TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ ĐẠI TẬP (397 - 424)

SỐ 402 - KINH BẢO TINH ĐÀ-LA-NI

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: HÀNG PHỤC MA

QUYỂN 2

Phẩm 2: BẢN SỰ

QUYỂN 3

Phẩm 3: MA VƯƠNG QUY PHỤC

QUYỂN 4

Phẩm 3: MA VƯƠNG QUY PHỤC (tt)

Phẩm 4: ĐẠI TẬP

QUYỂN 5

Phẩm 5: TƯỚNG

QUYỂN 6

Phẩm 6: Đà-la-ni

QUYỂN 7

Phẩm 6: Đà-la-ni (tt)

Phẩm 7: NHIẾP THỌ DIỆU PHÁP

Phẩm 8: THỌ KÝ

QUYỂN 8

Phẩm 8: THỌ KÝ (tt)

Phẩm 9: TỪ MẪN

Phẩm 10: ỦNG HỘ

QUYỂN 9

Phẩm 10: Ủng hỘ (tt)

Phẩm 11: HỘ CHÁNH PHÁP

QUYỂN 10

Phẩm 12: A-tra-bạc-câu

Phẩm 13: CÁC ĐỨC PHẬT TRỞ VỀ NƯỚC


QUYỂN 1

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Ba-la-pha-mật-đa-la.

Phẩm 1: HÀNG PHỤC MA

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Thế Tôn ở bên hồ Ca-lan-đà trong rừng Trúc thuộc thành Vương xá, cùng với chúng đại Tỳ-kheo, gồm một ngàn người, đều là các bậc A-la-hán, đã hết các lậu, việc làm đã thành tựu, bỏ các gánh nặng, đạt được tự lợi, hết các kết sử, đều đắc Chánh tri, tâm khéo giải thoát; cùng với chúng Đại Bồ-tát, gồm một vạn người. Những vị ấy tên là Đồng Trì Tu-di Đảnh Đồng chân, Thủy Trí Đồng chân, Địa Trí Đồng chân, Thắng Trí Đồng chân, Không Trí Đồng chân, Minh Trí Đồng chân, Điện Trí Đồng chân, Văn-thù-sư-lợi Đồng chân, Hàng Phục Thắng Đồng chân, Thủy Thiên Đồng chân, Vô Cấu Đồng chân, Đại Bồ-tát Di-lặc Đồng chân làm thượng thủ. Tất cả đều được. Sằnđề Đà-la-ni Nhẫn nhục Tam-ma-đề, đầy đủ trí tất cả pháp không chướng ngại, đối với tất cả chúng sinh, tâm các vị ấy luôn bình đẳng, qua khỏi các cõi ma, khéo vào cảnh giới trí của tất cả Như Lai, đầy đủ đại Từ, đại Bi và trí thiện giải phương tiện đều theo Đức Phật, trụ ở bên hồ Ca-lan-đà, trong rừng trúc, thuộc đại thành Vương xá.

Bấy giờ, tại đại thành Vương xá có hai ngoại đạo, trí tuệ thông tỏ thấu đạt hơn mười tám minh xứ; cùng với năm trăm người. Một người tên là Ưu-ba-để-sa, người thứ hai tên là Câu-lợi-đa, đều bậc thượng thủ của nhóm người đó. Họ cùng hẹn với nhau, sẽ cùng đạt pháp giải thoát. Lúc ấy, vào buổi sáng sớm, Trưởng lão A-thuyết-thị (Đời Đường gọi là Mã Thắng), đắp y mang bát, vào đại thành Vương xá khất thực. Ưu-ba-để-sa thấy Tôn giả A-thuyết-thị thì sinh tâm hy hữu: “Ta chưa từng thấy người nào uy nghi đĩnh đạc như vị Samôn này, lại khó có ai sánh với vị Tỳ-kheo đó. Ta nên đến hỏi xem, vị Trưởng lão này, đã lấy ai làm thầy, nương ai xuất gia, nương ai cầu pháp?” Ưuba-để-sa liền đến chỗ Tỳ-kheo đó; đến nơi nói những lời thăm hỏi xong, rồi lui đứng qua một bên, bạch Trưởng lão A-thuyết-thị:

–Tôn giả lấy ai làm thầy? Nương ai xuất gia?

Nương ai cầu pháp?

Trưởng lão A-thuyết-thị đáp:

–Có một vị dòng họ Thích, dũng mãnh tinh tấn, có thể tu đại khổ hạnh, ở tất cả chỗ đều tự tại tối thượng, đã qua bể cả sinh tử vô biên, nay đem tâm đại Bi muốn hóa độ chúng sinh; danh hiệu ngài là Phật. Ngài giác ngộ cho chúng sinh, làm cạn khô bể khổ, không ai sánh bằng. Tôi quy y ngài và cầu pháp giải thoát.

Ngài Ưu-ba-để-sa nói:

–Bậc thầy đó vì Tôn giả giảng nói những pháp gì? Lấy gì để dạy?

Trưởng lão A-thuyết-thị đáp:

–Hay thay! Hãy lắng nghe! Tôi sẽ vì ông mà giải nói!

Liền nói bài kệ:

Nhân duyên, nghiệp, phiền não
Thế gian chuyển như vậy
Nghiệp phiền não chẳng sinh
Đạo sư dạy như vậy!
Sinh, lão, tử, hoại tan
Ấy giải thoát vô thượng
Như Ngưu vương dũng mãnh
Như Lai tự ngộ nói.

Ưu-ba-để-sa nghe bài kệ này rồi thì xa trần lìa cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh, đắc quả Tu-đàhoàn và nói kệ:

Tôi chứng, hiểu thật pháp
Cạn hẳn dòng tử sinh
Đó là Như Lai nói
Tạng cam lộ khó được.
Chúng sinh dứt được khổ
Trí tuệ thường đoạn trừ
Tu vô lượng pháp môn
Rốt cùng cũng được đạo
Hành đạo rốt cùng ấy
Được Niết-bàn Vô thượng.

Ưu-ba-để-sa nói kệ này xong, liền bạch với Trưởng lão A-thuyết-thị:

–Thưa Trưởng lão! Thầy của Trưởng lão là Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, hiện nay ở chỗ nào?

Tôn giả A-thuyết-thị đáp:

–Đức Như Lai thầy tôi hiện nay ở bên bờ hồ Ca-lan-đà, trong rừng trúc, thuộc thành Vương xá; cùng với chúng đại Tỳ-kheo gồm, một ngàn người; họ vốn là người ngoại đạo, được gặp Phật rồi xin xuất gia.

Ưu-ba-để-sa nói:

–Tôi nay từ giã Thiện tri thức và các quyến thuộc, đi đến chỗ Phật, xin xuất gia.

Ưu-ba-để-sa làm lễ nơi chân Tôn giả A-thuyếtthị, nhiễu quanh bên phải ba vòng, rồi từ tạ mà đi. Ông ấy đi đến chỗ bạn cũ Câu-lợi-đa. Câu-lợi-đa thấy Ưu-ba-để-sa từ xa đi đến, gặp nhau rồi, liền hỏi Ưu-ba-để-sa:

–Này bạn! Các căn thanh tịnh, sắc diện tươi vui, nhất định là ông đã được cam lộ rồi!

Ưu-ba-để-sa nói:

–Đúng vậy! Thưa Trưởng lão! Tôi hôm nay, được pháp cam lộ. Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Tôi nay sẽ vì bạn mà nói pháp đạt được.

Câu-lợi-đa liền đứng dậy, trật áo vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay, cung kính, nói kệ thỉnh:

Xin nói đạo Vô ưu an lành.
Đạo này chóng qua biển ba cõi
Phân biệt được các ấm, oán tặc.
Theo đạo này rồi chẳng luân hồi.

Ưu-ba-để-sa đem bài kệ đã nghe, vì bạn mà nói:

Nhân duyên, nghiệp, phiền não
Thế gian chuyển như vậy
Nghiệp phiền não chẳng sinh
Đạo sư dạy như thế!
Sinh, lão, tử, hoại tan
Ấy giải thoát vô thượng
Như Ngưu vương dũng mãnh
Như Lai tự ngộ nói.

Câu-lợi-đa nghe bài kệ này xong, tâm rất vui mừng; một lần nữa khen ngợi, thỉnh nói lại với bài kệ trước:

Khổ, diệt, tịch, dứt cấu
Mâu-ni nói pháp này
Tất cả phiền não dứt
Đoạn các kiến vô tri.
Hữu vi: Uế, ác, không
Vô ngã, chẳng thể tin
Nói lại pháp tịch tĩnh
Tôi nghe được Niết-bàn.

Ngài Ưu-ba-để-sa một lần nữa, lại vì bạn, nói bài kệ đã nghe:

Nhân duyên, nghiệp, phiền não
Thế gian chuyển như vậy
Nghiệp phiền não chẳng sinh
Đạo Sư dạy như thế!
Sinh, lão, tử, hoại tan
Ấy giải thoát vô thượng
Như Ngưu vương dũng mãnh
Như Lai tự ngộ nói.

Câu-lợi-đa nghe lại bài kệ này xong thì xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh, đắc quả Tuđà-hoàn, rồi dùng kệ khen:

Như pháp chân hạnh này
Thuyền nhanh qua khỏi dòng
Trí này dứt ba khổ
Đưa thế gian về bến
Các ma ấm phiền não
Biết rõ để điều phục
Giải thoát lìa oán tránh
Biển khổ liền khô cạn.

Nói kệ rồi, Câu-lợi-đa hỏi bạn:

–Vậy nay Đức Thế Tôn trụ ở đâu?

Ưu-ba-để-sa nói:

–Tôi nghe Đức Thế Tôn đang ở bên bờ hồ Calan-đà, trong rừng Trúc, tại đại thành Vương xá; cùng với chúng đại Tỳ-kheo tăng và chúng Bồ-tát. Nay tôi nhất định sẽ cùng bạn đi đến chỗ Đức Thế Tôn, cầu Phật xuất gia.

Câu-lợi-đa nói:

–Đúng vậy! Thưa Trưởng lão! Ta nên nói với nhóm đệ tử của mình; hãy đi đến chỗ Đức Thế Tôn cùng nhau xuất gia luôn!

Ưu-ba-để-sa cùng với Câu-lợi-đa đi đến chỗ đồ chúng của họ. Khi ấy, trong khoảnh khắc như một niệm; ma ác nghe được trong nước Ma-giàđà, có hai ngoại đạo, là Ưu-ba-để-sa cùng Câulợi-đa, thông minh tròn đủ, danh tiếng vang khắp, là những bậc thiện trượng phu, cùng với các quyến thuộc; đang muốn xuất gia học đạo, ở trong pháp của Sa-môn Cù-đàm. Ma đó khởi ý niệm: “Kỳ lạ thay! Nếu hai người này, xuất gia trong pháp của ông Sa-môn Cù-đàm thì cảnh giới của ta sẽ trống không! Ta phải đến chỗ hai vị đó ngăn chận sự xuất gia ấy, khiến họ mang ác kiến.” Lúc đó, trong khoảnh khắc chỉ như một niệm, ma ác biến mất khỏi cung mình, hóa làm hình tướng uy nghi của Tôn giả A-thuyết-thị, hiện ra giữa đường, đứng trước mặt hai người, nói như vầy:

Như trước ta đã nói
Thử ông! Chớ quyết định
Việc như hai ông làm
Sẽ mau thọ dục lạc
Tất cả nghiệp đen, trắng.
Nhân quả; thảy đều không
Không sinh, già, bệnh, chết
Cả đời sau cũng không
Phước, phi phước, nghiệp quả.
Có, không nhân này tạo
Thích tử vì lợi nói
Nên bỏ, ông chớ tin!

Ưu-ba-để-sa và Câu-lợi-đa nghe lời nói này xong, đều nghĩ: “Ma ác này đến để phá hoại sự xuất gia của chúng ta.” Lúc ấy, Ưu-ba-để-sa quay lại gọi đệ tử, nói như vầy:

–Này các ông! Hôm nay, phải nhớ là thế gian có rất nhiều tai họa và lỗi lầm. Nói rồi liền nói kệ:

Chúng sinh bị già bức
Bị khổ, chết ràng buộc
Phải đoạn hai thứ đó
Nhất định sẽ xuất gia.

Còn Câu-lợi-đa thì dùng kệ đáp:

Biết trí Vô thượng thiện
Giữ pháp diệt ba khổ
Ông nói tham chẳng đoạn
Trí ta chẳng lay động.
Tâm kiên cố như vậy
Với người khác đã không
Chúng ta thoát vòng khổ
Chánh trí hết mê lầm.
Chớ giả dáng sư tử
Mà gào tiếng dã can.

Bấy giờ, chư Thiên trụ ở trong hư không, như thấy được chân lý liền khen hai vị trượng phu này: –Hay thay, hay thay! Thưa các trượng phu! Hai người đúng là bậc thượng thủ, ở trong tất cả chúng sinh! Đạo Thắng diệu này, là tối đệ nhất, đối với tất cả thế gian! Đạo này dứt tất cả khổ! Đạo này vào được tất cả hành xứ của Như Lai! Đạo này được sự tán dương của tất cả các Đức Phật! Đó gọi là nương theo Phật xuất gia.

Khi đó, lòng ác ma phát sinh ưu khổ, liền biến mất.

Bấy giờ, Ưu-ba-để-sa cùng Câu-lợi-đa, tự quan sát đồ chúng của mình, rồi kêu gọi các đệ tử, nói lên lời như vầy:

–Các ông nên biết! Chúng ta muốn vượt bể khổ già chết thì nên nương theo Đức Phật xuất gia! Các ông, nếu chẳng ưa xuất gia theo Phật, nên trụ ở đây!

Năm trăm đệ tử đều thưa:

–Pháp giải thoát của con, đều nương theo thầy học tập. Hai thầy nay đã quyết định việc lớn, chỗ hai thầy quy hướng ấy, chúng con đều xin thuận theo nên cũng nương theo đó mà xuất gia học đạo.

Thế là, Ưu-ba-để-sa và Câu-lợi-đa, cùng năm trăm đồ chúng, lần lược đi đến chỗ Đức Phật. Ác ma đã biết việc này, ở bên ngoài thành Vương xá, hóa ra một hầm lớn, sâu hàng trăm do-tuần, khiến cho hai người chẳng thể đến được chỗ Đức Phật Thế Tôn. Đức Như Lai dùng sức thần thông, khiến cho hai người này chẳng thấy hầm lớn, cứ thẳng đường mà đi. Ma ác lại ở phía trước hai người, hóa ra ngọn núi, cao đến một ngàn do-tuần, vô cùng hiểm trở, không có đường nhỏ xuyên qua. Ở nơi núi đó, lại hóa ra một ngàn sư tử, uy mãnh đáng sợ. Khi ấy Đức Thế Tôn dùng sức thần thông giúp cho hai người kia, không thấy núi lớn và bầy sư tử cũng không còn uy mãnh gầm tiếng đáng sợ; hai người thẳng đường đến Phật, cùng với vô lượng trăm ngàn chúng sinh vây quanh ở đó để cúng dường chỗ Đức Phật nói pháp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông có thấy hai thiện trượng phu làm thượng thủ của chúng kia, đang cùng đồ chúng, đi đến chỗ ta chăng?

Các Tỳ-kheo đều đáp:

–Chúng con đã thấy.

Đức Phật nói:

–Thiện trượng phu này và các đồ chúng của họ sẽ xuất gia và ở bên ta. Một người là trí tuệ đệ nhất trong tất cả đệ tử Thanh văn. Một người là thần thông bậc nhất trong chúng Thanh văn của ta.

Lúc đó, trong chúng có một vị Tỳ-kheo dùng kệ khen:

Hai vị thông tuệ, cùng quyến thuộc
Thượng nhân lợi ích Phật đã nói
Đủ trí thần thông không sợ hãi
Nên ta nghênh đón hai trượng phu.

Vị Tỳ-kheo kia nói kệ xong, liền đứng dậy, cùng với vô lượng chúng Tỳ-kheo và Ưu-bà-tắc, chúng xuất gia… đón tiếp hai người ấy và khéo nói lời thăm hỏi. Hai người đó, đi đến chỗ Đức Phật, cung kính đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, đứng trước Đức Phật, bạch:

–Thưa Thế Tôn! Chúng con hôm nay, cầu xin Đức Phật cho phép xuất gia, thọ giới Tỳ-kheo, tu hành phạm hạnh.

Đức Phật nói:

–Này thiện nam! Hai ông tên là gì?

Ưu-ba-để-sa thưa:

–Để-sa là cha, Xá-lợi là mẹ, nay con theo mẹ, nên tên là Xá-lợi-phất. Cha mẹ hôm nay, đã cho phép con xuất gia.

Câu-lợi-đa thưa:

–Kiều-trần-như là cha, Mục-già-la là mẹ. Nay con theo mẹ, nên tên là Mục-già-la. Cha mẹ hôm nay, đã cho phép con xuất gia.

Đức Phật nói:

–Hai ông và các quyến thuộc, có thể ở chỗ ta xuất gia thọ giới Cụ túc, tu hành phạm hạnh.

Đức Phật nói lời đó xong thì hai người này thành giới Cụ túc. Năm trăm đồ chúng, không bao lâu, cũng cùng với hai thầy được giới Cụ túc.

Lúc ấy ma ác liền tự hóa làm hình dáng trời Ma-hê-thủ-la, đứng trước Đức Phật, nói kệ:

Trí lợi thế gian hay luận bàn
Thắng trí phương tiện đến bờ giác
Hết thảy đều lễ dưới chân ta
Ta là đại Đạo sư của họ.
Đệ tử Cù-đàm cùng bà con
Tất cả nên mau quy y ta
Ta nay vì ông sẽ tuyên dương
Diệu đạo khéo tịch diệt yên ổn.

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Đạo ngươi nói hướng về cõi ác
Chúng sinh thực hành chìm bể khổ
Đạo ta khiến cõi động chẳng động
Biển khổ thế gian đều khô cạn.
Tại sao kiêu mạn không xấu hổ
Lại còn khoe mình giọng dã can
Việc ma của ngươi, nay ta trừ
Việc ấy không trở lại với ta.

Thân biến hóa Ma-hê-thủ-la của ác ma nghe kệ xong liền biến mất. Rồi lại hóa làm hình dáng

Phạm Thiên vương, đứng ở trước Đức Phật, nói kệ:

Phiền não có mầm nghiệp
Trí tuệ đã trừ tan
Ở đây vì sao mạnh
Cần khổ lợi chúng sinh
Ở đời không tự tại
Do chẳng kham dụng đạo
Mâu-ni bệnh đã trừ
Nên mau vào Niết-bàn!

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lại:

Ta xem các chúng sinh
Hơn lượng cát sông Hằng
Dùng lực đại Từ bi
Giáo hóa khiến giải thoát.
Chúng sinh thượng trung hạ
Khiến thế gian giải thoát
Chúng sinh giải thoát xong
Sau đó vào Niết-bàn.
Vì sao dùng tuệ ác
Dối trá cầu thỉnh ta.

Ma ác nghe kệ sinh tâm lo sợ, hối hận ở trước Đức Phật liền biến mất, trở về cung trời của ưu não, lặng thinh mà ngồi. Đang lúc ấy, các quyến thuộc của ma tìm đến hỏi lẫn nhau:

–Đại vương của ta hôm nay, vì nhân duyên gì mà vào trong nhà ưu não, không ai biết cả.

Bấy giờ, năm trăm kỹ nữ của Ma vương, thảy đều đẹp đẽ mang các thứ như vòng hoa, bột hương, hương xoa, trống trời tấu lên năm trăm âm thanh kỹ nhạc; tập họp ở trước Ma vương, ca múa vui thích.

Lúc ấy, Ma vương đang buồn khổ, nắm tay đè nén tiếng bi ai, tạm thời ngồi im. Các kỹ nữ lại tiếp tục ca múa, tạo ra sự hân hoan, khiến cho ma hoan hỷ. Ma vương đưa tay lên, kêu lớn:

–Im lặng! Im lặng! Cho đến bảy lần, các kỹ nữ mới đứng im. Bấy giờ, trong chúng ma, có một kỹ nữ, tên là Điện Khả Ý Thanh, đến chỗ Ma vương, cúi mình, chắp tay, nói kệ:

Đại vương nay tự tại
Như thấy tướng chết buồn
Vì là gánh gánh nặng
Nay mới sinh kinh hoàng
Ai có oán lực hơn
Mà lo chẳng vui mừng.

Ma vương nói kệ đáp:

Ta có oán lớn đè nặng tâm
Thích-ca tử giỏi học huyễn thuật
Ta không phương tiện để phá họ
Như vậy không lâu cõi Dục vắng.

Kỹ nữ đó, liền nói kệ:

Đại gia, phương tiện nhiều vô lượng
Ra sức phá hoại đâu khó gì
Ba cõi trói buộc, ai thoát được?
Bể tham chìm đắm, ai làm cạn?

Ma vương lại nói kệ:

Bố thí và khổ hạnh
Bi nguyện là tơ mành
Giữ cung không Vô tướng
Đệ nhất trong binh khí.
Có thể đoạn sinh tử
Các cõi hết không còn
Lấy không làm rừng thành
Đệ tử ở hang núi.
Tinh tấn thường tụ định
Hết lỗi lầm các cõi
Sức phương tiện thần thông
Từ bi vì giúp bạn.
Ông Ưu-ba, Câu-lợi.
Mâu-ni đều hàng phục
Ở trong ba cõi ấy.
Phương tiện khéo thâu giữ
Cảnh giới ta dục rỗng
Tất cả đều không còn!

Năm trăm kỹ nữ ở bên Ma vương, nghe tán thán công đức hiện có của Như Lai, liền được Tammuội của Bồ-tát tên Ly Nhất Thiết Tướng Điện Quang. Các kỹ nữ đó, liền dùng những vật trang nghiêm ở cõi trời, mưa xuống vô số hương hoa âm nhạc từ xa, hướng về chỗ Đức Phật, để cúng dường Đức Thế Tôn. Ở trên rừng Trúc, như có mưa rơi. Nhờ có được thần lực của Đức Như Lai giúp đỡ nên khiến cho các Thiên nữ đó, từ xa được thấy Đức Thế Tôn và các đồ chúng. Họ vô cùng vui mừng phát khởi niềm tin thanh tịnh và sự ái kính bậc nhất.

Bấy giờ, các vị Tỳ-kheo trong chúng, thấy ở rừng Trúc có tướng như vậy, nên sinh lòng nghi lạ, liền bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Từ xưa đến nay, chúng con chưa từng thấy nghe, ở rừng Trúc, có ứng hiện điềm lành mưa xuống hương hoa… như thế. Có phải do Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Mục-kiềnliên… hiện ra tướng này chăng? Hay vì nhân duyên gì, mà thấy hiện tướng hy hữu ấy?

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Chẳng phải hai vị ấy hiện tướng thần thông. Đây là năm trăm kỹ nữ của Thiên, ở nơi cung ma đó mưa xuống những hoa hương và phẩm vật, để cúng dường ta. Chẳng bao lâu, họ sẽ đến đây, đều ở bên ta và sẽ được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc này, năm trăm kỹ nữ của Ma vương kia, từ xa đã nghe lời hứa thọ ký của Đức Phật, nên rất vui mừng liền phát sinh niềm tin thanh tịnh. Nên họ liền được Tam-muội Bất vong Bồ-đề tâm. Năm trăm kỹ nữ của Ma vương tức thì mặc áo một vai, gối phải quỳ xuống đất, ở trong ma cung, hướng về Đức Phật, chắp tay cung kính nói kệ:

Tất cả thế gian mù không mắt
Chỉ có Phật, người thấy khắp cùng
Làm cạn sông ái cõi trời người
Như Lai tự độ cùng tất cả.
Chúng con làm sao chóng thành Phật
Người trời đều cung kính, tán dương
Thân nữ đáng chán nên lìa bỏ
Mau gần Mâu-ni nghe chánh pháp.
Thần thông trí, Như Lai tối thượng
Vì chúng con khai thị dẫn đường
Đem báu Giác chi vô thượng ấy
Khéo nói vô cấu như đèn sáng.
Diệu lực hàng ma không ai sánh
Giác ngộ chúng con nên thọ ký.

Năm trăm kỹ nữ nơi cung ma nói kệ xong, liền đi đến chỗ Ma vương nói kệ:

Thắng Đức Như Lai trọn chẳng động
Sao đối với Phật mà khởi sân
Thân này các khổ đã bức bách
Lại khởi kiêu mạn tự bôi mình.
Nên bỏ sân này, nhất định tin
Làm cạn bùn kiêu mạn tử sinh
Thể tánh chúng sinh Phật biết rõ
Chúng con nên tới chỗ từ Bi.

Ma vương nghe kệ, lại nghĩ đến những người nữ ấy, ý ác càng tăng: “Ta nay nên dùng năm thứ trói buộc để trói buộc, năm trăm kỹ nữ này, khiến chúng phải ở đây, chẳng thể đến chỗ Đức Phật.” Năm trăm người nữ này, nhờ niệm lực của Đức Như Lai gia hộ, nên Ma vương, đã chẳng thể chế ngự.

Năm trăm kỹ nữ ở cung ma, rất muốn đến chỗ Đức Phật. Lúc họ sắp sửa ra đi, Ma vương với lòng sân hận, liền khởi ý niệm: “Ta nay, tự dùng sức của cảnh giới để cấm chế những kỹ nữ kia.” Ma liền khởi lên gió lớn Tỳ-lam trái thời đầy khắp hư không, muốn khiến cho những người nữ ấy mê muội, mất phương hướng, quay về lại cung ma để chẳng thấy đường đến chỗ Phật. Với thần lực của Thế Tôn, nên một chút vi diệu còn chẳng thể nổi lên, thậm chí chẳng thể lay động được một sợi lông, huống gì là gió lớn, gió dữ.

Ma vương càng thêm sầu khổ, lòng càng áo não, than thở rồi kêu gọi các con mình và quyến thuộc. Tất cả cung ma lớn tiếng tràn đầy nói kệ:

Con yêu, quyến thuộc tập họp hết
Lòng ta nóng bức như cây độc
Sức thần thông cảnh giới ta hoại
Lời hay dua nịnh chuyển Thích-ca.

Những con trai, con gái của Ma vương, cùng các quyến thuộc, nghe âm thanh này, thảy đều chạy mau đến trước Ma vương. Trong số này, có một người con của ma, tên là Thắng Trí, chắp tay nói kệ:

Đây chẳng kiếp thiêu, chẳng tướng chết
Vì sao sinh đủ thứ ưu não
Đây không lực lớn thắng kẻ oán
Cớ sao dị trí tợ ngu si?

Ma vương nói kệ đáp:

Nay Thích-ca Tử này
Ngồi ở nơi rừng cây
Là đại oán trước mặt
Tại sao ngươi nói không.
Kẻ kia có thắng lực
Khiến lòng ta kinh hoảng
Con ta cùng quân chúng
Như than vào lửa hừng.
Hàng trượng phu danh tiếng
Sáng suốt nhiều tài năng
Hiện hợp và chưa hợp
Nay đều nương theo đó.
Ta oán vì trá hiện
Trí lực đều dối tranh
Người trí danh cao vượt
Đều đi pháp dẫn dắt.
Nay các thị nữ này
Với ta tâm không thương
Thấy bỏ chỗ thích xưa
Đi đến chỗ Sa-môn.
Chỉ ta lấy làm chứng
Ngày nay nương về Phật
Tất cả ba cõi này
Các huyễn đều khiến không.
Phật tuy có đại lực
Ta phá thành tro tàn
Ta cùng tất cả chúng
Cần phải dốc sức làm.

Bấy giờ, tất cả các con của Ma vương, cùng tất cả quyến thuộc nội ngoại, đều chắp tay và nói:

–Tất cả chúng con đều đã chuẩn bị sẵn sàng. Nên đem thần thông để hộ trợ, dùng cảnh giới này, bày ra khiến cho chúng biết, làm Thích tử ấy thoái lui, khiến cho nát như tro. Nếu thắng lợi, chúng con tốt lành. Nếu chẳng thắng thì chúng con sẽ quy y vị Thích tử đó. Chúng con, thuở trước, có cả đại quân vây quanh, đi đến cây Bồ-đề, nhìn thấy Thích tử một mình, không bạn bè, mà do lực thần thông nên quân chúng của chúng con đều thoái lui hủy hoại. Huống gì hôm nay Phật lại có vô lượng đồ chúng đều đã thành tựu.

Ma đáp:

–Các con hãy đi đi! Nếu có thể giết chết ông Sa-môn Cù-đàm quay trở về. Nếu chẳng thể thì cũng phải quay về cung mà tự phòng vệ.

Ma vương liền dùng mười hai vạn chúng làm tả hữu, cùng số đồ chúng hơn số này; trong phạm vi tám muôn bốn ngàn do-tuần, tất cả binh chúng đều đã đầy khắp. Ma lại dùng sức thần thông thần tốc, hiện lên ngọn gió độc thổi mây đen lớn, mưa xuống những đuốc lửa, đầy khắp tất cả bốn châu. Ma lại dùng tay, đánh vua núi Tu-di, làm cho bốn châu đều chấn động. Ma lại phát ra âm thanh rất ác và đáng sợ, làm cho vua núi Tu-di và vua các núi, đất đai, đá núi, tất cả đều kinh động. Do sự chấn động này mà ao hồ, sông ngòi lớn nhỏ và nước trong biển cả đều dậy sóng, tất cả các Rồng, Rồng lớn, Dạ-xoa, Dạ-xoa lớn, thấy việc ấy rồi, đều vọt lên hư không. Những ma chúng này, trụ ở đỉnh núi Tu-di, lại ném đá lớn, với số lượng hàng do-tuần, ở trong nước Ma-già-đà, như một trận mưa dữ, chấn động kinh hoàng. Ma lại dùng các thứ như dao, chày, dùi đục, đá lớn, vòng nguyệt, cây chọc, giáo ngắn, chuôi sắt, răng cọp, gậy lớn và cung tên đại nguyệt cho rơi xuống như mưa.

Đức Thế Tôn nhập vào Tam-muội Toái ma quân trường, làm cho binh trượng và đuốc lửa lớn, ở trong hư không biến thành mưa hoa. Là mưa hoa Ưu-bát-la, mưa hoa Bát-đầu-ma, mưa hoa Câuvật-đầu, mưa hoa Phân-đà-lợi, mưa hoa Mạn-đàla, mưa hoa Đại mạn-đà-la. Mưa xuống giữa nước Ma-già-đà. Tam-muội y, lại biến âm thanh kinh động đáng sợ kia thành đủ thứ âm thanh vi diệu, đó là các tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiếng Bala-mật, tiếng Thần thông, tiếng A-tỳ-bạt-chí, tiếng thọ chức, tiếng bốn ma thoái lui, tiếng đến Bồ-đề đạo tràng… cho đến tiếng Thủ câu, tiếng chẳng Thủ câu. Tam-muội ấy, lại biến tất cả dược thảo, tàng lâm, núi đá, đất cát, có trên đại địa của bốn châu này, thành bảy báu. Lúc đó, thế giới không có gió bụi, tất cả yên lặng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn hiện thân tướng của mình vượt quá Phạm thế tự tại chuyển biến. Từ thân ấy, phân ra đủ các tướng, cho đến tướng Vô kiến đảnh phát ra ánh sáng lớn, soi khắp tam thiên đại thiên thế giới, khắp nơi đều sáng rực. Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Bệ-lệ-da, Tỳ-xá-xà, Cưu-bàn-trà, Nhân phi nhân; địa ngục, súc sinh, thế giới Diêm-la… tất cả trong tam thiên thế giới như vậy, đều thấy Đức Thế Tôn và ánh sáng lớn. Lúc đó, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Nhân phi nhân đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc, trên đất và hư không, đi đến chỗ Đức Phật, tung hoa cúng dường. Đến nơi rồi, họ nhiễu quanh bên phải, khen ngợi, lễ bái. Khi đó, địa ngục và các súc sinh, thế giới Diêm-la, vô lượng trăm ngàn na-do-tha A-súctỳ câu-chỉ… đều tự nghĩ nhớ lại căn lành gieo trồng đời trước và xưng tụng: Nam-mô Phật-đà! Đường ác hết rồi, họ liền sinh lên cõi trời.

Tất cả hai vạn hai ngàn con cái cùng tất cả quyến thuộc của Ma vương được thấy tướng thân biến của Đức Phật như vậy rồi, đang ở chỗ Đức Phật, liền được niềm tin hy hữu. Chúng liền cùng với năm trăm kỹ nữ của Ma vương làm lễ dưới chân Đức Thế Tôn, chắp tay cung kính, dùng kệ khen ngợi:

Diệu sắc tịnh thân sáng biển lớn
Danh xưng vang lừng đâu cũng đến
Như ánh kim sắc núi Tu-di
Chúng con không (chỗ) nương tựa vào đó.
Chúng sinh lạc đường không thể thấy
Như Lai mặt trời trí soi đường
Nuôi dưỡng chúng sinh mãi chẳng thoái
Thân dẫn chúng con nương theo Phật.
Trí tạng tích tập giàu vô lượng
Tâm tính giải thoát như hư không
Từ bi thấm nhuần tùy cơ thuyết
Tất cả thành tựu nương theo Phật.
Đồng trống sinh tử khó giúp vượt
Giải thoát Như Lai mở bày đường
Khéo nói nhân quả hay hiển rõ
Trụ đệ nhất Từ, nương theo Phật.
Cảnh giới huyễn cháy như trăng nước
Vô trí che lấp, mang các dục
Phật là y vương cứu thế gian
Cho nên chúng con nương theo Phật.
Pháp Phật là cầu qua bốn lưu
Tài sản bảy thứ thường ban phát
Chánh đạo Thế Tôn dạy thế gian
Con gần gũi cúng dường đại Bi.
Ác ý chúng con hướng về Phật
Nay đều sám hối Đệ Nhất Giác
Tất cả các ác đoạn dứt hẳn
Nguyện Phật nhận con nương Tối thượng.
Chúng con đều bỏ bè đảng ma
Cùng phát tâm Bồ-đề vô thượng
Mời khắp tất cả loài chúng sinh
Bồ-đề đại nguyện đến vô dư.
Phật thường chỉ bày con thắng hạnh
Như Ba-la-mật con đã làm
Lời nói Như Lai không nói khác
Mấy pháp tròn đủ đến Bồ-đề.
Hoa tung lên Phật thành lọng hoa
Thị hiện các cõi nhiều không lường
Nay con kính lễ Lưỡng Túc Tôn
Nguyện vui Niết-bàn, lợi thế gian.

Tất cả các quyến thuộc cùng kỹ nữ của ma đều mang hoa trời, từ xa tung lên Đức Phật, nhờ thần lực của Đức Thế Tôn gia hộ nên tất cả hoa biến thành lọng hoa che khắp mười phương vô lượng câu-chi na-do-tha trăm ngàn hằng hà sa các cõi Phật. Lại có hơn số này, cũng biến thành lọng hoa, che trên đảnh đầu của chư Phật hiện tại khắp hư không mười phương. Lúc ấy, tất cả năm trăm kỹ nữ cùng quyến thuộc của ma đều thấy mười phương vô lượng a-tăng-kỳ các cõi Phật yên ổn nói pháp và thấy quyến thuộc của các Đức Phật đó vây quanh, mọi người ngồi uy nghi rực sáng, thấy lọng hoa trụ ở trên hư không che đảnh Phật. Các Đức Phật ở những cõi đó, đều đồng một màu, hình tướng thị hiện đều giống như nhau. Chỉ Đức Thế Tôn ngồi tại tòa Sư tử với vô vàn quyến thuộc, công đức trang nghiêm hiện lên không gì bằng. Lại nghe âm thanh nói pháp của chư Phật đầy khắp. Quyến thuộc của ma, nhờ sự gia hộ của Đức Phật Thế Tôn, nên được thấy thần thông biến hóa như vậy. Đã thấy được những việc này rồi thị họ lại càng yêu thích số một, phát sinh niềm tin thanh tịnh, làm lễ dưới chân Phật, ở trước Đức Phật, nghe pháp.

Các con của Ma vương, cùng các quyến thuộc có khoảng mười hai tần-bà-la, lui trở lại cung ma thưa với Ma vương:

–Chúng tôi tạo nhiều việc ác như thế, nhưng chẳng thể hủy hoại được một lỗ chân lông của Samôn Cù-đàm.

Lúc ấy, lại có hai vạn các ma quy y Đức Như Lai và đang ở trước Đức Phật, nghe pháp.

Bấy giờ, Ma vương đã mất uy lực, lại giận dữ nói:

–Ta hôm nay, không có kế hoạch gì mới, nhưng không thể nào an trụ, khi chưa diệt được người con của dòng họ Thích, khiến cho người đó bị hoại diệt thì làm sao ta có chỗ mà trụ đây? Nói liền trở về cung ma, vào nhà ưu não, ngồi lặng thinh ở đó.

QUYỂN 2

Phẩm 2: BẢN SỰ

Kỹ nữ và các con của Ma vương cùng quyến thuộc của chúng bạch Đức Phật:

–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay, chí cầu Tướng như vậy, Tánh như vậy, Thừa như vậy, Trí tuệ biện tài như vậy, Phương tiện, đại Bi, Thần thông như vậy! Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Đầy đủ pháp trí tuệ, phương tiện, thần thông… như vậy. Thưa Thế Tôn! Phải đầy đủ bao nhiêu pháp thì có thể khiến cho Đại Bồ-tát xa lìa bạn ác, mau chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Đức Phật nói:

–Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát, có thể tròn đủ bốn pháp thì xa lìa bạn ác, sẽ mau chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Những gì là bốn?

1.    Chẳng thủ.

2.    Chẳng nói.

3.    Chẳng thấy.

4.    Rỗng không, không phân biệt.

Này thiện nam! Sao gọi là chẳng thủ? Đó là chẳng giữ lấy tất cả pháp; không một pháp nào có thể được, chẳng nhận, chẳng bỏ, chẳng thể, chẳng phải chẳng thể, chẳng kiến lập, chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt. Nghĩa là thực hành Bố thí ba-la-mật mà chẳng giữ lấy kết quả của việc Bố thí ba-la-mật, chẳng nhận, chẳng bỏ, chẳng thể, chẳng phải thể, chẳng kiến lập, chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt cho đến thực hành Bát-nhã ba-la-mật (trí tuệ), cũng lại như vậy chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt.

Lại nữa, này thiện nam! Sao gọi là chẳng nói? Nghĩa là chẳng nói chúng sinh khả đắc, chẳng nói mạng, chẳng nói thọ (sống lâu), chẳng nói người; chẳng nói chúng sinh giới có thể được, chẳng nói có ý, có chỗ cần nắm bắt cho đến chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt.

Lại nữa, này thiện nam! Sao gọi là chẳng thấy? Đó là chẳng thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng giữ lấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho đến chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt.

Lại nữa, này thiện nam! Sao gọi là rỗng không, không có phân biệt? Nghĩa là nhân duyên quả báo của ấm, giới, nhập… trong tất cả ba cõi, cả ba đời; mà pháp sở duyên không khởi, không nương, không có tướng sinh, chẳng thấy, chẳng bỏ cho đến chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt. Vì sao? Vì lìa bỏ tất cả hành, tất cả trì, tất cả thân và phân biệt, chẳng phân biệt vậy. Trí Nhất thiết trí tương ứng không thể nắm bắt, đắc nên phải hành như vậy. Vì sao? Này thiện nam! Vì tất cả pháp và tất cả trí cho đến không tiếng, không tướng, không chư, không nguyện, không sinh, không diệt, không thể, không chấp, không duyên, không ngã, chẳng thể thấy tịch tĩnh, lìa tướng, lìa niệm, lìa diệt, không tối, không sáng, không xứ sở, không cảnh giới, không nguồn gốc, không bạn giúp, không thể nghĩ, chẳng thể lường, không tham, không keo kiệt, không hành, không nói, không sâu, không cạn, không nhận, không nương, không thức, không thủ, không hình ảnh, không một thoáng niệm, không phân chia, không sở hữu, rốt ráo không sở hữu. Vì sao? Vì trí Nhất thiết là bình đẳng, giống như hư không, tương ưng bất khả đắc, chẳng lập tương ưng, chẳng thủ lấy tương ưng, chẳng hành tương ưng, hoặc tương ưng, hoặc chẳng tương ưng, chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt cần phải hành như vậy.

Này thiện nam! Đó gọi là đầy đủ bốn pháp có thể khiến cho Đại Bồ-tát xa lìa bạn ác và sẽ mau chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Tất cả cảnh giới sở hữu trong ngoài, nếu dùng trí Nhất thiết quán sát, tìm cầu, nương giữ, kiến lập rồi, chấp trước hai tướng này, dùng ý phân biệt, khởi lên hai sự chấp trước, người đó liền xa lìa Nhất thiết trí vậy. Sao gọi là hai tướng? Nếu quan sát nhận là bình đẳng mà thủ lấy, kiến lập thành hai tướng, đó gọi là xa lìa Nhất thiết trí. Nếu thủ lấy, kiến lập hành quả thì đó là hai phân biệt. Đối với chúng sinh có thủ lấy kiến lập tướng thì đó là hai phân biệt. Khai thị, bày ra đạo ngôn ngữ, kiến lập pháp Tổng trì âm thanh, dùng trí quan sát cho đây là thường, là đoạn; đó là hai phân biệt. Chúng sinh, thọ mạng, dưỡng dục, người, trượng phu, tạo tác kết sử, tạo tác tư tưởng, kiến lập, nương giữ; thì đó là sự phân biệt. Sở hữu, đây, đó, kiến lập trù lượng, chẳng kiến lập trù lượng thì đó là hai phân biệt. Nếu dùng trí Nhất thiết trí quán sát ba đời, mà truy tìm việc làm, sự tích tập việc đã làm của ta mà thủ lấy, kiến lập đây đó thì đó là hai phân biệt. Nếu người đem sự phân biệt có hai tướng thì chẳng thể được Nhất thiết trí vậy.

Này thiện nam! Như lạnh thì tìm lửa, mà ngược lại lấy đất; như khát cầu uống, mà ngược lại thủ lấy lửa; như đói cầu ăn, mà ngược lại thủ lấy đá; như trang sức cầu hoa mà ngược lại chọn lấy áo; như xông ướp thì tìm hương thơm, mà ngược lại chọn lấy thấy chết; như đi thì tìm áo, mà ngược lại thì chọn lấy bẩn, như xoa mình thì cầu hương, mà ngược lại thì chọn lấy rỗng không. Đúng vậy! Này thiện nam! Nếu hành còn dính mắc mà quán sát thì đó là thân thủ lấy và kiến lập tướng hai. Người cầu

Nhất thiết trí là kẻ ném bỏ tinh tấn, không đạo, không quả.

Lúc bấy giờ, trong chúng, có một vị Bồ-tát, tên là Trì Trí, đứng dậy, đến trước Đức Thế Tôn, cúi mình, chắp tay, nói lên:

–Thưa Thế Tôn! Nếu pháp chẳng thể nói đó chẳng thể được Bồ-đề!

Đức Phật nói:

–Nay ông phải biết, không được Bồ-đề, cũng có thể nói không Bồ-đề! Này thiện nam! Hãy lắng nghe cho kỹ! Ông hỏi như vậy là đúng như sự ưa thích của ông. Theo ý ông nói, hoặc tất cả vật, hoặc Nhất thiết trí có tính, có tướng, có danh tự sao?

Bồ-tát Trì Trí bạch Đức Phật:

–Chẳng phải vậy, thưa Thế Tôn! Nếu có ngôn thuyết, liền rơi vào thường kiến. Nếu không ngôn thuyết, liền rơi vào đoạn kiến, cho đến trung đạo cũng chẳng thể được, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng thủ lấy, chẳng chấp trước, chẳng sinh, chẳng hoại, hơn a-tăng-kỳ, chẳng thể lường, chẳng thể tính, không tối, không sáng. Nếu quán sát như vậy thì mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Địa Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không đến không đi; khéo biết như vậy, khéo nhập như vậy, mới được Bồ-đề. Bồ-tát Tỳ-lô-giá-na thưa:

–Bạch Thế Tôn! Pháp không tướng đến, chẳng phải là không tướng đến; chẳng phải được thời, chẳng phải không được thời; chẳng phải làm chứng, chẳng phải, không làm chứng; chẳng phải diệt, chẳng phải bất diệt; chẳng phải ba đời, chẳng phải không ba đời, chẳng phải ba thừa, chẳng phải không ba thừa; cũng chẳng phải hạnh nguyện tập hợp, xưng lường có thể được. Người biết như vậy thì mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Địa Tuệ bạch:

–Thưa Thế Tôn! Nếu tất cả pháp; chẳng phải ba cõi; chẳng phải ba kết; chẳng phải ba minh, chẳng phải ba thừa; chẳng phải ấm, giới, nhập; chẳng phải phân biệt, chẳng phải không phân biệt; chẳng phải giảm, chẳng phải tăng, không có tập hợp. Biết như vậy rồi, mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Kim Cang Tuệ bạch:

–Pháp phàm phu, pháp Thánh nhân, pháp Học, pháp Vô học, pháp Thanh văn, pháp Bích-chi-phật chẳng phải phân biệt, chẳng phải không phân biệt; cũng chẳng phải có thể biết sự tập họp xưng lượng.

Biết như vậy thì mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Kiên Tuệ bạch:

–Như Như tịch tĩnh, Như Như quán sát không xả, không trụ, mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Bảo Thủ nói:

–Nếu tất cả pháp, không sinh, không đến, không thời khắc, không tướng phân biệt; thì mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Bất Tư Nghị Tuệ nói:

–Nếu đem tâm quán sát ba cõi, cho vào tại tâm, gọi đó là nhị tâm. Nhị tâm quán sát như vậy chẳng thể được. Dùng vô sở đắc, mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Thoái Oán nói:

–Nếu tất cả pháp; không chấp, không tham, không xả, không ngại, không nguyện, không si, không nắm, không buông; mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Liên Hoa Tạng nói:

–Nếu tánh của tội phước bình đẳng vào pháp như vậy, thâm nhẫn, chẳng chấp trước ngã và sở tác của ngã; chẳng phải phân biệt, chẳng phải không phân biệt. Người quán sát như vậy mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Nguyệt Quang nói:

–Nếu quán sát, tất cả pháp, tụ tan tùy duyên, không có tự tánh, giống như trăng đáy nước. Rõ như vậy rồi, mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Hư Không Tuệ nói:

–Nếu tất cả các pháp; có tối, có sáng, có sinh, có diệt, có tăng, có giảm, chẳng ở các pháp số của tâm, khởi sự phân biệt. Người biết như vậy, mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Vô Tận Tuệ nói:

–Nếu tu tập ba luân thanh tịnh Ba-la-mật tương ưng bất khả đắc, không nhiễm, chẳng phải không nhiễm; người tu như vậy, mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Di-lặc nói:

–Nếu chẳng duyên, chẳng thọ y chỉ ba cõi, y chỉ phạm trụ, mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Thưa Thế Tôn! Nếu hiểu sâu một pháp môn thì đối với tất cả pháp, không nhiễm, chẳng phải không nhiễm. Một pháp ấy là vô ngã. Rõ một pháp đó, không giác, không quán, không có sự dẫn đến, cũng không tống khứ; cũng không có thể tụ, có thể tán, có thể sáng, có thể tối, có thể sinh, có thể diệt, có thể tăng, có thể giảm, có thể giải thoát, chẳng nên nhiễm bẩn, không phân biệt. Dùng một pháp môn trí Nhất thiết trí mới được Bồ-đề.

Bồ-tát Ái Lạc nói:

–Thưa Văn-thù-sư-lợi! Một pháp môn trí Nhất thiết trí như vậy đều như pháp vào chỗ sâu xa cửa Không xứ thì sao ý có sở tác và phương tiện tu hành?

Văn-thù-sư-lợi nói:

–Lìa bỏ ác kiến, tu hành chánh kiến, chẳng dối đặt để. Bỏ lòng dua nịnh quanh co, tu hạnh chất trực, chẳng dối đặt để. Lìa bỏ mười ác, kính trọng Tam bảo, chẳng dối đặt để. Khéo nói chẳng dối đặt để; chánh mạng, chẳng dối đặt để. Bỏ tất cả kết, chẳng dối đặt để; đại Bi bình đẳng, chẳng bỏ tất cả chúng sinh, chẳng dối đặt để. Ba hộ chẳng dối đặt để. Không hư dối pháp, chẳng dối đặt để. Không sinh, không diệt, chẳng dối đặt để. Hộ trì chánh pháp, chẳng dối đặt để. Bỏ tất cả sở hữu, chẳng dối đặt để. Chúng sinh thiếu lực, thường làm việc giúp đỡ, chẳng dối đặt để. Người sợ sệt được nương về, chẳng dối đặt để. Người phi đạo thì chỉ bày Thánh đạo, chẳng dối đặt để; nhẫn nhục nhu hòa, chẳng dối đặt để. Chẳng chấp trước tất cả tướng, chẳng dối đặt để. Lìa bỏ tất cả trần cấu che lấp, chẳng dối đặt để. Lìa bỏ tất cả quả báo hồi hướng, chẳng dối đặt để. Thưa thiện nam! Hai mươi thứ phương tiện này, có thể được trí Nhất thiết trí. Văn tự, âm thanh, ngôn ngữ, cú nghĩa có được sự sai biệt, tất cả đều gọi là nhập vào phương tiện của trí Nhất thiết trí. Tất cả lời nói của Đức Như Lai và lời nói của các ngoại đạo khác; tất cả sự lấy, bỏ, sinh, diệt; cho đến có thể biết tất cả ba giải thoát, y chỉ pháp nhân duyên nghiệp hành đều nhập vào với Chân như. Bồ-tát phải biết, đó đều là trí phương tiện để chứng ngộ Nhất thiết trí vậy!

Bồ-tát Hoại Ái Lạc nói:

–Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Văn-thù-sư-lợi! Nếu rõ được pháp môn thậm thâm thì không một pháp có thể thấy; cũng không có đối tượng nghe pháp và cả người nói pháp, cho đến văn tự cú nghĩa, đều nên xả bỏ. Hoặc tu hành, hoặc nhận biết, không có tương ưng, tất cả nhập như vậy gọi là trí Giác trí.

Phật nói:

–Hay thay, hay thay! Này thiện nam! Ông đã có thể khéo giải nói một pháp môn này, do trí Nhất thiết trí mới được pháp đó. Sao gọi tất cả pháp chẳng dối đặt để. Đã gọi là không sinh, không hoại tế, chẳng dối đặt để. Sinh tử Niết-bàn tế, chẳng dối đặt để. Coi hư không Niết-bàn tế chẳng dối để đặt. Cõi không sinh, không nói, cho đến tất cả các pháp, cũng lại như vậy. Chỉ bày cho tất cả chúng sinh về tất cả pháp không thật tế. Chỉ bày tất cả sự chấp trước các vật, tất cả ấm, giới, nhập… của ba cõi, ba đời là vô sở hữu tế. Vào ba hành không tế. Vào pháp ấm, báo ấm, tụ tán ấm không thật tế. Vào không, vào chân tế; đầy đủ tất cả không nói nghĩa pháp. Đó gọi là Đại Bồ-tát vào trí Nhất thiết trí. Bồ-tát lại do trí Nhất thiết trí mà được thọ ký.

Khi nói pháp đó, các kỹ nữ ma và con của Ma vương, cùng quyến thuộc, gồm hai vạn; nghe lời nói của Đức Phật đều cùng lúc được pháp Nhẫn vô sinh; đều bỏ nghiệp thô ác của thân ý, được tự tính sinh thân. Lại có hai vạn tám ngàn chúng sinh cũng được pháp Nhẫn vô sinh. Chín mươi hai vạn trời, người đắc các thứ Tam-ma-đề, Đà-la-ni, pháp Nhẫn vô sinh của Bồ-tát.

Lúc bấy giờ, các Đại Bồ-tát được pháp Nhẫn vô sinh, làm mưa xuống đủ thứ hoa trời; tung hoa lên trên Đức Phật, dập dìu rơi giống như mưa rơi. Các vị Bồ-tát ấy, đầu mặt sát đất, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nói:

–Thưa Thế Tôn! Chúng con nếu gặp bạn ác, chẳng lành, sẽ cùng với ác hòa hợp, tự tại làm ác thì đối với tất cả chúng sinh, tất cả những công đức căn lành đã tích tụ, cuối cùng chẳng khởi được một ý niệm thiện tâm.

Đức Phật nói:

–Này thiện nam! Ông ở vô lượng ức kiếp, trong quá khứ, đã gần gũi cúng dường vô số các Đức Phật. Do nghiệp duyên này, nên hôm nay, ông sinh tâm yêu thích, trở lại được gặp Phật. Ta nay, vì đoạn dứt sự nghi hoặc của chúng sinh, nên sẽ vì ông, mà nói về nhân duyên đời trước.

Này thiện nam! Trở về quá khứ, vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, có kiếp tên là Cụ túc đại thế. Cõi Diêm-phù-đề này, có vị vua Chuyển luân, tên là Ưu-bát-la Hoa, được lực tự tại, thống lĩnh bốn thiên hạ. Vua và thần dân đều sống lâu sáu muôn tám ngàn tuổi. Lúc đời, có Đức Phật, hiệu là Nguyệt Quang Minh Hương Thắng, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Chúng sinh nước đó, tuy ở đời ngũ trược, nhưng do tu thiện, nên chẳng nhiễm pháp dục. Bấy giờ, Đức Phật đó thường vì tứ chúng, tuyên nói pháp tương ứng với ba thừa. Vua Ưu-bát-la, chỉnh đốn bốn binh chủng, cùng phu nhân của mình và quyến thuộc ở hậu cung, đi đến chỗ Đức Phật Nguyệt Quang Minh đó. Đến rồi, họ đảnh lễ dưới chân Đức Phật, tung lên đủ loại hoa, đốt lên đủ thứ hương hoa, tấu lên mọi thứ kỹ nhạc cúng dường Đức Phật xong, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng. Đồng thời họ lại đảnh lễ dưới chân Tỳ-kheo Tăng, rồi dùng hai bài kệ này khen hỏi Đức Phật ấy:

Đại công đức Trời, Rồng ngưỡng vọng
Vô Thượng Tôn đoạn dứt lỗi lầm
Dùng bảy pháp tài lợi cõi thế
Nguyện nói những gì đắc diệu tuệ
Làm đèn đại Từ diệt u tối
Hàng phục nỗi lo chết, già, sinh
Che chở người, trời ba đường ác
Nói những pháp gì thoát ma đạo.

Này thiện nam! Bấy giờ, Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng, bảo vua Ưu-bát-la: Này đại vương! Đầy đủ ba pháp, có thể được trí tuệ vi diệu của Bồ-tát. Những gì là ba?

1.              Đại Bi như mẹ có thể làm chỗ y chỉ rốt cùng cho tất cả chúng sinh.

2.              Siêng năng tinh tấn không dừng nghỉ, có khả năng diệt trừ các khổ não cho chúng sinh.

3.              Quan sát tất cả pháp là không mạng, không nuôi dưỡng, không người, không chủng chủng tướng.

Này đại vương! Đó gọi là, đầy đủ ba pháp, có thể được trí tuệ vi diệu của Bồ-tát.

Này đại vương! Lại có đầy đủ ba pháp, có thể khiến cho chẳng bị ma quyến rủ. Những gì là ba?

1.              Đối với tất cả chúng sinh, được sự chẳng nổi sân, chẳng tìm lỗi lầm.

2.              Bình đẳng quan sát tất cả chúng sinh, tạo tác tư tưởng phước điền.

3.              Có được tất cả pháp, tác khởi một pháp quán; nghĩa là hư không bình đẳng tất cả pháp, không tạo tác, không các thứ, không sinh, không khởi, không diệt, tất cả là không, như thật tướng xả ly bất khả đắc thì tương ưng quán.

Này đại vương! Đó gọi là ba pháp, khiến cho thiện nam chẳng bị ma quyến rũ, mãi thoát được đường ma.” Đệ nhất phu nhân của vua Ưu-bát-la, tên là Thiên Tôn-đà-lợi, cùng cung nhân thể nữ của bà, gồm tám muôn bốn ngàn người, vây quanh trước sau, kéo đến chỗ Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng. Đến rồi, họ đem đủ loại hoa tung lên trên Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, dùng kệ ngợi khen:

Phiền não ngăn che đã dứt sạch
Công đức khó sánh Bậc Giải Thoát
Làm sao dạy con chuyển thân nữ?
Khiến con đầy đủ tướng nam nhân.
Mau chóng xa lìa các đường ác
Với pháp tự tại tâm điều nhu
Thầy trời người, Thiện Thệ tối thượng
Đệ nhất thế gian, cho lợi ích
Mong nhờ Thế Tôn bỏ thân nữ
Được thì hoan hỷ, vui tịch diệt
Trượng phu này, làm sao mau nói?
Tự độ, độ tha bậc lợi lạc
Con được ra khỏi hầm ân ái
Đệ nhất thế gian không ai bằng
Niệm trì rộng lớn công đức tụ
Mau chóng điều phục các quần sinh
Nay con ở đây ắt thủ chuyển
Nguyện mau khai mở đạo cam lồ.

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai Thích-ca nói lời như vầy:

–Này thiện nam! Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng đó, bảo Tôn-đà-lợi: Đệ nhất phu nhân của vua Ưu-bát-la, Phu nhân có trí phương tiện, phải nương theo đó tu tập, để mau chuyển thân nữ đời trước, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, rốt ráo Niết-bàn, lại chẳng thọ thân nữ một lần nữa, trừ khi tự phát nguyện. Này phu nhân! Nương vào phương tiện nào, để sự gieo trồng nghiệp nữ của vô lượng đời trước, diệt hết không còn? Này phu nhân! Có Bảo tinh Đà-la-ni kiến lập việc lớn, tròn đủ đại công đức, có thể ủng hộ lớn, giỏi diệt thân nữ, ba nghiệp, ác hạnh, tất cả khổ báo khiến cho chúng không còn. Nếu có người nữ nào được nghe Bảo tinh Đà-la-ni kiến này, mà chí tâm tụng niệm thì khi hết hình dáng nữ này, đời sau, sẽ được làm đấng trượng phu đoan chánh; tất cả thân phận đều đầy đủ, đủ hạnh chất trực, có biện tài lớn; thân, miệng, ý nghiệp, khéo hòa thuận nhau; có thể khiến cho tất cả oán hiềm ở hiện tại, vị lai đều tiêu tán. Nếu có các thứ nghiệp ác của thân miệng, mà hiện tại, tương lai phải thọ khổ báo; thì nhờ sức uy thần nghe Bảo tinh Đà-la-ni, nên nghiệp đã làm, ngay hiện thế sẽ bị tiêu diệt, không còn sót lại. Ngay cả người làm tội ngũ nghịch, phỉ báng hủy hoại chánh pháp, hủy báng Thánh nhân nhưng nhờ nghe sức uy đức của kinh đó, nên đến lúc thân ấy tận thì cũng liền xả mạng; những tội như vậy đều diệt theo, rốt ráo không còn. Nếu có nữ nhân, mà thân miệng đã tạo nghiệp ác, với quả báo lớn bằng núi Tu-di, đời sau, nhất định chịu mọi nỗi khổ, nhiều không lường được. Các thứ khổ báo, các thứ nghiệp chướng, những hạt giống dư báo như vậy, nhưng nhờ sức nghe kinh, mà tận diệt không còn. Vì sao? Vì tất cả các Đức Phật Ala-ha Tam-miệu Tam-phật-đà đều nói: Với kinh Bảo Tinh Đà-la-ni này, nếu ai thọ trì đọc tụng, hiện tiền tán thán, xưng dương, tùy hỷ; thì khổ báo sở hữu của các chúng sinh đó, nhờ thần lực của kinh mà, thảy đều diệt hết, chỗ làm căn lành của họ theo thời gian, mà tăng trưởng. Nếu ở các cõi trong mười phương mà các Đức Phật A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà hiện tại vì chúng sinh ở từng địa phương, nói kinh Bảo Tinh Đà-la-ni này, chúng sinh được nghe, hoan hỷ, yêu thích; thì tất cả tội chướng của họ không thể không tiêu diệt; chỗ làm căn lành của họ, thảy đều tăng trưởng. Nếu các cõi trong mười phương vào đời đương lai, nơi tất cả các Đức Phật nói kinh đó, mà có người thực hành thậm chí chỉ trong một niệm, sinh lòng hoan hỷ; thì các chúng sinh đó, đều được hết khổ và tăng trưởng căn lành. Ta nay cũng nói kinh này, nếu có người nghe cũng đều sẽ tùy hỷ. Chỗ các Đức Phật Thế Tôn hiện tại trong mười phương, nói kinh này, cũng sẽ xưng dương, cũng sẽ hoan hỷ. Này phu nhân! Nếu có vua Sát-lợi, thọ dấu ấn màu đen (Mặc ấn), đến đất nước khác, mà được kinh Bảo Tinh Đà-la-ni này, mà chép ra, trì giữ, yêu thích; thì nhờ lực của kinh, vua Sát-lợi đó, uy đức sẽ cao xa, có danh xưng lớn đầy khắp mười phương vô lượng đất nước, thậm chí tất cả chư Thiên của cõi Dục, cõi Sắc cũng nghe uy tiếng đức của vua ấy. Tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… vô lượng câuchi na-do-tha trăm ngàn vạn ức những vua dòng Sát-lợi luôn theo vua ấy cùng nhau ủng hộ. Cõi nước vua ấy, nếu có chiến tranh, đói kém, oán địch hoặc gió, mưa, lạnh nóng, dịch bệnh, hoặc tai hoạn từ phương khác đem đến; thảy đều trừ diệt. Tất cả ác Quỷ, Dạ-xoa, La-sát, sư tử, voi, chó sói đều phát sinh từ tâm; tuy có ở tại nước ấy cũng chẳng bị tổn hại. Đất nước của vua ấy, cũng không có những sự thô nhám, vị đắng, ác xúc, đau đớn không thứ gì mà không bị tiêu diệt. Tất cả của cải báu vật, ngũ cốc, quả trái, dược thảo, hoa lá tươi tốt, nhiều vị ngon đều được tăng trưởng. Nếu có vua Sát-lợi thọ ấn, muốn cùng vua Sát-lợi khác chiến đấu thì nên treo kinh này trên đầu lá cờ hiệu. Nhờ lực của kinh, binh chủng sở hữu của vua oán địch kia, tự nhiên lui tan. Nếu hai vua Sát-lợi thọ ấn trời; khi giao chiến nếu treo kinh đó trên đầu cờ hiệu mình thì nhờ uy lực của kinh, mà hai vị vua đó, liền kính yêu nhau, cùng chung hòa hảo với nhau. Như vậy, thành tựu vô lượng công đức, lợi ích an lạc cho tất cả vua, người là chỗ nào có kinh Bảo Tinh Đà-la-ni. Hoặc thành ấp, xóm làng; hoặc người chẳng phải người; hoặc loài bốn chân, loài nhiều chân, hoặc các loài trùng ác độc không thể khiến cho chúng nghe được kinh đó thì tật bệnh, chết yểu và não loạn. Nếu ở chỗ có kinh điển đó thì phải hết lòng thiết đại lễ cúng dường, nên dùng đồ cúng dường phụng nghênh kinh này, cũng đem quyển kinh đặt trên tòa Sư tử. Người đọc kinh và người nghe kinh này thì phải chí tâm, tắm rửa thanh tịnh, xoa dầu cho thân thơm, mặc áo mới sạch, thọ trì phạm hạnh, tung hoa đủ sắc, đốt các thứ danh hương, đủ thứ vị ngon, cung kính, vây quanh, cúng dường kinh đó. Người đó, nếu có tất cả tai ách bệnh khổ, chết yểu và những tướng ác kinh hoàng thì do thọ lực của kinh này mà thảy đều tiêu diệt, biến mất. Nếu có nữ nhân, vì cầu con trai, con gái thì nên tắm gội, mặc áo mới sạch, thọ trì phạm hạnh, đốt hương, tung hoa cung kính cúng dường kinh điển vi diệu đó thì liền sinh được con trai, con gái đủ phước đức trí tuệ. Nữ nhân như vậy, tuy chẳng vì mình, mà nhờ uy lực huân tu kinh này, nên sau khi xả thân, cho đến được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và được Niết-bàn, rốt cùng không thọ thân nữ nữa; ngoại trừ, tự phát nguyện, để thành thục chúng sinh. Này phu nhân! Nghe một bài kệ, một câu, một tiếng kinh của kinh này, cho đến loài chim bay, thú chạy nghe kinh này, cũng được như vậy. Đều được bỏ thân súc sinh kia, đồng thời cũng khiến cho tất cả mau được không thoái chuyển nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này thiện nam! Khi Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng đời quá khứ kia, nói kinh đó, liền dùng ngón chân cái, của bàn chân phải, chạm vào đất, thế giới này tự nhiên có sáu thứ chấn động.

Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, hôm nay nói kinh này, cũng lại như vậy. Do thần lực của Phật mà sơn hà đại địa của cõi Phật này, cũng có sáu thứ chấn động. Mười phương, a-tăng-kỳ vô lượng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâula, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Bệ-lệ-đa, Tỳ-xágià, Cưu-bàn-trà, Nhân phi nhân đều sinh nghi hoặc, quái lạ! Tất cả cõi Phật có ánh sáng lớn cùng khắp, đất bằng phẳng như bàn tay, núi Tu-di, núi Luân vi, núi Đại luân vi, rừng cây, tường vách, đều biến mất. Đang khi chấn động, các Trời, Rồng, Dạxoa trước đó, đều nghi hoặc, quái lạ; sau nhờ sự gia bị của thần lực Như Lai, nên các Trời, Rồng… bốn phương đều trông về xem, thẳng một đường tên, thấy Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni; mỗi mỗi đều kinh ngạc, vui mừng, phát sinh lòng hy hữu, nhất thời chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni nói:

–Này thiện nam! Khi Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng đời quá khứ kia nói kinh đó, lấy chân chạm đất, sáu thứ chấn động, mà cõi Phật này trước đều bằng phẳng như mặt nước; tất cả trời, người đều sinh lòng nghi hoặc, quái lạ; từ bốn phương trông về xem, thẳng một đường tên, liền thấy Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng đó. Thấy rồi, họ chắp tay, sinh lòng hy hữu. Này thiện nam! Khi Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng đó ở trong đại chúng Trời, Rồng, vì chúng sinh, nói bài chú Bảo tinh Đà-la-ni này:

Đát điệt tha (1) xà lô kế (2) Xà lô ca mộ kế (3) Xà lê xà la xà lê nhỉ (4) Xà la bà la đế (5) Xà tử lợi (6) Ba la bố lâu sa xoa na ta ma lũ tứ da (7) A ma mê (8) A ma mê (9) Bà ma mê (10) Bà ma mê (11) Na bà mê (12) Ma ha mê (13) Xà ha mê (14) Xà ha mê (15) Khư bà la mê (16) Bà la tỳ (17) Bà bà tỳ (18) Bà ha tỳ (19) Bàng già tỳ (20) Bà xà tỳ (21) [Nguyên bản thiếu ba câu] A la xà tứ ly (25) Thiền đô mộc khê(26) Bà ha la (27) Ba ha la (28) Tất đà bột la đế (29) Đàn địa la (30) Đàn địa la (31) Đàn địa đà la (32) Tô lợi gia tỳ ha khư (33)

Chiên đạt la ty ha khư (34) Chiết sô thù đế ta (35) Tỳ ha khư (36) Tát bà a xoa da (37) Tất đế lị đỏa tô la ty ha khư (38) Xà khư già (39) Xà khư già (40) Tô la khư già (41) Tỳ ha ma (42) A ba lợi khư (43) A một lị khư (44) A một lị khư (45) A một lị khư (46) A một lị khư (47) A một lị khư (48) A một lị khư (49) A một lị khư (50) A một lị khư (51) Một lị khư (52) Một lị khư (53) Một lị khư (54) Tỳ bà hề đà yết ma (55) Độ nê độ nê (56) Ô ba đà tỳ da hề đà (57) Nhược đa ngật lị đa (58) A nộp ba đà khư già lệ noa ca (59) Ương quật lệ (60) Bàng quật lệ (61) Tỳ bạc câu lệ (62) Câu la ha (63) Nhân đà la bát lị bà ha (64) Tỳ bà hề đà yết bà (65) Già ba la đế (66) Già ba la đế (67) A mộ ha đạt lị xá nô (68) Bát lị bạt đa bà sa đốt ma (69) Ngật lị ma thù đế (70) Khư già lị xà hử (71)

Xà ha (72) Thù đế (73) Nhỉ sắt ca (74) Tỳ la ta (75) Tỳ la ta (76) Tỳ la ta (77) Tỳ la ta (78) Tỳ la xà ma đế lị la ma bà bà (79) Ngật lị ba (80) Ma ha ngật lị ba (81) Hử lệ (82) Hử hử lệ (83) A lũ noa bà la đế (84) Tam ma da nhỉ sắt kế (85) Đà ma đà na (86) Hí địa dạ na (87) A ba la một lị thế (88) Phả la quân trà la bạc khê (89) Nhĩ bạt lị đa nhất tất đế lị bà bà (90) Yết ma xoa da bát la đột bà bà (91) Bố lũ sa đỏa a tam ma tam ma (92) Tam ma da tỳ địa xà nhã (93) Đá tha già đa (94) Ta bà ha (95).

Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai tuyên thuyết Bảo tinh Đà-la-ni này rồi, lúc không còn nghe tiếng nữa, mà đại địa này vẫn chấn động. Năm trăm kỹ nữ của Ma vương kia, do nghe Bảo tinh Đà-la-ni, liền chuyển hình dáng nữ, thành đủ tướng trượng phu và vô thượng a-tăng-kỳ Thiên nữ, Long nữ, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà nữ, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-già nữ; cho đến tất cả các con gái Bệ-lệ-đa, Tỳ-xá-già, Cưu-bàn-trà… nghe Bảo tinh Đà-la-ni này, cũng đều được chuyển hình dáng nữ thành đủ tướng trượng phu, đồng thời cũng khiến cho tất cả những thiện nam, mau được không thoái chuyển nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho đến tất cả các nữ nhân vào đời đương lai, sẽ thọ thân nữ, nhưng nhờ thần lực kinh này, nên nghiệp đương lai liền diệt. Lúc ấy, tất cả nữ nhân, đều cùng chắp tay, đầu mặt lễ dưới chân Đức Thích-ca Như Lai, đồng thời lớn tiếng, nói:

–Nam-mô nam-ma hy hữu, có thể tạo lợi ích vô thượng! Xin nguyện Thích-ca Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà, với lòng đại Bi, rộng vì chúng con, mà nói bản sự này. Hôm nay, vì sao hình tướng nữ nhân chúng con, đều đã diệt hết và liền thành tựu tròn đủ thân phận trượng phu? Do sự chuyển biến hy hữu này nên rất vui mừng. Chúng con, nay đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện xin Đức Thế Tôn, nói lên bản sự này, khiến cho vô lượng trời, người đều được đạo quả!

Lúc bấy giờ, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai một lần nữa bảo Hiền Thủ thiện nam:

–Khi Đức Nguyệt Quang Minh Hương Thắng Như Lai đời quá khứ, vì phu nhân của vua Ưubát-la là Thiên Tôn-đà-lợi, tuyên nói Bảo tinh Đàla-ni, Tôn-đà-lợi cùng quyến thuộc thể nữ hậu cung của mình, gồm tám muôn bốn ngàn người ấy, tướng nữ nhân diệt đi và tướng trượng phu hiện lên. Vô lượng, vô số a-tăng-kỳ các Thiên nữ của trời, cho đến tất cả các nữ của cõi người và chẳng phải người… cũng đều được chuyển hình tướng nữ, thành đầy đủ tướng nam tử và cả nghiệp thân nữ ứng thọ trong đời vị lai, cũng diệt, không còn nữa.

Lúc bấy giờ, vua Ưu-bát-la xả bỏ ngôi vị Chuyển luân tự tại của mình, đem bốn thiên hạ, ủy thác cho thái tử, rồi cùng với phu nhân Thiên Tônđà-lợi trượng phu và một ngàn người con của mình, cùng chung với tám muôn bốn ngàn trượng phu, hậu cung Thiên Tôn-đà-lợi (Thiên ái), với chín vạn hai ngàn những thứ dân khác ở chỗ Đức Phật Nguyệt Quang Minh Hương Thắng, đều tin nhà mình ở chẳng phải là nhà, nên bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc mà mặc pháp phục. Đã xuất gia rồi, họ dũng mãnh tinh tấn, đọc tụng, thọ trì, ý ưa tịch tịnh. Vô lượng câu-chi na-do-tha trăm ngàn chúng sinh đều phát sinh ý này: “Vì sao Chuyển luân thánh xuất gia vào đạo?” Những kẻ chấp, trước tà; kiến thì đều chung với nhau lời như vầy: “Hương Thắng Như Lai này, ân cần ưa ma nghiệp, biện giải, huyễn hoặc, dua nịnh; hoặc thì chuyển nữ nhân căn thành trượng phu tướng; khi thì cạo bỏ râu tóc theo mặc nhiễm y (áo nhuộm thầy tu mặc); hoặc vì người sinh lên trời, nên nói việc sinh lên trời; hoặc vì loài súc sinh nên nói việc súc sinh, hoặc vì loài sinh trong ngạ quỷ mà nói việc ngạ quỷ, hoặc vì loài sinh trong địa ngục mà nói việc địa ngục, hoặc nói pháp chẳng sinh chẳng diệt, hoặc huyễn hóa tạo tác thân nữ nhân ân cần ưa ma nghiệp với đủ việc như trên! Ông Nguyệt Quang Minh đó, tạo tác hình dạng Sa-môn, ta nay quyết định lìa khỏi chỗ ở ấy, chẳng chịu nhìn thấy hình tướng Sa-môn đó, cũng chẳng muốn nghe lời nói ấy, nói ra.” Trong chúng đó, có người bề tôi, tên là Cưu-ma-la, lòng sinh nghi hoặc, điên đảo, hướng về mọi người của nước đó, mà nói: “Thê thiếp, thị nữ sở hữu của chúng ta, đều bị sự huyễn hóa của ông Sa-môn, cải đổi hình tướng nữ thành chất trượng phu, tất cả đều biến thành kẻ cạo tóc, mặc áo nhuộm. Chỉ còn một mình thân ta ôm lòng lo lắng, mà được thoát. Nay ta phải vào núi sâu, hang hiểm, chỗ không người như Tiên nhân, để tránh yêu thuật huyễn hóa. Các ông, tất cả nên cùng với ta hòa hợp, theo nhau mà đi, cẩn thận chớ rơi vào sự trói buộc ma của ông Sa-môn đó! Ông Sa-môn huyễn hoặc hèn hạ, ta nay chẳng muốn nghe âm thanh của ông ấy, huống gì là mắt nhìn thấy!” Trong số thần dân đó, kẻ chưa đắc tâm, nghe lời nói ấy, tất cả đều vui mừng. Nghe bề tôi Cưu-mala khi nói lời nói đó thì vô lượng câu-chi trăm ngàn chúng sinh đều rơi vào lưới tà kiến. Ông ấy, lại nhìn chúng sinh, tuyên nói tà pháp: “Không có sinh tử, cũng không có giải thoát. Làm thiện, làm ác đời sau cũng không có ác nghiệp quả báo. Ông Sa-môn lừa dối này, ân cần làm nghiệp ma. Nếu diện kiến ông ấy hoặc lễ bái ông ấy, hoặc nghe pháp của ông ấy; thì lòng người rối loạn, mê hoặc; chỉ muốn cạo tóc bỏ nhà; ra bãi tha ma tu hành; ngày chỉ ăn một bữa; đi xin tự nuôi thân; ưa chỗ tịch tĩnh; vào phòng ít nói; thường chán năm dục, kỹ nhạc, ca múa; lìa bỏ vòng hoa cài tóc, hương xoa, hương tán và đồ dùng nghiêm sức thân, cũng chẳng ưa đủ thứ hoa trang sức cùng với việc say rượu, hôn nhân, dâm dục thỏa tình. Ông Sa-môn đó, ân cần ưa tuyên nói hành đạo trói buộc của ma, tức là oán gia của tất cả chúng sinh. Ta vốn chẳng thấy, chẳng nghe có ông Sa-môn nào làm như vậy khiến cho vô lượng câu-chi trăm ngàn chúng sinh thấy tướng như vậy! Từ thuở xa xưa đến nay, cũng chưa từng thấy ác kiến này.”

Này thiện nam! Về sau, đại Sa-môn Ưu-bát-la, nghe nhân dân của nước mình chạy trốn vào hang núi, hoặc tự đi theo đường ác; lại còn dạy người khác, khiến cho họ chấp trước ác kiến, hủy hoại Tam bảo, bài báng chánh, làm theo tà. Nghe những việc đó rồi, Sa-môn Ưu-bát-la tự suy nghĩ: “Nếu chúng sinh đó, đều rơi vào ác kiến, chẳng được giải thoát, chẳng trụ Chánh kiến; thì chẳng có người đem lại lợi ích, chẳng ai lập sự an vui cho họ.” Ta làm Sa-môn, phải làm sao, khiến cho những chúng sinh mù tối đó, vào đời vị lai, lìa khỏi đường ác, khử trừ bốn sự trói buộc của ma; người chưa giải thoát, có thể khiến cho họ giải thoát; cho đến cuối cùng làm cho họ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Đại Sa-môn Ưu-bát-la nghĩ thế rồi, liền bạch với Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng: “Hôm nay, con vì chúng sinh, nên phát đại dũng mãnh, hành đại Từ bi!” Sa-môn Ưubát-la liền cùng với vô lượng trăm ngàn chúng sinh vây quanh trước sau, đi đến vùng biên địa đó. Nơi thành ấp, làng xóm trống không, chỗ núi non hiểm trở, Sa-môn Ưu-bát-la vì các chúng sinh tuyên nói chánh pháp: “Nếu chúng sinh đó rơi vào tà kiến thì nay ta sẽ ngăn lại, khiến cho họ được vào chánh kiến; cho đến dạy bảo những kẻ ấy, an trụ ở Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có người, hoặc nguyện cầu Bích-chi-phật thừa, hoặc cầu Thanh văn thừa thì ta; hoặc an lập họ ở Thánh quả; hoặc khiến họ xuất gia; hoặc khuyên họ thọ trì Ưu-bàtắc giới, hoặc Bát quan trai giới; hoặc hành Tam quy; hoặc vì an lập cho tất cả nữ nhân, đủ hành tướng trượng phu, đoạn dứt nghiệp nữ căn mà nói chú Bảo tinh Đà-la-ni này. Cho đến vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh, ở bên Đức Như Lai từng phát sinh nghi hoặc, điên đảo, tất cả chấp trước ác kiến như vậy, ta cũng sẽ ngăn lại và đoạn dứt, khiến cho họ được phát lộ. Làm việc dạy bảo đó rồi, ta đều khiến họ an vui ở Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và đến chỗ Đức Phật Nguyệt Quang Minh Hương Thắng cùng chung xuất gia, tịnh tu phạm hạnh.”

Này thiện nam! Người bề tôi Cưu-ma-la trước phát nguyện này: “Vì Đại Sa-môn đó, có thể nói pháp huyễn hoặc, phá đồ chúng của ta, dụ dỗ quyến thuộc của ta, ông vào đời vị lai, khi được làm Phật thì ta trở lại tạo tác đủ thứ ma sự đối với ông. Như là khi bắt đầu ở trong thai, khi làm đồng tử, khi tuổi tráng niên vui chơi và xuất gia, khi ở gốc cây, ngồi ở đạo tràng ta sẽ tạo đủ thứ phiền não rối loạn, đủ thứ phá hoại, khiến cho ông thoái mất tâm Bồ-đề.”

Này thiện nam! Vị đại Sa-môn lại cần khổ bội phần, dũng mãnh tinh tấn, du hành khắp bản quốc của mình, vào núi hiểm trở kia, bằng lời nói Từ bi, lời nói êm ái, bằng mọi thứ ví dụ, khai thông sự hiểu biết cho dân của mình. Những chúng sinh đó, thấy được đức vua cũ, nghe lời nói pháp của vua, đều phát sinh vui mừng. Họ liền hồi chuyển tà tâm, đoạn ác kiến xưa, ở lại chỗ vị Sa-môn cầu xin sám hối, đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người bề tôi Cưu-ma-la và đồ chúng của hắn cũng được điều phục tà tâm, đều khởi chánh tín và liền phát nguyện: “Nếu đại Sa-môn đủ đại Bi thì đời tương lai, khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện xin rũ lòng thọ ký Bồ-đề cho con.”

Này thiện nam! Các ông muốn biết, vua Chuyển luân thánh Ưu-bát-la thuở xưa là ai không? Chính là thân ta hôm nay đây! Phu nhân Thiên Tôn-đà-lợi của vua ấy thì nay là Bồ-tát Di-lặc đó! Người bề tôi bài báng chánh pháp mang ác kiến Cưu-ma-la thì hôm nay là Ma vương đó! Vô lượng na-do-tha trăm ngàn chúng sinh nghe ta nói pháp, cùng xả bỏ ác kiến, trụ ở đạo Tam thừa, đều được xuất gia và vô lượng nữ nhân nhờ thần lực của kinh, nên thành trượng phu lúc bấy giờ, hôm nay, chính là các ông, là bốn bộ chúng đệ tử trong đại chúng đó vậy.

Này thiện nam! Các ông hôm nay phải tín thọ lời nói của ta! Khi nghe bản sự của vua Ưu-bát-la đời quá khứ, chớ phát sinh nghi hoặc. Vì sao? Vì nhớ lại, kẻ bề tôi Cưu-ma-la thuở xưa, thấy quyến thuộc của hắn và vô lượng trăm ngàn chúng sinh kia, đồng bỏ ma nghiệp, ở trong pháp của Phật xuất gia làm đạo, liền khởi nên ác niệm: “Nguyện đời đương lai ta cùng với binh chúng ma, phá quyến thuộc của ông” thì trở lại đúng như ngày hôm nay!

Này thiện nam! Các ông đã từng ở chỗ Đức Như Lai Nguyệt Quang Minh Hương Thắng, phát sinh niềm tin bất tịnh, nói lời nói bất thiện, là do quả báo ác kiến mê hoặc chúng sinh, nhân duyên gặp Phật mà được giải thoát, là do lực của một ý niệm tốt xuất gia; nên từ đó đến nay, được gần gũi vô lượng trăm ngàn các Đức Phật cúng dường mà chẳng sinh lòng chán nhọc, ở chỗ các Đức Phật, phát đại thệ nguyện, lòng ưa nghe pháp, cho đến thường hành sáu pháp Ba-la-mật. Các ông từ xưa đến nay, do việc làm ác nghiệp của thân, miệng, ý; nên trai qua vô lượng kiếp, thường ở ba nẻo khổ. Các khổ não, nghiệp chướng sẽ dẫn dắt sinh vào trong ma đạo. Thích-ca Mâu-ni Như Lai ta, nhân nói Bảo tinh Đà-la-ni này, mà năm trăm kỹ nữ trong ma chúng đó, liền chuyển thân nữ, đồng thời đạt được Vô sinh pháp nhẫn; vô lượng vô số na-do-tha trăm ngàn chúng sinh, tất cả đại chúng, trời, người, thế gian đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có vô lượng, vô số na-do-tha trăm ngàn chúng sinh, đều được Bất thoái thừa Thanh văn, Bích-chi-phật.

Bài chú này chép thêm để đối chiếu hiệu đính với bài chú dịch ở trên.

(Bài chú này trong bản kinh Bảo Tinh Đà-la-ni của Minh Tạng):

Đa địa dã tha xà lô kế (1) Xà lô ca mộ kế (2) Xà lê xa la (3) Xà lê nhỉ (4) Xà la bà la đế (5) Xà hử lợi (6) Bà la bố lâu sa la xoa na bà ma lũ hử tà (7) A ma mê a ma mê (8) Bà ma mê bà ma mê (9) Na bà mê (10) Na ha mê (11) Xà ha mê (12) Xà ha mê khư bà la mê (13) Bà la mê (14) Bà la mê (15) Bà la mê (16) Bà bà tỳ (17) Bà ha tỳ (18) Bàng già tỳ (19) Bà xà tỳ (20) Bà la đa bà lợi si (21) Xà ha mê khư (22) Bà la tỳ (23) A la xà hử li (24) Thiền đổ li (25) Tổ đổ mẫu khê (26) Bà ha la (27) Bà ha la (28) Mê đà bột la đế (29) Đàn địa la (30) Đàn địa đà la (31) Tô lợi da tỳ ha khư (32) Chiên đạt la tỳ ha khư (33) Chước sô thù để sa tỳ ha khư (34) Tát bà xoa da (35) Tất để lý đỏa tô la (36) Tỳ ha khư (37) Xà khư già (38) Xà khư già (39) Tô khư già (40) Tỳ ha ma (41) A một lý khư (42) A một lý khư (43) A một lý khư (44) A một lý khư (45) A một lý khư (46) A một lý khư (47) A một lý khư

(48) A một lý khư (49) A một lý khư (50) Một lý khư một lý khư một lý khư (51) Tỳ bà xỉ đà yết ma (52) độ nê độ nê (53) Uất ba đà tỳ da xỉ đà (54) Nhã na ngật lý sỉ (55) A nột sĩ ba đà (56) Khư già li nữu ca (57) Ương cữu lệ (58) Bằng cù lệ (59) Tỳ bạc câu lệ (60) Câu la ha (61) Nhân đà la bát lý bà ha(62) Tỳ dã bà xỉ đà yết bà (63) Già bà la để (64) Già bà la để (65) Già bà la để a mộ ha đạt lý xá nô (66) Bát lý bạt đa bà sa dã khư ma (67) Ngật lý ma thù để (68) Khư già lý xà hử (69) Xa ha thù để (70) Nhỉ sắt ca tỳ la ta (71) Tỳ ta la (72) Tỳ ta la tỳ ta la

(73) Tỳ la xà (74) Ma để lý già la ma bà bà (75) Ngật lý bạt dã ma ha ngật lý bạt (76) Hử lệ hử hử lệ (77) A lũ nả bà la đế (78) Tam ma tà nhỉ sắt kế (79) Đà ma đà na (80) Địa dạ na (81) A ba ba một lý (82) Pha la quân trà la bạt khê (83) Nhỉ bạt đa tất để lý bà bà (84) Yết ma xoa da bát la đột bà bà phủ lũ sa sỉ phạm (85) A tam ma tam ma (86) Tam ma da tỳ địa xà nhã (87) Sỉ tha già đa (88) Ta bà ha (89).

QUYỂN 3

Phẩm 3: MA VƯƠNG QUY PHỤC

Khi Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai nói kinh Bảo Tinh Đà-la-ni này; Đức Phật phóng ra ánh sáng lớn, soi khắp hàng trăm câu-chi nơi bốn thiên hạ, của thế giới Ta-bà này, hết thảy đều rất sáng. Ngay tức thời, hàng trăm câu-chi của các ma cõi Dục, nhờ Phật lực nên đều khởi kinh động, đều nhìn thấy nhân duyên sự hiện diện của ánh sáng này. Họ đều khởi ý niệm: “Nhất định đây là việc làm của ác ma kia. Đối với bốn thiên hạ, ông ấy có uy đức lớn, ông ấy đối với chúng ta, có sức đại tự tại, nên hiện ra ánh sáng này.” Khi khởi lên ý niệm đó, chúng quán thấy, ác ma ngồi trong nhà ưu não, nên sinh với tâm trạng buồn giận cùng cực. Bấy giờ, hàng trăm câu-chi-na ma của cõi này, đều bỏ cung ma, kéo đến chỗ Ma vương của bốn thiên hạ này, nói lời như vầy: “Ngài là chủ cõi Dục, có lực đại tự tại, phóng ra ánh sáng này, soi khắp tất cả; nhưng vì nhân duyên gì, ngồi trong nhà ưu não?” Ma vương liền đáp cho khắp hàng trăm câu-chi xứ, có tất cả các ma biết: “Các người nên biết! Đây chính là Sa-môn, xuất thân ở dòng họ Thích, một người dua nịnh huyễn hoặc số một, đã phóng ra ánh sáng này, soi đến thế giới, làm tất cả đều kinh động. Người minh tuệ có trong thế gian; các Phạm thiên vương và các Long vương, Dạ-xoa vương, Atu-la vương, Ma-hầu-la-già vương, Ca-lâu-la vương, Khẩn-na-la vương cho đến loài Nhân phi nhân khác nữa; những bậc thông minh sáng suốt có trong số ấy, tất cả đều quy hướng cúng dường ông Thích Tử đó. Ông ấy, trong sáu năm, ngồi một mình không hai, thành tựu được lực huyễn lớn vô tướng. Ta dùng sức mình thị hiện thần thông, chỉnh tề xa giá, quân chúng ba mươi sáu câu-chi người vây quanh giáp vòng, tất cả sức ma được dùng đều rất siêng năng và lớn, nhưng rốt cùng, chẳng thể khiến cho Thủ-đà kia kinh sợ một tí nào huống gì lại có thể tạo ra chướng ngại để, lay động pháp tòa của vị đó! Hôm nay, Thủ-đà này, thành tựu pháp huyễn vô tướng như vậy, việc làm của ông ấy thị hiện, lay động đại địa này, đồng thời làm thoái lui quân của ta. Như cắt rễ cây đại thọ thì cành đều ngã, tất cả ma giới đều tối om, còn ở chỗ ngồi của ông ấy thì thành tựu ánh sáng lớn! Từ chỗ ngồi đứng dậy, ông ấy vì các chúng sinh, khai thị diễn nói. Những chúng sinh thông minh trí tuệ, có trong bốn thiên hạ này, đều bị sự dẫn dắt của cái móc huyễn hóa đó. Ta cũng chẳng biết, lòng của những người đó ở đâu? Về đâu? Khi nào chết? Sinh ở đâu? Nay sáu đường này, đã quy y ông ấy. Ta còn chẳng thể kinh động được một sợi lông, làm sao lại có thể động được đến tín tâm của họ. Năm trăm kỹ nữ vi diệu này của ta và hai vạn người con trai, cùng các quyến thuộc, đều quy y ông Sa-môn Cùđàm, đang ngồi ở trước đó. Ta ngày hôm nay chẳng thể ngăn chế; còn các người, hôm nay, có sức, có phước, có trí tự tại, phải giúp ta, chặt đứt mạng sống của tên Thủ-đà-la Thích tử đó. Như có chúng sinh nào, quy y người đó thì tìm mọi cách phá tan với bè đảng đen tối của ông Sa-môn dua nịnh huyễn hoặc phải làm cho hàng phục, bè đảng bạch tịnh ma của chúng ta thì làm cho sáng to; từ đây về sau, sẽ nhận được sự vui nhàn.

Lúc bấy giờ, có ma tên là Quang Minh, quan sát cõi Diêm-phù này, thấy thân Đức Như Lai ở trên pháp tòa, lại nghe Phạm âm nói pháp mỹ diệu. Thấy nghe như thế, rồi kinh sợ, dựng tóc gáy, bèn hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Ở trong tất cả cõi
Sắc này rất lạ thường
Công đức và trí tuệ
Lâu rồi thân sạch trong
Giải thoát các phiền não
Lâu dài khéo tương ưng
Giải thoát khỏi các cõi
Hết sạch mọi lo toan
Ngài nay, chớ sân giận
Tự tại nơi buộc ràng
Chỗ này quy y tốt
Chỗ nương nhất ba cõi
Nếu Ngài ở chỗ ấy
Dấy lên sát-na sân
Do sự ngu si đó
Tự tan hoại vui nhàn.

Lúc đó, trong chúng, có một ma, tên là San-nhĩnhị-ca, hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Lực đại thần thông đó
Tướng công đức trên cùng
Tất cả không chỗ nương
Người nương được giải thoát
Khổ hết sạch không còn
Hay nói đường khổ tận
Vô lượng trăm ngàn ma
Đã chẳng thể não loạn!

Lúc đó, Ma vương dùng kệ đáp:

Ta nay có được Bậc tự tại
Tất cả nương theo Tự tại đó
Như vậy chẳng lâu cõi ta rỗng
Ta không chỗ về cũng không đắc!

Lúc ấy, trong chúng, lại có một ma, tên là Tân Trần, hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Thế lực số một, ngài có trước
Sở tác, ngài tự tại dũng cường
Ngài nay mất sức lại không thể
Không thể sánh cùng Nhất thiết trí.

Bấy giờ, trong chúng lại có một ma, tên là Đào Nguyệt, hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Từ bi, chúng sinh, không ý ác
Tự tại, thanh tịnh, không chỗ nương
Ba cõi giải thoát, chốn dạo chơi
Không nẻo, không hành, không thể hại.

Khi đó, Ma vương nói kệ, đáp:

Có những chúng sinh ở cõi Dục
Đắm các dục, say tình điên đảo
Nơi việc ta làm theo đó chuyển
Làm sao cùng ông, chẳng thể hại?

Bấy giờ, trong chúng, lại có một ma, tên là Đại Thủy, hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Các hữu như lửa, huyễn chẳng bền
Thường biết các hữu đoạn các ái
Chẳng chấp các hữu như hư không
Sao với vị đó thường bức bách.

Luc ấy, Ma vương nói kệ đáp:

Phật tuy tự tại ở ba cõi
Ăn uống, áo mặc luôn đủ dụng
Phật với ba thọ làm sở thích
Mà sao sắp chết chẳng hại tan?

Bấy giờ, trong chúng, lại có một ma, tên là Xả Ái, hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Cảnh giới thần thông có sở hữu
Ác ma, Dạ-xoa và Trời, Rồng…
Đủ thứ não hại, không chạm Phật
Cái chết làm sao hại Thế Tôn?

Khi ấy, Ma vương nói kệ đáp:

Xưa chúng ta phá thức ăn Phật
Mưa đá lớn ở trong hư không
Ma-lị không lường trăm thứ tiếng
Với ông ta muốn quấy chỗ nương.

Bấy giờ, trong chúng, lại có một ma, tên là Tri Nhãn, hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Khi Ngài đối Phật tạo não loạn
Có thấy chút gì sân giận chăng?
Thư thái nhìn ngài chẳng xịu mặt
Dịu lời dỗ dành không tiếng ác.

Lúc đó, Ma vương nói kệ đáp:

Phật có trí tuệ hay thường nhẫn
Hay đoạn ái si và lỗi lầm
Từ tâm với tất cả chúng sinh
Tích tập công hạnh thảy gồm thâu.

Bấy giờ, trong chúng lại có một ma, tên là Nan Hàng Phục, hướng về Ma vương kia, nói kệ:

Ba kết nếu có thể trói buộc
Chúng ta nên não loạn đó họ liền
Si chướng buộc ràng Phật diệt được
Cái chết làm sao quấy Thế Tôn!

Lúc đó, Ma vương nói kệ đáp:

Các ông giúp sức ta
Bộ dạng chớ buông lung
Ta biến đất làm nước
Nối bốn núi làm vòng (vòng hoa cài tóc):
Hư không mưa đá lớn
Gom cát sắt rải tung
Ném cho thân Phật tan
Phương tiện khéo như vậy
Tạo não loạn cực cùng
Các ông cùng giúp đỡ
Thích tử thành tro tàn.

Lúc bấy giờ, mỗi mỗi các ma, đều nói kệ, cho đến hàng trăm câu-chi các ma hiện có, cũng đã nói kệ hỏi đáp như vậy.

Lúc ấy, tất cả các ma của chúng đó, cùng lúc lên tiếng, nói như vầy:

Như vậy, mỗi mỗi chúng nên đi về cung ma của mình, chỉnh đốn giáp trụ, cùng các binh chúng trang bị giáp. Sử dụng sức tất cả thần thông của chúng ta, tất cả cảnh giới bày ra, khiến cho họ biết, ông Sa-môn Cù-đàm, tuy dũng mãnh, nhưng liệu đương đầu được với mũi nhọn của quân chúng bọn ta sao?

Khi nói lời như vậy, trong khoảnh khắc một sát-na, các ma sẵn có ở trăm câu-chi xứ, đều từ cung của mình, giáp trụ trang nghiêm. Mỗi một quân ma, gồm hàng ngàn câu-chi chúng, mặc đủ thứ giáp, cầm đủ thứ binh khí, mỗi mỗi đều chỉnh tề xa giá. Rồi nửa đêm, bọn họ xuống cõi Diêmphù-đề, đến giữa nước Ma-già-đà, đều trụ ở hư không lân cận chỗ Đức Phật. Cho đến Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-nala, Ma-hầu-la-già, Bệ-lệ-đa, Tỳ-xá-già, Cưu-bàntrà của bốn châu, đều ở bên Đức Phật, sinh lòng bất tín, không ý cung kính. Với Pháp, Tăng cũng chẳng lòng tin. Tất cả ma đó, đều sai khiến quân chúng với đủ thứ binh khí, mặc giáp trang nghiêm, tập họp đông đảo ở chỗ đó, muốn hại Đức Như Lai. Có một vị Tiên nhân, tên là Quang Vị, với đủ mười tám minh xứ và cảnh giới thần thông, học nhiều không lường, thường vâng thờ Ma-hê-thủ-la, cùng với năm trăm đồ chúng trụ ở bên núi Tuyết. Lúc bấy giờ, Ma vương liền tự biến thân, làm hình dáng Ma-hê-thủ-la, trụ ở trước Tiên nhân, nói kệ:

Dòng họ sinh Cù-đàm
Đại tiên nương thông giả
Trụ Ma-già (nước), thông tuệ
Nay Vương xá đi xin.
Lòng ông phải kiên cố
Với các kiểu luận bàn
Ông năm thông cùng cực
Nhất định phải tự tại.

Ma vương nói kệ này xong, liền biến mất, trở về cung ma, chỗ quyến thuộc của mình, mà nói kệ:

Các ngươi nay bên ta nghe rõ
Cái ta nghĩ chẳng ai sánh biết
Thuộc về Thích tử đã cùng nói
Thần thông gia bị khiến đầy đủ.
Huyễn kia thị hiện cảnh giới ấy
Đoạt sức lớn mạnh của ma ta
Như mẹ hướng con lời êm dịu
Đều khiến đệ tử sinh vui mừng.
Hằng ngày buổi sớm vào thành ấp
Từ từ bước, uy nghi gìn giữ
Sở hành đệ tử đã đoạn dục
Tự ta sẽ bắt giữ từng người.
Hiện trước họ ca múa gợi cảm
Khiến họ thấy nghe sinh mê hoặc
Đệ tử nghe nhận mê chấp rồi
Sẽ quấy nhiễu Thích-ca Đại Tiên.

Bấy giờ, trong chúng, có một ma, nói kệ:

Con nay hóa hiện việc đáng sợ
Sư tử, trâu nước, cọp, voi điên…
Nhanh chóng đuổi chạy vào thành ấp
Hiện sấm chớp chấn động kinh hoàng.
Thần thông hóa hiện vô lượng việc
Lại hiện binh khí bức bách họ
Việc bỏ các dục của bọn họ
Hoặc khi mê loạn, khiến mất quên

Lúc đó, trong chúng, có một ma, nói kệ:

Ta nay ở ngã tư đường đó
Hóa lầu quan sát ngay trước mặt
Đủ thứ hình lạ, mặt xấu xí
Đủ thứ binh khí bức động họ.
Trong không tiếng lớn, mưa dao kiếm
Kinh động đáng sợ tiếng sấm vang
Ở cảnh giới đó chẳng tự tại
Mau khiến tiêu diệt chẳng hiện tiền

Lúc bấy giờ, Ma vương dùng sức thần thông, tất cả đều chỉnh tề xa giá, tác động rộng rãi đến tất cả cảnh giới trên. Sức uy đức đại Từ của Như Lai, cũng thị hiện đủ thứ rộng lớn như vậy. Tức thời, biến tam thiên đại thiên thế giới này, thành thế giới Phật, khiến cho tính mặt đất giống như kim cang, tất cả ma lực chẳng thể chuyển đổi, cũng chẳng thể tạo ra những âm thanh ác, những núi lửa bốn phương bốc cháy dữ dội; cũng chẳng thể tạo ra mây đen phi thời và phong khí độc. Nhờ lực Đức Phật hộ trì cho nên, thậm chí không có một con rồng, có thể vận chuyển thân mình làm rơi xuống một giọt mưa.

Lúc bấy giờ, vào sáng sớm có bốn đại Thanh văn mặc áo, mang bát vào đại thành Vương xá khất thực. Lúc Tôn giả Xá-lợi-phất, ở cửa Nam của thành thì gặp năm mươi đồng tử ma với tướng đại nhân đệ nhất đoan chánh, diệu sắc trang nghiêm, cùng ở tại ngã tư đường, vừa ca múa vừa đi. Từ xa, thấy Tôn giả Xá-lợi-phất đến, chúng liền cùng nhau nắm lấy hai tay tôn giả trước và nói với Tôn giả:

–Này Sa-môn, ông hãy ca! Này Sa-môn, ông hãy múa!

Xá-lợi-phất nói với đồng tử:

–Các người hãy lắng ghe! Điều trước kia chưa nghe nay sẽ khiến cho các người nghe!

Rồi liền vì các đồng tử, nói kệ:

Các nhập đáng buồn chán
Chỗ chết thường dối ta
Ta nay đã chán ghét
Hết biên tế nhập ấy.
Các ấm đáng chán xa
Chỗ chết thường dối ta
Ta nay đã chán ghét
Hết biên tế ấm ấy

Xá-lợi-phất vì các đồng tử ma nói kệ này rồi, liền nói chú:

Đa điệt dã tha (1) Bà ha la (2) Bàha la (3) Bà la (4) Bà la (5) Mạt lợi chi bà ha (6) Tát già bà ha (7) A ma bà ha (8) Tát bà ha (9).

Lúc Tôn giả Xá-lợi-phất ở trong tiếng ca nói kệ và Đà-la-ni như vậy; đồng tử của Ma vương, gồm năm trăm người… nghe pháp âm đó, đều được cái chưa từng có, nên hết sức vui mừng, tín tâm thanh tịnh, hướng về Xá-lợi-phất, nói kệ:

Chánh đạo, chúng con nay sám hối
Thân thiện nói lên, vì thế gian
Nói ấm đáng sợ, dạy lìa bỏ
Khiến con ở đây thường chứng kiến.

Đồng tử ma nói kệ đó xong, rập đầu xuống đất, làm lễ dưới chân Tôn giả, liền ở giữa đường, cùng ngồi nghe pháp. Lúc bấy giờ, Tôn giả Đại Mụckiền-liên sắp vào đại thành Vương xá khất thực, ở cửa hướng Đông, thấy năm mươi đồng tử, Tôn giả ở trong ca âm, nói kệ như vầy:

Các giới đáng lìa chán
Chỗ chết luôn dối ta
Ta nay đã chán ghét
Bờ cõi giới tận cùng.
Các thọ đáng buồn chán
Chỗ chết luôn dối ta
Ta nay đã chán ghét
Bờ cõi thọ tận cùng.
Tư duy đáng chán ghét
Chỗ chết luôn dối ta
Tư duy ta đã chán
Cõi tư duy tận cùng.
Các tưởng đáng xa lìa
Chỗ chết luôn dối ta
Ta nay đã xa lìa
Bờ cõi tưởng tận cùng.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, ở trong tiếng ca, nói kệ đó rồi, lại nói chú:

Đa điệt dã tha (1) A ma bà (2) A ma bà (3) A ma bà (4) A ma bà (5) A la xà (6) La noa xà ha (7) Xa niệu tha (8) Xa niệu tha (9) Xa niệu tha (10) Tha già na bà ma (11) Ta bà ha (12).

Lúc Trưởng lão Đại Mục-kiền-liên vì đồng tử, nói kệ và Đà-la-ni như vậy, năm mươi đồng tử vui mừng số một, sinh lòng tịnh tín, nói kệ:

Đầy đủ mật thần thông
Con Mâu-ni Thánh Chủ
Đường sinh tử lỗi lầm
Đèn pháp chiếu bày khắp
Các lỗi ác đoạn tan
Nên con sinh tín lạc
Nay đã quy ý Phật
Cũng quy y Pháp, Tăng.

Khi ấy, năm mươi đồng tử ma, ở giữa hư không, liền làm lễ sát chân Tôn giả Đại Mục-kiềnliên, rồi ngồi ở trước Tôn giả, đoan chánh dung nghi, nghe pháp.

Bấy giờ, Trưởng lão Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, từ cửa Bắc vào thành khất thực, cho đến giữa đường, theo tiếng xướng ca của các đồng tử kia; Trưởng lão ở tiếng ca, nói kệ:

Các xúc đáng xa lìa
Chỗ chết luôn dối ta
Ta nay chán xúc đó
Bờ cõi xúc tận diệt.
Các căn thủ tăng thượng
Chỗ chết luôn dối ta
Ta nay chán tăng thượng
Bờ tăng thượng tận diệt.
Hoặc nghiệp thường lưu chuyển
Chỗ chết luôn dối ta
Ta nay chán hoặc nghiệp
Dứt bờ cõi hoặc nghiệp.
Các cõi đáng xa lìa
Chỗ chết luôn dối ta
Ta nay chán các cõi
Hết ranh giới các cõi.

Tôn giả Phú-lâu-na ở trong tiếng ca, vì đồng tử ma, nói kệ rồi, bảo các đồng tử:

–Mạng người chóng mất, khó có thể bảo trì, giống như nước trên núi, tuôn xuống chảy nhanh, mạng người còn rất nhanh hơn việc đó. Kẻ phàm phu ngu si, đều chẳng hay biết. Lại nữa, này các đồng tử! Tất cả phàm phu bị say rượu, nên không hay biết, sắc bị say rượu nên không hay biết, thanh bị say rượu nên không hay biết hương; bị say rượu nên không hay biết. Vị bị say rượu nên không hay biết xúc. Lại nữa, này các đồng tử! Mạng người rất nhanh chóng, như nước trên núi chảy xuống kia. Phàm phu ngu si đều chẳng thấy biết! Bị say rượu, pháp không hay biết; bị say rượu, ấm không hay biết; bị say rượu giới không hay biết; bị say rượu đồ ăn nhiều không hay biết; bị say rượu, vui không hay biết, bị say rượu, sinh không hay biết, bị say rượu dục không hay biết. Lại nữa, này đồng tử! Mạng người rất nhanh chóng như nước trên núi tuôn chảy nhanh. Mạng người rất nhanh so với nước đó, kẻ phàm phu ngu si đều chẳng thấy biết, cho đến tất cả tình, thức, thủ, trước đều là rượu làm cho mê say; mà đều chẳng thấy biết!

Tôn giả Phú-lâu-na liền vì các Đồng tử nói chú:

Đa điệt dã tha (1) Yết già bà (2) Yết già bà (3) Yết già bà (4) Môn trí ni (5) A phạt đa (6) Tỳ phạt đa (7) Khư phạt đa (8) Bạt la ma a la tha (9) Thù để phạt đa (10) Ta bà ha (11).

Khi Trưởng lão Phú-lâu-na, ở trong tiếng ca, vì đồng tử mà nói kệ và đạt Đà-la-ni này; thì năm mươi đồng tử đó, hoan hỷ số một, sinh lòng tịnh tín, nói kệ như vầy:

Tôn giả dạy con đạo tịch diệt
Các cõi như huyễn như ánh lửa
Thế gian chỉ từ phân biệt sinh
Nên thân mạng con nương Tam bảo.

Lúc ấy, năm mươi đồng tử ma, ở ngay giữa đường làm lễ sát chân Tôn giả Phú-lâu-na và ngồi trước Tôn giả, đoan chánh, dung nghi, nghe pháp.

Lúc bấy giờ, Trưởng lão Tu-bồ-đề, ở cửa Tây thành Vương xá, theo thứ lớp khất thực. Giữa đường, gặp gỡ năm mươi đồng tử của Ma vương, tuổi hoa đẹp đẽ, nhan sắc đoan chánh, dung nghi nhã nhặn, tướng đại nhân tử, cùng nhau đùa giỡn ở giữa đường, vừa ca múa vừa đi. Chúng thấy Trưởng lão Tu-bồ-đề, liền rảo bước đi đến, cùng bắt lấy hai tay của Tôn giả và nói:

–Nào Sa-môn, ông hãy ca! Nào Sa-môn, ông hãy múa!

Trưởng lão Tu-bồ-đề nói:

–Này đồng tử! Hãy lắng nghe! Tiếng ca trước, các người đã chưa nghe thì ta sẽ làm cho các người nghe! Các người hãy lặng yên mà nghe tiếng ca của ta.

Trưởng lão Tu-bồ-đề liền vì các đồng tử, nói bài kệ:

Tất cả pháp Hữu vi
Tính động đều vô thường
Như bọt, ánh lửa, huyễn
Tuy thấy, bất khả đắc.
Pháp sinh diệt mau chóng
Chỉ người trí mới biết
Xúc thọ là gánh khổ
Người ngu si dính mắc.
Khổ hữu vi bức bách
Tất cả đều vô ngã
Lại không một hiểu biết
Khiến giải thoát các khổ.
Như tin Bồ-đề đạo
Thân gần tu nhất tướng
Tức lìa các pháp tưởng
Vô ngã và bất tịnh.
Tất cả hành tương ưng
Không thật, không tánh tướng
Các pháp không nuôi mạng
Không người, không tác giả.
Người bỏ ý ma siểm
Giác ngộ sinh tịnh tín
Các thức nương gốc khởi
Như chớp nhờ hư không.
Xúc, thọ tư vô ngã
Quán sát không có thật
Phàm phu khối ngu si
Ấm này thường lưu chuyển.
Tịnh tâm sinh phân biệt
Tác giả bất khả đắc
Chân tế, tịch diệt, không
Lìa tất cả bờ mé.
Pháp này, không, vô minh
Nên nói Bồ-đề hạnh
Như bậc thầy lái thuyền
Chở đến Bồ-đề đạo.

Trưởng lão Tu-bồ-đề, vì đồng tử, nói bài kệ này rồi, liền nói chú:

Đa điệt dã tha (1) Tô văn đệ (2) Tỳ văn đệ (3) Văn đà (4) Xà ê (5) Tứ ly (6) Tứ ly (7) Tứ ly (8) A bà tứ ly (9) A bà ha tứ ly (10) Đa tha đa bà tứ ly (11) Bộ đa câu chi tứ ly (12) Ta bà ha (13).

Khi Trưởng lão Tu-bồ-đề, vì các đồng tử, ở trong tiếng ca, nói bài kệ và câu Đà-la-ni này; thì năm mươi đồng tử đó, vui mừng số một, sinh tâm tịnh tín, nói kệ:

Con nương ác tri thức
Pháp này chưa từng nghe
Vì ngu si vô trí
Tạo nên ác nghiệp này.
Con nay xin sám hối
Nguyện xin chứng tri con!
Ngài sinh từ Thắng pháp
Nay con phát đại nguyện:
Nguyện con được làm Phật
Ích lợi khắp thế gian.

Năm mươi đồng tử, ở giữa đường, liền làm lễ sát dưới chân Trưởng lão Tu-bồ-đề, rồi ở trước mặt Trưởng lão, ngồi đoan chánh mà nghe pháp.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng sức thần thông, vì họ mà thị hiện, khiến cho đường này rộng rãi hàng trăm do-tuần. Tôn giả Xá-lợi-phất ngồi ở mặt Nam, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ngồi ở mặt Đông, Tôn giả Phú-lâu-na ngồi xoay mặt ở hướng Bắc, Trưởng lão Tu-bồ-đề ngồi hướng Tây. Chỗ ngồi của bốn người cộng lại, là nửa dotuần. Ngay tức thời, trong lòng đất, ở chỗ ngồi của bốn vị đại Thanh văn, hiện ra hoa sen lớn, ngang dọc bằng nhau, độ năm mươi khủy tay. Cành hoa là vàng Diêm-phù-đàn, lá hoa là lưu ly xanh, tua hoa là thắng tạng bảo, nhị hoa là trân châu, mùi hoa thơm phức hơn cả hương của trời. Như vậy, hoa sen này, phát xuất từ căn lành của thế gian mọc ra. Từ hoa sen này, phát ra ánh sáng lớn, soi khắp tam thiên đại thiên thế giới. Ở ngã đường đó, hoa ấy thị hiện vọt lên cao chừng ba thân người. Hoa sen này hiện ra cho đến trời Tứ Thiên vương; vì cõi trời đó cao chừng năm dotuần mà thị hiện. Cho đến trời Tam thập tam, hoa này cũng hiện ra; vì cõi trời đó, cao chừng một trăm do-tuần mà thị hiện. Cho đến trời A-ca-nitrá, hoa này cũng hiện ra, do cõi trời đó cao chừng nửa do-tuần mà thị hiện. Ở trong lá hoa sen, tuyên bày đủ thứ câu nghĩa mỹ diệu. Chúng sinh đất này và chư Thiên kia, đều nghe trong hoa, bài kệ tụng như thế này:

Chỉ Phật thanh tịnh sinh cõi này
Phá dẹp Ma vương cùng quân chúng
Phật dũng mãnh chuyển bánh xe pháp
Nhân đây cõi thế không nghi nan.
Những người thông tuệ giải nghĩa luận
Biết pháp, cầu pháp, cầu giải thoát
Tất cả thế gian người thông suốt
Ưu-ba-câu-lợi là trên cùng.
Đây là Đạo sư đã điều phục
Khéo nói đại pháp vi diệu này
Tất cả thế gian dâng lên cúng
Cúng dường Mâu-ni hay thuyết giảng.
Đủ trí ba đời hay khéo nói
Sở học ba học thường mở bày
Người, trời thế gian hay cứu độ
Khiến rõ biết vô lượng pháp nghĩa.
Dạy làm thiện, lợi ích thế gian
Đèn trí phương tiện chiếu thế gian
Khéo nói diệu pháp đoạn ba cấu
Trí tuệ lợi ích không mỏi mệt.
Cực khổ thế gian, khiến giải thoát
Vô minh che tối các chúng sinh
Thường ban mắt pháp chẳng điên đảo
Tất cả đại chúng hội tập xong.
Chốc lát Phật rống tiếng sư tử
Như Lai tuyên bày Đệ nhất nghĩa
Lực diệu sắc dần dần nói đủ
Thấy đời chìm nổi biển khổ lớn.
Đến chỗ thế gian, đánh trống pháp
Trong sáu căn hộ, trụ thượng hộ
Sáu tùy hành, sáu thông tri này
Phật nói Sáu độ là thượng pháp.
Quyết định nói sáu chủng tử ấy
Giết sáu căn người ở thôn dã
Đã nghĩ đến sáu việc vô thượng
Phật Điều Ngự Sư, khiến họ niệm.

Ở trong hoa sen nói kệ đó rồi. Cho đến chư Thiên Lục dục, cũng trong hoa sen, vì chư Thiên nói kệ:

Các người sống hòa hợp
Vui chấp, tham, các dục
Mê say lòng buông thả
Lọng ái chỗ che lấp.
Ngu si thường vui chấp
Say mèm rượu các dục
Do sự buông lung đó
Chẳng cúng dường Thiện Thệ.
Các dục; vô thường, hoại
Như vầng trăng đáy nước
Sinh tử trói buộc chắc
Chúng sinh khó giải thoát.
Các người không chỗ nương
Buông thả đắm các dục
Do ưa thích các dục
Mãi chẳng được Niết-bàn.
Thường ở đất buông lung
Cùng diệt chẳng tương ưng
Chẳng thấy trước việc làm
Là tịnh, là bất tịnh.
Vì nghiệp chịu già chết
Sợ hãi thường vây quanh
Các người vì buông lung
Nên hành đất ba ác.
Dùng thí điều phục tâm
Luôn tu, chẳng buông thả
Trước đã làm nghiệp lành
Nên phải siêng gìn giữ.
Nhớ bỏ dục bất tịnh
Bến bờ sau khó được
Các người nương Thiện Thệ
Được nghe nói nghĩa lớn.
Các người tu trí tuệ
Giải thoát tịch diệt nhân
Cùng diệu pháp tương ưng
Nghe đại nghĩa như vậy.

Trong hoa sen nói kệ đó xong. Cho đến mười sáu trời cõi Sắc, cũng ở trong hoa sen, lại vì chư Thiên, nói kệ:

Phân biệt thiện pháp, siêng tu tập
Một lòng tham thiền, lìa rối loạn
Tịch tĩnh, chẳng loạn, cầu giải thoát
Tuệ đã ứng, làm dứt sân nhuế.
Sở hữu ngã tướng, mười ba thứ
Phân biệt vì nói tu thắng nhẫn
Do đấy rốt cùng mau giải thoát
Được đến chỗ giải thoát tử sinh.
Ham thích sắc tụ, nên phân biệt
Tính “Ngã” kiến cố, thấy sáng bừng
Pháp sở sinh bọn kia chẳng giảm
Do thấy các đường ác luân chuyển.
Quán sát ba cõi thường vô ngã
Không thật, không tự (tánh), không, vô tác
Phân biệt tùy thuận họ tu nhẫn
Được vậy giải thoát tất cả nẻo.
Bọn kia chẳng già, chẳng bệnh chết
Không oán ghét nhau, lìa đường ác
Các pháp bình đẳng như hư không
Chỗ tu tương ưng chẳng phân hai.
Đạo tịnh rốt ráo tối vô thượng
Ý không chấp trước các căn tịnh
Giống như Thích tử hàng bốn ma
Nên tu vô tướng, một pháp tánh.
Mọi tướng sở hữu đều lìa khỏi
Điều thuận oai nghi đoạn hai thứ
Đạo này vì họ nói tối thượng
Phân biệt tu, tất cả pháp: Không.
Nếu hay phân biệt tu không ấy
Không chủ, không tác, thọ cũng không
Như tự tánh không, rõ Bồ đề
Xa lìa mong cầu Tối vô thượng.

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai, ở trong đài hoa sen diệu sắc đó; khi phát ra đại âm pháp nghĩa ấy thì trong thế giới này, tất cả Nhân phi nhân… đều đến giữa đường ấy, nhiễu quanh tòa sen, cho đến vô lượng, vô số trời A-ca-ni-tra đều từ Thiên cung xuống, đi quanh tòa hoa sen, chiêm ngưỡng, thính pháp. Lúc đó, Ma vương nghe bài kệ này rồi, quan sát giáp vòng khắp đại thành Vương xá, thấy hoa sen giữa đường, phát ra âm thanh pháp này và thấy vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha người vây quanh hoa sen, cùng ngồi nghe pháp. Ma vương lại thấy chư Thiên cõi Lục dục nhiều vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha... Tất cả chư Thiên đều bỏ cung điện, xuống ngồi vây quanh hoa sen mà nghe pháp. Nghe thấy thế rồi, Ma vương lòng lại chuyển biến hơn trước, lòng rất lo buồn, sám hối, tâm trói buộc, run rẩy dựng tóc gáy, toàn thân toát mồ hôi, chạy trong hư không, dùng âm thanh lớn, kêu gọi ma chúng còn bằng nói bài kệ:

Các ông hãy nghe!
Khéo nhiếp ngoại ý
Ở cảnh giới ta
Không lực tự tại.
Đây mới Thích-ca
Tối thượng thắng lực
Hành công đức rộng
Ban rải thế gian.
Khiến chúng sinh đó
Sở tác vững bền
Ở đài hoa sen
Phát ra tiếng pháp.
Người, trời, các con
Đến hết không còn
Nhất định người tốt
Đều phải khát ngưỡng.
Một lòng Thiện Thệ
Theo tịch diệt đạo
Công đức trên cùng
Đệ nhất vô thượng.
Việc làm Sa-môn
Ba cõi này huyễn
Mê hoặc tất cả
Khiến ý vô dư.
Đại chúng, trời, người
Vây quanh hoa sen
Chóng tuôn mưa đá
Tạo tiếng khủng bố.
Để chúng ma hung
Đến đó phá hoại.

Lúc bấy giờ, những ma còn lại, đối trước Ma vương kia, nói kệ:

Ngài nghe lời chúng tôi
Lời này đem lợi ích!
Ngài biết những pháp gì?
Mà chẳng dừng ý ác!
Lực Như Lai thắng tri
Tiêu diệt hết quân ma
Thấy Thiện Thệ! Chúng tôi
Biết lòng mê muội lớn
Phật là Đại Thiền Sư
Dáng vẻ thật tròn đầy
Theo Phật khéo quay về
Không chỗ nương nào hơn.

Lúc bấy giờ, lại có ma khác, đối trước Ma vương kia, cử động thân thể, mặt mày rầu rĩ, buồn khóc, giận dữ nói kệ:

Ngài mất thiện đạo, trụ ác đạo
Nên chẳng tự biết năng lực mình
Ngài không hổ thẹn sánh Đạo sư
Ma lực đã bị Phật lực diệt
Chỗ hoa sen, thế gian hòa hợp.
Nghe pháp vui vẻ thân thanh tịnh
Chúng tôi thân bẩn, mất tinh tấn
Chẳng đi, trong sát-na tiêu tán
Hôm nay tất cả đều quay về
Quy y Mâu-ni Nhân-đà-la.

Lúc ấy, lại có ma khác, chắp tay hướng về Ma vương, nói kệ:

Ngài bỏ pháp hạnh, ưa làm ác
Phật làm chỗ dựa, lợi thế gian
Ở trong các chúng, Phật thắng chúng
Phật nay đến đây, ở thành này.
Chúng tôi phải dùng mắt thanh tịnh
Đem lòng vui mừng mau đến đó
Quy y Đấng Chí Tôn ba cõi
Lương dược vi diệu, của chúng sinh.

Khi đó, trong hư không, lại có một ma, tên là Trí Thanh, hướng về Ma vương kia, cao giọng nói kệ như vầy:

Các ngươi hòa hợp nhờ tín lạc
Nghe lời ta, tất cả tương ưng
Phát ý, ngôn, hành, đoạn ác kiến
Cúi mình chắp tay bỏ sân nhuế.
Để lòng tỉnh ngộ, nên tinh tấn
Tùy hỷ Như Lai thuyết tối thượng
Đối Phật quy y, quy khó được.
Hôm nay tôi phải tín cúng dường.

Bấy giờ, các ma nhiều vô lượng, vô biên, trong khoảnh khắc sát-na, từ hư không hạ xuống, đến cửa thất bảo của đại thành Vương xá. Chúng đều cầm vật cúng dường trang nghiêm, đi đến chỗ Phật, cúng dường Đức Thế Tôn. Hoặc có ma, biến làm hình dáng vua Chuyển luân; hoặc có ma biến làm hình dáng vua Phạm thiên. Hoặc có ma là hình dáng Ma-hê-thủ-la; hoặc có ma biến làm hình dáng trời Tự tại; hoặc có ma, biến làm hình dáng Na-ladiên; hoặc có ma, biến làm hình dáng trời Đâusuất-đà; hoặc có ma, biến làm hình dáng trời Diệmma; hoặc có ma, biến làm Thích Đề-hoàn Nhân; hoặc có ma, biến làm trời Tam thập tam; hoặc có ma, biến làm hình dáng đồng tử. Hoặc có ma, biến làm hình dáng Tỳ-sa-môn; hoặc có ma biến làm Tỳ-lâu-lặc-xoa; hoặc có ma biến thành Tỳ-lâu-bácxoa; hoặc có ma biến làm Đề-đâu-lại-tra; hoặc có ma, biến làm hình dáng tả thần trời của Tứ Thiên vương; hoặc có ma biến làm hình dáng Thiên tử Nhật; hoặc có ma biến làm hình dáng Thiên tử Nguyệt; hoặc có ma, biến làm hình dáng lớn nhỏ của Thiên tử tinh tú; hoặc có ma, biến làm hình dáng A-tu-la; hoặc có ma, biến làm hình dáng Giàlâu-na; hoặc có ma, biến làm hình dáng Khẩn-nala; hoặc có ma, biến làm hình dáng Ma-hầu-la-già; hoặc có ma, biến làm hình dáng núi báu; hoặc có ma, biến làm hình dáng vàng tụ; hoặc có ma, biến làm hình dáng đủ thứ báu; hoặc có ma, biến làm hình cây báu; hoặc có ma, biến làm hình dáng Sátđế-lợi; hoặc có ma, biến làm hình dáng ngoại đạo khác; hoặc có ma biến làm hình Luân bảo; hoặc có ma, biến làm hình báu Ma-ni; hoặc có ma, biến làm hình voi báu Y-la-ba-tra; hoặc có ma, biến làm hình ngựa báu Bà-la-ha; hoặc có ma, biến làm hình dáng người con gái báu; hoặc có ma, biến làm thần bảo chủ tạng; hoặc có ma, biến làm thần báu Chủ binh. Đủ thứ hình dáng như vậy, ma đều tự biến hóa; vì cúng dường, nên trụ ở trước Đức Phật. Hoặc có ma, hiện ra màu xanh thân xanh, dùng đồ màu trắng trang nghiêm thân mình. Chúng đều cầm lọng báu cờ phước đỏ và các chuỗi ngọc trân châu, trụ ở trong hư không, cao chừng một cây Đala. Hoặc có ma, hiện sắc trắng thân trắng, dùng đồ màu đỏ trang nghiêm thân mình. Chúng đều cầm lọng báu, cờ phướn vàng và chuỗi hột, an trụ trong hư không. Hoặc có ma, hiện sắc đỏ thân đỏ, dùng áo vàng trang nghiêm thân mình. Chúng đều cầm lọng báu, cờ phước xanh đứng la liệt thành hàng lối. Hoặc có ma, hiện lên màu hồng thân hồng, mưa xuống trân châu màu trắng. Hoặc có ma, hiện màu trắng thân trắng, mưa xuống trân châu hồng. Hoặc có ma, hiện làm sắc tiên trời, trụ trong hư không, mưa xuống đầy hoa. Hoặc có ma, biến làm hình tượng Thanh văn, cúng dường Đức Phật, nên ở trên hư không, mưa xuống đủ thứ hương trời. Hoặc có ma, hóa làm sắc Càn-thát-bà, tấu lên những loại nhạc trời. Hoặc có ma, biến làm sắc Thiên nữ, dùng đủ thứ dụng cụ báo tưới nước thơm xuống đất. Hoặc có ma, biến làm sắc vàng đen bóng, đốt đủ thứ hương thơm. Hoặc có ma, biến làm hình dạng các Thiên tử ca xướng vui múa. Hoặc có ma, biến làm màu sắc đủ thứ, chắp tay chiêm ngưỡng khen ngợi Đức Như Lai. Hoặc có chúng ma, tùy theo phương tiện của Đức Phật, mà nhất tâm chiêm ngưỡng, đều mang đủ thứ báu Ma-ni, cúng dường Đức Thế Tôn. Hoặc ở đường ngã tư, trên cửa sổ lớn nhỏ của các cung điện, lầu các, giảng đường, trên đài cửa khuyết, bên bốn thềm đường, trên tường cao, tường thấp, ô cửa, trên cây, trên bao lơn đều tùy theo chỗ đứng, mà chắp tay chiêm ngưỡng, cúng dường Đức Như Lai.

QUYỂN 4

Phẩm 3: MA VƯƠNG QUY PHỤC (tt)

Lúc bấy giờ, Ma vương thấy tất cả ma chúng sở hữu ấy, đều cùng quyến thuộc, quy y Đức Như Lai. Ma vương càng thêm sân giận hơn trước, kinh sợ mê loạn, cất tiếng buồn khóc, nói kệ như vầy:

Ta mất thắng uy đức
Không có ai đỡ đần
Sa-môn thần thông thắng
Đoạt cõi ma ta rồi!
Phải cố tìm phương tiện
Nghĩ việc làm sau này
Chặt đứt rễ hoa sen
Khiến các phương chúng tan
Rễ hoa sen đã đoạn.
Khiến đại chúng mê loạn
Nếu chúng đã mê loạn
Thì sức ta thỏa nguyền.

Khi Ma vương nói kệ đó xong, những điều suy nghĩ, giống như gió bão, từ trên không hạ xuống, đến con đường có hiện hoa sen kia; tiến tới trước, muốn nhổ bật hoa sen lên. Do Phật lực, nên nó chẳng thể nào chạm đến hoa, huống gì là nhổ lên được! Đã chẳng thể nhổ lên, ma lại muốn tóm lấy cánh hoa sen, gây tổn hại đài hoa, nhưng chẳng thể tổn hại được. Ma liền muốn cất tay từ xa, đánh vào hoa đó. Lúc này, Ma vương thấy hoa sen đó như chớp, như bóng, tuy ở trước mắt, nhưng chẳng thể làm tổn hại. Ma vương đã dùng hết thần lực của mình, với đủ mọi hành động đối với hoa sen kia, nhưng rốt cuộc, chẳng thể tổn hại được. Ma lại muốn kinh động tất cả đại chúng, liền phát ra tiếng to lớn, đáng sợ, nhưng rồi tiếng cũng chẳng phát ra được! Ma lại hiện uy mãnh, dùng thế lực lớn, tập trung vào hai tay, vỗ xuống đại địa, khiến cho mặt đất chấn động. Khi đó, đại địa giống như hư không, thậm chí chẳng thể dùng tay sờ chạm làm sao có thể khiến cho lay động! Ma vương thấy đại địa này, chẳng thể chạm được, lại sinh ý niệm: “Chúng sinh hôm nay, có trong đại hội này, ta sẽ đánh họ, khiến cho lòng họ rối loạn.” Khi khởi lên ý niệm đó thì ma chẳng còn thấy, có một chúng sinh nào để có thể được, có thể chạm, huống gì là có thể gia hại, bức bách. Nhờ lực của Đức Phật, nên có tướng như vậy. Lúc đó, Ma vương càng trở nên ưu não, toàn thân lắc lư, lay động như cây gặp gió lớn, phát ra tiếng gào khóc bi hận, rơi nước mắt; quan sát khắp bốn phương, nói kệ:

Sa-môn dùng huyễn lực
Nhiếp lấy các thế gian
Ta nay lòng u tối
Trong giây lát mê loạn.
Cảnh giới, lực, công đức
Mà ta đã có được
Sa-môn dùng huyễn lực
Xâm đoạt hết tất cả.
Ta nay bị bỏ mặc
Phải mau trở về cung
Nếu chẳng đi, thậm chí
Thọ mạng chẳng kịp nữa.

Lúc bấy giờ, Ma vương rất muốn trở về cung. Tuy sinh ý niệm đo, nhưng lại chẳng thể đi, Ma vương càng thêm kinh sợ, khóc lóc rồi khởi ý niệm này: “Ta nay, đối với thần thông này, đã hết vì sức tự tại của ông Cù-đàm vậy. Không lẽ, lại ở trước kẻ oán gia đó, khiến cho ta tận mạng sao?” Ma lại khởi ý niệm này: “Ta nay có thể lén ra ngoài cõi Phật Ta-bà này. Ta thà chết ngoài đó, chứ không muốn ở cõi trong Phật này, có một chúng sinh thấy ta chết.” Khi khởi lên ý niệm đó; thì ma chẳng thể rời khỏi một phương hướng nào, làm sao có thể lén đi. Ma tức thời, tự thấy bị năm trói buộc, càng trở nên kinh sợ, nóng giận, cất cao tiếng buồn khóc; lại nói lên lời này:

–Hỡi các con yêu và các thân thuộc! Lại chẳng thể thấy nhau rồi.

Bấy giờ, có ma tên là Trí Thanh, tự biến thân làm hình dáng vua Chuyển luân, hướng về Ma vương, nói kệ như vầy:

Ý ông sao lo lắng
Sinh bi não gào than
Bậc thế gian tối thượng
Như Lai là trên cùng.
Phật là Vô sở úy
Phải mau cầu nương về
Cứu hộ các thế gian
Như đèn soi các nẻo.
Kẻ quy y nhờ cậy
Rốt cùng thoát ba khổ
Như Lai, nếu thân cận
Sẽ được vui Niết bàn.

Ma vương nghe liền khởi lên ý niệm như vầy: “Nếu ta theo lời nói của Trí Thanh đó, đối với Samôn Cù-đàm, phải quy y; thì những ràng buộc của ta sẽ được giải thoát.” Lúc đó, Ma vương mới hướng về Đức Phật, cúi mình, chắp tay, nói:

–Nam-mô Đấng Trượng Phu Vô thượng trong loài người, Đức Phật có thể giải thoát già bệnh chết. Con nay xin quy y.

Khi đó, Ma vương đọc kệ:

Trói buộc này hiểm, đáng sợ lắm
Con cầu Thiện Thệ, mau quy y
Về nương Như Lai được giải thoát.
Nay mới nương về chúng đệ nhất
Con do si mù, giận Chánh Giác
Đã tạo tội lỗi đến cực cùng
Nay y lời Phật, con sám hối
Trước mắt tôn Phật làm chứng minh.

Lúc bấy giờ, Ma vương theo lời của Thiện trượng phu Trí Thanh, ở trước Đức Phật quy y Đức Thế Tôn. Ngay tức thời Ma vương tự thấy thân mình được cởi trói. Đã được giải thoát, Ma vương lại tự nghĩ: “Muốn trở về chỗ ma, trụ ở cung” liền tự thấy thân lại bị năm trói buộc, phải ở lại trong chúng này, không thể đi về chỗ của mình. Ma vương tức thời lại quy y Đức Như Lai. Khi phát sinh ý niệm này, Ma vương liền ở bên Đức Phật, lại được giải thoát. Ma vương hề khởi ý niệm muốn đi thì liền thấy bị trói buộc. Ma vương phát sinh ý niệm trụ lại thì liền thấy giải thoát. Cứ như vậy, như vậy cho đến bảy lần trói buộc, giải thoát. Ma vương tự biết không thể làm gì được, liền ở bên Đức Phật, mặc nhiên an tọa.

Phẩm 4: ĐẠI TẬP

Bốn vị đại Thanh văn kia, vào đại thành Vương xá khất thực, gặp các đồng tử ma nắm tay các Thanh văn, cùng đi lên đường lớn. Chúng mời bốn vị Sa-môn ca múa, phi pháp. Các vị đại Thanh văn nhân trong tiếng ca, đã vì chúng nói đạo cú tương ứng với Niết-bàn. Bấy giờ, ở trong khoảnh một sátna, đại địa chấn động. Như vậy, có vô lượng trăm ngàn Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già từ trước đã ở trong lời Phật dạy, được niềm tin thanh tịnh, mắt rơi lệ, nói kệ:

Đạo Sư Tối thượng, đời hiện tại
Ở trong Thánh giáo, nổi ác quái
Nhục Thanh văn kia, khiến đời thấy
Làm sao chúng sinh có niềm tin?

Bấy giờ, có vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dotha Trời, Rồng, Dạ-xoa, La-sát mặt mày đẫm lệ, kéo nhau đến chỗ Đức Phật. Đến rồi, ở trước Đức Phật, họ nói kệ như vầy:

Thánh giáo hiện tại đây
Hôm nay phải khéo quán
Kẻ trí chớ buông bỏ
Vì hộ chánh pháp này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Ta nay tự đến chỗ ma ấy
Khiến chúng ma quân đều hàng phục
Phải làm Đạo sư mọi cõi thế
Dạy họ hướng về thành Niết-bàn.

Khi ấy, tất cả đại chúng, khác miệng đồng âm, nói lên như vầy:

–Kính thưa Thế Tôn! Chớ đi! Chớ có đi! Đức Thế Tôn trước đã nói, chư Phật là chẳng thể nghĩ bàn; cảnh giới chư Phật là chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới ma chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới rồng chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp và cảnh giới nghiệp là chẳng thể nghĩ bàn. Như vậy, trong tất cả các cảnh giới chỉ có cảnh giới của Phật là tối thắng, không gì có thể bì kịp. Nguyện xin Đức Thế Tôn, chớ đứng lên khỏi chỗ ngồi này, khiến cho vô lượng câu-chi na-do-tha các chúng ma quân tự nhiên hàng phục, lại còn có thể khai thị vô lượng trăm ngàn na-do-tha các pháp, ấm, giới làm khô kiệt biển phiền não, hoại tan các lưới kiến, có thể khiến cho vô lượng na-do-tha chúng sinh vào biển trí tuệ. Thưa Thế Tôn! Ngày hôm nay chẳng phải là lúc ra đi.

Đức Phật nói:

–Chúng sinh có được trong tất cả cõi chúng sinh, mà tất cả chúng sinh đó, đều biến làm ma hết cho đến cả đại địa, đều thành vi trần hết; rồi mỗi một vi trần lại biến làm ma. Lực của tất cả ma đó muốn đến hại ta thì chẳng thể động đến một sợi lông của ta, làm sao có thể làm tổn hại một phần thân thể này của ta. Ta ngồi ở tòa này, cũng có thể thắng vô lượng câu chỉ na-do-tha ma. Lại cũng có thể điều phục chúng, chỉ với quyến thuộc của ma, khó có thể điều phục. Tuy nhiên, ta nay sẽ đi đến, vì sao? Vì ma này dùng sức thần thông, ở thành Vương xá, đã biến đủ các thứ đồ nghiêm sức, cúng dường ta. Thương xót chúng, nên nay ta thọ lấy, khiến cho lòng ma đó, có thể phát khởi sự vui mừng đệ nhất hiếm có và sinh ra niềm tin thanh tịnh, sẽ gieo hạt giống căn lành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi Đức Thế Tôn nói lời đó xong muốn đứng dậy, vị trời hộ trì rừng trúc tên là Đoan Chánh, đi đến chỗ Đức Phật, rơi lệ ràn rụa, nói kệ:

Thưa Đức Phật, hôm nay
Chẳng phải lúc vào thành.
Thành này rất rộng lớn
Ma chúng đều đầy tràn.
Mỗi một ma như vậy
Mang ác nặng trong lòng
Đều cùng ức ngàn chúng
Muốn vây quanh Thế Tôn
Lửa sân đều rực cháy
Ý độc chuyển loạn cuồng
Nắm giữ binh khí nhọn
Tranh nhau hại Thế Tôn.
Nguyện xin Thích Sư Tử
Cẩn thận chớ nên sang
Hoặc sẽ bị mất mạng
Chúng con mất chỗ nương.

Đức Thế Tôn nghe xong, mặc nhiên chẳng đáp, liền đứng lên khỏi pháp tòa. Có vị trời hộ Già-lam tên là Trì Tuệ, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nói kệ:

Ác ma đại tướng có trăm ngàn
Mạnh mẽ cầm binh khí tinh ròng
Thuần mang ác tâm đứng chờ Phật
Thưa Đấng Mâu-ni, nay chớ sang!

Đức Thế Tôn nghe rồi, lặng lẽ chẳng đáp, sắp rời khỏi Già-lam thì có vị trời coi về thuốc, tên là Thành Tuệ, đầu mặt lễ sát chân Phật, nói kệ:

Ô hay! Mất Chánh Giác
Pháp môn sẽ bị hoại
Thuyền pháp chốc lát đắm
Đèn tuệ chợt tối đen
Thế gian pháp vị giảm
Giặc phiền não đầy tràn.
Ở trong các cõi giới
Tự tại con không thiếu
Pháp tối thượng hoại tan
Sao có thể gìn giữ!

Quân ma kia rất đông
Trụ ở trong pháp ác
Dao gậy bén chúng cầm
Lòng độc tranh hại Phật.
Thiện Thệ nghe lời con
Vì lợi cho cõi thế
Nguyện xin Thập Lực Tiên
Chớ bước vào thành đó.

Đức Thế Tôn nghe rồi, mặc nhiên chẳng đáp, sắp rời khỏi Già-lam, bên trong cửa lớn, có một vị Thọ thiên tên là Trì Thế ở trước Đức Phật, cả buồn khóc lóc, đem thân gieo xuống đất, hướng về Đức Phật làm lễ, nói kệ:

Nương cậy ba cõi nên mất mắt
Sở dục đầy ý sẽ hoại tan
Trong không đao, tên như rắn độc
Dò tìm hại Phật, xin chớ sang.

Đức Thế Tôn nghe rồi mặc nhiên chẳng đáp. Bấy giờ, trời giữ cửa lớn tên là Thủy Quang cất tiếng gào khóc, đầu mặt sát đất, đảnh lễ dưới chân Đức Phật mà nói kệ:

Trong thành lừng danh Đại phạm chí
Cầm gậy Nguyệt đao chờ Thế Tôn
Cùng hai vạn kẻ mang độc hại
Ở tại thành này, xin chớ sang.

Đức Thế Tôn nghe rồi, lặng thinh chẳng đáp lại. Khi Phật sắp vào cửa thành Vương xá, trời giữ cửa của thành đó, tên là Đa-ma-la Thọ Diệp Kiên Cố, ở trong hư không, cất tiếng gào khóc, chạy nhay đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nói kệ:

Đường này sư tử, voi vây kín
Khởi tâm kiên cường tranh hại Phật
Và tạo chướng ngại quấy Tỳ-kheo
Xin chớ đi! Thương xót trời rồng.
Nhân-đà-la, bốn đường trong chúng
Thấy Phật dạy diệt sinh sầu khổ
Cùng nhau vân tập chung một chỗ
Sợ sệt run rẩy nói nhau: Như
Lai đã đẩy lùi ma đó
Ma nay biến làm mặt cực ác
Sợ Đại pháp diệt, nạn đời khởi
Nhật, nguyệt bất chừng, sao bị che
Thấy tướng ác hiện đều lắc đầu
Lạ thay, Thiện Thệ có thoái tướng
Mặt trời mắt tan đuốc pháp diệt
Dày xéo Chánh giác, cạn nước pháp
Diệu pháp thế gian đến lúc hoại
Chúng ma ác đảng mạnh dần lên.

Đức Thế Tôn nghe rồi, lặng thinh chẳng đáp. Vị trời cửa thành đó can gián, nhưng Đức Phật chẳng quay về nên buồn khóc rơi lệ, nói kệ:

Xem khắp thế gian Mâu-ni Tôn
Tuyên pháp tối thượng, đi sẽ chết
Chớ gần thành con mà chết oan
Con bị ba cõi luôn hủy báng.
Nguyện nghe con nói, Đấng Kiên Cố
Hôm nay chớ vào trong thành diệt
Thương xót chúng sinh, đợi chỗ này
Giải thoát chúng sinh, sinh khổ sợ.
Như Lai phải nhớ bản thệ nguyền:
Được đại Bồ-đề độ chúng sinh
Vô lượng chúng sinh vì khổ đốt
Thuốc tối thượng, an ổn chúng sinh.
Vô lượng câu-chi kiếp ở đời
Vì những phàm phu đắm trước dục
Nói pháp khiến họ được Niết-bàn
Tức vào tự tánh, nghĩa không tướng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lặng thinh chẳng đáp, sắp vào cửa lớn thì vị Địa thiên cùng trời Đại tư vị và với một vạn trời đồng loại, xõa tóc che mặt, cùng đến chỗ Đức Phật, đứng chắp tay, nói kệ:

Nhớ xưa Phật bố thí
Cho máu hơn bốn bể
Đầu xương như Thiết vi
Mắt như cát sông Hằng.
Và đủ thứ diệu bảo
Voi ngựa cùng vợ con
Y, thực, phòng, ngọa cụ
Tùy bệnh cho thuốc thang.
Cúng dường Đấng Tối Thượng
Hộ giới chẳng buông lung
Tu tập nghe nhiều nhẫn
Thường hiếu dưỡng mẹ cha.
Tu khổ hạnh khó hành
Giải thoát khổ chúng sinh
Ngài xưa đã phát nguyện
Thành Phật nói Thượng đạo.
Cứu biển khổ cõi đời
Nói pháp vì chúng sinh
Khiến cạn kiệt biển khổ
Cho vào thành vô úy.
Đặt ở Bồ-đề đạo
Đầy khắp cõi chúng sinh
Người làm ác mất đạo
Sám hối hủy giới văn.
Sở nguyện xưa tùy thuận
Nói pháp vô lượng kiếp
Tắm bằng nước tám giới
Khiến qua sông phiền não.
Chúng sinh trong ba cõi
Lại không như Thế Tôn
Mình đã được giải thoát
Lại giải thoát thế gian.
Vận chuyển độ chúng sinh
Ở biển ba cõi này
Chỉ Phật được như vậy
Đệ Nhất Giác thế gian.
Chỉ Phật thân cõi thế
Pháp cam lộ nguyện ban.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đã vào thành, trong khoảnh khắc sát-na, có vô lượng ức na-do-tha Trời, Rồng, Dạ-xoa tám bộ quỷ thần, ở trong hư không, mỗi mỗi đều rơi lệ, nói kệ:

Con thấy xưa Thiện Thệ
Khi điều chúng bình an
Nói pháp làm lợi ích
Không như vậy não loạn.
Đại sư ra đời ác
Đại giác tự nhiên thành
Nói pháp phiền não chướng
Để thành thục thế gian.
Thường làm sư tử hống
Ác ma nhiều vô lượng
Muốn diệt pháp như vậy
Phật nay chớ vào thành.

Có vị trời khác, nói kệ:

Chư Phật chuyển pháp luân
Trụ một phương lợi lạc
Nay Phật đến mọi nơi
Không khiến được gặp ác?

Bấy giờ, lại có vị trời khác, đồng nói kệ:

Lòng Bi làm Đạo sư
Thường làm lợi chúng sinh
Chớ một mình vào thành
Con thấy như có hại.

Lúc đó, lại có vô lượng trăm ngàn câu-chi nado-tha Trời, Rồng, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Mahầu-la-già… mặt đầm đìa nước mắt, đi từ trong hư không hạ xuống trụ trước Đức Phật với vô lượng thứ hình dạng khác lạ. Hoặc mắc phải tóc; hoặc mang chuỗi ngọc có một không hai, hoặc cầm lọng báu cờ phướn ma hết thảy đều nghiêng ngã; hoặc toàn thân gieo xuống đất; hoặc nắm lấy chân Đức Phật; hoặc gào lớn bi ai; hoặc đưa hai tay đấm ngực ảo não; hoặc ở dưới chân Đức Phật, buồn khóc, lăn lộn dưới đất; hoặc ở trước Đức Phật chắp tay khen ngợi, lễ bái; hoặc tung lên đủ thứ hoa đẹp tạp sắc, bột thơm, hương xoa, vòng hoa cài tóc, lụa là sôma năm màu đồ nghiêm sức, hoặc tung lên dệt thành y phục báu, trân châu đồ nghiêm sức, hoặc tung lên những thứ y phục báu, trân châu, chuỗi ngọc, đủ thứ vật lạ. Thiên chúng đó cúng dường Đức Phật xong, đồng thời nói kệ: Đức Phật hành khổ hạnh

Vì lợi ích thế gian
Khi sinh đời mạt thế
Vì chúng chớ bỏ đi.
Làm chưa nhiều Phật sự
Trời, Người chứng đắc ít
Ở lâu khai thị pháp
Độ ba cõi thế gian.
Có hành hạnh thanh tịnh
Thành tựu bình cam lồ
Dạy con khởi Từ bi
Cứu khổ ách thế gian.
Trong đồng hoang sáu nẻo
Sinh tử mất chánh đạo
Vì họ bày đường thiện
Dạy Thánh pháp giải thoát.
Bi này tối hy hữu
Nguyện Đại Giác trụ lâu
Chuyển pháp luân vô thượng
Chớ khiến đời không nương.

Các vị trời khác, nói kệ:

Đạo sư nếu diệt hết
Thế gian đều tối tăm
Tám Thánh, ba Giải thoát
Ở đây thảy đều không.
Chúng con đã gieo thiện
Ba nghiệp chẳng buông lung
Tất cả vui tròn đủ
Trụ lâu tạng công đức.

Lúc bấy giờ, lại có chúng của trời Tịnh cư, cùng với quyến thuộc của họ, nhiều vô lượng, vô biên hàng ức na-do-tha, tập họp ở một chỗ. Họ đều bảo lẫn nhau và nói kệ:

Các ông chớ sợ, Phật không bại.
Ứng với Đại giác phải rõ ràng
Ta nhớ thuở xưa thân cận Phật
Cõi Dục có Câu-chi-ma quân.
Đầy khắp ba mươi sáu do-tuần
Búa bén, kiếm sắt, cùng đao kích
Thổi mạnh nhanh chóng như mây tuôn
Ma chúng hùng mạnh tiếng đáng sợ.
Đến cây Bồ-đề đều chạy tan
Chỉ trong giây lát đều kinh sợ
Huống nay quả tròn, danh vang lừng
Bọn chúng làm sao tạo chướng ngại.

Có các trời khác, cùng nhau buồn khóc, nói kệ:

Xưa một quân ma, không lực lớn
Nay thế lực ma, đủ ngàn ức
Đến hại Như Lai định không nghi
Phật nếu diệt mất, đời tăm tối.

Bấy giờ, Phạm vương, Đế Thích, các trời hộ thế gian, đều đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nói kệ:

Do con tiểu trí khuyên Phật trụ
Theo lời chúng con mà xót thương
Vô lượng chư Thiên lo lửa đốt
Nay vì bọn họ mưa pháp tuôn.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng mắt đại Bi quan sát khắp tất cả Thiên chúng đồng đến, phát ra tiếng diệu phạm, rủ lòng an ủi khắp, nói kệ:

Các ông chớ sợ, nay vô úy
Tất cả ma chúng, cùng lúc đến
Bọn chúng chẳng thể động hại Phật
Chỉ một sợi lông, huống là thân.
Ta nay an ủi tất cả chúng
Thường nói diệu pháp ở thế gian
Ta đối với kẻ đánh mất đạo
Sẽ rộng phân biệt bày Chánh đạo.
Xưa ta đã làm việc làm khó
Rộng thí chúng sinh đồ uống, ăn
Phòng, nhà, thuốc thang chẳng thiếu thốn
Nay ai có thể não loạn ta?
Ta bỏ xe cộ cùng voi ngựa
Đồ báu trang nghiêm cũng như vậy
Nô tỳ, thành quách và xóm làng
Ai có thể não loạn với ta?
Thê thiếp, trai gái cùng quyến thuộc
Ái trọng ngôi vị tự tại vương
Ta ban nhiều lợi ích chúng sinh
Sao nay thân ta phải hoại tan?
Đầu, mắt và tai, mũi
Tay, chân, da, máu, thân
Đem mạng cho chúng sinh
Ai não loạn được ta?
Vô lượng câu chỉ Phật
Tự tay ta cúng dường
Thường ưa giới đa văn
Ai có thể phá ta?
Làm vô lượng việc khó
Thường hay nhiếp phục tâm
Cắt khắp thân chẳng giận
Ta nay ai não loạn?
Phiền não đã lui, thành Chánh giác
Từ tâm bình đẳng với chúng sinh
Mãi không ganh ghét và nóng giận
Không có người như ta hiện tiền.
Ta có đủ sức phá ma
Đẩy lùi vô lượng Câu-chi ma,
Quyết định cùng ông làm giải thoát
Vì sao sợ sệt chẳng vào thành?
Tất cả mười phương cùng cõi này
Những đất nước Phật trụ ở đây
Ta thỉnh tất cả những vị đó
Và chúng Bồ-tát đại thần thông.
Nguyện khiến thế gian đều đầy khắp
Và dùng phước trí xông thế gian
Cùng họ trú như phép Phật trú
Cũng giữ chỗ tùy thuận chư Phật.

Lúc bấy giờ, có vô lượng trăm ngàn vạn ức nado-tha a-tăng-kỳ Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, cùng với đại chúng trong pháp hội và đồng thanh xướng lên:

–Hay thay!

Rồi họ lại nói:

–Nam-mô, hy hữu chưa từng có vô số tinh tấn Cụ túc như Đức Thế Tôn hôm nay! Nam mô, nam mô, đại hy hữu, chưa từng có vô số tinh tấn cụ túc như Đức Thế Tôn hôm nay; an ủi tất cả trời, người và các loài chúng sinh, đều mong được độ thoát, đánh lùi các ma chúng, diệt tan cấu bẩn phiền não của chúng sinh, phá tan núi ngã mạn, chặt đứt cây thọ sinh, đập nát mặt trời sinh tử, trừ diệt bóng tối vô minh, khởi sinh niềm tin cho ngoại đạo, làm cạn nước bốn dòng chảy, thắp lên đuốc chánh pháp, bày ra đường Bồ-đề, trao cho chúng sinh nhẫn nhục nhu hòa, Tam-muội diệu dụng, sống với niềm vui thiền định, khiến cho khắp cả đều hiểu rõ bốn Thánh đế đạo, Đạo sư đại Bi rộng độ chúng sinh, ở trong biển sinh tử, dẫn những trời, người vào thành vô úy.

Những Trời, Người, A-tu-la, đều dùng đủ thứ hương hoa vi diệu của trời, hương xoa, bột thơm, tạp bảo, vòng hoa cài tóc, các vật trang nghiêm, tung lên trên Đức Phật. Vì cúng dường Đức Phật nên họ quét dọn, trang hoàng đường lớn, hẻm nhỏ, dùng áo báu trời, diệu hoa trời, the lụa trời che khắp trên đường. Họ lại mưa xuống hoa Mạn-đàla, hoa Ba-lô-sa, hoa Ca-lô-già, hoa Đại lô-già, hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đà, hoa Phân-đà-lợi… đủ thứ hoa sen được bày theo bước đi của Đức Phật. Hai bên con đường ấy, hóa ra cây trời với cành lá, hoa trái, đều dùng bảy báu mà trang nghiêm. Trên cây bảy báu, lại hiện ra đủ thứ áo báu đẹp của cõi trời, mũ trời, vòng ngọc đeo tai, vòng báu đeo tay đồ trang sức nghiêm trang. Trong vùng những cây đó, có ao hoa trời, giáp vòng bốn bờ ao ấy, toàn là bảy báu, trong ao, nước trong mát ngọt lành, đầy đủ tám đức. Mọi thứ hoa sen báu và những loài chim kêu tiếng vi diệu, đủ màu sắc xen lẫn, tràn đầy trong ao ấy.

Những Thiên chúng đó cúng dường Đức Phật nên ở trong hư không, mỗi vị đều cầm cờ phướn, bảy báu và lọng báu, trang hoàng bằng đủ thứ dây vàng, lụa bóng, trân châu, chuỗi ngọc. Lại mưa xuống những mạt vàng, mạt bạc, mạt tỳ-lưu-ly và tung lên những hương bột Trầm thủy, hương bột Đa-già-la, hương bột Hắc chiên-đàn, hương lá Đama-la. Lại mưa xuống những hương thơm Ngưu đầu, Ưu-la-già chiên-đàn… đủ thứ hương bột, rải khắp trên đường. Lại mưa xuống dây vàng đan nối với chuỗi ngọc trân châu, chuỗi ngọc ma-ni, chuỗi ngọc như ý phơi bày rực rỡ ở trong hư không, theo gió xoay vần. Trên những con đường trong ngoài thành ấy, đều dùng đủ thứ đồ trang nghiêm của trời mà trang sức. Cho đến trong thành ma và quyến thuộc cũng dùng đồ trang nghiêm diệu bảo của trời mà nghiêm sức các con đường. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn thương xót tất cả chúng sinh, nên liền vào Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, tâm tịch tĩnh. Vì đã vào định nên Đức Phật bước đi từ từ ở trên đường, hiện ra nơi sắc thân, đủ thứ vi diệu, tướng tốt uy nghi, quang minh hiếm có. Ở giữa đường, bên trong thành ấy, Đức Thế Tôn đứng ngay thẳng, khiến cho tất cả chúng sinh trên đường đó, đều thấy thân Phật. Nếu có người thờ Phạm thiên, ứng dùng thân Phạm để được được giải thoát, Đức Thế Tôn liền hiện thân Phạm mà hóa độ họ. Nếu có người thờ Đế Thích, ứng dùng thân Đế Thích để được được giải thoát, Đức Thế Tôn liền hiện thân Đế Thích hóa độ họ. Nếu có người thờ Na-la-diên, ứng dụng thân Na-la-diên được giải thoát, Đức Phật liền hiện thân Na-la-diên hóa độ họ. Nếu có người thờ Mê-hê-thủ-la, ứng dùng thân Ma-hêthủ-la để được giải thoát, Đức Phật liền hiện thân Ma-hê-thủ-la hóa độ họ. Nếu có người thờ trời Tứ Thiên vương, ứng dùng thân trời Tứ Thiên vương để được giải thoát, Đức Phật liền hiện thân trời Tứ Thiên vương hóa độ họ. Nếu có người thờ Chuyển luân thánh vương, ứng dùng thân Chuyển luân vương để được giải thoát, Đức Phật liền hiện thân Chuyển luân vương hóa độ họ. Nếu có người thờ các tiểu vương, ứng dùng thân các tiểu vương để được giải thoát, Đức Phật liền hiện thân các tiểu vương hóa độ họ. Nếu có người thờ bậc đại thần thông, có người thờ Sa-môn, có người thờ đồng nam, đồng nữ, phụ nữ thì Đức Phật đều hiện những thân đó mà hóa độ họ. Thậm chí có người thờ sư tử, thờ rồng, thờ voi, thờ thỏ, thờ A-tu-la đủ loại thân. Những chúng sinh đó ứng dùng uy nghi sắc tướng của những thân đó được giải thoát, Đức Như Lai đều hiện những hình tướng đó mà hóa độ họ. Khi Đức Thế Tôn thị hiện đủ thứ như vậy thì tất cả chúng sinh đi trên đường thấy việc đó rồi, đều chắp tay, lễ bái sát đất, khen ngợi, vây quanh Đức Như Lai, được điều chưa từng có. Nếu có người thờ voi, thờ rồng, thờ A-tu-la cho đến nếu có người thờ thần thỏ thì những chúng sinh đó, liền thấy Đức Như Lai đồng hình tướng thỏ đang uy nghi ở trên đường mà đi. Nếu có chúng sinh thờ Phật thì những chúng sinh đó, liền thấy Đức Như Lai đúng như uy nghi của Đức Phật đang ở trên đường mà đi. Những chúng sinh đó đều chắp tay khen ngợi, lễ bái, cùng nhau đi theo sau Đức Phật. Lúc bấy giờ, Tiên nhân Quang Vị ở núi Tuyết, cùng năm trăm đồ chúng của ông, bị sự điều khiển của ma, đi đến thành Vương xá, đến chỗ Đức Phật. Khi đó, Quang Vị còn ở bên trong cửa thành, đứng đợi Đức Như Lai; thấy thân Phật giống như người tiên, uy nghi hình tướng, hiển phát trang nghiêm và thấy vô lượng trăm ngàn câu-chi chư Thiên vây quanh cúng dường. Thấy việc đó rồi, ông liền khởi ý niệm: “Người này, quả là đại Tiên nhân, có sự gia hộ lớn, đáng thọ sự cúng dường tối thượng của người, trời và hiện ra tất cả thân phận trang nghiêm, như bậc Thánh trí. Hai người chúng ta, ai là tôn thắng? Trí tuệ ai hơn? Ta hôm nay làm sao rõ biết?” Ông lại khởi tiếp ý niệm: “Ta nên đến gần mà hỏi, do loài nào sinh ra? Do dòng họ nào? Thọ trì những gì? Do chí nguyện gì? Do những hạnh nào?” Tiên nhân Quang Vị tự quan sát đồ chúng, nói kệ:

Nay thấy đa văn phước đức lớn
Người trì đại hạnh Bậc Ứng Cúng
Thường trì thiện đạo Đức Mâu ni
Trí đại nhẫn, nghĩa pháp đầy đủ.
Các ông, tất cả lòng ân cần
Dùng đại phương tiện luôn cúng dường
Ta phải đến Bậc công đức ấy
Để nghe giảng nói qua bờ kia.

Bấy giờ, tất cả đồ chúng Ma-na-bà của Quang Vị, đều đồng thanh nói lời như vầy:

–Đúng vậy, thưa Đại sư! Đại sư nên làm như vậy!

Tiên nhân Quang Vị cùng các quyến thuộc, kéo đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến trước Đức Phật rồi, họ chắp tay, đứng thẳng nói như vầy: –Nay Ngài là ai?

Đức Thế Tôn đáp

–Ta là Bà-la-môn.

Tiên nhân lại hỏi:

–Họ Ngài là gì?

Đức Thế Tôn đáp:

–Họ ta là Cù-đàm.

Tiên nhân lại hỏi:

–Chí Ngài thích gì?

Đức Thế Tôn đáp:

–Ba cửa giải thoát.

Tiên nhân lại hỏi:

–Ngài làm những hạnh nào?

Đức Thế Tôn đáp:

–Ta hành Chân như tế.

Tiên nhân lại hỏi:

–Ngài xuất gia bao lâu rồi.

Đức Thế Tôn đáp:

–Lâu như sự khởi lên của vô minh kia, ta nay xuất gia cũng lại như vậy!

Tiên nhân lại hỏi:

–Như vậy, Đại tiên là tinh tú ứng hiện, như điều minh ký đều tụng vậy chăng?

Đức Thế Tôn đáp:

–Như sự bình đẳng ấy, ta chẳng quên giữ. Đó sở hữu gì? Có gì kiên cố? Như tướng này thì trí thế gian biết.

Tiên nhân lại hỏi:

–Vì muốn khiến cho những người trí tuệ, sinh lòng hoan hỷ, nên nói lời nói này.

Đức Thế Tôn hỏi:

–Sao gọi là tinh tú?

Tiên nhân đáp:

–Chỗ nương tựa của hai mươi tám vì sao, mặt trời, mặt trăng chuyển theo mà đi. Mỗi một đều nương theo tám ngón tay nằm ngang của người ấy lấy làm phép đo lường. Mười hai lần, tám ngón đó, dùng làm phép đo lường thân. Dùng một lần tám ngón ấy để đo lường đảnh. Dùng một lần tám ngón để đo lường bàn chân. Mười bốn lần dùng tám ngón như vậy, Ngài nên biết, đó là phép đo lường tinh tú. Hiểu được như thế này thì không có phép khác; mỗi một đều tùy theo người ấy, có chỗ ghi từng núm vào để làm định pháp. Nếu chẳng vậy thì xin Đại Mâu-ni lắng nghe! Tôi nay sẽ nói về việc tinh tú.

Người sinh nhằm sao Mão thì ở bên phía phải của mặt, ngang xuống chừng bốn ngón, có núm đỏ, đen, trên núm có lông. Người ấy trí tuệ vang lừng, kết tụ tài lộc, thế lực tương ứng rất lớn. Người sinh nhằm sao Mão thì có tướng như vậy. Người sinh nhằm sao Tất thì trên thân có vết, chừng độ bốn ngón. Người ấy sáng suốt, chân thật, lòng thường giữ pháp, có trí tuệ, biết xấu hổ và kết tụ tài lộc đầy đủ. Ở mọi lúc, lòng thường dũng kiện, có thể đánh thắng oán địch. Người sinh nhằm sao Sâm thì dưới cổ trước, chừng bốn ngón, có vết đen. Tính người ấy dũng kiện, kết tụ tài lộc đầy đủ. Người sinh nhằm sao Chủy thì từ đỉnh trở xuống, độ một gang rưỡi tay, bên trái có núm. Người ấy tính nhiều sân si, mà vẫn có kết tụ tài lộc. Người sinh nhằm sao Phú-na Bà-tô (sao Tỉnh) thì ở dưới hông trái có vết đen. Người ấy của cải, lúa gạo đầy đủ mà thiếu trí tuệ. Người sinh nhằm sao Phú-sa (sao Quỷ) thì có tướng tối thượng, trong tay có luân tướng, giống như vừng mặt trời, thượng diệu đoan chánh, tướng tóc xoắn về bên phải, tất cả nương trụ trên thân đều viên mãn, có thể phá phiền não, làm đại Đạo sư. Người sinh nhằm sao A-thất-lệ-sa (sao Liễu) thì ngực có vết đen, ưa đấu tranh, phạm giới, khó cùng ở chung, tính nhiều dâm dục. (Bảy sao trên là sao ở phương Đông).

Người sinh nhằm sao Mạc-già (sao Tinh) thì hoặc ngực, hoặc lưng có bứu nhỏ; người ấy là thiện trượng phu, có thể theo đúng pháp hạnh, mà lại nhiều của cải. Người sinh nhằm sao Sơ phá cầu (sao Trương) thì bên phải hoặc bên trái rốn ắt phải có vết; người ấy nhiều keo kiệt, chết yểu. Người sinh nhằm sao Đệ nhị phá cầu (sao Dực), dưới rốn bốn ngón, nếu thấy có núm thì kết tụ tài lộc, trì giới đều tan mất. Người sinh nhằm sao A-tát-đa (sao Chẩn) thì dưới cửa rốn phải có núm đỏ; người ấy tính ưa làm giặc, dua nịnh, ít trí thông minh, phước mỏng. Người sinh nhằm sao Chất-đa-la (sao Giác) thì trên âm căn trai hay gái sẽ có cái núm; người ấy, tính thuần trực, nhiều ái dục, ưa ca múa. Người sinh nhằm sao Tát-bà-để (sao Cang) thì hoặc là đầu nam căn hoặc ở dưới căn, có sinh núm vàng; người ấy, thọ nhiều tính tham, sân, làm não đại chúng, không có trí tuệ. Người sinh nhằm sao Tô-xá-khư (sao Đê) thì từ háng trở xuống độ tám chỉ, bên trong tùy chỗ, có sinh núm đỏ, người ấy có quyến thuộc đầy đủ, có nhiều tôi tớ, ở địa vị khanh tướng, thông minh, biết xấu, dũng kiện, mưu lược, quả quyết, có thể làm oán địch lùi bước, thường thọ an vui, mạng chung sinh lên trời. (Bảy sao này thuộc phương Nam).

Người sinh nhằm sao A-nô-la-đà (sao Phòng) thì từ đầu gối trở lên tám ngón bên trong nếu có bướu nhỏ thì người đó trì giới có pháp, kết tụ tài lộc đầy đủ. Người sinh nhằm sao Thệ-sắt-tra (sao Tâm) thì bên trong bắp vế có núm; người ấy chết yểu, nghèo cùng, phạm giới, ít lòng Từ, bị người ganh ghét. Người sinh nhằm sao Mộ-la (sao Vĩ) thì trên vế phải có vết nhỏ; người này có phước đức, mà chóng tiêu diệt. Người sinh nhằm sao Sơ A-satrà (sao Ky) thì đầu gối có núm; người này tính ưa xả thí, có thể biết đạo pháp, mạng chung sinh lên cõi trời. Người sinh nhằm sao đệ nhị A-sa-trà (sao Đẩu) thì ở trên cẳng chân phải có núm xanh; người này tính ưa đấu tranh với người, chẳng nương cậy, chẳng tín thọ. Người sinh nhằm sao Thất-la-bà (sao Ngưu) thì ở trên cẳng chân phải nhất định phải có hai núm, người này thường giàu có, kết tụ tài lộc, thọ thân không bệnh, được sự yêu thích của mọi người, mạng chung sinh lên trời. Người sinh nhằm sao Đà-nhĩ-sắt-tra (sao Nữ) thì trên cẳng chân có núm, người này nhiều sân, ít tham, tuy có trí tuệ, mà không kết tụ tài lộc. (Bảy sao trên thuộc phương Tây).

Người sinh nhằm sao Xá-đa-tỳ-sa (sao Nguy) thì từ gối trở xuống mười sáu ngón, bên trong có núm đen; người này, tính ngu si, bị chết chìm. Người sinh nhằm sao Đệ nhất Bạt-đà-la-bạt-đà (sao Thất) thì từ chỗ gối cong trở xuống, nội trong tám ngón, trên xương đùi phải có vết; người này làm cho người khác sân não, ngu si, bần cùng, ưa làm đạo tặc (trộm cướp). Người sinh nhằm sao Đệ nhị Bạt-đà-la (sao Bích), ở bên trong hổ khẩu phải có núm con; người này ưa bố thí, trì giới, nghĩ sức nhớ lâu, có trí tuệ, có Từ bi, tính không sợ sệt. Người sinh nhằm sao Lệ-bà-để (sao Khuê) thì người đó tự sinh sống bằng sức của người tôi tớ. Người sinh nhằm sao Thấp-tỳ-nị, người này thấp kém, tự nuôi sống. Người sinh nhằm sao A-thấptỳ-ni, vùng ngón chân cái có núm xanh, thân không bệnh não mà thường có sức mạnh lớn. Người sinh nhằm sao Bà-la-ni (sao Vị) thì ở dưới bàn chân có núm con; người này thọ tính không Từ bi, ưa làm tay đồ tể, phá giới, hành động ác, chết vào địa ngục. (Đây là nhóm sao phương Bắc).

Như trên đã nói, đây gọi là việc tinh tú. Nhờ đấy mà được biết tính hạnh giàu nghèo, tốt xấu của con người. Nếu biết điều này thì có thể khiến cho chúng sinh đến với bờ kia.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tiên nhân:

–Đó là sự thấy của kẻ phàm phu ngu si, nương theo tâm chấp trước, trụ ở hạnh phân biệt. Sự thấy của phàm phu là hư vọng nóng nẩy, bệnh hoạn như loài chó, rắn, cá, rùa kia. Nếu trong số đủ các loại chúng sinh còn lại kia, mà sinh nhằm sao Phú-sa này thì họ chẳng phải là được phần vui thích sao! Như thần thông của ông, đã được định giải thoát; ta lại có thể vì tất cả mà chỉ rõ điều ấy. Ông nay, vì sao chẳng hỏi?

Tiên nhân Quang Vị phát sinh đại hoan hỷ, liền dùng kệ khen ngợi:

Tiên nhân hình tướng người
Con thấy, tướng tối thượng
Chẳng biết dòng họ ngài
Là trời hay là người?
Pháp âm thanh nói năng
Giống như trời Đại phạm
Giữ hạnh trì sắc tướng
Không lâu như tướng Tiên.
Chỗ chẳng thấy nghe xưa
Tướng Mâu-ni đầy đủ
Nào sở thuyết, sở sư
Xin Ngài nói tính vậy.

Đức Thế Tôn liền dùng kệ đáp Tiên nhân:

Chẳng biết bờ đây, đó
Nên có tướng lập nên
Bị buộc tất cả khổ
Ông: Phi vật giải thoát.
(Ông chẳng phải là đồ chứa pháp giải thoát)
Tánh ta là sáu Độ
Sáu thông Bà-la-môn
Nói sáu pháp hòa kính
Sáu căn tu phân biệt.
Ba pháp, ba giải thoát
Bình đẳng biết vô ngã
Khi phát tâm Bồ-đề
Lúc đó, ta xuất gia.
Tướng ta chẳng thể được
Khéo tu nơi vô tướng
Không người, không thọ mạng
Biết vô ngã cũng không.
Ba thọ, ba pháp hành
Phân biệt tu chỗ không
Ta qua trí bờ kia
Đây nói không ai bằng.
Không sở trước như không
Tác giả tâm Bồ-đề
Đầy đủ nhẫn lực đó
Sẽ được trí như trên.
Chẳng chấp trước các pháp
Người được báo cũng không
Thuận hiểu Như như vậy
Bồ-đề chẳng khó đắc.
Chẳng lập nơi các pháp
Và chẳng nương đây, đó
Phân biệt tu chân tế
Đấy sẽ được Thế Tôn.
Không tướng, không tướng tưởng
Rời nơi chỗ sở đắc
Các pháp phi hòa hợp
Đấy sẽ được Như Lai.
Ông bỏ những tướng ấy
Tự tâm mê cũng bỏ
Ông hiểu như hư không
Như vậy sẽ được Phật.

Khi Đức Thế Tôn nói bài kệ này, trong lúc chưa gián đoạn, Tiên nhân Quang Vị cùng các quyến thuộc, thấy hình tướng uy nghi của Đức Thế Tôn trở lại như Đức Phật đã trụ, liền đạt được sự nghĩ nhớ. Họ tự nhớ ra, thuở xa xưa, nhờ gieo trồng căn lành mà được như hiện giờ. Tiên nhân Quang Vị liền được Bồ-tát Tam-muội tên là Bảo tinh. Sự sở đắc Tam-muội nơi Bồ-tát Tam-muội, làm cho tất cả đều quan sát thấy; như tại cao tràng, thấy tất cả Tam-muội; sở đắc tất cả cảnh giới tự tại, không có sự ràng buộc, lệ thuộc, chẳng nương theo sự thấy của người khác; không nào người có thể hủy hoại; không người nào có thể đoạt lấy. Tiên nhân Quang Vị liền ở trước Đức Phật, chắp tay, hai tay dâng hoa, dùng kệ khen:

Vô biên khen nói thật
Thế gian khéo cậy nương
Như Lai mắt tuệ sáng
Soi tất cả chúng sinh.
Vượt lên trên chúng sinh
Tinh tấn luôn Từ bi
Cúi lạy Đấng Kiên Cố
Đạo sư, hết các chấp.
Ánh sáng màu vàng tía
Chạm chúng sinh mát mẻ
Hiểu tất cả sinh chúng
Nhờ công đức Bồ-đề.
Phật chuyển bánh xe pháp
Hay phá núi não phiền
Làm xong việc sau cùng
Trí Bồ-đề nay được.
Thầy thuốc trong chúng sinh
Tướng chân thật trang nghiêm
Nói ta sẽ đắc Phật
Đạo sư trong chúng sinh.
Cắt đứt những lưới ái
Độ mình, độ chúng sinh
Từ lâu được Phật ký
Làm bậc trên cõi người.
Chúng sinh khổ trôi nổi
Biển hữu khiến đưa sang
Chỗ Niết-bàn yên ổn
Đạo vô lậu an lập.
Sở hữu mười phương Phật
Công đức như biển lớn
Ngài vì con làm chứng
Hồi hướng Bồ-đề tâm.
Tất cả các chúng sinh
Ác não, khổ cực cùng
Ba đời và phước đức
Do thân, miệng, ý con.
Và tất cả sinh chúng
Khổ diệt, vui thành Phật
Chúng sinh tròn đủ khắp
Được thường trụ Niết-bàn.
Bệnh chúng sinh tịch diệt
Nước phiền não khô cạn
Các căn được trí tuệ
Tự tính thường vững bền.
Chúng sinh đến xứ chết
Và chịu khổ buộc ràng
Nhờ ánh sáng phước đức
Khiến mau giải thoát khắp.
Mỗi một chúng sinh giới
Được công đức như biển
Được phước trí vô lượng
Tất cả vui tròn đầy
Bỏ những ác kiến đó
Chánh kiến mau thân gần
Nghĩ nhớ chỗ đời trước
Chúng sinh được pháp hành.
Tất cả được thuyền pháp
Sang đến bờ biển kia
Đã qua bờ ấy rồi
Được tất cả pháp Phật.
Trụ lâu vô lượng kiếp
Mưa pháp vũ khắp cùng
Nước thanh tịnh mây pháp
Rửa sạch các chúng sinh.
Nếu mọi việc làm ác
Của thân, miệng, ý con
Con phát lồ tất cả
Xin Đức Phật chứng minh.
Con sinh lòng kính trọng
Nghiệp ác lại không làm
Phật chẳng thể nghĩ bàn
Thường được thấy hiện tiền.
Nếu có một phước đức
Hồi hướng vì Bồ-đề.
Con vì các sinh chúng
Nhẫn chịu mọi khổ nạn.
Con khuyên các chúng sinh
Hành Bồ-đề thượng đạo
Thanh tịnh các cõi, kiếp
Cùng biển trí chúng sinh.
Con được cõi thanh tịnh
Theo đó chứng Bồ-đề
Được đồ chúng thanh tịnh
Tịnh nhẫn trụ các địa.
Quyết định năm thần đạo
Con được sư tử thuyết
Chỉ bày trí vô trước
Đạo sư thọ ký con.
Khi định đã đắc Phật
Điều ngự tất cả pháp
Hoa con tung lên cúng
Thành lọng hoa trong không.
Những chúng trời, người, rồng
Tất cả đến làm chứng
Con đảnh lễ Thế Tôn
Khiến đại địa chấn động.

Lúc bấy giờ, hoa của Tiên nhân Quang Vị tung lên, đều trụ ở không trung, gần trên đảnh Đức Phật, hợp làm một lọng hoa. Tiên nhân Quang Vị thấy việc này rồi, vừa ý bội phần, không hy vọng gì khác nữa. Ông phát sinh sự ái lạc đệ nhất, hoan hỷ vô cùng, liền cúi đầu, hai gối quỳ xuống đất, làm lễ dưới chân Đức Thế Tôn. Khi Đại tiên Quang Vị lễ dưới chân Đức Phật thì ngay tức thời, không gián đoạn, tất cả tam thiên đại thiên thế giới có sáu cách chấn động và có đến vô lượng a-tăng-kỳ, trăm ngàn câu-chi na-do-tha chúng sinh,… của những thế giới đó đều đến tập hội, tất cả đều bi hỷ, phát sinh lòng kinh ngạc chưa từng có.

Lúc đó, Đức Như Lai tùy theo sự thấy biết của các chúng sinh đó, thị hiện đủ thứ thân. Kẻ ưng dùng hình voi để giáo hóa, liền thấy Đức Như Lai như hình voi đó, mà sinh lòng yêu thích. Họ lại thấy hoa của vị đại Tiên nhân đã tung lên, trụ trên hư không biến thành lọng hoa và đại địa chấn động. Đã thấy điều này, họ sinh lòng hy hữu gấp bội, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Đức Phật. Có chúng sinh ưng dùng thân Phật để giáo hóa, họ thấy Đức Như Lai như thân tướng của Phật, phát sinh lòng hy hữu. Lúc đó, Đức Thế Tôn liền ra khỏi định, từ Tam-muội Thủ-lăngnghiêm an tường đứng dậy. Vô lượng chúng sinh đã được giáo hóa đều thấy Đức Thế Tôn, không còn mong cầu gì khác nữa, đều rất vui sướng phát sinh lòng yêu thích, đều như sở đắc. Họ mang tràng hoa, y phục, hương bột, hương xoa, các đồ trang nghiêm tung lên cúng dường.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ thọ ký Tiên nhân Quang Vị:

Mau đứng nghe thọ ký
Hôm nay Đạo sư nói
Đại tiên được Bồ-đề
Đất động, một lọng hoa.
Đứng lại trong hư không
Gia hộ không ai bằng
Ông được Lưỡng Túc Tôn
Lợi thế gian tự tại.
Phật có phước vô biên
Bờ cõi ngang hư không
Kiên cố trong ba cõi
Đèn pháp soi thế gian.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Quang Vị, liền ở trước Đức Phật, cung kính bạch:

–Thưa Thế Tôn! Con được cõi Phật giống những tướng nào? Con ở cõi đó chuyển bánh xe đại pháp?

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Quang Vị:

–Đời vị lai, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ở địa phận phương Bắc, có thế giới tên là Khai phu hương, có đầy đủ các tướng trang nghiêm như thế giới An lạc ở phương Tây. Này thiện trượng phu! Ông sẽ ở cõi Phật đó được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là Vô Cấu Hương Quang

Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri Minh

Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật đó thọ mạng trong mười kiếp, chỉ gồm có các Đại Bồ-tát, không có Thanh văn, Bích-chi-phật, thuần nói về Đại thừa thanh tịnh vô thượng.

Đại chúng nghe Đức Thế Tôn thọ ký cho Tiên nhân Quang Vị xong thì đem đồ cúng dường mang theo, cúng dường cho Tiên nhân. Năm trăm mana-bà và chín mươi hai na-do-tha trăm ngàn câuchi chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và được Tam-ma-đề của Bồ-tát, chẳng quên tâm Bồ-đề.

QUYỂN 5

Phẩm 5: TƯỚNG

Lúc bấy giờ, hàng trăm ức những ma, của tam thiên đại thiên thế giới, phát sinh ý niệm như vầy: “Nay Đức Phật Thế Tôn vào cửa thành Vương xá, chúng ta nên dùng sự trang nghiêm tối thượng để nghiêm sức bên trong cửa thành này và cả địa phương này như sự trang nghiêm của Trời, Rồng, Dạ-xoa đã làm ở bên ngoài thành.”

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng tha tâm trí, biết được ý niệm trong lòng của trăm ức ma. Đức Thế Tôn muốn dùng sức thần thông sắc tướng tối thượng, để trang nghiêm chỗ của Đức Phật. Lúc đó, Đức Thế Tôn dùng sức thần thông, ở bên trong mười hai cửa của thành Vương xá, trong mỗi một cửa, đều có Như Lai và các đại chúng, cùng đi vào cửa thành. Trăm ức ma cũng dùng thần thông, đem a-tăng-kỳ những đồ trang nghiêm tối thắng, đủ thứ trang nghiêm thù thắng, để nghiêm sức cửa thành và địa phương mình. Tường thành, những cây cối, trên đất, trong hư không các ma đều dùng đồ trang nghiêm thắng diệu mà trang nghiêm. Có hàng trăm ức ma cùng quyến thuộc, hoặc hóa làm hình thể Phạm thiên cho đến hóa làm hình dáng Đại thiên, trụ ở trong cửa sổ, cửa trùng các, cửa công sự chống địch, trong rừng cây, các chỗ trống trong đất và trong hư không. Họ dùng đủ thứ hoa, hương bột, hương đốt, vàng, hạt, ma-ni, trân châu và các vật trang nghiêm để trang nghiêm; y phục với những tơ dệt ngũ sắc trang nghiêm… làm mưa xuống khắp nơi để cúng dường. Họ lại dùng đủ thứ âm nhạc trời, đánh trống, vỗ tay, đủ thứ khen ngợi, ca vịnh, công đức không lường, của Đức Như Lai. Hết thảy đều tụ tập lại cúng dường Đức Thế Tôn, với những hình tướng rất hy hữu, trang nghiêm tối thắng đệ nhất; chưa từng có, chưa từng nghe như vậy.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đứng ở dưới cửa thành, dùng ngón bàn chân phải, chạm vào ngưỡng cửa, lập tức khắp tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động. Đế Thích, Phạm vương, mặt trời, mặt trăng, trời Hộ thế, trời Đại tự tại, hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Già-lâu-la, Khẩnna-la, Ma-hầu-la-già… địa thiên, thủy thiên, biển cả, các núi, thành ấp trời… và các nam, nữ, đồng nam, đồng nữ, chúng Thiên tiên… cho đến cung trời A-ca-ni-sấc trong tam thiên đại thiên thế giới, cũng đã đến. Tất cả chúng sinh được sắc vị tươi nhuận, dáng mạo sáng trong. Tất cả chúng đó, thấy đại địa chấn động, ánh sáng giác ngộ chiếu tỏ. Ở đại thành Vương xá và trên hư không, họ đứng vây quanh rồi họ dùng hương hoa, bột thơm Hắc chiên-đàn tung lên cúng dường Đức Phật. Lúc đó, Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Phật dùng sức thần thông, khiến cho những hoa, hương bột tung lên khắp các cõi, nhiều như vi trần trong mười phương. Mỗi một phương, đều có các cõi thanh tịnh và chẳng thanh tịnh, không và chẳng không… đều cúng dường, cung cấp hoa hương cho các Đức Phật ở đó. Những hoa tung lên này, cùng các hương bột và vật trang nghiêm… ở từng cõi Phật đó, lại phát ra âm thanh câu kệ:

Các ngươi mau giác ngộ
Quán hạnh chẳng buông lung
Nhân Bồ-đề tối thắng
Chuyển sâu trong sinh tử.
Ta nay cứu vớt ngươi
Mau bỏ việc thế gian
Nhớ thuở xưa thệ nguyện
Thành thục đến tương ưng.
Được thọ ký Bồ-đề
Mâu-ni Nhân Đà-la ni
Vì lợi ích thế gian
Nay vào thành Vương xá.
Đại tiên Thắng Vô Ưu
Đã hàng trăm ức ma
Chuyển pháp luân thanh tịnh
Nên phải rất vui mừng.
Lợi thế gian như vậy
Chỉ bày việc dũng mãnh
Giải thoát khổ thế gian
Nay vì Ma-lợi sa.
Sẽ được đạo Bồ đề
Nay thọ ký các ngươi
Mau đến đất nước kia
Thấy trang nghiêm diệu hảo.
Tự nhiên được như vậy
Vào thành Vô ưu đó
Hành Bồ-đề dần dần
Nhất định sẽ đắc Phật.

Bấy giờ, đại chúng của tất cả các cõi Phật, nhiều như vi trần trong mười phương; nhờ Phật lực, nên đều thấy đại chúng Bồ-tát Ma-ha-tát nơi rừng trúc của Đức Phật này; mỗi mỗi đều có tư lương Tam-muội. Lúc đó, các vị Đại Bồ-tát có trong rừng trúc, tư duy an trụ cùng với các Thanh văn, Đại thanh văn, cùng thấy Đức Thế Tôn ở cửa thành Vương xá trú trì điều phục. Những đại chúng đó, theo Đức Thế Tôn đứng phía sau. Họ nghe thấy trong phẩm vật đại trang nghiêm phát ra các kệ rồi, đều biến khắp tất cả cõi Phật, không chẳng không, tịnh chẳng tịnh, nhiều như vi trần trong mười phương. Những vị Đại Bồ-tát và Thanh văn, ở trong những cõi Phật đó nghe kệ này rồi thì khởi lên ý niệm như vầy: “Chỗ nào mà có tiếng pháp này, đầy khắp tiếng vừa ý như vậy, mỹ diệu như vậy, đang yêu như vậy, đáng vui như vậy, đáng mừng như vậy, khuyến phát như vậy, tiếng xưng dương công đức lớn ấy?” Và họ thấy hoa, hương bột mưa xuống, mưa xuống khắp mười phương vô lượng những vật trang nghiêm, mưa xuống vô lượng bột mịn hoa hương. Các vị Đại Bồ-tát và Thanh văn đó, bỏ hết việc làm, đều rất kinh ngạc, ngợi khen.

Bấy giờ, Đức Thích-ca Như Lai vào Tam-muội Y Phật trang nghiêm nghiêm sức. Đức Phật vào Tam-muội rồi, không có chút dừng nghĩ, tất cả đại chúng đã có trong thế giới Ta-bà và tất cả cõi Phật nhiều như vi trần, ở mười phương đều thấy tướng đại trang nghiêm như vậy trong cõi Phật này. Trong đời vị lai kia, đều thấy Đức Như Lai thanh tịnh không nhiễm tu tập công đức của thế giới mà trang nghiêm. Chỉ một việc không có là vách thành… tự nhiên trang nghiêm. Tất cả chư Phật

Thế Tôn của thế giới nhiều bằng vi trần của các cõi Phật mười phương, đều thấy Đức Thích-ca Như Lai trụ ở thành Vương xá, quang minh hiển hách rất là đoan nghiêm.

Đại Bồ-tát Ma-ha-tát và Đại Thanh văn ở cõi đó, nghe kệ rồi, mỗi vị đều nhớ nghĩ và quán sát khắp bốn phương; thấy thế giới đó như đang hiện trước mắt, thấy chư Thiên hết thảy đều rất trang nghiêm; do lực cảnh giới của tất cả chư Phật Thế Tôn. Lúc này, các Đại Bồ-tát và đại Thanh văn đó, đều khởi lên ý nghĩ như vầy: “Chúng ta nhất định đi đến cõi đó, chỗ trang nghiêm trong đại tập hội và quan sát khắp các công đức trang nghiêm cõi Phật đó. Thấy Đức Thích-ca Như Lai rồi, chúng ta tu hành, cúng dường, ở chỗ Đức Phật đó, để được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị Đại Bồ-tát và Thanh văn của những thế giới nhiều bằng vi trần của tất cả cõi Phật trong mười phương, nhờ thần lực của Đức Thíchca gia hộ, nên đang ở cõi Phật của mình, chừng trong khoảnh khắc một sát-na, họ biến mất ở đấy, rồi hiện đến thế giới Ta-bà. Mỗi một phần của mười phương có vô lượng, vô số cõi Phật, với số Đại Bồ-tát nhiều như vi trần, tất cả đều đi đến cõi Phật này, đứng đầy khắp trên đất và trong hư không. Các vị Đại Bồ-tát đó, mỗi một đều nương bao nhiêu lực, của vô vàn căn lành Bồ-tát để chuẩn bị cúng dường Đức Thích-ca Như Lai. Để thiết trí việc cúng dường này; hoặc có Bồ-tát, ở cõi Phật này, vì việc cúng dường, mà mưa xuống đủ thứ hoa, đầy khắp tất cả, để cúng dường Đức Thế Tôn. Hoặc có Bồ-tát mưa xuống đủ thứ trân châu, cho đến có Bồ-tát mưa xuống vàng, bạc, tỳlưu-ly, pha lê, thạch tạng bảo Mô-tát-la, Ngưu đầu chiên-đàn, Long kiên chiên-đàn, Đa-ma-la diệp… đều làm bằng bột, mưa xuống đầy hư không, làm vật cúng dường để cúng dường Đức

Thế Tôn. Hoặc có Bồ-tát, mưa xuống đủ thứ những vật trang nghiêm để nghiêm sức, như y phục, lụa dệt ngũ sắc làm đồ cúng dường để cúng dường Đức Thế Tôn. Hoặc có Bồ-tát, vì việc cúng dường mà dựng lên vô số lọng, cờ, phướn, vòng hoa, để cúng dường Đức Thế Tôn. Hoặc có Bồtát, đốt đủ loại hương thơm, tung lên đủ thứ vòng hoa cài tóc, tấu lên đủ thứ kỹ nhạc. Hoặc có Bồtát, thị hiện đủ thứ ca múa. Hoặc có Bồ-tát, dùng đủ loại nước thơm mưa xuống phương này, tưới cho đất thấm nhuần. Hoặc có Bồ-tát, dùng đủ thứ bảo khí đựng đủ loại báu, trước Đức Thế Tôn dâng lên cúng dường. Hoặc có Bồ-tát, dùng đủ thứ bảo khí đựng đầy nước thơm trang nghiêm bằng hoa, trái và lá cây, trước Đức Thế Tôn dâng lên cúng dường. Hoặc có Bồ-tát, dùng đủ thứ cây báu, đủ thứ Thiên y trang nghiêm bằng hoa quả dâng lên trước Đức Thế Tôn, làm vật cúng dường. Hoặc có Bồ-tát, hóa làm thân trời Đại phạm, chắp tay trước Đức Phật, cho đến nói rộng ra như trước đã làm. Hoặc có Bồ-tát, hóa làm hình tướng sư tử, ở trước Đức Thế Tôn, lễ bái như vậy. Những chúng sinh đó, nhờ thần lực Đức Phật và sức căn lành của mình, gia hộ cùng nhau làm cho thấy, ở nơi nhãn căn của chính mình thì chẳng thủ lấy các sắc! Do

Đức Thế Tôn hiện ra tướng như vậy, sự tạo tác của Ma vương, có sự tạo tác đại cảnh giới của trời, mới có bao nhiêu cảnh giới. Và nhờ Đức Như Lai với bốn Niệm xứ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác, Đạo, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật mà biến hiện ra bao nhiêu cảnh giới. Tất cả theo sau Đức Thế Tôn vào đại thành Vương xá, hướng về chỗ của hoa sen ở giữa đường lớn. Đức Thế Tôn đến rồi, dùng bàn tay phải, xoa cánh hoa sen và kéo nó đứng lại. Hoa sen ấy vì bị kéo động, nên ở cõi Phật này, nơi chỗ ngồi của tất cả ma cung, đều chấn động. Nam nữ quyến thuộc ma và các đồ chúng đang an trú, đều phát sinh sợ hãi kinh ngạc. Chúng tự nói với nhau:

–Không nhân, không duyên mà cung điện nhà cửa này của ta chấn động như vậy? Không lẽ cảnh giới ma chúng ta, tự mất chỗ rồi sao? Không lẽ pháp tiêu diệt cung thất, chỗ ở của chúng ta đã khởi lên rồi sao? Hôm nay chúng ta quyết phải quan sát cho tỏ tường?

Các ma thấy việc như vậy thì khởi lên ý niệm như vầy: “Đất nước Phật này xưa là ngũ trược, hôm nay, ai có thể lại khiến cho trang nghiêm vi diệu, rất đáng yêu thích như vậy?” Các ma ở nơi chỗ cư trú của cảnh giới mình, cùng với quyến thuộc, đều không thấy gì nữa! Chỉ thấy Đức Thích-ca Như Lai với ba mươi hai tướng, của bậc Đại nhân, đầy tròn trang nghiêm, quang minh rực rỡ, soi chiếu rất lớn. Ở cả tam thiên đại thiên thế giới và tất cả cõi Phật này, có đủ thứ hình tướng, sắc mạo; chúng sinh hiện trú cùng khắp, không một chúng sinh có thể nhận biết. Tất cả vô lượng chúng sinh đó, ở trước Đức Thế Tôn, đều chuẩn bị làm việc cúng dường. Các ma đó khởi lên ý niệm như vầy: “Chúng ta quyết định đi đến chỗ thấy Đức Thích-ca Như Lai. Thấy được ngài rồi, sẽ lễ bái, đồng thời thỉnh vấn ngài. Chúng ta cùng các quyến thuộc, ngày hôm nay, đều đi về đấy vậy?” Bấy giờ, hàng trăm Câuchi-ma có trong thế giới Phật này, cùng các quyến thuộc, đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến rồi, cung kính đứng trước Đức Phật. Ma vương hướng về Đức Phật cúi mình, chắp tay cung kính, nói kệ:

Con đem lòng thanh tịnh
Quy y Đức Thế Tôn
Mau thả con đi khỏi
Pháp hạnh từ nay làm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Ta chẳng ngăn một người
Dù đi hay là đến
Ngươi nếu biết được đạo
Chỗ đi tùy ngươi muốn.

Bấy giờ Ma vương lại nói kệ:

Chỗ của con muốn đi
Chỗ vui cung điện mình
Nay thấy năm thứ buộc
Trói buộc của Cù-đàm

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Ta đoạn các phân biệt
Tự giải thoát thế gian
Ta đã mở trói buộc
Khiến họ lìa não phiền.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn, xem thấy chúng sinh đầy khắp đất và hư không của tất cả cõi Phật này, mà nói kệ:

Các ngươi nay nghe kỹ
Khắp tất cả người đến
Đều xả bỏ nghi hoặc
Mỗi một im lặng đứng.
Thế gian Phật khó gặp
Cũng khó gặp Pháp, Tăng
Khó đầy đủ tịnh tín
Hành Bồ-đề cũng khó.
Thân cận Thế Tôn trước
Được nghe pháp rất khó
Hay tu hành các nhẫn
Được một lúc cũng khó.
Điều phục tâm là khó
Và tu ở hạnh Không
Hay đoạn các phân biệt
Tất cả ác thế gian.
Hạnh Bồ-đề khó được
Sở hành ta đời trước
Ta sẽ vì ngươi nói
Chỉ một phần tinh hoa.
Khiến tối tăm tan biến
Thị hiện đạo Vô thượng
Người sở đắc Bồ-đề
Nay sẽ đoạn ba cấu.
Nghe Đại sư khéo nói
Qua các dòng bờ kia
Bỏ các đại khát ái
Lập nên ba giải thoát.
An lập ở ba hộ
Các não phiền ba cõi
Diệt tan không còn nữa
Vì Tam bảo cúng dường.
Lại vì pháp nên đến
Thế Tôn, trời và ma
Ba đời đều gia hộ
Mê che tâm ba đời.
Đều được Tối Thắng đoạn (dứt)
Được ba cõi giải thoát
Nhẫn, diệt tan phiền não,
Và bốn thứ đảo điên.
Các phàm phu điên đảo
Phân biệt không thể tính
Đó chẳng có nhẫn khí (đồ chứa nhẫn)
Mắt đắm trước các sắc.
Thân, miệng, ý che lấp
Nên không có bốn Thiền (định)
Thân cận với sinh tử
Người trí tuệ thông minh.
Hay tu hành thiền định
Giải thoát nay chứng thành
Lìa khỏi bốn điên đảo
Và giải thoát chúng sinh.
Tự tại cứu bốn dòng
Biết rõ các sinh, diệt
Tất cả kẻ nhu hòa
Sẽ được sang bờ kia.
Bồ-tát đủ bốn hạnh
Và dùng Vô sở úy
Chánh trí đều đoạn trừ
Các trói buộc chúng sinh.
Có thể rõ năm ấm
Vô lậu lìa ràng buộc
Các pháp chẳng sinh khởi
Đến bờ kia biển hữu.
Các ngươi, trước chư Phật
Mau phát lộ các ác
Các ác đoạn không còn
Đến bờ vô úy ấy.
Tất cả khổ sinh tử
Người lệ thuộc hữu vi
Pháp pháp sinh các cõi
Chạy theo với ác hữu.
Phải mau lìa ác hữu
Đoạn từ các ác kiến
Nhớ nghĩ khổ sinh tử
Tu tập Đệ nhất nghĩa.
Sẽ uống nước Vô thượng
Nên tu tập pháp Không
Đệ nhất nghĩa không thể
Không thật, cũng không tướng.
Sáu căn giống như không
Trong đó không tác giả
Phân biệt tướng như trên
Chỉ không pháp phân biệt.
Sáu thọ cùng sáu ái
Sáu xúc chúng là gốc
Sáu xúc nhập như vậy
Cũng cần rõ biết không.
Quán sát không tất cả
Như pháp tự thể tánh
Không sinh cũng không diệt
Trong đó thấy không thật.
Các pháp đồng pháp tánh
Ba đời không một vật
Nếu biết không nhiệt não
Đạo này tối vô thượng.
Lìa mười ba ngã tướng
Chúng sinh tưởng phân biệt
Tu Sằn-đề như vậy
Đây đó đều giải thoát.

Đức Thế Tôn đã dùng phước lực vô ngại, vô sở úy, nương theo sự gieo trồng căn lành nên có thể biến hiện, phát ra âm thanh lớn tròn đầy làm cho bài kệ trên vang khắp mười phương.

Bấy giờ, mười phương vô lượng a-súc-tỳ hằng hà sa ví dụ những thế giới ngũ trược, không chẳng không (rỗng), đều nghe âm thanh diễn nói nghe hết bài kệ này. Nghe âm thanh này rồi, trong khoảnh khắc sát-na, có vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha chúng sinh sở hữu của mỗi một vô lượng cõi Phật, đều không sở dục, chỉ có lòng yêu thích thanh tịnh. Vào thuở xưa, họ đã chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thoái chuyển; hoặc đã được đủ thứ Tam-ma-đề Sằn-đề Đà-la-ni. Vô lượng, vô số chúng sinh, đã tập hợp ở chỗ Đức Phật này, đã nghe được câu nghĩa văn tự này, liền được không thoái chuyển. Lại có vô lượng, vô số chúng sinh đối với pháp ba thừa đều tùy theo mỗi một mà được độ.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Quang Vị, dùng thần lực của mình, làm thềm bảy báu, dùng hoa trải khắp lên thềm ấy, làm tòa hoa sen. Muốn cho Đức Như Lai thăng tòa này, nên Bồ-tát hướng về Đức Phật, cung kính cúi mình chắp tay, nói kệ:

Phật, Nhất thiết trí nguyệt
Quán đời già, bệnh, chết
Ưu hoạn chỗ chìm đắm
Thế gian động chẳng động.
Vì họ làm cầu pháp
Phật thấy khắp các cõi
Chúng sinh nhiều vô lượng
Chắp tay đợi Thế Tôn.
Ban rải khắp pháp hội
Thị hiện sở đắc mình
Phá phiền não chúng sinh
Trí phương tiện tuyệt vời.
Ở đây thị hiện khắp
Phật lên tòa hoa sen
Đại pháp vũ khắp nơi
Tất cả Phật mười phương.
Và Đại tiên trí khác
Cùng Phật làm chứng minh
Đấng Mâu-ni Thiên Đế
Hàng phục Đại ma vương.
Tứ tính rỗng, không có
Biết pháp như hư không
Nhớ nghĩ thệ nguyện xưa
Chuyển pháp luân Vô thượng.
Nay phải cứu chúng sinh
Người trụ nơi bốn dòng
Vua Sư tử trong (loài) người
Pháp này, nay Phật biết.
Khiến qua biển ba cõi
Phật nói pháp thâm diệu
Trừ tội cấu chúng sinh
Đại trí tuệ, Thế Tôn.
Lợi ích các chúng sinh
Mời Thiện Thệ an trí.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lên đài hoa sen ngồi vào tòa Bát-đầu-ma, trên thềm báu như đã hóa ra ấy. Đức Như Lai ngồi rồi, quán sát khắp tất cả đại chúng mười phương, rồi bảo Ma vương:

–Ông nay, ở đây, nên sinh vui mừng. Do ông có nhân duyên ở xứ này nay được pháp môn Đại Tập! Khi nói pháp này, vô lượng, vô số chúng sinh hiện ở đời nay và cả đời sau, đều được giải thoát. Bốn dòng ở thai, ương ngạnh, già, chết; mỗi mỗi đều được độ khắp, trụ ở đạo cát tường. Lại nữa, pháp này phải làm cho họ được trí ngang bằng hư không. Này Ma vương! Nay ông đứng đầu ở xứ này, khiến cho các chúng sinh tăng trưởng căn lành. Này Ma vương! Ông có thể thỉnh ta nói pháp, khiến cho những chúng sinh cao mạn trong chúng hội này, qua được các dòng thì ta sẽ vì họ nói pháp.

Lúc đó, Ma vương nói kệ như vầy:

Cù-đàm nếu không lỗi
Cùng người không sân mạn
Sao làm ta kinh động?
Nay nói Đại pháp này.
Nếu có sân mạn này
Thì sao được giải thoát?
Ta nay chưa biết rõ
Mâu-ni vì ta nói!

Đức Thế Tôn liền dùng kệ đáp Ma vương:

Ta ở thai mười tháng
Việc đó như thế gian
Ma lại muốn hại ta
Ta đều không hờn ghét.
Ta nhẫn độ các ác
Xấu ác đều không còn
Ta vượt khỏi thế gian
Ngươi lại động đại địa.
Mưa đá xuống hại ta
Lại muốn đoạn sữa ta
Khiến sữa mau khô kiệt
Vô lượng việc chẳng tốt.
Giống gì mà chẳng làm
Khi ta trụ Thiền định
Sai ma nữ hại ta
Khi ta đi khất thực.
Ngăn người chẳng bố thí
Thỉnh ta làm quốc vương
Khiến ta bị sinh tử
Khi vượt thành xuất gia.
Lại khiến đêm tối mù
Binh chúng vây quanh thành
Đều do ông tạo tác
Ta cưỡi thần thông sang.
Ngươi lại tuôn mưa gió
Khiến đất thành hầm hố
Cát đá chất đầy đường
Ta ở rừng vắng vẻ.
Ngươi tạo tiếng rùng rợn
Ta ở chỗ khổ hạnh
Ngươi thổi gió rét run
Muốn qua khỏi dòng sông.
Ngươi tuôn dòng nước dữ
Hiện làm sư tử dữ
Ngươi muốn giết ta liền
Khi ta muốn ăn uống.
Ngươi hòa độc thức ăn
Ta đến Bồ-đề thọ
Tuôn mưa đá Kim cang
Mưa dao, tên, binh khí.
Pháp ca-sa y phục
Ngươi đều muốn làm bẩn.
Ta ngồi tòa Kim cang
Lợi ích các chúng sinh.
Lúc đó ngươi cũng đem
Ma nữ đến não hại
Ngươi cùng chúng tướng quân
Chẳng nhớ, khi hại ta
Ta không khởi ý niệm
Làm cho ngươi não loạn
Đạo Vô thượng ta thành
Ngươi đã từng hàng phục
Ngươi nay không thẹn thùng
Lại nói lời ác đó.
Lại dùng phương tiện ác
Để não hại Ca-diếp
Chúng sinh thiện không lường
Ngươi đều đã hoại diệt
Ngươi đã không buồn thương
Nay lại muốn hại ta.
Ta vào thành xin ăn
Lại thả voi say dữ
Điều-đạt lăn đá lớn,
Ba tháng ăn đại mạch (lúa đại mạch).
Tôn-đà-la ác thanh
Hầm lửa, đồ ăn độc
Là đều do ngươi làm
Nhất định nghiệp ác nặng!
Xưa ngươi đến đạo tràng (đạo thọ)
Uy lực cùng quân chúng
Dùng vô lượng đao, tên
Mang đến muốn hại ta
Chẳng động ta sợi lông
Vì sao còn ở đấy?
Như bị say độc hại
Dấy lên Câu-chi-ma
Na-do-tha chúng sinh
Đến đầy cõi Phật này.
Ta chứng biết như vậy
Ta trụ Từ bi tâm
Xót thương đến tất cả
Mà ngươi, luôn với ta
Tạo chướng ngại cực ác!
Các Đấng Tịch Mặc (Mâu-ni) này
Nhân Đà-la-ni Ngưu vương
Ta đều hiện chứng biết.
Ta nay, ở thời ác
Thi hành các Phật sự
Ta đã vì chúng sinh
Trụ ở tâm giải thoát
Dẫu ngươi tăng thêm ác
Nhẫn nhục ta chẳng buông
Ta không ý ganh ghét
Các lỗi lầm, uế, ác
Ta vì ngươi nhiếp độ
Thường siêng năng như vậy
Ta muốn ngươi tịch diệt
Nay cần thỉnh ta nói
Pháp cam lồ đệ nhất
Khiến ba cõi tịch diệt
Vì ngươi, trừ nghiệp ác
Ý ngươi mau sạch trong
Sinh nương nhờ nơi ta
Lòng ta luôn thanh tịnh
Muốn khiến ngươi giải thoát
Ngươi thường mang ác tâm
Nên phải bỏ ác kiến
Ý phải tín, sạch trong
Ngươi nay phải hiểu biết
Không lâu được thọ ký.

Lúc bấy giờ, Ma vương ở chỗ Đức Phật, lại càng thêm sân hận, muốn bỏ đi, nhưng tự biết có năm trói buộc; muốn phát ra âm thanh đáng sợ nhưng lại chẳng thể phát ra được. Do khí lực sân của mình nên phát ra khí nhiệt độc, rất hung dữ, muốn hại Đức Như Lai. Khi đó, Đức Thế Tôn dùng lực Từ thiện, biến ác khí này, thành lọng hoa Tô-ma-na, che khắp tất cả cõi Phật trong mười phương. Ở tất cả các cõi Phật thọ mạng yên ổn đang nói pháp thì lọng hoa Tô-ma-na ở trong hư không, trụ gần đỉnh Phật. Các Đại Bồ-tát có trong các cõi Phật đó, mỗi mỗi đều thỉnh vấn: “Nay lọng hoa này từ đâu mà đến? Là thần lực biến hóa của ai?” Các Đức Phật đó đều đáp câu hỏi của Bồtát: “Này các thiện nam! Nơi kia, có thế giới tên là Tát-ha, cõi ngũ trược bất tịnh. Nơi đó, có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Thích-ca Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà; nhờ sức bản nguyện, nên đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiện đang nói pháp. Vì muốn tiêu diệt cảnh giới lực của các ma, kiến lập tất cả các Phật lực, cảnh giới Phật vô sở úy, kiến lập đèn Tam bảo, khiến giáo pháp tất cả chư Phật được trụ thế lâu dài. Như Lai muốn cho tất cả căn lành tăng trưởng, nên dùng thần lực tinh tấn, biến hóa hàng phục tất cả oán địch ngoại đạo. Tất cả đều kinh sợ, chẳng vui mừng tranh luận. Ác mộng, ác tướng, oán địch trong ngoài đấu tranh trói buộc, nói năng chẳng hòa, thủy hạn, phóng túng, tằn tiện, mưa chẳng phải lúc, lạnh, nóng, gió, ẩm, bệnh khí, dịch lệ, tiếng ác… đều tiêu diệt hết. Tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Nhân phi nhân đều khiến cho hồi hướng. Tất cả Sát-lợi cũng khiến cho hồi hướng. Răn bảo bốn họ, Như Lai dùng pháp nghĩa. Như Lai thắp đuốc trí tuệ, bày ra con đường chính. Chủ nhân của tất cả nhà cửa, thành ấp, tu lạc mọi việc đều đoạn dứt. Vương cung vương quốc, chỗ quán chợ của dân, đều khiến cho hồi hướng. Tất cả ánh sáng tinh tú, ngày đêm vận hành, nữa tháng, một tháng, thời tiết hàng năm đều khiến vận hành chính lộ. Tất cả ngũ cốc, hoa trái, dược thảo đều thành thục. Tất cả công nghệ tinh xảo, nghề nghiệp sinh sống, xứ sở, làm cho không tiêu mất mà ngược lại đều được thành tựu. Tất cả tội lỗi của thân, miệng, ý nghiệp đều được tiêu diệt. Trù lượng khéo làm, Niệm, Tuệ Tổng trì, dũng mãnh Vô úy, Sắc tướng lạc thuyết, đều tăng trưởng. Tất cả pháp không chướng ngại, minh giác bốn pháp Thánh chủng, để thọ trì, quang hiển Đại thừa, tăng trưởng pháp an tâm của Đại Bồ-tát; Bất thoái chuyển địa với lòng Kim cang làm hộ trì, làm cho mười Địa thành một mùi. Hiểu rõ pháp Nhẫn vô sinh, thọ chức Phật, kiến lập Bồ-đề. Chúng sinh đã được hóa độ, đã nhiếp lấy theo sự vận chuyển của bánh xe đại pháp. Đại Bi che khắp tất cả chúng sinh, trụ ở Ba-la-mật, trụ ở đạo Vô thượng. Mưa xuống pháp vũ, dùng pháp mà tưới tắm làm sung túc chúng sinh, tròn đầy tất cả việc của chư Phật, giải thoát tất cả cảnh giới bốn ma, kiến lập cõi Vô dư Niết-bàn. Đức Phật đó có ấn Đà-la-ni tên là Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú nhập sai biệt ký. Tất cả Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà đời quá khứ, gọi là Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký, cùng giúp nhau thọ trì tùy hỷ. Và các Đức

Phật hiện tại ở mười phương đang trụ thế nuôi dưỡng thọ mạng. Tất cả các Đức Phật đó cũng nói Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký, hiện nói và cũng nhau tùy hỷ thọ trì. Ở đời vị lai, các Đức Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà khác thế giới mười phương, nếu có các Đức Phật sẽ ra đời, cũng nói Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký và cũng sẽ cùng nhau tùy hỷ thọ trì.

Bấy giờ, các Bồ-tát của các cõi Phật đó, mỗi mỗi đều thỉnh hỏi Đức Phật: “Đây là pháp gì? Từ xưa, chúng con chưa nghe Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký có thể làm vô lượng lợi ích như vậy; có thể đầy đủ pháp lợi, chẳng thể nghĩ bàn như vậy; có thể làm ánh sáng không chướng ngại của tất cả pháp, cho đến tịch diệt. Khi các Đức Phật Thế Tôn nói Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký này thì tất cả cảnh giới ma lực đều bị tiêu diệt cho đến ở Vô dư Niếtbàn đó mà Bát-niết-bàn; đối với các chúng sinh thì lợi ích không lường, an lạc không lường. Vì thương xót tất cả thế gian, vì lợi ích an lạc cho vô lượng trời, người, chúng sinh. Các Đức Phật ấy đã bảo các Bồ-tát kia, bằng lời như vầy: “Này thiện nam! Ta cũng cùng với ông, đi đến thế giới Ta-bà đó, trụ xứ của Đức Thích-ca Như Lai A-laha Tam-miệu Tam-phật-đà. Đã có Thế Tôn hiện tại trong mười phương nuôi dưỡng thọ mạng, các Đức Thế Tôn của các thế giới khác cũng cùng với tất cả Bồ-tát vây quanh trước sau và Thanh văn tăng theo hầu ở trước. Các Đức Thế Tôn đó, cũng sẽ đi đến chỗ Đức Thích-ca Như Lai kia mà đại tập hội. Đức Thích-ca Như Lai kia, cùng với chư Phật cũng sẽ nói Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký này, sẽ cùng giúp nhau thọ trì, tùy hỷ. Vì lợi ích chúng sinh, ngăn ngừa hạnh nghiệp ác, làm đầy hạnh hiền, đầy trí Vô thượng; nên tất cả chư Phật hôm nay, đều vân tập ở chỗ đó cùng với các Bồ-tát, Tăng Thanh văn… vây quanh theo hầu. Hôm nay, tất cả đều hiện diện ở chỗ Đức Phật đó. Nếu các ông muốn được Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký này, nên đi đến đó nghe và cúng dường các Đức Phật Thế Tôn của tất cả cõi Phật nhiều vô lượng, vô số như cát sông Hằng, cùng lúc trong hiện tại thấy được những Đức Phật đó. Cái mà xưa chưa thấy; như cảnh giới chư Phật, cảnh giới Bồ-tát, cảnh giới chư Thiên, cảnh giới các ma, sự trang sức của cõi Phật trang nghiêm và muốn thấy những cái đó, xưa chưa thấy vô lượng Đức Phật tập hội; hôm nay, chính là lúc chúng ta hãy cùng đi đến thế giới đó, trú xứ của Đức Thích-ca Như Lai mà đại tập pháp hội (tập họp lớn mở pháp hội).” Các vị Đại Bồ-tát kia, đều bạch Đức Phật: “Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Đại Đức Thế Tôn! Chúng con sẽ cùng với Đức Như Lai, đi đến xứ đó; thế giới Ta-bà, chỗ của Đức Thích-ca Như Lai mà tập họp pháp hội. Ở chỗ Đức Phật đó, sẽ nghe được cái từ xưa chưa nghe, là nghe pháp Kim cang tồi toái tâm cao duyên pháp đẳng cú Đà-la-ni ấn nhập sai biệt ký đó. Chúng ta đối với vô lượng, vô số các Đức Phật Thế Tôn, nhất thời tập họp một chỗ, trụ thế nuôi dưỡng, đó là được cúng dường và nghe pháp đó. Chúng ta ở thế giới Ta-bà, sẽ được thấy bốn thứ cảnh giới thần thông, với việc nghiêm sức rất trang nghiêm khắp ấy, sẽ thấy đại tập pháp hội trang nghiêm đó. Nếu khi chúng ta đi đến cõi Phật nói Đà-la-ni đó thì có chỗ dừng chân chăng?” Các Đức Phật đó mỗi mỗi đều bảo các Đại Bồ-tát Maha-tát và đại Thanh văn bằng lời như vầy: “Này thiện nam! Các ông chớ nghi ngờ, là ở thế giới đó, có chỗ dừng chân không. Vì sao? Vì cảnh giới chư Phật, nhập vào trí xảo bình đẳng vô biên, chúng sinh thành thục vô biên, không xứ rộng lớn vô biên. Này thiện nam! Đức Thích-ca Như Lai đó, đầy đủ phương tiện đại xảo. Này thiện nam! Tất cả chúng sinh đã nhiếp lấy trong cõi chúng sinh, chỉ là chỗ nương của giới, nhập. Nhưng chúng sinh đó, nếu mỗi một chúng sinh, giả sử thân to bằng núi Tu-di thì Đức Thích-ca Như Lai vẫn có thể khiến cho tất cả vô lượng chúng sanh thân to như vậy nhập vào trong một hột cải mà chỗ cư trú của mỗi một chúng sinh đó, vẫn trống không rộng rãi, tất cả chúng sinh cách xa không thấy nhau. Đại thân như vậy, vào trong một hạt cải, mà không hề có tướng tăng giảm. Này thiện nam! Tất cả địa giới là vững bền, Thích-ca Như Lai đều có thể khiến tất cả địa giới ấy, nhập vào trong lân hư trần cực nhỏ. Đại địa vi trần ấy cũng không hề hay biết có tướng tăng giảm. Đó gọi là Trí xảo phương tiện của Như Lai tròn đủ là như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Tất cả thủy giới đều có sự thấm nhuận. Đức Thích-ca Như Lai có thể khiến cho hết thảy thủy giới kia nhập vào một sợi lông ngắn rất nhỏ, sợi lông ngắn với tất cả thủy giới kia, cũng không hề hay biết có tướng giảm tăng. Lại nữa, này thiện nam! Tất cả tướng nóng ấm của hỏa giới, Đức Thích-ca Như Lai đều có thể khiến cho tất cả hỏa giới trong ba đời, vào trong một hạt bụi rất nhỏ nhoi mà hỏa giới đó, vào hạt bụi nhỏ nhoi, đi trong cảnh giới của mình, giống như chỗ hư không rộng rãi. Lại nữa, này thiện nam! Phong giới có được mà ta có thể biết, Đức Thích-ca Như Lai có thể khiến cho hết thảy phong giới đó nhập vào trong lỗ chân lông; trong một lỗ chân lông đó phong giới đi trong cảnh giới của mình giống như chỗ hư không rộng rãi. Lại nữa, này thiện nam! Tất cả chúng sinh trong mười phương cõi Phật cùng bốn đại, Đức Thích-ca Như Lai có thể khiến cho chúng vào bên trong một hạt bụi rất nhỏ nhoi, mà tất cả chúng sinh cùng bốn đại đó, đi trong cảnh giới của mình sử dụng mọi việc giống như hư không, mà chẳng hề nhiễu loạn nhau, cũng chẳng hay biết một vi trần đó có tướng tăng giảm. Đó gọi là trí phương tin khéo léo tròn đủ như vậy của Như Lai. Lại nữa, này thiện nam! Cho đến ba đời thâu nhiếp tất cả chúng sinh; sáu nhập, hành, thủ, nguyện trì, ngữ ngôn, âm thanh, văn tự, ngôn thuyết, ba hạnh, tác nghiệp, ấm, giới, phân biệt, trưởng dưỡng và vô vàn sở tác. Tất cả chúng sinh đó từ thuở xưa đến nay, ba đời đều thuộc về sáu đường sinh tử khởi diệt. Cho đến tất cả chúng sinh ba đời, vượt qua sát-na, la-bà, mâuhốt-đa; cho đến tất cả chúng sinh đều thuộc về ba đời, thậm chí tất cả chúng sinh ba đời đều thuộc về thọ; là đã thọ sự hiểu biết khổ, vui. Tất cả trong một khoảnh khắc, Đức Thích-ca Như Lai cũng đều rõ biết. Bao nhiêu các tướng, đều biết một cách đầy đủ, Đức Như Lai chẳng phân biệt. Không phân biệt, không suy nghĩ mà đều biết những tướng này, đúng như thực tế của ba đời. Này thiện nam! Các Đức Phật vào cảnh giới Phương tiện trí, đó là phương tiện bình đẳng thành thục chúng sinh đầy đủ.” Bấy giờ, khi các Đức Phật, nói tướng này của Đức Thích-ca Như Lai; thì ở đủ các phương hướng, các Đức Như Lai đó và đồ chúng vô lượng, vô số trăm ngàn Bồ-tát, với cảnh giới Nguyện trí thắng diệu thần thông, đều qua được bờ kia.

QUYỂN 6

Phẩm 6: Đà-la-ni

Bấy giờ, ở địa phận phương Đông, có thế giới tên là Khả lạc, Đức Phật hiệu là A-súc, cùng với vô lượng, vô số Đại Bồ-tát với vô vàn sức thần thông, gia hộ cảnh giới chư Phật. Ở trong khoảnh khắc một sát-na, từ cõi đó, khởi phát đi đến trú xứ của Đức Thích-ca Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà trong tứ thiên hạ. Đức Phật A-súc tự hóa ra tòa hoa sen để ngồi. Các vị Đại Bồ-tát của Đức Phật đó, cũng dùng sức công đức thần thông của mình, hóa làm pháp tòa hoa sen vi diệu, rồi ngồi ở trên đài hoa sen đó, hướng về Đức Phật. Như vậy, ở phương Đông, các Đức Phật Thế Tôn đứng đầu của vô lượng, vô số cõi Phật, nhiều như vi trần, hiện trụ thế nuôi dưỡng. Ở trong khoảnh khắc sát-na, mỗi một Đức Như Lai cùng với vô lượng vô số Đại Bồ-tát, trăm ngàn câu-chi na-dotha chúng Thanh văn; từ chỗ các vị, phát khởi đi đến trú xứ của Đức Thích-ca Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà trong bốn thiên hạ này. Đại chúng đi đến đó, bằng thần thông của mình, hóa làm pháp tòa hoa sen vi diệu, rồi ngồi ở trên đài hoa sen ấy, hướng về Đức Phật.

Bấy giờ, ở địa phận phương Nam, có Đức Như Lai hiệu là Bảo Tinh cũng vậy (nói rộng cũng như trên); cho đến ngồi ở trên đài hoa sen, hướng về Đức Phật. Bấy giờ, ở địa phận phương Tây, có Đức Phật hiệu là A-di-đà, (nói rộng cũng như trên); cho đến ngồi ở trên đài hoa sen, hướng về Đức Phật. Ở phương Bắc, có Đức Phật hiệu là Cổ Âm, hạ phương có Đức Phật hiệu là Tỳ-lô-giá-na ở trên đài hoa sen (nói rộng cũng như trên). Thượng phương có Đức Như Lai hiệu là Trí Quang, cùng vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha Đại Bồ-tát, nhiều như vi trần của hằng hà sa số cõi Phật; nhờ có đủ sự gia hộ của cảnh giới chư Phật, nên trong khoảnh khắc một sát-na, các vị từ cõi đó xuất phát đi đến trong cõi Phật ở bốn thiên hạ này, là trú xứ của Đức Thích-ca A-la-ha Tam-miệu Tam-phậtđà. Đức Phật Trí Quang đến rồi, tự hóa ra tòa sen mà ngồi. Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát của cõi đó, khi đã đến đây rồi, mỗi mỗi đều dùng sức thần thông công đức vô lượng của mình, hóa làm pháp tòa hoa sen vi diệu, rồi ngồi ở đài hoa sen, hướng về Đức Phật.

Các vị Bồ-tát ở mười phương đến tập hội; có vị mưa xuống vàng Diêm-phù-đàn để làm phẩm vật cúng dường, cúng dường cho Đức Thế Tôn, cho đến nói rộng làm đều như trước. Hoặc có vị, nhiễu quanh về bên phải tất cả cõi Phật. Hoặc có vị khát ngưỡng chắp tay trước Đức Phật, như người nghe pháp. Hoặc có vị thường dùng phần căn lành sở hành của mình, để tư duy mà trụ. Lúc bấy giờ, Đồng chân Tu-bồ-đề cung kính chắp tay, bằng thần thông của mình và thần lực của Đức Phật hộ trì thêm phát ra tiếng nói pháp đầy khắp ở tất cả cõi Phật, nói kệ như vầy:

Tất cả nghi đoạn tan
Trăng Mâu-ni đến khắp
Đây, xưa chưa thấy nghe
Mọi thành tựu đều hiện.
Chư Phật đầy khắp cả
Cùng Bồ-tát giới tịnh
Cõi Phật như tháp miếu
Tất cả đều lễ bái.
Phật nay phi vô nhân
Phật nhật Mâu-ni đến
Cõi này năm ác bẩn
Làm ô uế chúng sinh.
Ma, nay phải hàng phục
Phá hoại bọn hắc ám
Thâu lấy các hạnh thiện
Vì thế hôm nay đến.
Lắng nghe pháp tịch diệt
Ma chúng đều tiêu tan
Sinh khởi ý thanh tịnh
Sẽ thành Tam-phật-đà
Tu hành Đại thừa đạo
Áo giáp nhẫn mặc vào
Và vì hết các hoặc
Ông nghe Đà-la-ni
Tòa hoa sen đều ngồi
Đồng thanh thỉnh Đạo sư
Nói pháp ủng hộ này
Nắm giữ tất cả pháp
Đà-la-ni bất thoái
Vì chánh pháp tru lâu.
Tất cả chướng tiêu trừ.

Lúc bấy giờ, vô lượng, vô số Đại Bồ-tát đã được nhẫn, đều đồng thanh nói:

–Nguyện xin Đức Thế Tôn ngồi tòa hoa sen! Hôm nay Đấng Đại Bi, vì hun đúc Vô thượng Nhẫn đại từ, nên y vào vô úy, mà nói về sư nhiếp trì tất cả pháp, diệt trừ những cửa kinh sợ, vượt qua các ma đạo, xô ngã ma tràng, kiến lập pháp tràng, diệt trừ các phiền não, hàng phục tất cả oán, cắt đứt tất cả nghi, nhập vào Nhất thiết trí, giải thoát sự sợ hãi, làm tối thượng sự hộ trì ở trong các sự ủng hộ, có thể bày ra tất cả pháp của Bồtát. Nghĩa là: hoặc niệm, hoặc tuệ, hoặc đạo, hoặc trì, hoặc chẳng quên, hoặc phương tiện khéo léo. Cho đến tất cả hạnh, an lạc, thành tựu, phước đức, đã nương vào Gia hộ Tam-ma-đề, Sằn-đề Đà-lani vào minh trí khéo léo. Cho đến giữ ba mươi bảy tâm pháp Trợ đạo, vì sắc rỡ ràng vui vẻ của các chúng sinh, sức lực vang lừng, ưu trụ một mình, ưa biện, nói, niệm khiến cho tăng trưởng, nghe trì chẳng quên, tất cả oán địch lui; ngũ cốc thành thục, trì tịnh giới, niệm khí (khí cụ niệm) thành, hạnh thành tựu, đạt đến Bồ-đề. Đức Thế Tôn hôm nay vì con nói pháp Đà-la-ni này, vì chánh pháp tùy theo căn cơ mà thâu lấy, khiến trụ thế lâu dài, hạt giống Tam bảo chẳng đoạn; thị hiện đạo Vô thượng Bồ-đề; chân tế như như, hư không không sai biệt. Vì tất cả tướng tối sáng; đây đó, phân biệt, không phân biệt; vì chúng sinh, thọ mạng, dưỡng dục, ngã nhân, không sai biệt; vì chẳng sinh, chẳng khởi, chẳng diệt; tướng tất cả pháp bình đẳng, không hình thể, chân tế như như, không sai biệt.; vì đất, nước, gió, lửa, hư không, thức, giới không sai biệt. Chư Phật Thế Tôn, nay vì con, nói tất cả pháp tánh xuất sinh đạo tràng Đà-la-ni cho vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha chúng sinh được nghe pháp, cho vô lượng chúng sinh đối với Tam bảo luôn được niềm tin bất hoại, cho các chúng sinh đều là Thiện tri thức cùng nhau làm lợi ích và cho vô lượng, vô số chúng sinh sẽ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được không thoái chuyển, được thọ ký.

Những Bồ-tát đắc Nhẫn, thỉnh khắp tất cả các Đức Phật Thế Tôn nói đại pháp. Các Đức Phật đó, mặc nhiên thọ thỉnh rồi, tức thời, chánh thân ngồi ngay thẳng trên tòa hoa sen, liền vào Tam-muội Như cảnh giới chư phật nhập bình đẳng nguyện. Vào Tam-muội đó rồi, chư Phật khiến cho tất cả chúng hội, tất cả chúng sinh, tất cả cõi Phật, tất cả các khổ đều tiêu diệt; tất cả căn lành đều được viên mãn và tịnh, tín, niệm giải được thành tựu. Các Đức Phật Thế Tôn liền thấy như vầy: “Những ác kiến, tham, sân, si những lỗi lầm, kiêu mạn, say đắm, cao ngạo, thân kiến, nghi, thủ, hữu, ái, chìm đắm, thấp hèn của những chúng sinh đến trong hội cõi Phật này; những tâm và tâm sở của họ đều tiêu diệt hết. Mỗi một chúng sinh đều hiểu như vầy: “Chỉ có một người là ta, ở trước Đức Như Lai, chính thân nghe pháp chẳng ai khác. Chỉ có một người là ta, mà Đức Như Lai dùng tất cả sự suy nghĩ, quan sát tất cả lòng của ta, làm cho tất cả nhiệt não đều được tiêu diệt. Lại không có người nào khác, vì muốn nghe pháp nên thỉnh Đức Như Lai nói pháp.”

Lúc bấy giờ, tất cả chúng sinh, những người khắp nơi đã đến hội và đang có mặt ở bên trong cõi Phật này; với căn tánh mạnh mẽ sắc bén, chắp tay đồng thanh bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Xin Thế Tôn vì chúng con nói pháp! Thưa Đại Đức Thiện Thệ! Xin Ngài vì chúng con nói pháp! Chúng con sẽ cùng thuận theo, để thành tựu pháp của Đức Phật Thế Tôn!

Bấy giờ, Thích-ca Như Lai dùng loại hương trang nghiêm tối thượng thắng diệu làm cho hương đó bay vượt lên tất cả, lan tỏa đầy khắp các cõi Phật. Vì mục đích để cúng dường các Đức Phật Thế Tôn khác, nên hương đó, trụ ở trước các Đức Phật. Bên trong tất cả các cõi Phật đó, tất cả chúng sinh đã đến tập hội, lại dùng đủ thứ báu, đủ thứ hoa, đủ thứ vòng hoa, đủ thứ hương, đủ thứ lọng, đủ thứ cờ, đủ thứ phướn, đủ thứ vật trang nghiêm, hai tay dâng lên trước các Đức Phật, dùng để cúng dường. Lúc bấy giờ, Thích-ca Như Lai, nói như vầy: Các Đức Phật Thế Tôn, một lòng nghĩ đến ta! Mỗi một vị Thế Tôn hiện tại, có trong thế giới mười phương và cả trong các thế giới khác đều đến hỏi ta, vào thuở xa xưa, bản nguyện của ta như thế nào? “Ta ở thế giới ngũ trược, đủ thứ uế ác, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở đó có những chúng sinh mất chỗ nương tựa, mất đạo ba thừa; bị nhà tối vô minh, phiền não che lấp, pháp bất thiện gom tụ, vây buộc tất cả, bỏ xa thiện pháp, hướng về ba đường ác; xa lìa những người thông tuệ, làm các điều ác nghịch, chê bai phá hoại chánh pháp, hủy báng Thánh nhân, nương theo kẻ không Từ bi, ta vì Từ bi thương xót những chúng sinh này, nên phát Đại bi lực, Đại tinh tấn lực. Đối với nóng, lạnh, mệt nhọc, các khổ của họ, ta đều nhẫn chịu thay. Ta dùng đôi chân du hành khắp thành ấp, đất nước, trên mọi nẻo đường, đến mọi cung thất; là vì ta muốn lợi ích cho các chúng sinh. Ăn uống thiếu thốn, thô ráp, ít vị, đồ ăn rất đáng ghét chẳng ưa cũng là vì chúng sinh về việc trồng căn lành. Ta nhẫn thọ đủ thứ xúc chạm đắng cay, thô ráp; Y phục Xá-na kiếp-bối-thô-ma, ta dùng phấn tảo như vậy mà mặc lấy. Hang núi, bìa rừng, nhà trống, nghĩa địa, ta đều nương vào những chỗ này mà trụ dừng; cho đến thọ nhận cả những cỏ, lá cây xá-na thô-ma-thô ráp hôi thối, khó chịu, các ngọa cụ xấu nhưng vẫn dùng phương tiện khéo léo, mặc áo giáp đồng Đại bi tinh tấn, vì các chúng sinh mà ta diễn nói, mà thị hiện đủ thứ. Ta vì vua Sát-đếlợi giảng nói pháp tự tại, vì Bà-la-môn nói pháp Tứ tỳ-đà (Vệ-đà) pháp, luận về sao… vì các đại thần, nói về pháp dạy bảo, dẫn đường chúng sinh; vì các thầy thuốc, nói pháp thích hợp của các dược tính; vì các thương nhân nói pháp mua bán, vì các nông phu, nói pháp làm ruộng; vì các nữ nhân nói về pháp nghiêm sức, dưỡng dục tự tại không hành động theo người khác, vì các Sa-môn nói nhẫn nhục nhu hòa, ngồi thiền, tụng kinh, khuyên làm mọi việc. Ta muốn thị hiện là để răn dạy, thành thục chúng sinh; nên người chưa đến sẽ khiến cho đến; kẻ chưa chứng sẽ kiến cho chứng; người chưa thoát, sẽ khiến cho thoát. Ta nhẫn thọ đủ những việc khổ não, để thành thục chúng sinh, nên sống khắp trong nhân gian.

Ta còn bị những chúng sinh này; vì ganh ghét, nên mắng chửi phỉ báng, dùng pháp dâm dục phá hoại ta. Lại dùng lời nói ác chê bai ta. Họ nói ta có lời nói lừa dối, công kích, dèm pha, giả trá, dua nịnh, huyễn ngụy, nói dối, thô ác. Lại cùng với các nữ nhân, nói lời ác dục, dùng các việc ác, gia hại ta. Đất bụi dơ bẩn, đao độc, vòng lửa, chùy sắt, tên nhọn, búa sắt, đá lớn, binh khí… mưa xuống tới tấp để hại ta; họ cho voi say, rắn độc, sư tử, cọp sói, trâu nước, trâu dữ, đại lực sĩ cùng đến để đánh, để hại ta.

Phòng nhà, chỗ dừng nghỉ của ta và Tăng-giàlam; bọn họ đem lại những đồ hôi thối, dơ bẩn, bất tịnh bỏ đầy những nơi ấy. Khi các Thanh văn của ta, vào trong thành khất thực thì những chúng sinh phi pháp này, dùng ca múa phi pháp, dự mời Thanh văn làm việc phi pháp. Họ dùng vô lượng trăm ngàn phương tiện, để hại đến ta; là vì muốn che lấp chánh pháp, muốn diệt đèn pháp, muốn phá thuyền pháp, muốn làm tan pháp hội của ta, muốn làm đỗ pháp tràng của ta.

Đức Thích-ca Như Lai nói tiếp:

–Phải quán sát pháp thức của các Đức Phật đời quá khứ. Như các Đức Phật đó; ở đời uế ác năm trược này, việc tập họp lớn khắp nơi, là nhằm tạo diệu pháp thức, để khiến cho diệu pháp trụ thế lâu dài. Đối với cảnh giới ác của tất cả ma; chư Phật đều muốn làm cho nó tan tác và tiêu diệt, để cho hạt giống Tam bảo chẳng đoạn. Chư Phật vì sự tăng trưởng căn lành của các chúng sinh, mà dùng pháp tiêu diệt, hàng phục ngôn luận của tất cả ngoại đạo. Vì chúng sinh, chư Phật tiêu diệt hết những đói kém, hoang hóa, loạn lạc, đấu tụng, dịch bệnh, oán địch phương khác, cấm chế ràng buộc nói khen, lạnh nóng chẳng đúng lúc, gió mưa chẳng đúng lúc; và cả những lỗi lầm ác kiến của nghiệp thân, miệng và ý.

Chư Phật vì muốn làm cho tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Nhân phi nhân đều hồi hướng chánh chân; tất cả nhà cửa, tụ lạc, thành ấp, đường đi, các xứ sở đều được ủng hộ; tất cả sự dua nịnh, trùng độc hại, hôn muộn (mờ tối), ác mộng, hình tướng tai ương… đều khiến cho hoại tan; tất cả ngũ sắc, dược thảo, hoa trái, của ngon vật lạ, khiến làm tài vật sinh sống. Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đa thì răn dạy chỉ bày hành thiện, khiến tâm Bồ-đề thêm tươi tốt, khuyên tu các Bala-mật. Chư Phật tạo tác diệu pháp thức, là vì muốn cho các Đại Bồ-tát được tăng trưởng trí phương tiện khéo léo, niệm, hành dũng mãnh, biện tài lạc thuyết, rồi thọ thức vị Phật, an ổn nhập trí, qua tới bờ kia. Như Đức Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà, xưa kia nói pháp môn Kim cang pháp đẳng nhân duyên pháp tâm kiến lập tồi toái Đà-la-ni ấn cú nhập sai biệt ký này, diễn nói, thọ trì và cùng nhau tùy hỷ. Hay thay, hay thay! Đúng vậy, đúng vậy!

Tại đây hôm nay, các Đức Phật Thế Tôn trụ thế sinh sống có trong mười phương, đều đi đến cõi Phật ngũ trược ác thế Ta-bà này, để thăm hỏi ta, mỗi một điều ở tại tòa hoa sen. Các Đức Phật đó, đều ủng hộ các chúng sinh có bên trong cõi Phật này, nên nói pháp môn Kim cang pháp đẳng nhân duyên pháp tâm kiến lập tồi toái Đà-la-ni ấn cú nhập sai biệt ký; diễn nói thọ trì và cùng nhau tùy hỷ, khiến cho diệu pháp trụ thế lâu dài; làm cho tất cả lực cảnh giới ác của ma bị tiêu diệt. Nói rộng như trước, cho đến trí không chướng ngại, qua bờ kia. Thương xót, nhiếp lấy và nhận lời thỉnh của ta, khiến bên trong cõi Phật này, pháp môn vi diệu được trụ thế lâu dài; tất cả ngoại đạo chẳng thể vượt qua được; pháp chẳng bị phá và hạt giống Tam bảo chẳng bị đoạn tuyệt; tất cả chúng sinh nhờ vậy được thọ pháp vị.

Lúc bấy giờ, tất cả các Đức Phật Thế Tôn, đều nói như vầy:

–Đúng vậy, đúng vậy! Chúng tôi quyết định làm việc như vậy! Ở cõi Phật này, chúng tôi hộ trì diệu pháp khiến cho pháp trụ thế lâu dài, tất cả lực cảnh giới ác của các ma sẽ khiến cho tiêu diệt, tan tác, cho đến trí vô chướng ngại, qua tới bờ kia. Chúng tôi sẽ nói và đại trì pháp môn Kim cang pháp đẳng nhân duyên pháp tâm kiến lập tồi toái Đà-la-ni ấn cú nhập sai biệt ký. Này Đại chúng! Các ông hôm nay phải lắng nghe.

Tất cả các Đức Phật trong đại tập hội ở cõi này, đồng nói chú: Đa địa dã tha ương già la ương già la (1) Băng già la (2) Bát la băng ca la(3) Bà da nhị ha nhị đá lam bà tư (4) A khê a khư môn bạt lợi độ mê (5) Đồ mạn đế (6) Khê bạt tề khê du lợi (7) Tam ma bà ha nê (8) Tam mạn đa bạt đạt lợi (9) Đạt mê đạt mê (10) Đà ma kê (11) Ám phá lệ (12) Nhị đá la sửu phá lệ (13) Phá la bà đế (14) Già noa ni (15) Già bà lam đế (16) Sẩn lợi để lợi (17) Sẩn la sẩn la kê (18) Xà bà đế xà bà đế (19) Tra ca tư (20) Tra kiện đế (21) Tra ca bà lam (22) Ca noa bà mạc đế

(23) Sẩn xà đế (24) Thỉ lân đế (26) Tân đầu bà đế (26) Cù bà ê (27) Thọ ly(28) Nhị đa la thọ ly (29) Thọ lý (30) A già ly (31) A bà mê (32) ta tả đa tha đương (33) Hô lô sẩn ly (34) Chiên đế lệ (35) Tam ma đạt mê (36) Đà mê (37) Câu châu lô (38) Mộ châu lô (39) A chất tra (40) Chí li (41) Chí li (42) Già ba ha (43) Châu lô châu lô (44) Nhị đa la bà ha (45) Câu lô câu lô (46) Ta la ta la (47) Câu châu câu châu (48) Ma ha tát la (49) đô châu đô châu (50) Ma ha tát để da ly đà da bộ sáp tỳ (51) Tô bộ sáp tỳ (52) độ ma bát ly ha lệ (53) A bà duệ (54) Lô chí nê (55) Ca nhạo sai (56) A bà da ma tát đô tỳ bà ha để lệ (57) Ma lệ ma lệ (58) Bát thấp phược khư (59) Thi thi la (60) Lô cá tỳ na da ca (61) Bạt thời lệ (62) Bạt thời bạt thời la đạt ly (63) Bạt thời la bà đế (64) Bạt thời la đà đề (65) Chước khất la bạt thời lệ (66) Chước khất lệ (67) Già bà nê (68) Đạt lệ đạt lệ (69) Bà lệ bà lệ (70) Bố lệ (71) Tra lệ

(72) Hô hô lệ (73) Bàng già tần bà lệ (74) Xá lân xá (75) Chí ly (76) Châu ly (77) Mộ lệ (78) Mạn trà lệ (79) Mạn trà nê (80) Già già ly (81) Mộ trà nê (82) Tát ba mộ tà nê (83) Địa địa la da nê (84) Ma ê thấp phược la (85) La da nê (86) Ly tân xà nê (87) đà bà bà chí (88) Chiên trà la tê mê (89) Tát bà tát tả ha địa sắt si đa (90) Sấc điện đô bà ha na ma nhị nê (91) Bà la la để (92) Ô xà ố già lệ (93) Tỳ chí nê (94) Bà già na la ha (95) Bồ lệ bồ lệ (96) Cù lô cù lô (97) Mộ lô mộ lô (98) Sẩn ly sẩn ly (99) Ha la ha la (100) Ca kiến trà ba ha (101) Sẩn sẩn đương (102) A dụ na kiến trà thời phược la bà tê (103) Yết đà nê (104) A đà a nê (105) Mạt già a tỳ lô ha nê (106) Phá la tát để tê (107) A lô ha bà để (108) Tê ly tê ly (109) Da đà ba xà da tát phược ố già la (110) Da đà ba lan giả ly đà da bà ha (111) Tát để da bát ly bà bà (112) Mạt già tỵ lô ha nê

(113) A già la bột đề (114) Đà đà bát la già la (115) Bà già da (116) Tân trà ly đà da (117) Chiên đạt la già la noa (118) A già lệ (119) Luân đạt nê (120) Bát la khất ly để da mạt già (121) Y la già ly lê (122) Bát la tệ (123) Ta la bột la đế (124) Tát bà si la si tha đa (125) Tát để da a nô già đế (126) A na bà la na bột la đế (127) A la đa (128) Ương cù lệ (129) Xà di nê (130) Tỳ bột la ma bà dụ sẩn (131) A tê đa a bà la (132) Ni la bà da bà (133) A chất la mạt già (134) A nan la cù tát lệ (135) Để ly la đa na bàng thế (136) Đạt ma ca thời phược la chiên đạt lệ (137) Tam một đạt la bà để (138) Ma-ha đà bộ đa tỳ da (139) Tam một đạt la tỳ già bà để đà la ni một đạt lệ noa (140) Ma nể một đạt la tô la bát la để tam tỳ đà một đạt la (141) A bạt đa ni (142) Tam bạt đa ni (143) Tam mộ hạ tắc ca la (144) Tỳ tha dụ đa la tê na sí để một đạt ly đô hử (145) Duệ kê chất tất lợi địa tỳ bà ha (146) Bà bà bà ha ha ha (147) Kê tra ca bà tra (148) Thế la bát la để để ly đa duệ na một đạt ly đa (149) Đà la ni (150) đà la đà la đà la (151) đàn địa la đàn địa la hô sắc (152) Ca tát bà ly đà da một đạt ly đô hử (153) Xà tra xà bạt tra (154) Xà khư ta tra (155) Tô mạt để mạt để (156) Ma-ha đà bộ đa một đạt ly đa (157) Duệ kê chất sát a da đơn na ni thất ly đa bộ đa (158) Già ni nhị ni (159) Tát già ni (160) Cù sa tát già ni (161) Một đạt ly đa (162) Già ly da a địa sắt đà na (163) Bà ca bát tha (164) Na a nịch tha (165) Ma ha bố ni (166) Một già da a bà đa la (167) Ma ha ca lô noa da (168) Một đạt ly đa (169) Tát bà tam miệu (170) Bát la để bát địa (171) Chí la la đa lam (172) Thời phược la đô (173) Đạt ma nê để ly (174) Tát tỳ mô ni (175) Bột ly ta bà (176) Ma ha ca lô noa (177) Tam ma đề (178) Nhã na la bà bạt lệ na (179)

Mai để ly (180) Để da già a để tỳ ly da bạt lệ na (181) A địa sắt li đa (182) Tát bà bộ đô (183) Ô ba già da dã (184) Tát bà ha (185).

Lúc bấy giờ, đại chúng ở trong tất cả các cõi Phật, đến hội ở cõi Phật này, đều đồng thanh nói: –Nam-mô Nhất Thiết Chư Phật! Nam-mô Nhất Thiết Chư Phật!

Họ đồng thanh nói như vậy ba lần, nói tiếp:

–Lạ thay! Chúng Mâu-ni tập hội rất hy hữu! Đại Bồ-tát tập hội rất hy hữu! Đại Thanh văn tập hội rất hy hữu! Hy hữu như vậy, quả thật chưa từng có! Từ xưa chúng con chưa nghe pháp môn Kim cang pháp đẳng nhân duyên pháp tâm kiến lập tồi toái Đà-la-ni ấn cú nhập sai biệt ký này. Pháp môn mà tất cả giáo sư nhờ nó nắm giữ chánh pháp, làm cho hạt giống Tam bảo chẳng đoạn tuyệt, có thể phá diệt lực cảnh giới ma, đoạn dứt trói buộc của ma, hàng phục ma oán, kiến lập pháp tràng, hộ trì pháp phần, cho đến có thể làm tròn đầy đủ cảnh giới chư Phật. Hôm nay, tất cả các Đức Phật Thế Tôn nói pháp môn Đà-la-ni Ấn cú sai biệt ký này, chính là tâm ấn đại hy hữu hành của tất cả chúng sinh, điều phục sáu nhập; cho đến có thể khiến cho tất cả chúng sinh được Niết-bàn Vô thượng.

Khi chư Phật nói pháp Đà-la-ni Ấn ký này thì ba mươi lần số cát sông Hằng các Đại Bồ-tát thành tựu Đà-la-ni này và được Tam-muội Nhẫn.

Lúc bấy giờ, Đồng tử Nguyệt Quang liền đứng dậy, chắp tay, quan sát khắp, nhờ sự gia hộ của Đức Phật bên trong và cùng sức thần thông của mình và phát ra tiếng đại pháp, vang rền đều khắp bên trong cõi Phật này. Đồng tử nói kệ:

Trăng Phật khó được gặp
Gặp chúng cũng khó khăn
Chúng thông tuệ khó được
Cùng hành giả Bồ-tát.
Diệu pháp ấn như vậy
Đệ nhất khó được nghe
Như Lai Đấng Đại Bi
Thường hộ trì chánh pháp.
Diệt tất cả ma đảng
Đánh lùi các oán địch
Tam bảo mãi chẳng đoạn
Vì chư Phật thọ trì.
Phá trừ tất cả chướng
Tăng nhu hòa nhẫn nhục
Và chúng sinh hướng về
Hộ vua cùng cõi nước.
Ngăn những người làm ác
Luôn đoạn các ác kiến
Các Bồ-tát an ổn
Thị hiện đạo Bồ-đề.
Tăng trưởng Ba-la-mật
Đầy đủ hạnh thiện hiền
Ưa nói trí phương tiện
Như vậy đều tăng trưởng.
Đều thọ trì lời Phật
Nhiếp trì pháp sạch trong
Ủng hộ Đà-la-ni
Đạo Bồ-đề tịnh minh.
Chứng thật pháp rực sáng
Tất cả chúng, các ông
Lưới nghi đều sẽ đoạn
Vững tin Đà-la-ni.
Đó là đạo tròn đủ
Nghĩa là được Bồ-đề
Chúng con lại muốn nói:
Ủng hộ Đà-la-ni.
Bảo vệ người nói pháp
Văn, tuệ càng lớn thêm
Có ai cùng Dục giả?
Bồ-tát danh vang lừng
Và được không chướng ngại
Hay khiến các chúng sinh
Tăng trưởng thêm lợi ích.

Lúc bấy giờ, đồng chân Đại Bồ-tát nhiều như cát sông Hằng, đồng thanh nói:

–Chúng con hôm nay cùng với người muốn thọ trì Đà-la-ni này. Nếu có thiện nam, thiện nữ, Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tắm rửa sạch sẽ, mặc áo quần sạch, dùng đủ thứ hoa trang nghiêm làm trướng, đốt đủ loại hương thơm, dọn đủ thứ thức ăn, đủ thứ y phục thiết bày, trang hoàng tơ lụa ngũ sắc, dựng lên đủ thứ cờ phướn vi diệu và những lọng hoa trang nghiêm đạo tràng. Rồi thăng lên tòa Sư tử êm ái vi diệu mà khai thị, phân biệt Đà-la-ni này. Đối với người đó, không có loạn tâm, bốn đại loạn, thân loạn, ý loạn; không có hơi thở độc, chạm đến thân; không có thể khiến cho đau đầu; những bộ phận thân trong ngoài và tứ chi, đều không bệnh não; không có thể khiến cho âm thanh lếu láo thô lỗ. Nếu Pháp sư đó, thuở xưa đã có nghiệp bất thiện, bốn đại loạn, Pháp sư đó đọc Đà-la-ni này thì tất cả nghiệp chướng diệt hết không còn, được trụ yên ổn. Người đến nghe, cũng không bốn đại loạn và âm thanh loạn. Nếu có người nghe được Đà-la-ni này thì nghiệp bất thiện, bốn đại bệnh đã lâu và âm thanh loạn của người đó, tất cả đều tiêu diệt.

Lúc đó, Đồng tử Nguyệt Quang chiêm ngưỡng vô lượng hằng hà sa số những Đức Phật Thế Tôn, nơi các Đại Bồ-tát vây quanh. Đồng tử Nguyệt Quang cúi mình chắp tay, nói:

–Các Đức Phật Thế Tôn Từ bi nghĩ đến con, sẽ cho con ý muốn! Hôm nay, con sẽ nói chú Đà-lani này, liền ở trước Đức Phật, nói chú Đại minh:

Đa địa dã tha săn đế (1) A ta ma lộ tỳ (2) Di sỉ ly (3) Tô ma bà để (4) Ải hử na bà quân xà tỳ (5) Na bà quân xà na bà quân xà tỳ (6) Mậu la luận đà nê (7) Bà trà khư bà trà khư (8) Bà trà khư ma la bà (9) Sỉ tha đa bì lý xỉ đà (10) Bà bà bà phả phả phả ta ta ta (11) A mậu la (12) A giả ly (13) Đà bà ba la giả la (14) Tỳ địa ly (15) Ải ca na da bì lý xỉ đà (16) Chiên đà na chỉ lý ni (17) Bồ tát ly (18) Bồ tát la chỉ lý ni (19) Khư già sô la chỉ lý ni (20) Ta na bà sổ la chỉ lý ni (21) Phục xỉ cú chỉ bì lý xỉ đà

(22) Xà khả xà khả khư khư (23) Bà di xà khả khư (24) Na ma khứ sa khư (25) Ca ca khứ (26) Ha ha ha ha (27) Hổ hổ hổ (28) Ta ba lý xa tỳ đà na (29) Ba lý xỉ đà (30) A ma ma (31) Nhĩ dã ma ma (32) Khí dã ma ma (33) Ta mẫu đà la mẫu đà la bà khứ (34) Tăng tắc ca la nương bạt lý xỉ đà (35) Bồ đề tá khất sử chỉ tỳ ma (36) Ma ha tỳ ma (37) Bộ sỉ cú chỉ (38) A ca xá thỉ bà ta bì lý xỉ đà (39) Ta bà ha (40).

Lúc bấy giờ, các Đức Phật Thế Tôn, Đại Bồ-tát và Thanh văn, Đế Thích, Phạm vương, trời Hộ thế, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… các Đại thần vương, Đại úy đức của tất cả cõi Phật nơi khác đều cùng xưng tán: “Hay thay, hay thay!” và bạch các Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đà-la-ni này rất nhanh chóng có năng lực lớn, có thể ngăn chận tất cả oán địch, sợ hãi, bệnh hoạn. Các nạn, mộng ác, tướng ác đều giải thoát; cho đến Đà-la-ni này, là chỗ nương tựa, hội tụ của trí Vô chướng, trí Vô thượng, trí Đại phước.

Lúc bấy giờ, Thế Tự Tại Chủ, Đại phạm Thiên vương, dùng thần lực Đại phạm trang nghiêm cảnh giới, biến làm nữ nhân, ngồi ở trước Đức Phật Vô Lượng Thọ, hiện sắc tướng đoan chánh đệ nhất, viên mãn hơn cả các trời, đầy đủ y phục trang nghiêm đệ nhất, với vòng hoa, hương xoa dùng để nghiêm sức. Vua trời Đại phạm Thế Tự Tại, liền đứng dậy, chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ngài phải ủng hộ để con diễn nói viên âm! Như vậy, âm thanh mới có thể biến cùng khắp tất cả cõi Phật, khắp nơi được nghe biết mà không chướng ngại. Như con hôm nay, với câu chú này, có thể khéo hộ trì Pháp sư nói pháp và người nghe pháp. Nếu sau này: Hoặc ma, hoặc quyến thuộc của ma, hoặc trời, hoặc con trai, con gái của trời, hoặc Rồng, con gái Rồng, hoặc cha mẹ, quyến thuộc nam nữ của Rồng, cho đến con gái của Tỳ-xá-già, cha mẹ, quyến thuộc nam nữ lớn nhỏ của Tỳ-xá-già, Nhân phi nhân… tất cả loại này đối với Pháp sư và người nghe pháp mà dò tìm sở đoản của họ để làm oán gia hay giả làm thân hữu; thậm chí làm tổn hại đến một sợi lông, hoặc đoạt tinh khí, hoặc là hơi độc, hoặc nhìn bằng ác tâm, dầu chỉ trong khoảnh khắc một niệm. Thì con đối với những người hay chẳng phải người đó… những bọn ma quỷ đó sẽ cấm chỉ đoạn trừ, khiến cho chúng hôn trược cùng với lời thề cốt yếu ấy. Con sẽ ủng hộ viên âm diễn thuyết của các Đức Phật Thế Tôn để có thể dùng pháp thanh làm đầy khắp các cõi Phật. Nguyện xin Đức Thế Tôn sẽ nghĩ giúp con.

Đức Phật Vô Lượng Thọ mặc nhiên thọ thỉnh. Lúc ấy, trong đại chúng có một vị trời Đế Thích tên Trì Kế dùng mũ trời vàng thắng diệu quang minh, trang nghiêm thân mình, ngồi ở trước Đức Phật chẳng xa. Lúc bấy giờ, Trì Kế Thích Thiên bảo Thế Tự Tại:

–Này chị em! Chớ dùng tâm nhiễm ô mà ngồi ở trước tòa của Đức Như Lai Vô Lượng Thọ! Chớ làm phiền Đức Thế Tôn! Vì sao vậy? Vì sự ưa hý luận, chính là pháp của phàm phu; còn Đức Như Lai Thế Tôn, vĩnh viễn không hý luận. Hữu vi tạm hiện chính là tướng khởi tận. Tất cả danh sắc là sai biệt với Như như. Nàng, nếu như vậy, là mê hoặc điên đảo Đức Như Lai. Này chị em! Đức Như Lai bình đẳng, không trái, không tranh, một vị Như như, ngang bằng cõi hư không. Hư không bất vọng trí, tam hành là tướng tận. Hư không chẳng phân biệt, chẳng phải không phân biệt. Các hành là như vậy, Như Lai là như vậy, các dục công đức chẳng vì nó mà hý luận, chẳng phân biệt, không phải chẳng phân biệt. Mà không chỗ trụ, chẳng thọ, chẳng thủ. Như vậy không mạng, không sinh thì không dưỡng dục, không người, không ấm, giới, nhập, không thủ, không hý luận. Này chị em! Tại sao hôm nay, nàng ở trước Đức Như Lai mà tạo sự hý luận?

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai Vô Lượng Thọ bảo Thiên chủ:

–Ông nên xét kỹ, sau đó mới phát ngôn! Chớ nói lời không đúng như pháp, khiến cho ông bị tội, chịu quả báo chẳng ưa thích! Vị này, chính là bậc đại Thiện trượng phu, được sự chú ý của vô lượng các Đức Phật, đã ở chỗ các Đức Phật, gieo trồng các căn lành. Lại nữa, ông Thiện trượng phu này, vì muốn làm việc cúng dường Như Lai, nên hiện tướng nữ nhân, trang nghiêm diệu sắc (trang sức). Ông chớ ở đây mà nói là nữ!

Trời Đế Thích Trì Kế bạch Phạm thiên Thế Tự Tại:

–Thưa thiện nam! Ngài hãy khởi Từ bi, thâu nhận sự bố thí của tôi, sự hoan hỷ của tôi! Chớ khiến cho tôi hôm nay, do dùng lời nói thô lỗ này, mà bị quả báo ác!

Bấy giờ, Bồ-tát Hoài Lạc bạch Đức Vô Lượng Thọ:

–Thưa Thế Tôn! Nếu trời Đế Thích này, chẳng hối lỗi, vào đời vị lai, trong tám muôn bốn ngàn lần sinh, sẽ bị làm thân lừa ăn có, bị người khác khinh miệt. Vậy nên, này các thiện nam! Các ông phải luôn thận trọng ý nghĩ, giữ gìn khẩu nghiệp ấy!

Bấy giờ, Đức Phật bảo Thế Tự tại Phạm thiên:

–Này thiện nam! Ông hãy tùy ý lạc thuyết (nói điều ưa thích)! Ta đã ủng hộ lời nói của ông!

Phạm thiên Thế Tự Tại nhờ được sự hộ niệm, nên hoan hỷ chắp tay, quán sát khắp mười phương, thưa:

–Nguyện xin Thế Tôn một lòng nghĩ đến con! Nếu Phật, Bồ-tát và chúng Thanh văn, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-nala, Ma-hầu-la-già muốn làm cho chánh pháp trụ thế lâu dài thì nguyện ở chỗ này cùng con ban điều ước muốn: Nếu Pháp sư và thính chúng, muốn được tùy thuận tương ưng, không não loạn thì cùng con ban điều ước muốn! Nếu ác ma, Nhân phi nhân… kia, vào đời vị lai mà làm não loạn những người nói pháp và mọi loài chúng sinh thì con sẽ ngăn chận, thệ nguyện, đoạn dứt lòng ác ấy.

Thế Tự Tại Phạm thiên nói lên lời nói đó, âm thanh phát ra đầy khắp tất cả thế giới chư Phật. Bấy giờ, tất cả các vua Phạm thiên cùng lúc, đồng thanh nói:

–Chúng tôi cũng dùng Đà-la-ni này, cùng ban điều ước muốn. Vì sao? Vì chúng tôi về sau cũng sẽ thọ trì Đà-la-ni này, cũng sẽ ủng hộ những vị Thiện trượng phu đời vị lai, có khả năng khai thị diễn nói pháp môn như vậy cho chúng nghe pháp. Chúng tối sẽ khiến những người đó, tùy thuận tương ưng, được như sở nguyện. Chúng tôi hôm nay, ở trước Đức Phật Thế Tôn, Đại Bồ-tát và chúng đại Thanh văn ban ý muốn Đà-la-ni.

Thế Tự Tại Phạm thiên liền nói:

–Nguyện xin Đức Thế Tôn và Bồ-tát, Thanh văn, chúng đại đệ tử, ủng hộ con!

Phạm thiên đó, nói chú:

Đa địa dã tha (1) A ma ly (2) Tỳ ma ly (3) Già noa sơn địa (4) Ha ly (5) Chiên địa (6) Ma ha chiên địa (7) Già di (8) Ma ha già di (9) Tô di (10) Tát tha di (11) A bà ha (12) Tỳ bà ha (13) Ương già xà (14) Nê sỉ la khứ tỳ (15) Mậu la ba lý xỉ đề (16) Dược xoa chiên trì (17) Tỳ xá già chiên trì (18) A bạt sỉ nê (19) Tam bạt sỉ nê (20) Tăng tắc ca la nê

(21) Các bà nê (22) Mô ha nê (23) Âu già tra nê (24) Ha ma ha (25) Ha ma ha ha ma ha (26) A quân già nê (27) Khử già xá bà (28) A ma la (29) A mậu la (30) Mậu la ba lý bạt để (31) A bà la khư bà (32) Ta bà ha (33).

Thưa Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, trái nghịch, chẳng hành thần chú Thánh chúng đại tập đã nói, con ngươi của mắt rơi rớt, đỉnh đầu tan nát, các đốt chân tay phân tán.

Vị Phạm thiên đó, nói chú:

Đa địa dã tha a giả giả (1) A bà ha giả giả (2) Chửu ca la xoa (3) Già già tra (4) Khư già già (5) Na khư ca già già (6) Già già già già (7) Na già ha mậu la già già (8) Già mậu la (9) Già già ha ma mậu la già già (10) Ha mâu ha mâu (11) Bà trà bà ha (12) ta bà ha (13).

Tất cả Phạm vương cho đến vua Tỳ-xá-già, nghe nói chú đó, liền xướng: “Hay thay!” Rồi nói:

–Giả sử quỷ thần có uy lực lớn hùng mạnh, nhanh chóng, sức tiêu diệt có thể hơn ngàn lần; chúng tôi sẽ dùng chương cú Đà-la-ni này, khiến cho trói buộc hết. Tất cả quỷ thần ác ấy, có thể cùng chúng sinh tạo ra điều bất lợi, cúng tôi sẽ khiến cho chúng tạm tiêu diệt, không chỗ trốn chạy để sống.

Tự tại Phạm thiên nói:

–Nếu có người trụ ác, không có lòng từ mẫn, chẳng biết ân đức, não hại chúng sinh, hoặc quỷ hoặc ma và quyến thuộc của chúng thường đến dõi tìm vua Sát-lợi thọ chức quán đảnh; hoặc dò tìm phi hậu, vương tử, vương nữ và thể nữ, cho đến tể tướng, quan lại cùng những thứ dân khác; mà những người này, ở trong Phật pháp đã được niềm tin thanh tịnh. Đó là những nam, những nữ, đồng nam, đồng nữ, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ưa nghe pháp, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thiền định, tụng niệm tinh tấn chẳng buông lung. Quỷ, ma, Nhân phi nhân như vậy, mà dò tìm sở trường, sở đoản của họ thì chúng tôi sẽ ủng hộ họ, khiến cho họ dù trong khoảnh khắc một sát-na, lòng ác cũng không khởi lên thì làm gì mà não hại được một sợi lông! Những kẻ khởi ác tâm não loạn, phá hoại, đoạt tinh khí, dùng độc thổi vào thân họ; những kẻ theo dò tìm kiếm lỗi lầm của họ thì nhờ uy thần lực của Đà-la-ni này, bọn ma, quyến thuộc, Nhân phi nhân… ấy sẽ bị vỡ đầu làm bảy phần, con người rơi rớt, máu tim khô cạn, bị bệnh hủi trắng (bạch lại), toàn thân thối rửa ra, mất gốc thần thông, vùi lấp dưới đất. Chúng còn bị gió dữ thổi, ném đến những chỗ không người trong bốn phương, thân đầy bụi đất, lòng dạ mê cuồng, chạy rong hoảng loạn. Chỗ nào đi qua, đất đều bị phá nát, chúng rơi xuống trong chỗ ấy, sâu đến tám muôn bốn ngàn do-tuần. Ở nơi đó mạng chung; nếu là ma mà làm trái ngược với chú này thì sinh vào loài sống ở dưới nước. Người đối với Thánh giáo có niềm tin thanh tịnh, siêng làm việc Tăng, làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni… Những quỷ thần làm não loạn thì cũng bị quả báo ác, như đã nói trên, đầu vỡ bảy phần cho đến khi mạng chung. Nếu là ma trường bất thoái Đà-la-ni thì tùy chỗ hiện mà ở, chúng tôi sẽ siêng gia hộ. Tất cả chúng sinh thích pháp, chúng tôi sẽ siêng năng, ngày đêm hết lòng thủ hộ. Và tất cả bọn các độc Dạ-xoa, Phúđơn-na… tôi sẽ xua đuổi ra khỏi cảnh giới ấy. Nếu Đà-la-ni này trụ ở đất nước có đấu tranh, đói kém, bị oán địch phương khác, bị gió mưa lạnh nóng chẳng phải lúc, bị dịch bệnh; thì chúng tôi sẽ đoạn trừ, khiến cho những việc ấy không còn nữa; cũng khiến cho tất cả nhân dân của nước ấy, căn lành thành tựu, tùy thuận hòa hợp, yên ổn, giàu có, khiến cho Pháp sư và người nghe pháp, danh vang xa rộng, không có bệnh khổ; đồng thời cũng khuyến khích bốn nhóm Đàn-việt cung cấp tài vật sinh sống.

Phụ lục những bài chú trong bản của nhà Minh để đối chiếu với những bài chú ở trên

Đa địa dã tha ương già la ương già la (1) Băng già la (2) Bát la bằng ca la (3) Ba da nhị ha nhị si lam bà tư (4) A khê a khứ môn bạt lợi (5) độ mê đồ mạn đế (6) Kê bạt tri kê du lợi (7) Tam ma bà ha nễ (8) Tam mạn đa bạt đạt lợi (9) Đạt mê đạt mê (10) Đà ma kê (11) Xà phá kê (12) Nhị đa la nữu phá lê (13) Phá la bà đế (14) Già nị (15) Già noa bà lam đế (16) Sẩn lợi để lợi (17) Sẩn la sẩn la kê

(18) Diệm bà đế bà đế (19) Tra ca tư tra kiến đế (20) Tra ca bà lam đế (21) Già noa bà hán đế (22) Sẩn lận đế (23) Thỉ lận đế (24) Tần đầu bà đế (25) Cù bà ế (26) Thọ ly nhị đa la thọ ly (27) Thọ lý a già ly (28) A bà mê (29) Ta tả đa tha đương (30) Hô lô sẩn ly (31) Chiên thế lệ tam ma đạt mê (32) Đà mê (33) Câu châu lô (34) Mộ châu lô (35) A chất tra chí ly (36) Chí già bà ha (37) Châu lô châu lô (38) Nhị đa la bà ha (39) Câu lô câu lô (40) ta la ta la (41) Câu châu câu châu (42) Ma-ha tát la (43) Đô châu đô châu (44) Ma ha tát để da (45) Hê ly đà da bổ số tỳ (46) Tô bổ số tỳ (47) Độ ma bát ly ha lệ (48) A bà di lô chí nê (49) Ca lạc si tỳ (50) A bà da ma tát đố tỳ bà ha (51) Để để lệ (52) Ma ma lệ (53) Bát thấp phược khứ (54) Thi thi la (55) Lô ca tỳ na da ca (56) Bạt thời lệ bạt thời la đạt lệ (57) Bạt thời la bà đế (58) Bạt thời la đà đề (59) Chước ca la bạt thời đề (60) Chước ca la bạt thời ê (61) Chước ca lệ già bà nê (62) đạt lệ đạt lệ (63) Bà lệ bà lệ (64) Bố lệ (65) Tra lệ (66) Hô hô lệ (67) bàng già tần bà lệ (68) Xá lị xá lị (69) Chí ly châu ly (70) Mộ lệ (71) Mạn trà lệ (72) Mạn trà nê (73) Già già la ni (74) Mộ trà nê (75) Tát ba mộ trà nê (76) Địa địa la da nê (77) Ma ê thấp phược la la da nê (78) Kê ly sân xà nê (79) Đà bà bà chí (80) Chiên trà la lê mê (81) Tát bà tát tả a địa sắt sỉ đa (82) Sấc điện đô bà ha na (83) Ma nhị nê (84) Phá la la để (85) Ô xà già lệ (86) Tỳ chí nê (87) Bà na la ha (88) Bồ bồ lệ (89) Cù lô cù lô (90) Mộ lô mộ lô (91) Sẩn ly sẩn ly (92) Ha la ha la (93) Ca kiến trà bà ha (94) Sẩn sẩn sỉ (95) A dụ na kiến trà (96) Thời phược la bà tê (97) Yết đà nê (98) A đà ha nê (99) Mạt già tỳ lô ha nê (100) Phá la tát để (101) A lô sa bà để (102) Sẩn ly sẩn ly (103) Da tha bà xà da tát phược già la (104) da tha ba lan giả hê đề da bà ha (105) Tát để da bát lý bà bà (106) mạt già tỳ lô ha nê (107) A già la bột đề (108) đà đà bát la già la (109) Ba già da tân trà ly đà da (110) Chiên đạt già la noa (111) A già lệ thâu đạt nê (112) Bát la ngật lý để mạt kỳ (113) Y la y ly ly (114) Bát la tỳ (115) Ta la bột la đế (116) Tát bà sỉ la sỉ tha đa (117) Tát để da nô già đế (118) A nam ta la na bột la đế (119) A la sỉ (120) Ương cù lệ (121) Xa trân nê (122) Bột la ma bà dụ sẩn ha a sẩn sỉ bà sẩn la (123) Ni la bà da bà (124) A chỉ la mạt già (125) La na la cù tát lệ (126) để lý la đa na bàng thế (127) Đạt ma ca gia (128) Thời phược la chiên đạt lệ (129) Tát mẫu đạt la bà để (130) Ma ha bộ đà tỳ da (131) Tát mẫu đạt la tỳ già bà để (132) Đà la ni một đạt lệ (133) Ma sỉ một đạt la (134) Tô la bát la để tam tỳ đà một đạt la (135) A bạt sỉ ni (136) Tam phiệt sỉ ni (137) Tam mộ hạ tắc ca la (138) Tỳ địa dụ đa la tê na (139) Sí để một đạt ly đô tử (140) Duệ kê chất tất lị địa tỳ bà ha (141) Bà ha bà ha bà ha (142) Kê tra ca bà tra (143) Thế la bát la để để da hê ly đa duệ na (144) Một đạt ly đa đà la ni (145) Đà la đà la đà la (146) đàn địa la đàn địa la (147) Hô sắc ca tát bà hê đà da (148) Đạt ly đổ tử (149) Xà trà xà bà tra (150) Xà khứ bà tra (151) Tô ma để ma để (152) Ma ha đà bộ sỉ đạt sỉ (153) Chất sát trà da đan na ni thất ly đa bộ đa (154) Y ni nhị ni (155) Tát già nê (156) Cù sa tát già nê (157) Một đạt ly đa già ly da a địa sắt sá na (158) Bạt bát tha na a nịch tha (159) Ma ha bố ni da tam một già da a bà đa la (160) Ma ha ca lô noa da một đạt ly đa (161) Tát bà tam miệu ba la để bát chỉ la la sỉ lam (162) Thời phược la đổ đạt ma nê để ly (163) Tát tỳ mộ ni bột ly sa bà ma ha ca lô noa tam ma đề (164) Nhã na la bà bạt lệ na (165) Mai để ly để da già để (166) Tỳ ly da bạt lệ na a địa sắt si đa (167) Tát bà bộ đô ô ba già da dã (168) Tát bà ha (169).

(Hết bài một của phẩm thứ sáu)

Bài chú thứ hai của phẩm thứ sáu

Đa địa dã tha sàn đế (1) A ta ma lộ tỳ (2) Di đế lệ tô ma bà để (3) Ải sẩn na bà quân xà tỳ (4) Na bà quân xà tỳ (5) Na bà quân xà tỳ (6) Mậu la thâu đà nê (7) Bà trà khứ (8) Bà trà khứ (9) Ma la bà sỉ tha đa (10) Bạt lý xỉ đà (11) Bà pha ta ba pha ta (12) A mậu la (13) A giả la (14) đà đà ba la giả la (15) Tỳ địa lệ (16) Ải ca na da bạt lý xỉ đà (17) Chiên đà na đê lý ni (18) Bồ tát ly (19) Bồ tát la đê lý ni (20) Khứ già tẩu la đê lý ni (21) Ta na bà tẩu la đê lý ni (22) Bộ đa cú chỉ bả lý xỉ đà (23) Xà la khứ la khứ (24) Ba duệ xà đê khứ (25) Na ma khứ xoa khử (26) Ca ca xỉ (27) Ha ha ha ha (28) Hổ hổ hổ hổ (29) Ta bà lý xà tỳ đà na ba lý xỉ đà (30) A ma ma nhĩ dã ma ma (31) Khí dã ma ma (32) Ta mẫu đà la mẫu đà la bà khư (33) Tăng tắc ca la nương bả lý xỉ đà (34) Bồ-đề tát (35) Khất sử chỉ tỳ ma (36) Ma ha tỳ ma (37) Bộ sỉ cú chỉ (38) A ca xả thỉ bà ta bả lý xỉ đà (39) ta bà ha (40).

QUYỂN 7

Phẩm 6: Đà-la-ni (tt)

Bấy giờ, trong chúng có một vị Đại phạm Thiên vương tên Diệu Âm, ở vào địa vị Thập trụ Ma-hatát. Nếu ở trong hàng Phạm, là bậc tôn quý trong các Phạm. Nếu ở trong hàng ma là bậc tôn túy trong hàng ma. Nếu ở trong hàng Đế-thích là bậc tôn túy trong hàng Đế-thích, cho đế Tỳ-sa-môn, Tỳ-lâu-trà, Tỳ-lâu-bác-xoa, Đề-đầu-lại-tra, Đại-tựtại, Na-la-diên, A-tu-la… đối với các chúa trời, ấy là đấng tôn quý trong các chúa trời. Lúc đó, Phạm vương Diệu Âm biến làm hình sắc đệ nhất nữ nhân, với tướng hảo viên mãn, uy nghi đầy đủ, đồ dùng trang nghiêm thắng diệu mà tự trang nghiêm, ở trước Đức Thích-ca Như Lai, chắp tay đang ngồi, rồi dùng hai tay bưng ngọc báu như ý, cúng dường Đức Phật, chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Phật, mắt chẳng nhìn chỗ khác, các căn tịch nhiên, chẳng dùng các tướng mà quan sát Đức Như Lai.

Thấy vậy, Đức Thế Tôn bảo Phạm thiên Diệu Âm:

–Vì sao nay mắt ông chẳng tạm nháy, thậm chí dùng vô tướng mà quán sát ta vậy? Này thiện nam! Có một pháp gọi là Phật sao? Có một vật là danh sao? Như tham, sân, si, vô minh, phiền não…. Có danh vật duyên tướng, tướng duyên vô minh, vô minh duyên hành, cho đến nói rộng tướng diệt, vô minh diệt, hành diệt cũng lại như vậy.

Phạm thiên Diệu Âm thưa:

–Quả thật đúng như lời nói của đức Thánh! Vì sao? Vì Vô minh chẳng thể được! Thưa Thế Tôn! Nếu vô minh chẳng thể được thì mười hai nhân duyên đó từ đâu mà khởi lên? Có thể từ hư không sinh ra sao? Mà hư không lại chẳng thể được.

Đức Phật nói:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nam! Tất cả pháp như hư không. Vì sao? Vì hư không là không vật, không tướng, chẳng phải tối, chẳng phải sáng, chẳng phân biệt, chẳng phải không phân biệt, không thành, không hoại, chẳng thể nói, không một vật,không phân đều, đoạn tất cả vật. Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nam! Phật pháp chân tế đoạn; Phật pháp Như như; Phật pháp chẳng chọn lấy bờ này bờ kia; Phật pháp chẳng giảm chẳng tăng; Phật pháp chẳng phải ấm, giới, nhập, thể không phân ranh. Hoặc thật, hoặc vật, hoặc tướng, tất cả đều không có. Phật pháp không động, không trụ, chẳng dối đặt để. Phật pháp dứt tất cả đường ngôn ngữ, nói năng.

Khi nói pháp này có tám muôn bốn ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có ác ma nói:

–Nếu Phật pháp như hư không, chẳng phải vật, chẳng thể nói thì tại sao, ngài dùng trí tuệ, tinh tấn, phương tiện cần lao não hại đến tôi, phá cảnh giới của tôi, thậm chí đoạt lấy chúng sinh của cảnh giới tôi? Ngài dạy bảo chúng sinh, chẳng đến, chẳng đi, không vật huyễn thật. Nếu ngài dạy chúng sinh như vậy thì chẳng thấy phiền não của chúng tôi phát khởi. Vì sao, Ngài vì tôi, ở nơi thế giới Ta-bà này, mà triệu tập vô lượng, vô số những Đức Phật Thế Tôn, Đại Bồ-tát và đại Thanh văn, Phạm vương, Đế Thích, trời Hộ thế, Ma-hê-thủ-la có đại thần thông, có đại gia hộ như vậy? Thậm chí Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, đại chúng ở tất cả các cõi Phật đều cùng đến đầy khắp và khiến cho ông Đại phạm, không có lòng Từ, nói chú như vậy? Chúng tôi nghe đều bị đau đầu, chịu khổ não lớn, thậm chí còn khiến cho cả trên dưới thân thể thối rữa?

Bấy giờ, lại có sáu vạn tám ngàn các Ma vương và vô lượng, vô biên chúng ma của họ, Dạ-xoa, Lasát, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già cực ác… tất cả đồng thanh xướng:

–Đồ đảng chúng tôi khi vừa nghe chú thì tăng thêm đau dầu, thân đều thối rữa, chịu khổ rất nặng!

Đức Thích-ca Như Lai bảo các ma:

–Ta nhớ ngày xưa khi ngồi dưới cây Bồ-đề đạo tràng, chúng ma quân của ông ở khắp tám mươi do-tuần và cả trên hư không cũng đầy khắp, muốn đến hại ta. Cho đến ngày nay lại cũng đem vô lượng câu-chi binh chúng đến hại ta. Ta cũng triệu tập vô lượng, vô số các Đức Phật Thế Tôn, Đại Bồtát, cho đến Nhân phi nhân khắp nơi như vậy đến tập hội; vì muốn khiến cho ông và những ma khác, Nhân phi nhân… đều được hàng phục, diệt được tất cả khổ, được niềm vui Niết-bàn tịch diệt; dạy cho các ông chẳng đến chẳng đi, tính vô sở hữu pháp như huyễn hóa; tất cả chỗ hướng tới, tất cả diệt, tất cả khởi, dòng sông ái sinh tử đều khô kiệt; cũng vì muốn khiến cho các ông và tà kiến tất cả chúng sinh đều được vào cảnh giới Vô dư Niếtbàn. Này Ma vương! Các ông hôm nay, hãy mau chóng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì bệnh đau đầu này sẽ được giải thoát, dần dần tu tập tánh không thì Phật pháp sẽ được hiện tiền và được cảnh giới của chư Phật, thắng được cảnh giới của ma, thu hoạch được lợi ích lớn.

Lúc bấy giờ, sáu muôn tám ngàn những ma, đồ chúng của ma đồng thanh xướng:

–Thưa Thế Tôn! Chúng con hôm nay phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì làm sao để được Phật pháp hiện tiền, tự tánh không, bình đẳng; cho đến được cảnh giới thắng diệu của Phật và lợi ích hy hữu?

Có ác ma nói:

–Giả sử chúng ta sau này mà thân bị bệnh đau đầu nặng thì ta nhất định chẳng theo lời dua nịnh huyễn hoặc như vậy mà phát tâm Bồ-đề.

Bấy giờ, Đại phạm Diệu Âm nói:

–Ta nay, cũng ở trước Đức Phật, dùng giáo pháp vi diệu của cõi Phật này mà dũng mãnh thọ trì và ở thế giới ngũ trược này, mà lưu truyền, ban bố lời dạy tôn quý của Đức Thích-ca Như Lai. Từ nay trở lui, cho đến khi Đức Thích-ca diệt độ, ta luôn khiến cho pháp giáo hóa này sẽ được rực rỡ. Tùy theo đất nước nào có chúng sinh chánh tín, ta đều đem cho khiến cho chẳng thoái lui, mau ra khỏi lưới ma. Nếu pháp môn này, mà thế gian nào chưa lưu hành thì ta sẽ khiến cho lưu hành. Nếu chỗ đã lưu hành thì ta sẽ khiến cho lòng tin ấy thêm sâu rộng bội phần. Những thiện nam, thiện nữ nào ở trong thành ấp, xóm làng đó ta sẽ ủng hộ, nuôi dưỡng cho họ có từ tâm, ngăn chận việc phi nghĩa của họ, răn bày thiện nghĩa. Tùy chỗ có pháp môn Bất thoái ma trường Đà-la-ni, ta sẽ cho ghi chép, giữ gìn; tùy theo chỗ, có Pháp sư nào lên tòa Sư tử, muốn khai thị diễn nói thì trước tiên Pháp sư phải chí tâm tụng chương cú Đà-la-ni này, kêu gọi triệu mời ta cùng các quyến thuộc. Ta sẽ tự đi đến chỗ vị Pháp sư đó, vì ông mà tạo sự ủng hộ và khiến cho chúng nghe pháp, được đại cát tường.

Đại phạm Diệu Âm ở trước Đức Phật, nói chú: Đa địa dã tha a bà di a bà di (1) Am bà ly am bà ly (2) Bạt lý quân xà na trà na tra (3) Bổ sa ca la bà ha (4) Xà lậu khư (5) Ma khư da (6) Y lê nhị lê (7) Chỉ lê nhị lê (8) Cát chỉ già la mẫu đà ly (9) Mẫu đà la mẫu bả (10) Ta bà ha (11).

Thưa Thế Tôn! Chỗ nào có Pháp sư nói pháp, trước tiên cần phải tụng câu chú này. Con dùng Thiên nhãn thanh tịnh ở thượng giới, nghe âm thanh ấy mà chẳng đến chỗ đó để làm việc thủ hộ, là con đã lừa dối tất cả các Đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại. Chư Phật cũng không khiến cho con được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Con nhất định đi đến chỗ vị Pháp sư nói pháp đó, cung kính làm lễ dưới chân, cũng cùng Pháp sư biện tài lạc thuyết. Con sẽ làm cho Pháp sư và chúng nghe pháp, tất cả bệnh khổ, ác kiến, ác tác, lòng tà, nghi hoặc đều đoạn diệt hết. Thưa Thế Tôn! Tùy theo phương tiện với pháp môn này, mà nếu có người thọ trì, đọc tụng; thì con và quyến thuộc sẽ đi đến chỗ người đó. Nếu ở đó, có tất cả những thứ đấu tranh, đói kém, bệnh hoạn, ưu não, oán địch trong ngoài, nắng hạn, mưa ngập, lạnh nóng thất thường tự, gió mưa chẳng đúng lúc, ác kiến, ác tác; thì con sẽ làm cho tiêu diệt cả. Những nỗi sợ của người và chẳng phải người, súc sinh… những giấc mơ chẳng tốt lành, ác tướng, ác nhân, không có nhuận trạch, vị đắng thô ráp, cay thối khó chịu tất cả những hoạn nạn như vậy, con sẽ đoạn trừ hết. Cho đến sư tử, ác thú, rồng độc, trâu hoang, sài lang, đạo tặc, Nhân phi nhân gian trá… vô lượng những nỗi sợ, con cũng đều đoạn diệt hết, sẽ khiến cho chúng sinh được đồ ưa thích, như đầy đủ ngũ cốc, dược thảo, hoa quả, đồ ăn uống thượng vị, y phục, nhà cửa, chăn chiên, ngọa cụ và quả báo đều thành tựu sung mãn. Ở chỗ có pháp môn này lưu thông, nếu có việc chẳng lợi ích, con sẽ ngăn chặn; việc lợi ích thì con sẽ khiến cho thành tựu. Nếu chúng sinh đó, tin ưa chánh pháp, làm hạnh thiện; thì con sẽ răn bày, khiến cho phước tăng trưởng. Con nay ở trước tất cả các Đức Phật này, lập đại thệ nguyện. Nguyện xin chư Phật đồng thương xót con, khiến cho đại nguyện làm Phật sự của con thành tựu. Nguyện thành tựu mọi chỗ sở y của ý đều tròn đầy. Nguyện tròn đầy về những thành tựu sở tác của bậc Trượng phu.

Bấy giờ, Đức Thích-ca Như Lai đứng đầu cùng tất cả chư Phật, đồng chung sự thương xót thâu nhận lời phát nguyện của Đại phạm Diệu Âm và cùng nói:

–Này thiện nam! Chúng ta sẽ đem chú Đà-la-ni cho ông thọ trì. Vì sao? Vì nếu tất cả Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Tứ Thiên vương và những trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la khác… đối với lời Thánh giáo của Đức Phật, mà khởi tâm bất tịnh; thì nhờ lực của chú này, đều sẽ được nhiếp phục.

Khi Diệu Âm Đại phạm tác khởi như vậy thì việc làm của bậc Đại trượng phu xem như đã được kiến lập. Chư Phật mười phương đồng xướng lên:

–Nguyện cho nguyện lực của Diệu Âm Đại phạm thành tựu!

Đức Phật liền nói chú:

Đa địa dã tha giả vấn trì (1) Vấn trà bả lý xỉ đề (2) Ha mậu ma (3) Ha mậu ma (4) Ta la xoa (5) Bà la cửu ta nhị khư (6) bả lý bà ha (7) Già la ma (8) Dã tha giả sưu tỷ khư a mậu la bả lý xỉ đề (9) Tát bà bộ đà địa sử sỉ chi (10) Ta bà ha (11).

Đức Thích-ca-mâu-ni Thế Tôn nói xong chú đó lại nói:

–Này thiện nam! Đà-la-ni này, có thể khiến cho tất cả ma và Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Tứ Thiên vương và những Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la có ánh sáng lớn nhiếp lấy tất cả Nhân phi nhân… và đều có thể khiến cho họ hồi hướng công đức chư Phật. Ông nay nếu có thể thọ trì Đà-la-ni ấy, tức là đã có thể làm việc làm của bậc Đại trượng phu.

Đại phạm Diệu Âm thưa:

–Thưa Thế Tôn! Con nay dùng hình tướng nữ nhân này, sẽ khéo hộ trì tất cả nữ nhân, sẽ khéo thành thục tất cả nữ nhân. Thưa Thế Tôn! Nếu có nữ nhân chán ghét thân nữ, cầu tướng trượng phu thì phải thọ trì, đọc tụng, chép thành sách, cúng dường kinh này. Con sẽ đi đến chỗ nữ nhân ấy giúp họ thành thục việc thọ trì, đọc tụng, chép thành sách, cúng dường chú này. Nếu có nữ nhân nhàm chán những tai họa nam nữ thì cũng nên thọ trì, đọc tụng, chép thành sách, cúng dường kinh này; như vậy, sức trì chú của nữ nhân, tuy chưa lìa dục, nhưng chẳng thọ thai. Lại có nữ nhân, bị người khác khinh khi hèn hạ, bị người lừa dối, lấn hiếp, mất hết các lạc thọ; thì cũng nên đọc tụng Đà-la-ni này. Do sức uy thần của Đà-la-ni, tất cả sẽ được toại nguyện, các niềm vui sẽ được thành tựu.

Lúc bấy giờ, Đại phạm vì sự cúng dường, vì sự hộ trì pháp môn Đa-la-ni thần lực này, vì thỏa mãn nguyện tất cả chúng sinh, liền dùng hai tay, bưng ngọc báu ma ni, dâng lên cúng dường, tất cả chư Phật mười phương. Các Đức Phật đồng lên tiếng:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nam! Nguyện cho ông luôn có thể hộ trì Phật giáo, làm mãn nguyện chúng sinh.

Phẩm 7: NHIẾP THỌ DIỆU PHÁP

Bấy giờ, trong hội có vị Đại Bồ-tát tên là Diệu Tuệ Thông Đạt, ngồi trước Đức Như Lai Thắng

Châu Viêm, cách Đức Như Lai Thích-ca chẳng xa.

Ở trong khoảnh khắc mâu-hốt-đa, hiện làm tướng Phạm, trong khoảnh khắc hiện làm hình tướng ma cho đến hiện hình tướng trời Đế Thích, hình tướng trời Tha hóa tự tại. Lại nữa, ông hiện làm hình tướng các bậc trời, như hình tướng trời Hóa lạc, trời Đâu-suất, trời Dạ-ma, hình tướng Tứ Thiên vương, trời Đại tự tại. Hoặc hiện hình tướng Dạxoa, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-lagià, La-sát, Ngã quỷ, Tỳ-xá-già, Cưu-bàn-trà, Sátlợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà… Hoặc hiện hình tướng sư tử, voi, ngựa, trâu nước; cho đến thị hiện đủ thứ hình tướng súc sinh. Ở trong khoảnh khắc sát-na, ông hoặc hiện chim, cây, núi, trái cây, y phục, ngọa cụ, đủ thứ y dược, khí cụ báu trang nghiêm. Trong khoảnh khắc sát-na ông thị hiện hình tượng Phật, hoặc hiện tám muôn bốn ngàn thứ sắc tướng, cho đến những hình dáng diện mạo tròn vuông, nhan sắc tịnh diệu. Bấy giờ, Trưởng lão Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử đứng dậy, chắp tay, hỏi Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai:

–Thưa Thế Tôn! Vì nhân gì, duyên gì, mà vị Bồ-tát này, có tám muôn bốn ngàn tướng tịnh diệu và đủ thứ loại thân vuông tròn, sắc chủng như vậy? Đức Phật bảo Tôn giả Phú-lâu-na:

–Bồ-tát này, có đại công đức nhiếp lấy cảnh giới lực, mà tát cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể bì kịp. Đại Bồ-tát Diệu Tuệ Thông Đạt theo chỗ trụ kia mà thọ lãnh cảnh giới lực để thành thục chúng sinh. Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng phải ở địa vị ấy. Tùy theo vô lượng, vô số chúng sinh, đầy khắp mười phương, hoặc tịnh hay bất tịnh; ở những cõi Phật, ông ấy thường dùng tuệ nhãn không chướng ngại, để thấy đúng như sở nguyện, đúng như điều nghĩ, đúng như sự ràng buộc phiền não, đúng như chỗ nương về. Bồ-tát này, vào Tam-muội như vậy, dùng sắc mạo uy nghi, để tùy theo chỗ vuông tròn đầy đủ các loại sắc tướng, cho đến hình tướng Phật để hóa độ chúng sinh, an trí họ ở Tam thừa, trụ địa vị Bất thoái. Nếu chúng sinh, vì tham lam những vọng cầu, mà chẳng tự tại thì vì đoạn dứt sự tham đó, ông sẽ cho họ nhu cầu ấy, sau đó, mới an trí họ vào địa Bất thoái. Nếu người bệnh hoạn cần thuốc men thì ông liền cho họ thuốc; sau đó, mới an tập họ ở địa Bất thoái. Này Phú-lâu-na! Bồ-tát Diệu Tuệ Thông Đạt này, ở trong một ngày, có thể độ được số chúng sinh nhiều như cát sông Hằng, giải thoát tất cả khổ, an trí họ vào địa vị Bất thoái tam thừa.

Tôn giả Phú-lâu-na bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Vị thiện nam này, thành tựu chúng sinh, làm việc của bậc Trượng phu, đến nay đã lâu chưa?

Đức Phật nói:

–Số kiếp lâu bằng vi trần của a-tăng-kỳ cõi

Phật; ông thiện nam này, đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trải qua thời gian ấy, ông đã được sức Tam-muội gia hộ, kiến lập việc của bậc Trượng phu cho đến nay. Lại nữa, ông ấy cũng đã trải qua sáu mươi bốn a-tăng-kỳ kiếp.

Phú-lâu-na thưa:

–Bồ-tát Diệu Tuệ từ đây đến bao lâu và ở cõi Phật nào, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Đức Phật nói:

–Lại trải qua hai mươi sáu trăm ngàn đại kiếp, qua khỏi số kiếp đó rồi, có đại kiếp tên là Năng Độ, có thế giới tên là Ma-ni hoa tu-mạn. Chúng sinh nước ấy, đều sống lâu bốn mươi ngàn năm, Bồ-tát Diệu Tuệ ở trong số chúng sinh ác làm việc ngũ nghịch, bất thiện, sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật ấy, hiệu là Khai Phu Vô Biên Quang Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tamphật-đà. Đức Phật ở trong bốn mươi ngàn năm, luôn luôn làm Phật sự và dùng sức Tam thừa, thành thục chúng sinh, khiến cho hết thảy họ được Bátniết-bàn. Từ đó trở về sau, Đức Phật Vô Biên Quang dùng Vô dư Niết-bàn mà vào Bát-niết-bàn. Tôn giả Phú-lâu-na thưa:

–Bạch Thế Tôn! Những chúng sinh đã được Bồ-tát này thành thục trước đó, sẽ sinh ra ở đâu?

Đức Phật nói:

–Bồ-tát này, trước đã tác khởi nguyện, chẳng tự nhiếp thọ như vầy: “Mười phương thế giới, ở mỗi một phương cõi Phật, nối nhau không gián đoạn, nhiều như số vi trần, các Đức Phật có trong những cõi Phật đó khiến cho ta được thấy. Nếu ta chẳng thấy những Đức Phật đó, chẳng thủ lấy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trước đây, lúc ta hành Bồ-tát đạo, khuyến phát chúng sinh thì trước tiên là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, rồi thị hiện giáo hóa, kiến lập với sáu pháp Ba-la-mật. Người đã thành thục thì biến khắp các cõi Phật trong mười phương. Người đã được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì cũng khiến cho ta nhìn thấy. Nhờ thần lực trang nghiêm Tam-mađề gia hộ như vậy, nên mỗi một cõi Phật, nối tiếp, không gián đoạn, trong số các cõi nước, nhiều như vi trần ở mười phương; ta có thể làm việc của bậc đại trượng phu như vậy. Và đối với chúng sinh tạo tác ngũ nghịch tội, chẳng thể trị, cho đến chúng sinh đầy đủ pháp bất thiện, trong những cõi Phật đó, sau khi mạng chung ở đó, nhờ nguyện lực của ta, nên đều vãng sinh đến cõi nước của ta. Ta làm Bồ-tát, khiến cho chúng sinh này gieo trồng các căn lành, an trí họ vào địa vị không thoái chuyển; sau đó, thân ta sẽ thủ lấy Chánh giác.” Bồ-tát Diệu Tuệ có nguyện lớn như thế!

Lúc bấy giờ, các vị Bồ-tát đến từ các cõi nước chư Phật trong mười phương, đồng nói:

–Chúng ta hôm nay, từ khắp nơi vân tập đến cõi Phật này, được thấy Đại sư có tướng như vậy, thấy những vị Bồ-tát có đầy đủ đại Bi đại tập hội và được nghe điều xưa kia chưa nghe: Pháp thức ủng hộ của Kim cang pháp đẳng nhân duyên pháp tâm năng kiến lập tồi toái Đà-la-ni Ấn cú sai biệt môn ký của các Đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại.

Phẩm 8: THỌ KÝ

Lúc bấy giờ, Đức A-súc Như Lai bảo khắp tất cả đại chúng:

–Ta khuyên thiện nam các ông, Phạm thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương, Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tula, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… những người có niềm tin thanh tịnh đối với lời dạy của Đức Phật, đã tập hội về đây, được thấy tất cả các Đức Phật Thế Tôn và các vị Đại Bồ-tát, Đế Thích, Phạm vương, Thiên vương, Nhân phi nhân… ở khắp nơi vân tập lại. Tướng lớn như vậy rất là khó được! Các ông hôm nay thấy tập hội ở chỗ này, đứng trước Đức Như Lai, các ông từng người nên tự nguyện. Các ông nay ở cõi Phật này, nếu có ở đời hiện tại và đời vị lai thì nhất định có thể hộ trì diệu pháp này, khiến cho hạt giống Tam bảo thường được hưng thạnh.

Bấy giờ, có ma tên là Tức Hoa, dùng khí cụ bảy báu, đựng đủ thứ hoa quả và mạch nha; tự biến thân hình mình; thành hình dáng nữ nhân, với đầy đủ sắc tướng vi diệu, đoan chánh đệ nhất, viên mãn không ai sánh bằng. Ma đó, dùng y phục đệ nhất nghiêm sức thân mình, mang đồ báu đựng hoa, dâng lên cúng dường Đức Phật, nói:

–Xin các Đức Phật Thế Tôn, một lòng nghĩ đến con! Nếu các Đức Phật có trong thế giới này và thế giới khác, đến tập hội ở đây; với tất cả chư Phật Thế Tôn như vậy; hôm nay, con đem tất cả hoa trái và mạch nha, đựng đầy trong bảo khí hiến dâng lên Đức Phật; nguyện xin chư Phật, Từ bi thâu nhận hết! Cho con thành tựu viên mãn nguyện Bồ-đề. Cho con hết Hiền kiếp này, ở trong tất cả cõi Phật, sẽ dùng hình tướng nữ nhân, ban cho chúng sinh, đồ ăn, thức uống, hoa trái, cho đến thành thục chúng sinh. Nhờ phước báo này, khiến con viên mãn đủ sáu pháp Ba-la-mật, được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và chúng sinh mà con đã hóa độ đều được cung cấp, không có sự thiếu thốn. Lúc bấy giờ, tất cả các Đức Phật đồng nói:

–Hay thay, hay thay! Này thiện nam! Ông có thể dùng tâm thanh tịnh, kiến tập đại thí và cúng dường tất cả các Đức Phật Thế Tôn. Ta nay đã thọ sự bố thí của ông khiến cho những gì ông sở cầu, đều được như điều ông cầu; và cũng khiến cho ông được viên mãn ý nguyện cầu xin lúc bấy giờ; là công đức thành tựu và thần thông thành tựu.

Ma Tức Hoa lại nói:

–Như ở thành, ấp, thôn, xóm, người nào có thể thọ trì, khai thị kinh điển này, có người chép kinh thành quyển và cúng dường; thì con sẽ ở thành ấp, xóm làng đất nước đó, cho đến chỗ biên cương có người ở; làm cho hoa quả, ngũ cốc đâm hoa kết trái. Ở tòng lâm ấy mọi sự đều thành tựu. Chúng sinh có trong tất cả những chỗ đó, thậm chí loài cầm thú ăn hoa quả thì con cũng đều khiến cho sung túc. Thưa Thế Tôn! Nếu có người nào ở bất cứ đâu, thích ăn trái cây, nhưng chẳng được ăn, mà mạng chung; hôm nay, tức là con đã lừa dối tất cả các Đức Phật ba đời và những Thánh chúng trong đại hội này và cũng chớ cho con được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ trừ khi nghiệp hết và mạng hết. Những thứ hoa quả mỹ vị có được đều khiến cho chúng sinh khắp nơi được thọ dụng. Do cái nhân này, nên khiến cho con đầy đủ Bố thí ba-la-mật. Nếu những chúng sinh ăn quả trái thì những chúng sinh này, sẽ khởi tâm Bi làm lợi ích lẫn nhau, do cái nhân này, nên khiến cho con đầy đủ Trì giới ba-la-mật. Nếu các chúng sinh thọ dụng hoa trái thì những chúng sinh sẽ khởi tâm nhu nhuyến; do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu các chúng sinh thọ dụng hoa quả, sẽ khiến lòng tinh tấn kiên cố. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Tinh tấn ba-la-mật. Nếu chúng sinh thọ hoa quả của con thì tâm, tâm sở pháp khởi lên vô thường tưởng; do cái nhân này, nên khiến cho con đầy Thiền ba-la-mật. Nếu chúng sinh, thậm chí loài cầm thú, ăn hoa quả, khiến cho chúng ưa pháp, được trụ tánh không; do cái nhân này nên khiến cho con đầy Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, tùy theo chỗ có hành pháp môn này, những chúng sinh ở đó sẽ có đủ thứ lúa nước, lúa mì, đậu, hoa trái đủ loại. Do đó, con cần ra sức lao động để vì những chúng sinh đó, thu hoạch được nhiều hạt giống, khiến cho kho chứa lúa tràn đầy. Nếu chúng sinh đó, cho đến loài cầm thú ăn hoa quả thì do cái nhân này, khiến cho con đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Nếu mỗi một địa phương lưu thông, khai thị pháp môn này, tùy theo chỗ đó sẽ có mía, quả bồ đào, quả thạch lựu… tất cả nước cốt, hương vị, không thứ nào mà không thơm ngon hơn bội phần, so với thứ thường và những bình vò, hủ, đồ đựng của chúng sinh, đều khiến cho tràn đầy. Nếu có chúng sinh thọ dụng thì đều được thêm lớn trí tuệ và sắc lực; do cái nhân này, nên khiến cho con đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Thưa Thế Tôn! Con được đầy đủ nhân duyên thanh tịnh của sáu pháp Ba-la-mật như vây, khiến cho con được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả các Đức Phật và tất cả chúng Đại Bồ-tát sẽ tùy hỷ cho con có thể tạo tác hành tướng của Bồ-tát như vậy. Tất cả các Đức Phật và tất cả đại chúng đều mặc nhiên hứa khả.

Lúc bấy giờ, có Đức Phật hiệu là Trí Tinh, nói:

–Này thiện nam! Ông sẽ mời tất cả chúng sinh làm đại thí chủ. Ông dùng tướng như vậy, sức như vậy; tinh tấn dũng mãnh như vậy, cần lao chẳng nghỉ như vậy, này thiện nam! Ông có thể tạo tác tướng, lực, tinh tấn như vậy, tức là đã làm việc của bậc Bồ-tát trượng phu.

Ma Tức Hoa ở trước Đức Phật Trí Tinh, nghe lời an ủi như vậy rồi liền bạch Đức Phật:

–Nguyện xin Thế Tôn một lòng hộ niệm cho nghiệp thiện của con thành tựu đầy đủ. Ở khắp nơi nơi, nếu chỗ nào, mà pháp môn này chẳng lưu hành thì con cùng quyến thuộc luôn luôn trụ ở chỗ đó và làm cho ngũ cốc, thảo dược, hoa quả… của cõi đất ấy bội phần nhiều thêm; sắc hương mỹ vị đều đầy đủ; chúng sinh lúc nào cũng thọ dụng no đủ; kho đựng, hầm trữ đều chứa đầy. Thậm chí đồ ăn của loài súc sinh, cũng khiến cho phong phú. Do căn lành này, khiến cho con đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Thưa Thế Tôn! Con ở cõi Phật này cho hết một ngàn kiếp, để làm cho được các tướng, lực, thọ ăn uống như vậy, để cho các chúng sinh trở nên sung túc. Thưa Thế Tôn! Ở mỗi một đất nước, của thế giới ngũ trược nhiều như cát sông Hằng vô lượng, vô số như vậy; con thề sẽ ở trong một ngàn kiếp để làm Phật sự lớn. Sau đó, thân con sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thưa Thế Tôn! Nay con dùng câu thần chú này, nguyện tự trì tụng:

Ma Tức Hoa liền nói chú:

Đa địa dã tha già di khư (1) Gài di khư già di khư (2) Tỳ tỳ lý đa ha sa đế (3) Bà ha bà ha bà ha (4) Ta ma la a ta ma kiếm (5) Ta la tri (6) Tỳ bà bà ta tỳ (7) Ta la ta luyện đà ly (8) Ta la ma hiển đà ly (9) Ta la bà xà luyện đà ly (10) Lung hằng bả dạ ta ma kiếm (11) Hủ hủ hủ hủ hủ hủ (12) A tăng già xã tỳ (13) Sỉ khư sỉ khư sỉ khư (14) Bà do bà nghĩa (15) Ưu ba na dã (16) Lung hằng bả dạ (17)Tỵ xà pha la bổ sở báo sở đề (18) Đà na đà nê di na (19) Chiên đà la si di (20) Xã văn bà ha nê (21) Ta ma la (dẫn) ta ma kiếm (22) Tam miệu ba la để bát na bà viêm (23) Ta xỉ ca lý dã ma di (24) Ma nhị ma nhị ma mẫn xà bà la (25) Ta bà ha (26).

Ma Tức Hoa nói chú rồi, tự bạch với Đức Phật: –Thưa Thế Tôn! Chỗ nào có thể khai thị pháp môn kinh này và câu Đà-la-ni này, con đến chỗ đó, vì muốn tự mình thành thục, vì hạnh Bồ-đề tròn đủ. Lúc bấy giờ, tất cả các Đức Phật cùng khen ngợi:

–Hay thay, hay thay!

Tại đại hội, đại chúng Đại Bồ-tát và tất cả Phạm vương, Đế Thích, Thiên vương, Hộ Thế, Tứ Thiên vương, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàntrà, Tỳ-xá-già, Nhân phi nhân từ trong tất cả các cõi Phật đã đến đây, đều đồng thanh xướng lên:

–Hay thay, hay thay! Thưa thiện nam! Ông có thể dùng hình tướng nữ này, tu hành sáu pháp Bala-mật, thành thục chúng sinh! Bằng sức lực, phước đức, tinh tấn của chúng tôi; chúng tôi nguyện cho việc Phật sư của ông sẽ được thành tựu.

Đức Thích-ca Như Lai lại nói:

–Có ai thương xót thiện nam này thì có thể trợ giúp!

QUYỂN 8

Phẩm 8: THỌ KÝ (tt)

Bấy giờ, quyến thuộc của ma Tức Hoa đồng thanh xướng:

–Thưa Thế Tôn! Quyến thuộc chúng con, tùy thuận trợ giúp! Nếu ông khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì sẽ thọ ký Bồ-đề cho chúng con.

Ma Tức Hoa nói:

–Đúng vậy! Này các thiện nam!

Quyến thuộc của ma nói:

–Có chúng sinh dòng giống thấp hèn, ở dưới đất mà vẫn thâu lượm những quả trái để thọ dụng thì do căn lành này, sẽ khiến cho chúng tôi được an lạc lớn, được lợi ích lớn.

Ma Tức Hoa lại bạch Đức Thích-ca Như Lai:

–Chính con hộ trì giáo pháp của Đức Thế Tôn! Chính con làm rỡ ràng chánh pháp của Đức Thế Tôn! Việc làm đầu tiên của con, đó là tiêu diệt đói kém. Nguyện xin Đức Thế Tôn, thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho con.

Ma Tức Hoa, năm vóc gieo xuống đất, đầu mặt lễ bái dưới chân Thích-ca Như Lai, rồi lui về một bên. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì ma Tức Hoa nói kệ:

Ông dũng mãnh, làm con Thiện Thệ
Mặt hoa sen, vô cấu, thanh tịnh
Nay có thể, phát nguyện bền chắc
Sẽ được Bồ-đề lớn tột cùng:
Những chúng sinh này, lửa đói bức
Ta vì chỗ than đến cứu hộ
Giải thoát cho tất cả chúng sinh
Sẽ làm Phật, khởi đại Bi tâm
Dùng sức Không, Vô tướng, Vô nguyện
Giải thoát chúng sinh khổ sáu đường
Luôn dùng pháp hư không thanh tịnh
Khiến cho chúng sinh được sạch trong.
Ở cõi Phật này, chẳng lâu nữa
Giác pháp chứng thành Hiệu Thắng Tuệ
Ở đời vị lai được làm Phật
Thiện trí dũng cường, hàng thắng oán.

Ma Tức Hoa nghe bài kệ đó rồi, phát sinh niềm hoan hỷ thanh tịnh đệ nhất, dùng hoa trời tung lên trên Đức Phật. Bấy giờ, lại có vị Đại Bồ-tát, tên là Thành Tựu Trí đứng dậy, hướng về các Đức Thế Tôn đến từ mười phương kia, trước dùng âm thanh giác ngộ, nói:

–Nguyện xin Thế Tôn một lòng nghĩ đến con! Vì sao? Con nhớ thuở xưa, lúc mới vào kiếp Hiền, đã từng ở chỗ Đức Phật Câu-lưu-tôn, phát đại thệ nguyện; Vì muốn thành tựu khắp tất cả chúng sinh, nên thị hiện thọ hình tướng nữ; vì muốn khiến cho bốn trăm linh bốn bệnh của chúng sinh, được tiêu diệt. Con lại thấy tinh vị của đại địa, ban rải vào rễ của những loài thảo mộc, hòa hợp thành bốn trăm linh bốn vị. Rồi tùy theo công hiệu của thuốc có thể khiến cho chúng sinh thọ dụng thì bệnh đều tiêu diệt. Con chỉ bày cách dùng bốn trăm linh bốn thứ thuốc rễ, chỉ bày cách dùng bốn trăm linh bốn thứ thuốc trái cây, chỉ bày cách dùng bốn trăm linh bốn thứ thuốc chưng nấu, chỉ bày cách dùng bốn trăm linh bốn thứ thuốc dầu chưng cất, chỉ bày cách dùng bốn trăm linh bốn thứ tá dược, chỉ bày cách dùng những thuốc trị Agià-đà cho đến chỉ bày cách dùng thuốc thang, thuốc tán, thuốc hoàn… Mọi thứ thuốc tổng trị các phần thân thể trong ngoài, thông thường có một ngàn bốn trăm chủng loại, con vì thành thục các chúng sinh, vì muốn tiêu diệt các bệnh khổ, cũng vì lợi ích các chúng sinh; nên con đều chỉ bày hết mọi thứ thuốc như vậy. Thưa Thế Tôn! Con vì Đức Câu-lưu-tôn và chúng hội của ngài, mà thường làm đủ thứ việc chạy vạy, sai bảo, cung cấp, hầu hạ, với bản tâm con hy vọng được thọ ký. Lúc đó, Đức Phật Câu-lưu-tôn liền bảo con: “Này thiện nam! Đời vị lai, lúc con người sống lâu một trăm tuổi, bấy giờ, có Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ala-ha Tam-miệu Tam-phật-đà. Đức Thích-ca Như Lai, do bản nguyện, nên tập họp lớn các Đức Phật và chúng Bồ-tát; ông sẽ ở đó, được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Về sau, Đức Như Lai Câu-na-hàm cũng nói như vậy, Đức Như Lai Ca-diếp cũng nói như vậy. Con từ xưa đến nay, phát nguyện này lâu lắm rồi, cho đến hằng hà sa số đại kiếp. Con ở cõi Phật này, làm trời Đại dược, vì chúng sinh mà diệt trừ tất cả bệnh. Vào thời gian lâu dài đó, con dùng tinh vị thấm nồng của đại địa phân rãi vào đủ thứ những rễ, cành, hoa, lá, quả, trái thuốc, khiến cho các chúng sinh khắp nơi được thọ dụng và diệt trừ những bệnh khổ trong, ngoài. Tất cả chúng sinh, nếu thọ dụng hòa hợp chân chánh thì sẽ khiến cho họ, khởi lên pháp chuyển tâm và tâm sở phân biệt vô thường, khổ, không, vô ngã. Nhờ căn lành này, mà khiến cho con đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Con ở cõi Phật này, làm việc của bậc đại trượng phu như vậy. Đúng vậy, đúng vậy! Con đã dùng hình tướng nữ nhân, trong các thế giới, nhiều như cát sông Hằng, ở khắp mười phương và vô số kiếp ở mỗi một thế giới, nhiều như số cát sông Hằng. Con đã dùng tướng, lực, tinh tấn dũng mãnh, siêng năng như vậy cho đến cung cấp hầu hạ… đầy đủ như vậy! Như vậy! Chúng sinh bệnh khổ, đều làm cho thành thục hết; về sau, thân con sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và hôm nay, con lại ở trước Đức Phật tăng tiến bản nguyện, cùng với vị Tức Hoa này tạo ra đại công đức với tâm kiên cố, thường vì nhau trợ giúp, mà không hề mệt nhọc. Hai người chúng con, chung làm hình tướng nữ, đồng một sắc mạo, vì muốn thành thục những chúng sinh, cho đến vì sự tăng thêm bội phần việc thành thục các thân nữ. Hôm nay, hai người chúng con, lấy tinh khí của đất, hòa hợp vào đồ ăn, thức uống, khiến cho những hương vị đều đầy đủ. Chúng sinh già, bệnh ăn vị này, tất cả bệnh hoạn đều tiêu diệt. Nhờ nhân thù thắng này, mà khiến cho con đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Nếu con được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, xin nguyện Đức Thế Tôn nhiếp thọ chúng con mà khen “Hay thay!”. Nếu Đức Thế Tôn đồng ban cho chúng con lời ký Bồ-đề, nguyện xin vì chúng con khen ngợi “Thiện tai!”

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Thành Tựu Trí:

–Thiện tai! Thiện tai! Này thiện nam! Ông đã có khả năng làm các việc lợi ích của bậc Trượng phu tức đã thành tựu trí Bồ-tát.

Rồi ngài nói kệ:

Vì bệnh thế gian, ông làm thuốc
Để giữ các căn được an vui
Cõi tối thượng, hoa sen thanh tịnh
Được Phật, hiệu Tỳ-lô-giá-na.

Đại Bồ-tát Trì Địa, cũng phát nguyện đó, dùng hình tướng nữ nhân hóa độ chúng sinh, như đất giữ gìn vật, nguyện cầu được thọ ký. Đức Thích-ca Như Lai cũng vì ông nói kệ:

Ông như đại địa giữ tất cả
Nay sẽ chóng thành niềm nghĩ mong
Cõi tên Thắng nhiếp công đức mãn
Làm Phật danh hiệu Trí Tự Tại.

Bồ-tát Trí Thượng nguyện thọ hình tướng nữ, hóa độ tất cả chúng sinh; cũng tác khởi ý nghĩ, mong được thọ ký như vậy. Đức Thích-ca Như Lai, vì ông nói kệ:

Trí ông sung túc mọi chúng sinh
Nhiếp lấy bằng phương tiện hoa quả
Cõi Thượng thanh tịnh chưa từng nghe
Được Phật hiệu là Thượng Thắng Nhân.

Bồ-tát Thị Hiện Khôi hóa làm hình tướng nữ nhân, dùng việc thọ dụng lửa, để thành thục chúng sinh, cũng nguyện được thọ ký. Đức Thích-ca Như Lai, vì ông nói kệ:

Bày vô thường tưởng, cho thế gian
Thành thục Bồ-đề cho chúng sinh
Cõi tên Sinh Trần rất cát tường
Ở đó làm Phật hiệu Đăng Hỏa.

Bồ-tát Động Chúng Sinh Ly Trần, nguyện làm hình tướng nữ để thành thục chúng sinh, nên thọ dụng việc gió; cũng nguyện được thọ ký. Đức Thích-ca Như Lai, vì ông nói kệ:

Lay động chúng sinh khiến hoan hỷ
Làm cho phiền não diệt rốt cùng
Cõi tên Thanh tịnh hiện bình đẳng
Sẽ làm Phật, hiệu Nguyệt Quang.

Bồ-tát Vô Chướng Ngại Đăng, nguyện làm hình tướng nữ, để thành thục chúng sinh, nên thọ dụng việc hư không, cũng mong thọ ký. Đức Thích-ca Như Lai, vì ông nói kệ:

Người được trí Vô y thanh tịnh
Hay nói đạo Chánh giác Vô thượng
Cõi tên Điều chướng vô nhiễm trước
Sẽ được làm Phật, hiệu Trí Thượng.

Bồ-tát Diệu Hương Thuyết, nguyện làm hình tướng nữ, để thành thục chúng sinh, nên thọ dụng việc hoa; vì Bồ-đề nên hy vọng thọ ký. Đức Thíchca Như Lai, vì ông nói kệ:

Hiện làm hương hoa, cúng dường khắp
Khai thị đạo Vô thượng chư Phật
Nước Liên hoa tạng, cõi sạch trong
Phổ Hương Như Lai là Phật hiệu.

Bồ-tát Ca-sa Sắc, nguyện làm hình tướng nữ, để thành thục chúng sinh, nên thọ dụng đủ thứ nhiễm sắc, cũng nguyện được thọ ký. Đức Thíchca Như Lai, vì ông nói kệ:

Dùng áo ca-sa lợi chúng sinh
Cúng dường tương ứng Tam bảo chủng
Trong cõi Thanh quang tối vô thượng
Sẽ được làm Phật hiệu Bảo Quang.

Lúc bấy giờ, có vô lượng hạt giống trời, rừng trời, quả trời cho đến sáu mươi bảy câu-chi na-dotha trăm ngàn Đại Bồ-tát; muốn thành thục các chúng sinh; muốn độ thoát các nữ nhân, nên hóa làm hình tướng nữ nhân, phát nguyện đồng được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thích-ca Như Lai, đều nói cho mỗi người một bài kệ, họ đều được ký biệt. Vì sao? Vì chuyển nam làm nữ, việc ấy thì dễ, còn chuyển nữ làm nam, việc ấy là khó. Lúc đó, trăm ngàn câu-chi những đại Long vương và những tiểu Long đồng phát nguyện, hy vọng được thọ ký. Đức Thích-ca Như Lai, đều nói một bài kệ thọ ký Bồ-đề. Lại có sáu vạn bốn ngàn tần bà và tám mươi câu-chi A-tu-la, bảy mươi a-súc-tỳ câu-chi na-do-tha trăm ngàn chư Thiên và các Thiên nữ, chín mươi chín tần-bà câu-chi trăm ngàn những ma và quyến thuộc của ma, cho đến người và chẳng phải người nhiều như cát sông Hằng cùng hàng Sát-lợi, Ba-la-môn, Tyxá, thù-đà, nam tử, nữ nhân, đồng nam, đồng nữ cũng đều đồng tâm, hy vọng được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những loài như vậy, mỗi một đều được một bài kệ thọ ký. Quá số lượng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Bệ-lê-đà, Tỳ-xá-già, Nhân phi nhân… người chưa phát tâm thì hôm nay ở trước Đức Phật, đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hơn số lượng chúng sinh trụ ở A-tỳ-bạt-trí-địa, hơn số lượng chúng sinh được đủ thứ Tam-muội Nhẫn Đà-la-ni của Bồ-tát; hơn số lượng chúng sinh lậu tận ly dục được quả A-la-hán, hơn số lượng chúng sinh, lòng hồi hướng Thanh văn, Bích-chi-phật, trụ ở A-tỳbạt-trí-địa, tất cả như vậy đồng thanh nói:

Chúng con nương theo lời dạy của tất cả chư Phật, thọ trì pháp môn này. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi chép thành sách pháp môn này; thì con và quyến thuộc, sẽ cùng nhau theo đúng pháp mà cung cấp cúng dường.

Phẩm 9: TỪ MẪN

Bấy giờ, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai lại nói: –Tất cả chư Phật, nếu thương xót chúng sinh cõi Phật này, đến thăm hỏi nhau thì phải nhất tâm, nghĩ đến thiện nam Tức Hoa… Muốn khiến cho chúng sinh được y phục, ẩm thực và các vật làm thuốc, tùy tâm thọ dụng, khiến cho họ được sung túc. Lại dùng hình tướng nữ nhân, ở trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, để thành thục chúng sinh; thì tất cả chư Phật, cần phải gia hộ ông Tức Hoa đó… khiến cho nguyện được tròn đủ, như sở nguyện của thiện nam đó, đúng như chỗ muốn, chỗ làm của ông ấy, tùy theo các thứ cần dùng của những vị đó như y phục, ẩm thực cùng các dược vật biến hóa bày ra cho đủ đầy, để cho nhu cầu cung cấp của chúng sinh được đầy đủ, tùy ý thọ dụng. Tức là khi phát tâm thì những việc như vậy, đều được thành tựu, thiện nam đó, có thể làm việc của bậc Trượng phu kiến lập như vậy.

Các Đức Phật Thế Tôn nương theo đại Bi công đức, Định Tuệ trang nghiêm nhớ nghĩ chúng sinh, nên nói:

–Chúng tôi đem câu thần chú này cho các ông, sở nguyện tùy ý, đều khiến cho đầy đủ, là chỗ nương của tất cả căn lành, chỗ mà tất cả các Đức Phật Thế Tôn ba đời cùng chung thọ trì.

Chư Phật liền nói chú:

Sỉ địa dã tha thọ đê bà bà (1) Địa lý để bà bà (2) Mâu ni bà bà (3) Ta để dã bà bà (4) Phủ nhã lăng ca la bà bà địa dã na (5) La ta ma ha ca lũ noa bà bà (6) Ma ha bà la sỉ bà bà (7) A mộ ha bà bà (8) Lâu để bà bà (9) Sai để bà bà (10) Ta lý văn bà bà (11) Khư già bà bà (12) Bà dụ bà bà (13) Phạt sỉ bà bà (14) A địa sở tra na bà bà (15) A ma bà bà (16) A ha na bà bà (17) Sỉ tha đa bà bà (18) Bộ sỉ cú trí bà bà (19) Niết tỵ lý để bà bà (20) Để lý cưu xả kha bà bà (21) để lý dạ na bà bà (22) Sỉ nghi đà kế ca bà bà (23) Để lý tỳ mộ khứ sở bà bà (24) Để lý thủ ca la bà bà (25) La sở tra la địa sở tra na bà bà (26) Bà bà bà bà bà bà (27) Ta ma đa (28) A na nhã bà ma sỉ (29) Tra tra tra tra tra tra sở tra tử địa (30) Tát bà cưu xả la địa (31) Sở tra na dã (32) Ta bà ha (33).

Này thiện nam! Thần chú Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng này, có thể khiến cho tất cả hy vọng của mọi người đều được mãn nguyện. Các ông và quyến thuộc cần phải thọ trì, để khiến cho theo đó thọ dụng đều được thành thục, có thể khiến cho các ông đủ đầy hạnh Bồ-đề.

Lúc bấy giờ, trời Tức hoa thắng, trời Thánh trí, trời Địa trì… là những vị đứng đầu cùng với mười ngàn vị Bồ-tát; vì muốn khiến cho chúng sinh tùy theo đó mà thọ dụng để được thành thục, nên dùng hình tướng nữ nhân, cần lao hóa độ; nhất thời đồng thanh nói:

–Nhờ thần lực của chú này, mà các Đức Phật Thế Tôn, đã khiến cho sở nguyện của chúng con đều được đầy đủ. Như vậy, thần chú đó, có thể gia hộ lớn cho chúng con, có thể khiến cho chúng con được trí Vô thượng. Cho nên, chúng con sẽ cùng chung thọ trì Đà-la-ni này, để khiến cho tất cả chúng sinh đều thành thục, dùng đại cần lao mà cung cấp mọi nhu cầu. Hôm nay, ở trước tất cả các Đức Như Lai, chúng con nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được thành thục, trụ ở chỗ tự giải thoát. Nếu có trời cho đến người, ở chỗ Đức Như Lai nói diệu pháp, muốn phá hoại; nếu chúng con không dùng phương tiện ngăn chặn, để cho diệu pháp trụ thế lâu dài thì chúng con đã lừa dối tất cả ba đời các Đức Phật Thế Tôn; các vị cũng đừng cho chúng con được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có thiện nam hoặc trời cho đến hoặc người muốn não loạn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nếu chúng con chẳng siêng tạo tác phương tiện ngăn chặn, khiến cho sự não loạn đó, chẳng bị tiêu diệt; thì chúng con đã lừa dối tất cả ba đời những Đức Phật Thế Tôn; Các vị cũng đừng cho chúng con được Bồ-đề. Nếu có thiện nam, thiện nữ cầu Vô thượng Bồ-đề, mà sắp gặp nước, lửa, độc hại, bệnh nóng, bệnh sốt rét… hoặc đã một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày; gây những nỗi sợ như vậy, cho đến Trời, Rồng, Dạ-xoa, Ca-tra, Phú-đơn-na, Sát-lợi, Ba-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, sư tử, chó… tật dịch, đói khát, đủ thứ ách nạn và các tai nạn khác não hại; người có những nỗi sợ hãi đó, nếu đem câu thần chú “Nhất thiết chư phật sở trì nhất thiết hy cầu mãn túc Đala-ni” này tụng niệm thì đều được giải thoát, chỉ trừ nghiệp chướng quyết định của đời trước. Nếu chúng con chẳng trừ được những chướng đó, tức là lừa dối tất cả ba đời các Đức Phật Thế Tôn, các vị cũng chớ cho con được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tất cả những Đức Phật Thế Tôn đã đến cõi Phật này tập hội, thảy đều khen:

–Hay thay, hay thay! Này thiện nam! Sở nguyện của các ông rất thắng diệu, mới có thể làm việc của bậc đại trượng phu như vậy.

Lúc bấy giờ, Đức Thích-ca Như Lai, liền vì Ma vương, mà nói kệ:

Phật khởi tín cho cả chúng hội
Nên sinh lòng vui mừng tối thượng
Vì Bồ-đề nên sinh mừng rỡ
Ý lợi người, cần phải phát nhanh.
Cõi ma của ông, không thân hữu
Cũng không người, sở dục, như ý
Ông nhờ vô lực, mất ma nghiệp
Mâu-ni của ta sao so bằng.
Đến đây, ác ma lại nói kệ:
Ta không một niệm tin Bồ-đề
Cũng không tạo ra tưởng hoan hỷ
Lời Mâu-ni, ngài cứ mặc nhiên
Ta cũng tự có những bạn thân.
Do bạn thân đó, ta có lực
Ta nay trụ ở cảnh giới mình
Ta có sức uy đức tối thượng
Hết cuộc đời ngài, ta chẳng theo.

Phẩm 10: ỦNG HỘ

Bấy giờ, trong hội, có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Mạn-đà-la Hương bạch với Đức Thích-ca Như Lai:

–Những Đức Phật quá khứ kia, từ trong các loại quốc độ, khi đến đại tập hội ở cõi Phật ngữ trược, đều cùng ủng hộ pháp môn này, cũng khiến cho vô lượng Câu-chi-ma chúng tự nhiên thoái lui. Chư Phật dùng mắt Từ bi nhìn các chúng sinh, người có ác kiến, đều khiến cho giải thoát. Đuốc trí rực sáng an trí chúng sinh ở đạo Cát tường. Khi chư Phật nói pháp môn Kim cang pháp đẳng duyên pháp tâm kiến lập tồi toái Đà-la-ni ấn chương cú sai biệt môn ký; là khiến cho ác đảng đều lùi bước việc kiến lập pháp tràng. Đúng vậy, đúng vậy! Mười phương chư Phật chúng ta, hôm nay trụ thế, cũng vì nuôi dưỡng, thương xót các chúng sinh, cũng ở cõi Phật ngữ trược bẩn ác này đồng làm cuộc đại tập hội, ủng hộ pháp môn vi diệu này cho đến kiến lập pháp tràng Vô thượng. Sau khi Đức Phật Thích-ca diệt độ, ai có thể ở cõi này, sẽ làm người đệ nhất hộ trì diệu pháp? Ai sẽ khiến cho chánh pháp rực sáng rộng khắp? Ai sẽ khiến cho khắp chúng sinh đều thành thục nhập vào số Đại tập này? Chúng ta đem pháp môn này phó chúc cho ai?

Đức Thích-ca Như Lai bạch với Đức Mạn-đàla Hương Như Lai:

–Đã có những người trụ lâu ở cõi Phật này, những Bồ-tát đắc nhẫn và Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương, vua trời, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… càng siêng năng ủng hộ pháp môn vi diệu này. Và chúng sinh trụ lâu trong bốn thiên hạ, của thế giới này, đối với pháp môn này sinh niềm tin thanh tịnh; thì Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương cho đến vua Ma-hầu-la-già đem pháp môn Đà-la-ni ấn thanh tịnh này, phó chúc vào tay của họ.

Lúc đó, Đức Mạn-đà-la Hương Như Lai dùng âm thanh vô chướng ngại viên mãn làm vang khắp cõi Phật này, nói lời như vầy:

–Này các thiện nam! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Những người đã đến cõi Phật này! Thật là khó gặp những Đức Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà lúc hưng thế. Việc tất cả các Đức Phật Thế Tôn, trong khoảnh khắc một sát-na, đã tập họp ở một cõi Phật, cũng đã rất là khó! Tất cả những Đức Phật Thế Tôn này, vì thương xót các ông, nên đến tập họp ở đây, nhiếp thọ tất cả các chúng sinh, hộ trì đại pháp môn chư Phật, tạo lập đạo Vô thượng. Tất cả vô số chư Phật đã vào ba đời; hôm nay, hộ trì tất cả địa giới, tất cả thủy giới, tất cả hỏa giới, tất cả phong giới, tất cả không giới; khiến cho diệu pháp này trụ thế lâu dài, khiến cho hạt giống Tam bảo chẳng đoạn tuyệt, thành thục tất cả các chúng sinh, cho đến qua khỏi bờ kia sinh tử.

Lúc bấy giờ, tất cả các Đức Phật Thế Tôn và các vị Đại Bồ-tát trụ lâu ở các cõi Phật; Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương, vua Trời, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-lagià… và trong các tinh khí khác, có chúng sinh đại tinh khí, cho đến những người cư trú trong thế giới của bốn thiên hạ; tất cả chúng này, đồng nói:

–Này thiện nam! Chúng ta, đem chánh pháp được chư Phật hộ trì này, một lần nữa phó chúc cho ông, khiến cho chúng sinh đều thành thục. Các ông nên luôn làm cho rực sáng, chẳng làm diệt hoại pháp, chẳng làm rơi mất pháp. Nếu thiện nam, thiện nữ có tín tâm sẽ cùng chung thọ trì, ghi chép pháp môn đại tập, cho đến Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả những thiện nam đó mà thọ trì, tụng niệm pháp môn này thì các ông luôn phải ủng hộ, cung cấp, đem pháp môn này theo đúng như pháp phó chúc cho họ. Nếu Pháp sư ưa cầu pháp, ưa thiền định, ưa nghe pháp, ưa trì pháp thì các ông phải nên ủng hộ cho đến cung cấp. Vì sao? Vì các Đức Như Lai A-laha Tam-miệu Tam-phật-đà có trong quá khứ, tất cả những Đức Như Lai đó cũng tập họp ở trong cõi Phật ngũ trược bẩn ác, cùng đã dùng diệu pháp phó chúc cho Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương, nên khiến cho diệu pháp này, chẳng ẩn mất, hộ trì cho người truyền pháp đời vị lai, cho đến thành thục tất cả chúng sinh. Đúng vậy, đúng vậy! Chư Phật mười phương, có trong đời đương lai, ở trong đời ngũ trược, trong khoảnh khắc một sát-na, khắp nơi đều vân tập; vì lợi ích cho chúng sinh, sẽ nói Đà-la-ni, sẽ ủng hộ diệu pháp, sẽ phó chúc cho Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương…, sẽ chu cấp mọi nhu cầu. Chúng ta hôm nay cũng lại như vậy.

Các ông, những người trụ lâu ở cõi Phật này và Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương, vua của Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… của bốn thiên hạ thì càng thêm bội phần phó chúc, đời đương lai lại càng thêm bội phần ủng hộ, thêm bội phần cung cấp. Ông cũng cần phải nhớ nghĩ như vậy. Như pháp Kim cang chẳng thể hoại, phải khiến cho rực sáng rộng khắp. Nếu thiện nam, thiện nữ, có lòng tin hộ trì pháp này và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di thọ trì pháp này, thậm chí chỉ ghi chép, giữ gìn, kinh quyển, đặt yên ở trong nhà; hoặc có người hay nói pháp và người ưa nghe pháp, siêng tu thiền định, thọ trì pháp; thì các ông đều phải ủng hộ họ, lòng lành cúng dường cung cấp cho họ. Vì sao? Vì tất cả Đức Phật khắp nơi, đều thọ trì pháp môn này. Tùy theo xứ sở, hoặc thôn, hoặc thành, hoặc trong nước, hoặc ngoài biên địa, hoặc bên trong cung vua, hoặc chốn A-lanhã… nếu những nơi đó, lưu thông pháp môn này, hoặc có người khai thị tuyên nói, hoặc có sự truyền trao cho người, hoặc trì tụng thậm chí hoặc chỉ ghi chép thành quyển kinh, đặt yên trong nhà. Những nơi đó, nhờ pháp lực này, nên có thể khiến cho vị đất và tinh khí chúng sinh đều tăng trưởng. Các ông cũng nhờ thấm nhuần ánh sáng tinh khí đó, mà tinh tấn dũng kiện càng được tăng trưởng; đồng thời cũng khiến cho quyến thuộc và ruộng vườn của họ được tăng trưởng giàu thịnh; sẽ khiến cho người làm vua thường được ủng hộ, năng lực tự tại. Tinh khí đó, cũng sẽ ủng hộ cho sự giáo hóa của vua, nhờ pháp vị đó, mà thường khiến cho sung túc. Những người làm vua bên trong cõi Diêmphù-đề, sẽ sinh lòng lợi ích, hòa hợp nhau, luôn luôn tin nghiệp báo, gieo trồng căn lành, lòng không keo kiệt, thường đối với tất cả chúng sinh tác, khởi lòng lợi ích, thường đối với tất cả chúng sinh phát sinh lòng thương xót, thậm chí khiến cho vua có thể sinh chánh kiến. Từng vị vua, từng vị vua ở đất nước của mình, sẽ tự phát sinh hoan hỷ, có thể khiến cho người hành thiện đầy đủ sung mãn. Đất nước ấy giàu thinh, an vui bội phần, tinh vị đất đai tự nhiên hơn gấp bội, hoa quả, vật làm thuốc không thứ nào chẳng ngon ngọt, lúa gạo, của báu cũng bội phần, nơi tiếp xúc đáng ưa thích, tất cả nhân dân không bệnh khổ, tất cả oán địch phương khác đấu tranh, muỗi mòng, rắn độc, ác quỷ, La-sát, cầm thú ác, sài lang, sư tử, gió mưa chẳng phải lúc những việc ác như vậy, điều sẽ tiêu diệt. Ngày đêm giữ độ bình thường, một tháng, nửa tháng, thời tiết, niên tuế, điều vận hành đúng.

Những chúng sinh ở đất nước đó phần nhiều hành thập thiện, sau khi mạng chung, ở đó điều sinh lên trời, rồi trở lại cùng với các ông làm quyến thuộc. Rất nhiều công đức vô lượng như vậy, đều do xưng dương pháp môn Đại pháp Đà-la-ni của tất cả chư Phật. Những chúng sinh đó, đều qua khỏi bờ sinh tử, được vào Vô dư tên là Nghe tăng trưởng quả báo đầy đủ, đã gieo trồng thân nữ thì đời này sẽ nhận lấy. Do pháp lực, nên những thân như vậy, tất cả đều hết.

QUYỂN 9

Phẩm 10: Ủng hỘ (tt)

Chỉ chừa những người làm ngũ nghịch, người bài báng chánh pháp, người hủy báng Hiền thánh, nghiệp ác và quả báo của thân, miệng, ý đã làm; còn tất cả đều diệt. Pháp môn này, dù là quyển kinh, hoặc chỉ là sách được giữ gìn, đặt ở trong nhà; dù những người đó, có các nghiệp phiền não, có thể làm chướng ngại lớn bằng núi Tu-di, cũng đều tiêu diệt hết. Tất cả căn lành đều được tăng trưởng, tất cả thiện phần đều đầy đủ; mọi hy vọng của ý, đều thành tựu, nghiệp thiện của thân, miệng, ý đều sẽ tăng trưởng; tất cả ác kiến đoạn diệt không còn, tất cả oán địch đều bị hàng phục; tất cả đạo tịch diệt vi tế đều sẽ được vào. Tất cả đều do sức gia hộ của pháp môn Đại tập Đà-la-ni này, pháp môn mà tất cả các Đức Phật Thế Tôn đều cùng chung hộ trì.

Tùy ở địa phương nào có lưu hành pháp môn Đà-la-ni này, mà có thể khiến cho địa phương đó tinh vị dồi dào lên bội phần; quả ngon vị tuyệt sẽ được tăng trưởng, vị đắng cay đáng ghét sẽ được xa lìa, hoa quả, của cải, lúa gạo, sắc loại đều thành tựu, hầm kho, đồ đựng, tích trữ đều đầy thêm, y phục, ẩm thực, thuốc thang, đồ dùng nhiều hơn bội phần. Tất cả đều do pháp lực.

Nếu có chúng sinh thọ dụng đồ ăn thức uống đó thì sẽ không bệnh hoạn, nhan sắc thành tựu, khí lực cường kiện, nhớ nghĩ bền vững, ưa cầu thiện pháp, lìa xa các ác. Những chúng sinh đó, nếu mạng chung rồi thì sẽ sinh ra trong chủng loại của các ông, quyến thuộc thêm lớn, thế lực đầy đủ, oán địch chẳng thể hoại, nhờ pháp lực nên sẽ được ủng hộ của tứ tánh, sẽ dùng pháp nghĩa cùng nhau giải bày, răn bảo. Các ông, nếu có thể làm như vậy, tức là đã cúng dường tất cả ba đời các Đức Phật Thế Tôn rồi.

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai Mạn-đà-la-hương liền y theo cú nghĩa âm thanh trí tuệ của cảnh giới thanh tịnh chư Phật, để dùng lời nói của tất cả các Đức Phật Thế Tôn đầy khắp cõi này, bảo khắp tất cả các vị Đại Bồ-tát và vua Đế Thích, vua trời Phạm, vua Ma-hô- la-già những người đang cư trú ở cõi Phật này và khuyên bảo với những người đã cư trú trong cả bốn thiên hạ này:

–Các ông phải nên trụ trì, khai thị pháp môn Đại tập mà chư Phật đã nói và ủng hộ chánh pháp vi diệu của kinh này!

Lúc bấy giờ, có chín vạn bảy ngàn câu-chi những vị Đại Bồ-tát đắc nhẫn, mà Di-lặc là người đứng đầu. Những người đang cư trú ở cõi Phật này, có trong đại chúng, tất cả đồng thanh nói:

–Chúng con hôm nay, vâng theo lời dạy của chư Phật! Vì muốn cúng dường tất cả ba đời các Đức Phật; nên chúng con đối với pháp môn thắng diệu của tất cả các Đức Phật đều cung kính, tôn trọng lễ bái như đối với chư Phật. Chúng con thương xót, thành thục cho tất cả chúng sinh, cho đến khi an trí họ ở đạo Vô thượng.

Ở những tụ lạc, thành ấp, châu huyện, đất nước, vương cung, những chỗ tịch tĩnh chúng con đều đem pháp môn này ban bố, hiển thị rộng rãi, vì muốn thành thục các chúng sinh, khiến cho diệu pháp này được trụ thế lâu dài.

Bấy giờ, tất cả các Đức Phật Thế Tôn đã đến cõi Phật này và nói:

–Hay thay, hay thay! Như vậy là các ông đã làm được điều nên làm!

Khi đó, tất cả Đế Thích, Phạm vương, Ma-hôla-già… cư trú ở cõi này, cùng với sáu mươi bốn câu-chi na-do-tha người, đến từ nơi khác… và chúng sinh có đại uy đức trong Đại tinh vị; tất cả đều đồng thanh nói:

–Chúng con đối với pháp môn Đại tập vi diệu này, đều phải thọ trì; cho đến rộng vì mọi người mà khai thị, hiển thuyết để thành thục chúng sinh, để diệu pháp trụ thế lâu dài. Người ưa pháp, nghe pháp đều sẽ được ủng hộ.

Chúng con hôm nay, vâng lời dạy của chư Phật, tùy theo chỗ pháp môn này lưu hành, mà khiến cho tất cả sự đấu tranh trái nghịch, mưu kế, tranh luận, đói thiếu, hoảng loạn, oán địch tha phương, gió mưa chẳng phải lúc, lạnh nóng chẳng phải lúc, vị đắng cay thô ráp, người ác, vật ác sẽ được tiêu diệt. Còn sự yên ổn, khoái lạc, giàu thịnh, hòa hợp đều sẽ thành tựu. Chánh pháp vi diệu này, sẽ được trụ lâu, quốc vương nào bội phần siêng năng, dũng mãnh ủng hộ, cung cấp cho chánh pháp và siêng tu thiền định với pháp đó thì mọi chúng sinh đều sẽ ủng hộ.

Các Đức Phật Thế Tôn kia đồng thanh khen:

–Hay thay, hay thay! Này thiện nam! Các ông hôm nay nên làm như vậy! Siêng làm việc lợi ích cho mình và cho người tức là đã cúng dường cho tất cả ba đời các Đức Phật rồi! Các ông siêng năng thành thục các chúng sinh, khiến cho diệu pháp này được trụ thế lâu dài thì các ông sẽ mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, Đế Thích, Phạm vương, các vị trời, Tứ thiên hạ cho đến chúa Ma-hô-la-già và các bậc đứng đầu trong số các vị Đại uy đức; tất cả đều đứng dậy, cung kính chắp tay bạch:

–Chúng con cũng vâng theo lời dạy của tất cả các Đức Phật Thế Tôn sẽ cùng chung làm quang hiển chánh pháp vi diệu này, ủng hộ và trụ trì; đối với pháp môn Đà-la-ni Ấn được đại tập chư Phật ủng hộ này, chúng con sẽ theo đúng như pháp mà thọ trì.

Dù ở những tụ lạc, thành ấp, châu huyện, đất nước, hay vương cung, hoặc những nơi tịch tĩnh; chúng con cũng sẽ khai thị rộng rãi, ủng hộ, cung cấp cho người trì diệu pháp. Nơi đó, nếu có Pháp sư trụ tín chánh pháp và người nghe pháp như Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thiện nam, thiện nữ, tín thọ pháp này, thậm chí chỉ ghi chép quyển kinh, đặt ở trong nhà, siêng tu thiền định thì chúng con, đối với những người đó, cũng sẽ ủng hộ, cung cấp đủ thứ, cúng dường y phục, ẩm thực, lọng cái, cờ phướn, hương xoa, hương bột… cho đến tất cả y dược, đồ tư cấp, những sở hữu cần thiết đều khéo léo cung cấp. Nếu có người, đối với pháp môn vi diệu này, lúc tụng, lúc đọc, lúc khai thị, diễn nói; thì chúng con sẽ tự đi đến chỗ tòa ngồi của Pháp sư đó, nghe pháp và chúng con vẫn tưởng như là bậc Đại sư. Đối với Pháp sư này, chúng con cung kính, tôn trọng một lòng khen ngợi đem những lọng báu, cờ phướn để cúng dường. Vì sao? Vì lúc chúng con chỉ bày rộng rãi đối với pháp môn Đà-la-ni này thì sẽ được sự ủng hộ của tất cả chư Phật; nhờ pháp vị nên sẽ được tinh khí, đầy đủ lực, đầy đủ tinh tấn, đầy đủ chí, đầy đủ niệm, đầy đủ trí, đầy đủ bạn lành, đầy đủ quyến thuộc, đầy đủ quân chúng sở hữu nên oán địch chẳng thể phá hoại. Vậy nên, chúng con không những khiến cho những sự tranh đấu, mưu kế, tranh tụng, đói thiếu, bệnh tật, oán địch, phương khác, mưa gió phi thời, cực lạnh, cực nóng, nạn hạn hán, ác bệnh, ác mộng, ác tướng, thô ráp, không trơn nhẵn, đắng cay, ác vị, ác nhân, ác vật, những phần bất thiện có trong đất nước đó, đều sẽ tiêu diệt; sự yên ổn, giàu thịnh, vui sướng, không bệnh, hòa hợp cũng sẽ thành tựu thêm bội phần. Ở xứ sở đó, gió mưa lạnh nóng đều phải lúc; ngày đêm phân đúng vị trí, nữa tháng một tháng thời tiết; niên tuế đều khiến vận hành đúng; ánh sáng các tinh tú, thứ tự mặt trời, mặt trăng chẳng khiến cho mất điều độ; suối, ao hồ, sông đều khiến cho đầy đủ. Tùy theo trú xứ này có chúng sinh nương ở mà bị trôi chìm trong nước lụt; thì chúng con đều ngăn chặn, chẳng cho chìm mất. Chúng con ở đất nước, thành ấp, xóm làng đó, làm lợi ích cho chúng sinh. Cành, lá, hoa quả, rễ, thân, những lúa gạo, dược vị ở đó; đều sẽ dồi dào, sắc tướng tươi thấm, vị ngon thêm nhiều. Của cải, ngũ cốc, dược vị, y phục trang nghiêm, những đồ tư dụng… chúng con cũng khiến cho các chúng sinh đều sẽ đầy đủ, không thiếu thốn bất cứ cái gì.

Những chúng sinh đó nếu mong cầu căn lành, lòng lìa các nghiệp ác, thắng phước đức gom tụ và mọi thọ dụng của họ đầy đủ; chúng con đều khiến cho thành tựu. Có đất nước, xóm làng nào đem pháp môn Đà-la-ni đã được sự ủng hộ của tất cả các Đức Phật này ra khai thị, thậm chí ghi chép kinh quyển, an trí ở trong nhà, hoặc đọc, hoặc tụng, cung kính cúng dường, ở chỗ đặt kinh, nếu có vua Sát-lợi quán đảnh; thì chúng con sẽ ủng hộ, cung cấp sự cần dùng, không gì thiếu thốn. Những việc không lợi ích, con sẽ vì những người đó mà đoạn trừ. Việc có lợi ích thì con sẽ tùy theo nhu cầu, vì những người đó, mà ban cho. Tất cả tai quái, kinh động, chẳng tốt, ác kiến, ác tác, nắm giữ các ác, ác nguyện, chứng về việc ác, gian trá, chê trách, huyễn hoặc, dua nịnh, nói dối, ganh ghét, sân giận, các việc gian lận… con đều sẽ tiêu diệt. Chánh kiến, chánh đạo, niềm tin chất trực, điều phục, nhất tâm, biết hổ thẹn, những pháp như vậy con đều sẽ chỉ bày răn bảo.

Phi hậu nội cung, tể tướng, phụ thần chủ tạng, thân tộc, Bộ hình, quan tướng, tất cả tứ tánh nhân dân, nam nữ, đồng nam đồng nữ… con cũng sẽ ủng hộ, cung cấp, cho đến tàm quý cũng thị hiện răn bảo; cho đến loài bốn chân của các địa phương sở tại, con cũng sẽ ủng hộ. Tùy theo đất nước, mà đem pháp môn này tuyên bố, khai thị; cho đến ghi chép kinh quyển và trú xứ của kinh quyển, bằng sự siêng năng dũng mãnh lớn; chúng con đều sẽ ủng hộ những chúng sinh ở đó. Chánh pháp vi diệu này, sẽ theo mọi nơi mà quang hiển, chẳng khiến cho ẩn mất, chúng con sẽ khởi lên sức tinh tấn làm những việc như vậy!

Lúc đó, tất cả các Đức Phật Thế Tôn, đều cùng khen ngợi các thiện trượng phu:

–Hay thay, hay thay! Này các thiện nam! Các ông làm những việc nên làm như vậy! Để cho chánh pháp này và hạt giống Tam bảo chẳng thể ẩn mất, nên các ông siêng năng hành dụng. Này các ông! Đúng vậy! Đúng như việc làm của các ông; tức là các ông đã làm việc cúng dường tất cả ba đời các Đức Phật rồi!

Phẩm 11: HỘ CHÁNH PHÁP

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích-ca Như Lai, bảo các đại chúng Đế Thích, Phạm vương, vua trời Tỳlâu-lặc-xoa, Tỳ-lâu-bác-xoa, Đề-đầu-lại-tra, Tỳsa-môn:

–Này các thiện nam! Ta vì rất thương xót chúng sinh, khi ở cõi Phật ngũ trược ác này, khó được đắc pháp mà nguyện Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng sinh trong đó, rơi vào bóng tối vô minh, oán tặc, phiền não, gian xảo, não hại; ta sẽ vì chúng sinh tiêu diệt phiền não, đẩy lùi các ma đảng, kiến lập pháp tràng, giải thoát các khổ của vô lượng chúng sinh, mưa xuống đại pháp vũ, đẩy lùi hàng Câu-chi-ma. Này các thiện nam! Vậy nên hôm nay ta đem diệu pháp này ân cần phó chúc cho các ông. Với số lượng các Đức Phật Thế Tôn và các vị Đại Bồ-tát… của mười phương vô lượng thế giới khắp nơi đã đến tập họp, dùng pháp môn Kim cang pháp đẳng nhân duyên pháp tâm kiến lập nhất thiết pháp tồi toái Đà-la-ni ấn cú môn ký này, ủng hộ chỗ cư trú của chúng sinh ở cõi Phật cùng những khí vị của đất; thì những lỗi lầm đều được tiêu diệt, chúng sinh thành thục, tất cả nghiệp bất thiện không còn, hạt giống Tam bảo trụ thế lâu dài, cho đến tất cả Phật sự đều thành tựu. Vậy nên, nếu các ông thọ trì, ủng hộ chánh pháp vi diệu của ta thì có thể khiến cho căn lành, phước hạnh tăng trưởng. Nếu ôn tụng, dạy bảo, thị hiện, vì người khác giảng nói, truyền trao đến nơi đến chỗ ba quy y cho Ưubà-tắc hộ trì, trụ ở phạm thanh tịnh; thì các căn lành, phước hạnh đều tăng trưởng. Nếu tu sơ thiền thì phước hạnh tăng trưởng. Cho đến tu Diệt thọ tưởng định, hoặc quả Tu-đà-hoàn cho đến quả Phật Bồ-đề thì những tướng về phước hạnh căn lành, như vậy… đều được tăng trưởng. Hiện tại đã làm, cho đến vị lai sẽ làm, là thắp lên ngọn đèn Diệu pháp, có thể khiến cho tất cả phước hạnh tăng trưởng. Vậy nên, ta phó chúc tận tay cho các ông, pháp vi diệu mà Như Lai đã giác ngộ khiến cho rực sáng, khuyến khích sự phát tâm của các ông, phước đức tăng trưởng; đó là sự phó chúc cho các ông! Nếu đời vị lai, đối với pháp môn này… cho đến ghi chép kinh quyển đặt yên ở trong nhà, vì nhờ pháp lực nên tất cả nghiệp ác sẽ đều diệt hết. Tùy theo chỗ có kinh, hoặc tại thôn xóm, thành ấp; nếu muốn thọ trì thì thân phải tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới sạch, dùng hoa trải khắp, đốt đủ loại hương, trải đủ thứ chăn chiên, trang nghiêm tòa Sư tử rồi khai thị pháp này, giảng nói pháp môn này cho đến ghi thành chép kinh quyển thọ trì, đọc tụng. Nếu các ông chẳng đến nơi đó nghe pháp, ủng hộ Pháp sư và người nghe pháp, để cho ác nghiệp của mình và của người khác đều hết thì các ông đã lừa dối các Đức Phật, tức là ngu si làm mất chánh đạo.

Lúc bấy giờ, chúa của thế giới Ta-bà, vua trời Phạm, bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Hoặc hiện tại, hoặc vị lai, tùy theo chỗ có diệu pháp này, cho đến lúc chánh pháp vi diệu này chưa diệt trở về sau; nếu xóm làng, thành ấp, châu huyện, đất nước, chỗ biên cương xa xôi, nội cung của vua, hoặc Tăng-già-lam, hoặc chỗ tịch tĩnh, hoặc nhà của Bà-la-môn, hoặc nhà của đại trưởng giả, hoặc nhà thứ dân, hoặc thầy nói pháp, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và thanh tín nam, thiện nữ khác… tắm rửa sạch, xoa than tốt, mặc áo mới sạch sẽ, tung rải hoa, nghiêm sức đạo tràng, đốt đủ loại hương thơm, bày biện đủ thứ lụa là ngũ sắc thiết cúng đủ thứ vị, lên tòa Sư tử, rộng vì người khác mà khai thị, diễn nói ấn Đà-la-ni này, hoặc chép, hoặc đọc; con cùng vô lượng trăm ngàn đồ chúng, sẽ đi đến chỗ người đó, vây quanh nghe pháp, ủng hộ Pháp sư đó và những người nghe pháp để cho nghiệp ác của mình và của người khác được sạch hết, tất cả thiện pháp thành thục, chánh pháp đại diệu sáng rực, vào được đạo Đại trí minh đệ nhất. Những thành ấp, cho đến nhà thứ dân, con sẽ ủng hộ những chúng sanh, khiến những chúng sinh đó; có của cải, lúa gạo dư thừa, kho lẫm đầy tràn! Nếu con chẳng đến nghe điều chưa nghe, tức là ở trước tất cả các Đức Phật Thế Tôn đã vi phạm lời thệ nguyện xưa.

Vua trời Phạm liền ở trước Đức Phật nói chú:

Đa địa dã tha ương cựu ha trừng già phủ la trà noa (1) Da nhỉ thổ (2) Khư khư (3) Khư bà (4) Cát lị na khư bà (5) Ta bà ha (6).

Vua trời Phạm nói chú này rồi, một lần nữa bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Nếu con đối với chỗ thầy nói pháp đó, mà chẳng đến nghe, chẳng ủng hộ, cho đến chẳng làm cho của cải lúa gạo dư thừa, kho lẫm tăng trưởng, chúng sinh sung túc; tức là con đã trái lời thệ nguyện xưa.

Bấy giờ, tất cả chư Phật Thế Tôn và các vị Đại Bồ-tát; tất cả trời, Nhân phi nhân… đồng thanh khen vua trời Đại Phạm: –Hay thay, hay thay!

Bấy giờ, chủ trời Đế Thích Kiều-thi-ca bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Tùy theo chỗ sở tại, hoặc hiện tại hoặc vị lai cho đến thôn, thành nếu con chẳng đến nghe điều chưa nghe, tức là ở trước tất cả các Đức Phật Thế Tôn vi phạm lời thệ nguyện xưa, là người có lỗi!

Ông liền ở trước Đức Phật nói chú:

Đa địa dã tha khư bà nhị lý khư (1) Khư bà nhị lý khư (2) Na khư già (3) A mẫu nhã (4) A mẫu bà ha (5) A khư tra (6) A thổ (7) Bà xả thổ (8) Kỳ na bà ca yết (9) Ta bà ha (10).

Trời Đế Thích nói chú này xong, một lần nữa, bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Nếu con chẳng làm đúng như sở nguyện xưa thì tức là đã tự trái lời thệ nguyện, là người có lỗi.

–Hay thay, hay thay! Chủ trời Kiều-thi-ca!

Bấy giờ, vua trời Tỳ-lâu-lặc-xoa bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Tùy theo chỗ sở tại, hoặc hiện tại hoặc vị lai cho đến thôn, thành, ấp; nếu có pháp pháp môn này, mà con chẳng đến, chẳng tạo tác ủng hộ thì thưa Thế Tôn! Đó tức là con tự trái lời thệ nguyện, là người có lỗi!

Ông liền ở trước Đức Phật nói chú:

Đa địa dã tha âu khư (1) Na bà ta trà (2) Ta mẫu đà la tứ nhi (3) Sỉ tha phụ đa (4) Bà lâu noa bà bà la xà (5) Ta bà ha (6).

Lúc đó, đại chúng cho đến Nhân phi nhân… đều cùng khen ngợi trời Đại Hộ thế Tỳ-lâu-lặcxoa:

–Hay thay, hay thay!

Bấy giờ, vua trời Tỳ-lâu-bác-xoa lại bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Hoặc hiện tại hoặc vị lai tùy theo chỗ sở tại, cho đến thành ấp; nếu có pháp pháp môn này, mà con chẳng đến ủng hộ và nghe điều chưa nghe thì tức là trước Đức Phật con đã trái lời thệ nguyện, là người có lỗi!

Ông liền ở trước Đức Phật nói chú:

Đa địa dã tha xà lão già (1) A đáo già (2) A lịch mạo già (3) A lịch ma (4) Ta liên xã bà (5) Tỳ da mẫu xà (6) Ta bà ha (7).

Lúc đó, đại chúng cho đến Nhân phi nhân… đều cùng khen ngợi vua trời Tỳ-lâu-bác-xoa:

–Hay thay, hay thay!

Bấy giờ, vua trời Đề-đầu-lại-tra bạch Đức Phật: –Thưa Thế Tôn! Hoặc hiện tại, hoặc vị lai, tùy theo chỗ sở tại, cho đến thành ấp; có pháp pháp môn này, mà nếu con chẳng đến ủng hộ và nghe điều chưa nghe thì tức là trước Đức Phật, con đã trái lời thệ nguyện, là người có lỗi!

Ông liền ở trước Đức Phật nói chú:

Đa địa dã tha tần đầu xã bà (1) Khư bà xã bà

(2) La mẫu khư (3) Xoa ta la (4) Phả ca bà ha (5) A mạt già bà tra (6) Ta bà ha (7).

Lúc đó, đại chúng cho đến Nhân phi nhân… đều cùng khen ngợi Đề-đầu-lại-tra Thiên vương:

–Hay thay, hay thay!

Bấy giờ, vua trời Tỳ-sa-môn bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Hoặc hiện tại, hoặc vị lai, tùy theo chỗ sở tại, cho đến thành, ấp có pháp pháp môn này, mà nếu con chẳng đến ủng hộ và nghe điều chưa nghe thì tức là trước Đức Phật, con đã vi phạm lời thệ nguyện, là người có lỗi!

Ông liền ở trước Đức Phật nói chú:

Đa địa dã tha sưu đà lợi (1) Sưu sưu sưu đà lợi (2) Khư đà lợi (3) A nhỉ sưu đà lợi (4) Na dã na sưu đà lợi (5) Ê lý sỉ sưu đà lợi (6) Ta già lê ê lý sỉ sưu đà lợi (7) Tăng cửu ta sưu đà lợi (8) đạt ma xoa da sưu đà lợi (9) Ta bà ha (10).

Lúc đó, đại chúng cho đến Nhân phi nhân… đều cùng khen ngợi vua trời Tỳ-sa-môn:

–Hay thay, hay thay!

Lúc bấy giờ, ở thế giới này, có một trăm mười hai đại tướng chủ Dạ-xoa, với đầy đủ quần chúng có trong bốn thiên hạ theo bảo vệ ủng hộ, lại có bốn vạn Dạ-xoa cư trú ở bốn thiên hạ này, lại có các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hô-la-già vào hàng tối thắng, trong hàng Đại thần thông, đều đồng thanh bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Hoặc hiện tại, hoặc vị lai tùy theo chỗ sở tại, có pháp pháp môn này cho đến khi ánh sáng của diệu pháp này, trở về sau chưa tắt mất. Ở tại các xóm làng, thành ấp, châu huyện, đất nước, cung vua, thành vua, chỗ A-lan-nhã hoặc nhà Bà-la-môn, nhà trưởng giả, nhà cư sĩ, nhà thứ dân; hoặc có Pháp sư, hoặc Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; hoặc có các thiện nam, thiện nữ tín tâm, tắm rửa sạch sẽ, dùng hương thơm xoa thân, mặc áo mới sạch, tung trải hoa trang nghiêm đạo tràng, trải đặt đủ thứ chăn chiên, y phục, đốt đủ loại hương thơm, đủ thứ vị ngon, đựng đầy trong đồ đựng sạch sẽ, thiết lập pháp tòa Sư tử diệu bảo; rồi ngồi trên tòa này rộng vì người khác, phân biệt, khai thị kinh này và cả khi đọc tụng. Chúng con, mỗi một người sẽ cùng với vô lượng trăm ngàn quyến thuộc vây quanh, đi đến đó nghe pháp, vì Pháp sư mà ủng hộ, vì chúng của mình và chúng sinh khác ủng hộ. Vì ủng hộ, vì thành thục chúng sinh; mà chúng con, nếu chẳng đi đến chỗ thành ấp, cho đến nhà của thứ dân đó; rồi cho là do quyến thuộc chẳng thọ lời dạy bảo thành thục chúng sinh, nên chẳng khiến cho chúng sinh dồi dào của cải, lúa gạo, kho lẫm tràn đầy! Lại nữa, nếu chúng con chẳng ngăn chặn tất cả các cuộc đấu tranh, đói kém, bệnh tật, oán địch phương khác, gió mưa chẳng phải lúc, cực lạnh, cực nóng, các tại nạn… thì tức là chúng con đã lừa dối các Đức Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại; là vi phạm lời thệ nguyện xưa, là rỗng không, không sở đắc, bị bệnh tật, mất hết thần thông, thân thối rữa, hoại tan.

Thưa Thế Tôn! Dù có như thế nào, hôm nay, chúng con cùng các quyến thuộc, hoặc hiện tại, hoặc đời vị lai, ở chỗ bốn thiên hạ của thế giới này, quyết định làm quang hiển chánh pháp vi diệu của Đức Thích-ca Như Lai và người tin pháp này, sẽ được ủng hộ, cung cấp những nhu cầu, việc làm thành thục, nghiệp ác diệt hết. Chúng con đối với pháp môn này, dạy bày, khai hiển cho người nói pháp đó; lại còn khiến cho người nói pháp và nghe pháp, được của cải, lúa gạo dồi dào, những thọ dụng đều được tăng trưởng. Đối với những lời nói của Đức Phật, đều là pháp chẳng hoại, chẳng diệt đều sẽ thọ trì.

Tất cả chư Phật Thế Tôn, tất cả đại chúng, Nhân phi nhân… đều đồng thanh khen ngợi Trời, Rồng, Thần hộ pháp đó:

–Hay thay, hay thay! Các ông nên làm việc thiện như vậy!

Bấy giờ, Bồ-tát Hoài Lạc, ở trong đại chúng, liền bạch Đức Thích-ca Như Lai:

–Thưa Thế Tôn! Có phải hàng trăm cái chỉ tất cả những ma cùng các quyến thuộc, có ở cõi này, đều đến đây sao?

Đức Phật nói:

–Này thiện nam! Tất cả ma này, cùng các quyến thuộc, đều đến đây tập hội.

Bồ-tát Hoài Lạc lại bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Có phải tất cả ma này, cùng các quyến thuộc, ở trong Tam bảo, được niềm tin thanh tịnh?

Đức Phật đáp:

–Chẳng phải vậy! Lại nữa, này thiện nam! Một ngàn quyến thuộc của những ác ma này, đối với Tam bảo, chẳng đắc ý, chẳng được niềm tin thanh tịnh; ngược lại còn phát sinh sân hận. Hoặc đời hiện tại, hay đời vị lai, cho đến khi chánh pháp vi diệu này còn rực sáng về sau, chúng sẽ siêng năng, dùng phương tiện, rình mò tìm kiếm sở đoản của pháp ấy, để làm cho chánh pháp hoại diệt, ẩn mất. Như vậy, là có mười tám những ma, cùng với một vạn ba ngàn quyến thuộc của chúng; lại còn có hai trăm những ma cùng với hai ngàn một trăm quyến thuộc của chúng như vậy; những ma đó, ở trong Tam bảo, đều chẳng đắc ý, chẳng có niềm tin thanh tịnh, ngược lại sinh sân hận. Hoặc hiện tại, hoặc vị lai, cho đến khi chánh pháp lưu hành, chúng luôn siêng năng, dùng phương tiện, dò tìm sở đoản của pháp ấy, để làm cho giáo pháp của ta và chánh pháp vi diệu hoại diệt, ẩn mất. Vì sao? Vì từ xưa đến nay, chúng nắm giữ lực ganh ghét, chẳng gieo trồng căn lành, bị sự thâu nhiếp của ác tri thức, ở trong thiện ly dục, không thọ lạc, chúng vĩnh viễn không hy vọng, không dục nguyện.

Tâm của những ma đó, đối với tâm của Như Lai và tâm Bồ-tát, chưa từng hòa thuận; chúng trụ ở niềm tin bất tịnh, chẳng giải thoát. Những ma này, hôm nay, tuy chẳng tin, nhưng đã thấy Như Lai đại tập diệu sắc và nghe Đà-la-ni thậm thâm này. Nhờ nhân duyên đó, nên vào thời gian sau, chúng sẽ được niềm tin thanh tịnh, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát Hoài Lạc nói:

–Hiếm có, thưa Thế Tôn! Hiếm có, thưa Đức Thiện Thệ! Những chúng sinh đó, thậm chí chẳng gieo trồng căn lành, nếu tai chỉ nghe qua pháp môn này, chỉ với nhân duyên như vậy, cũng sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, các ma tên là Bất Khứ, từng ở chỗ Đức Phật, cúng dường rất nhiều; đối với Tam bảo được niềm tin bất động, được lời ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hóa làm hình tướng đại Thiên nhân, đứng dậy trước Đức Thích-ca Như Lai, chắp tay, quan sát khắp Như Lai, nhờ uy lực của Đức Thế Tôn gia hộ, nên ở tất cả cõi Phật, tiếng lớn đầy khắp, ông nói:

–Xin các Đức Phật Thế Tôn một lòng nghĩ đến con! Xin tất cả Đại Bồ-tát và Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Nhân phi nhân… ma và quyến thuộc nghe lời con nói! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Đại Bi Đạo Sư này, từ thuở xa xưa, đã thề nguyền như vầy: “Sẽ ở cõi Phật ngũ trược rất uế ác để được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đối với chúng sinh ngỗ nghịch, bài báng diệu pháp, hủy báng Thánh nhân, không đủ căn lành, ác hạnh tương ưng, lòng cứ tiếp nối nhau làm như vậy… thì sẽ khiến khắp tất cả, ra khỏi ba đường ác, thành tựu ba thừa, tu nhẫn Tam-muội Đà-la-ni, dẫn dắt họ hướng về những cõi Phật thanh tịnh, khiến cho hạt giống Tam bảo trụ thế lâu dài, chẳng đoạn tuyệt, thành tựu đại nguyện, là đoạn trừ tất cả cõi Phật uế trược, thành tựu viên mãn tất cả công đức trang nghiêm.

Vậy nên, chúng con sẽ làm như vầy: Để khiến cho chánh giáo của Đức Như Lai trụ thế lâu dài và chánh pháp vi diệu chẳng bị hoại diệt; hoặc hiện tại, hoặc vị lai sẽ không có ma hoặc quyến thuộc của ma ở chỗ Đức Như Lai thọ Chánh pháp và muốn hoại diệt, ẩn mất, thậm chí chẳng thể não hại một chúng sanh, chỉ trừ kẻ ít tùy thuận, chẳng đủ niềm tin. Nếu có người trì diệu pháp này, người tùy thuận diệu pháp này, người nói pháp này, người nghe pháp này; Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,

Ưu-bà-di, thiện nam, thiện nữ có tín tâm, siêng năng tu ba nghiệp, có thể tự mình sách tấn chuyên cần, ngồi thiền, tụng kinh; xây dựng chùa tháp; luôn luôn siêng năng làm phước; siêng năng phụng sự cúng dường Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo; siêng năng đoạn dứt phiền não trói buộc của ba cõi; siêng năng đoạn trừ các khổ của tất cả chúng sinh khiến cho hết thảy đều giải thoát. Những hành nhân đó, dù là ma sứ, hoặc ma nữ, ma nam, hoặc quyến thuộc của ma, mà muốn não loạn họ, dò tìm sở đoản của họ, gây chướng ngại khó khăn cho nghiệp thiện, tạo tác nhân duyên loạn tâm. Vì những người đó, hiện tiền hôm nay, con xin thỉnh các Đức Thế Tôn thương xót con cho con thành tựu nghiệp thiện lực! Tất cả Đại Bồ-tát cùng tất cả ma và quyến thuộc của ma, tất cả Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… tất cả những người đã đến và có mặt ở cõi Phật này và hết thảy chúng của đại địa; muốn lợi ích cho các chúng sinh, muốn chánh pháp được trụ thế lâu dài, sẽ thương xót con, hôm nay muốn nói chú cho con thành tựu. Nếu ma hoặc quyến thuộc của ma muốn não hại những người đó và diệu pháp, đó thì con sẽ hàng phục, khiến cho tâm chúng loạn, khiến cho thân chúng khổ, khiến cho thân rụt lại, mất hết thần thông, con sẽ nói câu chú này. Nếu các ma cùng quyến thuộc của ma, ma nam, ma nữ hay sứ giả của ma… mà đối với những lời Phật dạy khởi lên một ý niệm ác, lòng chẳng thanh tịnh, não loạn các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thậm chí, chỉ dấy lòng trong một sát-na, muốn làm não loạn, làm giảm mất thiền phần. Hoặc chúng ở thôn thành, quốc ấp, cho đến vương thành, cung nội, chỗ biên cương vắng lặng… tùy theo chỗ sở tại, có pháp môn này khai thị, phân biệt; nếu chúng ở chỗ này, khởi lên lòng phá hoại, thậm chí chỉ chừng một sát-na. Hoặc ở những địa phương đó xảy ra đấu tranh, dịch bệnh, đói thiếu, các bệnh tật, oán dịch phương khác, gió mưa phi thời, cực lạnh, cực nóng, nước lũ bỗng dâng lên, động đất, đất kêu rống, hỏa tinh rơi xuống. Có những tướng ác như vậy khởi lên. Hoặc đối với hoa lá, quả trái, các giống lúa, dược vị với những thứ đó, chúng dấy lòng phá hoại. Còn liền khiến cho ma đó, cho đến kẻ sai khiến của ma, bị sự đốt nung của uất nhiệt thối rửa, không thể làm gì được, chẳng thể đứng dậy, chẳng tự thấy, bị năm ràng buộc, cho đến tất cả còn phần trong thân co rút chẳng thể duỗi ra được, khiến bị tối đen, chẳng nhìn thấy ánh sáng, mất hết thần thông, tâm ý thác loạn, khiến cho sáu căn của chúng, chẳng thể duyên cảnh được.

Ông liền nói chú:

Đa địa dã tha a ma li (1) A hám ma ly (2) A hám ma ly (3) A xà bà bà (4) A xà bà bà (5) Mậu la sa ly (6) Tỳ dạ khư ta ly (7) Xã ma ta ly (8) Ha ha ha ha ha ha (9) Cù la ta tra (10) Xã na khứ già

(11) Nhĩ dã khứ già (12) Tật nhỉ dã bà ta khứ già

(13) A mậu xoa la (14) Xoa xoa xoa xoa xoa xoa (15) Mậu la bà ha (16) Khứ già ta bà khứ nhã (17) Ta bà bả lý bả sỉ mậu la (18) A nhã nhã bà do nhã (19) Chiên đà la thấu lý dã nhã nhã (20) Na bà nhã nhã (21) Khâu la xoa nhã nhã (22) Bà bà nhã nhã (23) Bội sỉ cú chỉ sỉ tha đa nhã nhã (24) Tát bà nhỉ tỳ la địa sử sỉ đa nhã nhã (25) Bà ca la ma (26) Để lý kiện sỉ xoa bà (27) Xoa ma ma xoa ma nhã (28) Si thượng sỉ ma la tỳ sở dã (29) Ta bà ha (30).

Khi ma Bất Khứ nói chú này, chỉ trong sát-na, nhờ được Nhất thiết trí ủng hộ, nên cảnh giới các ma đều hoại diệt, không thể thành tựu. Đúng vậy, đúng vậy! Những ý muốn chẳng đem lại lợi ích của ma, đều chẳng thành kết quả! Lúc đó, tất cả các Đức Phật Thế Tôn đều khen ngợi:

–Hay thay, hay thay!

Và tất cả các vị Đại Bồ-tát, Trời, Rồng, Nhân phi nhân… cũng cùng khen ngợi:

–Hay thay, hay thay!

Bấy giờ, đại địa đều chấn động, bốn biển sôi trào, các vua núi Tu-di, ma và quyến thuộc đều đại kinh động; những quỷ thần ác cũng lại như vậy, chỉ trừ người có lòng tin thanh tịnh giáo pháp của Đức Phật và Bồ-tát đắc Nhẫn, là chẳng kinh sợ.

Bấy giờ, Ma vương hỏi Bồ-tát Kiên Cố Tuệ:

–Này thiện nam! Vì nhân duyên gì mà ma Bất Khứ này có thắng lực đó? Ai gia hộ ma đó? Sự không Từ bi này, khiến cho bộ đảng của ta và sự tạo tác lực cảnh giới của ta, tất cả đều tiêu tan và thoái hoại. Rồi lại kiến lập hắc đảng thân thuộc của Sa-môn Cù-đàm để giảng nói “đoạn ác kiến”. Khi ta nghe Đà-la-ni này, khiến cho thân thể của ta hôi thối, tan rữa, không thể làm gì được, tất cả các phương vì ta mà tối đen, chẳng thấy ánh sáng, bị thiêu đốt lửa nóng sao?

Bồ-tát Kiên Cố trả lời Ma vương:

–Đây chính là thần lực của tất cả các Đức Phật Thế Tôn gia hộ! Cũng chính là tất cả Nhân phi nhân… cùng với lực của ma Bất Khứ, đã khiến cho lực của tất cả các cảnh giới ma, mà các ông đã cố ý tạo tác, đều bị tiêu diệt tan nát. Hôm nay, khi nghe được câu Đà-la-ni bất thoái này; ông nên sinh lòng tin thanh tịnh, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đối với Như Lai. Hôm nay, nếu ông có thể làm như vậy thì những chạm xúc, khổ não của thân, miệng, ý này thảy đều được giải thoát.

Lúc đó, Ma vương trả lời Bồ-tát Kiên Cố Tuệ:

–Hôm nay, ta thà nhẫn chịu khổ này, thà để cho thân, miệng, ý chịu vô lượng, vô số việc đại khổ, đến tận biên tế kiếp sau cùng, chứ ta nhất định, chẳng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

QUYỂN 10

Phẩm 12: A-tra-bạc-câu

Lúc bấy giờ, chủ đại tướng quân, trong chúng

Dạ-xoa tên là A-tra-bạc-câu, biến làm hình tướng Dạ-xoa đáng sợ. Lại có Dạ-xoa tên là Vi Tưởng, biến làm hình tướng con nai. Lại có Dạ-xoa tên là Trí Cự, biến làm hình tướng khỉ đột. Lại có Dạxoa tên là Xả Khát Ái, biến làm hình tướng dê đen. Lại có Dạ-xoa tên là Đoạn Lưu, biến làm hình tướng voi. Năm Dạ-xoa này, chính là hàng Thiện trượng phu ở cách Đức Thích-ca Như Lai chẳng xa, ngồi ở trước Đức Như Lai Kiều-trầnviêm. Tất cả phần thân của năm người này, đều phát ra ánh sáng, thơm dịu thanh tịnh; mỗi người dùng hai tay bưng đại báu quang minh để cúng dường Đức Thế Tôn. Lúc ấy, Đại Bồ-tát Hoài Lạc dùng tâm thanh tịnh quán sở y thanh tịnh, của năm người này đúng là Đại Bồ-tát; liền hỏi Tướng quân Dạ-xoa A-tra-bạc-câu:

–Này Thiện trượng phu! Các ông, hôm nay thấy những gì mà hiện tướng uy nghi như vậy, để làm việc cúng dường Đức Thế Tôn?

A-tra-bạc-câu đáp lại Bồ-tát Hoài Lạc:

–Thưa thiện nam! Vào đời quá khứ chín, mươi mốt kiếp, ở cõi Phật này, có Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Ở đời Đức Phật đó, chúng tôi là anh em đồng mẹ sinh ra; ở chỗ Đức Phật đó, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; để thành thục chúng sinh, siêng hành phương tiện. Từ đó về sau, ở chỗ Đức Thi-khí Như Lai, chỗ Đức Tỳ-diệp-bà Như Lai; cho đến ở đại Hiền kiếp này, Đức Như Lai đầu tiên có danh hiệu là Câu-lưu-tôn, Đức Phật đó ra đời. Từ đó về sau, chúng tôi nguyện thường làm anh em đồng một mẹ. Đối với Đức Như Lai đó, anh em chúng tôi dùng đủ thứ cúng dường, cung cấp mọi thứ cần dùng. Ở thời Đức Phật đó, Trượng phu Tưởng Thiện (A-tra-bạc-câu) là Ưubà-tắc, ưa tu thiền định, đã phát nguyện:

Tôi nguyện thường ở trong đại Hiền kiếp, làm đại tướng Dạ-xoa. Nếu có Dạ-xoa cư trú ở hoang dã, đối với các chúng sinh, thường mang lòng ác, không có lòng bi mẫn, bọn chúng, với đủ hình tướng Dạ-xoa, cho đến Ca-tra, Phú-đơn-na… thì tôi dùng phương tiện, thị hiện đồng loại với chúng, vì chúng nói chánh pháp, khiến cho chúng được sinh niềm tin thanh tịnh. Được tịnh tín rồi, tôi vì họ thọ giới pháp, an trí họ vào thiện đạo, yên ổn, tốt lành. Cho đến tùy theo mỗi xứ sở, hay tại đường súc sinh, cũng lại như vậy. Dù là hươu nai, hổ lang, heo, dê, chó… đều vì chúng nói pháp. Cho đến, hằng hà sa số Dạ-xoa ác… những đường súc sinh, tôi đều làm hết như vậy; vì chúng sinh nói pháp, khiến chúng gieo trồng căn lành, chúng được thành thục rồi, đem an trí ở chánh đạo Tam thừa, sau đó tôi mới được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Dạ-xoa Trí Cự nguyện làm hình tướng khỉ đột, là để thành thục khỉ đột. Dạ-xoa Xả Khát Ái nguyện làm hình tướng dê đen, là để thành thục chúng sinh ở tám nạn. Dạ-xoa Đoạn Lưu, nguyện làm hình tướng voi, là để thành thục loài voi. Như vậy, một vạn hai ngàn những Dạ-xoa đại thần thông, cư trú bốn thiên hạ này từ xưa đến nay, đã phát đủ thứ nguyện, để thành thục chúng sinh, cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở trước Đức Như Lai Câu-lưu-tôn, khi họ cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là để thành thục ác Dạ-xoa.

Tôi nguyện đến tận cùng đại Hiền kiếp, nếu những ác Dạ-xoa kia, không lòng Từ bi, ưa làm ác pháp, không lòng từ ân, cho đến Ca-tra, Phúđơn-na, đoạt tinh khí, làm cuồng loạn lòng người khác; tạo tác lòng bất thiện, giết hại chúng sinh, cho đến tà kiến, làm cho tâm của Sát-lợi, Bà-lamôn, Tỳ-xá, Thủ-đà… cuồng loạn; tạo sự cuồng loạn trong đường xá, thành ấp, châu huyện, đất nước…; tạo những sự tai quái về tinh tú, nhật nguyệt, ngày đêm đo tính, nữa tháng, một tháng, thời tiết, niên tuế đều khiến cho mất điều độ. Đấu tranh, mưu kế, đói kém, tật bệnh, oán địch phương khác, mưa gió phi thời, cực lạnh, cực nóng… hòa hợp, tập khởi những việc ác như vậy. Chúng sinh vui sướng, không bệnh, hòa hợp, đối với thiện pháp; các vị đất, tinh khí, của cải, ngũ cốc, vật báu, vị đồ ăn, vị pháp, vị giải thoát, đều khiến cho diệt mất có những ác Dạ-xoa muốn như vậy thì tôi sẽ giáo hóa, khiến cho thọ giới, rồi đặt vào địa vị bất thoái, sau đó tôi mới chọn lấy, ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tôi từ đó về sau, thường sinh ở trong những đại Dạ-xoa ác, làm đại tướng quân. Cho đến loài Ca-tra, Phúđơn-na cực ác… để dùng pháp ba thừa thành thục, an trí chúng vào địa vị bất thoái. Từ đó về sau thấy quỷ thượng, quỷ trung, quỷ hạ; tôi chẳng từng khinh khi. Như thấy hình của chúng, tôi biến ra đồng hình với chúng, tùy theo loài, mà cùng với chúng, nói năng, trù lượng, tiến dần, khiến cho chúng vui mừng, đoạn trừ các ác, tạo lập tâm Từ bi. Thỏa mãn hy vọng rồi, ta khiến họ cũng dường Phật, Pháp, Tăng; khiến họ không thoái chuyển. Tùy chỗ có quyến thuộc Dạ-xoa, ta sẽ đi đến đó dùng pháp giáo hóa, thị hiện. Tùy theo trú xứ của những Dạ-xoa đó, thấy tôi đến, chúng đều cùng bạch: “May thay! A-tra-bạc-câu đến!”. Do chúng gọi tôi là A-tra-bạc-câu nên tôi tên là Atra-bạc-câu. Nếu hôm nay, người không có pháp của bậc tiên Thánh, trụ ở ác giới, thường làm hắc nghiệp thì người đó sau khi mạng chung, sinh vào ba đường ác, một phần ít sinh trong loài người. Nếu người làm tạp nghiệp, nên tạp sinh vào trong những ác Dạ-xoa, Ca-tra, Phú-đơn-na, ở trong thế gian quả báo lại càng tăng trưởng gấp bội, tất cả phương tiện bạch pháp của những người đó, đều hoại diệt. Do cái ác đó, nên hiện nay, việc đấu tranh lại tăng trưởng bội phần, mà tôi lại chẳng có thể ở trong mọi lúc, đối với ác Dạ-xoa, cho đến ác Phú-đơn-na, để dùng lời nói nhu nhuyến an trí chúng vào bạch pháp. Tôi lại chẳng thể, ở trong mọi lúc đối với Sa-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đàla… trai gái lớn nhỏ, tiểu nam, tiểu nữ để trừ nhiễu loạn cho họ. Tôi lại chẳng thể ở trong tất cả mọi lúc, đối với thành ấp, châu huyện, đất nước, đường xá để trừ nhiễu loạn ở những nơi ấy. Tôi lại chẳng có thể ở trong tất cả mọi lúc, mà khiến cho tâm và tâm sở pháp của các quỷ thần an trí vào mùi vị giải thoát. Thưa thiện nam! Tôi nay nhờ lực uy đức của tất cả các Đức Phật, nên đã được khéo léo nhập phương tiện siểm tâm trí của tất cả Dạ-xoa, Ca-tra, Phú-đơn-na… Thưa thiện nam! Có Đà-la-ni tên là Kim cang khư-bà-ta-lý chư quỷ tâm đại bạo ác minh chú. Nếu có người hành trì chú này thì những con gái Dạ-xoa, cha mẹ Dạ-xoa, nam nữ Dạ-xoa, vợ chồng Dạ-xoa, cùng quyến thuộc của chúng; hoặc La-xoa, con gái La-xoa, cho đến rồng, con gái của rồng, Cưubàn-trà, con gái của Cưu-bàn-trà, quỷ bệnh điên, quỷ bệnh sốt rét, hoặc ngày ngày tái phát cho đến bốn ngày phát một lần; hoặc Ca-tra, con gái Catra, Phú-đơn-na, cha mẹ của Ca-tra, Phú-đơn-na, nam nữ Ca-tra, Phú-đơn-na, vợ chồng Ca-tra, Phú-đơn-na cùng quyến thuộc của chúng… tất cả bọn chúng, chẳng thể nào hại Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà-la… cho đến đất nước. Lại nữa, này thiện nam! Tùy theo xứ sở, hoặc thành ấp, châu huyện, hoặc bên trong vương cung, cho đến nhà dân, mà Kim cang khư-bà-ta-lý chư quỷ tâm đại bạo ác minh chú” này, tùy chỗ mà khai thị, chỗ đó có ác Dạ-xoa, Ca-tra, Phú-đơn-na… từ xưa đến nay, ganh ghét, theo đuổi nghiệp bất thiện đều khiến cho xả bỏ; khiến phát sinh lòng Từ bi nhu nhuyến, đối với tất cả chúng sinh khởi lên lòng lợi ích. Nếu tất cả xóm làng, nhà cửa, bị sự nhiễu loạn của Trời, Rồng, Dạ-xoa, Ca-tra, Phú-đơn-na… bị những tai ách quái lạ của mặt trời, mặt trăng và tinh tú, bị sự gia hại của khí độc, sự nhiễu loạn của trùng độc, trong thân thể bị các bệnh gió, bệnh da vàng, bệnh âm, bệnh sốt rét hoặc ngày ngày phát sinh hoặc hai ngày, ba ngày, bốn ngày phát sinh một lần, bệnh hủi, ghẻ lở, ho, nhọt đầu đinh, đau bụng, bệnh về các phần thân thể… làm nhiễu loạn; thì tất cả đều được diệt trừ. Tôi nguyện cho Nhân phi nhân, cho đến loài cầm thú đều siêng năng tu hành bạch nghiệp, đoạn dứt những nỗi sợ hãi, đầy đủ niềm vui sướng, ngày đêm thọ lạc, bố thí, điều phục nhiếp hộ thân miệng, không lười biếng, siêng tu và ưa cầu trợ đạo Bồ-đề. Lại thưa tiếp như vầy: Thưa thiện nam! Các Đức Phật Thế Tôn tùy hỷ gia hộ, ban cho tôi câu chú để thành tựu nghiệp này, để có thể đoạn trừ tất cả pháp ác nhiễu loạn, để chặn đứng tất cả pháp phần bất thiện, làm tăng trưởng tất cả phần pháp thiện. Tôi nay muốn nói chú Nhất thiết chư ác Kim cang khư-bà-ta-lý đại minh này. Đức Thích-ca Như Lai sẽ gia hộ cho tôi “Viên âm diễn thuyết”. Nếu văn tự này, là viên âm diễn thuyết của tôi thì xin âm thanh này đầy khắp trong tất cả cõi Phật, những đại chúng đã đến đây, nghe được văn tự cú nghĩa của Viên âm diễn thuyết này đều trở nên vui mừng.

Bấy giờ, Đức Thích-ca Như Lai bảo tướng quân Đại Dạ-xoa A-tra-bạc-câu:

–Này thiện nam! Chư Phật đã gia hộ ông Viên âm diễn thuyết Kim cang khư-bà-ta-lý chư quỷ tâm đại bạo ác Đà-la-ni chú này, để phá hoại hắc đảng, làm rực sáng bạch pháp. Này thiện nam! Ông phải dũng mãnh, nói câu minh chú Kim cang khư-bà- ta-lý chư quỷ tâm đại bạo ác, có thể trừ tất cả nhiễu loạn này, chận đứng tất cả những câu chú ác.

Lúc này, đại Dạ-xoa tướng quân A-tra-bạc-câu, liền đứng dậy, cúi mình chắp tay, hướng về Đức

Thích-ca Như Lai, dùng âm thanh lớn, làm cho hết cả cõi Phật này, đều được cáo tri. Ông liền ở trước Đức Phật, nói chú:

Đa địa dã tha đậu ma đậu ma (1) Đà ma đà ma (2) Đậu ma đậu ma (3) Nhỉ lý na (4) Na la nổ la nhỉ la (5) Cưu tra nhỉ cưu tra nhỉ (6) Ma ha cưu tra nê (7) Tra tra tra chu (8) Ma ha tra tra (9) A bà ta (10) A tỳ a tỳ (11) Lý ni lý ni (12) Ma ha lý ni lý ni (13) Lý nhị lý nhị lý nhị (14) đà lý di (15) Lý tỳ ma ha lý tỳ (16) Thủ lâu thủ lâu (17) Ma ha thủ lâu thủ lâu (18) Thủ lâu thủ lâu đà (19) Ma ha thủ lâu thủ lâu (20) Au cữu ma cữu ma (21) Cữu ma na (22) Lý nhị lý nhị (23) Ê lý ê lý (24) Ê lý ê lý (25) Ê lý ê lý (26) ê lý ê lý (27) ê lý (28) Nhỉ nhị nhỉ nhị (29) Ê nhỉ ê nhỉ (30) Mẫu nhỉ mẫu nhỉ (31) Bộ địa (32) Lý bả la bà la (33) Sở trá sở trá lộ ca (34) Trá lý da thị nê thị nê (35) Thị na lý sở bà (36) Thị na thị na lý sở bà (37) Ta bà ha (38).

Tướng quân Đại Dạ-xoa A-tra-bạc-câu nói chú này rồi, liền bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Tùy theo mỗi xứ sở hoặc ở nơi thành ấp, hoặc ở nhà thứ dân; khi nói câu Kim cang khư-bà-ta-lý-da đại minh chú này; nếu có Dạ-xoa cho đến Ca-tra Phú-đơn-na, mà lòng chẳng tịnh tín và thân, miệng, ý chẳng thọ lời răn dạy, đối với chúng sinh, chẳng khởi lòng Từ bi thì hôm nay, con lại mạnh dạn nghiêm chỉnh, nói thêm câu đại minh chú nữa.

Ông liền ở trước Đức Phật nói chú:

Đa địa dã tha a chi (1) A chi (2) Mâu nê mẫu nê (3) A kỳ nê hủ hủ (4) Mâu nê mẫu nê (5) Ma na lý sở bà hủ hủ (6) A ca la đàn trì (7) A sỉ đàn trì (8) A sỉ a sỉ (9) A để (10) Ẩu tra (11) Ế nhỉ (12) Ế nhĩ (13) Ế lý ế lý ế lý ế lý ế lý ế lý ế lý (14) Sỉ sỉ la cữu ma (15) Cữu ma cữu ma cữu ma (16) ế lý ế lý)mười bảy) Nhỉ lý nhỉ lý (18) Ma ha nhỉ lý (19) Tam mẫu đà la nhỉ khư (20) Ha tra ha tra ha tra (21) A la noa di khư (22) Xoa bà khư (23) Tỷ lý địa tỳ (24) A bả (25) đế thù (26) Bà do (27) A ca xả (28) Đà đà đà cùng tỳ (29) Bằng cùng tỳ (30) Ác si cùng tỳ (31) Thị hử bà cùng tỳ tát bàng già cùng tỳ (32) La khư cùng tỳ (33) Ta đà ta đẩu cùng tỳ (34) Ta bà ha (35).

Lúc đại tướng Dạ-xoa A-tra-bạc-câu nói chú này, liền khi đó, không có gián đoạn; tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Ca-tra, Phú-đơn-na đều rất kính sợ. Những người trụ trên đất và hư không ở cõi Phật này đều run sợ. Trong khoảnh khắc một sát-na, tất cả những quỷ như vậy liền ở trước Đức Phật, chắp tay, kính ngưỡng, nói lên:

–Nam-mô Nhất thiết chư Phật! Nam-mô, nammô Nhất thiết chư Phật! Những Đấng Đại Bi Tối Thắng, nguyện xin thương xót con! Đại tướng Dạxoa A-tra-bạc-câu nói câu chú này vào trong tâm của tất cả quỷ.

Phẩm 13: CÁC ĐỨC PHẬT TRỞ VỀ NƯỚC

Lúc bấy giờ, tất cả các Đức Phật Thế Tôn từ mười phương đến trong hội đều đứng dậy, hiện tướng trở về nước. Lúc đó đại chúng ở dưới đất và ở trên hư không, đều run sợ, vì tất cả đại địa đều chấn động. Từ không trung mưa xuống hoa, ở trong hư không tấu lên trăm ức điệu nhạc, hương đốt, hương bột từ không trung tuông xuống, ánh sáng soi khắp bên trong cõi Phật này. Tất cả đại chúng đều chắp tay. Bấy giờ, chủ thế giới Ta-bà là vua trời Phạm thiên, hỏi Đức Phật Đại Chiên-đàn Hương:

–Thưa Thế Tôn! Những chúng sinh đó, nhờ căn lành gì mà được đầy đủ? Các Đức Phật Thế Tôn, dùng bao nhiêu thứ pháp, gia hộ chúng sinh vào đời vị lai, được pháp môn này rồi sẽ thọ, sẽ trì, sẽ đọc, sẽ ôn tụng và sẽ vì người khác sẽ khai thị rộng rãi; sẽ sao chép kinh này, sao chép rồi đem đặt trong nhà?

Đức Thế Tôn Đại Chiên-đàn Hương Như Lai bảo Phạm Thiên vương:

–Đúng vậy! Này Phạm vương! Tất cả chư Phật gia hộ thân của chúng sinh trong sáu cõi, điều phục ma đảng; diệt dứt đấu tranh, nhiễu loạn, thành thục chúng sinh, làm cho pháp vi diệu trụ thế lâu dài, làm thanh tịnh đạo Vô thượng. Như vậy, tất cả chư Phật Thế Tôn; các vị Đại Bồ-tát, có mười thứ pháp gia hộ chúng sinh, ở đời vị lai, được pháp môn này, mà sẽ thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh, rồi đặt ở trong nhà. Mười pháp đó là:

1.              Tất cả các Đức Phật, các vị Đại Bồ-tát ân cần phó chúc cho tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca lầu la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-lagià… phải luôn ủng hộ người thọ trì pháp, chớ khởi lên việc phi pháp; nghiệp thân, miệng, ý, răn bày thiện pháp; tùy theo sự thọ dụng y phục, ẩm thực của họ, mà luôn khiến cho họ dồi dào, không bệnh, yên ổn cho đến khi xả thân mạng mình; hộ người trì pháp, khiến cho họ không có lỗi lầm.

2.              Niệm tuệ lạc thuyết, những sở đắc của người đó, đều hướng đến phương tiện khéo léo để không phạm lỗi lầm và những ưa muốn tương ưng với giác ý, đầy đủ thâm nhẫn, tùy theo sở trụ, mà lòng như hư không, như đất.

3.              Dùng bốn Nhiếp pháp, khuyên những tứ chúng và chúng sinh khác, được trụ ở thiện pháp, giữ lấy thân kiên cố, ba việc đều thanh tịnh, hành đạo Bồ-đề.

4.              Được Bảo tràng Tam-muội. Được Tam-muội đó thì có thể khéo léo quan sát các cửa Tam-muội.

5.              Tùy theo chỗ mạng chung của người trì pháp đó, mà có vô lượng, vô số các Đức Phật Thế Tôn, các chúng Tỳ-kheo, các chúng Bồ-tát thường hiện ở trước mặt, nuôi dưỡng việc thuyết pháp.

6.              Pháp văn tự cú nghĩa của chư Phật Thế Tôn đã nói thành tựu, thảy đều được nghe; tức là được tất cả pháp tối thắng, không thọ hỷ lạc. Tất cả nghiệp chướng đó, tùy theo sát-na sau cùng của người mạng chung đó, mà xả thọ tử thức thì được diệt đúng như pháp, giống như tử pháp của A-lahán diệt.

7.              Đúng như điều mong cầu, theo ý mà hóa sinh vào cõi Phật thanh tịnh. Các Đức Thế Tôn trụ thế ở đó, sẽ nuôi dưỡng, thường nói giáo pháp Đại thừa thanh tịnh. Người trì pháp đó, đối với đại thừa này, không chướng ngại trí, lòng đầy đủ như hư không mà trụ.

8.              Chẳng bao lâu, đối với công đức này đều được đầy đủ.

9.              Người trì pháp đó, chẳng sinh trở lại cõi Phật uế trược, trừ khi vì bản nguyện của mình.

10.        Mau chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đó là mười pháp.

Các Đức Phật Thế Tôn, dùng mười pháp này, gia hộ người trì pháp. Hoặc hiện tại hoặc đời vị lai, chánh pháp vi diệu này sẽ được rực sáng, nếu có người thọ trì pháp môn Đà-la-ni này, dù chỉ sao chép kinh này, đặt yên trong nhà thì tất cả các Đức Phật, các vị Đại Bồ-tát cũng sẽ ủng hộ người trì pháp đó; tất cả phiền não đều được giải thoát; đó chính là Đại Bồ-tát vậy.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích-ca Như Lai bảo Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương:

Này các thiện nam! Những Đức Thế Tôn này đều từ khắp mười phương đến hội, thương xót các ông, những chúng sinh mà khiến cho ngoại vật của thế giới này thanh tịnh, thành thục tất cả chúng sinh, hiển thị hạnh Bồ-đề, đẩy lùi ma đảng, kiến lập pháp tràng, hiển thị tất cả Phật sự, làm cho hạt giống Tam bảo chẳng đoạn tuyệt. Tiêu diệt tất cả bệnh, ngăn ngừa tất cả ác, giúp đỡ tất cả sự sợ sệt, đoạn trừ tất cả ác kiến, vào đạo Bồ-đề, đầy đủ mười Lực của Như Lai, hết sạch tất cả nghiệp phiền não, nói lên tướng hiếm có đại hiếm có này; từ xưa chưa từng có, chưa từng nghe Đà-la-ni, câu nghĩa thậm thâm, ủng hộ nhà cửa, thành ấp, đất nước; cho đến ủng hộ cả bốn thiên hạ này. Hộ Trời, Rồng, Nhân phi nhân đầy đủ ngũ cốc, dược thảo, hoa trái; hộ thầy nói pháp và người nghe pháp. Vì được Vô trước Đà-la-ni, nên vào trí như hư không, nhờ tất cả pháp thức, mà được Nhất thiết trí.

Lại nữa, này thiện nam! Nhờ pháp môn này, nên tất cả các Đức Phật nương vào trí Đại bi. Do mười thứ pháp ủng hộ, nên mỗi một vật có trong cõi Phật này, đều tăng trưởng, chẳng hoại. Này thiện nam! Tất cả các Đức Phật, Bồ-tát ở khắp cõi Phật này, đều thọ dụng, không chỗ trống rỗng khiếm khuyết, hộ trì tất cả thiện pháp. Người thọ sinh ở tất cả cõi Phật, đối với cõi này sẽ khởi lên sự tôn trọng, lễ bái, tưởng như tháp miếu, tưởng như Đại sư. Do người thọ sinh ở cõi Phật này, nên có thể khéo léo kiến lập tất cả pháp, diệt trừ các nghiệp chướng, tội ngũ nghịch, các pháp bất thiện, những kết quả chẳng ưa thích, tất cả tận diệt, không còn để được trụ ở thiện pháp. Này thiện nam! Các Đức Phật ở cõi Phật này, đều làm hạnh nghiệp của bậc Đại trượng phu. Này thiện nam! Các ông nên cung kính, thọ trì pháp này. Nếu có người tại gia và xuất gia thọ trì pháp này, tin pháp này thì các ông hãy nên giữ gìn những người này; các ông sẽ được lợi ích, an lạc.

Đức Như Lai Câu-tô-ma Tràng, đối với pháp môn này, tán dương công đức, nói kệ:

Vàng ròng đầy các cõi
Cúng dường các Thế Tôn
Chẳng bằng trì kinh ấy
Phước đức vô lượng biên

Đức Như Lai Bảo Thắng Cái cũng lại như vậy, khen ngợi công đức không lường của kinh mà nói kệ:

Nếu đem nhiều vàng báu
Cúng Phật nhiều không lường
Người nhận được phước này
Chẳng bằng người trì kinh

Đức Như Lai Tu-di Phong cũng lại như vậy, khen ngợi công đức không lường của kinh, nói kệ:

Nhiều vòng hoa tối thượng
Che bày khắp hư không
Thí dâng khắp chư Phật
Lòng tịnh hỷ cúng dường.
Khi mạt pháp sắp hết
Nhiều những việc kinh hoàng
Lượng phước trì kinh ấy
Chư Phật nói chẳng cùng.

Bấy giờ, Đức Thích-ca Như Lai cũng lại như vậy, khen ngợi công đức không lường của kinh, nói kệ:

Nếu trước Mâu-ni lòng tịnh khởi
Đốt bấc đèn như Tu-di sơn
Trong vô lượng câu-chi đại kiếp
Vui vẻ đem đèn này cúng dường.
Lại có người khác ưa phước đức
Mong cầu vô chướng giải thoát thân
Khi pháp sắp tận, dùng kinh ấy
Vì người tin nói, phước này hơn (phước kia).

Đức Như Lai A-súc, cũng lại như vậy, khen ngợi công đức không lường của kinh, nói kệ:

Nếu tu trì Nhẫn tuệ
Luôn khởi hạnh Tinh tấn
Thiền định nhiếp thân nghi
Và dùng trí quảng đại.
Khi mạt thế tranh đấu
Trì diệu pháp ấn này
Tu nhẫn, tấn khó sánh (không ai bằng)
Trí tuệ không ai bằng.

Đức Như Lai Tịnh Tam-muội Dũng Lực, cũng lại như vậy, khen ngợi công đức không lường của kinh, nói kệ:

Khai thị kinh pháp này
Thọ trì và ghi chép
Trao cho người tương ứng
Lại hay thọ tụng thường.
Lọng hoa, quần áo đẹp
Đốt hương để cúng dường
Những công đức đạt được
Không có thể đo lường.

Lúc bấy giờ, vô lượng, vô số các Đức Phật Thế Tôn đều khen ngợi công đức của kinh này; nó lợi ích vô lượng, vô biên. Khen ngợi xong, chư Phật liền bảo với Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương:

–Này các thiện nam! Các ông, tất cả hãy thọ trì pháp môn này thì tận diệt hết phiền não chướng, tất cả nghiệp chướng. Mạt thế về sau, nếu có chúng sinh chỉ nghe kinh này thôi, cũng tận diệt hết phiền não chướng, tất cả nghiệp chướng.

Đức Phật nói kinh này rồi, tất cả thế gian, thiện nam đều được niềm tin Trời, Người, A-tu-la, Cànthát-bà… nghe lời nói của Đức Phật đều hoan hỷ phụng hành.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Đại tập][397.1][397.2][398][399][400][401][402][403][404][405][406][407][408][409][410][411][412][413][414][415][416][417][418][419][420][421][422][423][424]


[Mục lục tổng quát]