tiện với chúng sinh chánh định.
3. Khởi Từ giải thoát với chúng sinh bất định.
4. Khởi Từ đại cứu độ với chúng sinh tà định.
Lại có ba pháp:
1. Đắc lạc thọ nên thân nghiệp thong dong.
2. Khéo hộ người khác nên lời nói dịu dàng.
3. Hành dụng chánh nghiệp nên tâm nghiệp bao dung.
Lại có ba pháp:
1. Tuy tu quán bất tịnh nhưng đối với chúng sinh hành tham không hề sinh lòng chán ghét.
2. Tuy tu quán từ tâm nhưng đối với chúng sinh hành sân không sinh lòng chán xa.
3. Tuy tu quán duyên sinh nhưng đối với chúng sinh hành si không hề sinh lòng chán ghét.
Lại có ba pháp:
1. Vì lợi ích mà tu thắng hạnh.
2. Hoan hỷ thường biết đủ.
3. Luôn luôn trong lặng không hề nhiệt não.
Lại có ba pháp:
1. Giữ gìn chỗ nghe.
2. Đạt văn cú Tổng trì.
3. Nhập trí Thánh đoạn dứt việc trước sau.
Lại có ba pháp:
1. Vì thâu giữ bảy Thánh tài nên không hề thiếu thốn.
2. Vì pháp thí vô ngại nên có thể hành đại Xả.
3. Tất cả tài lợi vì chia nhiều phần để thí Xả nên thường đắc đại phú.
Lại có ba pháp:
1. Vì Thánh đế nên nhập Thắng nghĩa đế.
2. Vì chân thật nên không hư dối.
3. Vì chân thường nên không biến đổi.
Lại có ba pháp:
1. Tự biết nay mình phải làm gì.
2. Biết chúng sinh sẽ phải làm gì.
3. Biết thời, hiểu rõ các phần vị của thời và phi thời.
Lại có ba pháp:
1. Uẩn và pháp uẩn đều bình đẳng.
2. Giới và pháp giới bình đẳng.
3. Quán xứ như hư không.
Lại có ba pháp:
1. Không hủy hoại nhân quả.
2. Khéo trưởng dưỡng các duyên.
3. Cùng nhau hòa hợp thể nhập.
Lại có ba pháp:
1. Không trái nghịch với Phật.
2. Không hủy báng Pháp.
3. Không khinh mạn chúng Tăng mà thường tôn trọng, cung kính, thừa sự.
Lại có ba pháp:
1. Dừng chỉ tâm tham.
2. Xa lìa nơi sân.
3. Hiểu rõ về si.
Lại có ba pháp:
1. Nhập thế tục đế.
2. Nói tướng chân thật.
3. Hiểu rõ Thắng nghĩa đế vô trụ.
Lại có ba pháp:
1. Đối với chúng sinh không khởi khinh mạn.
2. Đối với A-la-hán thường sinh tôn kính.
3. Không bị sự ràng buộc của phiền não.
Lại có ba pháp:
1. Không nhiễm Dục giới.
2. Không thích Sắc giới.
3. Không tham đắm Vô sắc giới.
Lại có ba pháp:
1. Đối với suy, chê, trách, khổ, tâm không tự ty.
2. Đối với lợi, khen, đề cao, vui tâm không tự tôn.
3. Không nhiễm tám pháp của cõi đời, giống như núi Tu-di an trú bất động.
Lại có ba pháp:
1. Các căn ẩn mật.
2. Khéo hiểu các kết sử.
3. Khéo điều phục tâm.
Lại có ba pháp:
1. Kiến lập phần vị công đức.
2. Có thể xa lìa phần vị lầm lỗi.
3. Ở nơi mọi phần vị luôn khéo thắng tấn.
Lại có ba pháp:
1. Nội tâm khởi trí thắng thượng.
2. Thâm tâm khởi trí sai biệt.
3. Theo phương tiện khởi trí an lập.
Lại có ba pháp:
1. Định thanh tịnh rồi đắc giới học thắng thượng.
2. Tuệ viên mãn rồi đắc tâm học tăng thượng.
3. Giải thoát viên mãn rồi đắc tuệ học tăng thượng.
Lại có ba pháp:
1. Lạc thọ đoạn trừ tham ái.
2. Khổ thọ đoạn trừ sân hận.
3. Không khổ không lạc đoạn trừ vô minh.
Lại có ba pháp:
1. Tuy chuyển nhân mà vô gia hạnh.
2. Tuy chuyển phiền não mà vô phân biệt.
3. Tuy chuyển ba cõi mà không nguyện.
Lại có ba pháp:
1. Quyết trạch nơi Không, xa lìa các kiến.
2. Quyết trạch về Vô tướng, dừng chỉ tầm tứ.
3. Quyết trạch về Vô nguyện ba cõi tịch diệt.
Lại có ba pháp:
1. Nhãn không.
2. Cảnh sắc lìa tánh.
3. Nhãn thức vô trú.
Lại có ba pháp:
1. Nhĩ không.
2. Cảnh thanh lìa tánh.
3. Nhĩ thức vô trú.
Lại có ba pháp:
1. Tỷ không.
2. Cảnh hương lìa tánh.
3. Tỷ thức vô trú.
Lại có ba pháp:
1. Thiệt không.
2. Cảnh vị vô tánh.
3. Thiệt thức vô trú.
Lại có ba pháp:
1. Thân không.
2. Cảnh xúc lìa tánh.
3. Thân thức vô trú.
Lại có ba pháp:
1. Ý không.
2. Cảnh pháp lìa tánh.
3. Ý thức vô trú.
Lại có ba pháp:
1. Mật tu nơi giới.
2. Khéo hộ nơi định.
3. Quyết trạch ở tuệ.
Lại có ba pháp:
1. Tu niệm gìn giữ chánh pháp.
2. Tu tuệ quán sát lâu bền.
3. Tu hành biết rõ nghĩa hành.
Lại có ba pháp:
1. Tùy trú trong Thánh đế của Thanh văn mà nói pháp giải thoát.
2. Tùy trú nơi pháp duyên sinh của Duyên giác mà nói pháp giải thoát.
3. Tùy trú nơi các thắng hạnh của sáu Ba-lamật của Bồ-tát mà nói pháp giải thoát.
Lại có ba pháp:
1. Xả: Nghĩa là xả thí tất cả châu báu.
2. Đại xả, nghĩa là xả vợ con, tôi tớ, quyến thuộc.
3. Cực xả, nghĩa là xả đầu, mắt, chân, tay… của thân.
Lại có ba pháp:
1. Hộ trì chánh pháp.
2. Hộ trì các pháp sư thuyết pháp.
3. Hộ trì pháp Đại thừa.
Lại có ba pháp:
1. Không làm cho sinh tử tương tục.
2. Giác ngộ lỗi lầm của sinh tử. 3. Xa lìa nghiệp tội của sinh tử.
Lại có ba pháp:
1. Tâm không bị ngăn che mà nghe nhận chánh pháp.
2. Tâm không tùy niệm mà thường an tọa.
3. Dùng tâm xuất ly mà tu hành chân chánh.
Lại có ba pháp:
1. Chỗ nghe nương nơi nghĩa.
2. Quán sát dựa vào trí.
3. Giải thoát dựa vào pháp.
Lại có ba pháp:
1. Bậc đa văn thích ở vắng lặng.
2. Trú trong vắng lặng rồi tác ý sâu bền.
3. Tác ý tương ưng sâu bền mà có thể thấu đạt các pháp bình đẳng.
Lại có ba pháp:
1. Cung kính bậc Trí.
2. Thỉnh vấn bậc đa văn.
3. Hộ trì bậc tu định.
Lại có ba pháp:
1. Không dùng tâm đắc lợi mà hành pháp thí.
2. Đối với người thính pháp dùng tâm Từ thâu nhận.
3. Khởi chỗ làm hiện tiền của tâm Nhất thiết trí.
Lại có ba pháp:
1. Tâm bình đẳng nên chúng sinh bình đẳng.
2. Không có chủng chủng tính nên các pháp bình đẳng.
3. Trí bình đẳng nên chư Phật bình đẳng.
Lại có ba pháp:
1. Trí biết ba đời bình đẳng.
2. Tuệ rõ tâm giải thoát bình đẳng.
3. Tỏ ngộ ba cõi bình đẳng.
Lại có ba pháp:
1. Khéo quán sát các hành là vô thường, là khổ.
2. Khéo quán sát các pháp vô ngã.
3. Khéo quán Niết-bàn vắng lặng.
Lại có ba pháp:
1. Vì thệ nguyện chân thật nên trú rốt ráo.
2. Chỗ nghe chân thật, như lý tu hành.
3. Tam-ma-địa chân thật nên phát sinh Thắng tuệ.
Lại có ba pháp:
1. Tội đã tạo không hề che giấu.
2. Tội chưa tạo ngăn ngừa không khởi.
3. Tất cả nghiệp tội hiện có đều sám hối diệt trừ.
Lại có ba pháp:
1. Xa lìa việc làm ác.
2. Xa lìa tùy miên.
3. Xa lìa nghi hoặc. Lại có ba pháp:
1. Thích ở chốn vắng lặng.
2. Xa lìa tham ái.
3. Phát khởi pháp thiện.
Lại có ba pháp:
1. Trú pháp nhẫn sâu.
2. Thuyết vô lượng pháp.
3. Thông đạt biện tài tất cả xứ.
Lại có ba pháp:
1. Chỗ nghe quyết định Tổng trì.
2. Được Phật gia trì biện tài.
3. Các chỗ thuyết pháp được Thánh hiền thâu giúp.
Lại có ba pháp:
1. Mới phát tâm bình đẳng như mặt đất.
2. Các hành rốt ráo, các hành tương tục.
3. Tuy chuyển các tưởng mà trú nơi Bất thoái chuyển.
Lại có ba pháp:
1. Chỗ nghe viên mãn thành tựu pháp nhẫn.
2. Nghĩ về sự thành tựu pháp nhẫn mà không đổi mất.
3. Đạt được pháp Nhẫn vô sinh.
Lại có ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa:
1. Tuệ cùng với phương tiện hòa hợp, tu các đạo hạnh.
2. Đại Từ, đại Bi hòa hợp, thành thục cho chúng sinh.
3. Tinh tấn, không phóng dật hòa hợp hộ trì chánh pháp.
Này Hải Ý! Đó là ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa.
Lại nữa, này Hải Ý! Có bốn pháp làm chướng ngại ở trong Đại thừa. Những gì là bốn?
1. Lãnh hội đều xấu ác, nghĩa là tìm học các sách vở của ngoại đạo.
2. Không nghe nhận tạng chánh pháp, sáu Bala-mật của Bồ-tát.
3. Tâm mạn tăng thượng khởi các nghiệp ma.
4. Nghiệp chướng đeo đuổi, hủy báng chánh pháp.
Lại có bốn pháp làm chướng ngại ở trong Đại thừa:
1. Tham ái.
2. Sân hận.
3. Ngu si.
4. Phiền não đầy dẫy, không cầu công đức của pháp thiện.
Lại có bốn pháp:
1. Đố kỵ kẻ khác để mình được lợi.
2. Dua nịnh để gần gũi với các pháp sư.
3. Khởi tuệ thông lợi, làm việc lợi ích theo kiểu cuồng vọng.
4. Dùng tâm không thật làm chuyện hư dối.
Lại có bốn pháp:
1. Đối với bạn lành mà nghĩ tưởng là bạn ác.
2. Đối với bạn ác mà tưởng là bạn lành.
3. Ở trong phi pháp mà nghĩ tưởng là chánh pháp.
4. Ở trong chánh pháp mà nghĩ tưởng là phi pháp.
Lại có bốn pháp:
1. Thường khởi tâm keo kiệt.
2. Thấy người ăn xin liền khởi tâm tổn hại lầm lỗi.
3. Bố thí rồi sinh tâm luyến tiếc.
4. Khởi tâm trái nghịch với Nhất thiết trí.
Lại có bốn pháp:
1. Theo tâm dục hành thí.
2. Tâm lỗi lầm hành thí.
3. Bố thí tâm sợ hãi.
4. Bố thí tâm ngu si.
Lại có bốn pháp:
1. Vì cầu danh tiếng mà bố thí.
2. Vì cầu lời khen tốt mà bố thí.
3. Cầu tiếng thơm mà bố thí.
4. Vì cầu khen ngợi mà bố thí.
Lại có bốn pháp:
1. Vì tình nghĩa mà bố thí.
2. Vì có lý do mà bố thí.
3. Bố thí vì sự mờ ám.
4. Không tự tay bố thí.
Lại có bốn pháp:
1. Dùng vật thô bố thí.
2. Bố thí mà không trân trọng.
3. Bố thí không cung kính.
4. Bố thí mà khởi tăng thượng mạn.
Lại có bốn pháp:
1. Dùng dao bén bố thí.
2. Dùng độc dược bố thí.
3. Pháp thí không có phép tắc.
4. Bố thí với tâm tổn hại.
Lại có bốn pháp:
1. Đối với người trì giới mà sinh lòng sân hận.
2. Đối với người phá giới không hề giúp đỡ mà khởi tâm tổn hại họ.
3. Sự tu giới của mình thường bị tạp loạn.
4. Đối với người thuyết giới mà khởi lòng sát hại.
Lại có bốn pháp:
1. Thích cầu tài lợi dầu cho gian khổ.
2. Nếu được tài lợi mà không chia phần đồng đều cho kẻ khác.
3. Không muốn người đạt được lợi dưỡng.
4. Chính mình được lợi mà không hề biết đủ.
Lại có bốn pháp:
1. Thân luồn cúi, không có đạo hạnh oai nghi.
2. Lời nói quanh co không thật.
3. Tâm khúc mắc tạo tác các tội.
4. Tất cả chỗ khúc mắc là vì không nuôi dưỡng thân mạng một cách thanh tịnh.
Lại có bốn pháp:
1. Đối với người đồng trú Đại thừa khởi tâm sân nhuế.
2. Vì tăng thượng mạn nên không thể hiểu rõ các việc ma.
3. Nghe điều chẳng chân chánh thì liền vui làm.
4. Nghe các điều thiện công đức, thì sinh phiền não.
Lại có bốn pháp:
1. Vì kiêu mạn nên không thể gần gũi chánh pháp.
2. Đối với pháp sư thuyết pháp không khởi lòng tôn trọng.
3. Đối với phụ mẫu, sư trưởng, thân giáo sư không sinh lòng quy kính.
4. Thân tâm hung dữ, các chỗ khởi làm thường sinh lòng trái nghịch.
Lại có bốn pháp:
1. Xiển dương đức hạnh của mình.
2. Che giấu đức hạnh người khác.
3. Bị ngã mạn thiêu đốt.
4. Hung dữ, sân giận.
Lại có bốn pháp:
1. Biếng nhác.
2. Hôn trầm.
3. Không chánh thuận.
4. Chấp trước.
Lại có bốn pháp:
1. Không điều phục.
2. Không tịch tĩnh.
3. Không ẩn mật.
4. Không nhu thiện.
Lại có bốn pháp:
1. Còn cạn cợt mà đi vào quốc thành, xóm làng.
2. Không đủ giới Uẩn mà cầu lợi dưỡng.
3. Không giữ gìn oai nghi mà vào nhà nữ nhân.
4. Không trú định tâm Đẳng dẫn để thể nhập căn tánh chúng sinh.
Lại có bốn pháp:
1. Không thể siêng tu bốn Nhiếp pháp.
2. Xả bỏ sự thành tựu đầy đủ cho chúng sinh.
3. Hủy báng chánh pháp, không hề hộ trì.
4. Đối với người thuyết pháp lại sinh lòng quấy nhiễu.
Lại có bốn pháp:
1. Ngu si, thường sinh đa dục.
2. Sân hận, thích làm các việc lỗi lầm.
3. Tham ái, không sinh lòng biết đủ.
4. Cầu lợi, tâm thường không chán.
Lại có bốn pháp:
1. Bất tín nên thường trạo cử.
2. Thân cận bạn ác, không chán bỏ nghiệp tội.
3. Biếng trễ, làm giảm mất pháp thiện.
4. Phóng dật nên việc làm thiện căn đều tiêu mất.
Lại có bốn pháp:
1. Không thể quán sát bên trong nên thường không hổ.
2. Tuệ giải không sáng tỏ nên thường không thẹn.
3. Ngang bằng với nghiệp vô gián nên không biết tri ân.
4. Tuy đối với tha nhân đã không làm lợi ích mà chính mình còn đánh giết họ, lại còn vu khống cho kẻ khác.
Lại có bốn pháp:
1. Sân.
2. Phẫn.
3. Hận.
4. Hại.
Lại có bốn pháp:
1. Lừa dối chư Thánh.
2. Không hộ chư Thánh.
3. Khinh mạn thí chủ.
4. Đối với A-la-hán khởi tăng thượng mạn.
Lại có bốn pháp:
1. Thân nghiệp không thể thanh tịnh.
2. Ngữ nghiệp không thể khéo giữ gìn.
3. Tâm nghiệp tạp nhiễm.
4. Ở trong Đại thừa mà sinh lòng chán mệt.
Lại có bốn pháp:
1. Ở nơi chúng hội mà nói lời hai lưỡi.
2. Ở nơi sư trưởng, A-xà-lê mà phát ra ngôn từ thô ác.
3. Đối với người đến cầu xin thì nói lời thêu dệt.
4. Lừa dối trời, người.
Lại có bốn pháp:
1. Không giữ gìn giới uẩn.
2. Không vượt khỏi đời khác.
3. Đánh mất thiện căn.
4. Phá hoại sự trưởng dưỡng thắng hạnh.
Lại có bốn pháp:
1. Ở trong đại chúng khởi tâm ương bướng.
2. Ở chỗ chúng hội giữ tâm cao ngạo.
3. Thường nói ra lời ác, muốn trốn chạy tội lỗi.
4. Dùng lời tạp loạn mà cho là kinh điển thế gian.
Lại có bốn pháp:
1. Không đem tâm siêng hành ở chỗ vắng lặng.
2. Tâm nhiều tổn hại ở nơi chỗ náo nhiệt.
3. Không trồng thiện căn mà tưởng mình có phước đức.
4. Trộm danh Bồ-tát để cầu lợi nuôi thân.
Lại có bốn pháp:
1. Tâm không nhu thuận.
2. Tâm ấy thô bạo.
3. Tâm không điều phục.
4. Đối với chúng sinh khởi tâm phiền khổ.
Lại có bốn pháp:
1. Ỷ lại vào sự trì giới.
2. Ỷ lại vào đa văn.
3. Ỷ vào chỗ trú A-lan-nhã.
4. Ỷ lại vào công đức khổ hạnh.
Lại có bốn pháp:
1. Cho ngã là thù thắng.
2. Cho pháp là thù thắng.
3. Chỉ một chút thiện căn mà cho là tối thắng, không hồi hướng Bồ-đề.
4. Đầu tiên thì tu hạnh Đại thừa nhưng giữa đường thì thích pháp Thanh văn, Duyên giác.
Lại có bốn pháp:
1. Chấp trước vào thân
2. Chấp trước vào tâm.
3. Chấp trước vào giới.
4. Không hướng đến Thắng đạo.
Lại có bốn pháp:
1. Thân hữu đến xin chỗ thì chẳng cho.
2. Chạy theo lợi dưỡng mà tự cho là thanh tịnh, lại còn vui mừng khi thấy kẻ phá giới.
3. Mê đắm nhà thế.
4. Đối với người giới luật tròn đủ mà lại sinh lòng sân hận, sinh khởi các sự ràng buộc bằng các việc làm gian khổ.
Lại có bốn pháp:
1. Làm nhiều việc.
2. Cầu lợi nhiều.
3. Nói năng nhiều.
4. Tri kiến nhiều.
Lại có bốn pháp:
1. Ngã kiến, chấp trước nơi ngã.
2. Chúng sinh kiến, chấp trước chúng sinh.
3. Đoạn kiến, chấp trước nơi vô tác.
4. Thường kiến, chấp trước nơi thân mạng.
Lại có bốn pháp:
1. Ở nơi một việc mà sinh khởi trùng trùng muôn việc.
2. Đã sinh khởi rồi thì không thể làm chủ.
3. Không thể làm chủ nên sinh mệt mỏi.
4. Vì mệt mỏi nên mới sợ hãi.
Lại có bốn pháp:
1. Không tu trí tuệ để thăng tiến lên các địa.
2. Không thể khéo tu thiền định.
3. Bỏ quên không hành thắng tuệ của chúng sinh.
4. Tu nguyện và phương tiện mà khởi chỗ thủ đắc.
Lại có bốn pháp:
1. Tùy miên chướng pháp mà căn tánh độn.
2. Tùy miên chướng nghiệp nên không siêng hành các thiện căn.
3. Tùy miên chướng phiền não, ba uẩn tùy chuyển.
4. Chạy theo việc ma bỏ quên tâm Bồ-đề.
Này Hải Ý! Những loại bốn pháp như vậy làm chướng ngại ở trong Đại thừa.
Lúc Đức Thế Tôn giảng nói Đại thừa thâu giữ các pháp, trong chúng hội có bốn vạn bốn ngàn chúng sinh và một ngàn trời, người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có hai vạn tám ngàn Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh. Khi ấy, tam thiên thế giới chấn đủ động sáu cách, có ánh sáng lớn tỏa chiếu khắp mười phương, một ngàn chúng trời, người ở trong hư không cùng phát lời khen ngợi và vui mừng vây quanh; lại có mưa xuống vô số hoa trời vi diệu, nhạc trời tấu vang, tiếng trống lời ca diệu mầu cúng dường, tất cả đều dùng diệu kệ khen ngợi:
Đại pháp tạng vô thượng như vậy
Hôm nay Như Lai tự mở bày
Đã lâu an trú đại Từ bi
Vì các chúng sinh soi tỏ rõ.
Nói kệ này rồi, họ liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Đại pháp bảo tạng này của Như Lai có thể thọ trì dẫu chỉ một phần rất nhỏ thì người ấy mau chóng giải thoát mọi sự sợ hãi của địa ngục, dần dần sẽ có thể chuyển pháp luân vô thượng.
Bạch Thế Tôn! Ví như có người đi đến một châu thành, làng xóm kia không xa lắm thấy kho chứa châu báu nơi lòng đất nhiều vô kể. Vì người này có tâm lợi ích nên liền đến nơi châu thành ấy nói với mọi người: “Các ngươi hãy khéo đến đó, nếu muốn tìm các châu báu thì ta biết nơi ấy, ta sẽ chỉ cho các ông vô số châu báu đang ẩn giấu”. Bạch Thế Tôn! Trong châu thành ấy có một loại người tuy nghe lời nói ấy mà không chịu tin nhận; lại có một loại người, thì tin vào lời nói ấy nên liền cùng với người kia đến chỗ đến chỗ cất giấu vật báu tùy theo sức và trí của mỗi người tha hồ lấy các châu báu đem về, nhưng chỗ chỗ chứa này thì vô tận, cũng không phân biệt người này ta cho người kia, ta không cho người này được lấy người kia không được lấy. Vì sao? Vì chỗ cất chứa vật báu ấy không hề phân biệt.
Bạch Thế Tôn! Chư Phật Thế Tôn thuyết đại pháp bảo tàng cũng lại như vậy. Đức Phật ở trong a-tăng-kỳ câu-chi na-do-tha kiếp đã tích chứa Bảo tạng diệu pháp quảng đại vô thượng như vậy. Đã tích chứa rồi đến đạo tràng Bồ-đề thành đạo quả Chánh giác; sau đó chuyển đại pháp luân ở vườn
Lộc uyển thuộc nước Ba-la-nại. Hôm nay, Đức Thế Tôn lại chuyển chánh pháp trong đại hội này, mở bày Đại pháp bảo tạng vô thượng. Nhưng Phật Thế Tôn dùng tâm không chấp trước, luôn khởi tâm đại Bi làm các việc lợi lạc cho mọi chúng sinh nhưng họ không hề hay biết. Đức Phật Thế Tôn đã dùng Phạm âm nhiệm mầu khuyến dụ cùng khắp cả Trời, Người, A-tu-la: “Các ngươi nên đến đây để thọ trì Pháp bảo quảng đại vô thượng, pháp này có thể đoạn tận nguồn cội của sinh, lão, bệnh, tử, có thể ban phát tất cả niềm vui vi diệu vô tận.”
Bạch Thế Tôn! Hoặc có một loại người ngu si, không đủ niềm tin, nên đối với chánh pháp này không sinh thắng giải, lại không thuận theo nẻo chánh không thể phân biệt nên không sinh tín tâm. Hoặc có một loại người đủ niềm tin, đối với chánh pháp này có thể khéo phân biệt nên sinh thắng giải, lại khởi sự thuận hợp chân chánh có thể phân biệt rõ nên sinh lòng tin thanh tịnh sâu xa. Người đó mới có thể đối với đại pháp bảo tạng của Như Lai tùy sức nhận lãnh pháp bảo ấy. Tự lấy pháp báu rồi, lại khiến cho người khác ở trong pháp giải thoát của các thừa sinh tâm tin, hiểu. Hoặc có kẻ tính thích trú ở thừa Thanh văn, hoặc tánh thích trú thừa Duyên giác, hoặc có người thích trú Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng đại pháp bảo tạng tối thắng vô thượng của Như Lai thì không cùng tận, cũng không phân biệt.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nay Đại pháp bảo tạng vô thượng này đã khai mở, chỉ bày rộng lớn như vậy, nhưng các chúng sinh đối với pháp tổng lược này không thể nắm lấy dẫu cho một phần rất nhỏ. Những người đó vì không được pháp báu nên hành ba nẻo ác trong cõi sinh tử không cùng tận.
Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người đối với Đại pháp bảo tạng vô thượng tóm lược này, cho đến hoặc chỉ có thể thọ trì một bài kệ bốn câu, thì người ấy đầy đủ bảy Thánh tài, không bao giờ thiếu thốn, huống hồ là có thể tín phụng, thọ trì một phẩm chánh pháp tóm lược của pháp hội rộng lớn này; hoặc lại thọ trì hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, bảy mươi phẩm, cho đến có thể thọ trì trọn vẹn thì người ấy đạt được công đức không thể tính đếm. Vì sao? Vì pháp môn này không lìa tâm Bồ-đề, vì sự bức xúc đối với tất cả chúng sinh mà khởi tâm đại Bi. Cho nên, nếu người nào có thể khởi tịnh tâm và thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói, nên biết người ấy sẽ được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng, Chánh giác, sẽ được ngồi đạo tràng, hàng phục quân ma, ở trong Đại thừa đắc đại thần thông.
Lúc ấy, Thế Tôn khen ngợi các Thiên tử:
–Lành thay, lành thay! Các chúng Thiên tử! Các ngươi đã khéo giảng nói. Nên biết người khéo có thể thọ trì, đọc tụng chánh pháp này và sinh khởi thắng giải, như lý tu hành tức người ấy đã kiến lập tất cả ngôn ngữ, công đức thắng diệu, người ấy cũng đạt đến đỉnh cao của Nhất thiết trí. Lại biết người ấy rộng vì tất cả thế gian tạo ra ánh sáng trí tuệ tỏa chiếu rộng khắp, đến đạo tràng Bồđề và không lâu sẽ thành đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì người ấy có thể cỡi xe Đại thừa này.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng kệ tụng:
Kiến lập đạo Tối thắng
Các Phật thừa rộng lớn
Như ánh sáng hư không
Vượt hơn các thế gian.
Ra khỏi ba cõi rồi
Lại đến Bồ-đề tràng
Không khởi tâm vướng mắc
Và lìa các ràng buộc.
Tích tập câu-chi kiếp
Thuyết rộng lớn, thanh tịnh
Môn bố thí, thiền định
Khiến nội tâm sâu bền.
Nhờ giới dứt các tội
Thân tâm được thanh tịnh
Lìa các tâm sợ hãi
Đi đến Bồ-đề tràng.
Tâm và ý bình đẳng
Bao dung hết chúng sinh
Thắng vượt các thừa khác
Là các thừa tạm lập.
Hướng đến pháp Đại thừa
Khiến chúng sinh hoan hỷ
Dựng cao cờ đại pháp
Thần túc như thuần ngựa.
Văn, tinh tấn tương tục
Thiền định làm tòa ngồi
Sức nhẫn nhục tùy đắc
Đại trí tuệ quán đảnh.
Hàng phục các ngoại đạo
Phá xong các quân ma
Đến đạo tràng Bồ-đề
Hướng về pháp Đại thừa.
Tâm từ là áo giáp
Oán, ác không thể hủy
Hành đại Bi kiên cố
Hướng lý pháp thâm diệu.
Bốn Thiền, bốn Thần túc
Cỡi bốn Vô lượng hạnh
Hằng có tâm Bồ-đề
Không lìa bỏ Chánh đạo.
Mười phương cõi vô biên
Tất cả chúng sinh giới
Đều ở Đại thừa này
An trú mà tiến tu.
Không khổ cũng không vui
Không giảm cũng không tăng
Trong Phật thừa tối thượng
Đủ thần lực như vậy.
Tu hành bốn Niệm xứ
Cùng với bốn Chánh đoạn
Bốn Thần túc cũng vậy
Năm Căn và năm Lực
Như chỗ Phật khen ngợi
Đủ bảy Giác chi báu
Du hành tám Chánh đạo
Đi đến Bồ-đề tràng.
Dừng dứt các phiền não
Tròn đầy ánh sáng pháp
Phá tất cả trần ám
Vượt ra khỏi ba cõi.
Thần lực có thể gọi
Đế Thích và Phạm vương
Các ngươi khéo ngự tọa
Nơi Đại thừa vô tỷ.
Các Ba-la-mật-đa
Nghĩa là thí và nhẫn
Tinh tấn cùng thiền định
Trí thần lực thắng tuệ.
Và phương tiện quyền biến
Nguyện chân thật thâu giữ
Dẫu trăm ngàn quân ma
Đều có thể hàng phục.
Các chúng sinh hủy giới
Ưa tạo các nghiệp tội
Các Bồ-tát thù thắng
Tích tập nhiều công đức.
Hoặc các tâm phát khởi
Tâm Bồ-đề rộng lớn
Bậc Điều ngự Đại thừa
Đều có thể quán sát.
Mọi điển tịch thế gian
Vô vàn nghĩa và hành
Cho đến xuất thế gian
Các pháp thiện chân thật.
Hữu học và Vô học
Duyên giác, các Thánh nhân
Người trú nơi Phật thừa
Vào khắp nơi, mọi cửa.
Hoặc đủ các phiền não
Và vô số tâm hành
Các chúng sinh khổ não
Luân chuyển cõi hữu vi.
Người trú nơi Phật thừa
Bồ-tát đều quán thấy
Khiến họ đều dứt khổ
Hướng về thừa rốt ráo.
Hoặc các kẻ biếng nhác
Nhu nhược, thiếu năng lực
Mà không thể vận tâm
Dứt bỏ khổ chúng sinh.
Được nghe Đại thừa rồi
Tâm họ không sợ hãi
Chỉ tìm nhân tự vui
Không làm việc lợi người.
Như đại lực sáng rỡ
Có Bồ-tát đại trí
Sức tinh tấn viên mãn
Thường lợi ích chúng sinh.
Hành phương tiện đại Bi
Nội tâm, tánh thanh tịnh
Do hành thừa tối thượng
Nên tâm ấy hoan hỷ.
Khắp cả mọi thế gian
Vô biên đủ loại hạnh
Thượng, trung, hạ sai khác
Căn tánh cùng ý thích.
Hành thừa tối thượng này
Bồ-tát đủ đại trí
Trong sát-na biết khắp
Tâm hành các chúng sinh.
Thân đắc tướng vi diệu
Các thân phần trang nghiêm
Phát ra lời hay đẹp
Tất cả nghe đều vui.
Tâm ý được thanh tịnh.
Đủ thần thông thiền định
Do hành thừa tối thượng
Được công đức rộng lớn.
Phật thừa tối thượng ấy
Được nghe khắp ba cõi
Cho đến tất cả Phật
Không đoạn thánh Phật nhãn.
Tăng trưởng tối thượng nhãn
Là Pháp nhãn bừng sáng
Siêu vượt chúng ba cõi
Tức các A-la-hán.
Thừa này tịnh, vi diệu
Không rơi trong cõi uế
Bồ-tát hành thừa này
Sát-na gặp chư Phật.
Đã đến mười phương cõi
Không mệt, cũng không giảm
Quán thừa hơn hết này
Có thần biến như vậy.
Đại sĩ hành Phật thừa
Đi khắp các thế gian
Siêu vượt hay sánh cùng
Tìm cầu không thể được.
Sức dũng mãnh thế gian
Đại oai thần Bồ-tát
Do hành thừa tối thượng
Khiến quân ma khiếp sợ.
Đạt sắc lực, uy lực
Cùng đạt bậc đại phúc
Hoặc Đế thích, Phạm vương
Luân vương cùng Hộ thế.
Cho đến trời và người
Đạt an vui ba cõi
Do hành thừa tối thượng
Diệu lạc đều tròn đủ.
Bồ-tát không tự cao
Cũng không hề tự ty
Bố thí điều yêu mến
Thí rồi không cầu quả.
Dùng từ tâm hoan hỷ
Cũng thí cả đầu mắt
Vì hồi hướng Bồ-đề
Do hành thừa tối thượng.
Bồ-tát trì tịnh giới
Hoặc đầy đủ phạm hạnh
Giới cấm tịnh quang minh
Ánh sáng vượt nhật nguyệt.
Sắc tướng và giàu đủ
Đều không hề mong cầu
Vì cứu độ chúng sinh
Do hành thừa tối thượng.
Bồ-tát nghe lời ác
Không tức cũng không giận
Dẫu nghiền nát thân ấy
Cũng nguyện giúp quần sinh.
Thân này còn dễ được
Pháp vương khó gặp hơn
Do hành thừa tối thượng
Đắc pháp Nhẫn thanh tịnh.
Bồ-tát nơi vô biên
Trăm ngàn kiếp đến nay
Qua lại trong cõi ác
Chốn sinh tử lưu chuyển.
Phát sức đại tinh tấn
Vì cứu độ chúng sinh
Do hành thừa tối thượng
Sức tinh tấn thành tựu.
Bồ-tát đắc tịch tĩnh
Pháp lạc mầu thù thắng
Biết pháp định công đức
Mắt từ nhìn chúng sinh.
Trong đó không ít phần
Vướng mắc vị thiền định
Chỉ nhớ nghĩ cầu mong
Được duyên gặp chư Phật.
Bồ-tát biết các pháp
Nhân duyên sinh khởi, không
Ngã, pháp và chúng sinh
Thảy đều vô sở đắc.
Các kiến khéo thanh tịnh
Thắng tuệ điều phục tâm
Diệu tuệ ấy thanh tịnh
Do hành thừa tối thượng.
Tất cả bốn Thánh đế
Bốn Vô lượng, Tứ định
Và năm loại Trí thông
Bốn Vô ngại giải thoát…
Ở trong bốn Nhiếp pháp
Pháp thí là tối thượng
Cửa công đức như vậy
Đều từ Phật thừa ra.
Tất cả mười Lực Phật
Pháp chư Phật vô biên
Phật gầm tiếng Sư tử
Thuyết pháp cho cõi người.
Giữa chân mày, kim khẩu
Phóng quang Vô kiến đảnh
Do hành thừa tối thượng
Bồ-tát không khó đạt.
Đại thần thông chư Phật
Có ba loại tối thắng
Điều phục khắp thế gian
Chiếu sáng mọi tâm ý.
Pháp chư Phật nêu giảng
Quả lợi lạc chân thật
Do hành thừa tối thượng
Đều mau chóng thành tựu.
Ngữ, nghĩa Phật tương ưng
Không nhiễm, không lỗi lầm
Phạm âm Khẩn-na-la
Hòa nhã, lại vừa lòng.
Gồm thâu cả thế gian
Mọi ngôn âm chúng sinh
Nghe diệu âm chư Phật
Tất cả đều hoan hỷ.
Bồ-tát không lâu nữa
Đắc ngôn âm như Phật
Cõi Phật như hư không
Tất cả đều hiện rõ.
Bình đẳng nghe cùng khắp
Lời pháp, nghĩa tương ưng
Chúng sinh nghe đều vui
Phiền não thảy dứt sạch.
Giả sử dùng thần lực
Đến bờ cõi hư không
Nước biển trong mười phương
Cũng có thể lường được.
Vô biên hành chúng sinh
Sát-na tâm còn biết
Chỉ Phật thừa Tối thượng
Nói công đức không cùng.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Vì vậy nên biết, nếu có Bồ-tát muốn ở nơi chánh pháp rộng lớn như vậy, âm thầm hộ trì, khiến chánh pháp trụ lâu ở đời, lúc tự tâm trong lắng rồi thì đối với chúng sinh khác và Bổ-đặc-già-la, tất cả căn trí thượng, trung, hạ của họ đều có thể biết rõ. Phải nên thọ trì cú nghĩa như vậy đó là môn cú, ấn cú và Kim cang cú. Thọ trì rồi sẽ được biết rõ như nghĩa dùng tuệ tương ưng, phương tiện tối thắng mà quan sát như lý.
Này Hải Ý! Sao gọi là môn cú? Đó là các môn được nêu bày biểu thị nghĩa tất cả pháp phân biệt; Môn chữ A: Bằng biểu thị nghĩa tất cả pháp vô sinh; Môn chữ Ba: Biểu thị Thắng nghĩa đế nơi tất cả pháp; Môn chữ Na: Biểu thị nghĩa biết rõ danh sắc tất cả pháp; môn chữ Nại: Biểu thị nghĩa tịch tĩnh, điều phục tất cả pháp. Môn chữ Sa: Biểu thị nghĩa vượt qua các sự vướng mắc của tất cả pháp. Môn chữ Đa: Biểu thị nghĩa chân như tùy trú của tất cả pháp. Môn chữ Ca: Biểu thị nghĩa thấu đạt nghiệp báo nơi tất cả pháp. Môn chữ Xoa Sa: Biểu thị nghĩa bình đẳng không sai biệt của tất cả pháp. Môn chữ Ma: Biểu thị nghĩa đại Bi của tất cả pháp. Môn chữ Nga: Biểu thị nghĩa tất cả pháp là vô cùng thâm diệu, khó thấu triệt nguồn cội. Môn chữ Nha: Biểu thị nghĩa siêu việt sinh, lão, bệnh tử nơi các pháp. Môn chữ Đà Biểu thị nghĩa pháp giới vô sai biệt nơi tất cả pháp. Môn chữ Thiết: Biểu thị nghĩa Xa-ma-tha, viên mãn tất cả pháp. Môn chữ Khư: Biểu thị nghĩa hư không sáng tỏ tất cả pháp. Môn chữ Xoa: Biểu thị nghĩa tất cả pháp thảy đều là vô sinh. Môn chữ Nghê dã: Biểu thị nghĩa trí không chấp trước nơi tất cả pháp. Môn Tha: Biểu thị nghĩa khéo biết rõ về xứ, phi xứ ở tất cả pháp. Môn chữ Cơ ca: Biểu thị nghĩa biết rõ các uẩn của tất cả pháp. Môn chữ Sá: Biểu thị nghĩa rốt ráo không biên vực của tất cả pháp. Môn thân Tịch tĩnh: Biểu thị nghĩa không tham nhiễm nơi tất cả pháp. Môn tâm tịch tĩnh: Biểu thị nghĩa điều phục sân si nơi tất cả pháp. Môn Chỉ tức: Biểu thị nghĩa quy hướng không vướng mắc nơi tất cả pháp. Môn Thâm cố: Biểu thị nghĩa xuất ly ba cõi của tất cả pháp. Môn Trú thật tánh: Biểu thị nghĩa trú pháp giới của tất cả pháp; môn Vô thủ: Biểu thị nghĩa tướng giải thoát tất cả pháp; môn Vô chấp trước: Biểu thị nghĩa xa lìa tranh luận của tất cả pháp; môn Vô tạp nhiễm: Biểu thị nghĩa tướng thanh tịnh tất cả pháp; môn Pháp tự tánh: Biểu thị nghĩa xưa nay vốn sáng sạch của tất cả pháp; môn Diệu quang minh: Biểu thị nghĩa sáng rực của tất cả pháp; môn Quán tưởng: Biểu thị nghĩa ly tán của tất cả pháp; môn Vô nhiếp tạng: Biểu thị nghĩa không hòa hợp của tất cả pháp; môn Bồ-đề: Biểu thị nghĩa bình đẳng nhất vị của tất cả pháp; môn Niết-bàn: Hiện bày nghĩa xa lìa các phiền não của tất cả pháp.
Này Hải Ý! Người có thể thọ trì các môn cú như vậy thì tự tâm được lắng trong, đối với các chúng sinh khác và Bổ-đặc-già với căn tánh thượng, trung, hạ vị ấy đều có thể biết rõ.
Lại nữa, này Hải Ý! Sao gọi là Ấn cú? Đó là ấn chứng, làm rõ tất cả pháp giải thoát, vì pháp vốn không hai, không hai sự thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp nhị biên là vô biên, vì đoạn và thường đều thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp thảy đều lìa tham, vì trong môn tận và cõi tận đều vô tận, không biên vực; ấn chứng tất cả pháp không cao không hạ, vì tánh của thực tế vốn bình đẳng thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp như hư không, vì vượt ngoài nẻo quán sát của năm mắt; ấn chứng tất cả pháp trụ nơi hư không, vì pháp giới tức hư không giới; ấn chứng tất cả pháp là không phân biệt, vì đều hội nhập nơi pháp giới; ấn chứng tất cả pháp vì pháp không có tướng phân biệt; ấn chứng tất cả pháp chân như, vì đời trước sau đều như thật; ấn chứng về thực tế tất cả pháp, vì xưa nay vốn thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp là không, vì các pháp hữu vi đều đồng đẳng; ấn chứng tất cả pháp là vô tướng, vì xa lìa mọi đối tượng duyên sai biệt; ấn chứng tất cả pháp là vô nguyện, vì xa lìa các chốn mong cầu; ấn chứng tất cả pháp là vô thường, vì tự tánh là vô tánh, vô tướng; ấn chứng tất cả pháp là khổ, vì tướng của năm uẩn khéo tích tập; ấn chứng tất cả pháp là vô ngã, vì tự tánh là vô ngã; ấn chứng tất cả pháp là vắng lặng, vì rốt ráo là bất động; ấn chứng tất cả pháp thành thật, vì thắng nghĩa đế thâu tóm cùng khắp; ấn chứng tất cả pháp là bất động, vì chủng tử vô trú; ấn chứng tất cả pháp là bất hoại, vì quyết định rốt ráo; ấn chứng tất cả pháp là như như, vì mọi lãnh vực trước sau đều không đoạn dứt; ấn chứng tất cả pháp ba đời bình đẳng, vì ở trong tất cả xứ đều cùng một vị; ấn chứng tất cả pháp là vô sinh, vì tự tánh là vô sở hữu; ấn chứng tất cả pháp là vô diệt, vì tự tánh là vô sinh; ấn chứng tất cả pháp là không đối đãi, vì lìa tăng thượng mạn; ấn chứng tất cả pháp không có hý luận, vì tất cả tầm và tứ đều không tích tập; ấn chứng tất cả pháp sáng rõ, vô tướng, vì chỗ hiện ra không có các sắc tướng; ấn chứng tất cả pháp là vô nhiễm, vì đoạn dứt sự nương trú; ấn chứng tất cả pháp không thành tựu, vì sự đối trị không thể thủ đắc; ấn chứng tất cả pháp là phi nghiệp báo, vì tất cả là không tạo tác; ấn chứng tất cả pháp là vô vi, vì đều xa lìa các phần vị sinh diệt; ấn chứng tánh của tất cả pháp là bình đẳng, vì các pháp bình đẳng như hư không, đều không sai biệt.
Này Hải Ý! Đó là Ấn cú, các ấn cú như vậy mới là ấn Bồ-đề của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Ấn cú như vậy sinh ra từ trong bốn vạn tám ngàn pháp uẩn. Ấn cú như vậy thâu khắp trí ấn tối thượng của chư Phật và Bồ-tát, mau chóng chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh.
Này Hải Ý! Với các ấn cú như vậy, các chúng sinh không trồng căn lành sẽ không được duyên nghe lãnh hội. Lại nữa, pháp môn này có thể khéo hàng phục hết thảy nghiệp ma.
Này Hải Ý! Tất cả tạng báu Tổng trì vô tận có thể chứa giữ tất cả pháp, pháp đó đều lưu xuất từ trong Ấn cú. Lại nữa, tám vạn bốn ngàn môn Tamma-địa môn cùng nhập khắp nơi tám vạn bốn ngàn tâm hành của chúng sinh; một ngàn môn Ba-lamật đều từ Ấn cú như vậy mà lưu xuất ra, nhưng Ấn cú ấy vẫn tùy nhập nơi mọi pháp môn đó.
Lại nữa, Hải Ý! Sao gọi là Kim cang cú? Nghĩa là chính tự thân là Kim cang cú, vì tự tánh không phân biệt. Này Hải Ý! Kim cang cú này chọn lựa ở trong các kiến mà chuyển hóa vô minh, vì kim cang cung kính này, thể nhập nơi các Minh. Kim cang cú này nhận biết khắp ở trong các đối tượng duyên mà chuyển hóa biên vực của năm vô gián, đó là Kim cang cú, vì không bình đẳng gia hạnh. Kim cang cú này biết khắp các gia hạnh mà chuyển hóa cõi tham, ấy là Kim cang cú, vì bình đẳng lìa cõi tham. Kim cang cú này là bình đẳng ở nơi tham lìa tham mà chuyển hóa cõi sân, đó là Kim cang cú vì cõi từ bình đẳng. Kim cang cú này phá các cõi sân, si, đó là Kim cang cú vì ánh sáng của tuệ bình đẳng. Kim cang cú này khai mở minh tuệ cho một chúng sinh và tất cả chúng sinh, đó là Kim cang cú vì bình đẳng vào khắp mọi chúng sinh. Kim cang cú này tùy duyên biết rõ tự tánh của chúng sinh, tâm của một chúng sinh là tâm của tất cả chúng sinh, đó là Kim cang cú vì thể nhập vô tâm. Kim cang cú này tùy duyên biết rõ tự tánh của tâm một Đức Phật là tất cả Đức Phật, xưa nay sáng tỏ, đó là Kim cang cú vì vào khắp chân như bình đẳng. Kim cang cú này tùy cơ biết rõ tánh trí bình đẳng của một cõi nước là tất cả cõi nước, đó là Kim cang cú vì vào khắp vô tận cõi nước. Kim cang cú này tùy duyên biết rõ hư không bình đẳng, tất cả pháp là một pháp, đó là Kim cang cú vì vào khắp tất cả pháp tánh bình đẳng. Kim cang cú này tùy duyên biết rõ pháp môn bất nhị, tất cả pháp là pháp Phật, đó là Kim cang cú vì ở nơi tất cả chốn, trí tuệ đều tùy thuận thể nhập lãnh hội. Kim cang cú này tùy duyên biết rõ định kim cang dụ, sự nghiệp quân ma là sự nghiệp của chư Phật, đó là Kim cang cú vì vào khắp các ma nghiệp tùy cơ thức tỉnh. Kim cang cú này siêu vượt tất cả ma sự, tất cả ngữ ngôn là ngữ ngôn Như Lai, đó là Kim cang cú vì vào khắp tất cả âm thanh, tùy duyên biết rõ. Kim cang cú này tùy duyên biết rõ pháp bất khả thuyết, vì tất cả pháp là vô sinh, đó là Kim cang cú vì thể nhập vô diệt. Kim cang cú này là siêu vượt nẻo sinh, lão, bệnh, tử vì tất cả pháp là không khởi, đó là Kim cang cú vì thể nhập sự không dừng nghỉ. Kim cang cú này có thể tùy chuyển nơi các pháp tịch diệt.
Này Hải Ý! Các Kim cang cú như vậy là cú không thể phá hoại; là cú tinh diệu; là cú bình đẳng; là cú Thánh đế; là cú kiên cố; là cú không có các thứ loại; là cú ái lạc; là cú bất đoạn; là cú tịch tĩnh tịch tĩnh khắp cận tịch tĩnh; là cú vô tác dụng; là cú bất hòa hợp; là cú vào cõi không cõi; là cú vô hành; là cú chân tánh; là cú như thật, là cú không trái với Phật; là cú không hủy báng pháp; là cú không phá Tăng; là cú như chỗ giảng; là cú ba luân thanh tịnh; là cú dũng mãnh; là cú Phạm hạnh; là cú không tịch; là cú hư không; là cú Giác chi; là cú vô tướng; là cú vô nguyện; là cú pháp tướng; là cú tâm ý thức vô trú; là cú dẹp trừ chư ma ngoại đạo; là cú thanh tịnh sáng tỏ vô cấu; là cú quán chiếu Bồ-đề; là cú tuệ quang minh; là cú không pháp hiển bày; là cú rốt ráo không sinh không diệt; là cú tự thanh tịnh cảnh giới; là cú cảnh giới Phật; là cú không tư duy, phân biệt, biến kế; là cú pháp giới vô sai biệt cú; là cú nhập nơi cú của vô cú. Này Hải Ý! Các cú kim cang thắng diệu như vậy, nếu Bồ-tát nào có thể lãnh thọ, quyết định lựa chọn nghĩa ấy thì ta cho rằng người đó nhất định sẽ ngồi đạo tràng Bồ-đề, gầm lên tiếng Sư tử.
Lúc Thế Tôn thuyết giảng Môn cú, Ấn cú, Kim cang cú, trong hội này có tám ngàn Bồ-tát chứng nhập tất cả pháp môn Ấn Đà-la-ni, vào khắp Tamma-địa ý lạc của tất cả chúng sinh.
Bấy giờ, những vị đến tập hội, tất cả chúng Đại Bồ-tát ở mười phương thế giới, nghe pháp này, rồi đều vô cùng hoan hỷ, tâm ý phấn khích, mỗi mỗi vị đều dùng thần lực, tùy từ chỗ đến là các cõi nước của chư Phật, trong mỗi mỗi cõi nước ấy, mỗi vị đều có vòng hoa, hương xoa, hương bột đem đến trong pháp hội này nên đều mưa xuống các hương hoa vi diệu đầy khắp, tất cả đều dùng các phẩm vật báu ấy dâng cúng Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai và chánh pháp này, nguyện cho chánh pháp ấy được trụ lâu thế gian. Chư Bồ-tát này thực hiện cúng dường xong thì cùng phát khởi diệu âm tán thán Đức Thế Tôn nên nói kệ:
Vô tướng hiển bày các sắc tướng
Một tướng ly tướng Đại Thánh tôn
Các tướng bình đẳng tướng vô tướng
Đảnh lễ, an trú tướng chân thật.
Vào tất cả ngôn âm chúng sinh
Vào nơi âm thanh trí tùy nhập
Tất cả âm thanh, cửa giải thoát
Đảnh lễ bình đẳng, tâm giải thoát.
Các tâm hành thế gian sai khác
Tâm như huyễn nên không chỗ giác
Vô hành bình đẳng hành không hành
Con lễ hư không tâm sáng tỏ.
Vô, hữu bình đẳng, bờ không bờ
Pháp, pháp phân biệt lìa phân biệt
Tất cả tâm ý vốn vắng lặng
Con nay đảnh lễ tâm vắng lặng.
Phật biết vận dụng các nhân duyên
Phật thường tuyên nói các nhân hành
Nhân duyên giải thoát trong bản tế
Phật biết thật tế chân bình đẳng.
Nay vào nơi ấy tướng bình đẳng
Con quán Thiện thệ thân phi thân
Không thể phân biệt thân hữu tướng
Nên hiện các diệu tướng sai biệt.
Tất cả mười phương cõi chư Phật
Đều cùng vào trong cõi Phật này
Mà cõi Phật ấy không hề tăng
Cõi ấy không động cũng không giảm.
Các tâm bình đẳng, tâm vô tâm
Tâm huyễn không khác, không phân biệt
Biết rõ bình đẳng tâm Bồ-đề
Thế Tôn thường hành pháp bình đẳng.
Thể nhập pháp giới bình đẳng giới
Các pháp vô tánh đều thể nhập
Tánh thường bình đẳng trong nhiễm tịnh
Con lễ Đấng lợi lạc thế gian.
Nhật, nguyệt có thể rơi xuống đất
Gió không hình tướng còn buộc được
Thổi bay Tu-di cũng như bụi
Chỉ Phật Thế Tôn không vọng thuyết.
Ngữ ngôn chân thật vốn thanh tịnh
Tâm tịnh như không tâm sáng tỏ
Pháp tục tham ái chẳng nhiễm tâm
Như sen không nhiễm ở ba cõi.
Hoặc nghe khen ngợi không vui mừng
Hoặc nghe hủy báng không nổi sân
Như núi Tu di không lay động
Con lễ Đấng lợi lạc thế gian.
Chúng Đại Bồ-tát nói kệ xong đều bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời là của báu xuất hiện; là pháp lạc xuất hiện; là niệm tuệ, hạnh trí xuất hiện; là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, thắng tuệ xuất hiện; là Từ, Bi, Hỷ, Xả xuất hiện; là thắng nghĩa xuất hiện; là Thật đế xuất hiện; là chánh pháp xuất hiện; là sự chứng pháp xuất hiện; là pháp Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, Giác, Đạo xuất hiện; là Xa-ma-tha xuất hiện; là Tỳ-bát-xá-na xuất hiện; là sáu thông, ba minh, tám giải thoát xuất hiện. Nói tóm lại là đoạn dứt tất cả pháp bất thiện và xuất sinh tất cả pháp thiện.
Lúc ấy, trong pháp hội có một vị Bồ-tát tên là Tuệ Tích, bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Như chỗ hiểu của con về điều Phật nói:
–Vì có thân nên các kiến sinh ra; Phật xuất thế vì đời có vô minh, hữu ái; Phật xuất thế vì có tham, sân, si sinh khởi; Phật xuất thế vì bốn điên đảo, năm ái, sáu nhập, bảy thức xứ, tám pháp tà, chín não xứ, mười nghiệp bất thiện sinh khởi nên Phật xuất thế. Vì sao? Vì đoạn nghiệp bất thiện của tất cả chúng sinh nên Phật xuất thế. Nhưng Phật cũng không đối trị và tăng lực thù thắng. Vì không đối trị nên Phật xuất thế. Bạch Thế Tôn! Nếu chư Bồ-tát muốn biết nhân duyên của chư Phật xuất thế thì nên biết như vậy, nên tu học như vậy.
Phật nói:
–Này thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông nói! Chư Phật xuất thế nên biết như vậy, nên tu học như vậy, vì nhân duyên của chư Phật xuất thế như vậy; chư Pháp xuất thế cũng lại như vậy.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát mới phát tâm nghe nói nhân duyên của Phật xuất thế như vậy, họ vẫn không hiểu: Phật xuất thế là thế nào?
Phật bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:
–Nhân duyên Phật xuất thế, Bồ-tát tùy theo sự ứng hợp của mình mà tâm được thanh tịnh. Vì sao? Hải Ý nên biết, Bồ-tát có bốn hạng. Những gì là bốn?
1. Bồ-tát mới phát tâm.
2. Đang ở phần vị tu hành.
3. Bồ-tát bất thoái chuyển.
4. Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ.
Hải Ý trong bốn loại Bồ-tát này, nếu Bồ-tát mới phát tâm quán sắc tướng trang nghiêm Phật Như Lai thì tâm được thanh tịnh. Nếu Bồ-tát đang ở phần vị tu hành quán tất cả công đức thắng diệu thành tựu của Phật Như Lai thì tâm được thanh tịnh. Nếu Bồ-tát bất thoái chuyển quán thân tâm Phật thì được thanh tịnh. Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ không quán sắc tướng của Phật trang nghiêm, không quán chủng tánh, dòng dõi Phật, cũng không quán công đức thành tựu của Phật, vì trong đó đều không pháp nào có thể quán. Vì sao? Vì tuệ quán chiếu, vì sức Tuệ nhãn, vì tuệ thâu giữ, vì tuệ vô hành, đều lìa các hý luận. Bồ-tát ấy không quán như vậy, cũng không phải không quán. Vì sao? Vì hữu kiến và vô kiến là nhị biên, Bồ-tát này đối với kiến và phi kiến đều lìa nhị biên, nên quán Phật như vậy. Vì quán Phật như vậy nên quán thân cũng vậy; quán thân thanh tịnh rồi, quán Phật thanh tịnh; quán Phật thanh tịnh rồi, nên biết tất cả các pháp cũng như vậy. Trong khi quán như vậy mà được thanh tịnh, ấy là trí quán, đó tức là quán Phật chân thật.
Này Hải Ý! Chính vì vậy nên xưa kia, lúc ta thấy Phật Nhiên Đăng, ta liền đắc pháp Nhẫn vô sinh và tương ưng với nhẫn vô sở đắc. Ngay lúc đó, ta bay lên hư không cao bảy cây đa-la, ở trong hư không liền chứng đắc trí Nhất thiết trí, sức không sai biệt vĩnh viễn đoạn dứt các kiến, siêu vượt các tư duy, biến kế phân biệt, ở trong các cảnh giới, ý vô sở trụ. Lúc đó ta đắc sáu vạn môn Tam-ma-địa, cho nên Như Lai Nhiên Đăng vì ta mà thọ ký: “Tương lai ông sẽ được làm Phật hiệu là Thích-ca Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Lúc ta được Đức Phật ấy nói về sự thọ ký nhĩ căn của ta không hề đối ngại, cũng không do thức khác mà có chỗ biết rõ. Ta có chỗ thấy ở trong sự hòa hợp mà không chỗ trú. Khi đó, ta không tưởng Phật hay không Phật, tưởng ngã hay vô ngã, tưởng thọ ký hay không thọ ký.
Này Hải Ý! Cho nên Bồ-tát ba luân thanh tịnh sẽ được thọ ký thành Phật. Người có ba luân thanh tịnh là không tưởng Phật hay không Phật, tưởng ngã hay vô ngã, tưởng thọ ký hay không thọ ký. Này Hải Ý! Lại có ba luân thanh tịnh. Những gì là ba? Đó là không chấp ngã; không chấp chúng sinh; không chấp pháp. Lại có ba luân thanh tịnh: Đó là không chấp danh, không chấp sắc tướng, không chấp đối tượng. Lại có ba luân thanh tịnh: Đó là biết trí quá khứ đã qua, trí vị lai chưa đến, trí hiện tại trú pháp giới. Lại có ba luân thanh tịnh: Đó là trí về thân như ảnh tượng, trí về lời như tiếng vang, trí về tâm như huyễn. Lại có ba luân thanh tịnh: Đó là năm uẩn và pháp uẩn bình đẳng, mười tám giới và pháp giới bình đẳng, mười hai xứ quán như không tụ. Lại có ba luân thanh tịnh: Đó là biết rõ về Không, tin thuận Vô nguyện, Vô tướng, vô cầu. Hải Ý! Nếu ba luân thanh tịnh tức là tất cả pháp thanh tịnh. Cho nên nếu chư Bồ-tát ba luân thanh tịnh thì nên tu trí phương tiện thiện xảo.
Bồ-tát Hải Ý lại bạch Phật:
–Hy hữu Thế Tôn! Bồ-tát Bất thoái chuyển có thể đạt đầy đủ trí pháp thâm diệu. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát ấy có thể đầy đủ trí pháp như vậy thì có thể khéo thành tựu trọn vẹn công đức.
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý nên biết! Bồ-tát đang trụ vị ấy, nhờ sức của bản nguyện nên làm việc thù thắng. Giả như Bồ-tát ấy thoái vị thì nhờ sức bản nguyện nên cũng không hoại các công đức đã thành thục. Hải Ý! Ở đời có một hạng người vô trí không thể hiểu được chỗ giảng nói của ta, nay dùng thí dụ để khiến cho người nghe hiểu được. Hải Ý! Ví như thế gian có ruộng mía, ruộng lúa, hoặc ruộng đậu, người nông phu canh tác đối với các ruộng ấy đều làm hoàn tất mọi việc: mở đường nước, dẫn nước vào ruộng, nước chảy vào khắp đủ. Người nông phu ấy khéo sắp đặt rồi lại nghỉ ngơi ở chỗ khác. Nơi các ruộng ấy, nước tùy chỗ đi qua và tự nhiên vào ruộng, chứ không nhờ công sức người làm ruộng bỏ ra mà các ruộng gieo trồng đều được thành tựu. Bồ-tát cũng vậy, hoặc lúc Bồ-tát tuy ở Tán vị nhưng có phương tiện khéo léo nên ở trong thiện căn tương tục của tất cả chúng sinh mà có thể thành thục. Tùy chỗ thuyết giảng tất cả pháp Phật ấy mà thiện căn nơi các cõi đều được viên mãn. Bồ-tát ấy tâm ý thanh tịnh, khéo hộ giới uẩn. Hoặc ở trong định, nhờ sức của bản nguyện nên có thể thành tựu đầy đủ các thiện căn, khiến chúng sinh đối với pháp Phật, tất cả pháp thiện liên tục lớn mạnh.
Này Hải Ý! Vì duyên cớ ấy nên các Bồ-tát tùy theo sự ứng hợp của mình, không nhờ dụng lực mà tự viên mãn thiện căn; lại khéo hồi hướng nơi Nhất thiết trí nên Bồ-tát hoặc định, hoặc tán đều nhờ vào sức của bản nguyện, ở trong các thiện căn, thân tâm thư thái, niệm không tán loạn không học thừa, khác chí hướng Đại thừa.
Này Hải Ý! Ví như trong thành có một cây lớn, có người muốn đến chặt các rễ cây ấy, chặt rồi liền đi; lúc chặt cây, cây dần dần ngã thấp xuống, cuối cùng ngã xuống đất theo phía đã chặt. Bồ-tát cũng vậy, ở trong lâu xa đã tu tập pháp thiện, hướng về Nhất thiết trí, dần dần thể nhập Nhất thiết trí, rốt cùng thành thục tất cả thiện căn. Đã thành thục rồi đều dùng để hồi hướng nơi Nhất thiết trí, hồi hướng cho tất cả chúng sinh thêm nhiều công đức. Nguyện hồi hướng khiến Thánh chúng của Tam bảo không đoạn không tuyệt; hồi hướng thân tướng trang nghiêm viên mãn, đầy đủ các tướng tốt; hồi hướng viên mãn ngữ nghiệp trang nghiêm, rộng vì chúng sinh thuyết pháp không hư dối; hồi hướng tâm nghiệp trang nghiêm, thường nghĩ đến định nguyện thành tựu của chư Phật mà Bồ-tát ấy không dụng công, không chỗ giác ngộ mà đều có thể thành thục tất cả thiện căn để hồi hướng đến khắp Nhất thiết trí, không rơi vào thừa khác, hoặc định hoặc tán. Đối với pháp phần Bồ-đề tu tập viên mãn, đều là do sức hồi hướng của bản nguyện phương tiện thiện xảo.
Này Hải Ý! Lại như Bí-sô nhập Diệt định trước tiên phải cần đợi nghe tiếng kiền chùy, sau đó mới xuất định. Vị ấy vào định rồi mà tiếng kiền chùy cũng chưa vào trong định, sau đó Bí-sô ấy nhờ tiếng kiền chùy mới khởi định. Bồ-tát cũng vậy, muốn giải thoát tất cả chúng sinh thì phải khởi thệ nguyện đại Bi: Ta sẽ cứu độ tất cả chúng sinh khiến họ giải thoát hết thảy, đều sẽ thành tựu hạnh nghiệp Bồ-đề”. Đối với các chúng sinh, thi hành tâm Từ rộng lớn, ở trong dòng sinh tử, vận tâm ý thức cứu độ rộng khắp. Tuy nhập định, dùng bản nguyện đại Bi độ thoát chúng sinh nên không bao giờ rơi vào thừa Thanh văn, Duyên giác. Sau đó từ định khởi xuất, khai phát chánh tuệ, trở lại tích tập pháp phần Bồ-đề, rộng vì chúng sinh mà hóa độ, thành tựu đầy đủ.
Này Hải Ý! Ông hãy quán sự nghiệp hành dụng của các Bồ-tát đều là tối thắng, tuy nhập trong Tam-ma-địa tịch tĩnh mà có thể siêu vượt cảnh giới giải thoát của Thanh văn, Duyên giác.
Lại nữa, này Đại Bồ-tát Hải Ý! Nay ta dùng ví dụ để làm sáng tỏ nghĩa này. Ví như ở thế gian có hai người: Một người mặc áo giáp kim cang kiên cố nhảy vào trong đống lửa lớn; một người thì mặc áo giáp cỏ khô cũng nhảy vào trong đống lửa lớn đang cháy bùng. Này Hải Ý! Ý ông thế nào? Trong hai người ấy người nào bị lửa thiêu cháy, còn người nào không bị lửa đốt cháy?
Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Người mặc áo giáp kim cang kiên cố tuy vào đống lửa lớn nhưng nhờ áo giáp kiên cố khéo bảo hộ nên người này không bị thiêu cháy. Còn người mặc áo giáp bằng cỏ khô nhảy vào nơi đống lửa lớn thì nhất định người ấy sẽ bị lửa thiêu đốt. Vì sao? Vì cỏ khô không thể bảo hộ đối với đống lửa cháy ấy được.
Phật nói:
–Này Hải Ý! Người thân mặc áo giáp vào trong đống lửa lớn không bị thiêu cháy, đó là Bồtát. Bồ-tát thường dùng đại Từ, đại Bi làm áo giáp nội tâm kim cang kiên cố, sức của kim cang luôn bảo hộ sự giải thoát cho chúng sinh, chưa từng xả bỏ thệ nguyện. Tuy thường quán sát hết thay chúng sinh là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi, vào trong Tam-ma-địa tịch tĩnh nhưng thường siêu vượt chánh vị nơi Thanh văn, Duyên giác, không cầu đắc quả vị. Ở trong định ấy, tuy thọ nhận thắng vị mà không hề đắm vướng, từ định khởi xuất. Từ định khởi xuất rồi làm nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục chúng sinh, viên mãn Phật trí. Này Hải Ý! Người dùng cỏ khô làm áo giáp nhảy vào trong đống lửa lớn thì sẽ bị thiêu đốt, đó là hạng thừa Thanh văn, ở trong các hành sinh sợ hãi, lại quán ba cõi luôn bị thiêu đốt không ngừng, xả bỏ chúng sinh, xa lìa đại Bi, ở trong Tam-ma-địa tịch tĩnh sinh tâm tham đắm, không chỗ dung nạp. Nếu không chứng được quả thứ tám mà có thể khởi xuất định ấy thì không thể có. Vì sao? Vì hàng thừa Thanh văn ở nơi hạnh phước, hạnh tội và hạnh bất động đều không thể tu tập. Nếu chư Bồ-tát có thể ở nơi vô lượng phước trí tu tập thành thục, không ở giữa đường thủ chứng thật tế thì rốt cùng sẽ được viên mãn tất cả pháp Phật.
Này Hải Ý! Cho nên Bồ-tát tác pháp ở nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện, thường sinh tưởng nghĩ như đống lửa lớn, tuy đối với các pháp này quán sát thấu đáo rồi mà lại ở trong pháp đó khởi trí khéo hành, quyết không thủ chứng thật tế. Vì thế các Bồ-tát không thành tựu trọn vẹn thiện căn thì không nên tu tập. Hải Ý! Bồ-tát thành tựu trọn vẹn thiện căn, nghĩa là Bồ-tát ở trong Phật pháp thâm diệu như lý tu hành, chứ không ở giữa chừng thủ chứng thật tế, đó gọi là thành thục thiện căn. Vì sao như vậy? Vì Bồ-tát ấy thành tựu đầy đủ pháp Đại thừa, dần dần hướng về, dần dần thể nhập, dần dần thù thắng, mà chẳng thành thục ở nơi thừa khác. Hải Ý! Như lò đúc gốm lúc mặt trời chưa lên thì chưa chín tới, đang cần phải nung nấu thêm chứ chưa thành đồ dùng được, sau khi chín tới mới có thể gọi là đồ dùng. Bồ-tát cũng vậy, tuy đang rộng tu các thiện căn, nếu không hồi hướng nơi Nhất thiết trí thì không thể được gọi là Ba-lamật-đa.
Này Hải Ý! Lại như chân kim đẹp đẽ nếu chưa được thợ kim hoàn chế tác, trau chuốt hoàn tất thì chưa được gọi là vật trang sức, chỉ được gọi là chân kim nếu đã được khéo tay thành thục rồi mới gọi là một vật trang sức. Bồ-tát cũng lại như vậy, chỗ tu thiện căn nếu không hồi hướng về Nhất thiết trí thì không thể gọi là Ba-la-mật-đa, nếu hồi hướng về Nhất thiết trí mới được gọi là Ba-la-mậtđa.
Này Hải Ý! Vì duyên cớ đó, các Bồ-tát thường phải vận dụng phát tâm quảng đại để thành tựu đầy đủ thiện căn. Tùy sự thành thục các thiện căn xong mới hồi hướng về Nhất thiết trí. Vì sự hồi hướng nơi Nhất thiết trí Bồ-tát phải ở nơi pháp thâm diệu, như lý tu hành, không ở giữa chừng mà thủ chứng thật tế.
Lúc ấy, Bồ-tát Hải Ý lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát đã làm việc khó làm, có thể khéo phòng hộ lỗi lầm nơi các cõi, ở trong chỗ hành hóa mà không sinh cấu nhiễm. Nếu các Bồ-tát đạt đầy đủ phương tiện thiện xảo thì có thể hồi hướng. Vì sao? Vì Bồ-tát có phương tiện, tuy vào trong thiền định giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để nhưng không vì thiền định giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để mà chấp trước. Bồ-tát ấy đạt đầy đủ phương tiện thiện xảo, nên có thể hiện bày các đối tượng tạo tác không rơi vào trong kiến chấp về vô tác, khéo trụ nơi pháp tánh bình đẳng. Nếu có hạng chúng sinh hướng vào tà định, Bồ-tát vì họ mà thuyết pháp chánh định. Vì Bồ-tát ấy muốn khiến cho ý nguyện của chúng sinh viên mãn nên chính mình không trú trong tụ chánh định.
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Bồ-tát ở nơi tất cả chốn thường nên tu tập phương tiện thiện xảo. Vì sao? Này Hải Ý! Phương tiện thiện xảo là Bồ-đề của Bồ-tát, nếu không có phương tiện thiện xảo, tức không thành tựu Bồ-đề. Ví như ở thế gian có một khí cụ chứa ba sắc màu:
1. Màu xanh.
2. Màu đỏ.
3. Màu vàng.
Đó là ba loại sắc cùng chứa trong một khí cụ để nhuộm ba loại áo:
1. Thúy y nhuộm màu xanh.
2. Chiên y nhuộm màu đỏ.
3. Thiên y vô giá thượng diệu nhuộm màu vàng ấy.
Ba loại áo ấy ở trong đồ chứa thợ nhuộm, tùy theo công việc và ý muốn của thợ nhuộm mà đều được các diệu sắc. Nếu cần màu xanh thì được màu xanh, cần màu đỏ thì được màu đỏ, cần màu vàng thì được màu vàng, nhưng khí cụ nhuộm kia chưa từng phân biệt.
Này Hải Ý! Khí cụ nhuộm ấy tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Có ba hạng người cùng trong một khí cụ ấy:
1. Hàng Thanh văn.
2. Hàng Duyên giác.
3. Hàng Đại thừa.
Đó là ba loại người tùy theo các tác dụng của sở thích nơi tâm, tùy theo sự thích ứng của mỗi một mà thủ đắc trí sắc, nhưng khí cụ Không, Vô tướng, Vô nguyện ấy không hề phân biệt. Nên biết Thúy y kia tức là hàng thừa Thanh văn, Chiên y kia tức là thừa Duyên giác, Thiên y vô giá tức là người an trú Đại thừa.
Này Hải Ý! Ông hãy quán các pháp vốn không có tánh thật, không tánh tác giả, tánh vô ngã, tánh vô nhân, tánh vô thọ giả, tánh vô chủ tể. Nó tùy theo dục niệm mà sinh ra, sinh ra rồi tích tụ mà không chỗ biết rõ cũng không phân biệt.
Này Hải Ý! Nếu có thể hiểu rõ các pháp sinh này thì các Bồ-tát ở trong các pháp mà không hề có một chút biếng trễ mỏi mệt đạt. Nếu đạt tri kiến thanh tịnh như thế thì ở trong các việc hành dụng cũng không thấy có lợi ích không lợi ích tức có thể biết rõ như thật về tánh bình đẳng của các pháp. Biết rõ như thật về tánh bình đẳng của các pháp như vậy rồi thì thường không xả bỏ áo giáp đại Bi. Này Hải Ý! Ví như châu báu lưu ly ở thế gian, tự thể của nó trong suốt không hề có cấu bẩn. Bồ-tát cũng như vậy, biết rõ tự tánh tâm của chúng sinh xưa nay thanh tịnh, trong suốt, sáng tỏ, nhưng vì bị sự che lấp của khách trần phiền não. Bồ-tát quán như vậy rồi liền nghĩ: “Tâm tánh của chúng sinh xưa nay thanh tịnh, chỉ vì khách trần phiền não che lấp nhưng phiền não ấy thật không có chỗ trú, chúng sinh khởi phân biệt hư vọng một cách trái ngược. Ta sẽ vì những hàng chúng sinh ấy mà tuyên nói pháp đoạn trừ phiền não, khởi tâm không biếng trễ; ta vận dụng tâm thù thắng đối với chúng sinh được chuyển hóa ấy khiến họ đều được giải thoát”. Lại tư duy: “Các phiền não này có thể hủy hoại năng lực các chúng sinh nơi các cõi làm cho họ dần dần nhu nhược. Các phiền não này có thể khiến cho chúng sinh ở trong phiền não không thật mà phân biệt hư vọng. Nếu người nào có thể tác ý sâu bền như thật, quán sát như lý thì người ấy không bị phiền não quấy động”. Quán sát như vậy rồi thì phiền não ấy không thể hòa hợp, nếu không cùng phiền não hòa hợp thì đó là thiện. Lại nữa, nếu ta bị phiền não đồng hóa thì làm sao vì các chúng sinh bị phiền não ràng buộc mà giảng nói pháp đoạn trừ phiền não. Vì ta nay không bị phiền não đồng hóa nên có thể giảng nói pháp đoạn trừ phiền não cho các chúng sinh bị phiền não ràng buộc. Nhưng vì ta muốn hóa độ chúng sinh trong luân hồi, khiến cho các thiện căn tương tục không đoạn, cũng cần phải hòa hợp cùng phiền não. Sao gọi là thiện căn tương tục hợp cùng phiền não ở trong luân hồi? Nghĩa là siêng cầu phước hạnh mà không biết chán đủ. Bồ-tát tư duy như vậy rồi nên hiện thọ sinh ở trong ba cõi, nguyện gặp chư Phật, thệ độ chúng sinh, hộ trì chánh pháp mà không hề giãi đãi. Các chỗ hành dụng luôn dũng mãnh, không hề thoái chuyển, thường muốn cầu pháp, vĩnh viễn không xả bỏ thắng hạnh Bala-mật-đa.
Này Hải Ý! Đó gọi là thiện căn tương tục hợp cùng phiền não ở trong luân hồi. Bồ-tát tuy ở trong ấy hòa hợp cùng phiền não nhưng không bị phiền não làm cho cấu nhiễm.
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nay nói về thiện căn, nhưng vì duyên cớ gì mà nói về phiền não?
Phật nói:
–Này Hải Ý! Bồ-tát biết rõ các pháp phiền não như vậy hợp cùng ba cõi, từ trong phiền não mà xuất sinh ra ba cõi. Nhưng vì Bồ-tát ấy đầy đủ phương tiện thiện xảo, nương theo sức tích tập các thiện căn mà hợp cùng ba cõi. Đó gọi là thiện căn hợp cùng phiền não các cõi. Vì hợp cùng ba cõi nên tâm không sinh các tùy phiền não.
Này Hải Ý! Ví như trong thế gian có một đại Trưởng giả, chỉ có một người nên ông ta luôn yêu quý nuôi dưỡng, trong lòng luôn thương mến. Lúc ấy, đứa bé vì dại khờ thiếu hiểu biết nên chơi đùa cạnh một bên cái giếng hoang, vì nhỏ dại nên bỗng rơi xuống giếng. Lúc đó, mẹ và thân tộc thấy đứa bé rơi xuống giếng nên đứng trước giếng sâu không thể lường ấy mà sầu não, không thể tìm cách leo xuống giếng ấy. Tuy họ thương xót, đau buồn về đứa con nhưng không thể cứu nó được. Lúc người cha biết liền tức tốc chạy đến, thấy đứa con mình rơi xuống giếng sâu nên lòng sầu não, thương xót dâng tràn. Vì quá thương con, không thể xa lìa nên liền tìm cách leo xuống giếng, nhờ khéo tìm cách xuống giếng nên cứu được đứa con ra khỏi.
Này Hải Ý! Nên biết, cái giếng hoang ấy tức là ba cõi, người con ấy tức là tất cả chúng sinh. Bồ-tát xem tất cả chúng sinh như con một của mình, mẹ và thân tộc của đứa con ấy tức là Thanh văn, thừa Duyên giác. Họ tuy thấy tất cả chúng sinh rơi vào luân hồi, tâm luôn đau buồn nhưng không có phương tiện để cứu vớt. Vị Trưởng giả ấy tức là Bồ-tát. Các Bồ-tát tuy dùng tâm trong suốt, thanh tịnh vô cấu, trú pháp vô vi nhưng lại tu hành hòa hợp cùng ba cõi, hóa độ chúng sinh.
Này Hải Ý! Đó là Bồ-tát hành đại Bi. Bồ-tát đã tự có thể giải thoát các ràng buộc rồi nhưng lại ở trong ba cõi thị hiện thọ sinh, đầy đủ sự thu giữ của Thắng tuệ và phương tiện thiện xảo; phiền não của chúng sinh không còn ngăn ngại mà lại có thể vì tất cả chúng sinh giảng nói pháp đoạn trừ sự ràng buộc của phiền não.
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chư Bồ-tát có thể làm việc khó làm, có thể dùng tâm thanh tịnh, tinh khiết, không cấu nhiễm, ở trong luân hồi không sinh lòng chán bỏ. Như chỗ thuyết về pháp thâm diệu mà quán sát đúng như lý, không trú vô vi, không cầu quả chứng.
Phật nói:
–Này Hải Ý! Chỗ tu tập hành đạo của Bồ-tát này hợp với thiền chi, nghĩa là Bát-nhã ba-la-mậtđa cùng với phương tiện thiện xảo. Hải Ý nên biết! Nếu tâm Bồ-tát thanh tịnh, trong lặng, không cấu nhiễm thì đó chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa; ở nơi luân hồi mà không sinh tâm chán bỏ, thị hiện thọ sinh, hóa độ chúng sinh, đó tức là phương tiện thiện xảo.
Này Hải Ý! Nếu chư Bồ-tát ở nơi tất cả pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi, quán sát như lý, đó tức là Bát-nhã ba-la-mậtđa. Nếu lại phát tâm đại Bi hiện tiền, không trú vô vi, không cầu quả chứng, đó chính là phương tiện thiện xảo.
Này Hải Ý! Nếu chư Bồ-tát khéo tu pháp bình đẳng ba đời thì không hề thấy một pháp nào có tướng. Nếu pháp giới ấy bình đẳng thì chúng sinh giới bình đẳng; nếu chúng sinh giới bình đẳng tức Niết-bàn giới bình đẳng; nếu Niết-bàn giới bình đẳng tức pháp giới bình đẳng. Nếu có thể nhập nơi tánh của pháp giới bình đẳng thì chỗ nhập ấy tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu có thể nhập một pháp giới, biết rõ chúng sinh giới, không chứng Niết-bàn giới cho nên không bỏ chúng sinh giới, không trú nơi pháp giới, không thủ đắc quả chứng, đó là phương tiện thiện xảo.
Này Hải Ý! Nếu bố thí thanh tịnh thì đó chính là tuệ; nếu hồi hướng thanh tịnh thì chính là phương tiện; nếu trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định thanh tịnh thì đó chính là tuệ; nếu hồi hướng thanh tịnh tức là phương tiện. Nói tóm lại, tất cả thiện căn thanh tịnh, đó chính là trí tuệ; hồi hướng thanh tịnh tức là phương tiện.
Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là thiện căn thanh tịnh của Bồ-tát? Thế nào là hồi hướng thanh tịnh? Thế nào là tuệ thanh tịnh? Thế nào là phương tiện thanh tịnh?
Phật nói:
–Này Hải Ý! Thiện căn thanh tịnh của Bồ-tát là vì xa lìa cái thấy về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, sau đó tích tập thiện căn nơi các cõi. Hồi hướng thanh tịnh nghĩa là ở trong pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện mà thành tựu đầy đủ thiện căn, hồi hướng Bồ-đề. Tuệ thanh tịnh nghĩa là đều biết rõ về trí tánh, về căn đầu cuối của tất cả chúng sinh. Phương tiện thanh tịnh là khéo vì chỗ thích ứng của tất cả chúng sinh mà thuyết pháp.
Lại nữa, Hải Ý! Thiện căn thanh tịnh là tuy thị hiện thọ sinh ở nơi các cõi, các nẻo mà không chấp trước, vướng mắc, sau đó tích tập thiện căn các cõi. Hồi hướng thanh tịnh là xa lìa sự tác ý của tất cả Thanh văn, Duyên giác, khéo thâu tóm mọi thiện căn các thừa, ngõ hầu hồi hướng nơi pháp Đại thừa. Tuệ thanh tịnh là rộng vì các thứ chủng tử, tập khí của tất cả phiền não mà đoạn trừ. Phương tiện thanh tịnh nghĩa là vì muốn hóa độ chúng sinh nên trước hết đồng sự, sau đó mới chỉ bày pháp Đại thừa.
Này Hải Ý! Thiện căn thanh tịnh nghĩa là Bồ-tát duỗi bàn tay báu ban rải khắp tất cả vật thọ dụng vô tận. Hồi hướng thanh tịnh là dùng thiện căn nơi các cõi của tất cả chúng sinh, tất cả hàng Hữu học, Vô học, tất cả Duyên giác, tất cả Bồ-tát, tất cả chư Phật thâu gồm vào trong sự hồi hướng. Tuệ thanh tịnh nghĩa là nắm giữ tất cả chỗ thuyết giảng của chư Phật, đều dùng ấn Đà-la-ni ấn chứng khiến chỗ nắm giữ ấy không bao giờ hoại mất. Phương tiện thanh tịnh là dùng biện tài vô đoạn, biện tài vô ngại, vì chúng sinh khéo giảng nói pháp không hư dối, khiến cho các chúng sinh đều được hoan hỷ.
Lại nữa, này Hải Ý! Thiện căn thanh tịnh là ở nơi đời sống chúng sinh mà thường không xa lìa tâm đại Bồ-đề. Hồi hướng thanh tịnh là không quên mất tâm đại Bồ-đề, dùng các thiện căn mà hồi hướng nơi Nhất thiết trí. Tuệ thanh tịnh là khéo an trú tâm đại Bồ-đề làm căn bản. Phương tiện thanh tịnh là an trú bình đẳng nơi tâm Bồ-đề, vì người khác mà chỉ bày pháp Bồ-đề.
Bồ-tát Hải Ý lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như chỗ con hiểu về nghĩa
Phật dạy, các phương tiện thiện xảo là Bồ-đề của Bồ-tát; Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh thông đạt tất cả chốn là Bồ-đề, không một pháp nào là chẳng phải Bồ-đề. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Nếu biết rõ tánh bình đẳng của tất cả pháp tức là Bồ-đề. Cho nên Chư Bồ-tát chớ ở nơi Bồ-đề mà sinh tưởng xa rời. Nếu Bồ-tát ở trong các pháp như cảnh của sáu trần làm chướng ngại thì lúc đó cần phải biết rõ như thật tức là Bồ-đề. Nếu Bồ-tát hiểu rõ như vậy liền đạt được phương tiện thiện xảo thanh tịnh và Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn khen Bồ-tát Hải Ý:
–Lành thay, lành thay! Đúng như điều ông nói! Bồ-tát đầy đủ phương tiện thiện xảo và Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh, ở trong các pháp, hoặc cảnh lục trần mà bị chướng ngại thì lúc ấy cần phải biết rõ như thật tức là Bồ-đề.
Này Hải Ý! Vì duyên cớ ấy nên Bồ-tát cần phải biết rõ như thật.
Lại nữa, này Hải Ý! Ta nhớ về thời quá khứ vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, về trước không thể tính kể, so sánh, lúc ấy có Phật xuất hiện thế gian hiệu là Vô Biên Quang Chiếu gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn; thế giới ấy tên là Thiện biến hóa, kiếp tên là Quang vị. Vì nhân duyên gì gọi Đức Phật ấy là Vô Biên Quang Chiếu? Vì Đức Thế Tôn ấy lúc mới ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, chưa chứng Nhất thiết trí, đang ở quả vị Bồ-tát, lúc ấy thân đều phóng ra vô vàn ánh sáng, tỏa chiếu khắp mười phương vô lượng a-tăng-kỳ cõi nước của chư Phật không thể tính đếm, trong tất cả cõi Phật ấy, hiện có hết thảy Bồ-tát Bất thoái chuyển và Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Các Bồ-tát thấy các Bồ-tát ấy ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, thấy rồi mỗi vị liền hướng đến Bồ-tát ấy tung rải diệu hoa. Chỗ tán hoa đó nhờ thần lực của Phật nên tất cả đều tụ hội đến thân Bồ-tát ấy. Mỗi một hoa ở trong thế giới Thiện biến hóa đều tích tụ cao lớn bằng bảy thân người. Vì duyên cớ đó nên kiến lập tên của Đức Phật là Vô Biên Quang Chiếu và kiếp tên là Quang vị.
Này Hải Ý! Trong kiếp ấy có mười bốn câuchi Như Lai xuất hiện ở thế gian; thế giới Thiện biến hóa ấy đầy đủ đại oai thần an ổn, vui tươi, tất cả chúng trời, người đều hưng thịnh, cõi nước rộng lớn. Có chín mươi sáu câu-chi na-do-tha trăm ngàn đại châu, dài rộng tám mươi bốn trăm ngàn do-tuần; mỗi một trăm ngàn do-tuần có tám vạn bốn ngàn châu thành; mỗi một châu thành có tám vạn bốn ngàn huyện ấp, xóm làng; trong mỗi một thành có mười câu-chi na-do-tha trăm ngàn dân chúng cùng ở một chỗ; mỗi một huyện ấp có tám câu-chi dân chúng cư ngụ. Thế giới ấy các dân chúng giàu có hãy còn như thế, huống gì là có đại oai đức của chư Thiên, Long thần. Lại nữa, thế giới ấy làm thành bằng bốn báu: Đó là vàng, bạc, lưu ly, phả-chi-ca. Lại nữa, thế giới ấy tùy theo chỗ nhớ nghĩ mà có các thứ ăn uống, y phục trang nghiêm, các vật dụng đều tự nhiên sung mãn. Dân chúng trong thế giới đó không có ngã và ngã sở.
Này Hải Ý! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Biên Quang Chiếu thọ lượng đến mười trung kiếp, có ba mươi sáu câuchi na-do-tha trăm ngàn chúng Thanh văn, một ngàn hai trăm câu-chi chúng Đại Bồ-tát. Có một vương thành gọi là Thiện thanh tịnh, là chỗ sinh ra của Đức Thế Tôn ấy. Sau khi Đức Phật đó ra khỏi vương thành, Đức Phật dừng chân ở một quốc thành gọi là Lạc sinh. Nơi đại thành này có một vị Chuyển luân thánh vương tên là Thiện Tịnh Cảnh Giới, thống lãnh tam thiên thế giới, đầy đủ bảy báu, là chỗ thọ dụng của vua.
Này Hải Ý! Vua Thiện Tịnh Cảnh Giới ấy đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thâm tâm tròn đủ, đối với tất cả chúng sinh luôn khởi tâm không chướng ngại. Vua có tám mươi bốn câu-chi na-do-tha trăm ngàn cung tần, thể nữ đều đoan chánh đẹp đẽ như tướng Thiên nữ. Các cung nữ ấy cũng đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vua Thiện Tịnh Cảnh Giới cung thỉnh Đức Thế Tôn Vô Biên Quang Chiếu Như Lai và đại chúng Bồ-tát, Thanh văn để cúng dường trải qua hai trung kiếp. Tất cả các vị ấy đều đã thanh tịnh như pháp, lìa các lỗi lầm, y theo pháp Sa-môn để thọ nhận các thứ y phục, thức ăn uống, thuốc thang, tọa cụ và tất cả mọi vật dụng cần thiết khác. Vị vua ấy vì Đức Thế Tôn nên lập riêng tinh xá thanh tịnh, trang nghiêm, dài rộng đến trăm ngàn do-tuần; mặt đất làm bằng lưu ly, tường vách và phòng ốc bên trong đều bằng bảy báu, các rường cột ở mọi nơi trong ấy đều làm bằng Xích chiênđàn hương và chiên-đàn hương Ô-la-ta hết sức khéo đẹp, thù thắng ngang với các cung trời. Thứ nữa, lại bài trí mười ngàn lầu gác dành cho đại chúng Bồ-tát và Thanh văn lần lượt an tọa. Này Hải Ý! Vua Thiện Tịnh Cảnh Giới phụng hành chánh pháp thanh tịnh của Phật ấy, thọ trì năm giới, tinh tu phạm hạnh cùng với các cung tần quyến thuộc trải qua hai trung kiếp, thừa sự và cúng dường Đức Thế Tôn rồi nhà vua cùng đầy đủ các quyến thuộc đến chỗ Đức Như Lai Vô Biên Quang Chiếu; cung kính đảnh lễ và nhiễu quanh bên phải bảy vòng, lui sang một bên.
Bấy giờ, vua Thiện Tịnh Cảnh giới bạch với Đức Như Lai Vô Biên Quang Chiếu:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát ở trong Đại thừa không tin theo điều khác? Thế nào là Bồ-tát tuy hướng cầu đạo tối thắng nhưng không có tướng ngã? Thế nào là Bồ-tát an trú nơi tuệ bất động mà chẳng phải bất động? Thế nào là Bồ-tát đắc tuệ phương tiện thanh tịnh? Thế nào là Bồ-tát đạt được sự quán sát lâu bền mà không đoạn mất gốc rễ? Thế nào là Bồ-tát ở nơi cảnh giới sáu trần tuy tăng trưởng mà không hề phóng dật? Thế nào là Bồ-tát ở trong nghĩa lý thâm diệu mà không sinh sợ hãi? Thế nào là Bồ-tát được gọi là là Bồ-tát chân thật?
Lúc ấy, Vô Biên Quang Như Lai bảo với vua Thiện Tịnh Cảnh giới:
–Này đại vương! Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo tác ý, ta sẽ vì ông mà giảng nói! Có bốn loại pháp nếu chư Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ thì ở trong Đại thừa không tin theo điều khác. Những gì là bốn?
1. Từ thắng giải sinh ra nên tin pháp Thánh xuất thế.
2. Dũng mãnh bất thoái nên siêng hành tinh tấn, hóa độ chúng sinh.
3. Khéo quán sát nên khởi trí thần thông hiện hành diệu dụng.
4. Trí tùy thuận biết rõ pháp nên đối với tất cả pháp khởi tướng quyết trạch.
Này đại vương! Có bốn pháp nếu Bồ-tát có thể hành tròn đủ thì hướng tới đạo tối thắng mà không sinh tướng ngã. Những gì là bốn?
1. Không chấp nơi thiền vị mà tâm luôn điều hợp.
2. Không vướng mắc vào chỗ vui của chính mình, luôn bố thí niềm an vui cho kẻ khác.
3. Thành tựu hạnh đại Từ, an trú đại Bi.
4. Được sự tin hiểu rộng lớn, có thể khởi niềm vui tối thượng, tối thắng.
Này đại vương! Có bốn pháp, nếu Bồ-tát có thể hành tròn đủ thì được an trú nơi tuệ bất động mà chẳng phải bất động. Những gì là bốn?
1. Nội tâm xa lìa hư dối.
2. Nội tâm thanh tịnh, đầy đủ phương tiện.
3. Thâm tâm theo phương tiện không hề thoái chuyển.
4. Thâm tâm không xả chốn hành.
Này đại vương! Có bốn pháp nếu Bồ-tát có thể hành đầy đủ thì đạt được tuệ phương tiện thanh tịnh. Những gì là bốn?
1. Tuy quán sát tất cả pháp vô ngã nhưng thường dùng bốn Nhiếp pháp để hóa độ chúng sinh.
2. Tuy biết tất cả pháp là bất khả thuyết nhưng thường dùng âm thanh văn tự, vì các chúng sinh diễn nói pháp yếu, hộ trì chánh pháp.
3. Tuy quán xét Pháp thân của chư Phật nhưng thường tin hiểu tất cả công đức Như Lai, thành tựu tướng hảo, tinh tấn không hề biếng trễ.
4. Tuy quán tất cả cõi Phật là vắng lặng nhưng thường nghiêm tịnh cõi Phật, siêng hành không ngừng nghỉ.
Này đại vương! Có bốn pháp, nếu Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ thì đạt được sự quán sát lâu xa mà không bị đoạn mất gốc rễ. Những gì là bốn?
1. Có thể khéo quán sát đạo tràng Bồ-đề, vì không hề xả bỏ tâm Bồ-đề.
2. Khéo quán trí Phật, vì không vướng mắc vào trí của mình.
3. Khéo quán về việc chuyển pháp luân mầu, tùy theo chỗ nghi hoặc pháp của mỗi chúng sinh, đều có thể vì họ giảng nói không hề chậm trễ.
4. Khéo quán pháp Đại Niết-bàn, không xa lìa pháp sinh diệt.
Này đại vương! Có bốn pháp, nếu chư Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ thì ở nơi cảnh giới sáu trần tuy có tăng trưởng mà không phóng dật. Những gì là bốn?
1. Làm Chuyển luân thánh vương hóa độ quần sinh, khéo quán các hành vô thường, tuy cảnh giới nơi sáu trần có tăng trưởng mà không phóng dật.
2. Làm Đế Thích Thiên chủ hóa độ các Thiên chúng, khéo quán các hành là khổ, tuy cảnh giới nơi sáu trần có tăng trưởng mà không phóng dật.
3. Hiện làm ma vương giáo hóa các chúng ma, khéo quán các pháp là vô ngã, tuy cảnh giới nơi sáu trần có tăng trưởng nhưng không hề phóng dật.
4. Làm Đại phạm Thiên vương giáo hóa các Phạm chúng, khéo quán Niết-bàn là vắng lặng, tuy cảnh giới sáu trần có tăng trưởng mà không hề phóng dật.
Này đại vương! Có bốn pháp, nếu Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ thì ở nơi nghĩa lý thâm diệu mà không hề sợ hãi. Những gì là bốn?
1. Thân cận thiện hữu chân thật.
2. Đối với thiện hữu khai mở pháp Phật, Bồ-đề sâu xa liên tục không gián đoạn.
3. Đối với các kinh điển thâm diệu như vậy dẫu xa hàng trăm do-tuần cũng đến nghe nhận và quyết chọn về nghĩa lý.
4. Khởi tuệ truy nguyên như chỗ nghe pháp, chỉ y theo nghĩa lý chứ không dựa vào vào văn tự. Này đại vương! Có bốn pháp, nếu Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ thì được gọi là Bồ-tát chân thật.
Những gì là bốn?
1. Tinh tấn siêng hành các Ba-la-mật.
2. Khởi tâm đại Bi, siêng hành hóa độ tất cả chúng sinh.
3. Dùng sức tinh tấn, siêng hành viên mãn tất cả pháp Phật.
4. Có thể ở trong vô lượng sinh tử, siêng hành giáo hóa không sinh lòng chán mệt; lại có thể tích tập phước trí, thắng hạnh.
Bốn pháp như vậy nếu Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ thì được gọi là Bồ-tát chân thật.
Này Hải Ý! Lúc Như Lai Vô Biên Quang Chiếu nói bốn loại pháp môn như vậy, trong pháp hội ấy có mười ngàn câu-chi na-do-tha người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; tám câuchi na-do-tha trăm ngàn Bí-sô dứt hết các lậu, tâm ý mở bày, không còn bị các pháp chi phối, các cung tần mỹ nữ, thái tử của vua đều được pháp nhẫn nhu thuận. Vua Thiện Tịnh Cảnh Giới được pháp nhẫn lợi thuận, tức thì tâm vua hoan hỷ, vui mừng khôn xiết, liền dùng tất cả các vật thọ dụng vi diệu hiện có cúng dường Đức Phật.
Lúc ấy, Vô Biên Quang Chiếu Như Lai bảo vua Thiện Tịnh Cảnh Giới:
–Này đại vương! Ông đã xả bỏ tất cả các thứ sở hữu để hiến cúng Như Lai, ông hãy tịnh tín nơi pháp tối thượng của ta mà xuất gia lìa bỏ nơi không phải là nhà. Vì sao? Này Đại vương! Nếu tịnh tín xuất gia ở nơi pháp tối thượng của Như Lai thì có đại oai lực, được nhiều sự tán thán. Đại vương nên biết! Bồ-tát xuất gia có hai mươi sự lợi lạc rộng lớn, tức là viên mãn Nhất thiết trí vô thượng, thù thắng. Những gì là hai mươi?
1. Xả bỏ sự thọ dụng của cải giàu có nơi vua, được sự lợi ích lớn là vô ngã và ngã sở.
2. Đã thích xuất gia rồi thì được lợi ích lớn là xa lìa phiền não.
3. Mặc áo ca-sa được sự lợi ích lớn là tâm không tạp nhiễm.
4. Đối với thánh chủng sinh lòng hoan hỷ thì được sự trưởng dưỡng lợi ích là viên mãn.
5. Tu công đức hạnh Đầu-đà, đoạn trừ đa dục thì được sự lợi ích ly nhiễm.
6. Đã thanh tịnh giới uẩn thì được sự lợi ích lớn là sinh trong cõi trời, người.
7. Không xả bỏ tâm Bồ-đề thì được lợi ích lớn viên mãn sáu pháp Ba-la-mật.
8. Ở nơi chỗ vắng lặng thì được lợi ích là xa lìa sự huyên náo.
9. Tâm không ái trước thì được sự lợi ích là tư duy về pháp lạc.
10. Tu tập thiền định thì được sự lợi ích là tâm luôn thông suốt.
11. Siêng cầu đa văn thì được sự lợi ích là đạt đại tuệ.
12. Xa lìa các kiêu mạn nên được lợi ích là đại trí.
13. Ít cầu, ít việc nên được lợi ích quyết chọn Thánh pháp.
14. Đối với tất cả chúng sinh tâm luôn bình đẳng nên được lợi ích là đại Từ.
15. Khởi tâm giải thoát tất cả chúng sinh nên được lợi ích là đại Bi.
16. Không tiếc thân mạng nên được lợi ích là hộ trì chánh pháp.
17. Tâm khinh an nên được lợi ích là thần thông.
18. Thường niệm Phật nên được lợi ích là giải thoát tất cả khổ.
19. Thường quán sát pháp thâm sâu nên được lợi ích là đạt pháp Nhẫn vô sinh.
20. Tích tập tất cả công đức thù thắng nên được lợi ích là mau chóng thành tựu Nhất thiết trí.
Này Đại vương! Hai mươi pháp này tức là lợi ích của việc xuất gia với công đức thù thắng, các Bồ-tát xuất gia không khó làm được, cho nên đại vương, hãy nên tịnh tín xuất gia ở trong pháp Tối thượng.
Này Hải Ý! Lúc ấy, Đức Thế Tôn vì vua Thiện Tịnh Cảnh Giới mà dẫn dạy các pháp khế hợp. Vua xuất gia rồi liền xả bỏ tất cả sở hữu, ở nơi thắng phước, cho đến cạo bỏ râu tóc, mặc áo casa thành tướng Bí-sô. Vua ở trong pháp Thế Tôn tịnh tín xuất gia, các cung tần của vua cũng theo xuất gia, Thái tử, phi chủ cũng xuất gia; cho đến dân chúng trong nước cũng có chín mươi chín câuchi na-do-tha trăm ngàn người đều theo vua xuất gia, đều phát tâm tinh tấn, siêng cầu pháp thiện.
Này Hải Ý! Ông nên quán lời thành thật của chư Phật mà sinh lòng tịnh tín, tất cả phước hạnh sẽ làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh.
Vua Thiện Tịnh Cảnh Giới ấy xuất gia rồi, sau đó các quyến thuộc cũng cùng xuất gia, cùng đến chỗ Như Lai Vô Biên Quang Chiếu, đến rồi liền đảnh lễ và bạch Phật:
–Xin Đức Thế Tôn giáo thọ cho con, con sẽ như lời dạy bảo của Thế Tôn mà tu hành kiên cố, khiến cho trong các quốc độ của con không ai là không no đủ.
Đức Như Lai bảo Bí-sô Thiện Tịnh Cảnh Giới:
–Từ nay về sau, ông được gọi là Bí-sô, theo chúng Bí-sô, cần phải làm cho cảnh giới của mình thanh tịnh, quán sát sâu xa về cảnh giới của chính mình và tùy theo sự quán sát mà an trú đúng như lý. Sao gọi là cảnh giới của chính mình? Nghĩa là cảnh giới nơi sáu trần đem đến sự chướng ngại. Ngay lúc đó, ông cần phải biết rõ về hiện tiền đúng như thật, quán sâu về Bồ-đề, phải ở nơi Bồ-đề khởi tưởng sâu xa, chớ khởi tưởng nghĩ nông cạn.
Bí-sô Thiện Tịnh Cảnh Giới thừa hành theo sự chỉ dạy của Thế Tôn ấy rồi thì ý chí luôn sâu bền, không sinh phóng dật, cầu xa lìa phiền não, tu hành như lý, ở nơi cảnh giới của mình mà quán sát như thật. Thế nào là quán sát sâu xa? Nghĩa là cảnh giới của mắt tức là cảnh giới của không; cảnh giới không tức là cảnh giới của tất cả chúng sinh; cảnh giới của tất cả chúng sinh tức cảnh giới của Phật. Cũng vậy, cảnh giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là cảnh giới của không; cảnh giới không là cảnh giới của tất cả chúng sinh cảnh giới của tất cả chúng sinh, cảnh giới không là cảnh của giới Phật. Lại nữa, cảnh giới của mắt là cảnh giới vô tướng; cảnh giới vô tướng là cảnh giới của tất cả chúng sinh; cảnh giới tất cả chúng sinh, cảnh giới vô tướng là cảnh giới của Phật. Cho đến cảnh giới của ý là cảnh giới vô tướng; cảnh giới vô tướng tức cảnh giới của tất cả chúng sinh; cảnh giới của tất cả chúng sinh, cảnh giới của vô tướng là cảnh giới của Phật. Lại nữa, cảnh giới của mắt tức cảnh giới vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi; cảnh giới vô khởi tức là cảnh giới của tất cả chúng sinh; cảnh giới của tất cả chúng sinh, cảnh giới vô khởi là cảnh giới của Phật.
Này Hải Ý! Bí-sô Thiện Tịnh Cảnh Giới nghe pháp này rồi liền hội nhập vào pháp ấy, thân tâm được thư thái, cho nên tâm tuệ siêng tu bốn Thần túc, không lâu thì chứng đắc năm thần thông, một lòng chuyên chú, không hề phóng dật, được nhập vào chỗ thâu tóm chung tất cả ngôn nghĩa của môn Đà-la-ni.
Khi ấy, Phật bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:
–Ông chớ nên sinh niệm nghi hoặc: Bí-sô Thiện Tịnh Cảnh Giới thời đó bỏ ngôi vị Chuyển luân vương tối thắng xuất gia tu đạo ở trong Phật pháp, vua ấy đâu phải là ai khác mà chính là ông đấy; còn số người theo vua xuất gia gồm chín mươi chín câu-chi na-do-tha trăm ngàn Bí-sô thời đó đâu phải là ai khác, chính là chúng Bồ-tát cùng đi theo với ông đến pháp hội này nghe pháp.
Lúc Thế Tôn giảng nói về nhân duyên thuở trước, trong chúng hội này có một vạn tám ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tám ngàn Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Nếu chư Bồ-tát muốn chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì cần phải tu học. Các chỗ hành dụng của hàng Đại sĩ các ông, tức Bồ-tát không cần chỉ tu với lời nói biện tài mà phải hành dụng đúng như lời chư Phật dạy. Thế nào là Bồ-tát không hành như chỗ thuyết giảng? Nghĩa là Bồ-tát tu đầy đủ Biện tuệ, nhưng không tích tập các pháp phần Bồ-đề mà còn nói như vầy: “Ta sẽ thành Phật rồi thì mời gọi khắp tất cả chúng sinh đến để rộng hành pháp thí, khiến cho họ đều đắc pháp viên mãn”. Nhưng Bồ-tát này không thể siêng hành tu tập về đa văn, cũng không tích tập các pháp phần Bồ-đề, hư dối đối với tất cả chúng sinh, đó là Bồ-tát không thể hành như chỗ thuyết giảng.
Này Hải Ý! Nếu có Bồ-tát nói như vầy: “Ta thành Phật rồi, tức rộng hành pháp thí cho tất cả chúng sinh, khiến họ đắc pháp đầy đủ”. Lúc ấy, Bồ-tát có thể siêng hành tu tập đa văn, cũng tích tập các pháp phần Bồ-đề, đó là thi hành đúng như lời nói.
Này Hải Ý! Người không thể làm như lời nói cũng ví như ở đời có vị vua hoặc vị quan mời tất cả dân chúng trong nước đến, vì muốn thết đãi một bữa tiệc thịnh soạn, khiến cho tất cả đều no đủ, nhưng lại không chuẩn bị đủ các thức ăn uống cần dùng, dối gạt tất cả dân chúng trong nước, mọi người đã đến lầm nên liền tìm tới nơi khác mà ăn, tâm mang sân hận, trách mắng mà đi ra khỏi chỗ ấy.
Này Hải Ý! Bồ-tát cũng vậy, nguyện vì tất cả chúng sinh chưa độ khiến họ được độ, chúng sinh chưa giải thoát khiến họ được giải thoát, chúng sinh chưa an ổn khiến họ được an ổn, chúng sinh chưa đạt Niết-bàn khiến họ đến Niết-bàn, tuy có nguyện như vậy nhưng Bồ-tát ấy không siêng tu tập đa văn, cũng không tích chứa các pháp phần Bồ-đề, đó là Bồ-tát không làm như điều đã nói. Bồ-tát ấy hư dối hàng trời, người, thế gian bị Hiền thánh, chê trách cũng lại hiềm khích, bày ra sự tranh tụng mà không thể làm bậc Đại trí, rốt cùng không thể viên mãn thệ nguyện.
Này Hải Ý! Nếu muốn phát khởi đại trí tối thượng, sự khó đạt được tột bậc cần phải ở trong pháp Đại thừa vô thượng mà không hề biếng trễ thoái chuyển. Vì thế, nên biết, Bồ-tát không nên dùng lời nói mà dối gạt tất cả hàng trời, người, thế gian.
Lại nữa Hải Ý! Hoặc lúc có người đến cầu xin chư Bồ-tát thuyết pháp, Bồ-tát ấy liền nói: “Ta vì các vị mà giảng nói pháp như vậy, dùng pháp như vậy để giáo hóa”. Cho đến xả bỏ thân mạng của chính mình cũng không hề hối tiếc. Đó là Bồ-tát không dối gạt tất cả chúng sinh, nhân duyên như vậy ông phải nên biết.
Lại nữa, này Hải Ý! Ta nhớ về thời quá khứ vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp về trước có một Sư tử chúa các loài thú tên là Bất hoại thân, ở trong rừng sâu động vắng, thường hành tâm Từ, bảo hộ tất cả chúng sinh, chỉ dùng hoa quả, cỏ cây làm thức ăn. Lúc ấy trong động có hai con khỉ cái và đực cùng ở, sau đó, chúng sinh ra hai khỉ con, vì muốn đi nơi khác nên mới đem con mình giao cho Sư tử chúa giữ giúp, gởi rồi cả hai liền đi nơi khác. Khi đó, có một con chim Thứu tên là Lợi kiến đang bay nơi không trung, bỗng nhiên đáp xuống đất bắt hai con khỉ ấy rồi bay lượn trên không. Sư tử vương thấy hai khỉ con bị chim tha đi, liền hướng đến chim Thứu chúa nói kệ:
Lạ thay Thứu vương, ngươi có biết
Nếu buông thả hai khỉ con khỉ này
Ta bảo vệ chúng khiến không sợ
Hãy đem nó về chớ làm hại.
Lúc ấy Thứu vương liền đáp:
Thú vương nếu bỏ được thân mình
Ta sẽ tha hai con khỉ này
Đây là thức ăn của chỗ ta
Trên không lấy gì làm thức ăn.
Sư tử vương liền đáp:
Ta thà bỏ thân cho ngươi ăn
Nay ngươi hãy mau thả khỉ con
Ta nguyện gìn giữ đại Bồ-đề
Kẻ trí không nên nói dối gạt.
Thú vương là Sư tử nói kệ rồi, thâm tâm kiên cố, xả bỏ thân mình không hề hư dối. Thứu vương thấy việc này rồi liền khen ngợi là việc chưa từng có và nói kệ:
Nuôi lớn tánh mạng ở thế gian
Có thể bỏ thân cứu kẻ khác
Nay ta phải thả khỉ con này
Khiến ông tu hành pháp lâu bền.
Này Hải Ý! Ông nên biết, Sư tử vương Bất hoại thân lúc ấy chính là ta; khỉ đực là Đại Cadiếp; khỉ cái là Bí-sô-ni Hiền Hộ; hai khỉ con nay là La-hầu-la và A-nan, chim Thứu vương Lợi Kiến là Bí-sô Thiện Ái. Vì vậy nên biết, Đại Bồ-tát thà bỏ thân mình chứ không bỏ sự bảo hộ kẻ khác. Đó là làm đúng như lời nói một cách viên mãn.
Lại nữa, này Hải Ý! Thế nào là tướng biểu hiện của việc có thể hành như lời nói. Đó là bố thí như lời nói, tức xả bỏ tất cả sở hữu như chỗ hiện bày, đó gọi là có thể hành như lời nói. Bồ-tát trì giới như lời nói, tức thành tựu tất cả giới học và công đức Đầu-đà như chỗ chỉ bày, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát nhẫn nhục như lời nói, tức đối với các trường hợp giận dữ khiến có lỗi lầm, thảy đều đoạn trừ, như chỗ hiển bày, đó gọi là chỗ có thể hành. Bồ-tát hành tinh tấn như lời nói, tức ở nơi các pháp thiện siêng cầu tu tập, như chỗ hiển bày, đó gọi là chỗ có thể hiển bày. Bồ-tát hành thiền định như lời nói, tức phải tu định giải thoát Tamma-địa, Tam-ma-bát-để như chỗ hiển bày, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tu tập trí tuệ như lời nói tức phải phân biệt tất cả chương cú, khởi trí thiện xảo, biện tài quyết định như chỗ hiện bày, đó gọi là có thể hành. Tóm lại, cho đến Bồ-tát đoạn trừ tất cả pháp bất thiện như lời nói, tích tập tất cả pháp thiện, tức phải đoạn trừ mọi pháp bất thiện, siêng năng tu tập tất cả pháp thiện như chỗ hiển bày, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát chất trực như lời nói tức là không quanh co, hư dối, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát hành theo phương tiện như lời nói tức mở bày cửa phương tiện, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát dũng mãnh như lời nói tức siêng năng xa lìa các sự biếng nhác thoái chuyển, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát có thâm tâm kiên cố như lời nói tức xa lìa sự vướng mắc nơi chỗ hướng tới Thắng đạo, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát thệ nguyện như lời nói tức sẽ viên mãn rốt ráo các nguyện, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát nghe thọ trì như lời nói tức đã khéo tu tập như điều đã nghe biết, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tích tập thiện hạnh như lời nói tức thâm tâm thường không biếng trễ, đó là có thể hành. Bồ-tát xa lìa kiêu mạn như lời nói tức phải viên mãn Thắng trí, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tích tập giới hạnh như lời nói tức đối với giới không hề thiếu sót, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát mới phát tâm như lời nói tức phải thành tựu thắng hạnh của Bồ-tát, đó gọi là có thể hành Bồ-tát ở quả vị pháp Nhẫn vô sinh như lời nói tức phải tăng tiến hướng đến nơi Địa không thoái chuyển, đó là có thể hành. Bồ-tát ở quả vị Nhất sinh bổ xứ như lời nói, tức phải tăng tiến hướng đến ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tích tập kiên cố như lời nói tức phải hiện chứng quả Nhất thiết trí, đó gọi là có thể hành. Này Hải Ý! Các pháp như vậy là Bồ-tát có thể hành đúng như lời nói. Lúc Đức Thế Tôn thuyết pháp có thể đúng như lời nói hành trong pháp hội có năm ngàn Bồ-tát đều đắc pháp Nhẫn vô sinh.
Lúc ấy, có một Bồ-tát tên là Liên Hoa Trang Nghiêm liền bạch Phật:
–Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai nhờ có thể hành trì đúng như lời nói nên liền chứng đắc tất cả pháp Phật tối thượng. Bạch Thế Tôn! Như chỗ Phật nói mà tu hành, đó tức là hành đúng theo lời nói. Đức Phật bảo:
–Này thiện nam! Ông biết về pháp tu hành chăng?
Bồ-tát thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con biết!
Đức Phật nói:
–Này thiện nam! Tùy chỗ ưa thích của ông, ông nay nên nói về pháp tu hành.
Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Người tu hành y theo lời Phật dạy thì bình đẳng đối với tất cả pháp, đã biết bình đẳng rồi thì ở trong chánh vị dùng trí thiện xảo không thủ chứng Tam-ma-bát-đề, đó chính là chỗ tu hành của Bồ-tát.
Bồ-tát Sơn Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn nói về pháp tu hành.
Phật nói:
–Này thiện nam! Ông cứ tùy ý mà nói.
Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Không chỗ tu, đó là tu hành. Vì sao? Vì Bồ-tát quán tất cả pháp đều không chỗ thủ đắc, nếu có chỗ tu mà chẳng phải là tu hành, đó mới là chánh tu hành.
Bồ-tát Công Đức Quang Chiếu Vương bạch
Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu tâm thuận theo dòng chảy thì thức có chỗ chuyển. Vậy cái gì gọi là tu hành? Nếu Bồ-tát biết rõ tâm nơi tất cả pháp, là không trụ tức không một pháp nhỏ nào có thể trụ. Nếu không một pháp nhỏ nào có thể trụ đó mới là chánh tu hành.
Bồ-tát Cao Cự Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Không chỗ vui, đó là tu hành. Không chỗ chán lìa, đó là tu hành. Bồ-tát ở trong tất cả pháp không cao không thấp, cho nên không có một pháp nhỏ nào có thể là vui hay chán, đó chính là tu hành.
Bồ-tát Nhật Tạng bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có chỗ nương tựa tức là có chỗ chuyển. Nếu không chỗ nương tựa tức không chỗ chuyển. Vì Bồ-tát dùng sự không nương tựa, không động chuyển nên ở trong tất cả pháp không hề dao động, đó tức là chánh tu hành. Bồ-tát Dũng Mãnh Tâm bạch:
–Bạch Thế Tôn! Tâm là chỗ hành của thế gian nên thế gian giong ruổi theo nó. Nếu Bồ-tát ở nơi tất cả tâm mà vô tâm thì không chỗ suy niệm, cũng không phân biệt, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Ái Kiến bạch:
–Bạch Thế Tôn! Như điều Phật nói, tất cả chỗ nhận thức đều là khổ, nếu Bồ-tát ở nơi tất cả chỗ nhận thức mà được tỉnh ngộ tức là không có chỗ nhận thức, cũng không có chỗ chấp giữ. Cho nên không nhập định Diệt thọ tưởng, không bỏ chúng sinh, không mất đại Bi, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Hương Tượng Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Hàng phàm phu, ngu tối có các gánh nặng nên khởi kiến chấp sâu nặng về năm uẩn. Nếu Bồ-tát biết rõ về năm uẩn nên được thư thái, đó là buông các gánh nặng. Lại có thể vì các phàm phu mà thuyết giảng pháp buông bỏ gánh nặng của năm uẩn, cho nên không một pháp nhỏ nào có thể khởi tưởng chân thật. Biết rõ các pháp là vô sinh vô diệt, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Trì Thế bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nẻo hành chân chánh là tu hành, chẳng chẳng phải là chỗ hành tà ác. Bồ-tát cần phải tu chánh phương tiện. Thế nào là chánh phương tiện? Nghĩa là biết tánh của tất cả pháp là bình đẳng, vì trí bình đẳng như hư không, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Kiên Cố Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát có trí tuệ phương tiện tức là vô sinh mà sinh, vô khởi mà khởi, ở trong sinh diệt cũng không chỗ trú, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Cát Tường Phong Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát quán tự tánh của tất cả pháp vốn vắng lặng thì không xả bỏ áo giáp đại Bi, thấy sức của tinh tấn thì biết kết quả không hư dối, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Vô Ngại Quang bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có dấu vết của chỗ hành, đó là việc ma; nếu là việc ma thì chẳng phải là tu hành. Nếu không chỗ hành, cũng không chỗ trú thì các ma ấy không tìm được chỗ sơ hở. Như vậy mới có thể siêu vượt các nẻo ma ác, đó là Bồ-tát tu hành chân thật.
Bồ-tát Cần Tinh Tấn bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có một pháp nhỏ vui muốn nào thành tựu thì sức tinh cần ấy là hư dối, vì tất cả pháp là không chỗ thành tựu. Nếu ở trong ấy có được trí cùng chỗ nhận biết được chẳng phải là không ý, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Diệt Ác Thú bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có các chủng loại phân biệt về chỗ hành thì cái gì gọi là tu hành? Không chủng loại, không phân biệt, đó là tu hành. Không chủng loại, không phân biệt ấy tức là tự tánh của tâm. Nếu có thể biết rõ tự tánh của tâm, đó là tu hành chân thật.
Bồ-tát Thiện Tư Nhi Tư bạch:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tùy nhập nơi tất cả tâm của chúng sinh, đã tùy nhập rồi tức biết rõ tâm của tất cả chúng sinh mà vô tâm, vì trong đó chỗ nhập của trí là vô tâm, đó là tu hành chân thật.
Bồ-tát Tịch Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Cận tịch là tu hành, chẳng phải cận tịch là tu hành. Bồ-tát ở nơi đại tịch ấy, các tâm nơi đối tượng duyên là biến tịch, cận tịch, hoặc tăng hoặc giảm đều không tạo tác, vì lìa tăng giảm nên biết rõ về bình đẳng, đó là chánh tu hành. Bồ-tát Đạo Sư bạch:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phát khởi thiện căn, đó là chánh tu hành, nếu có chỗ thành tựu tức chẳng phát khởi thiện căn. Vì sao? Vì Bồ-tát phát khởi phước hạnh tức là phát khởi trí hạnh; phước bình đẳng nên trí bình đẳng, trí bình đẳng tức phước bình đẳng, phước trí bình đẳng tức Bồ-đề bình đẳng, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Hy Hý Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Không phân biệt tất cả pháp, đó là tu hành. Nếu Bồ-tát biết rõ pháp giới đã thâu tóm khắp tất cả pháp thì không một pháp nhỏ nào hoặc lìa, hoặc hợp, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Thiện Tư Nghĩa bạch:
–Bạch Thế Tôn! Các pháp dựa vào nghĩa không dựa vào văn. Nếu Bồ-tát biết rõ về nghĩa tức ở nơi bốn vạn tám ngàn pháp uẩn, tuệ có thể đọc tụng, thọ trì, giải nói. Nhưng ở trong nghĩa chân thật không thể nói không hề động chuyển, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Thanh Tịnh Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Tâm sâu xa bền chắc, đó là tu hành. Bồ-tát có đầy đủ tâm sâu xa, tức chẳng phải là ngôn ngữ, nghĩ nói về chỗ đạt được tối thượng, chỉ tu chánh đạo chân thật; quán đạo chân thật ấy cũng không đến không đi, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Tất Cánh Vô Cấu Tư Duy bạch:
–Bạch Thế Tôn! Như chiếc áo bẩn được giặt giũ sạch sẽ, còn áo không bẩn thì giặt làm gì. Bồ-tát cũng lại như vậy, không đem tâm xưa nay thanh tịnh mà quán sát như thật khiến được thanh tịnh. Bồ-tát không chuyển gốc của tất cả tâm cấu uế phiền não, vì tâm ấy vốn thanh tịnh. Nếu biết rõ về thanh tịnh như vậy, đó là tu hành chân thật.
Bồ-tát Hải Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát được Thiện tri thức thâu nhận, tức ít trải qua sức cần khổ mà có thể thành chánh hạnh. Vì sao? Nếu sức Bồ-tát không thể vượt qua tất cả các việc ma thì sẽ bị các tri thức ác thâu giữ. Nếu sức của Bồ-tát có thể thắng vượt các việc ma thì nên biết đó là chỗ thâu nhận của Thiện tri thức.
Bạch Thế Tôn! Cho nên Bồ-tát nếu muốn siêu vượt các việc ma thì cần phải gần gũi thừa sự các Thiện tri thức. Bồ-tát nhờ sự thâu nhận dẫn dắt của
Thiện tri thức nên ít trải qua sự cần khổ mà có thể thành tựu chánh hạnh.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý rằng:
–Thiện nam! Ông có biết việc ma không?
Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con biết về việc ma.
Phật bảo Hải Ý:
–Thiện nam! Ông cứ tùy ý nói, khiến cho các Bồ-tát nghe rồi liền có thể siêu vượt, hàng phục các ma, ngoại đạo, mau chóng chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như điều Thế Tôn dạy, con sẽ nói về các việc ma. Kính xin Đức Thế Tôn kiến lập oai thần. Bạch Thế Tôn! Việc ma có mười hai loại. Những gì là mười hai?
Bồ-tát khi hành Bố thí ba-la-mật-đa, đem vật không ưa thích để bố thí, tâm còn ưa muốn. Nếu đem vật đáng ưa thích để bố thí tâm không còn ưa muốn. Vật người không ưa thích thì cố ý cho. Vật người ưa thích thì không cho. Ở chỗ bố thí dấy khởi vô số tưởng. Ở chỗ cho người cũng dấy khởi vô số tưởng. Đó là việc ma thứ nhất lúc Bồ-tát hành bố thí.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Lúc Bồ-tát hành Trì giới ba-la-mật-đa, nếu gặp các Sa-môn, Bà la môn, đối với phép tắc luật nghi, giới hạnh, pháp thiện đều có thể tròn đủ, cho đến một tội nhỏ cũng lo sợ, ngăn ngừa, nuôi sống thân mạng một cách trong sạch kiên trì giữ giới thì liền thân cận, tôn trọng. Còn gặp kẻ phá giới thì chê trách, giận dữ, ở trước họ luôn tự thị vào giới đức của mình, hủy báng người khác. Đó là việc ma thứ hai của Bồ-tát lúc trì giới.
Bạch Thế Tôn! Lúc Bồ-tát hành Nhẫn nhục bala-mật-đa, muốn thành tựu nhẫn hạnh, thân tuy có thể nhẫn nhưng lời nói lại không thể nhẫn, tâm sinh sân hận. Gặp kẻ mạnh thì có thể nhẫn với họ, còn gặp người yếu thì không thể nhẫn. Lại nữa, trước kẻ mạnh thì tỏ ra có sức nhẫn, nhưng trước kẻ yếu thì hiện tướng giận dữ. Kẻ như vậy thì nhẫn, kẻ như kia thì không nhẫn. Những chỗ nào có thể nhẫn? Những chỗ nào không thể nhẫn? Nếu chỗ hành nhẫn thì khởi tâm kiêu mạn, còn đối với chỗ không nhẫn thì không mau chóng sám hối. Đó là việc ma thứ ba của Bồ-tát khi hành nhẫn nhục.
Bạch Thế Tôn! Lúc Bồ-tát hành Tinh tấn bala-mật-đa tức phát khởi tinh tấn, hóa độ hàng theo thừa Thanh văn, Duyên giác, cũng hóa độ cả người trong Đại thừa. Chỉ vì hàng Thanh văn, Duyên giác mà thuyết pháp tương tục, trái lại còn dùng pháp Đại thừa để hóa độ các kẻ ngu [Từ đây trở xuống, dựa vào bảy tiếng Phạm để nêu theo thứ lớp của văn nghĩa. Bồ-tát Hải Ý nói có mười hai loại việc ma lẽ ra ở trên có ba đoạn rưỡi, ở dưới phải có thêm tám đoạn rưỡi nữa. Còn Phật thuyết giảng có mười loại pháp môn phá trừ ma, trong đó chỉ có bốn đoạn sau, còn sáu đoạn trên, bản tiếng Phạm bị mất không thể bổ khuyết được…] Đó là pháp môn phá trừ ma thứ sáu.
Lại nữa, Hải Ý! Tự tánh của tất cả pháp là vô nhiễm, dùng tướng vô nhiễm mà hóa độ sự cấu nhiễm của chúng sinh. Đó là pháp môn phá trừ ma thứ bảy.
Này Hải Ý! Tự tánh của tất cả pháp là vô sinh, vô khởi, dùng tướng vô sinh, vô khởi vì các chúng sinh giảng nói pháp đoạn trừ sinh lão bệnh tử. Đó là pháp môn phá trừ ma thứ tám.
Này Hải Ý! Tự tánh của các pháp cùng ở trong một vị không sai biệt, dùng tướng đồng một vị không sai biệt mà kiến lập ba thừa, đều vì các chúng sinh mà thuyết giảng pháp, khiến chúng cũng không lìa bỏ ý thích Đại thừa, đó là pháp môn phá trừ ma thứ chín.
Lại nữa, này Hải Ý! Nếu tâm ý thức của Bồ-tát tuy không chỗ vướng mắc nhờ dựa nhưng thường không quên mất tâm Đại Bồ-đề, tuy xa lìa các sự sinh khởi nhưng không xa lìa tâm nhằm giải thoát cho tất cả chúng sinh, tuy siêu vượt các hành nhưng cũng thành tựu thắng hạnh của Bồ-tát. Đó là pháp môn phá trừ ma thứ mười.
Này Hải Ý! Mười loại pháp môn phá trừ ma như vậy, nếu các Bồ-tát siêng hành trì tu tập thì sẽ siêu vượt tất cả việc ma.
Lúc Đức Thế Tôn nói Pháp môn phá trừ ma, tất cả cung ma đều trở nên tối tăm đại địa hiện đủ sáu cách chấn động, như lúc Phật mới ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề đang còn ở quả vị Bồ-tát, chưa thành Chánh giác. Bấy giờ, từ giữa đôi chân mày phóng ra hào quang lớn làm cho các cung ma cũng đều bị chìm lấp trong bóng tối như hôm nay không sai khác. Khi đó, chúng ma ác thấy tướng biến dị lạ thường như thế liền vội vàng chỉnh đốn bốn thứ binh chúng, như lúc xưa từng kéo đến đạo tràng Bồ-đề, nay cũng như vậy. Thống lãnh bốn binh chúng dàn rộng tới ba mươi sáu do-tuần đều đầy khắp quân ma rầm rộ đi đến chỗ pháp hội Đại tập Đại bảo trang nghiêm. Của Đức Thế Tôn. Do thần lực của Phật nên tất cả đám quân ma đông đảo ấy đều không thể trở lại cung ma. Lại cũng do thần lực của Phật nên khi chúng ma đến nơi hoặc thấy các cõi nước khác đều có Phật Thế Tôn, cùng với chúng Bồ-tát Bất thoái chuyển hóa độ chúng sinh và các vị A-la-hán đã đoạn các kết sử, hoặc các chúng sinh có đầy đủ chánh kiến.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Nay ông có thấy các chúng ma ác ấy tranh nghiêm như thế đi đến chúng hội không?
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Các chúng ma ấy đến Pháp hội này muốn khởi làm các chướng nạn nơi chánh pháp của ta, ông nay sẽ làm gì?
Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con nay sẽ chúng ma ác này đạt nên trong thế giới Chư lạc trang nghiêm nơi phương khác.
Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử hiện có mặt trong chúng hội liền nói với Bồ-tát Hải Ý:
–Lành thay, Đại sĩ! Thế giới Chư lạc trang nghiêm ở nơi phương nào? Đức Phật giảng thuyết chánh pháp ở cõi đó danh hiệu là gì?
Bồ-tát Hải Ý nói:
–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Về phương Đông cách cõi Phật này hơn mười hai hằng hà sa số cõi nước, có thế giới tên là Chư lạc trang nghiêm Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tồi Ma Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh giác, hiện tại đang giảng nói pháp. Do nhân duyên gì mà thế giới đó được gọi là Chư lạc trang nghiêm? Thưa Tôn giả! Nghĩa là ở thế giới ấy có các sự hỷ lạc, các thứ công đức, các việc trang nghiêm. Nếu nói rộng về các việc thù thắng vi diệu nơi thế giới đó thì dẫu trải qua một kiếp cũng không thể nói hết tận. Do vậy, nên thế giới ấy có tên là Chư lạc trang nghiêm.
Lại nữa, Đức Phật nơi cõi ấy có danh hiệu là Tồi Ma Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nghĩa là lúc Đức Thế Tôn mới ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, đang còn ở quả vị Bồ-tát, chưa chứng Nhất thiết trí, từ nơi thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp các cõi ma, thấy rõ trong cõi ma có trăm câuchi chúng ma, mỗi một ma lại có một ngàn câuchi quyến thuộc. Lúc ấy, các ma cùng kéo đến chỗ Bồ-tát muốn khởi tạo các chướng nạn nhưng nhờ thần lực của bậc Đại sĩ ấy nên chúng ma không thể gây tạo các thứ trở ngại. Khi đó, mỗi ma đều khởi tâm cho là điều ít có nên cùng hướng về Bồ-tát quy y, đảnh lễ. Bồ-tát liền vì họ mà thuyết pháp tương ứng, chúng ma nghe rồi, thân tâm được thanh tịnh, liền phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau đó, Bồ-tát chứng đạo đắc quả Bồ-đề Vô thượng nên mới gọi danh hiệu là Như Lai Tồi Ma. Lại nữa, lúc Đức Phật ấy còn ở quả vị Bồ-tát trong kiếp Trang nghiêm nơi đời quá khứ đã có danh hiệu là Hàng Phục Ma. Nay trong Hiền kiếp này chứng đắc đạo quả Bồ-đề, có thể làm cho các ma phát tâm Bồ-đề thừa sự Phật pháp. Đức Phật ấy vì các chúng Bồ-tát chỉ giảng nói pháp Đại thừa tối thượng không hề nói đến tên gọi của hai thừa. Thưa Tôn giả! Vì vậy nay tôi đem các chúng ma này đặt yên nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm, rồi khiến các chúng ma ấy không còn gây tạo các việc ma nữa. Ở cõi Phật ấy, họ sẽ cùng với Bồ-tát Hàng Phục Ma đồng phát tâm Bồđề, có thể hành viên mãn các pháp phần Bồ-đề.
Lúc này, các chúng ma nghe như vậy rồi thì sinh tâm kinh sợ, thân sởn gai ốc liền muốn lìa khỏi chúng hội, nhưng do thần lực Phật nên chúng không thể đi được, lại cũng không thể lẫn tránh, nỗi sợ hãi càng tăng nên đều hướng về Phật quy mạng, đảnh lễ, bạch Phật:
–Xin Đức Thế Tôn cứu độ chúng con, xin bậc Thiện Thệ cứu độ chúng con, đừng để Bồ-tát Hải Ý đặt chúng con trong thế giới ấy.
Đức Phật bảo các chúng ma:
–Chư ma các người chớ sinh sợ hãi! Bồ-tát Đại sĩ đối với mọi chúng sinh không hề nhiễu hại. Các ngươi cần phải tự mình đến trước Bồ-tát Hải Ý cầu xin sám tạ, Bồ-tát sẽ vì các ngươi khéo cứu hộ.
Các chúng ma nghe vậy liền chắp tay, hướng về Bồ-tát Hải Ý đảnh lễ, thưa:
–Chúng con nay xin sám tạ Đại sĩ? Chớ đặt chúng con vào nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm. Như chỗ chúng con sẽ làm, chúng con xin không dám trở lại chúng hội này lần thứ hai nữa.
Bồ-tát Hải Ý nói:
–Các ngươi nên biết! Ta nay đối với các ngươi đâu lại không thể nhẫn. Vì sao? Vì Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh thường hành nhẫn một cách rốt ráo. Chư ma các ngươi nay hãy đến thế giới Chư lạc trang nghiêm, xem xét các việc trang nghiêm nơi cõi ấy. Như Lai Tồi Ma ấy không hề nhiễu hại các ngươi.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý liền duỗi cánh tay phải màu vàng rồng chói lọi xoa trên đảnh đầu các ma để gia trì cho họ và dạy:
–Nếu pháp chân thật thì lời này chân thật. Các Bồ-tát đối với pháp không hề tiếc lẫn, cũng không hề giấu kín, nên do lời chân thật này như thần lực hiện có của ta như vậy khiến cho chúng ma này đều được lợi ích. Bồ-tát Hải Ý nói như vậy rồi thì các chúng ma liền có thần lực được đủ.
Lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách. Các chúng ma nơi hội này không còn hiện chỉ trong khoảng khắc, nhờ sức gia trì của Bồ-tát Hải Ý nên họ đã đến thế giới Chư lạc trang nghiêm liền đến chỗ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác Tồi Ma cùng nhau đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh theo phía bên phải bảy vòng rồi lui ra đứng sang một bên.
Khi ấy, trong cõi Phật ấy có một Bồ-tát tên là
Hàng Phục Ma, thấy sự việc như vậy rồi liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Có chút ít ánh sáng hiện ra với đám chúng sinh kém cỏi, với dung mạo dị thường, có thể là kẻ ác, từ phương nào đến đây?
Đức Phật ấy dạy:
–Này thiện nam! Về phương Tây, cách cõi Phật này hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thíchca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang ngự tại đạo tràng Đại bảo trang nghiêm, tuyên thuyết rộng khắp chánh pháp nơi Đại tập hội. Lại có vô lượng a-tăng-kỳ các Đại Bồ-tát vượt sự tính đếm khắp mười phương thế giới đều vân tập đến, nghe nhận chánh pháp. Trong pháp hội ấy có một Bồ-tát tên là Hải Ý, khéo mặc áo giáp đại kiên cố không thể nghĩ bàn, có thể thỉnh vấn đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai về chánh pháp. Đang lúc sắp nói pháp, thì có chúng ma ác kéo đến chỗ pháp hội ấy muốn khởi tạo các chướng nạn nên Bồ-tát Hải Ý bèn đưa các chúng ma ấy đến cõi này, vì muốn hóa độ khiến họ thành tựu.
Lúc ấy, Bồ-tát Hàng Phục Ma nói với các ma:
–Nay chúng tôi cùng với chư ma các ngươi đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì lúc xưa ta cũng đã từng ở nơi loài ma gây tạo các chướng nạn đối với chúng sinh gieo trồng thiện căn. Sau đó, ở trong pháp của Đức Như Lai này, xin phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi đó, thâm tâm các ma đã được bền vững nên tất cả đều pháp tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đã phát tâm rồi cùng nhau nói như vầy:
–Chúng con đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện vĩnh viễn không làm các việc ma nữa.
Bấy giờ, Bồ-tát Hàng Phục Ma liền khiến cho chúng ma ấy cùng ở nơi tòa Sư tử Bảo trang nghiêm của chúng hội ấy và khuyến thỉnh:
–Thưa thiện nam! Thế nào là chánh pháp Đại tập hội mà Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni đã tuyên thuyết? Tùy theo chỗ ưa thích các ngươi nay sẽ diễn nói.
Khi ấy, các ma vâng theo sức oai thần gia trì của Bồ-tát Hải Ý, tức thì ở tại tòa Sư tử, từ miệng và lỗ chân lông phát ra âm thanh thanh tịnh, giống như Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai giảng nói về chánh pháp Đại tập hội với văn tự như vậy, chương cú như vậy, mỗi mỗi đều tuyên nói đầy đủ không thiếu sót, cũng không tăng giảm.
Bồ-tát Hàng Phục Ma, ở nơi chỗ chúng ma ấy được nghe chánh pháp Đại tập hội như vậy, liền sinh tâm hy hữu bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con nay muốn được trông thấy Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai và thế giới Tabà, lại muốn thấy Bồ-tát Hải Ý và chúng Đại Bồ-tát khắp mười phương thế giới vân tập đến pháp hội đó.
Như Lai Tồi Ma ở thế giới ấy liền phóng ra hào quang lớn từ giữa đôi chân mày gọi là Phổ thiện nhất thiết sắc tướng, ánh sáng này chiếu tỏa về phương Tây trải qua mười hai hằng hà sa số cõi nước chư Phật đến thế giới Ta-bà, trùm khắp không gián đoạn. Các chúng Bồ-tát trong thế giới Chư lạc trang nghiêm đều thấy Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni đang ở tại đạo tràng Đại bảo trang nghiêm, có trăm ngàn loại sắc tướng tạo uy quang cho tòa Sư tử báu, vì chúng Đại Bồ-tát, từ khắp mười phương thế giới vân tập tới pháp hội, tuyên thuyết rộng lớn chánh pháp Đại tập hội. Lại thấy nơi thế giới Ta-bà này nước lớn dâng đầy khắp giống như biển cả, nhưng trong đó mọi việc không hề bị chướng ngại. Lại thấy các Đại Bồ-tát từ mười phương thế giới, đến dự pháp hội mỗi mỗi vị đều ngồi trên hoa sen lớn gồm các báu trang nghiêm nghe nhận chánh pháp. Hoa sen ấy mỗi mỗi đều dài rộng một câu-lô-xá. Các Đại sĩ nơi cõi này thấy tướng ấy rồi đều sinh hoan hỷ, vui mừng khôn xiết, liền dùng diệu hoa từ xa tung rải cúng dường Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni. Nhờ thần lực của Phật, nên chỗ tung rải hoa đều hội tụ trên đảnh Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, kết thành một lọng hoa rộng lớn tươi đẹp. Cả đại chúng nơi pháp hội Đại tập thấy lọng hoa lơ lửng trên không nơi đảnh đầu Phật Thích-ca Mâu-ni, thì liền sinh lòng hy hữu cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Lọng hoa này từ đâu bay đến? Phật nói:
–Này chư vị! Lọng hoa này là do đại chúng Bồ-tát ở thế giới Chư lạc trang nghiêm từ xa hướng về pháp hội này tung rải hoa thượng diệu để cúng dường.
Cả chúng hội cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con muốn thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm và Đức Thế Tôn Như Lai Tồi Ma nơi cõi ấy, cũng muốn thấy chỗ đến của các chúng ma và mọi việc làm nơi thế giới đó.
Đức Thế Tôn biết chỗ ưa thích của chúng hội liền bảo Bồ-tát Hải Ý.
–Này thiện nam! Hôm nay chúng hội này muốn trông thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm, cũng muốn được thấy Đức Như Lai Tồi Ma nơi cõi đó, vậy ông có thể hiện ra để tất cả chúng hội cùng chiêm ngưỡng.
Bồ-tát Hải Ý vâng theo lời dạy của Phật, liền phóng ra mười ngàn từ giữa mười ngón tay, chiếu tỏa về phương Đông cách đây mười hai hằng hà sa số cõi nước của chư Phật, đến thế giới Chư lạc trang nghiêm, sáng rực trùm khắp không gián đoạn. Tất cả đại chúng nơi chúng hội này đều thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm cũng được thấy Đức Như Lai Tồi Ma, lại thấy chúng ma ở nơi pháp tòa tại Phật hội ấy, rộng vì đại chúng giảng nói chánh pháp của Đại tập hội.
Đại chúng trong pháp hội này thấy các sự việc như vậy rồi, liền sinh tâm hy hữu, mỗi một đều từ nơi hoa sen đứng dậy, hướng về Đức Như Lai Tồi Ma chắp tay đảnh lễ, đều nên dùng hoa tươi đẹp tung rải cúng dường. Nhờ thần lực của Phật nên chỗ hoa tung rải đó đều hội tụ trên đảnh Đức Như Lai Tồi Ma, kết thành lầu gác hoa thù thắng, rộng lớn.
Bấy giờ, chúng ma bạch với Như Lai Tồi Ma:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con nay muốn trở lại thế giới Ta-bà nơi chỗ Đức Thích-ca Mâu-ni Phật. Phật nói:
–Thiện nam! Nay đúng là lúc các ngươi có thể trở lại cõi ấy.
Lúc đó, các ma với năm vóc sát đất đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh từ bên phải bảy vòng. Nhờ thần lực của Bồ-tát Hải Ý họ liền ẩn mất không hiện nơi cõi ấy nữa, chỉ chốc lát, liền trở về thế giới Ta-bà, cùng đảnh lễ nơi chân Phật Thíchca Mâu-ni, nhiễu quanh theo phía bên phải bảy vòng, lui qua một bên, thâu giữ tâm ý, cung kính, quy hướng.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các ma:
–Này chư vị! Các vị đã thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm chưa?
Các ma đáp:
–Thưa Tôn giả! Chúng tôi thấy rồi. Cõi ấy thật đẹp đẽ, thanh tịnh ít có, đó chính là nơi thanh tịnh vô cấu tối thắng. Chúng tôi thấy rồi, đều phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác Tôn giả Xá-lợi-phất bảo:
–Này chư vị! Các vị đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì không nên làm các việc ma và nói lời ma nữa?
Chúng ma đáp:
–Thưa Tôn giả! Nếu có người khéo trụ nơi tâm sâu bền như chúng chư Bồ-tát mới có thể hành dụng các việc ma. Vì sao? Vì như chư Bồ-tát là bậc khéo nơi trú tâm sâu bền, tức bậc đầy đủ năng lực có thể tùy theo chỗ cần thiết mà phát khởi việc ma. Do đó, Tôn giả nên biết, các Bồ-tát hành dụng việc ma, đó chính là hành hóa Phật sự chứ chẳng phải là làm việc ma.
Lúc các ma ở nơi cõi Phật đó hiện thần biến rồi, nơi chúng hội này có hai vạn người ở trong chúng ma phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại có một vạn Thiên tử phát tâm Bồ-đề Vô thượng cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con đều nguyện thọ sinh nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm.
Lúc ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai thọ ký:
–Các vị sẽ sinh đến cõi Phật ấy!
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Pháp Bồ-đề của chư Phật Như Lai, các ma và ngoại đạo thường gây tạo nhiều chướng nạn. Kính xin Đức Thế Tôn kiến lập oai thần khiến cho chánh pháp này được trụ lâu dài nơi thế gian, lại ở nơi kinh điển vô cùng thâm diệu như vậy, hộ trì cho họ.
Bạch Thế Tôn! Nếu ai có thể thọ trì, đọc tụng, lưu truyền rộng rãi kinh điền này thì sẽ được chư Phật Như Lai gia trì nên không hề ẩn mất, khiến các chúng ma không thể quấy nhiễu.
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Ta nay kiến lập chánh pháp này, nếu có chúng sinh muốn phát khơi tinh tấn, trồng các thiện căn nhằm đạt thành thục thì vì họ mà hóa độ khiến chúng sinh ấy đối với kinh điển sâu xa như vậy sẽ như pháp thọ trì, vì người khác diễn.
Phật lại bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Ông nay hãy lắng nghe và phải khéo tác ý! Như Lai sẽ vì ông mà nói về chương cú bí mật mời gọi Tứ đại Thiên vương. Với chương cú này có thể mau chóng triệu tập Tứ đại Thiên vương chỗ có chánh pháp này chư vị sẽ đến hộ trì, cùng sẽ hộ trì pháp sư thuyết giảng.
Lúc đó, Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh đà tam di, tam ma tán để, tát la ni, ta la phược để, đạt nê, đạt na phược để, độ độ di, độ độ ma để, a phược lý đa nê, a mạt lý, vĩ mạt lý, vĩ la nhĩ, cát cát lý, cát cát ni, hỗ lỗ, hỗ lỗ phược để, hỗ lỗ tán đề, nhĩ lý già, tát nhĩ, a phược trí vĩ phược trí, mạt mạt khô mạt để, ma la nhĩ đế, vĩ thú đề vĩ thú đà phược để, di di lý, mạt nổ hạ la sa hạ.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật như vậy có thể mau chóng mời gọi Tứ đại Thiên vương đến hộ trì chánh pháp thâm diệu này và có thể hộ trì pháp sư nêu giảng. Lại nữa, chương cú này có thể khiến cho pháp sư khéo giảng nói pháp này, như chỗ đã làm, quán sát kỹ về bốn phương khởi tâm đại Bi. Lúc ấy, nhờ sự gọi mời của chương cú bí mất này mà Tứ đại Thiên vương đều đến thâu giữ các pháp sư thuyết giảng.
Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương hiện có trong chúng hội này, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Đức Phật chắp tay đảnh lễ, bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh ở nơi chánh pháp thâm diệu tối thượng này mà biết rõ như thật lại có thể vì người khác giảng nói như lý, bốn Thiên vương chúng con cùng các quyến thuộc thường đến bảo vệ hộ trì chánh pháp, lại hộ trì các bậc pháp sư nêu giảng khiến không còn chướng nạn và không có sự suy não.
Lại nữa, này Bồ-tát Hải Ý! Ta nay vì ông mà tuyên thuyết về chương cú bí mật triệu thỉnh Đế
Thích Thiên chủ, Chương cú này có thể mau chóng mời gọi Đế Thích Thiên chủ đến hộ chánh pháp. Lúc ấy, Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh tha, nhạ duệ, nhạ dã phược để a chi, ma cô rị, tất đà mạt để, thú tỳ phiến để cát rị, na nỉ nhĩ, nan đế, nan đa mạc để, đát rị cát rị, xoa duệ, xoa dã mục khế, a phược trá nhĩ, vĩ phược trá nhĩ, ba rị phược trá nhĩ, ba rị thế nỉ, tất mật rị để, tất mật rị để tán đề, a nga tha kiều thi ca, nhĩ rị nhĩ đa, a tô la nhạ dương đê nỉ phược, tam ma du đế, a bán nỗ đạt rị ma đát rị nhĩ đô la ma sí, sa tất đa dã nang bộ đa nam, ma la xoa đạt rị ma tả rị niễn.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật như vậy có thể mời gọi Đế Thích Thiên chủ đến để hộ trì nơi có chánh pháp này và có thể hộ trì cho Pháp sư thuyết giảng. Nhưng Pháp sư ấy cần phải dùng chương cú bí mật này trì tụng, thân tâm trong lặng, tắm rửa đúng pháp, mặc áo tinh sạch, ở nơi pháp tòa, hướng về phương Đông, tung rải hoa tươi đẹp cúng dường, dốc cầu chư Phật rũ lòng thâu nhận, đối với chúng sinh luôn khởi tâm đại Bi. Kính nghĩ là, Đế Thích Thiên chủ luôn thương yêu nên vì ta mà đến chỉ dẫn chúng nghe pháp, khiến cho tất cả đều được nghiêm túc, lại khiến cho văn cú của Đàla-ni này được hoà hợp. Những việc làm hiện tiền như vậy, nếu Pháp sư kia nội tâm thanh tịnh, giới hạnh trong lành tức có thể khiến cho Đế Thích Thiên chủ đến thâu giữ, sắp xếp chúng hội, luôn khéo gia hộ.
Lúc ấy, Đế Thích Thiên chủ hiện đang ở chúng hội này liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như điều Thế Tôn nói, vào đời vị lai, nếu có pháp sư có thể thọ trì chánh pháp này, con sẽ đến đó chỉ dẫn sắp xếp chúng hội, hoà hợp văn cú để gia gia hộ. Lại nữa, chỗ nào hiện có Chánh pháp này thì con sẽ đến đó mà tạo sự thâu giữ khiến cho pháp được trụ lâu dài. Lại nữa, chánh pháp này vào đời vị lai, con sẽ vì chúng Thiên tử của cõi trời Ba mươi ba thường tuyên thuyết rộng rãi. Vì sao? Vì chánh pháp này là pháp Bồ-đề mà chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tại, vị lai luôn tán dương. Đối với pháp Bồ-đề của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai này con luôn khởi tâm tôn trọng, nên con sẽ thuyết giảng chánh pháp ấy.
Lúc này, Đức Thế Tôn khen ngợi Đế Thích Thiên chủ:
–Lành thay, lành thay! Kiều-thi-ca! Ông có thể gầm lên tiếng Sư tử nên phát ra lời: “Vào đời vị lai xin sẽ hộ trì chánh pháp” Lời ông nói ra nên như thế mà hành trì. Này Kiều-thi-ca! Nhờ sức thâu giữ của chánh pháp này nên có thể khiến cho chư Thiên thường được sự tối thắng theo chỗ nguyện cầu, còn uy lực của chúng A-tu-la phải thoái chuyển hao tổn.
Lại nữa, này Bồ-tát Hải Ý! Ta sẽ vì ông mà nêu bày chương cú bí mật nhằm hàng phục chúng Thiên ma, có thể khiến cho chúng mau chóng thâu phục và đến hộ trì chánh pháp. Khi đó, Đức Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh tha, thiết di, thiết ma phược để, thiết di đa thiết ngật la, ánh cô rị, mâu cô rị, ma la nhĩ đế, cát la nhị, chỉ du rị, đế dã chuyển để, ô lộ dã nhĩ, vĩ thiết xá, nhĩ rị ma lê, ma la bát na duệ, khô khô rị, kha nga, nga la tế, nga la tát nê, ô mục khế, bát la mục khế, a mục khế, thiết di đa nhĩ, tát rị phược nga la hạ mãn đà na nhĩ, nhĩ ngật rị hệ đa tát rị phược ba ra bát ra phược nỉ na, vĩ mục ngật đa ma la bá xá, đắc đà tất đa một đà, mẫu nại la, a nậu nại già trí đa tát rị phược ma lại, tô tả rị đa bát rị thú đình, vĩ nga tha đổ tát rị chuyển ma la cát rị ma ni.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật như vậy có thể thu phục chúng Thiên ma, lại có thể tiêu trừ tất cả phiền não. Vị Pháp sư nêu giảng ấy dùng chương cú bí mật này trì tụng, ở nơi pháp tòa, quán xét khắp chúng hội đều trú nơi đạo tràng, vận dụng rộng tâm đại Từ vô lượng, với bản thân mình khởi tưởng y vương, xem giáo pháp như thuốc hay, với các người nghe khởi tưởng như bệnh nhân, đối với Phật Như Lai, khởi tưởng Chánh sĩ, với Pháp nhãn không lỗi lầm khởi tưởng an trụ lâu dài. Các việc như vậy là đều nhờ sức gia trì của chương cú bí mật này, rộng vì tất cả mà thuyết giảng pháp tương ưng, hành dụng hiện tiền. Lúc ấy trong khoảng vòng quanh một trăm do-tuần, các chúng Thiên ma không thể đến nhiễu hại. Giá như chúng ma có đến Pháp hội cũng không thể gây tạo chướng nạn. Khi đó, chúng Thiên ma hiện đang ở nơi pháp hội này liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con nhờ thần lực gia trì của Bồ-tát Đại Sĩ Hải Ý đã đưa chúng con đến nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm ấy. Trước hết, chúng con đã bỏ hẳn các nghiệp ma, nên chúng con thường phải hộ trì nơi chánh pháp này. Vào đời vị lai sau này, nếu trong các thành ấp, làng xóm, hoặc tăng phòng nào có người tuyên thuyết chánh pháp ấy thì chúng con xin sẽ đến đó, lìa tâm kiêu mạn, hết lòng cung kính tôn trọng, chuyên chú lắng nghe.
Đức Thế Tôn khen ngợi chúng ma:
–Lành thay, lành thay! Chúng ma các ngươi có thể tôn trọng chánh pháp như thế, trước tiên đã bỏ hết các việc làm của ma, nay các ngươi ở trong pháp như vậy sẽ được nhiều lợi lạc, đó là nhờ thần lực của Bồ-tát Hải Ý dẫn đến.
Lại nữa, này Bồ-tát Hải Ý! Ta nay vì ông mà nêu rõ về chương cú bí mật gọi mời Đại phạm Thiên vương chủ thế giới Ta-bà. Chương cú này có thể gọi mời Đại phạm Thiên vương một cách mau chóng đến chỗ Pháp sư để hộ trì.
Đức Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh tha, muội đát la dã ca rị, cát lỗ noa ca rị, mẫu nỉ đa ca rị, ô bế xoa ca rị, một đà ca rị, đạt rị ma ca rị, tăng già ca rị, tô ngật rị đa vĩ tả duệ, ma ha vĩ đa nê, nhĩ sắt ba rị na kỳ, ô nhạ bát để, ô nho nga di, đạt rị ma na nại nhĩ, tát đa bát la để sắt xá na, ô ba bát để vĩ thú đề, sa tức đổ bát thiết dị, tường phược lộ cát dã một la hạ ma mạt du để sắt xá, tam ma địa a phệ xoa, đạt rị ma tả la niễn cô lỗ, tát đạt rị ma ba rị nga la, kháng ngật rị đa ma nậu bá la dã, một đà nê đế linh ma tường phược thân na, sa ma la đa đạt rị ma tác cát la bát la phược rị đa nam cô lỗ, tát đỏa vĩ du đạt nam bát la để ngật rị hạ noa, đạt rị ma na nga la bá la đảm, một đà đề sắt xá nam ma vĩ cô bát dã.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật này có thể gọi mời Đại phạm Thiên vương. Pháp sư nêu giảng, trì tụng chương cú bí mật này cần phải nương vào phạm hạnh, trú tâm vô ngại, các căn ẩn mật, khéo hộ các niệm, nói lời quyết định, khéo làm cho thân nghiệp được thanh tịnh, chân thật thâu giữ ngữ nghiệp, khéo giữ vững tâm tuệ, tu hạnh nhẫn, làm thanh tịnh giới uẩn, phát khởi sức tinh tấn, nắm giữ đa văn, khéo quán tưởng khiến tâm thông suốt, tuệ căn thuận hợp, tu tập chánh hạnh, giữ tâm Bồđề, khéo tu quán từ, an lập đại Bi khiến cho khắp chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi mọi thứ khổ não, đạt được lợi lạc. Pháp sư ấy khởi tâm như vậy rồi phải ở nơi tòa Sư tử, dốc cầu Đại phạm Thiên vương, nguyện xin thâu nhận, sau đó vì người khác thuyết pháp tương ưng, Đại phạm Thiên vương cùng Phạm chúng sẽ đến chỗ Pháp sư hộ trì.
Lại nữa, Hải Ý! Pháp sư giảng pháp cần phải biết rõ, lúc Đại phạm Thiên vương đến pháp hộ thì có các tướng lành, nghĩa là tất cả các chúng hội đều khởi tâm Từ, hoặc các căn của chúng hội không hề thiếu sót, hoặc cũng giúp nhau an trú trong pháp Bồ-đề, hoặc ưa thích giáo pháp và Pháp sư, khởi tưởng tôn trọng, hoặc chuyên chú nhất tâm, xa lìa ý tán loạn, hoặc buộc niệm nơi các pháp thiện, hoặc kiếm giữ các niệm, dứt tuyệt mọi liên hệ bên ngoại, một lòng nghe pháp, hoặc ở chỗ Pháp sư nghe các pháp môn vi diệu xưa nay chưa từng nghe, chưa từng gặp, nghe rồi thì có thể nói. Nếu khi các tướng lành hiện ra như vậy thì chính là lúc Đại phạm Thiên vương đến pháp hội.
Bấy giờ, Đại phạm Thiên vương hiện có nơi pháp hội liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Ở mọi nơi, mọi chốn, nếu có người tuyên thuyết chánh pháp thâm diệu như vậy, dẫu con đang ở cõi Phạm, có vô lượng pháp lạc thiền định, con cũng đều xả bỏ, liền đến chỗ Pháp sư thuyết giảng kia để hộ trì.
Bạch Thế Tôn! Pháp gia hộ ấy có tám loại. Những gì là tám?
1. Gia hộ về niệm, khiến pháp được nghe không hề quên mất.
2. Gia hộ về tuệ, khiến không trái mất đối với pháp thậm thâm.
3. Gia hộ về hành khiến hiểu rõ nơi nghĩa lý.
4. Gia hộ về biện tài, khiến đoạn dứt các nghi hoặc.
5. Gia hộ về ký thuyết, khiến người nghe tất cả âm thanh, ngôn ngữ đều hoan hỷ.
6. Gia hộ về pháp hóa độ, khiến người ấy siêu vượt tất cả chúng hội.
7. Gia hộ về hiện pháp được sáng tỏ, khiến không bị ám độn.
8. Gia hộ về môn được xuất ly, khiến người ấy nương pháp tu chứng.
Bạch Thế Tôn! Con dùng tám pháp như vậy để gia hộ cho Pháp sư thuyết giảng. Chúng con thường ở chỗ pháp sư âm thầm tìm cách hộ vệ khiến pháp được trụ lâu dài, các ma oán đều được diệt trừ. Những việc như vậy đều là chỗ kiến lập oai thần của Như Lai, khiến chánh Pháp được ban rải rộng khắp.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Xin Đức Thế Tôn kiến lập oai thần khiến cho chánh pháp này, an trụ lâu, vào đời vị lai sau này khi chư Phật Như Lai đã nhập Niết bàn, nếu có chúng sinh trồng căn lành sâu dày thì khiến cho họ có được kinh điển thâm diệu như vậy, hoặc trao tận tay, hoặc có những nơi chốn cất giữ, lần lượt lưu hành khiến không ẩn mất.
Lúc này, Đức Thế Tôn nhận sự khuyết thỉnh của Bồ-tát Hải Ý rồi, liền phóng ra nhiều luồng ánh sáng nhiều màu sắc từ giữa chặng mày, chiếu khắp tam thiên thế giới, bao trùm sáng rỡ. Tất cả các thứ dược thảo, cây rừng, cát đá nhờ tiếp xúc ánh sáng, đều biến thành hình tượng Như Lai. Các hình tượng biến hóa ấy đều ở trong đạo tràng Đại bảo trang nghiêm để cúng dường. Nhờ sự kiến lập oai thần của Phật nên mỗi mỗi hình tượng Như Lai biến hóa đều cùng nói như vầy:
–Vì chánh pháp này mà Như Lai Thích-ca Mâu-ni kiến lập oai thần, tức tất cả Như Lai mười phương cũng cùng kiến lập oai thần. Nếu oai thần của chư Phật được kiến lập thì các chúng ma không thể tạo các chướng nạn được. Bạch Thế Tôn! Dẫu cho số lượng của chúng ma giống như cát sông Hằng, dốc hết sức lực hùng mạnh thì rốt cuộc cũng không thể dấy khởi các chướng nạn đối với chánh pháp này. Vì sao? Giả sử đại địa này tan hoại, tất cả biển lớn đều khô kiệt, các núi Tu-di đều bị nghiền như vi trần, có thể buộc gió lại, mặt trăng mặt trời đều rơi xuống đất, trong không hiện các sắc tượng, nơi lửa có nước, trong nước có lửa, trong bốn đại chủng đều có tính khác, như tất cả chúng sinh đều cùng một tâm, hư không và đất cùng tương hợp, giả sử nếu có các việc như vậy thì sức gia trì của Như Lai cũng không hề có chút động chuyển.
Lúc ấy, Thế Tôn liền đưa bàn tay phải xoa đầu Tôn giả A-nan, bảo:
–Này A-nan! Ông phải thọ trì chánh pháp này, vào đời vị lai hãy nêu giảng lưu truyền rộng rãi làm cho chúng sinh đều được thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết, khiến chánh pháp của Phật an trụ lâu ở thế gian.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Do ý nghĩa gì mà phó chúc chánh pháp thậm thâm như vậy cho Tôn giả A-nan về trí tuệ của Tôn giả A-nan hiện còn hạn lượng? Trong pháp hội này có các Đại Bồ-tát niệm tuệ sâu rộng giống như biển lớn không biết được độ sâu cùng bến bờ sao không giao phó cho chư vị ấy?
Phật nói:
–Này Hải Ý! Chẳng phải chỉ mỗi tuệ lực của Tôn giả A-nan mà có thể thọ trì chánh pháp như vậy, đó là do oai thần của Như Lai kiến lập. Ông nay nên phải biết, vào đời vị lai về sau này có các chúng sinh ở chỗ Tôn giả A-nan nghe nhận chánh pháp sâu xa như vậy, nghe rồi liền tin vui, sinh đại hoan hỷ, phát tâm hy hữu nên nói như vậy: “Đều là sự kiến lập oai thần không thể nghĩ bàn của Như Lai. Như hàng Thanh văn có thể thọ trì kinh điển thâm diệu quảng đại như vậy, đó là nhờ sức gia trì nơi oai thần của Như Lai.”
Khi đó, trong chúng hội, hoặc có hàng trời, người nghĩ như vầy: “Diệu lực tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát Hải Ý có gián đoạn chăng sao Đức
Thế Tôn chỉ nói Tôn giả A-nan đa văn bậc nhất?”
Lúc ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp biết trong chúng hội có sự nghi hoặc nên quán khắp đại hội rồi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Sức tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát Hải Ý có sự gián đoạn chăng, vì sao Đức
Thế Tôn chỉ cho Tôn giả A-nan là đa văn bậc nhất?
Phật nói:
–Giả sử trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật đều gồm thâu chúng sinh đầy khắp, ý ông thế nào? Chúng sinh giới ấy có nhiều chăng?
Tôn giả đại Ca-diếp bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật bảo:
–Giả sử các chúng sinh như vậy, cùng một lúc đều được làm thân người, không trước không sau, mỗi mỗi đều đầy đủ sức tư niệm về Tổng trì, đều giống như Tôn giả A-nan không khác. Nếu đem sức tư niệm về Tổng trì của tất cả chúng sinh kể trên so với sức tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát Hải Ý thì trăm phần không bằng một, cho đến Ô-bani-sát-đàm phần cũng không bằng một.
Này Tôn giả đại Ca-diếp! Bồ-tát Hải Ý này có thể nhận lãnh pháp được thuyết giảng của mười phương chư Phật mà không hề bị chướng ngại, chẳng phải chỉ ở nơi pháp được thuyết giảng của một Phật, hai Phật mà không bị chướng ngại. Ví như trời mưa, biển cả không chỉ dung chứa một giọt mưa, hai giọt mưa không bị chướng ngại, mà có thể dung chứa tất cả các trận mưa, không hề bị chướng ngại, biển cả ấy cũng không tăng không giảm. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, đều có thể thọ trì pháp, thuyết giảng pháp của chư Phật Thế Tôn, chẳng phải ở nơi pháp được thuyết giảng của một Phật, hai Phật mà không chướng ngại, nhưng sức tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát không tăng cũng chẳng giảm.
Lúc thuyết pháp này, trong chúng hội có tám ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và cùng nói như vầy:
–Mỗi một chúng con đều nguyện sẽ đạt được sức từ niệm về Tổng trì như Bồ-tát Hải Ý. Bấy giờ, chư Thiên, người trong hội, mỗi một đều dùng diệu hoa tung rải cúng dường Phật và Bồ-tát Hải Ý.
Lúc ấy, trong pháp hội có một Bồ-tát tên là Liên Hoa Trang Nghiêm liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe pháp môn thậm thâm này, nghe rồi lại tin hiểu, thọ trì đọc tụng, quán sát như lý, y pháp tu hành thì người ấy đạt được bao nhiêu phước?
Đức Thế Tôn nói kệ đáp Bồ-tát Liên Hoa Trang Nghiêm:
Giả sử như trong tam thiên thế giới
Chân kim đầy khắp dùng cúng Phật
Lúc nghe pháp tạng liền tin hiểu
Phước này so trước là tối thắng.
Giả sử trong mười ngàn thế giới
Châu báu đầy khắp cúng Như Lai
Có người trì tụng kinh diệu này
Phước ấy so trước không thể tính.
Lại nếu trong mười ngàn thế giới
Đầy mọi châu báu dùng hành thí
Nếu nêu giảng kinh thâm diệu này
Phước ấy hơn trước không thể tính.
Giả sử ngàn câu-chi cõi nước
Châu báu trong ấy chứa đầy khắp
Cúng khắp chư Phật thế gian
Tôn Tu hành pháp này hơn phước ấy.
Số lượng hằng hà sa mười phương
Châu báu cõi Phật cúng Như Lai
Tu học chân thật nơi pháp này
Phước ấy so trước không thể tính.
Bốn loại Pháp đủ vô biên phước
Phật cũng không thể nói hết được
Phát tâm Bồ đề và hộ pháp
Khởi tâm đại Bi, tu hành pháp
Bốn loại pháp đủ vô lượng phước
Bậc trí nghe rồi không sinh nghi
Hư không giới và Chúng sinh giới
Tâm Bồ-đề cùng trí chư Phật.
Chánh pháp báu ta tuyên nói này
Chấn động mười phương câu-chi cõi
Phóng quang minh tịnh và mưa hoa
Không tấu tự vang trăm loại nhạc.
Tất cả Bồ-tát, Đại trí sĩ
Phát tâm tối thắng nói kệ tán
Nghe diệu pháp môn được thuyết này
Tất cả lợi lạc, quả chân thật.
Theo ta được nghe pháp như vậy
Khắp cả chúng sinh được lợi lạc
Đều nhờ được Như Lai gia hộ
Khiến tâm Bồ-đề không quên mất.
Số ngàn câu-chi mười phương Phật
Mỗi một chắp tay và đảnh lễ
Khen ngợi biển đức bậc Đại thánh
Khéo trụ gia trì của Như Lai.
Thiên Long, Tu-la, Khẩn-na la
Càn-thát bà và chúng Dạ xoa
Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế thiên
Ở trong không trung nói như vầy:
Nguyện Thích Sư Tử trụ đời lâu
Chánh pháp tối thượng không diệt mất
Bồ-tát dũng mãnh vượt các chúng
Gia trì pháp thâm diệu như vậy.
Có người thọ trì Pháp nhãn này
Chúng con sẽ hiện thân đến đó
Ở đó tôn trọng và chuyên chú
Âm thầm hộ trì không phiền nhiễu.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Chánh Pháp này là mắt pháp vĩ đại, là pháp ấn vi diệu, là cờ pháp thù thắng, quyết định lựa chọn các pháp, phân biệt các pháp, chư Phật Thế Tôn nói quá khứ, hiện tại, vị lai đều giảng nói pháp ấy. Này Hải Ý! Như trước ta đã nói, các Ông cần phải tôn trọng, cung kính, chí thành kiên cố, tu hành như lý.
Phật giảng nói kinh này rồi, Bồ-tát Hải Ý, chúng Đại Bồ-tát cùng với hàng, Trời, Người, Atu-la, Càn-thát-bà ở thế gian, tất cả các đại chúng nghe Phật giảng nói rồi, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
[Mục lục bộ Đại tập][397.1][397.2][398][399][400][401][402][403][404][405][406][407][408][409][410][411][412][413][414][415][416][417][418][419][420][421][422][423][424]