NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN VIII
PHÁP-HẠNH BA-LA-MẬT 3
(PĀRAMĪ)
Pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
Tích Nimijātaka (Ni-mi-cha-tá-ká)
Trong tích Nimijātaka[1] Đức-Bồ-tát tiền-kiếp Đức-Phật Gotama là Đức-vua Nimi tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật (adhiṭṭhānapāramī).
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại vườn xoài thượng uyển của Đức-vua Maghadeva, gần kinh-thành Mithilā. Ngài thuyết về tích Nimijātaka này đề cập đến pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc hạ. Tích này được bắt nguồn như sau:
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch hỏi rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nguyên nhân nào mà Ngài mỉm cười? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Phong cảnh này, tiền-kiếp Như-Lai sinh làm Đức-vua Maghadevarāja, đã từng thực-hành pháp-hành thiền-định.
Tích Nimijātaka
-Này chư tỳ-khưu! Trong thời quá-khứ, Đức-vua Bồ-tát tên là Maghadeva, tiền-kiếp của Như-Lai ngự tại kinh-thành Mithilā, đất nước Videha.
Khi còn là Thái-tử trong thời-kỳ thơ ấu vui chơi khoảng thời gian 84.000 năm.
Thời-kỳ làm Phó-vương khoảng thời gian 84.000 năm. Thời-kỳ làm Đại-vương khoảng thời gian 84.000 năm.
Một hôm, Đức-vua Bồ-tát Maghadeva truyền bảo vị quan sửa tóc, râu rằng:
- Này khanh! Nếu khi nào ngươi thấy trên đầu của Trẫm có một sợi tóc bạc thì ngươi hãy tâu cho Trẫm rõ ngay khi ấy.
Thời gian sau, vị quan sửa tóc thấy một sợi tóc bạc trên đầu của Đức-vua Bồ-tát Maghadeva, nên tâu rằng:
- Muôn tâu Đại-vương, kẻ hạ thần đã thấy một sợi tóc bạc trên đầu của Đại-vương rồi.
Nhìn thấy sợi tóc bạc, Đức-vua Bồ-tát Maghadeva suy xét thấy sự già đã đến, rồi sự chết đang chờ phía trước, nên Đức-vua Bồ-tát Maghadeva quyết định rằng:
“Nay là thời-kỳ ta nên đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.”
Đức-vua Bồ-tát Maghadeva cho truyền gọi Thái-tử đến, rồi truyền bảo rằng:
- Này hoàng nhi yêu quý! Con hãy nên nối ngôi Phụ-vương. Còn Phụ-vương sẽ đi xuất gia.
- Muôn tâu Đức-Phụ-vương, do nguyên nhân nào mà Đức-Phụ-vương đi xuất gia như vậy?
-Này hoàng nhi yêu quý! Một sợi tóc bạc đã mọc trên đầu của Phụ-vương. Vậy, thời trẻ trung của Phụ-vương đã đi qua rồi, sự già và sự chết sẽ đến. Cho nên, ngay bây giờ, Phụ-vương phải xuất gia trở thành đạo-sĩ, để thực-hành pháp-hành thiền-định.
Sau đó Đức-vua Bồ-tát Maghadeva truyền lệnh hội triều, các quan văn võ tề tựu đông đủ, Đức-vua Bồ-tát Maghadeva làm đại lễ đăng quang cho Thái-tử lên nối ngôi vua cha.
-Này hoàng nhi yêu quý! Sau này, khi nào con thấy có sợi tóc bạc mọc trên đầu, ngay khi ấy, con nên truyền ngôi lại cho Thái-tử, rồi con cũng phải nên đi xuất gia như Phụ-vương vậy.
“Xin cho các Đức-vua sau này trong hoàng tộc của tôi, khi thấy có sợi tóc bạc mọc trên đầu, ngay khi ấy, truyền ngôi lại cho Thái-tử, rồi đi xuất gia trở thành đạo-sĩ như tôi vậy.”
Sau khi phát nguyện xong, Đức-vua Bồ-tát Magha-deva từ giã kinh-thành Mithilā, ngự đi đến vườn thượng uyển, rồi xuất gia trở thành đạo-sĩ thực-hành pháp-hành thiền-định với đề mục tứ vô-lượng-tâm: Niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả chúng-sinh; niệm rải tâm-bi vô lượng đến tất cả chúng-sinh; niệm rải tâm-hỷ vô lượng đến tất cả chúng-sinh; niệm rải tâm-xả vô lượng đến tất cả chúng-sinh, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, duy trì tuổi thọ suốt 84.000 năm.
Sau khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Maghadeva tịch (chết), đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Quảng-quả thiên (Vehapphalabhūmi) sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh. Chư phạm-thiên ở trên tầng trời này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.
Đức-Vua Sau Duy Trì Theo Truyền Thống Xuất Gia
Sau khi vị đạo-sĩ ấy tịch (chết), đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Quảng-quả thiên (Vehapphalabhūmi)…
Sau khi vị đạo-sĩ ấy tịch (chết), đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Quảng-quả-thiên (Vehapphalabhūmi)…
Đức-Bồ-tát phạm-thiên Maghadeva trên cõi trời sắc giới phạm-thiên xem xét thấy rằng:
“Các đời Vua sau kế tiếp trong dòng dõi hoàng tộc của mình theo truyền thống xuất gia trở thành đạo-sĩ, còn thiếu hai đời nữa là đủ 84.000 Đức-vua.
Đức-Bồ-tát phạm-thiên phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ, rồi xem xét tiếp theo truyền thống xuất gia trở thành đạo-sĩ theo dòng dõi của hoàng tộc của mình này có còn tiếp tục được nữa hay không?
“Ta phải nên giữ gìn duy trì truyền thống xuất gia trở thành đạo-sĩ này của ta.”
Đức-Bồ-Tát Phạm-Thiên Maghadeva Tái-Sinh
Tròn đúng 10 tháng, Đức-Bồ-tát đản sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu. Đức-vua cho truyền gọi các bà-la-môn có tài xem tướng tốt vào cung điện, để xem tướng Thái-tử và làm lễ đặt tên Đức-Bồ-tát Thái-tử.
Các vị Bà-la-môn xem tướng Đức-Bồ-tát xong, tâu lên Đức-vua rằng:
-Muôn tâu Bệ-hạ, Thái-tử này sẽ tiếp nối dòng dõi duy trì truyền thống xuất gia trở thành đạo-sĩ của Bệ-hạ, bởi vì dòng dõi hoàng tộc của Bệ-hạ là dòng dõi xuất gia. Sau Thái-tử này, về sau không còn Đức-vua duy trì theo truyền thống xuất gia nữa.
“Thái-tử này sẽ tiếp nối dòng dõi hoàng tộc duy trì truyền thống xuất gia của ta, nên Đức-vua đặt tên Thái-tử là Nimikumāra: Thái-tử Nimi.”
Khi Thái-tử Nimi còn thơ ấu thường giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hàng tháng.
-Muôn tâu Bệ-hạ, nay, có một sợi tóc bạc trên đầu của Bệ-hạ.
Vị quan dùng cây nhíp bằng vàng nhổ sợi tóc bạc đặt trong lòng bàn tay, Đức-vua ban cho vị quan ấy xóm nhà để thâu thuế, nuôi sống gia đình.
Nhìn thấy sợi tóc bạc, Đức-Phụ-vương của Đức-Bồ-tát Thái-tử Nimi làm đại lễ đăng quang cho Đức-Bồ-tát Thái-tử Nimi lên nối ngôi vua cha.
Sau khi vị đạo-sĩ ấy tịch (chết), đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Quảng-quả thiên (Vehapphalabhūmi), …
Đức-Vua Bồ-Tát Nimi
Mỗi ngày, Đức-vua Bồ-tát Nimi ban mỗi trại 100 ngàn kahāpaṇa, 5 trại gồm 500 ngàn kahāpaṇa, để các quan trong triều lo phận sự làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Sa-môn, Bà-la-môn, đến cho dân chúng nghèo khổ, người đi đường, v.v…
Đức-vua Bồ-tát Nimi giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hàng tháng.
Đức-vua Bồ-tát Nimi thường thuyết pháp giảng dạy tất cả mọi người nên tạo mọi phước-thiện như phước-thiện bố-thí đến những người khác, phước-thiện giữ-giới giữ gìn ngũ-giới cho được trong sạch và trọn vẹn, … nên tránh xa mọi ác-nghiệp, nên tạo mọi phước-thiện.
Đức-vua Bồ-tát Nimi giảng dạy mọi người tạo mọi phước-thiện đó là đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời dục-giới an hưởng mọi sự an-lạc, và diễn tả mọi cảnh khổ trong cõi địa-ngục đáng kinh sợ, để cho mọi người không dám tạo ác-nghiệp, mà chỉ tạo mọi đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý và tạo mọi phước-thiện mà thôi.
Phần đông thần dân thiên hạ đều vâng theo lời giáo huấn của Đức-vua Bồ-tát Nimi, tạo mọi phước-thiện như phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hàng tháng, tránh xa mọi ác-nghiệp, cố gắng tinh-tấn mọi phước-thiện, cho nên, sau khi những người dân ấy chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, an hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.
Chư-Thiên Tụ Hội Tại Hội Trường Sudhammā
- Này quý vị! Tất cả chúng ta nương nhờ Đức-vua Nimi, nên chúng ta được an hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời như thế này! Đức-vua Nimi là Vị Tôn-Sư khả kính của chúng ta. Ân-đức Vị Tôn-Sư thật là vô lượng!
- Này chư tỳ-khưu! Đức-vua Bồ-tát Nimi là bậc đại-thiện-trí có ý nguyện tạo mọi thiện-pháp, để tạo các pháp-hạnh ba-la-mật của mình đem lại sự lợi ích cho mọi người, cho nên, chư-thiên và nhân loại đều tán dương ca tụng ân-đức của Đức-vua Bồ-tát Nimi rằng:
“Thật là phi thường! Đức-vua Bồ-tát Nimi là bậc đại-thiện-trí chưa phải là Đức-Phật mà đã thực-hành các phận sự đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc lâu dài đến thần dân thiên hạ trong đất nước Videha như vậy.”
“Ta giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn, đã làm phước-thiện bố-thí đến tất cả mọi người không giới hạn.
Vậy, quả-báu của phước-thiện bố-thí được nhiều hay quả-báu của pháp-hành phạm-hạnh được nhiều?”
“Ta sẽ hiện xuống cõi người để làm sáng tỏ vấn đề này của Đức-vua Bồ-tát Nimi.”
- Thưa Ngài, Ngài có phải là chư-thiên hay Đức-vua trời Sakka mà có hào quang rực rỡ đến như thế, Trẫm chưa từng thấy bao giờ ?
- Tâu Đại-vương Nimi, bổn vương là Đức-vua trời Sakka đến chầu Đại-vương.
- Tâu Đại-vương Nimi, Đại-vương không nên có cảm giác sởn tóc gáy như vậy.
- Kính thưa Đại-vương, vấn đề mà Đại-vương đang phân vân, chưa quyết định là thế nào? Thưa Ngài.
- Tâu Đức-vua trời Sakka, bổn vương xin tâu hỏi Đức-vua rằng:
Phước-thiện bố-thí với pháp-hành phạm-hạnh, trong 2 pháp này, pháp nào có quả-báu nhiều hơn?
- Tâu Đại-vương Nimi,
* Người nào có giới trong sạch, tạo phước-thiện bố-thí. Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.
* Người nào thực-hành pháp-hành phạm-hạnh bậc hạ là tránh xa sự hành-dâm. Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong dòng họ hoàng tộc.
* Hành-giả nào thực-hành pháp-hành phạm-hạnh bậc trung là thực-hành pháp-hành thiền-định đạt đến cận-định (upacārasamādhi). Sau khi hành-giả ấy chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm chư-thiên trên các cõi trời dục-giới.
* Hành-giả nào thực-hành pháp-hành phạm-hạnh bậc thượng là thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm. Sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp hoặc vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên hoặc vô-sắc-giới phạm-thiên tuỳ theo sắc-giới quả-tâm hoặc vô-sắc-giới quả-tâm của hành-giả ấy.
- Tâu Đức-vua Nimi, như vậy, pháp-hành phạm-hạnh có quả-báu nhiều hơn phước-thiện bố-thí gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần, gấp vô số lần.
Mặc dù vậy, kính xin Đại-vương vẫn nên thực-hành phước-thiện bố-thí và pháp-hành phạm-hạnh.
Trong Phật-giáo này,
* Nếu tỳ-khưu nào có giới hạnh trong sạch, mong muốn sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới nào thì vị tỳ-khưu ấy được gọi là thực-hành phạm-hạnh bậc hạ, bởi vì có tác-ý trong đại-thiện-tâm bậc hạ.
Sau khi vị tỳ-khưu ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ-giới có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới ấy theo ý nguyện.
* Nếu tỳ-khưu hành-giả nào có giới hạnh trong sạch làm nơi nương nhờ, rồi thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, thì vị tỳ-khưu ấy được gọi là thực-hành phạm-hạnh bậc trung, bởi vì có tác-ý bậc trung.
Sau khi vị tỳ-khưu ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp hoặc vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên hoặc trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tuỳ theo sắc-giới quả-tâm hoặc vô-sắc-giới quả-tâm của hành-giả ấy.
* Nếu vị tỳ-khưu hành-giả nào có giới hạnh trong sạch làm nơi nương nhờ, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì vị tỳ-khưu ấy được gọi là thực-hành phạm-hạnh bậc thượng.
Bậc Thánh A-ra-hán hết tuổi thọ đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Đức-Vua Trời Sakka Tại Hội Trường Sudhammā
Nhìn thấy Đức-vua trời Sakka, chư-thiên tâu rằng:
- Muôn tâu Đức Thiên-vương, Đức Thiên-vương từ đâu ngự trở về.
- Này chư vị! Điều phân vân phát sinh lên đối với Đức-vua Nimi ngự tại kinh-thành Mithilā, nên Trẫm đã xuất hiện ngự đến tại nơi ấy, đến chầu Đức-vua Nimi, để làm sáng tỏ vấn đề ấy xong, rồi Trẫm ngự trở về đây.
- Này chư vị! Chư vị hãy lắng nghe Trẫm giảng giải thiện-pháp bậc thấp, thiện-pháp bậc cao trong cõi người như sau:
* Thiện-pháp bố-thí dù nhiều đến bao nhiêu cũng gọi là thiện-pháp bậc thấp.
* Thiện-pháp giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn gọi là thiện-pháp bậc trung, v.v…
Đức-vua Nimi ngự tại kinh-thành Mithilā, trị vì đất nước Videha, là bậc đại-thiện-trí. Hằng ngày, Đức-vua Nimi đã xuất ra một số tiền lớn để làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Sa-môn, Bà-la-môn, bố-thí đến cho mọi người nghèo khổ, v.v…
Khi Đức-vua Nimi đang tạo phước-thiện bố-thí như vậy, phát sinh điều phân vân rằng:
“Phước-thiện bố-thí và pháp-hành phạm-hạnh, trong 2 pháp này, pháp nào có quả báu nhiều hơn?”
-Này chư vị! Trẫm đã tâu với Đức-vua Nimi, làm sáng tỏ điều phân vân ấy rằng:
-“Tâu Đại-vương Nimi, pháp-hành phạm-hạnh có quả báu nhiều hơn phước-thiện bố-thí gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần, gấp vô số lần,…”
Nghe Đức-vua trời Sakka tán dương ca tụng Đức-vua Bồ-tát Nimi như vậy, nhóm chư-thiên mong muốn diện kiến Đức-vua Bồ-tát Nimi, nên tâu rằng:
- Muôn tâu Đức Thiên-vương, Đức-vua Nimi là vị Tôn-Sư của chúng thần, tiền-kiếp của chúng thần là dân chúng của đất nước Videha, đã vâng lời giáo huấn và thực-hành theo lời khuyên dạy của Đức-vua, do nương nhờ nơi Đức-vua, nên chúng thần được sinh lên cõi trời này, được an hưởng mọi sự an-lạc như thế này. Cho nên, chúng thần mong ước được diện kiến Đức-vua Nimi.
- Muôn tâu Đức Thiên-vương, chúng thần kính xin Đức Thiên-vương thỉnh Đức-vua Nimi ngự lên tại hội trường Sudhammā này, để chúng thần có được cơ hội tốt diện kiến vị Tôn-Sư của chúng thần.
Đức-vua trời Sakka truyền lệnh vị thiên-nam đánh xe Mātali rằng:
- Này Mātali! Ngươi hãy đem cỗ xe trời Vejayanta-ratha xuất hiện xuống kinh-thành Mithilā, đến cung điện kính thỉnh Đức-vua Nimi ngự lên hội trường Sudhammā.
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Nimi đang thọ trì bát-giới uposathasīla trong ngày rằm, ngự tại lâu đài tiếp khách cùng với các quan trong triều ngồi xung quanh suy xét về bát-giới uposathasīla.
Trên bầu trời, có một mặt trăng tròn chiếu sáng và có cỗ xe trời Vejayantaratha cũng tỏa sáng giữa không trung.
Trong kinh-thành Mithilā, dân chúng nhìn lên không trung, thấy hiện tượng lạ thường như vậy, nên bảo rằng:
“Hôm nay, trên không trung có 2 mặt trăng chiếu sáng”, nhưng khi cỗ xe trời Vejayantaratha hiện đến gần, thì mọi người bảo nhau rằng:
-Này quý vị! Không phải mặt trăng thứ hai mà là một cỗ xe trời. Chắc chắn Đức-vua trời Sakka truyền đem cỗ xe trời này rước Đức-vua Nimi của chúng ta. Cỗ xe trời này thật là xứng đáng với Đức-vua của chúng ta, nên mọi người đều phát sinh tâm hoan hỷ.
Thỉnh Đức-Vua Bồ-Tát Nimi Ngự Lên Cõi Trời
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, kính thỉnh Đại-vương ngự lên cỗ xe trời Vejayantaratha này, hạ thần sẽ đưa Đại-vương ngự lên giảng đường Sudhammā, trên cung trời Tam-thập-tam-thiên, bởi vì tại nơi ấy, Đức-vua trời Sakka cùng nhóm chư-thiên đông đảo đang ngồi chờ đợi mong muốn diện kiến Đại-vương.
Nghe vị thiên-nam Mātali tâu như vậy, Đức-vua Bồ-tát Nimi nghĩ rằng: “Ta sẽ ngự lên cung trời Tam-thập-tam-thiên mà ta chưa đến.”
- Này các khanh! Trẫm ngự lên cung trời Tam-thập-tam-thiên trong thời gian không lâu. Các khanh không nên dể duôi, hãy nên cố gắng tinh-tấn thực-hành mọi thiện-pháp.
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, có 2 con đường: Một đường, Đại-vương có thể nhìn thấy các cõi địa-
ngục là nơi mà các chúng-sinh đang phải chịu quả khổ
của ác-nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.
Và một đường, Đại-vương có thể nhìn thấy các lâu đài là nơi mà các chư-thiên đang an hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.
-Muôn tâu Đại-vương cao thượng, Đại-vương muốn cho hạ thần đưa Đại-vương ngự theo con đường nào?
“Ta muốn ngự đi cả 2 đường, để nhìn thấy các cõi địa-ngục và các lâu đài của 2 loại chúng-sinh ấy.”
- Này thiên-nam Mātali! Trẫm muốn đi cả 2 đường: Một đường, để Trẫm nhìn thấy các cõi địa-ngục là nơi mà các chúng-sinh đang phải chịu quả khổ của ác-nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.
Và một đường, để Trẫm nhìn thấy các lâu đài là nơi mà các chư-thiên đang an hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, trong 2 đường ấy, Đại-vương muốn ngự theo đi đường nào trước.
- Này thiên-nam Mātali! Trước tiên, Trẫm muốn nhìn thấy các cõi địa-ngục là nơi mà các chúng-sinh đang chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ.
* Con Đường Đến Các Cõi Địa-Ngục
Con Sông Vetaraṇī
Trong dòng sông Vetaraṇī này nước nóng sôi sùng sục, có đầy những lưỡi cưa răng nhọn như mũi giáo bén nhọn, nóng cháy rực cắt các chúng-sinh địa-ngục ấy thành đoạn lớn nhỏ. Chúng-sinh địa-ngục chết rồi, liền hóa-sinh trở lại kéo dài suốt thời gian lâu dài.
Các chúng-sinh địa-ngục này bị các lưỡi giáo nóng đỏ đâm thủng thân hình, rơi xuống nước sông Vetaraṇī đụng những lá sen sắc bén, nóng đỏ cắt thân hình chúng-sinh ấy ra thành đoạn lớn nhỏ đau khổ. Chúng-sinh địa-ngục chết rồi, liền hóa-sinh trở lại kéo dài suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Các chúng-sinh địa-ngục này chìm xuống dưới nước nóng sôi và cay, bị các lưỡi cưa sắc bén cắt đứt ra từng đoạn lớn nhỏ, chịu bao nhiêu nỗi đau khổ, chết rồi, liền hóa-sinh trở lại kéo dài suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Các chúng-sinh địa-ngục này rơi xuống dưới nước nóng sôi, đôi khi trôi theo dòng nước, đôi khi trôi ngược dòng nước. Các chúa địa-ngục đứng trên bờ bắn mũi tên đâm chúng-sinh ấy, hoặc đâm bằng cây giáo, hoặc phóng lao đâm chúng-sinh ấy, … Chúng-sinh địa-ngục này phải chịu bao nỗi khổ không sao kể xiết được.
Các chúa địa-ngục dùng câu móc chúng-sinh ấy lên nằm trên tấm sắt nóng cháy đỏ, cầm thỏi sắt nóng cháy đỏ bỏ vào miệng chúng-sinh ấy, …
Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy các chúng-sinh địa-ngục phải chịu bao nhiêu những nỗi khổ như vậy, cảm thấy đáng kinh sợ, nên truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục trong dòng sông Vetaraṇī phải chịu bao nhiêu nỗi khổ do bị hành hạ như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, khi còn trên cõi người, là những người có quyền lực, đánh đập, hành hạ những người yếu thế, tạo ác-nghiệp như vậy.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục trong con sông Vetaraṇī này, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúng-Sinh Địa-Ngục Bị Ăn Thịt
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
-Này thiên-nam Mātali! Các đàn chó đỏ, chó đốm to bằng con voi chạy đuổi theo cắn xé ăn thịt chúng-sinh địa-ngục ấy, chỉ còn bộ xương; bầy kên kên mỏ như sắt nhọn lớn bằng cỗ xe bò, bầy kên kên mổ làm vỡ nát xương, để ăn tủy xương; bầy diều hâu mỏ như sắt đáng sợ cắn xé ăn thịt chúng-sinh địa-ngục, …
Những chúng-sinh địa-ngục ấy bị ăn thịt như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
-Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người có tính keo kiệt, bủn xỉn trong của cải của mình, không chịu làm phước-thiện bố-thí đến cho người khác, thường hay mắng nhiếc các Sa-môn, Bà-la-môn có giới đức trong sạch, đã tạo ác-nghiệp như vậy.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị ăn thịt, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúng-Sinh Địa-Ngục Bị Hành Hạ
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị bị cháy đỏ đi đạp trên tấm sắt nóng cháy rực, và các chúa địa-ngục đuổi theo đánh bằng cây sắt nóng cháy rực, làm tan xương nát thịt.
Những chúng-sinh địa-ngục bị đánh như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người hay làm khổ, hành hạ, mắng chửi những người đàn ông, đàn bà vô tội có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị đánh đập tan xương nát thịt, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúa Địa-Ngục Hành Hạ Chúng-Sinh Địa-Ngục
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
-Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục đang quằn quại, khóc la thảm thiết trong hầm than hồng đỏ rực, vì sức nóng kinh khủng ấy.
Những chúng-sinh địa-ngục bị thiêu đốt nóng như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
-Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người trong ban vận động gom góp tiền bạc của các thí-chủ có đức-tin trong sạch, để làm đại lễ phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc để xây dựng chùa, tháp, hoặc để cứu trợ những người nghèo khổ, v.v… Nhưng các người ấy đem sử dụng số tiền bạc ấy theo ý của mình, không theo tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch của thí-chủ, hoặc lấy bớt số tiền ấy sử dụng riêng cho mình, rồi làm sổ sách giả chi tiêu vào công việc này, vào công việc kia làm hết số tiền ấy.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp lừa dối ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh trong cõi địa-ngục hầm than hồng, bị chúa địa-ngục hành hạ, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Địa-Ngục Nồi Đồng Sôi (Lohakumbhī)
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị chúa địa-ngục nắm đôi chân ném vào địa-ngục nồi đồng sôi chịu nóng thiêu như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người hay chê trách, mắng nhiếc chư Sa-môn, Bà-la-môn có giới hạnh trong sạch, thực-hành phạm-hạnh cao thượng.
Sau khi những người ấy chết, khẩu ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị chúa địa-ngục nắm đôi chân ném vào địa-ngục nồi đồng sôi, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Địa-Ngục Nước Đồng Sôi
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúa địa-ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ các chúng-sinh địa-ngục đưa lên, chặt cái cổ, cái đầu còn dính ở sợi dây sắt, rồi ném thân mình chúng-sinh địa-ngục vào địa-ngục nước đồng sôi, thì cái đầu mọc trở lại ngay trên cái cổ thân mình chúng-sinh địa-ngục ấy như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người làm nghề bắt chim chặt đầu, chặt cánh, làm thịt ăn, đem bán thịt cho người khác.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị chúa địa-ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ, chặt đầu, ném thân mình chúng-sinh địa-ngục vào địa-ngục nước đồng sôi, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúng-Sinh Địa-Ngục Khát Nước
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục khát nước không sao chịu đựng nổi, nên đi xuống con sông, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người bán thóc trộn chung với thóc lép và trấu cho người mua, nói rằng: “Thóc này là loại thóc tốt.”
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp do thân, khẩu, ý bất thiện ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục khát nước không sao chịu đựng nổi, đi xuống con sông, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúa Địa-Ngục Đâm Chúng-Sinh Địa-Ngục
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị các chúa địa-ngục vây quanh, rồi đâm bằng cây giáo,… Những chúng-sinh địa-ngục ấy bị đâm như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người trộm cắp, chiếm đoạt của cải tài sản của người khác, hoặc lừa gạt để chiếm đoạt của cải người khác một cách bất hợp pháp, để nuôi mạng.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp trộm cắp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục, bị chúa địa-ngục bao vây xung quanh, rồi bị đâm bằng cây giáo, cây chĩa ba,… phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúa Địa-Ngục Chặt Chúng-Sinh Địa-Ngục
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị các chúa địa-ngục dùng dây sắt cháy đỏ cột cổ các chúng-sinh địa-ngục lôi lại đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người làm nghề giết heo, bò, gà, vịt,… để bán thịt nuôi mạng, hoặc làm nghề đánh bắt cá,… để bán cá nuôi mạng.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị chúa địa-ngục dùng dây cột cổ các chúng-sinh địa-ngục lôi lại, đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn, chúng-sinh địa-ngục phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúng-Sinh Địa-Ngục Ăn Phẩn Uống Nước Tiểu
Thấy cảnh tượng đáng ghê tởm như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy phẩn và nước tiểu dơ bẩn có mùi hôi thối tỏa ra, chúng-sinh địa-ngục bị đói khát không chịu nổi, nên ăn phẩn và uống nước tiểu như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người phản bạn, hại bạn, thường hay làm khổ người khác, chúng-sinh khác.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải ăn phẩn, uống nước tiểu dơ bẩn như vậy.
Chúng-Sinh Địa-Ngục Uống Máu Và Dòi
Thấy cảnh tượng đáng ghê tởm như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy máu và dòi dơ bẩn có mùi hôi thối tỏa ra, chúng-sinh địa-ngục bị thiêu đốt nóng nảy, bị đói khát không chịu nổi, nên uống máu và ăn dòi dơ bẩn như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người tàn nhẫn giết người có giới, hành hạ người đến chết.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp nặng ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải uống máu và dòi dơ bẩn làm vật thực như vậy.
Lưỡi Của Chúng-Sinh Địa-Ngục Bị Lưỡi Câu Móc
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Những chúng-sinh địa-ngục ấy phải chịu khổ như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người có chức trọng quyền cao, có phận sự đặt ra giá bán và giá mua các loài động vật và các loại nhu yếu phẩm, nhưng các quan ấy có tính tham lam, ăn hối lộ người bán, nên ép giá người mua, để cho người bán có lợi, rồi các quan ấy được chia phần lợi.
Hoặc là những người có hành vi gian lận như dùng cây cân thiếu trọng lượng, v.v…
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục phải chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.
Chúng-Sinh Trong Địa-Ngục Hầm Than Hồng
* Người Nam Phạm Điều-Giới Tà-Dâm
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Những chúng-sinh trong địa-ngục hầm than hồng bị đâm như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người nam hành dâm với vợ của người khác, hành dâm với con gái của người khác, phạm điều-giới tà-dâm.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị chúa địa-ngục nắm đôi chân đưa lên, cái đầu chúc xuống ném vào địa-ngục hầm than hồng, rồi dùng các loại khí giới đâm vào thân hình các chúng-sinh địa-ngục ấy như vậy.
* Người Nữ Phạm Điều-Giới Tà-Dâm
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các nữ chúng-sinh địa-ngục chịu bao cảnh khổ như vậy. Do tiền-kiếp của nữ chúng-sinh địa-ngục đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các nữ chúng-sinh địa-ngục ấy, khi còn trên cõi người, là những người con gái gia đình giàu sang phú quý, khi cô đã có chồng rồi, còn quan hệ lén lút với người đàn ông khác, vì say mê trong tình dục, phạm điều-giới tà-dâm.
Sau khi những người vợ ấy chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm những nữ chúng-sinh địa-ngục phải chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm ấy như vậy.
Những Địa-Ngục Của Những Chúng-Sinh Tà-Kiến
Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh ở trong địa-ngục như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ở trong địa-ngục ấy, khi còn trên cõi người, là người có tà-kiến thấy sai, chấp lầm, không tin nghiệp và quả của nghiệp như sau:
- Làm phước-thiện bố-thí không có quả báu.
- Cúng dường không có quả báu.
- Lễ bái, thỉnh mời… không có quả báu.
- Làm thiện-nghiệp không có quả thiện, làm ác-nghiệp không có quả ác, v.v…
Những người ấy có tà-kiến như vậy, nên đã tạo mọi ác-nghiệp.
Sau khi họ chết, ác-nghiệp tà-kiến cho quả tái-sinh kiếp sau có hình thù kỳ dị thật đáng kinh tởm bị thiêu đốt trong cõi địa-ngục như vậy, …
Đức-Vua Trời Sakka Suy Xét
Khi ấy, Đức-vua trời Sakka nghĩ rằng:
“Do nguyên nhân nào mà thiên-nam Mātali chậm trễ như thế này?” mới thấy thiên-nam Mātali đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi xem các cõi địa-ngục.
Nếu đi xem các cõi địa-ngục như vậy, thì đến hết tuổi thọ của Đức-vua Bồ-tát Nimi cũng không cùng tận được.
Vậy, ta nên gửi sứ giả bay thật nhanh đến báo tin cho thiên-nam Mātali lệnh của ta rằng:
-“Này Mātali! Ngươi hãy đưa Đại-vương Nimi ngự đến hội trường Sudhammā gấp.”
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, hạ thần đưa Đại-vương ngự đi xem các chúng-sinh trong một số ít cõi địa-ngục. Nay, hạ thần được lệnh Đức-vua trời Sakka truyền lệnh hạ thần thỉnh Đại-vương ngự lên hội trường Sudhammā trên cung trời Tam-thập-tam-thiên, Đức-vua-trời Sakka cùng tất cả thiên-nam, thiên-nữ đang chờ đón rước Đại-vương.
* Đường Lên Cõi Trời Tam-Thập-Tam-Thiên Lâu Đài 5 Đỉnh
- Này thiên-nam Mātali! Tiền-kiếp của thiên-nữ ấy đã từng tạo phước-thiện như thế nào mà được hóa-sinh trên cõi trời, hưởng sự an-lạc trong lâu đài như vậy?
-Muôn tâu Đại-vương cao thượng, vị thiên-nữ ấy tên là Bīraṇī, tiền-kiếp của thiên-nữ là người tớ gái trong gia đình Bà-la-môn, trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa.
Một hôm, Ông Bà-la-môn muốn cúng dường vật thực đến chư tỳ-khưu-Tăng, nên ông bảo người vợ và các người con gái của ông, ai cũng đều từ chối không chịu làm. Ông Bà-la-môn đến bảo người tớ gái rằng:
- Này tớ gái! Sáng sớm ngày mai, ngươi có thể lo sửa soạn vật thực, để cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng được hay không?
Người tớ gái cung kính thưa với ông chủ rằng:
- Kính thưa ông chủ, dạ, con có thể làm được.
Đêm ấy, thức dậy từ sáng sớm, người tớ gái lo sửa soạn vật thực ngon lành đầy đủ một cách chu đáo xong. Khi nhìn thấy chư tỳ-khưu-Tăng đến đứng trước nhà khất thực, người tớ gái ra cung kính đón rước vào nhà, kính thỉnh chư tỳ-khưu-Tăng ngồi trên chỗ cao quý, cô dâng cúng dường vật thực đến chư tỳ-khưu-Tăng một cách rất cung kính.
Sau khi chư tỳ-khưu-Tăng dùng xong, cô kính dâng vật dụng chút đỉnh của riêng cô đến chư tỳ-khưu-Tăng. Người tớ gái có đại-thiện-tâm cung-kính cúng dường vật thực đến chư tỳ-khưu-Tăng ấy.
Sau khi người tớ gái có giới hạnh trong sạch chết, đại-thiện-nghiệp cung-kính bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm thiên-nữ có lâu đài có 5 đỉnh trên hư không như vậy.
Bảy Lâu Đài Trên Hư Không
- Này thiên-nam Mātali! Vị thiên-nam ấy đã tạo phước-thiện như thế nào, mà được hóa-sinh trên cõi trời, hưởng sự an-lạc trong 7 lâu đài vàng như vậy?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, vị thiên-nam ấy tên là Soṇadinna, tiền-kiếp của vị thiên-nam là thí-chủ Soṇadinna một tỉnh nhỏ trong đất nước Kāsi. Ông cho xây dựng 7 cốc, rồi dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, ông thường hộ độ các thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư tỳ-khưu-Tăng. Ông là người cận-sự-nam có ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, thường thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.
Sau khi ông thí-chủ Soṇadinna chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam Soṇadinna có 7 lâu đài vàng sáng chói, hưởng mọi sự an-lạc như vậy.
Lâu Đài Bằng Ngọc Maṇi
- Này thiên-nam Mātali! Vị thiên-nam ấy đã từng tạo phước-thiện như thế nào mà được hóa-sinh trên cõi trời, hưởng sự an-lạc trong lâu đài bằng ngọc maṇi như vậy?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của vị thiên-nam ấy là cận-sự-nam có giới hạnh trong sạch tại kinh-thành Bārāṇasī trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa.
Ông cùng nhóm thí-chủ xây dựng ngôi chùa, giếng nước, hồ nước, đường sá, cầu đường; ông hộ độ cúng dường chư Thánh A-ra-hán những thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh, … một cách cung kính; ông thường thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hàng tháng.
Sau khi người cận-sự-nam chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trong lâu đài bằng ngọc maṇi cao lớn sáng ngời, hưởng mọi sự an-lạc như vậy.
Bảy Ngọn Núi Cao Nơi Cõi Trời Tứ-Đại-Thiên-Vương
- Này thiên-nam Mātali! 7 ngọn núi lớn tên gọi là gì?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, 7 dãy núi lớn tên gọi là núi Sudassana, núi Karavīka, núi Īsadhara, núi Yugandhara, núi Nemindhara, núi Vinataka, núi Assakaṇṇa, mỗi ngọn núi có chiều cao theo tuần tự, ngọn núi sau cao hơn ngọn núi trước. 7 ngọn núi nằm trong đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Sudassana thấp đến ngọn núi Karavīka cao khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara, theo tuần tự như vậy.
* Từ ngọn núi Karavīka thấp đến ngọn núi Īsadhara cao khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Īsadhara thấp đến ngọn núi Yugan-dhara cao khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Yugandhara thấp đến ngọn núi Nemin-dhara cao khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Nemindhara thấp đến ngọn núi Vinataka cao khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Vinataka thấp đến ngọn núi Assakaṇṇa cao khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara. Ngọn núi Assakaṇṇa là cao nhất. 7 ngọn núi thấp cao ví như 7 tầng nấc thang.
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, 7 ngọn núi ấy là chỗ ngự của tứ Đại-Thiên-vương hộ trì thế giới:
* Đại-Thiên-vương Dhataraṭṭha ngự tại hướng Đông.
* Đại-Thiên-vương Virūḷhaka ngự tại hướng Nam.
* Đại-Thiên-vương Virūpakkha ngự tại hướng Tây.
* Đại-Thiên-vương Kuvera ngự tại hướng Bắc.
Nhìn thấy cổng cõi trời Tam-thập-tam-thiên có điêu khắc hình Đức-vua trời Sakka đẹp tuyệt vời, Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Cổng ấy đẹp tuyệt vời có tên gọi là gì?
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, cổng ấy có tên gọi là Cittakūṭa là cổng ra vào của Đức-vua trời Sakka, cổng ấy có chiều rộng và chiều dài mỗi chiều 1000 do tuần là cổng chính của cõi trời Tam-thập-tam-thiên nằm trên đỉnh ngọn núi Sineru, thật là xinh đẹp lạ thường, có điêu khắc hình Đức-vua trời Sakka, các hình sư tử chúa, hổ chúa, v.v…
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, kính thỉnh Đại-vương ngự vào cổng này, ngự đi trên nền cõi trời bằng vàng và ngọc maṇi, xung quanh có các loài hoa trời đủ loại rất xinh đẹp.
- Này thiên-nam Mātali! Hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là gì?
-Muôn tâu Đại-vương cao thượng, hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là hội trường Sudhammā được phát sinh do quả phước-thiện, thật nguy nga lộng lẫy tuyệt vời, các cây cột 8 cạnh bằng ngọc quý nhất.
Hội trường là chỗ hội họp của toàn thể chư-thiên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, có Đức-vua trời Sakka chủ trì, để bàn thảo những vấn đề an-lạc hạnh phúc của chư-thiên và nhân loại.
- Kính thỉnh Đại-vương ngự vào hội trường Sudhammā nơi mà Đức-vua trời Sakka cùng toàn thể chư-thiên-nam chư-thiên-nữ đang chờ đón rước Đại-vương.
Đức-vua Bồ-tát Nimi đã ngự đến rồi!
Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự xuống cỗ xe trời Vejayantaratha, ngự đi vào hội trường Sudhammā.
Hai bên đường, toàn thể chư-thiên-nam, chư-thiên-nữ hoan hỷ đón rước, cúng dường những phẩm vật quý đến Đức-vua Bồ-tát, reo hò rằng:
-Muôn tâu Đại-vương, toàn thể chư-thiên-nam, chư-thiên-nữ chúng con kính chào mừng Đại-vương!
Bổn vương vô cùng hoan hỷ đón rước Đại-vương của đất nước Videha. Kính thỉnh Đại-vương ngự lên trên bảo tòa cao quý của bổn vương.
Kính thỉnh Đại-vương hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời Tam-thập tam-thiên này.
-Muôn tâu Đức-vua trời, những thứ gì có được do người khác ban tặng, những thứ ấy ví như của mượn người khác. Vì vậy, bổn vương không muốn được của người khác ban tặng. Mọi phước-thiện mà chính bổn vương tự tạo, đó là thứ của cải riêng của chính mình, gắn bó với mình mà thôi.
Khi hồi cung ngự trở lại kinh-thành Mithilā, bổn vương sẽ tạo mọi phước-thiện trong cõi người, như bố-thí, giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn, thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, cẩn trọng trong 6 môn thanh-tịnh, thực-hành pháp-hành thiền-định, để cho tâm được an-lạc, sẽ không bị nóng nảy về sau.
Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên[2] chỉ có 7 ngày, tính theo thời gian cõi người.
Đức-vua Bồ-tát Nimi tán dương ca tụng vị thiên-nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Ngươi đã đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Trẫm ngự đi xem những chúng-sinh trong các cõi địa-ngục, do quả của các ác-nghiệp khác nhau, và đưa Trẫm ngự đi xem những chư-thiên trong các lâu đài nguy nga tráng lệ, do quả của các đại-thiện-nghiệp khác nhau.
- Này thiên-nam Mātali! Ngươi đã có công-đức lớn đối với Trẫm rất nhiều, Trẫm xin cảm tạ tấm lòng tốt của ngươi nhiều.
Đức-Vua Bồ-Tát Nimi Ngự Trở Lại Cõi Người
- Muôn tâu Đức-vua trời, bổn vương ngự an hưởng trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên đã 7 ngày qua.
Nay, bổn vương mong muốn hồi cung trở lại kinh-thành Mithilā.
Tuân theo lệnh Đức-vua trời Sakka, vị thiên-nam Mātali kính thỉnh Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự lên cỗ xe trời Vejayantaratha, đưa Đức-vua Bồ-tát hồi cung ngự trở về kinh-thành Mithilā. Vị thiên-nam Mātali cung kính đảnh lễ Đức-vua Bồ-tát Nimi, rồi xin phép trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Dân Chúng Vui Mừng Hoan Hỷ
-Muôn tâu Đại-vương, cõi trời Tam-thập-tam-thiên như thế nào?
Đức-vua Bồ-tát Nimi khuyên dạy rằng:
- Nếu các ngươi không dể duôi trong mọi phước-thiện như bố-thí, giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thực-hành pháp-hành thiền-định,… thì sau khi các ngươi chết, đại-thiện-nghiệp ấy sẽ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên như vậy.
Về sau, khi vị quan cắt tóc, sửa râu thấy một sợi tóc bạc mọc trên đầu Đức-vua Bồ-tát Nimi, nên tâu rằng:
- Muôn tâu Đại-vương, có một sợi tóc bạc mọc trên đầu của Đại-vương rồi.
Nhìn thấy sợi tóc bạc ấy, Đức-vua Bồ-tát Nimi phát sinh động tâm, nghĩ đến việc xuất gia trở thành đạo-sĩ. Đức-vua Bồ-tát ban cho vị quan ấy một xóm làng để thâu thuế.
- Này hoàng nhi yêu quý! Phụ-vương sẽ truyền ngôi báu lại cho con, còn Phụ-vương sẽ từ bỏ cung điện, đi xuất gia trở thành đạo-sĩ theo truyền thống dòng dõi của hoàng tộc từ đời xưa đến đời nay.
- Muôn tâu Đức-Phụ-vương, do nguyên nhân nào Đức-Phụ-vương đi xuất gia trở thành đạo-sĩ?
- Này hoàng nhi yêu quý! Một sợi tóc bạc mọc trên đầu của Phụ-vương rồi, thời trẻ trung đã qua rồi, sự già đã xuất hiện. Đó là nguyên nhân khiến Phụ-vương nên đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.
Sau khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Nimi tịch (chết), đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Quảng-quả thiên (Vehapphalabhūmi) sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh. Chư phạm-thiên ở trên tầng trời này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.
Đến đời Đức-vua Kāḷārajanaka là Thái-tử của Đức-vua Bồ-tát Nimi không còn duy trì truyền thống xuất gia trở thành đạo-sĩ theo dòng dõi của hoàng tộc nữa.
-Này chư tỳ khưu! Không chỉ kiếp hiện-tại Như-Lai từ bỏ ngai vàng đi xuất gia, mà còn những tiền-kiếp trong quá-khứ, khi Như-Lai còn là Đức-Bồ-tát cũng từ bỏ ngai vàng, đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.
- Có số tỳ-khưu chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
- Có số tỳ-khưu chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
- Có số tỳ-khưu chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
- Có số tỳ-khưu chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong Phật-giáo.
Tích Nimijātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại
- Đức-vua trời Sakka, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Anuruddha.
- Vị thiên-nam Mātali, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Ānanda.
-84.000 Đức-vua, nay kiếp hiện-tại là chư tỳ-khưu.
-Đức-vua Bồ-tát Nimi, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.
(Xong pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc hạ)
Tích Kukkurajātaka (Kuc-ku-rá-cha-tá-ká)
Trong tích Kukkurajātaka[3]Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm con Khuyển chúa tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc trung (adhiṭṭhāna upapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:
Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta ngự tại kinh-thành Bārāṇasī. Khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm con Khuyển chúa ở gần nghĩa địa, có bà con dòng họ rất đông.
Một hôm, Đức-vua Brahmadatta ngự lên chiếc long xa được trang hoàng lộng lẫy, có đôi bạch mã báu kéo đi du lãm trong vườn thượng uyển, Đức-vua vui chơi mãi đến chiều mặt trời sắp lặn mới hồi cung ngự trở về cung điện trong kinh-thành Bārāṇasī. Vị quan đánh xe để chiếc long xa trước sân cung điện.
Đêm hôm ấy trời mưa, chiếc long xa bị ướt, nên dây da và da bọc trong chiếc long xa nở ra, đàn chó được nuôi trong cung điện của Đức-vua Brahmadatta đánh mùi da, chúng chạy đến cắn ăn dây da và da bọc trong chiếc long xa ấy.
Sáng ngày hôm ấy, thấy dây da và da bọc trong chiếc long xa bị cắn ăn, vị quan tâu lên Đức-vua rằng:
-Muôn tâu Bệ-hạ, đêm hôm qua, các con chó bên ngoài đi theo con đường thoát nước vào trong cung, cắn ăn dây da và da bọc trong chiếc long xa của Bệ-hạ.
- Này các khanh! Hễ các khanh thấy con chó nào, thì hãy giết con chó ấy.
- Này các ngươi! Do nguyên nhân gì mà các ngươi tụ hội nơi này đông đảo như vậy?
- Kính thưa Ngài chúa loài chó, Đức-vua Brahma-datta nổi cơn thịnh nộ truyền lệnh rằng:
“Này các khanh! Hễ Các khanh hễ thấy con chó nào, thì hãy giết con chó ấy.”
Bởi vì các con chó cắn ăn dây da và da bọc trong chiếc long xa của Đức-vua. Vì vậy, nhiều con chó đã bị lính triều đình giết chết, chúng con hoảng sợ chạy vào nơi này ẩn náu.
- Kính thưa Ngài chúa loài chó, gặp đại họa diệt chủng này, chắc loài chó chúng con đều bị tiêu diệt.
“Tại trong cung điện có lính triều đình canh gác nghiêm ngặt, các con chó bên ngoài không thể nào đi vào trong cung được.
Vậy, chỉ có các con chó trong cung mới có thể cắn ăn dây da và da bọc trong chiếc long xa của Đức-vua mà thôi, nhưng không có tai họa nào xảy đến với đàn chó ăn trộm, mà thảm họa lại xảy đến với đàn chó không ăn trộm, bà con dòng họ của ta.”
-Này các bà con thân quyến! Các ngươi chớ nên hoảng sợ nữa! Ta sẽ đi vào cung điện, đến chầu Đức-vua Brahmadatta, tìm cách làm rõ sự việc này, để đem lại sự công bằng, sự an toàn sinh-mạng cho các ngươi.
Vậy, các ngươi nên ở tại đây cho đến khi ta trở về.
Đức-Bồ-Tát Phát-Nguyện Ba-La-Mật
Đức-Bồ-tát Khuyển chúa niệm tưởng đến các pháp-hạnh ba-la-mật của mình, thực-hành pháp-hành niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả chúng-sinh muôn loài làm nền tảng, rồi Đức-Bồ-tát Khuyển chúa phát nguyện ba-la-mật bằng lời chân thật rằng:
“Không có một ai có thể hại tôi được, một mình tôi đi vào kinh-thành Bārāṇasī, đến chầu Đức-vua được an toàn, những đất đá, gậy gộc, v.v… mà người ta ném đều không thể đụng vào thân mình của tôi được.”
Khi ấy, Đức-vua Brahmadatta đang ngự trên ngai vàng giữa sân rồng có các quan văn võ tề tựu đầy đủ, Đức-Bồ-tát Khuyển chúa chạy vào ẩn núp dưới ngai vàng của Đức-vua. Lính triều đình xin phép vào bắt Đức-Bồ-tát, nhưng Đức-vua không cho phép, Đức-Bồ-tát Khuyển chúa đi ra trước đảnh lễ Đức-vua Brahma-datta, rồi tâu rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, nghe tin rằng:
Hoàng-thượng truyền lệnh giết loài chó. Điều đó có thật hay không?
- Thật vậy, chính Trẫm truyền lệnh giết loài chó.
- Muôn tâu Hoàng-thượng, loài chó phạm tội gì vậy?
- Loài chó ấy cắn ăn dây da và da bọc chiếc long xa của Trẫm, cho nên, Trẫm truyền lệnh giết loài chó.
- Muôn tâu Hoàng-thượng, Hoàng-thượng biết rõ đàn chó ăn trộm cắn ăn dây da và da bọc chiếc long xa của Hoàng-thượng phải không?
- Trẫm không biết con chó nào ăn trộm cả.
- Muôn tâu Hoàng-thượng, khi Hoàng-thượng không biết rõ con chó nào ăn trộm cắn ăn dây da và da bọc chiếc long xa, mà Hoàng-thượng truyền lệnh giết loài chó. Đó là điều không hợp pháp.
Bởi vì loài chó cắn ăn dây da và da bọc chiếc long xa của Trẫm, nên Trẫm truyền lệnh rằng:
“-Này các khanh! Hễ các khanh thấy con chó nào, thì hãy giết con chó ấy.”
- Muôn tâu Hoàng-thượng, các lính triều đình giết hết loài chó, hay còn một số con chó không bị giết có không?
- Một số con chó được nuôi trong cung điện của Trẫm đều không bị giết.
- Muôn tâu Hoàng-thượng, Hoàng-thượng vừa truyền bảo rằng:
“Bởi vì loài chó cắn ăn dây da và da bọc chiếc long xa của Trẫm, nên Trẫm truyền lệnh rằng:
- Này các khanh! Hễ các khanh thấy con chó nào, thì hãy giết con chó ấy.”
Nhưng bây giờ Hoàng-thượng truyền bảo rằng:
“Một số con chó được nuôi trong cung điện của Trẫm đều không bị giết.”
Như vậy, Hoàng-thượng có tâm thiên vị vì thương. Đó là điều không hợp pháp.
Thông thường, Đức-vua cần phải suy xét kỹ, trước khi phán quyết một cách công bằng như bàn cân.
Nay, đàn chó được nuôi đầy đủ sung túc trong cung điện của Đức-vua thì không bị giết chết, chỉ có đàn chó bên ngoài cung, không ai nuôi, đói khát ốm yếu thì bị giết chết mà thôi. Thật là điều không công bằng.
Đúng ra, các Đức-vua trừng trị kẻ ăn trộm, nhưng tại nơi đây, đàn chó ăn trộm thì không bị giết, mà chỉ giết đàn chó không ăn trộm mà thôi.
Ôi! Trong đời này, điều bất công đang hiện hữu!
Điều phi pháp đang hiện hữu!
-Này bậc thiện-trí! Ngài có biết các con chó nào ăn trộm, cắn ăn dây da và da bọc chiếc long xa của Trẫm hay không?
-Muôn tâu Hoàng-thượng, kẻ tiện này biết rõ đàn chó ăn trộm ấy.
- Này bậc thiện-trí! Ngài biết đàn chó ăn trộm ấy đang ở đâu vậy?
- Muôn tâu Hoàng-thượng, đàn chó được nuôi trong cung điện của Hoàng-thượng.
- Này bậc thiện-trí! Ngài có thể chứng minh, có chứng cớ rõ ràng được hay không?
- Muôn tâu Hoàng-thượng, kẻ tiện này có thể chứng minh, có chứng cớ rõ ràng được.
Kính xin Hoàng-thượng truyền bắt đàn chó trong cung đến đây, và mang bơ lỏng và thứ cỏ dab3tiṇa đến cho kẻ tiện này.
Đức-vua Brahmadatta truyền bảo lính trong triều làm theo lời yêu cầu của Đức-Bồ-tát Khuyển chúa.
Sau khi uống xong, một lát, đàn chó ấy ói mửa ra da mà chúng nó đã ăn ngày qua, trước sự chứng kiến của Đức-vua Brahmadatta và các quan trong triều.
Thấy rõ sự thật như vậy, nên Đức-vua vô cùng hoan hỷ tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Khuyển chúa rằng:
“Sabbaññubuddhassa byākaraṇaṃ viya.”
Giải đáp rõ ràng vấn đề ví như Đức-Phật Toàn-Giác.
Đức-Bồ-tát Khuyển chúa thuyết pháp dạy Đức-vua Brahmadatta thực-hành 10 pháp-vương mà các Đức-vua cần phải nghiêm chỉnh thực-hành, để trị vì đất nước bằng thiện-pháp.
-Muôn tâu Hoàng-thượng,
1- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp phụng dưỡng Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
2- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp tế độ nuôi dưỡng hoàng hậu, các cung phi, các hoàng-tử, các công-chúa một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
3- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp tế độ đối với các hoàng gia, các quan, các bạn hữu một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
4- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp tế độ đối với các bộ binh, các con voi, con ngựa một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
5- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp tế độ đối với dân chúng trong kinh-thành, các tỉnh thành một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
6- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp tế độ đối với dân chúng trong đất nước, các vùng biên giới một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
7- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp tế độ đối với chư Sa-môn, Bà-la-môn một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
8- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành pháp tế độ đối với các loài thú, các loài chim một cách chu đáo. Khi Hoàng-thượng đã tạo đại-thiện-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại này.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
9- Xin Hoàng-thượng nên thựờng hành mọi thiện-pháp trở thành thói quen đem lại sự an-lạc trong kiếp hiện-tại.
Sau khi Hoàng-thượng băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.
10- Xin Hoàng-thượng nên thực-hành mọi thiện-pháp, bởi vì các Đức-vua Trời, chư-thiên, chư phạm-thiên trên các tầng trời, tiền-kiếp của các Vị ấy đã từng thực-hành mọi thiện-pháp.
Vậy, xin Hoàng-thượng không nên dể duôi trong mọi thiện-pháp.
Đó là 10 pháp vương của các Đức-vua trị vì trong đất nước của mình bằng thiện-pháp..
Từ nay về sau, Hoàng-thượng không nên dể duôi trong mọi thiện-pháp, nên tạo mọi phước-thiện như phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, nên giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, nên thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng,…
Kính xin Hoàng-thượng nên thực-hành nghiêm chỉnh 10 pháp-vương, để trị vì đất nước cho được phồn vinh, thần dân thiên hạ sống an cư lạc nghiệp.
Sau khi nghe Đức-Bồ-tát Khuyển chúa thuyết pháp, từ đó về sau, Đức-vua Brahmadatta thực-hành đúng theo lời giáo huấn của Đức-Bồ-tát Khuyển chúa, ban sự an toàn sinh-mạng đến tất cả chúng-sinh muôn loài, đặc biệt Đức-vua Brahmadatta truyền lệnh hằng ngày ban vật thực cho loài chó bên ngoài cung điện nữa.
Đức-vua Brahmadatta thực-hành mọi phước-thiện cho đến hết tuổi thọ.
Đức-Bồ-tát Khuyển chúa hết tuổi thọ, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau, hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục giới.
Sau khi thuyết tích Kukkurajātaka xong, Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ-khưu rằng:
-Này chư tỳ-khưu! Như-Lai thực-hành không những đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho các thân quyến trong kiếp hiện-tại này, mà còn những tiền-kiếp của Như-Lai cũng từng thực-hành đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho các thân quyến trong những kiếp quá-khứ.
Tích Kukkurajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại
-Đức-vua Brahmadatta, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Ānanda.
- Đàn chó bà con thân quyến, nay kiếp hiện-tại là tứ chúng: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
- Đức-Bồ-tát Khuyển chúa, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.
(Xong pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc trung)
Tích Temiyajātaka (Tê-mi-giắ-cha-tá-ká)
Trong tích Temiyajātaka[4], Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Thái-tử Temiya tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng (adhiṭṭhānaparamattha-pāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:
- Này chư tỳ-khưu! Các con đang đàm đạo về chuyện gì vậy?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang đàm đạo về chuyện xuất gia của Đức-Thế-Tôn. Bạch Ngài.
- Này chư tỳ-khưu! Kiếp hiện-tại này, Như-Lai đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, từ bỏ ngai vàng đi xuất gia, đó không phải là điều phi thường!
Tiền-kiếp của Như-Lai khi còn là Đức-Bồ-tát đang bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật, cũng đã không cần đến ngai vàng mà phát nguyện đi xuất gia trở thành đạo-sĩ. Đó mới thật là điều phi thường!
Trong thời quá-khứ, Đức-vua Kāsirājā ngự tại kinh-thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsi bằng thiện-pháp. Đức-vua có Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī và 16.000 cung-phi. Trong số đó không bà nào sinh hạ được Thái-tử hoặc công-chúa nào. Dân chúng trong kinh-thành bàn luận với nhau rằng:
-Đức-vua của chúng ta chưa có Thái-tử để nối ngôi.
- Muôn tâu Bệ-hạ! Kính xin Bệ-hạ cầu nguyện cho có một Thái-tử để nối ngôi.
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī vốn là công-chúa của Đức-vua Maddarājā, có ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, nguyện thọ trì bát-giới uposathasīla vào những ngày giới hàng tháng. Bà suy sét về giới hạnh trong sạch của mình rồi phát nguyện với lời chân thật:
- Do oai lực giới hạnh trong sạch trọn vẹn của tôi, cầu xin chư-thiên ban cho tôi có được một Thái-tử.
“Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī cầu xin chư-thiên ban cho bà một Thái-tử. Ta phải tìm vị thiên-nam nào xứng đáng đầu thai làm Thái-tử của Bà.”
Sau khi mãn quả của ác-nghiệp, do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Đức-Bồ-tát thiên-nam sắp hết tuổi thọ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau hóa-sinh lên cõi trời cao hơn. Khi ấy, Đức-vua trời Sakka ngự đến gặp Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy, yêu cầu rằng:
-Kính thưa Đức-Bồ-tát thiên-nam! Kính thỉnh Ngài tái-sinh đầu thai làm Thái-tử của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, để bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ, không chỉ Ngài được tiến hóa trong mọi thiện-pháp, mà còn Mẫu-hậu, Đức-Phụ-vương cùng dân chúng cũng được tiến hóa trong mọi thiện-pháp nữa.
Vậy, kính xin Ngài tái-sinh đầu thai vào lòng Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī của Đức-vua Kāsirājā ấy. Trẫm xin hứa với Ngài, sẽ mời 500 vị thiên-nam rời khỏi cõi trời, cùng một lúc tái-sinh đầu thai vào lòng các phu nhân của 500 vị quan trong triều đình của Đức-vua Kāsirājā, khi sinh ra, các công-tử ấy sẽ là bạn của Ngài.
Nhận lời thỉnh mời của Đức-vua Trời Sakka, Đức-Bồ-tát thiên-nam cùng với 500 trăm vị thiên-nam khác từ giã (chết) cõi trời. Đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai vào lòng Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, và đầu thai vào lòng 500 phu nhân của 500 vị quan trong triều của Đức-vua Kāsirājā.
Đủ 10 tháng sau, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī sinh hạ một Thái-tử có các tướng tốt của bậc đại nhân. Đức-vua Kāsirājā vô cùng hoan hỷ phát sinh hỷ lạc chưa từng có, lần đầu tiên Đức-vua phát sinh tình thương của người cha đối với con, cho nên Đức-vua truyền hỏi các bá quan văn võ trong triều rằng:
- Này các khanh! Nay Trẫm có Thái-tử nối ngôi, các khanh vui mừng lắm phải không?
- Muôn tâu Bệ-hạ! Thái-tử sinh ra đời, chúng thần vô cùng vui mừng hoan hỷ, bởi vì từ nay, chúng thần đã có nơi nương nhờ rồi!
- Này Thái-sư! Thái-tử của Trẫm cần phải có bạn. Vậy, khanh hỏi xem trong tư dinh của các khanh có đứa bé trai nào mới sinh hay không?
- Muôn tâu Bệ-hạ! Có 500 công-tử con của 500 vị quan sinh ra cùng ngày với Thái-tử.
- Này khanh! Trẫm ban 500 nhũ mẫu có đầy đủ các tính chất tốt cho 500 công-tử ấy.
- Này Ái khanh! Trẫm ban cho ái khanh một ân huệ. Vậy, ái khanh hãy nhận ân huệ của Trẫm.
- Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp cung kính xin nhận ân huệ của Hoàng-thượng ban cho thần thiếp.
Thần thiếp xin gởi ân huệ này lại nơi Hoàng-thượng, chờ dịp tốt khác, thần thiếp sẽ xin nhận ân huệ ấy lại.
-Tâu Đại-vương, Thái-tử của Đại-vương có nhiều tướng tốt của bậc đại nhân. Khi trưởng thành, Thái-tử sẽ là một Đức-vua có nhiều oai lực, trị vì không chỉ một châu, mà còn có khả năng trị vì 4 châu thiên hạ, như Đức-vua Chuyển-luân-thánh-vương.
Thái-tử là bậc đại phước, cho nên, chắc chắn không có điều tai họa nào có thể xảy đến với Thái-tử cả.
Khi Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya lên được một tháng tuổi, các bà nhũ mẫu tắm Thái-tử xong, trang sức cho Thái-tử bằng những trang sức quý giá, rồi ẵm Đức-Bồ-tát đến chầu Đức-vua. Nhìn thấy Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya, Đức-vua cảm thấy sung sướng hạnh phúc an lạc, ôm Thái-tử vào lòng hôn, rồi đặt Thái-tử nằm trên hai bắp vế. Lúc ấy, một quân lính triều đình dẫn 4 kẻ trộm đến trình Đức-vua, tâu rằng:
- Tâu Bệ-hạ, xin Bệ-hạ phán xử 4 kẻ trộm cắp này.
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi hãy đánh bằng roi có gai 1.000 lần.
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi hãy xiềng chân bỏ vào nhà giam.
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi lấy lưỡi giáo đâm vào thân thể của nó.
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi đặt nó trên bàn chông.
Đức-Bồ-tát Thái-tử phát sinh tâm sợ hãi, nghĩ rằng:
“Ôi! Đức-Phụ-vương của ta dựa vào quyền lực của một vị vua đã tạo các ác-nghiệp như vậy, khó tránh khỏi ác-nghiệp cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục.”
“Kiếp trước của ta từ cõi nào mà được sinh ra làm Thái-tử của Đức-Phụ-vương?”
Kiếp trước của vị thiên-nam là chúng-sinh trong cõi địa-ngục Ussudanaraka, chịu khổ suốt 80.000 năm.
Và tưởng nhớ kiếp trước của chúng-sinh địa-ngục là Đức-vua ngự tại kinh-thành Bārāṇsī, trị vì đất nước Kāsi này 20 năm, như Đức-Phụ-vương của ta bây giờ.
Nay kiếp hiện-tại này, ta là Thái-tử Temiya của Đức-vua Kāsirājā.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya nhớ lại chuyện Đức-Phụ-vương phán xử 4 kẻ trộm cắp như vậy, là đã tạo ác-nghiệp, sau khi Đức-Phụ-vương băng hà, khó tránh khỏi ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục. Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya nghĩ rằng:
“Nếu khi ta trưởng thành, Đức-Phụ-vương của ta sẽ truyền ngôi báu cho ta. Ta sẽ lên ngôi làm vua, khiến ta phải tạo ác-nghiệp. Sau khi ta băng hà, khó tránh khỏi ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại trong cõi địa-ngục.”
“Làm cách nào để ta sẽ không trở thành Đức-vua? Làm cách nào để ta sẽ thoát ra khỏi cung điện này?
Khi ấy, vị thiên-nữ sống nương nhờ nơi chiếc lọng, đã từng là thân mẫu tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya trong kiếp quá-khứ, rất thương yêu Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya, nên hiện ra an ủi Đức-Bồ-tát rằng:
- Này Thái-tử Temiya, con yêu quý! Con chớ nên sầu não, con chớ nên lo sợ nữa, con hãy an tâm tỉnh trí.
Nếu con không muốn trở thành một Đức-vua thì con nên phát nguyện 3 điều như vầy:
1- Con không phải là người bại liệt, con nên phát nguyện làm như là người bại liệt.
2- Con không phải là người điếc, con nên phát nguyện làm như là người điếc.
3- Con không phải là người câm, con nên phát nguyện làm như là người câm.
Con hãy nên phát nguyện 3 điều như vậy, rồi nghiêm chỉnh thực-hành, chắc chắn con sẽ không trở thành Đức-vua, và con cũng sẽ thoát ra khỏi cung điện này.
- Này Thái-tử Temiya, con yêu quý! Con chớ nên tỏ ra cho mọi người biết con là bậc đại-thiện-trí, có nhiều trí-tuệ, mà con nên để cho mọi người xem con như người đần độn, người xui xẻo (kāḷakaṇṇī).
Như vậy, những người bên trong triều đình và những người bên ngoài, dân chúng, họ sẽ coi thường con, cho con là người xui xẻo, rồi họ sẽ đưa con ra khỏi cung điện, chở con vào chôn trong rừng. Khi ấy, con sẽ được thành tựu mọi điều như ước nguyện.
Nghe lời khuyên dạy của vị thiên-nữ, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya an tâm và xin hứa với vị thiên-nữ rằng:
-Thưa thiên-nữ! Con xin phát nguyện, rồi thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời dạy của bà.
1- Ta không phải là người bại liệt, ta phát nguyện làm như là người bại liệt.
2- Ta không phải là người điếc, ta phát nguyện làm như là người điếc.
3- Ta không phải là người câm, ta phát nguyện làm như là người câm.
Ta quyết tâm thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo 3 điều phát nguyện này.
Sau khi phát nguyện xong, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya quyết tâm thực-hành một cách nghiêm chỉnh.
Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Với 500 Người Bạn
“Thái-tử cần phải có đông đảo bạn hữu xung quanh.”
“Thân thể của ta dù có khát đến chết, vẫn cao quý hơn là sẽ chịu cảnh khổ trong cõi địa-ngục.”
Thấy điều khác thường của Đức-Bồ-tát Thái-tử, các bà nhũ mẫu đến chầu Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī tâu cho Bà biết rõ điều ấy. Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī đến chầu Đức-vua Kāsirājā, tâu lên Đức-vua biết rõ điều khác thường của Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya.
Các vị Bà-la-môn ấy xem xét Đức-Bồ-tát Thái-tử vẫn bình thường, không có hiện tượng nào khác thường cả, nên các vị Bà-la-môn tâu rằng:
-Muôn tâu Bệ-hạ, xin Bệ-hạ cho các nhũ mẫu dâng bầu sữa đến Thái-tử trễ bữa. Như vậy, khi Thái-tử khát sữa, sẽ khóc đòi sữa.
“Thà ta chịu khổ khát sữa như thế này, vẫn còn hơn là phải chịu khổ bị thiêu đốt trong cõi địa-ngục ấy.”
“Chắc chắn Thái-tử Temiya, con của ta khát sữa lắm rồi!”
Vì vậy, Bà đến cho Thái-tử bú bầu sữa của bà, hoặc có khi bà truyền cho các nhũ mẫu dâng bầu sữa đến cho Thái-tử Temiya.
Thấy Thái-tử Temiya nằm yên một chỗ không cử động, không khóc, các bà nhũ mẫu bồng xem xét các bộ phận thân thể thì thấy hoàn toàn giống như những đứa trẻ con khác.
Vậy, do nguyên nhân nào mà Thái-tử Temiya nằm yên một chỗ, không cử động, không khóc?
Đó là điều mà mọi người không thể nào biết được.
Tuân theo lệnh của Đức-vua, các bà nhũ mẫu dâng bầu sữa, dâng vật thực đến Đức-Bồ-tát Thái-tử trễ bữa bất thường như vậy, trong suốt một năm qua mà vẫn không phát hiện được sự thay đổi nào của Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya cả.
1- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 1 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, các trẻ con lên 1 tuổi thường thích dùng các loại bánh ngon, các món ăn ngon. Vậy, xin phép Bệ-hạ cho chúng thần thử Thái-tử bằng các loại bánh ngon.
-Xin quý vị tự chọn lựa bánh ngon theo sở thích của mình mà dùng.
- Này Temiya! Nếu ngươi sợ khổ trong cõi địa-ngục thì ngươi chớ nên đưa mắt nhìn các loại bánh ngon kia.
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng các loại bánh ngon trải qua một năm như vậy, mà vẫn không phát hiện được sự thay đổi nào của Đức-Bồ-tát Thái-tử cả.
2- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 2 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 2 tuổi thích ăn các loại trái cây lớn, nhỏ.
Vậy, xin phép Bệ-hạ cho chúng thần thử Thái-tử bằng các loại trái cây lớn, nhỏ, …
- Xin quý vị tự chọn lựa trái cây theo sở thích của mình mà dùng.
Dù thử Thái-tử Temiya bằng cách như vậy suốt một năm, mà vẫn không phát hiện được sự thay đổi nào của Đức-Bồ-tát Thái-tử cả.
3- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 3 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 3 thích các thứ đồ chơi xinh đẹp.
Vậy, xin phép Bệ-hạ cho chúng thần thử Thái-tử bằng các thứ đồ chơi xinh đẹp…
- Xin quý vị tự chọn lựa thứ đồ chơi theo sở thích của mình mà chơi.
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng cách như vậy suốt một năm, mà vẫn không phát hiện được sự thay đổi nào của Đức-Bồ-tát Thái-tử cả.
4- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 4 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 4 tuổi thích dùng các món ăn ngon.
Vậy, xin phép Bệ-hạ cho chúng thần thử Thái-tử bằng các món ăn ngon, …
- Xin quý vị tự chọn lựa món ăn theo sở thích của mình mà dùng.
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng cách như vậy, mà vẫn không phát hiện được sự thay đổi nào của Đức-Bồ-tát Thái-tử cả.
5- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 5 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 5 tuổi sợ lửa nóng. Vậy, xin phép Bệ-hạ cho chúng thần thử Thái-tử bằng lửa.
- Này Temiya! Sự nóng của lửa này còn kém xa sự nóng trong cõi địa-ngục.
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng lửa nóng như vậy, mà vẫn không phát hiện được sự thay đổi nào của Đức-Bồ-tát Thái-tử cả.
6- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 6 Tuổi
-Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 6 tuổi sợ voi hung dữ. Vậy, xin Bệ-hạ cho phép chúng thần thử Thái-tử bằng con bạch tượng.
“Thà ta chết do hai cái ngà của bạch tượng này còn hơn phải chịu thiêu đốt trong cõi địa-ngục kinh khủng ấy.”
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng con bạch tượng như vậy, mà vẫn không phát hiện được sự thay đổi nào của Đức-Bồ-tát Thái-tử cả.
- Này các khanh! Khi các khanh đến ẵm Thái-tử từ vòi con bạch tượng, các khanh có thấy tay chân của Thái-tử cử động chút nào không?
- Muôn tâu Bệ-hạ, chúng thần không nhìn thấy tay chân của Thái-tử cử động chút nào.
7- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 7 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 7 tuổi hay sợ rắn. Vậy, xin Bệ-hạ cho phép chúng thần thử Thái-tử bằng những con rắn.
“Thà ta chịu chết do chất độc của rắn còn hơn phải chịu khổ trong cõi địa-ngục kinh khủng ấy.”
Dù Thái-tử Temiya nằm bên cạnh con rắn độc như vậy, mà Đức-Bồ-tát Thái-tử vẫn không cử động chút nào.
8- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 8 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 8 tuổi thích xem nhảy múa, ca hát.
Vậy, xin Bệ-hạ cho phép chúng thần thử Thái-tử bằng các tiết mục nhảy múa, ca hát.
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng các đoàn nhảy múa ca hát như vậy, mà Đức-Bồ-tát Thái-tử vẫn nằm yên, không cử động.
9- Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Lên 9 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 9 tuổi hay sợ khí giới. Vậy, xin Bệ-hạ cho phép chúng thần thử Thái-tử bằng các thứ khí giới.
- Nghe nói rằng: Thái-tử Temiya của Đức-vua Kāsirājā là người xui xẻo (kāḷakaṇṇī). Thái-tử ở đâu? Ta sẽ chặt đầu Thái-tử bằng thanh gươm này.
“Thà ta chịu chết dưới lưỡi gươm của người này, còn hơn là phải chịu khổ trong cõi địa-ngục Ussudanaraka.”
- Ta sẽ chặt đầu Thái-tử!
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng cách như vậy, mà Đức-Bồ-tát Thái-tử vẫn không hề có dấu hiệu gì biểu hiện khác thường cả.
10-Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được 10 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các trẻ con lên 10 tuổi hay sợ âm thanh lớn. Vậy, xin Bệ-hạ cho phép chúng thần thử Thái-tử bằng âm thanh lớn, để biết Thái-tử có phải là người điếc hay không.
Tuy tiếng vang lớn như vậy, nhưng Đức-Bồ-tát Thái-tử có đầy đủ trí nhớ biết mình, vẫn nằm yên như người điếc không nghe tiếng tù và.
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng âm thanh lớn như vậy, mà Đức-Bồ-tát Thái-tử vẫn nằm yên, không giựt mình cử động.
11-Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được 11 Tuổi
12-Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được 12 Tuổi
13-Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được 13 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các đứa trẻ 13 tuổi hay ghê tởm con ruồi. Vậy, xin Bệ-hạ cho phép chúng thần thử Thái-tử bằng cách cho ruồi đậu quanh thân mình Thái-tử.
“Dù khó chịu khổ cực đến mức nào, ta cũng phải nằm yên không cử động.”
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng cách như vậy, qua một thời gian lâu mà vẫn không thấy Đức-Bồ-tát Thái-tử có biểu hiện gì khác biệt.
14-Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được 14 Tuổi
- Muôn tâu Bệ-hạ, thường các thiếu niên 14 tuổi hay thích sạch sẽ, ghét sự dơ bẩn. Vậy, xin Bệ-hạ cho phép chúng thần thử Thái-tử bằng cách để cho thân mình của Thái-tử dơ bẩn.
Khi ấy, Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát đến ngồi gần Thái-tử Temiya, dạy rằng:
- Này Temiya hoàng nhi yêu quý! Nay con đã 14 tuổi, đến tuổi trưởng thành rồi, không ai ẵm con làm vệ sinh cho con nữa, con không biết hổ-thẹn hay sao? Tại sao con lại chịu đựng như vậy?
- Này Temiya hoàng nhi yêu quý! Con hãy ngồi dậy, tự mình làm vệ sinh cho sạch sẽ thân thể.
“Dù ta đang nằm trên vũng nước tiểu, trên đống phân của ta có mùi hôi thối, các con giòi, các con ruồi bay đến bâu quanh thân mình ta, vẫn còn hơn là nằm trong địa-ngục gūthanaraka (địa-ngục hầm phân nước tiểu) có mùi hôi thối, bốc xa 100 do tuần.”
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng cách để cho thân mình của Đức-Bồ-tát Thái-tử dơ bẩn đến mức như vậy, mà Đức-Bồ-tát Thái-tử vẫn nằm yên, không cử động chút nào.
15-Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được 15 Tuổi
-Muôn tâu Bệ-hạ, thường các thiếu niên năm 15 tuổi hay sợ lửa nóng. Vậy, xin phép Bệ-hạ cho chúng thần thử Thái-tử bằng lửa than cháy nóng.
-Này Temiya! Sức nóng của lửa than này không thể so với sức nóng trong cõi đại-địa-ngục Avicī. Sức nóng trong cõi đại-địa-ngục Avicī gấp 100 lần, gấp 1.000 lần, gấp 100 ngàn lần sức nóng của lửa than này. Các chúng-sinh đang bị thiêu đốt trong cõi đại-địa-ngục Avicī rộng lớn 100 do tuần.
Nhìn thấy Thái-tử Temiya bị sức nóng làm khổ thân như vậy, Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu cảm thấy khổ tâm cùng cực, nên chạy vào ẵm Thái-tử khỏi giường nằm. Mẫu-hậu của Ngài khóc than thảm thiết, khẩn khoản rằng:
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu biết chắc chắn rằng con không phải là người bại liệt, cũng không phải là người điếc, cũng không phải là người câm. Bởi vì chân tay của người bại liệt khác với người bình thường. Còn chân tay của con hoàn toàn hơn hẳn người bình thường, thì chắc chắn con không thể nào là người bại liệt được.
Lỗ tai, lưỡi của người điếc, người câm, khác với lỗ tai, lưỡi của người bình thường. Còn lỗ tai, lưỡi của con tốt hơn người bình thường, thì chắc chắn con không thể nào là người điếc, người câm được.
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Con là một Thái-tử mà Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu cầu khẩn. Vậy, xin con đừng để cho Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu phải khổ tâm vì lời than vãn chê trách của các quan, thần dân thiên hạ và các Đức-vua trong toàn cõi Nam-thiện-bộ-châu.Con nhé!
Thật ra, Đức-Bồ-tát Thái-tử lắng nghe rõ từng lời của Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu. Nhìn thấy Thái-tử Temiya như vậy, Mẫu-hậu của Ngài cảm thấy nỗi khổ tâm cùng cực, khóc than thảm thiết và Đức-Phụ-vương của Ngài cũng cảm thấy khổ tâm cùng cực. Họ bất lực ngự trở về lâu đài của mình.
Về sau, khi thì một mình Chánh-cung Hoàng-hậu đến thăm Đức-Bồ-tát Thái-tử, khi thì một mình Đức-vua đến thăm Đức-Bồ-tát Thái-tử, cũng tha thiết khẩn khoản, nhưng Đức-Bồ-tát Thái-tử vẫn nằm yên bất động.
16-Khi Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được 16 Tuổi
Người con trai đến tuổi 16, dù là người bị bại liệt, người điếc, người câm, thì vẫn phát sinh tình dục trong đối tượng người con gái xinh đẹp đáng yêu.
Vậy, chúng ta nên tuyển chọn các mỹ nữ xinh đẹp đến phục vụ Thái-tử, làm cho Thái-tử quên mình, say mê các mỹ nữ ấy.
-Muôn tâu Bệ-hạ, xin phép Bệ-hạ cho chúng thần tuyển chọn các mỹ nữ xinh đẹp đến phục vụ Thái-tử, làm cho Thái-tử quên mình, say mê các mỹ nữ ấy.
-Này các mỹ nữ! Cô nào có khả năng làm cho Thái-tử của Trẫm hài lòng thì khi Thái-tử lên ngôi báu, Trẫm sẽ tấn phong lên ngôi Chánh-cung Hoàng-hậu.
Khi ấy, các mỹ nữ vào phòng của Thái-tử Temiya với sắc đẹp và tài nghệ nhảy múa, ca hát hay của mình, các cô mỹ nữ trổ tài biểu diễn, để làm cho Thái-tử say mê. Nhưng Đức-Bồ-tát Thái-tử không hề đưa mắt nhìn các mỹ nữ ấy và phát nguyện:
“Các mỹ nữ này không được phép đến gần đụng đến thân thể của ta!”
Dù có thử Thái-tử Temiya bằng các mỹ nữ đến phục vụ Đức-Bồ-tát Thái-tử suốt một thời gian lâu mà vẫn không có hiệu quả gì cả.
Các mỹ nữ được gọi vào chầu, Đức-vua truyền hỏi rằng:
- Này các mỹ nữ! Thái-tử của Trẫm có vui thích, cười đùa với các cô không?
- Muôn tâu Bệ-hạ, Thái-tử không hề nhìn chúng tiện nữ thì làm sao mà cười đùa với chúng tiện nữ được.
- Này các vị Bà-la-môn! Khi Thái-tử của Trẫm sinh ra, quý vị đã xem tướng của Thái-tử rồi đồng nhau tiên đoán tâu với Trẫm rằng:
“Thái-tử có tướng tốt của bậc-đại-nhân, khi trưởng thành sẽ là một Đức-vua có nhiều oai lực, trị vì không chỉ một châu mà còn có khả năng trị vì 4 châu thiên hạ, như Đức-vua Chuyển-luân Thánh-vương. Thái-tử là bậc đại-phước, cho nên không có điều tai hại nào có thể xảy ra đến với Thái-tử cả.”
Bây giờ, Thái-tử của Trẫm là người bại liệt, người điếc, người câm. Cho nên, lời tiên đoán của quý vị không làm cho Trẫm hài lòng.
- Muôn tâu Đại-vương, 3 hiện tượng xấu của Thái-tử sẽ là người bại liệt, người điếc, người câm, không phải chúng thần không thấy, không biết. Chúng thần biết rõ như vậy, nhưng không dám tâu sự thật lên Đại-vương. Bởi vì Thái-tử là đứa con do Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī phát nguyện cầu khẩn. Lúc ấy, nếu tâu sự thật như vậy thì sợ Đại-vương và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī sẽ không hài lòng.
- Này quý vị Bà-la-môn! Bây giờ có cách nào không?
- Muôn tâu Bệ-hạ! Thái-tử Temiya là người xui xẻo (kāḷakaṇṇī). Nếu để Thái-tử trong cung điện này thì có 3 điều tai hoạ xảy ra:
1- Tai hoạ sẽ xảy đến với Đại-vương.
2- Tai hoạ sẽ xảy đến với ngai vàng của Đại-vương.
3- Tai hoạ sẽ xảy đến với Chánh-cung Hoàng-hậu.
Vì vậy, Đại-vương không nên chậm trễ, nên truyền lệnh sửa soạn chiếc xe bất hạnh, với những con ngựa bất hạnh, đặt Thái-tử nằm trên chiếc xe ấy, rồi đưa ra cửa thành hướng tây, đến khu rừng rậm, đào huyệt chôn Thái-tử để tránh khỏi 3 tai họa ấy.
Khi nghe chuyện sẽ xảy ra đối với Thái-tử Temiya, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī một mình đến chầu Đức-vua, lạy Đức-vua rồi tâu rằng:
-Muôn tâu Hoàng-thượng! Ngày trước Hoàng-thượng đã ban cho thần thiếp ân huệ, thần thiếp đã cung kính nhận ân huệ ấy, rồi xin gởi lại Hoàng-thượng. Nay kính xin Hoàng-thượng ban ân huệ ấy lại cho thần thiếp.
-Này ái khanh Candādevī! Ái khanh hãy nhận lại ân huệ ấy!
- Muôn tâu Hoàng-thượng! Kính xin Hoàng-thượng ban ân huệ truyền ngôi báu cho Thái-tử Temiya, con của thần thiếp.
- Này ái khanh Candādevī, Trẫm không thể ban ân huệ truyền ngôi cho Thái-tử Temiya được, bởi vì Thái-tử là người xui xẻo (kāḷakaṇṇī).
-Muôn tâu Hoàng-thượng, nếu Hoàng-thượng không truyền ngôi báu cho Thái-tử Temiya suốt đời thì truyền ngôi báu cho Thái-tử Temiya 7 năm.
Đức-vua không chuẩn tấu lời tâu của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī. Sau đó, Bà giảm còn 6 năm, 5 năm, 4 năm, 3 năm, 2 năm, 1 năm, rồi 7 tháng, 6 tháng, 5 tháng, 4 tháng, 3 tháng, 2 tháng, 1 tháng, nửa tháng, rồi cuối cùng còn lại 7 ngày.
Đức-vua chuẩn tấu theo lời của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, truyền ngôi báu cho Thái-tử Temiya 7 ngày, rồi bố cáo cho thần dân biết lễ đăng quang lên ngôi báu của Thái-tử Temiya trong vòng 7 ngày.
Thái-tử Temiya được mặc bộ đồ triều phục và đeo các đồ trang sức của Đức-vua, rồi đặt nằm trên long sàng trên lưng con bạch tượng có lọng trắng che, ngự đi quanh kinh-thành Bārāṇasī, rồi ngự trở về cung điện, nằm trên ngai vàng.
Suốt ngày đêm Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī đến khẩn khoản với Đức-vua Bồ-tát Temiya rằng:
- Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Mẫu-hậu đã chịu khổ tâm suốt 16 năm qua, Mẫu-hậu đã khóc suốt ngày đêm, đã khô cạn dòng lệ, trái tim của Mẫu-hậu như bị vỡ vì quá sầu não, chịu bao nỗi thống khổ cùng cực. Mẫu-hậu biết chắc:
“Con không phải là người bại liệt, cũng không phải là người điếc, cũng không phải là người câm.”
- Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Xin con đừng làm cho Mẫu-hậu thất vọng, không có nơi nương nhờ.
Đêm thứ 6, Đức-vua truyền lệnh cho người đánh xe Sunanda đến, truyền bảo rằng:
-Này Sunanda! Sáng ngày mai, ngươi hãy lấy một chiếc xe bất hạnh (avamaṅgalaratha) cài vào 2 con ngựa bất hạnh, rồi ẵm Thái-tử Temiya đặt nằm trên chiếc xe ấy, đưa ra cửa thành hướng tây, đi thẳng vào khu rừng nghĩa địa, đào hầm sâu, đặt Thái-tử nằm dưới hầm ấy, lấp đất đầy xong, ngươi tắm rửa cho sạch sẽ, rồi trở về cung điện.
Nghe tin Đức-vua Kāsirājā truyền lệnh cho người đánh xe Sunanda như vậy, trái tim của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī như muốn vỡ, Bà vội ngự đến gặp Thái-tử Temiya. Chánh-cung Hoàng-hậu ngồi khóc than, khẩn khoản suốt đêm hôm ấy. Thái-tử Temiya vẫn nằm yên, bất động, làm thinh như người điếc, người câm. Bà khóc than, báo tin cho Thái-tử Temiya biết rằng:
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Đức-vua Kāsirājā, Đức-Phụ-vương của con, đã truyền lệnh cho người đánh xe tên Sunanda rằng:
“Sáng sớm ngày mai, đặt con trên chiếc xe bất hạnh, được kéo bởi 2 con ngựa bất hạnh, đưa con ra cửa thành phía tây, chở con đi thẳng vào khu rừng nghĩa địa, đào hầm sâu, đặt con nằm dưới hầm ấy, rồi lấp đất chôn con dưới đất.”
Ngày mai, Mẫu-hậu sẽ vĩnh viễn xa cách con rồi!
-Này Temiya! Pháp-hạnh phát-nguyện của ngươi, nhờ pháp-hạnh nhẫn-nại, pháp-hạnh tinh-tấn, … trải qua 16 năm, ngươi sẽ được thành tựu như ý, vào sáng ngày mai ấy.
“Nếu ngay bây giờ ta nói lời an ủi với Mẫu-hậu, thì pháp-hạnh phát-nguyện của ta sẽ bị đứt, ý nguyện tha thiết rời khỏi cung điện của ta cũng sẽ không được thành tựu như ý.
Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Được Thành Tựu Như Ý
Sáng hôm ấy, do oai lực của Đức-vua Bồ-tát Temiya cùng chư-thiên khiến cho người đánh xe Sunanda dắt 2 con ngựa hạnh phúc cài vào chiếc xe hạnh phúc (maṅgalaratha), đánh chiếc xe ấy đến dừng trước lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī. Người đánh xe Sunanda vào chầu Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, đảnh lễ, rồi tâu rằng:
-Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu! Kính xin Bà tha tội cho hạ thần này, kẻ hạ thần tuân theo lệnh của Đức-vua Kāsirājā, đến thỉnh Đức-vua Temiya.
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī xoã tóc, úp mặt vào đôi bàn tay khóc thét lên. Các cung phi, các nhũ mẫu cùng đều khóc than thảm thiết. Khi ấy, nhìn thấy Mẫu-hậu đang chịu nỗi khổ tâm cùng cực, Đức-Bồ-tát Temiya nghĩ rằng:
“Bây giờ, nếu ta không nói lời an ủi nào với Mẫu-hậu thì Mẫu-hậu của ta có thể vỡ tim mà chết mất!”
“Nếu bây giờ ta nói lời an ủi với Mẫu-hậu thì pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật cùng với các pháp-hạnh ba-la-mật khác như pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật, pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật, … mà ta đã thực-hành suốt 16 năm qua sẽ không đem lại kết quả thành tựu như ý.
Còn bây giờ, nếu ta không nói lời an ủi với Mẫu-hậu thì thời gian sau không lâu, Đức-Phụ-vương, Mẫu-hậu, các quan, quân, phần đông dân chúng sẽ được lợi ích lớn, sự tiến hóa lớn, sự an-lạc lâu dài.
Sau khi đặt Đức-vua Bồ-tát Temiya nằm trên chiếc xe hạnh phúc xong, người đánh xe Sunanda có ý định đánh xe ra cửa thành hướng tây, nhưng do oai lực của Đức-Bồ-tát Temiya và chư-thiên khiến người đánh xe ra cửa thành hướng đông.
Nằm trên chiếc xe ngự ra khỏi kinh-thành Bārāṇasī đi đến khu rừng, Đức-vua Bồ-tát Temiya nghĩ rằng:
“Pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật của ta đã được thành tựu, ý nguyện tha thiết rời khỏi cung điện cũng đã được thành tựu như ý.”
Người đánh xe Sunanda điều khiển chiếc xe đi thẳng đến khu rừng cách xa kinh-thành Bārāṇasī khoảng 3 do tuần, tưởng đã đến nơi nghĩa địa, nên cho chiếc xe ngựa dừng lại. Bước xuống xe, y cởi bộ triều phục, và các đồ trang sức của Đức-vua Bồ-tát Temiya, bỏ vào hòm, để đem về trình lên Đức-vua Kāsirājā, rồi đem cuốc đến một nơi không xa chỗ đậu xe, để đào hầm sâu chôn sống Đức-vua Temiya.
Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Biểu Dương Sức Mạnh
“Suốt 16 năm qua ta nằm yên, bây giờ ta cần phải cử động từ tay chân cho đến toàn thân thể.”
Sau đó Đức-Bồ-tát Temiya bước xuống xe, đi qua đi lại để biết sức lực của mình. Đức-Bồ-tát Temiya biết mình có thể đi bộ 100 do tuần chỉ trong một ngày. Để kiểm tra lại sức lực của mình, Đức-Bồ-tát Temiya ngự đến chiếc xe, trong tư thế vững vàng, 2 tay cầm càng xe nhấc bỗng nó lên khỏi mặt đất rồi quay một vòng như quay một chiếc xe đồ chơi của bọn trẻ.
Đức-Bồ-tát Temiya khoẻ mạnh có khả năng tự vệ mà không có một ai có thể làm hại được.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya muốn có bộ trang phục cho thân thể của mình. Khi ấy, chỗ ngồi của vua trời Sakka nóng lên, Đức-vua trời xem xét thấy rõ, biết rõ pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya đã được thành tựu, ý nguyện tha thiết rời khỏi cung điện cũng được như ý.
“Bây giờ, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya muốn có bộ trang phục cho thân thể của Đức-Bồ-tát, nhưng bộ trang phục của loài người không xứng đáng với Đức-Bồ-tát, ta nên kính dâng đến Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya bộ trang phục cõi trời.”
Tuân theo lệnh của Đức-vua trời Sakka, vị thiên-nam Vissakamma đem bộ trang phục cõi trời đến dâng lên Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya.
Nhận xong, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya mặc bộ trang phục và đeo các đồ trang sức cõi trời, trông giống như Đức-vua trời Sakka. Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya ngự đến chỗ người đánh xe Sunanda đang cặm cụi đào hầm, truyền hỏi rằng:
- Này Sunanda, bạn thân mến! Bạn đào hầm này để làm gì vậy? Tôi đã hỏi bạn, xin bạn trả lời cho tôi biết.
- Thưa Ngài, Thái-tử Temiya của Đức-vua Kāsirāja và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī là người bại liệt, người điếc, người câm thuộc hạng người xui xẻo (kāḷakaṇṇī) trong cung điện.
Vì vậy, Đức-vua Kāsirāja truyền lệnh cho tôi chở Thái-tử Temiya đem chôn tại nghĩa địa này. Tôi đào hầm này để chôn Thái-tử Temiya. Thưa Ngài.
-Này Sunanda, bạn thân mến! Tôi không phải là người bại liệt, cũng không phải là người điếc, cũng không phải là người câm, chắc chắn không phải là người xui xẻo. Xin mời bạn hãy xem đôi cánh tay, đôi chân, thân hình khoẻ mạnh của tôi như thế này!
Xin bạn hãy nghe lời nói thanh tao, ngọt ngào của tôi như thế này!
Nếu bạn chôn tôi trong khu rừng này thì bạn là người làm điều bất nhân, không hợp pháp.
“Ngài này có phải là người hay chư-thiên, để ta hỏi cho biết.”
-Kính thưa Ngài, Ngài có phải là người, hay là vị thiên-nam, hay là Đức-vua trời Sakka vậy? Thưa Ngài.
-Này Sunanda, bạn thân mến! Tôi là người, không phải là vị thiên-nam, cũng không phải là Đức-vua trời Sakka. Tôi chính là Thái-tử Temiya của Đức-vua Kāsirājā và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī. Còn bạn là vị quan đánh xe của Đức-Phụ-vương tôi. Cuộc sống của bạn nương nhờ nơi Đức-Phụ-vương tôi.
-Này Sunanda, bạn thân mến! Nếu bạn chôn tôi trong khu rừng này thì bạn là người không tốt, là người không biết ơn đối với Đức-Phụ-vương của tôi.
Người nào đến ngồi hoặc nằm nương nhờ dưới bóng mát của một cây nào, người ấy không nên ngắt lá, bẻ cành của cây ấy, bởi vì, người không biết ơn, người hại bạn là người không tốt trong đời.
Đức-Phụ-vương của tôi ví như một cây lớn, tôi ví như cành của cây ấy, còn bạn ví như người đến nương nhờ bóng mát của cây lớn ấy. Nếu bạn chôn tôi trong khu rừng này thì bạn là người không tốt, là người không biết ơn Đức-Phụ-vương của tôi.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya nghĩ rằng:
“Ta sẽ làm cho người đánh xe Sunanda này tin ta chính là Thái-tử Temiya.”
Mười Pháp Người Bạn Tốt
-Này Sunanda, bạn thân mến! 10 pháp của người bạn tốt là:
1- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Người ấy được phần đông mọi người tin tưởng, kính yêu, và đi đến nơi nào cũng có được đầy đủ vật thực và tiện nghi.
2- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Người ấy đến xóm làng, tỉnh thành, kinh-thành… được mọi người đón rước, tiếp đãi trọng thể xem như người thân của họ.
3- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Kẻ cướp, kẻ thù không thể khuất phục được người ấy. Thật ra, người ấy có khả năng thuyết phục được kẻ thù bằng thiện-pháp, được Đức-vua tín cẩn.
4- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Người ấy sống trong gia đình được mọi người trong gia đình, bà con, dòng họ yêu mến, người ấy vào hội chúng nào đều được hội chúng ấy tôn trọng.
5- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Biết cung kính người khác thì sẽ được những người khác cung kính đáp lại; biết tôn trọng người khác thì sẽ được những người khác tôn trọng đáp lại. Người ấy được tán dương ca tụng là hạng người cao quý.
6- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Biết cúng dường người khác thì sẽ được những người khác cúng dường đáp lại; biết đảnh lễ người khác thì sẽ được những người khác đảnh lễ đáp lại. Người ấy sẽ là người cao quý.
7- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Người ấy có gương mặt sáng sủa, thân tâm thường an lạc.
8- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Người ấy làm công việc nào cũng được kết quả tốt đẹp trong công việc ấy, như gieo trồng lúa, thì được mùa… người ấy hưởng được quả tốt lành.
9- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Người ấy tránh được mọi tai nạn, dù người ấy rơi xuống hố sâu, vẫn không có tai nạn nào xảy đến với người ấy.
10- Người bạn tốt là người biết ơn, người không làm hại bạn. Kẻ thù không thể khuất phục được người ấy. Ví như cây da có nhiều rễ phụ, cho nên gió bão không thể làm cho nó trốc gốc ngã nhào được. Đặt biệt, người ấy có khả năng cảm hóa được kẻ thù.
Người đánh xe Sunanda nghĩ rằng:
“Bậc này là ai mà thuyết dạy những lời lẽ rất hay, có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, ta chưa từng nghe bao giờ.”
Trở lại nhìn kỹ, người đánh xe Sunanda mới nhận ra được Bậc Pháp-sư ấy chính là Thái-tử Temiya của Đức-vua Kāsirāja và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī.
Người đánh xe Sunanda chắp hai tay đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya tha thiết khẩn khoản tâu xin rằng:
- Tâu Thái-tử Temiya! Kính xin Thái-tử tha tội chết cho kẻ si mê, ngu muội này. Kẻ hạ thần kính thỉnh Thái-tử hồi cung ngự trở lại cung điện, lên ngôi làm vua, hưởng mọi sự an-lạc.
- Này Sunanda, bạn thân mến! Ta không cần ngôi báu, không muốn hưởng mọi sự an-lạc của ngũ-dục là sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục. Ta chỉ muốn xuất gia trở thành đạo-sĩ ở trong rừng mà thôi.
- Tâu Thái-tử Temiya! Kính thỉnh Thái-tử hồi cung. Nếu Thái-tử hồi cung thì Đức-vua Kāsirāja và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī chắc chắn sẽ ban thưởng cho kẻ hạ thần này nhiều của cải quý giá.
Nếu Thái-tử hồi cung thì các cung phi, các hoàng thân, các Bà-la-môn, các quan, … chắc chắn sẽ ban cho kẻ hạ thần này nhiều của cải quý giá.
- Này Sunanda, bạn thân mến! Ta không trở lại cung điện nữa. Đức-Phụ-vương của ta đã truyền lệnh cho bạn đưa ta ra khỏi kinh-thành Bārāṇasī, để chôn ta trong khu rừng này, và Mẫu-hậu của ta cũng đành chịu trao ta cho bạn bồng lên xe.
Như vậy, ta đã giải thoát ra khỏi cung điện rồi. Nay, bạn không chôn ta thì ta được hoàn toàn tự do, ta sẽ xuất gia trở thành đạo-sĩ ở trong khu rừng này.
- Này Sunanda, bạn thân mến! Ta đã tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật 3 điều, pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật, pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật,… chờ đợi suốt 16 năm qua.
Nay, ý nguyện của ta đã được thành tựu như ý.
- Này Sunanda, bạn thân mến! Sự lợi ích chính đáng, hợp pháp của người không nóng nảy (biết nhẫn-nại chờ đợi suốt 16 năm) đã được thành tựu kết quả chắc chắn rồi, ta sẽ xuất gia trở thành đạo-sĩ tạo pháp-hạnh cao thượng ở trong rừng, để tránh được những tai họa sẽ xảy đến với ta.
- Tâu Thái-tử Temiya, lời truyền dạy của Thái-tử hay quá! Sâu sắc quá!
Vậy, do nguyên nhân nào mà Thái-tử không nói lời nào tại cung điện của Đức-vua Kāsirājā và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī?
-Này Sunanda, bạn thân mến! Ta không nói lời nào tại cung điện của Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu của ta, không phải ta là người câm không nói được, ta không phải là người điếc không nghe được, ta không phải là người bại liệt không cử động tay chân, thân thể được.
Sở dĩ ta không phải là người câm, ta đã phát nguyện làm như là người câm; ta không phải là người điếc, ta đã phát nguyện làm như là người điếc; ta không phải là người bại liệt, ta đã phát nguyện làm như là người bại liệt; là vì ta sợ rằng: “Khi ta trưởng thành, Đức-Phụ-vương của ta truyền ngôi báu lại cho ta.” Nhưng ta thì không muốn làm vua, bởi vì, ta nhớ lại tiền-kiếp của ta đã từng làm Đức-vua ngự tại kinh-thành Bārāṇasī này, trị vì đất nước Kāsiraṭṭha này chỉ có 20 năm.
Tiền-kiếp của ta là Đức-vua Kāsi (như Đức-Phụ-vương của ta bây giờ) đã tạo ác-nghiệp, cho nên sau khi băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục Ussadanaraka, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt 80.000 năm.
Kiếp hiện-tại ta là Thái-tử Temiya, con của Đức-vua Kāsirājā và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, ta sợ Đức-Phụ-vương của ta sẽ truyền ngôi báu cho ta lên làm vua, nhưng ta không muốn làm vua, bởi vì ta sợ cảnh khổ trong cõi địa-ngục.
Một hôm, khi ta lên một tháng tuổi, ta đang nằm trên đôi vế của Đức-Phụ-vương ta. Khi ấy, một người lính dẫn 4 kẻ trộm cắp vào trình Đức-vua phán xử. Đức-Phụ-vương ta truyền lệnh rằng:
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi hãy đánh bằng roi có gai 1.000 lần.
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi hãy xiềng chân bỏ vào nhà giam.
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi lấy lưỡi giáo đâm vào thân thể của nó.
- Kẻ trộm cắp này, các ngươi đặt nó trên bàn chông. Khi ấy, ta đang nằm trên hai bắp vế của Đức-Phụ-vương, nghe lời phán xử nghiêm khắc của Đức Phụ-vương như vậy, ta lấy làm kinh sợ, nên ta quyết tâm không muốn lên ngôi vua. Vì vậy, ta thành tâm phát nguyện rằng:
1- Ta không phải là người bại liệt, ta đã phát nguyện làm như là người bại liệt.
2- Ta không phải là người điếc, ta đã phát nguyện làm như là người điếc.
3- Ta không phải là người câm, ta đã phát nguyện làm như là người câm.
Sau khi phát nguyện xong, ta đã thực-hành nghiêm chỉnh theo 3 điều phát nguyện ấy, ta đã nhẫn-nại chịu đựng mọi thử thách suốt 16 năm trường ròng rã.
Trong 16 năm ấy, ta đã từng nhẫn-nại chịu đựng nằm trên vũng nước tiểu, nằm trên đống phân của ta.
Sinh-mạng này là khổ thật, rất ngắn ngủi, không bao lâu phải tử bỏ thân này.
Nếu người nào nương nhờ nơi thân này mà tạo ác-nghiệp nào, với bất cứ lý do nào, thì người ấy cũng đều phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Ta đã thực-hành nghiêm chỉnh theo 3 điều phát nguyện ấy, với đại-thiện-tâm không nóng nảy, biết nhẫn-nại chờ đợi kết quả suốt 16 năm. Nay, ta đã được thành tựu như ý. Sự lợi ích chính đáng và hợp pháp của người không nóng nảy, biết nhẫn-nại chờ đợi đã được thành tựu như ý. Ta sẽ xuất gia trở thành đạo-sĩ, tạo pháp-hạnh cao thượng ở trong rừng này, để tránh khỏi tai hoạ xảy đến với ta.
“Thái-tử Temiya sợ lên ngôi báu làm vua, mà đã quyết tâm phát nguyện không hề lay chuyển, đã nhẫn-nại chịu đựng biết bao nhiêu thử thách suốt 16 năm.
Nay, Thái-tử Temiya có ý nguyện xuất gia trở thành đạo-sĩ ở trong rừng này. Còn cuộc đời khổ cực của ta có đáng gì đâu!
Vậy, ta cũng nên xuất gia trở thành đạo-sĩ theo Thái-tử Temiya.”
-Tâu Thái-tử, kẻ hạ thần này cũng muốn xuất gia theo Thái-tử. Kính xin Thái-tử cho phép kẻ hạ thần được xuất gia trở thành đạo-sĩ theo làm đệ tử hầu hạ Thái-tử.
“Nếu ta đồng ý cho phép Sunanda xuất gia trở thành Đạo-sĩ thì Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu của ta sẽ không có cơ hội ngự đến nơi này. Đó là điều bất lợi cho Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu của ta. Bộ triều phục và các đồ trang sức của nhà vua này sẽ bị hư hoại, ngựa xe và người đánh xe Sunanda mất tích, thì chắc chắn ta sẽ bị chê trách.”
- Này Sunanda, bạn thân mến! Bạn hãy đem nộp lại ngựa xe và các triều phục của ta cho triều đình trước, hoàn thành xong nhiệm vụ, bạn là người không mắc nợ thì mới được phép xuất gia, mà chư bậc thiện-trí tán dương ca tụng.
- Này Sunanda, bạn thân mến! Khi trở lại cung điện, ta xin nhờ bạn tâu lên Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu của ta rằng:
“Muôn tâu Bệ-hạ! Thái-tử Temiya truyền bảo kẻ hạ thần tâu lên Bệ-hạ rằng: “Thái-tử Temiya thành kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu, cầu mong Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu sống lâu và an-lạc.”
“Nếu ta đem ngựa xe, các đồ triều phục của Thái-tử Temiya về nộp lại cho triều đình, rồi tâu lên Đức-vua Kāsirājā và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī biết rõ Thái-tử Temiya là người cao thượng bậc nhất như vậy. Đức-vua và Chánh-cung Hoàng-hậu cùng những người khác ngự đến nơi đây, nếu không thấy Thái-tử Temiya thì chắc chắn ta sẽ bị trọng tội.
Vì vậy, ta nên tâu với Thái-tử Temiya, xin Thái-tử hứa chắc chắn với ta rằng:
“Thái-tử sẽ không ngự đi nơi nào khác, cho đến khi ta trở lại.”
-Tâu Thái-tử Temiya, Bậc cao thượng, kẻ hạ thần xin tuân theo lệnh truyền của Thái-tử. Kẻ hạ thần tha thiết khẩn khoản cầu xin Thái-tử hứa chắc chắn với kẻ hạ thần rằng:
“Thái-tử sẽ không ngự đi nơi nào khác, cho đến khi hạ thần kính thỉnh Đức-vua Kāsirājā và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī ngự đến đây gặp lại Thái-tử.”
-Này Sunanda, bạn thân mến! Ta xin hứa chắc chắn với bạn, ta sẽ trú tại nơi này cho đến khi bạn trở lại. Vậy, bạn hãy an tâm trở lại cung điện.
Thật ra, chính ta cũng mong muốn được yết kiến Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu của ta tại nơi đây.
Sau khi nhận lời của Đức-Bồ-tát Thái-tử, người đánh xe Sunanda tỏ lòng tôn kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Thái-tử Temiya, rồi xin phép tạm biệt trở lại kinh-thành Bārāṇasī, đến cung điện của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī. Khi ấy, Chánh-cung Hoàng-hậu đang đứng trên lâu đài nhìn xuống thấy người đánh xe Sunanda trở về một mình, trái tim của bà dường như muốn vỡ, khổ tâm cùng cực khóc than rằng:
- Người đánh xe Sunanda đã chôn Thái-tử Temiya của ta rồi! Thái-tử Temiya của ta đã bị người đánh xe Sunanda chôn vùi dưới đất rồi!
- Ô! Ta thì khổ tâm cùng cực, còn kẻ thù thì lại vui mừng.
-Này Sunanda! Thái-tử Temiya của ta không phải là người bại liệt phải không?
Thái-tử Temiya không phải là người điếc phải không?
Thái-tử Temiya không phải là người câm phải không?
Khi ngươi chôn vùi dưới đất, Thái-tử Temiya của ta có cử động chân tay gì không?
Có la hét gì không?
Ta đã hỏi ngươi. Vậy ngươi hãy mau tâu cho ta rõ.
- Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, kính xin Lệnh bà tha tội cho kẻ hạ thần này. Kẻ hạ thần này sẽ xin tâu rõ những điều tai nghe, mắt thấy, diện kiến trực tiếp với Thái-tử Temiya cho Lệnh bà rõ.
- Này Sunanda! Ta đã tha tội cho ngươi rồi! Ngươi chớ nên sợ hãi.
Vậy, ngươi hãy trình tâu cho ta rõ những điều mà ngươi đã thấy, đã nghe, đã diện kiến với Thái-tử Temiya của ta mau!
- Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, Thái-tử Temiya của Lệnh bà là Bậc cao thượng nhất.
Sự thật, Thái-tử Temiya hoàn toàn không phải là người bại liệt, mà là người có sức mạnh phi thường.
Thái-tử Temiya cũng không phải là người câm mà là người có giọng nói thanh tao, lời dạy có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, mà chính tai của hạ thần đã nghe được lời truyền dạy của Thái-tử Temiya.
Thái-tử Temiya cũng không phải là người điếc, bởi vì chính hạ thần đã tâu chuyện với Thái-tử.
- Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, Thái-tử Temiya truyền bảo kẻ hạ thần trở lại tâu lời của Thái-tử lên Đức-vua và Chánh-cung Hoàng-hậu rằng:
“Thái-tử Temiya thành kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu, cầu mong Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu sống lâu và an-lạc.”
- Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu , kẻ hạ thần nghe từ Thái-tử Temiya truyền bảo rằng:
“Sở dĩ Thái-tử Temiya không nói lời nào tại cung điện là vì Thái-tử nhớ lại tiền-kiếp của Thái-tử đã từng làm Đức-vua ngự tại kinh-thành Bārānasī, trị vì đất nước Kāsiraṭṭha này 20 năm. Đức-vua tiền-kiếp của Thái-tử Temiya có quyền lực đã từng tạo ác-nghiệp. Sau khi Đức-vua ấy băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục Ussadanaraka, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt 80.000 năm.
Nay, kiếp hiện-tại là Thái-tử Temiya. Thái-tử sợ rằng khi trưởng thành, Thái-tử sẽ được Đức-Phụ-vương truyền ngôi báu lên làm vua, nhưng Thái-tử thì sợ làm vua. Để tránh khỏi làm vua, để được xuất gia trở thành vị Đạo-sĩ, nên Thái-tử đã phát nguyện 3 điều rằng:
“1-Ta không phải là người bại liệt, ta đã phát nguyện làm như là người bại liệt.
2- Ta không phải là người điếc, ta đã phát nguyện làm như là người điếc.
3- Ta không phải là người câm, ta đã phát nguyện làm như là người câm.”
Thái-tử Temiya đã phát nguyện, rồi thực-hành nghiêm chỉnh như vậy, cốt để tránh lên ngôi làm vua và để được đi vào rừng xuất gia trở thành đạo-sĩ, tạo pháp-hạnh cao thượng.
- Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, Thái-tử Temiya là người có các tướng tốt của bậc đại nhân, có sức mạnh phi thường, có giọng nói thánh thót, đặc biệt thuyết pháp rất hay và sâu sắc, có trí-tuệ siêu-việt, tạo pháp-hạnh cao thượng.
Hạ thần kính thỉnh Đức-vua và Chánh-cung Hoàng-hậu ngự đến diện kiến Thái-tử Temiya, kẻ hạ thần này xin dẫn đường đưa Đức-vua và Chánh-cung Hoàng-hậu đến chỗ ở của Thái-tử Temiya trong rừng. Tâu Lệnh bà.
Đức-vua vô cùng hoan hỷ phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có. Khi ấy, Đức-vua Kāsirājā truyền lệnh hội triều để bàn tính việc làm lễ đăng quang Thái-tử Temiya lên ngôi vua, rồi rước trở về cung điện.
Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya Xuất Gia
-Này Vissakamma! Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya có ý nguyện xuất gia trở thành đạo-sĩ.
Vậy, ngươi hãy hiện xuống cõi người, tại nơi khu rừng ấy, hóa ra một cốc lá và các thứ vật dụng cần thiết của bậc đạo-sĩ, xong ngươi hãy ghi dòng chữ để lại.
“Bậc nào có ý nguyện muốn xuất gia trở thành đạo-sĩ, kính mời bậc ấy được phép sử dụng những thứ vật dụng cần thiết này, để xuất gia trở thành đạo-sĩ.”
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya nhìn thấy cốc lá có để lại dòng chữ, Đức-Bồ-tát tự đoán biết rằng:
“Đức-vua trời Sakka đã truyền cho vị thiên-nam Vissukamma hoá ra những thứ vật dụng cần thiết này cho ta, để xuất gia trở thành đạo-sĩ.”
-Thật là hạnh phúc an-lạc!
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đi vào trong cốc lá, ngồi thực-hành pháp-hành thiền-định, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới và đắc 5 phép-thần-thông: đa-dạng-thông, nhãn-thông, nhĩ-thông, tha-tâm-thông, tiền-kiếp-thông.
Tổ Chức Lễ Diện Kiến Thái-Tử Temiya
-Này các khanh! Các khanh hãy mau chuẩn bị các đoàn binh, các đội nhạc, thông báo đến các bà cung phi, các người trong hoàng tộc, các Bà-la-môn, các phú hộ, dân chúng trong kinh-thành, dân chúng các tỉnh thành, tất cả phải sẵn sàng đi theo Trẫm ngự vào khu rừng, để diện kiến Thái-tử Temiya, làm lễ đăng quang Thái-tử Temiya lên ngôi vua, rồi rước trở về cung điện.
Nhìn thấy Đức-vua Kāsirājā cùng với đoàn hộ giá hùng hậu đang ngự đến, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Temiya ra đón rước, kính thỉnh Đức-Phụ-vương ngự vào cốc lá, rồi Tâu rằng:
-Muôn tâu Đức-Phụ-vương, Đức-Phụ-vương được khoẻ mạnh, không bệnh hoạn và Mẫu-hậu của bần đạo cũng khoẻ mạnh, không bệnh hoạn phải không?
- Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Phụ-vương được khoẻ mạnh, không bệnh hoạn và Mẫu-hậu của con cũng được khoẻ mạnh, không bệnh hoạn.
- Muôn tâu Đức-Phụ-vương, Đức-Phụ-vương không uống nước Caṇḍa (chất say), tâm của Đức-Phụ-vương vẫn thoả thích trong pháp chân thật, thực-hành nghiêm chỉnh 10 pháp của Đức-vua có phải không?
- Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Phụ-vương không uống nước Caṇḍa (chất say), tâm của Đức-Phụ-vương vẫn thoả thích trong pháp chân thật, thực-hành nghiêm chỉnh 10 pháp của Đức-vua.
- Tâu Đức-Phụ-vương, từ kinh-thành cho đến các vùng biên giới trên toàn lãnh thổ đất nước của Đức-Phụ-vương, toàn thể thần dân thiên hạ đều được sống an lành thịnh vượng phải không?
- Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Từ kinh-thành cho đến các vùng biên giới trên toàn lãnh thổ đất nước của Phụ-vương, toàn thể thần dân thiên hạ đều được sống an lành thịnh vượng cả thảy.
- Tâu Đức-Phụ-vương, Đức-Phụ-vương đã ngự đến an lành. Kính mời Đức-Phụ-vương dùng thứ lá cây nấu chín này.
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Con dùng vật thực bằng thứ lá cây nấu chín như thế này được sao?
-Tâu Đức-Phụ-vương, dạ được. Hằng ngày, con dùng vật thực bằng thứ lá cây được nấu chín hoặc những loại trái cây lớn nhỏ như vậy.
Đức-vua Kāsirājā cầm trong tay một ít lá cây nấu chín, trao cho Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, rồi truyền bảo rằng:
- Này ái-khanh Candādevī ! Thứ lá cây nấu chín này là món vật thực nuôi sống Thái-tử của ái-khanh.
- Tâu Thái-tử, Đức đạo-sĩ cao thượng, Ngài đã làm một điều mà những người khác không một ai có thể làm được. Thật là phi thường!
Khi ấy, Đức-vua Kāsirājā truyền bảo rằng:
- Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Thật là một điều phi thường mà Phụ-vương chưa từng thấy!
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Con sống trong rừng một mình, hằng ngày, dùng vật thực như vậy, do nguyên nhân nào mà gương mặt của con trong sáng lạ thường, nước da con có màu vàng óng ánh như vậy?
-Tâu Đức-Phụ-vương, bần đạo sống một mình trong rừng, vật thực ấy chỉ để duy trì sinh-mạng mà thôi. Bần đạo thực-hành pháp-hành thiền-định niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả chúng-sinh, niệm rải tâm-bi vô lượng đến tất cả chúng-sinh, niệm rải tâm-hỷ vô lượng đến tất cả chúng-sinh, niệm rải tâm-xả vô lượng đến tất cả chúng-sinh, nên tâm được thanh-tịnh an-lạc.
Do nguyên nhân ấy, nên gương mặt của bần đạo được trong sáng, nước da có màu vàng óng ánh như vậy.
- Tâu Đức-Phụ-vương, bần đạo không có khổ tâm đến những đối-tượng, những sự việc quá-khứ đã diệt rồi, bần đạo cũng không mong mỏi đến những đối-tượng, những sự việc vị-lai chưa sinh, bần đạo chỉ biết đối-tượng, việc đang hiện hữu trong hiện-tại mà thôi.
Do nguyên nhân ấy, nên gương mặt của bần đạo được trong sáng, da dẻ có màu vàng óng ánh như vậy.
- Tâu Đức-Phụ-vương, trong đời này một số người si mê, bị nỗi khổ tâm làm dày vò, làm cho thể xác xanh xao, gầy guộc, bởi do nguyên nhân như sau:
* Do hoài tưởng đến những đối tượng, những sự việc quá-khứ đã diệt rồi.
* Do mong mỏi về những đối tượng, những sự việc vị-lai chưa sinh.
Do đó, số người ấy bị nỗi khổ tâm dày vò, làm cho thân xác xanh xao gầy guộc.
Lễ Đăng Quang Truyền Ngôi Báu Cho Thái-Tử
“Ta sẽ làm lễ đăng quang truyền ngôi báu cho Thái-tử Temiya tại khu rừng này, rồi rước trở về kinh-thành Bārāṇasī.”
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Nay, Phụ-vương sẽ làm đại lễ đăng quang truyền ngôi báu cho con lên ngôi vua, tại khu rừng này, rồi rước con trở về ngự tại cung điện tại kinh-thành Bārāṇasī.
Phụ-vương giao các đội binh gồm: tượng binh, mã binh, binh xa, bộ binh, v.v… cùng các cung vàng điện ngọc cho con, giao các đoàn ca hát nhảy múa để làm cho con vui.
Phụ-vương sẽ tuyển chọn các công-chúa xinh đẹp đem về cho con tấn phong làm Chánh-cung Hoàng-hậu, để sinh ra nhiều hoàng-tử, công-chúa.
Nếu con muốn xuất gia thì hãy đợi khi đến lúc tuổi già. Hiện nay, con còn trẻ, đang thời niên thiếu, con nên lên ngôi vua trị vì đất nước Kāsiraṭṭha này, hưởng mọi sự an-lạc trong đời. Con sống trong rừng một mình, đời sống cực khổ có ích lợi gì đâu!
-Tâu Đức-Phụ-vương,
Người còn trẻ nên thực-hành phạm-hạnh cao thượng.
Người thực-hành phạm-hạnh cao thượng khi còn trẻ.
Bậc xuất-gia thực-hành phạm-hạnh khi còn trẻ.
Chư bậc thiện-trí đều tán dương ca tụng.
Người còn trẻ thực-hành phạm-hạnh cao thượng.
Người thực-hành phạm-hạnh cao thượng khi còn trẻ.
Vì vậy, bần đạo không muốn lên ngôi làm vua.
Mà bần đạo chỉ muốn xuất gia mà thôi.
Bần đạo thấy những đứa trẻ gọi là công-tử, tiểu thư xinh đẹp trong gia đình, chưa đến lúc tuổi già thì đã chết trước mẹ cha của chúng.
Ví như mụt măng, chưa thành tre già đã bị bẻ gãy.
Sự thật, sự chết xảy đến với mọi người bất cứ lúc nào,
Cho nên, không một ai có thể tin chắc rằng:
“Ta còn trẻ chưa chết.”
Tuổi thọ con người ngắn ngủi, bởi vì ngày đêm trôi qua, giống như đàn cá trong hồ, nước cạn dần.
Sinh-mạng của các con trai, con gái còn trẻ,
Chẳng có gì là chắc chắn được đâu!
Tất cả chúng-sinh trong đời đều bị sát hại, bị tàn lụi, do những điều bất lợi đang hiện hữu mãi mãi.
Vậy, Đức-Phụ-vương làm lễ đăng quang cho bần đạo lên ngôi vua có ích lợi gì đâu?
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Phụ-vương chưa hiểu rõ những pháp mà con đã thuyết giảng, như:
* Tất cả chúng-sinh trong đời đều bị ai sát hại?
* Pháp gì làm tàn lụi thân này?
* Do những gì bất lợi đang hiện hữu mãi mãi?
Con nên giải thích cho Phụ-vương và mọi người hiểu rõ các pháp ấy.
- Tâu Đức-Phụ-vương,
* Tất cả chúng-sinh bị tử thần theo sát hại.
* Sự già làm tàn lụi thân thể này.
* Do ngày và đêm trôi qua là những điều bất lợi đang hiện hữu mãi mãi. Nghĩa là hết ngày đến đêm, rồi hết đêm đến ngày, không ngừng, cứ tiếp diễn mãi mãi.
Kính xin Đức-Phụ-vương nên hiểu rõ như vậy.
- Tâu Đức-Phụ-vương, như cuộn chỉ trong con thoi mà người thợ dệt đã dệt chạy qua chạy lại hao bao nhiêu, thì phần chỉ còn lại bị giảm bớt bấy nhiêu.
Cũng như vậy, tuổi thọ của con người mà ngày và đêm trôi qua lâu bao nhiêu, thì phần tuổi thọ còn lại bị giảm bớt dần bấy nhiêu cho đến hết tuổi thọ mỗi kiếp (gọi là chết).
Nước chảy xuôi theo dòng sông từ chỗ cao xuống chỗ thấp, không bao giờ nước chảy ngược dòng từ chỗ thấp lên chỗ cao.
Cũng như vậy, ngày và đêm trôi qua, con người càng ngày càng già, không bao giờ trở lại thời trẻ trung nữa.
Dòng sông chảy xiết làm cho những cây cỏ hai bên bờ trốc gốc trôi theo dòng nước.
Cũng như vậy, ngày và đêm trôi qua dẫn dắt tất cả chúng-sinh đến sự già, rồi cuối cùng đến sự chết đều như nhau cả thảy.
“Đời sống của người tại gia có nhiều ràng buộc, tốt hơn ta không nên hồi cung trở lại kinh-thành Bārāṇasī, mà ta nên xuất gia trở thành đạo-sĩ tại khu rừng này.”
“Nếu Temiya, hoàng nhi yêu quý của ta chịu trở về kinh-thành Bārāṇasī thì ta sẽ truyền ngôi báu cho Thái-tử trị vì đất nước Kāsiraṭṭha.”
-Này Temiya, hoàng nhi yêu quý! Nay, Phụ-vương sẽ làm đại lễ đăng quang truyền ngôi báu cho con lên ngôi vua, tại khu rừng này, rồi rước con trở về ngự tại cung điện trong kinh-thành Bārāṇasī.
Phụ-vương giao các đội binh gồm: tượng binh, mã binh, binh xa, bộ binh, v.v… cùng các cung vàng điện ngọc cho con, giao các đoàn ca hát nhảy múa để làm cho con vui.
Phụ-vương sẽ tuyển chọn các công-chúa xinh đẹp đem về cho con tấn phong làm Chánh-cung Hoàng-hậu, để sinh ra nhiều hoàng-tử, công-chúa.
- Tâu Đức-Phụ-vương, Đức-Phụ-vương muốn bần đạo phải khổ tâm vì sự nghiệp đế vương, có ích lợi gì?
Đức-Phụ-vương muốn cho bần đạo khổ tâm vì Chánh-cung Hoàng-hậu, vì các hoàng-tử, các công-chúa, có ích lợi gì?
Con người còn trẻ cũng phải đến lúc già, rồi đến lúc chết. Đó là lúc kết thúc một kiếp người. Mọi người đã sinh ra trên đời, đều có sự già, sự chết là thường.
- Tâu Đức-Phụ-vương, như vậy, Đức-Phụ-vương truyền ngôi báu lại cho bần đạo, có ích lợi gì?
Đức-Phụ-vương muốn bần đạo có Chánh-cung Hoàng-hậu, có các hoàng-tử, các công-chúa có ích lợi gì?
- Tâu Đức-Phụ-vương, khi sự già, sự chết đến với bần đạo, thì sự nghiệp đế vương, Chánh-cung Hoàng-hậu, các hoàng-tử, các công-chúa giúp ích được gì cho bần đạo?
-Tâu Đức-Phụ-vương, bần đạo đã thoát khỏi mọi ràng buộc ấy rồi, bần đạo thấy rõ tử thần luôn luôn đuổi theo sau bần đạo. Khi người ta biết rõ tử thần đuổi theo sát bên họ, thì họ còn muốn gì trong đời nữa?
Người ta ham muốn nhiều của cải, nhưng đôi khi của cải bỏ họ trước hoặc đôi khi họ chết trước bỏ lại của cải.
Những cây có quả, số quả rụng lúc còn non, số quả rụng lúc già. Chắc chắn mọi quả chín đều phải rụng cả.
Cũng như vậy, con người sinh ra trên đời, số người chết trong thời-kỳ thiếu niên, số người chết trong thời-kỳ trung niên, số người chết trong thời lão niên. Điều chắc chắn là ai cũng đều phải chết cả.
Có người vừa mới gặp nhau chuyện trò buổi sáng, đến buổi chiều thì nghe tin người ấy đã chết.
Có người vừa mới gặp nhau chuyện trò buổi chiều, đến sáng ngày hôm sau thì nghe tin người ấy đã chết, … Các đoàn binh dù hùng mạnh đến đâu cũng không thể chiến thắng được tử thần.
Người ta không thể khống chế tử thần bằng phép mầu, bằng khí giới, bằng quyền lực, hoặc mua chuộc tử thần bằng ngọc ngà châu báu, …
Tử thần không buông tha một ai cả, dù là Đức-vua, các Bà-la-môn, các phú hộ, các lái buôn, các người làm công cho đến dân thường, … vẫn không có ai thoát khỏi tử thần.
Cho nên, mọi người chớ nên dể duôi, hãy nên cố gắng tinh-tấn tạo mọi phước-thiện, tạo mọi thiện-pháp ngay từ hôm nay. Có ai biết chắc được ngày mai mình chưa chết.
Không ai có khả năng khất hẹn với tử thần, dù trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhất.
- Tâu Đức-Phụ-vương, Đức-Phụ-vương nên bỏ ngai vàng điện ngọc, nên xuất gia trở thành đạo-sĩ, để làm nơi nương nhờ cho chính mình. Đó là lời thỉnh cầu của bần đạo, kính xin Đức-Phụ-vương suy xét kỹ.
Sau khi quyết tâm như vậy, Đức-vua Kāsirājā truyền lệnh rằng:
- Này các khanh! Các khanh hãy trở về lại kinh-thành Bārāṇasī, vào cung điện mở các kho báu, rồi ghi dòng chữ rằng: “Ai muốn thứ gì cứ tự tiện lấy thứ ấy.”
Các khanh hãy mở rộng các cửa cung điện, mở rộng 4 cửa thành, rồi thông báo cho toàn thể thần dân thiên hạ rằng:
“Nếu những người nào muốn xuất gia trở thành đạo-sĩ thì đều được phép xuất gia trở thành đạo-sĩ theo Thái-tử Temiya của Trẫm.”
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Temiya sắp đặt các nữ đạo-sĩ ở các cốc giữa, còn các nam đạo-sĩ ở các cốc ở bên bìa rừng rộng lớn mà vị thiên-nam Vissakamma đã hoá ra. Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Temiya ngự trên hư không thuyết pháp, giảng dạy. Tất cả các đạo-sĩ đều chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và các phép thần thông tuỳ theo năng lực ba-la-mật của mỗi vị.
Đức-Vua Xứ Khác Kéo Quân Đến Chiếm Thành
Một người dân trong kinh-thành Bārāṇasī tâu với Đức-vua ấy rằng:
-Tâu Đại-vương, Thái-tử Temiya của Đức-vua Kāsi và Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, không muốn lên ngôi báu làm vua, nên Thái-tử đã phát nguyện: không phải là gười bại liệt, làm như là người bại liệt, không phải là người điếc, làm như là người điếc, không phải là người câm, làm như là người câm.
Thái-tử Temiya chịu đựng mọi thử thách suốt 16 năm, mà không ai phát hiện ra được sự thật. Các vị Bà-la-môn xem tướng tâu dối lên Đức-vua Kāsirājā rằng:
“Thái-tử là người xui xẻo (kāḷakaṇṇī), sẽ có tai họa đến Đại-vương và ngai vàng.”
Vậy, Đại-vương nên truyền lệnh chở Thái-tử Temiya trên chiếc xe bất hạnh đưa ra khỏi cung điện, đem chôn Thái-tử Temiya ở trong rừng.
Tuân lệnh Đức-vua Kāsirājā, người đánh xe Sunanda chở Thái-tử Temiya ra khỏi kinh-thành Bārāṇasī, đến một khu rừng để chôn Thái-tử Temiya.
Khi ấy, Thái-tử Temiya là người được hoàn toàn tự do. Sự thật, Thái-tử Temiya có các tướng tốt của bậc đại nhân, không phải là người bại liệt, mà người có sức lực phi thường.
Thái-tử Temiya không phải người câm, mà là người có giọng nói hay, thuyết giảng các pháp sâu sắc.
Thái-tử Temiya không phải là người điếc, mà là người có khả năng nghe rõ, hiểu biết rõ hơn mọi người.
Thái-tử Temiya đã xuất gia trở thành đạo-sĩ Temiya.
Đức-vua Kāsirājā biết Thái-tử Temiya là người cao thượng như vậy, nên Đức-vua thân chinh dẫn các đoàn binh và đoàn hộ giá đông đảo đến khu rừng nơi ở của Thái-tử Temiya. Đức-vua Kāsirājā có ý định làm lễ đăng quang truyền ngôi báu cho Thái-tử Temiya lên ngôi vua, rồi rước trở về kinh-thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsiraṭṭha này, nhưng Đức-vua Kāsirājā không thuyết phục được Thái-tử Temiya lên ngôi vua, mà ngược lại Ngài Đạo-sĩ Temiya đã thuyết giảng pháp rất hay làm cho Đức-vua Kāsirājā cùng các đoàn hộ giá đông đảo có đức-tin trong sạch nơi vị đạo-sĩ Temiya, tất cả đều quyết tâm xuất gia trở thành đạo-sĩ theo Đạo-sĩ Temiya tại khu rừng ấy.
Nghe Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Temiya thuyết pháp, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, Đức-vua ấy cùng với các quan quân đều xin xuất gia trở thành đạo-sĩ theo Đức-Bồ-tát đạo-sĩ.
Tất cả các vị đạo-sĩ ấy thực-hành pháp-hành thiền-định đều chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và các pháp-thần-thông tuỳ theo năng lực ba-la-mật của mỗi vị đạo-sĩ.
Sau khi tất cả các vị nam đạo-sĩ, các nữ đạo-sĩ chết, sắc-giới thiện nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới Phạm-thiên.
Các loài súc-sinh như voi, ngựa cùng các loài thú trong rừng có đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Temiya. Sau khi chúng chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh lên cõi trời dục-giới.
Matāpitā na me dessā, nāpi me dessaṃ mahāyasaṃ. Sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ, tasmā vatamadhiṭṭhahiṃ [5].
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya, tiền-kiếp Như-Lai không phải ghét Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu, cũng không phải ghét đại chúng thuộc hạ.
Sự thật, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya có ý nguyện tha thiết, muốn trở thành Đức-Phật Toàn-Giác, nên Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya phát nguyện 3 điều, để tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật ấy.
Đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng của tiền-kiếp Như-Lai.
-Này chư tỳ-khưu! Không chỉ kiếp hiện-tại này Như-Lai từ bỏ ngai vàng đi xuất gia, mà còn tiền-kiếp của Như-Lai, kiếp Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya cũng không cần ngai vàng ngôi báu, mà phải thực-hành nghiêm chỉnh 3 điều đã phát-nguyện trong suốt 16 năm, mới được xuất gia trở thành đạo-sĩ.
Tích Temiyajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại
Tích Temiyajātaka này, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng trong kiếp quá-khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu-kiếp của những nhân vật trong tích Temiyajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại của những nhân vật ấy như sau:
- Đức-Phụ-vương và Mẫu-hậu, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phụ-vương Suddhodana và Mẫu-hậu Mahāmayādevī.
- Người đánh xe Sunanda, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
- Đức-vua trời Sakka, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Anuruddha.
- Vị thiên-nữ ngự tại cây lọng, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā.
- Các đạo-sĩ, nay kiếp hiện-tại là tứ chúng: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng. Ngoài ra, còn có 9 pháp-hạnh ba-la-mật phụ khác đồng thời thành tựu như sau:
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya quyết tâm hy sinh thân mạng, đó là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya giữ gìn giới trong sạch, đó là pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya quyết tâm xuất gia trở thành đạo-sĩ, đó là pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya có trí-tuệ suy xét sâu sắc, đó là pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya có sự tinh-tấn không ngừng, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya có đức nhẫn-nại cao thượng, đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya giữ gìn lời chân-thật đúng đắn, đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya có tâm-từ vô lượng đến tất cả chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật.
-Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya có tâm-xả vô lượng trong các đối-tượng, đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật.
Nhận Xét Về Tích Đức-Bồ-Tát Thái-Tử Temiya
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng (adhiṭṭhānaparamatthapāramī).
Pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng là 1 trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, cũng là 1 trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành cho được đầy đủ, để hỗ trợ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha).
Nếu Đức-Bồ-tát dám hy sinh thân mạng để tạo pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật cho được thành tựu, thì gọi là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng.
Sau khi Đức-vua băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục Ussudanaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt 80.000 năm. Vì vậy, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya cảm thấy lo sợ, đến lúc trưởng thành sẽ lên ngôi làm vua, nhưng Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya không muốn làm vua, nên Đức-Bồ-tát Thái-tử đã phát nguyện 3 điều là:
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya không phải là người bại liệt, đã phát nguyện làm như là người bại liệt.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya không phải là người điếc, đã phát nguyện làm như là người điếc.
- Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya không phải là người câm, đã phát nguyện làm như là người câm.
Đức-vua Bārāṇasī tin theo lời của các Bà-la-môn, truyền lệnh người đánh xe Sunanda chở Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya đưa vào rừng (Điều này vị thiên-nữ đã biết trước sự việc sẽ xảy ra như vậy).
Khi đến khu rừng, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya được hoàn toàn tự do, nên Đức-Bồ-tát Thái-tử xuất gia trở thành đạo-sĩ, sống trong rừng.
Vấn: Tại sao Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya sợ lên ngôi làm vua?
Đáp: Bởi vì, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya nhớ lại được tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát đã từng làm vua được 20 năm, đã tạo ác-nghiệp. Sau khi Đức-vua băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục Ussada-naraka, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài 80.000 năm, nên Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya sợ lên ngôi làm vua.
Nếu có người thiện-trí nào trong chúng ta, nhớ lại được tiền-kiếp của mình, hoặc tin nghiệp và quả của nghiệp thì người thiện-trí ấy có hiri: biết hổ-thẹn tội-lỗi, có ottappa: biết ghê-sợ tội-lỗi, nên không dám tạo ác-nghiệp nào dù nhẹ.
* Người thiện-trí có ottappa: biết ghê-sợ tội-lỗi nghĩa là người thiện-trí ấy có đại-thiện-tâm biết ghê-sợ đối với người, nếu mỗi khi nghĩ tạo ác-nghiệp nào thì sợ bậc thiện-trí chê trách, sợ ác-nghiệp ấy cho quả khổ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, nên không dám tạo ác-nghiệp tội-lỗi ấy, mà cố gắng tránh xa mọi ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, và chỉ có cố gắng tạo mọi phước-thiện thuộc về đại-thiện-nghiệp mà thôi.
Bởi vì người thiện-trí tin nghiệp và quả của nghiệp, tin chắc rằng:
- Nếu ác-nghiệp nào mà mình đã tạo rồi, thì chỉ có ác-nghiệp ấy của mình mới cho quả khổ trong kiếp hiện-tại và có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) mà thôi.
- Nếu đại-thiện-nghiệp nào mà mình đã tạo rồi, thì chỉ có đại-thiện-nghiệp ấy của mình mới cho quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới (cõi người và 6 cõi trời dục-giới) mà thôi.
Sở dĩ người thiện-trí tin nghiệp và quả của nghiệp là vì người thiện-trí gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, cố gắng tinh-tấn theo học hỏi hiểu biết về mọi ác-nghiệp và quả khổ, quả xấu của mọi ác-nghiệp; học hỏi hiểu biết về 4 loại thiện-nghiệp và quả an-lạc, quả tốt của 4 loại thiện-nghiệp từ chư bậc thiện-trí, nên bậc thiện-trí mới tin nghiệp và quả của nghiệp.[6]
Người thiện-trí nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, người thiện-trí ấy biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, nên không dám tạo 10 ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, đồng thời tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
Người thiện-trí cố gắng tinh-tấn tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu.[7]
Mười Ác-Nghiệp
Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên mới tạo 10 ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý như sau:
Thân ác-nghiệp có 3 loại:
-Ác-nghiệp sát-sinh.
- Ác-nghiệp trộm-cắp.
- Ác-nghiệp tà-dâm.
Khẩu ác-nghiệp có 4 loại:
- -Ác-nghiệp nói-dối.
- Ác-nghiệp nói lời thô-tục.
- Ác-nghiệp nói lời vô-ích.
Ý ác-nghiệp có 3 loại:
-Ác-nghiệp tham lam của cải tài-sản của người khác.
- Ác-nghiệp thù hận người khác.
- Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.
Ác-Nghiệp Và Quả Của Ác-Nghiệp
Ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm là 8 tham-tâm, 2 sân-tâm, 2 si-tâm có cơ hội cho quả trong 2 thời-kỳ:
-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
Người ác nào đã tạo ác-nghiệp nào, sau khi người ác ấy chết, ác-nghiệp ấy chỉ có trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm[8]) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) chỉ có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-
nghiệp thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là ác-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), do năng lực của suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp như sau:
- Nếu suy-xét-tâm nào đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong 8 tham-tâm, thì tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm chúng-sinh trong loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra.
- Nếu suy-xét-tâm nào đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong 2 sân-tâm, thì tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục.
- Nếu suy-xét-tâm nào đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong si-tâm hợp với hoài-nghi, thì tái-sinh kiếp sau làm chúng-sinh trong loài súc-sinh.
Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại
Suy-xét-tâm nào đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp làm phận-sự tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) 1 sát-na-tâm trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) xong, liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm ấy tiếp tục làm phận-sự hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn bảo hộ kiếp chúng-sinh ấy cho đến hết tuổi thọ, rồi cũng chính suy-xét-tâm ấy làm phận-sự cuối cùng tử-tâm (cuticitta) chuyển-kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, ác-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) có cơ hội cho quả khổ, quả xấu, có 7 quả-tâm đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm[9] tiếp xúc với các đối-tượng xấu trong kiếp hiện-tại của chúng-sinh trong cõi ác-giới ấy.
Thiện-Nghiệp Có 4 Loại
Thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 21 thiện-tâm là 8 dục-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 siêu-tam-giới thiện-tâm, tạo thiện-nghiệp, nên thiện-nghiệp có 4 loại:
1- Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm).
2- Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm.
3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.
4- Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.
1-Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm
* Người thiện-trí có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, nên tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, và tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu thuộc về đại-thiện-nghiệp phước-thiện.
* Đại-thiện-nghiệp có 10 loại:
Thân đại-thiện-nghiệp có 3 loại:
- Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.
- Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.
- Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.
Khẩu đại-thiện-nghiệp có 4 loại:
-Đại-thiện-nghiệp không nói-dối, mà nói lời chân-thật.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia-rẽ, mà nói lời hoà thuận.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô-tục, mà nói lời hòa nhã.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô-ích, mà nói lời hữu ích.
Ý đại-thiện-nghiệp có 3 loại:
- -Đại-thiện-nghiệp không tham lam của cải tài-sản của người khác.
- Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác, có tâm từ đối với mọi người.
- Đại-thiện-nghiệp có chánh-kiến hiểu biết đúng theo sự thật của các pháp.
* Mười phước-thiện puññakriyāvatthu
1- Phước-thiện bố-thí.
2- Phước-thiện giữ-giới.
3- Phước-thiện hành-thiền.
4- Phước-thiện cung-kính.
5- Phước-thiện hỗ-trợ mọi phước-thiện.
6- Phước-thiện hồi-hướng phần phước-thiện của mình.
7- Phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện của người.
8- Phước-thiện nghe chánh-pháp.
9- Phước-thiện thuyết chánh-pháp.
10- Phước-thiện chánh-kiến hiểu biết đúng nghiệp là của riêng mình.
Đại-Thiện-Nghiệp Và Quả Của Đại-Thiện-Nghiệp
Đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm có cơ-hội cho quả trong 2 thời-kỳ:
-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đã tạo đại-thiện-nghiệp nào, sau khi người thiện ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), có 9 quả-tâm là 8 đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm[10] gọi là 9 thiện-dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới (cõi người và 6 cõi trời dục-giới).
Thiện-dục-giới tái-sinh-tâm có 9 quả-tâm là:
- 8 đại-quả-tâm có 2 loại tâm: 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ.
4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ.
- 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm.
- Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, thì thuộc về hạng người tam-nhân[11] (tihetukapuggala), từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành hạng người tam-nhân vốn có trí-tuệ.
Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định, thì có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông thế gian.
Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Hoặc nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ thì thuộc về hạng tam-nhân có hào quang sáng ngời, có nhiều oai lực trên cõi trời dục-giới ấy.
Nếu vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
-Nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, thì thuộc về hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala), từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành hạng người nhị-nhân[12] vốn không có trí-tuệ.
Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định, thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào cả.
Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Hoặc nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ thì thuộc về hạng nhị-nhân có hào quang kém, có ít oai lực trên cõi trời dục-giới ấy.
-Nếu 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm, làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, thì thuộc về hạng người vô-nhân[13] (ahetukapuggala) đui mù, câm điếc, tật nguyền, … từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành hạng người vô-nhân đui mù, câm điếc, tật nguyền, si mê, biết tầm thường trong cuộc sống.
Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại
Nếu quả-tâm nào trong 9 quả-tâm làm phận-sự tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) 1 sát-na-tâm trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) xong, liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, chính quả-tâm ấy tiếp tục làm phận sự hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn hộ trì kiếp người hoặc kiếp vị thiên-nam, vị thiên-nữ ấy cho đến hết tuổi thọ, rồi cũng chính quả-tâm ấy làm phận sự cuối cùng tử-tâm (cuticitta) chuyển-kiếp (chết) kết thúc kiếp người hoặc kiếp vị thiên-nam, vị thiên-nữ tại cõi thiện-giới ấy.
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả có 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm[14] tiếp xúc với các đối-tượng tốt đáng hài lòng trong kiếp người trong cõi người hoặc kiếp vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong cõi trời dục-giới ấy.
Mười Ác-Nghiệp Với Mười Đại-Thiện-Nghiệp
Tìm hiểu sự thật hiển nhiên về 10 ác-nghiệp: 3 thân ác-nghiệp, 4 khẩu ác-nghiệp, 3 ý ác-nghiệp với 10 đại-thiện-nghiệp: 3 thân đại-thiện-nghiệp, 4 khẩu đại-thiện-nghiệp, 3 ý đại-thiện-nghiệp như sau.
* Ví dụ: người nào tạo ác-nghiệp sát-sinh, người ấy cần phải hội đủ 5 chi-pháp.
1- Chúng-sinh còn sinh-mạng.
2- Biết rõ chúng-sinh còn sinh-mạng.
3- Có ác-tâm nghĩ sẽ giết hại chúng-sinh ấy.
4- Cố gắng mọi cách giết hại chúng-sinh ấy.
5- Chúng-sinh ấy chết do sự cố gắng ấy.
Nếu người nào hội đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh, thì có thể gọi người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh.
Ví dụ: người nào tạo đại-thiện-nghiệp không sát-sinh, người ấy có chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, nghĩa là không sát hại chúng-sinh dù nhỏ dù lớn.
Thử hỏi: -Người ác tạo ác-nghiệp sát-sinh hợp đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh khó hay dễ? Còn người thiện có đại-thiện-tâm tạo đại-thiện-nghiệp không sát-sinh dễ hay khó?
- Người ác tạo ác-nghiệp trộm-cắp hợp đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp trộm-cắp khó hay dễ? Còn người thiện có đại-thiện-tâm tạo đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp dễ hay khó?
- Người ác tạo ác-nghiệp tà-dâm hợp đủ 4 chi-pháp của ác-nghiệp tà-dâm khó hay dễ? Còn người thiện có đại-thiện-tâm tạo đại-thiện-nghiệp không tà-dâm dễ hay khó?[15] v.v…
Bậc thiện-trí có những câu trả lời xác đáng là người ác tạo 10 ác-nghiệp đó là điều rất khó khăn, không dễ dàng chút nào, mà không phải bất cứ ai cũng có khả năng tạo ác-nghiệp ấy được.
Sở dĩ người ác cố gắng tạo ác-nghiệp nào được là vì người ác không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có ác-tâm đen tối do năng lực của phiền-não sai khiến, nên dù khó khăn như thế nào, người ác cũng cố gắng tạo cho bằng được ác-nghiệp ấy, dù phải hy sinh sinh-mạng của mình.
Còn đối với người thiện biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, có đại-thiện-tâm tránh xa 10 ác-nghiệp đó là tạo 10 đại-thiện-nghiệp rất dễ dàng, không khó khăn chút nào, nên tất cả mọi người thiện đều có khả năng tạo 10 đại-thiện-nghiệp được cả.
Đó là sự thật hiển nhiên về 10 ác-nghiệp với 10 đại-thiện-nghiệp.
2- Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm
Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng với mỗi bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 5 sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên (Asaññasattabhūmi), tuỳ theo năng lực của mỗi bậc thiền sắc-giới quả-tâm.
Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:
- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
Hành-giả nào là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định, có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.
Sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh Quãng-quả-thiên (Vehapphalabhūmi). Chư phạm-thiên trong tầng trời này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.
Còn lại 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả được nữa.
-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại
Đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm nào làm phận-sự tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) 1 sát-na-tâm trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) xong, liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, chính đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm ấy tiếp tục làm phận sự hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn hộ trì kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất, rồi cũng chính đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm ấy làm phận sự cuối cùng tử-tâm (cuticitta) chuyển-kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị sắc-giới phạm-thiên ấy.
* Trường-hợp đặc biệt, trước khi hành-giả nào chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có tâm nhàm chán 4 danh-uẩn là (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn), mà chỉ muốn có sắc-uẩn mà thôi.
Cho nên, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) có nhóm sắc-pháp gọi là jīvitanavakakalāpa: nhóm sắc-pháp có sắc-mạng-chủ thứ 9 làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên gọi là Vô-tưởng-thiên (Asaññasattabhūmi). Chư phạm-thiên trong tầng trời này có thân mà không có tâm, có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.
3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm
Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng với mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 vô-sắc-giới quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tuỳ theo năng lực của mỗi bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm.
Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:
- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
Hành-giả nào là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định, có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.
Sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn chỉ có vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ tứ thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm bậc cao gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên (Nevasaññānāsaññāyatana-bhūmi). Chư phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên này có tâm mà không có thân, có tuổi thọ lâu nhất 84.000 đại-kiếp trái đất.
Còn lại 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả được nữa.
-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại
Đệ tứ thiền vô-sắc-giới quả-tâm bậc cao gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm bậc cao làm phận-sự tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) 1 sát-na-tâm trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) xong, liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, chính phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm ấy tiếp tục làm phận sự hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn hộ trì kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến hết tuổi thọ
84.000 đại-kiếp trái đất, rồi cũng chính phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm ấy làm phận sự cuối cùng tử-tâm (cuticitta) chuyển-kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.
4- Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm
Siêu-tam-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm liền cho quả tương xứng với mỗi Thánh-đạo-tâm là 4 Thánh-quả-tâm trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm (Maggavīthicitta), không có thời gian chờ đợi (akālika), trở thành 4 bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Cho nên, siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm không cho quả tái-sinh kiếp sau, nhưng trái lại, siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm có khả năng làm giảm dần kiếp tái-sinh tuỳ theo năng lực của mỗi bậc Thánh-nhân.
Bốn Thánh-Đạo-Tâm -Bốn Thánh-Quả-Tâm
1-Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm -Nhập-lưu Thánh-quả-tâm.
2-Nhất-lai Thánh-đạo-tâm -Nhất-lai Thánh-quả-tâm.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tâm -Bất-lai Thánh-quả-tâm.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tâm -A-ra-hán Thánh-quả-tâm.
Bốn Bậc Thánh-Nhân
1-Bậc Thánh Nhập-lưu.
2-Bậc Thánh Nhất-lai.
3-Bậc Thánh Bất-lai.
4-Bậc Thánh A-ra-hán.
Chứng Đắc 4 Thánh-Đạo, 4 Thánh-Quả
1- Hành-giả nào là thiện-trí phàm-nhân thuộc về hạng người tam-nhân cũng là vị Bồ-tát thanh-văn-giác, đã từng tạo đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật trải qua vô số kiếp trong quá-khứ.
Kiếp hiện-tại, hành-giả ấy vốn có đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật và có 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, có duyên lành gần gũi thân cận chư bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
2- Hành-giả là bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
3- Hành-giả là bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
4- Hành-giả là bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika) không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
Bốn Bậc Thánh-Nhân Trong Phật-Giáo
Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Nếu các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, cố gắng học hỏi nghiên cứu hiểu biết về mọi ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp, mọi thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp thì các hàng thanh-văn đệ-tử ấy biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, nên không dám tạo ác-nghiệp, mà cố gắng tạo mọi thiện-nghiệp tuỳ theo khả năng của mình, nhất là cố gắng tinh-tấn tạo, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ, làm nhân-duyên hỗ trợ cho pháp-hành thiền-tuệ, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài. Đó là ý nguyện cứu cánh cao cả của mỗi người thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
(Xong pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng)
[1] Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Mahānipāta, tích Nimijātakavaṇṇanā.
[2] Một ngày và một đêm trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên bằng 100 năm trong cõi người.
[3] Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Ekakanipāta, tích Kukkurajātaka.
[4] Jātakaṭṭhakathā, phần Mahānipāta, tích Temiyajātaka, còn có tên khác là Mūgapakkhajātaka.
[5] ātakaṭṭhakathā, Nidānakathā, Khu. Cariyāpitaka, …
[6] Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IV, Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn giả.
[7] Tìm hiểu bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển V, Phước-Thiện, cùng soạn giả.
[8] Si-tâm hợp với phóng-tâm có năng lực yếu không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), nhưng có khả năng cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
[9] Tìm hiểu rõ trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống”, cùng soạn giả.
[10] Tìm hiểu rõ trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” cùng soạn giả.
[11] Người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm có đủ 3 thiện-nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si.
[12] Người nhị-nhân là người tái-sinh-tâm chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si.
[13] Người vô-nhân là người có tái-sinh-tâm không có thiện-nhân nào.
[14] Tìm hiểu rõ trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống”, cùng soạn giả.
[15] Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IV, Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn giả.
Mục lục quyển 8 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10