TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 01
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập I
ẤN BẢN
2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của Dạ-xoa Naḷeru,[1] cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Vị Bà-la-môn Verañja đă nghe được rằng: “Chắn chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai ḍng Sakya, từ ḍng dơi Sakya đă xuất gia, và hiện ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của Dạ-xoa Naḷeru, cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Tiếng tăm tốt đẹp về Ngài Gotama ấy đă được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Với thắng trí của ḿnh, vị ấy chứng ngộ và công bố về thế gian này tính luôn cơi chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ư nghĩa, thành tựu về văn tự. Vị ấy giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”
2. Sau đó, Bà-la-môn Verañja đă đi đến gặp đức Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy đă tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện đă ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Verañja đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Thưa Ngài Gotama, tôi đă được nghe điều này: ‘Sa-môn Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị Bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đă đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời.’ Thưa Ngài Gotama, điều ấy thật đúng như thế! Bởi v́ Ngài Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị Bà-la-môn già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đă đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời. Thưa Ngài Gotama, điều ấy thật không thích đáng!”
3. - “Này Bà-la-môn, trong thế gian tính luôn cơi chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người, Ta không thấy một ai mà Ta có thể cung kính, hoặc có thể đứng dậy, hoặc có thể mời chỗ ngồi. Này Bà-la-môn, bởi v́ nếu Như Lai cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi người nào th́ đầu của người ấy sẽ bị vỡ tan.”
4. - “Ngài Gotama không biết về phẩm chất!” - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất.’ Này Bà-la-môn, các phẩm chất về sắc, các phẩm chất về thinh, các phẩm chất về hương, các phẩm chất về vị, các phẩm chất về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đă được dứt bỏ, các rễ đă được cắt ĺa, như cây thốt nốt đă bị bứng gốc, đă bị làm cho không c̣n sự sống, không c̣n các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết về phẩm chất;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.”[2]
5. - “Ngài Gotama không biết thưởng thức!” - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết thưởng thức.’ Này Bà-la-môn, các sự thưởng thức về sắc, các sự thưởng thức về thinh, các sự thưởng thức về hương, các sự thưởng thức về vị, các sự thưởng thức về xúc, đối với Như Lai các việc ấy đă được dứt bỏ, các rễ đă được cắt ĺa, như cây thốt nốt đă bị bứng gốc, đă bị làm cho không c̣n sự sống, không c̣n các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết thưởng thức;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.”
6. - “Ngài Gotama thuyết về không hành động!” - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về không hành động.’ Này Bà-la-môn, bởi v́ Ta thuyết về không hành động đối với việc làm ác do thân, đối với lời nói ác do miệng, đối với suy nghĩ ác do ư; Ta thuyết về không hành động của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về không hành động;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.”
7. - “Ngài Gotama thuyết về đoạn diệt!”[3] - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt.’ Này Bà-la-môn, bởi v́ Ta thuyết về sự đoạn diệt của luyến ái, của sân hận, của si mê; Ta thuyết về sự đoạn diệt của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.”
8. - “Ngài Gotama có sự ghê tởm!” - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama có sự ghê tởm.’ Này Bà-la-môn, bởi v́ Ta ghê tởm với việc làm ác do thân, với lời nói ác do miệng, với suy nghĩ ác do ư; Ta ghê tởm đối với sự thành tựu của các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama có sự ghê tởm;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.”
9. - “Ngài Gotama là người cách ly!” - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người cách ly.’ Này Bà-la-môn, bởi v́ Ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với luyến ái, đối với sân, đối với si; Ta thuyết về pháp đưa đến sự cách ly đối với các pháp ác và bất thiện có nhiều dạng. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người cách ly;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.”
10. - “Ngài Gotama là người thiêu đốt!” - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thiêu đốt.’ Này Bà-la-môn, Ta thuyết rằng các pháp ác và bất thiện tức là việc làm ác do thân, lời nói ác do miệng, và suy nghĩ ác do ư cần được thiêu đốt. Này Bà-la-môn, người nào có các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt đă được diệt tận, các rễ đă được cắt ĺa, như cây thốt nốt đă bị bứng gốc, đă bị làm cho không c̣n sự sống, không c̣n các điều kiện sanh khởi trong tương lai; Ta gọi người ấy là: ‘Người thiêu đốt.’ Này Bà-la-môn, các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt của Như Lai đă được dứt bỏ, các rễ đă được cắt ĺa, như cây thốt nốt đă bị bứng gốc, đă bị làm cho không c̣n sự sống, không c̣n các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thiêu đốt;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.”
11. - “Ngài Gotama là người thoát khỏi bào thai!” - “Này Bà-la-môn, thật sự có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai.’ Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của người nào, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đă được dứt bỏ, các rễ đă được cắt ĺa, như cây thốt nốt đă bị bứng gốc, đă bị làm cho không c̣n sự sống, không c̣n các điều kiện sanh khởi trong tương lai; Ta gọi người ấy là: ‘Người thoát khỏi bào thai.’ Này Bà-la-môn, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của Như Lai, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đă được dứt bỏ, các rễ đă được cắt ĺa, như cây thốt nốt đă bị bứng gốc, đă bị làm cho không c̣n sự sống, không c̣n các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta th́ có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thoát khỏi bào thai;’ và chắc chắn rằng ông không liên tưởng đến ư nghĩa ấy khi nói ra.
12. Này Bà-la-môn, cũng giống như con gà mái có được tám, hoặc mười, hoặc mười hai quả trứng. Nếu con gà mái nằm lên trên chúng đúng cách, ủ nóng đều đúng cách, ấp đúng cách, và trong số các con gà con mới nở ấy, con nào dùng vuốt của móng chân hoặc mỏ phá vỡ vỏ trứng và nở ra an toàn trước tiên, th́ điều nên nói về con gà con ấy là thế nào, lớn nhất hay nhỏ nhất?” - “Thưa Ngài Gotama, nên gọi nó là ‘con lớn nhất’ bởi v́ nó lớn nhất trong bầy.” - “Này Bà-la-môn, cũng tương tợ như thế trong số chúng sanh sống trong vô minh (ví như) đang ở trong quả trứng và bị trùm kín lại, Ta là người duy nhất đă phá vỡ vỏ trứng vô minh và chứng đắc quả vị Chánh Đẳng Giác vô thượng ở trên đời. Này Bà-la-môn, chính Ta đây là người đứng đầu và cao cả nhất của thế gian.
13. Này Bà-la-môn, hơn nữa Ta đă có sự tinh tấn bền vững không bị tŕ trệ, có niệm được thiết lập không bị xao lăng, có thân được khinh an không c̣n rạo rực, có tâm được định tĩnh tập trung. Này Bà-la-môn, quả vậy sau khi đă tách ly khỏi các dục và tách ly khỏi các pháp bất thiện, Ta đây đă chứng đạt và trú thiền thứ nhất với hỷ và lạc sanh lên do tách ly (khỏi các triền cái), có tầm, có tứ. Do sự yên lặng của tầm và tứ, Ta đă chứng đạt và trú thiền thứ hai với nội phần an tĩnh, tâm được chuyên nhất, có hỷ và lạc sanh lên do định, không tầm, không tứ. Và do sự không c̣n tham muốn ở hỷ, với xả Ta đă trú. Có niệm và tỉnh giác, Ta đă chứng nghiệm trạng thái lạc bằng thân, đó là điều mà các bậc Thánh nói rằng: ‘Vị ấy có xả, có niệm, có sự trú vào lạc;’ Ta đă chứng đạt và trú thiền thứ ba. Do sự từ bỏ lạc, do sự từ bỏ khổ (của thân), do sự biến mất của hỷ và ưu ở tâm (đă có) trước đây, Ta đă chứng đạt và trú thiền thứ tư với sự thanh tịnh của xả và niệm, không khổ không lạc.
14. Trong khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, ĺa khỏi phiền năo, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đạt đến trạng thái vững chắc như thế, Ta đây đă hướng dẫn tâm đến trí tuệ ghi nhớ về các kiếp sống trước. Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước như là một lần sanh, hai lần sanh, ba lần sanh, bốn lần sanh, năm lần sanh, mười lần sanh, hai mươi lần sanh, ba mươi lần sanh, bốn mươi lần sanh, năm mươi lần sanh, một trăm lần sanh, một ngàn lần sanh, một trăm ngàn lần sanh, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp: ‘Ở nơi ấy, Ta đă có tên như vầy, ḍng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có giới hạn tuổi thọ như vầy. Từ chỗ ấy, Ta đây đă chết đi rồi đă sanh lên tại chỗ kia. Ở nơi kia, Ta đă có tên như vầy, ḍng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có giới hạn tuổi thọ như vầy. Từ nơi kia, Ta đây đă chết đi rồi đă sanh lên tại nơi này.’ Như thế, Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước với các nét đại cương và cá biệt. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh đầu của đêm Ta đă chứng đạt Minh thứ nhất này, vô minh được diệt tận, minh được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi. Như thế ấy là điều (Ta đă thành đạt) trong lúc Ta sống không xao lăng, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đă là sự khai mở đầu tiên của Ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.
15. Trong khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, ĺa khỏi phiền năo, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đă đạt đến trạng thái vững chắc như thế, Ta đây đă hướng dẫn tâm đến trí về sự sanh tử của chúng sanh. Bằng Thiên nhăn thanh tịnh vượt trội loài người, Ta đây nh́n thấy các chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở thành) hạ tiện, cao quư, đẹp đẽ, xấu xí, sung sướng, (hay) đau khổ, Ta biết được rằng các chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng (như vầy):
‘Quả đúng như vậy, những chúng sanh đang hiện hữu này có hành động xấu xa bằng thân, có hành động xấu xa bằng lời nói, có suy nghĩ xấu xa bằng ư, vu khống các bậc Thánh, theo tà kiến, tán thành các hành động do tà kiến. Những kẻ ấy, khi tan ră thân xác và chết đi, bị sanh vào bất hạnh, cơi khổ, đọa xứ, địa ngục. Trái lại, những chúng sanh đang hiện hữu này có hành động tốt đẹp bằng thân, có hành động tốt đẹp bằng lời nói, có suy nghĩ tốt đẹp bằng ư, không vu khống các bậc Thánh, theo chánh kiến, tán thành các hành động do chánh kiến. Những người ấy, khi tan ră thân xác và chết đi, được sanh vào chốn an vui, cơi trời, loài người.’ Như thế, bằng Thiên nhăn thanh tịnh vượt trội loài người, Ta nh́n thấy các chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở thành) hạ tiện, cao quư, đẹp đẽ, xấu xí, sung sướng, (hay) đau khổ, Ta biết được rằng các chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng. Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh giữa của đêm Ta đă chứng đạt Minh thứ hai này, vô minh được diệt tận, minh được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi. Như thế ấy là điều (Ta đă thành đạt) trong lúc Ta sống không xao lăng, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đă là sự khai mở thứ hai của Ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.
16. Trong khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, ĺa khỏi phiền năo, nhu thuận, có thể sử dụng, ổn định, đă đạt đến trạng thái vững chắc như thế, Ta đây đă hướng dẫn tâm đến trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là nguyên nhân của Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là sự Diệt Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự Diệt Khổ’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là sự diệt tận các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Ta đây đă biết rơ: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc’ đúng theo bản thể thật. Trong khi Ta đây biết được như thế, thấy được như thế, th́ tâm cũng đă được giải thoát khỏi dục lậu, tâm cũng đă được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm cũng đă được giải thoát khỏi vô minh lậu. Khi đă được giải thoát, trí của Ta đây đă khởi lên rằng: ‘Đă được giải thoát.’ Và Ta đă biết rơ rằng: ‘Sự tái sanh đă cạn kiệt, Phạm hạnh đă sống, việc cần làm đă làm, không c̣n ǵ khác cho việc (giải thoát) này nữa.’ Này Bà-la-môn, quả vậy vào canh cuối của đêm Ta đă chứng đạt Minh thứ ba này, vô minh được diệt tận, minh được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi. Như thế ấy là điều (Ta đă thành đạt) trong lúc Ta sống không xao lăng, nỗ lực, quyết tâm. Này Bà-la-môn, chính điều này đă là sự khai mở thứ ba của Ta, tương tợ như con gà con thoát ra từ vỏ trứng vậy.”
17. Khi được nói như thế, Bà-la-môn Verañja đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Ngài Gotama là vị đứng đầu, Ngài Gotama là người cao cả nhất. Bạch Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp lại, mở ra vật đă bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nh́n thấy được các h́nh dáng;’ tương tợ như thế, Pháp đă được Ngài Gotama giảng rơ bằng nhiều phương tiện. Tôi đây đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama chấp nhận tôi là nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Xin Ngài Gotama hăy nhận lời tôi về việc cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với hội chúng tỳ khưu.”
18. Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn, Bà-la-môn Verañja đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
19. Vào lúc bấy giờ, xứ Verañjā có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh,[4] thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Vào lúc bấy giờ, có những người buôn ngựa từ xứ Uttarāpatha đă đến cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với năm trăm con ngựa. Ở các băi nhốt ngựa, họ có chuẩn bị từng phần lúa mạch[5] cho các vị tỳ khưu. Vào buổi sáng, các vị tỳ khưu mặc y cầm y bát rồi đi vào trong thành Verañjā để khất thực. Khi không nhận được đồ ăn khất thực, các vị đi đến khất thực ở các băi nhốt ngựa và mang về tu viện (mỗi vị) một phần lúa mạch. Các vị giă đi giă lại trong cối giă rồi thọ dụng. Đại đức Ānanda nghiền phần lúa mạch ở tảng đá rồi dâng lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thọ dụng thức ấy.
20. Quả vậy, đức Thế Tôn đă nghe tiếng cối giă. Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích. Khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu bởi hai lư do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, tiếng cối giă ấy là ǵ vậy?” Khi ấy, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Ānanda, tốt lắm! Tốt lắm! Này Ānanda, (điều ấy) đă được khắc phục bởi các ngươi là những người hoàn thiện. Về sau này, con người sẽ chê bai cơm gạo sāli và thịt.”
21. Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Mahāmoggallāna đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch Ngài, hiện nay Verañjā có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Bạch Ngài, bề mặt bên dưới của đại địa cầu này có chất như là mật ong, không cặn bă, và có hương vị y như thế. Bạch Ngài, thật tốt thay nếu con lật ngửa quả địa cầu ra (để rồi) các tỳ khưu sẽ thọ dụng chất bổ dưỡng (ấy).”[6]
- “Này Moggallāna, c̣n các chúng sanh sống ở quả địa cầu th́ ngươi sẽ giải quyết thế nào?”
- “Bạch Ngài, con sẽ biến hoá một bàn tay trở thành giống như đại địa cầu và sẽ di chuyển chúng sanh sống ở quả địa cầu đến đó, rồi con sẽ lật ngửa quả địa cầu ra bằng cánh tay kia.”
- “Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú để lật ngửa quả địa cầu ra nữa khiến chúng sanh sẽ phải gánh chịu sự xáo trộn.”
- “Bạch Ngài, thật tốt thay nếu tất cả hội chúng tỳ khưu có thể đi đến Uttarakuru để khất thực.”
- “Này Moggallāna, thôi đi. Ngươi chớ thích thú đến việc đi đến Uttarakuru để khất thực của toàn bộ hội chúng tỳ khưu nữa.”
22. Khi ấy, đại đức Sāriputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ư nghĩ suy tầm như vầy đă khởi lên: “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đă không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đă tồn tại lâu dài?”
23. Sau đó vào lúc chiều tối, đại đức Sāriputta khi xuất khỏi thiền tịnh đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch Ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ư nghĩ suy tầm như vầy đă khởi lên: ‘Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đă không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đă tồn tại lâu dài?’
24. Bạch Ngài, vậy th́ Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đă không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đă tồn tại lâu dài?”
- “Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đă không tồn tại lâu dài. Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đă tồn tại lâu dài.”
25. - “Bạch Ngài, vậy do nhân ǵ, do duyên ǵ khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đă không tồn tại lâu dài?”
26. - “Này Sāriputta, đức Thế Tôn Vipassī, đức Thế Tôn Sikhī, và đức Thế Tôn Vessabhū đă không ra sức để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đă có ít suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.[7] Điều học cho các đệ tử đă không được quy định và giới bổn Pātimokkha đă không được công bố.
27. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đă được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có ḍng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đă xuất gia, các vị ấy đă khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) làm phân tán, làm tung toé, và hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, này Sāriputta tương tợ y như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đă được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có ḍng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đă xuất gia, các vị ấy đă khiến cho Phạm hạnh ấy biến mất thật nhanh chóng.
28. Và chư Phật Thế Tôn ấy (chỉ) ra sức dùng tâm biết được tâm để giáo huấn các đệ tử. Này Sāriputta, trong thời quá khứ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū, ở trong khu rừng ghê rợn nọ, dùng tâm biết được tâm rồi giáo huấn và chỉ dạy hội chúng tỳ khưu một ngàn vị rằng: ‘Hăy suy tầm như vầy.[8] Chớ suy tầm như thế.[9] Hăy tác ư như vầy.[10] Chớ tác ư như thế.[11] Hăy từ bỏ điều này.[12] Hăy thành tựu rồi an trú điều này.’[13] Này Sāriputta, khi ấy trong lúc được đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Vessabhū giáo huấn như thế chỉ dạy như thế, các tâm của một ngàn vị tỳ khưu ấy đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này Sāriputta, vào trường hợp ấy trong khi đă bị kinh sợ đối với khu rừng ghê rợn, người nào chưa dứt bỏ ái dục đi vào khu rừng ấy th́ hầu hết các sợi lông sẽ dựng đứng lên.
29. Này Sāriputta, đây là nhân đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đă không tồn tại lâu dài.”
30. - “Bạch Ngài, vậy do nhân ǵ, do duyên ǵ khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đă tồn tại lâu dài?”
31. - “Này Sāriputta, đức Thế Tôn Kakusandha, đức Thế Tôn Konāgamana, và đức Thế Tôn Kassapa đă ra sức để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử và các vị ấy đă có nhiều suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhūtadhammaṃ, vedallaṃ. Điều học cho các Thinh Văn đă được quy định và giới bổn Pātimokkha đă được công bố.
32. Với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đă được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có ḍng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đă xuất gia, các vị ấy đă duy tŕ Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu. Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa khác nhau được đặt xuống ở trên tấm ván sàn và được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, cơn gió (sẽ) không làm tản mác, không làm tung toé, và không hủy hoại chúng. Điều ấy có nguyên nhân thế nào? Này Sāriputta, giống như việc (các bông hoa) được kết lại với nhau bằng sợi chỉ; này Sāriputta tương tợ như thế với sự tịch diệt của chư Phật Thế Tôn ấy, với sự tịch diệt của các Thinh Văn đă được giác ngộ theo chư Phật (ấy), các vị đệ tử về sau này có tên khác nhau, có ḍng họ khác nhau, có giai cấp khác nhau, từ gia tộc khác nhau đă xuất gia, các vị ấy đă duy tŕ Phạm hạnh ấy lâu dài và trường cửu.
33. Này Sāriputta, đây là nhân, đây là duyên khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đă tồn tại lâu dài.”
34. Sau đó, đại đức Sāriputta đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch đức Thế Tôn, nay là thời điểm của việc ấy. Bạch đấng Thiện Thệ, nay là thời điểm của việc ấy, (tức là thời điểm) đức Thế Tôn nên quy định điều học cho các đệ tử, nên công bố giới bổn Pātimokkha; như thế Phạm hạnh này có thể được tiếp tục và tồn tại lâu dài.”
35. - “Này Sāriputta, ngươi hăy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hăy chờ đợi! Trong trường hợp ấy, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng th́ cho đến khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học cho các đệ tử và chưa công bố giới bổn Pātimokkha. Này Sāriputta, chính bởi v́ ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
36. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về số lượng th́ cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi v́ hội chúng đạt đến sự đông đảo về số lượng nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
37. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển th́ cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi v́ hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
38. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự dồi dào về lợi lộc th́ cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi v́ hội chúng đạt đến sự dồi dào về lợi lộc nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
39. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều th́ cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng. Này Sāriputta, chính bởi v́ hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, nên bậc Đạo Sư quy định điều học cho các đệ tử và công bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
40. Này Sāriputta, bởi v́ hội chúng tỳ khưu không có ô nhiễm, không có tội lỗi, có ác pháp đă ĺa, được trong sạch, đă an trú vào mục đích.[14] Này Sāriputta, bởi v́ trong số năm trăm tỳ khưu này, vị tỳ khưu thấp nhất (đă) là vị Nhập Lưu, không c̣n pháp bị đọa, được bền vững, và hướng đến sự giác ngộ.”
41. Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, điều này quả nhiên đă trở thành thông lệ của các đấng Như Lai là khi các vị cư trú mùa mưa do những ai đă thỉnh mời th́ các vị không ra đi du hành trong xứ sở khi chưa thông báo cho những người ấy. Này Ānanda, chúng ta sẽ thông báo cho Bà-la-môn Verañja này.” - “Bạch Ngài, xin vâng.” Đại đức Ānanda đă đáp lời đức Thế Tôn.
42. Sau đó, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát cùng với đại đức Ānanda là Sa-môn thị giả đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn.
43. Khi ấy, Bà-la-môn Verañja đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đă nói với Bà-la-môn Verañja đang ngồi một bên điều này: - “Này Bà-la-môn, được ông thỉnh mời chúng tôi đă trú qua mùa mưa. Giờ chúng tôi thông báo ông rằng chúng tôi muốn ra đi du hành trong xứ sở.”
44. - “Bạch Ngài Gotama, sự thật là các vị đă được tôi thỉnh mời và đă trú qua mùa mưa. Tuy nhiên, việc cúng dường là chưa được dâng cúng. Và điều ấy quả không phải là không có vật bố thí, cũng không phải là không có ḷng bố thí. Trong trường hợp này làm sao có thể đạt được điều ấy? Bởi v́ cuộc sống tại gia có nhiều phận sự và có nhiều việc cần phải làm. Xin Ngài Gotama nhận lời buổi trai phạn của tôi vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.” Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng.
45. Sau đó, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
46. Sau đó, khi trải qua đêm ấy Bà-la-môn Verañja đă cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm tại tư gia của ḿnh rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: - “Bạch Ngài Gotama, đă đến giờ. Thức ăn đă chuẩn bị xong.”
47. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y cầm y bát đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, Bà-la-môn Verañja đă tự tay làm hài ḷng và toại ư hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đă thọ thực xong bàn tay đă rời b́nh bát, Bà-la-môn Verañja đă choàng lên đức Thế Tôn với ba y và đă choàng lên mỗi một vị tỳ khưu với một xấp vải đôi. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Bà-la-môn Verañja bằng bài Pháp thoại, rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
48. Sau đó, khi đă ngụ tại Verañjā theo như ư thích, đức Thế Tôn đă đi dọc theo Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, và đến được bến đ̣ Payāga.[15] Sau khi đến nơi, Ngài đă vượt qua sông Gaṅgā tại bến đ̣ Payāga và đă ngự đến thành Bārāṇasī. Sau đó, khi đă ngụ tại thành Bārāṇasī theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành đến thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành, Ngài đă ngự đến thành Vesālī. Tại nơi ấy, trong thành Vesālī, đức Thế Tôn ngụ tại Mahāvana, nơi giảng đường Kūṭāgāra.
Dứt tụng phẩm Verañjā.
--ooOoo--
(Ở đây, bốn điều Pārājika này được đưa ra đọc tụng)
1. Vào lúc bấy giờ, ở không xa thành Vesālī có ngôi làng tên là Kalanda. Ở nơi ấy, có người con trai nhà đại phú tên là Sudinna Kalandaputta. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đă đi đến Vesālī cùng với nhiều người bạn v́ công việc cần làm nào đó. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, được vây quanh bởi hội chúng đông đảo, đang ngồi thuyết giảng Giáo Pháp.
2. Sudinna Kalandaputta đă nh́n thấy đức Thế Tôn được vây quanh bởi hội chúng đông đảo đang ngồi thuyết giảng Giáo Pháp. Sau khi nh́n thấy, anh ta đă khởi ư điều này:[16] “Hay là ta cũng nên nghe Pháp?” Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đă đi đến gần hội chúng ấy, sau khi đến đă ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đă khởi ư điều này: “Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ việc này không phải là dễ làm đối với người đang sống ở gia đ́nh để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Hay là ta nên cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà?”
3. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, hội chúng ấy đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.
4. Sau đó, khi hội chúng đă đứng dậy không bao lâu, Sudinna Kalandaputta đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch Ngài, theo như con hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ việc này không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đ́nh để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Bạch Ngài, con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Xin đức Thế Tôn hăy (làm lễ) xuất gia cho con.”
- “Này Sudinna, vậy ngươi đă được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà chưa?”
- “Bạch Ngài, con chưa được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.”
- “Này Sudinna, các đức Như Lai không (làm lễ) xuất gia cho người con trai chưa được mẹ và cha cho phép.”
- “Bạch Ngài, bằng cách nào khiến mẹ và cha sẽ cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà th́ con đây sẽ làm theo cách ấy.”
5. Sau đó, khi đă hoàn tất công việc cần làm ấy ở Vesālī, Sudinna Kalandaputta đă đi về lại làng Kalanda đến gặp mẹ và cha, sau khi đến đă nói với mẹ và cha điều này: - “Mẹ và cha à, theo như con hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ việc này không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đ́nh để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Hăy cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi được nói như thế, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đă nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quư mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều ǵ về khổ đau. Chỉ có sự chết th́ mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang c̣n sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?”
6. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đă nói với mẹ và cha điều này: - “Mẹ và cha à, theo như con hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ việc này không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đ́nh để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Hăy cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đă nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quư mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều ǵ về khổ đau. Chỉ có sự chết th́ mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang c̣n sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?”
7. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta (nghĩ rằng): “Mẹ và cha không cho phép ta về việc rời nhà xuất gia sống không nhà!” rồi đă nằm xuống ngay tại chỗ ấy, ở trên nền đất không có trải lót (nói rằng): - “Đối với tôi, hoặc là sẽ xảy ra cái chết ngay tại nơi đây, hoặc là sự xuất gia.” Sau đó, Sudinna Kalandaputta đă không ăn một bữa, đă không ăn hai bữa, đă không ăn ba bữa, đă không ăn bốn bữa, đă không ăn năm bữa, đă không ăn sáu bữa, đă không ăn bảy bữa.
8. Khi ấy, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đă nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quư mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều ǵ về khổ đau. Chỉ có sự chết th́ mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang c̣n sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna thương, con hăy đứng dậy, hăy ăn, hăy uống, và hăy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi được nói như vậy, Sudinna Kalandaputta đă im lặng. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đă nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quư mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều ǵ về khổ đau. Chỉ có sự chết th́ mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang c̣n sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna thương, con hăy đứng dậy, hăy ăn, hăy uống, và hăy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đă im lặng.
9. Sau đó, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đă đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đă nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna mến, bạn chính là con trai một, yêu dấu, quư mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna mến, bạn không biết bất cứ điều ǵ về khổ đau. Chỉ có sự chết th́ mẹ và cha đành phải xa bạn một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc bạn đang c̣n sống mẹ và cha lại cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna mến, bạn hăy đứng dậy, hăy ăn, hăy uống, và hăy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, bạn có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi được nói như vậy, Sudinna Kalandaputta đă im lặng. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đă nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna thương, bạn chính là ―(như trên)― Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đă im lặng.
10. Khi ấy, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đă đi đến gặp mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đă nói với mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta điều này: - “Mẹ và cha à, Sudinna này nằm trên nền đất không có trải lót (nói rằng): ‘Đối với tôi, hoặc là sẽ xảy ra cái chết ngay tại đây, hoặc là sự xuất gia.’ Nếu mẹ và cha không cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà, anh ta sẽ đi đến cái chết ngay tại chỗ ấy. Vả lại, nếu mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà, mẹ và cha sẽ c̣n nh́n thấy anh ta cho dù đă xuất gia. Nếu Sudinna không thỏa thích trong việc rời nhà xuất gia sống không nhà, th́ c̣n chốn nào khác cho anh ta đây? Anh ta sẽ quay trở về ngay tại chỗ này. Mẹ và cha hăy cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà đi.” - “Các con thương, mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau đó, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đă đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đă nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna mến, hăy đứng dậy đi. Bạn đă được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.”
11. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta (nghĩ rằng): “Nghe nói ta đă được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà” nên mừng rỡ phấn chấn, vừa đứng dậy vừa dùng bàn tay phủi khắp ḿnh mẩy. Sau đó nhiều ngày, Sudinna Kalandaputta đă phục hồi lại sức khoẻ và đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch Ngài, con đă được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà. Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn hăy (làm lễ) xuất gia cho con.” Rồi Sudinna Kalandaputta đă đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đă đạt được sự tu lên bậc trên. Khi đă được tu lên bậc trên không bao lâu, đại đức Sudinna đă thọ tŕ và thực hành các đức hạnh từ khước có h́nh thức như vầy: là vị ngụ ở rừng, là vị chuyên khất thực, là vị mặc y may bằng vải bị quăng bỏ,[17] là vị đi khất thực theo tuần tự từng nhà. Đại đức sống nương tựa vào ngôi làng nọ thuộc xứ Vajjī.
12. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Khi ấy, đại đức Sudinna đă khởi ư điều này: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Vả lại, nhiều quyến thuộc của ta ở trong thành Vesālī th́ giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo, hay là ta nên sống nương tựa vào quyến thuộc vậy? Do có liên quan đến ta, quyến thuộc sẽ ban phát các vật thí. Họ sẽ làm các điều phước thiện và các tỳ khưu sẽ nhận được lợi lộc, c̣n ta sẽ không bị khó nhọc về đồ ăn khất thực.”
13. Sau đó, đại đức Sudinna đă thu xếp chỗ nằm ngồi, cầm y bát, và ra đi về phía thành Vesālī. Theo tuần tự, đại đức đă đến được thành Vesālī. Tại nơi ấy trong thành Vesālī, đại đức Sudinna trú ở Mahāvana. Quyến thuộc của đại đức Sudinna đă nghe được rằng: “Nghe nói Sudinna con trai của Kalanda đă đến thành Vesālī.” Họ đă đem lại biếu cho đại đức Sudinna bữa ăn gồm sáu mươi nồi cơm. Khi ấy, đại đức Sudinna đă phân chia sáu mươi nồi cơm ấy cho các tỳ khưu, rồi vào buổi sáng đă mặc y, cầm y bát, đi vào làng Kalanda để khất thực. Trong khi đi tuần tự từng nhà để khất thực, đại đức đă đi đến nhà của cha ḿnh.
14. Vào lúc bấy giờ, người nữ tỳ của quyến thuộc của đại đức Sudinna có ư định đổ đi món cháo chua đă để cách đêm. Khi ấy, đại đức Sudinna đă nói với người nữ tỳ của quyến thuộc ấy điều này: - “Này chị gái, nếu vật ấy cần phải đổ bỏ th́ hăy trút vào đây trong b́nh bát của tôi.” Khi ấy, trong lúc đang trút món cháo chua đă để cách đêm ấy vào b́nh bát của đại đức Sudinna, người nữ tỳ của quyến thuộc của đại đức Sudinna đă nhận ra đặc điểm của các cánh tay, của các bàn chân, và của giọng nói (của đại đức Sudinna).[18] Sau đó, người nữ tỳ của quyến thuộc của đại đức Sudinna đă đi đến gặp mẹ của đại đức Sudinna, sau khi đến đă nói với mẹ của đại đức Sudinna điều này: - “Bẩm bà, bà nên biết là công tử Sudinna đă trở về.” - “Này nô tỳ, nếu ngươi nói đúng, ta sẽ ban cho ngươi khỏi phận tôi tớ.”
15. Vào lúc bấy giờ, đại đức Sudinna (ngồi) tựa vào chân của vách tường nọ rồi thọ thực món cháo chua đă để cách đêm ấy. Và người cha của đại đức Sudinna trong lúc đi công chuyện đă nh́n thấy đại đức Sudinna (ngồi) tựa vào chân của vách tường nọ đang thọ thực món cháo chua đă để cách đêm ấy, sau khi nh́n thấy đă đi đến gần đại đức Sudinna, sau khi đến đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, lẽ nào con lại ăn món cháo chua đă để cách đêm? Này Sudinna thương, hay là con nên đi về nhà ḿnh đi?” - “Này gia chủ, tôi đă đi đến nhà của ông rồi. Từ nơi đó mà có được món cháo chua đă để cách đêm này.” Khi ấy, người cha của đại đức Sudinna đă nắm lấy cánh tay của đại đức Sudinna và nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, hăy đi. Chúng ta sẽ đi về nhà.” Sau đó, đại đức Sudinna đă đi đến nhà của cha ḿnh, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người cha của đại đức Sudinna đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, con hăy ăn đi.” - “Này gia chủ, thôi đi. Việc thọ thực ngày hôm nay của tôi đă hoàn tất.” - “Này Sudinna thương, vậy con hăy nhận lời bữa ăn vào ngày mai.” Đại đức Sudinna đă nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, đại đức Sudinna đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
16. Sau đó, khi tàn đêm ấy mẹ của đại đức Sudinna đă cho phủ lên mặt đất bằng phân ḅ tươi rồi bảo người chất hai đống gồm một vàng, một bạc. Các đống ấy đă lớn đến mức khiến người đứng ở phía bên này không nh́n thấy người đứng ở phía bên kia, và người đứng ở phía bên kia không nh́n thấy người đứng ở phía bên này. Sau khi đă cho che lại các đống ấy bằng những tấm thảm, cho sắp đặt chỗ ngồi ở giữa, và cho che màn xung quanh, mẹ của đại đức Sudinna đă bảo người vợ cũ của đại đức Sudinna rằng: - “Này con dâu, như thế th́ khi trang điểm với đồ trang sức nào mà con đă được con trai Sudinna yêu thương quư mến th́ con hăy trang điểm với đồ trang sức ấy.” - “Thưa mẹ, xin vâng,” người vợ cũ của đại đức Sudinna đă trả lời mẹ của đại đức Sudinna.
17. Sau đó vào buổi sáng, đại đức Sudinna đă mặc y, cầm y bát, rồi đi đến nhà của cha ḿnh, sau khi đến đă ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, cha của đại đức Sudinna đă đi đến gặp đại đức Sudinna, sau khi đến đă cho mở hai đống ấy ra rồi đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, phần này là vật hồi môn thuộc người nữ là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hăy quay về đi con. Hăy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hăy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.” - “Cha à, tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.” Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, cha của đại đức Sudinna đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, phần này là vật hồi môn thuộc người nữ là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hăy quay về đi con. Hăy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hăy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.” - “Này gia chủ, nếu gia chủ không quá căng thẳng th́ chúng ta nên bàn về điều ấy.” - “Này Sudinna thương, hăy nói đi.” - “Này gia chủ, nếu vậy th́ hăy bảo làm những bao tải thật lớn, cho đổ đầy vàng bạc vào, cho đưa lên các xe kéo hàng, rồi nhận ch́m ở giữa sông Gaṅgā. Điều ấy có lư do là ǵ? Này gia chủ, bởi v́ từ đó sẽ là nguyên nhân khiến ông có sự sợ hăi, hoặc có sự kinh hoàng, hoặc có lông dựng đứng, hoặc là sự ǵn giữ; điều ấy sẽ không có cho ông nữa.” Khi được nói như thế, người cha của đại đức Sudinna đă tỏ ra không hài ḷng: - “Tại sao con trai Sudinna lại nói như thế?”
Sau đó, cha của đại đức Sudinna đă bảo người vợ cũ của đại đức Sudinna rằng: - “Này con dâu, nếu vậy th́ con cũng hăy nài nỉ. Có lẽ con trai Sudinna sẽ làm theo lời con.” Khi ấy, người vợ cũ của đại đức Sudinna đă ôm lấy hai bàn chân của đại đức Sudinna và đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Công tử ơi, các nàng tiên nữ ấy như thế nào khiến chàng thực hành Phạm hạnh v́ các nàng ấy vậy?” - “Này chị gái, tôi thực hành Phạm hạnh không phải v́ các nàng tiên nữ.”
19. Khi ấy, người vợ cũ của đại đức Sudinna (nghĩ rằng): “Từ nay, công tử Sudinna xưng hô với ta bằng tiếng chị gái,” nên đă ngất đi rồi ngă xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, đại đức Sudinna đă nói với cha điều này: - “Này gia chủ, nếu vật thực sẽ được bố thí th́ hăy bố thí đi. Ông chớ có quấy rầy chúng ta nữa.” - “Này Sudinna thương, hăy ăn đi.” Khi ấy, mẹ và cha của đại đức Sudinna đă tự tay làm hài ḷng và toại ư đại đức Sudinna với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Sau đó, khi đại đức Sudinna đă thọ thực xong bàn tay đă rời b́nh bát, mẹ của đại đức Sudinna đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, gia đ́nh này th́ giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hăy quay về đi con. Hăy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hăy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.” - “Mẹ à, tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.” Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, mẹ của đại đức Sudinna đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, gia đ́nh này th́ giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, chính v́ điều ấy con hăy để lại chủng tử. Chớ để các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.” - “Mẹ à, điều này tôi có thể làm được.” - “Này Sudinna thương, hiện nay con ngụ ở đâu vậy?” - “Mẹ à, ở Mahāvana.” Sau đó, đại đức Sudinna đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
20. Sau đó, mẹ của đại đức Sudinna đă bảo người vợ cũ của đại đức Sudinna rằng: - “Này con dâu, nếu vậy th́ khi nào đến thời kỳ, kinh nguyệt của con xuất hiện, khi ấy con hăy cho mẹ hay.” - “Thưa mẹ, xin vâng,” người vợ cũ của đại đức Sudinna đă trả lời mẹ của đại đức Sudinna. Sau đó chẳng bao lâu, người vợ cũ của đại đức Sudinna đă đến thời kỳ, nàng đă có kinh nguyệt. Khi ấy, người vợ cũ của đại đức Sudinna đă nói với mẹ của đại đức Sudinna điều này: - “Thưa mẹ, con đă đến thời kỳ, kinh nguyệt của con đă xuất hiện.” - “Này con dâu, như thế th́ khi trang điểm với đồ trang sức nào mà con đă được con trai Sudinna yêu thương quư mến th́ con hăy trang điểm với đồ trang sức ấy.” - “Thưa mẹ, xin vâng,” người vợ cũ của đại đức Sudinna đă trả lời mẹ của đại đức Sudinna. Sau đó, mẹ của đại đức Sudinna đă đưa người vợ cũ của đại đức Sudinna đi đến Mahāvana gặp đại đức Sudinna, sau khi đến đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, gia đ́nh này th́ giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hăy quay về đi con. Hăy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hăy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.” - “Mẹ à, tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.”
Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, mẹ của đại đức Sudinna đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, gia đ́nh này th́ giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, chính v́ điều ấy con hăy để lại chủng tử. Chớ để các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.”
21. - “Mẹ à, điều này tôi có thể làm được,” rồi vị ấy đă nắm lấy cánh tay của người vợ cũ đi vào Mahāvana. Trong khi điều học chưa được quy định, vị ấy không nhận thức được điều nguy hại nên đă tiến hành việc đôi lứa với người vợ cũ ba lần. Do việc ấy, nàng ta đă mang thai.
Chư Thiên ở địa cầu đă đồn đăi lời rằng: - “Ngài ơi, hội chúng tỳ khưu quả thật không có sự ô uế, không bị điều tai họa, nay Udinna Kalandaputta đă gây nên sự ô uế, đă gây nên điều tai họa!” Sau khi nghe được tiếng đồn của chư Thiên ở địa cầu, chư Thiên ở cơi Tứ Đại Thiên Vương đă đồn đăi lời rằng: ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Đạo Lợi ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Dạ Ma ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Đẩu Suất ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Hóa Lạc Thiên ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Tha Hóa Tự Tại ―(như trên)― chư Thiên thuộc hàng Phạm Thiên đă đồn đăi lời rằng: - “Ngài ơi, hội chúng tỳ khưu quả thật không có sự ô uế, không bị điều tai họa, nay Udinna Kalandaputta đă gây nên sự ô uế, đă gây nên điều tai họa!” Vào thời khắc ấy vào giây phút ấy, lời đồn đăi như thế ấy đă đi đến các cơi trời Phạm Thiên.
22. Sau đó, khi bào thai ấy đă được phát triển đầy đủ, người vợ cũ của đại đức Sudinna đă sanh con trai. Khi ấy, những người bạn của đại đức Sudinna đă đặt tên cho đứa bé trai là “Chủng Tử,” đă đặt tên cho người vợ cũ của đại đức Sudinna là “Mẹ của Chủng Tử,” và đă đặt tên cho đại đức Sudinna là “Cha của Chủng Tử.” Thời gian sau, cả hai mẹ con ấy đă rời nhà xuất gia sống không nhà và đă chứng đắc phẩm vị A-la-hán.[19]
23. Sau đó, đại đức Sudinna đă có sự ăn năn, đă có nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đă có cho ta! Thật là điều lợi ích đă không có cho ta! Ta đă đạt được điều xấu! Ta đă không đạt được điều tốt! Bởi v́ ta đây đă xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!” Do chính sự ăn năn ấy và do nỗi ân hận ấy, vị ấy đă trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân, tâm trở nên lănh đạm, tŕ trệ, khổ sở, buồn bă, ăn năn, và có vẻ thờ thẩn.
24. Khi ấy, những vị tỳ khưu bạn của đại đức Sudinna đă nói với đại đức Sudinna điều này: - “Này đại đức Sudinna, trước đây đại đức có sắc tướng, các căn rạng rỡ, sắc diện an tịnh, màu da trong sáng. Hiện nay, trong lúc này đại đức đây lại trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân, tâm trở nên lănh đạm, tŕ trệ, khổ sở, buồn bă, ăn năn, và có vẻ thờ thẩn. Này đại đức Sudinna, không lẽ đại đức không thỏa thích thực hành Phạm hành hay sao?”
- “Này các đại đức, không phải tôi không thỏa thích thực hành Phạm hạnh mà tôi đă tạo nên ác nghiệp, tôi đă thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ. Này các đại đức, tôi đây đă có sự ăn năn, đă có nỗi ân hận: ‘Thật là điều không lợi ích đă có cho ta! Thật là điều lợi ích đă không có cho ta! Ta đă đạt được điều xấu! Ta đă không đạt được điều tốt! Bởi v́ ta đây đă xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!’”
25. - “Này đại đức Sudinna, đại đức có sự ăn năn là phải lẽ, có nỗi ân hận là phải lẽ. Bởi v́ đại đức đă xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời.
26. Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao?
27. Này đại đức, ở đây trong khi đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái th́ đại đức lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n ràng buộc th́ đại đức lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n chấp thủ th́ đại đức lại nghĩ đến sự chấp thủ.
28. Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái trong các ái, để đưa đến sự không c̣n đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế các sự khao khát, để trừ diệt các sự vướng mắc, để cắt đứt ṿng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết Bàn hay sao?
29. Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đă đề cập đến sự từ bỏ các dục, đă đề cập đến sự hiểu rơ về các dục tưởng, đă đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đă đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đă đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?
30. Này đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này đại đức, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.”
31. Sau đó, khi đă khiển trách đại đức Sudinna bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi đại đức Sudinna rằng: - “Này Sudinna, nghe nói ngươi thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng:
32. - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi đă xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời?
33. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao?
34. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây trong khi Ta thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái th́ ngươi lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n ràng buộc th́ ngươi lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n chấp thủ th́ ngươi lại nghĩ đến sự chấp thủ.
35. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đă thuyết giảng Pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái trong các ái, để đưa đến sự không c̣n đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế sự khao khát, để trừ diệt sự vướng mắc, để cắt đứt ṿng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết Bàn hay sao?
36. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đă đề cập đến sự từ bỏ các dục, đă đề cập đến sự hiểu rơ về các dục tưởng, đă đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đă đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đă đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?
37. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp c̣n là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con hắc xà c̣n là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực c̣n là điều cao thượng, chớ đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Điều ấy có lư do như thế nào? Này kẻ rồ dại, bởi v́ do nguyên nhân kia[20] ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không v́ nguyên nhân kia, khi tan ră thân xác và chết đi ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cơi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[21] khi tan ră thân xác và chết đi, ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cơi khổ, đọa xứ, địa ngục.
38. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây lại là ngươi, tức là việc ngươi bị vướng vào việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Này kẻ rồ dại, đối với nhiều pháp bất thiện ngươi là người vi phạm đầu tiên, trước tất cả. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.”
39. Sau đó, khi đă khiển trách đại đức Sudinna bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đă chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức Ngài đă ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đă nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đă bảo các tỳ khưu rằng:
40. - “Này các tỳ khưu, như thế th́ Ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu v́ mười điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp,[22] và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào thực hiện việc đôi lứa là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”[23]
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[Sự quy định căn bản]
Dứt tụng phẩm về Sudinna.
--ooOoo--
1. Vào lúc bấy giờ, tại Mahāvana ở Vesālī, có vị tỳ khưu nọ dùng thức ăn dụ dỗ con khỉ cái rồi thực hiện việc đôi lứa với nó. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đă mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Vesālī để khất thực.
2. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đă đi đến trú xá của vị tỳ khưu ấy. Con khỉ cái ấy đă nh́n thấy các vị tỳ khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đă đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đă lúc lắc hông ở phía trước các vị tỳ khưu ấy, đă lúc lắc đuôi, đă đưa hông ra, và đă làm dấu hiệu. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, vị tỳ khưu ấy thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái này!” rồi đă nấp vào ở một bên. Sau đó, vị tỳ khưu ấy sau khi đi khất thực ở trong thành Vesālī đă mang đồ ăn khất thực quay trở về.
3. Khi ấy, con khỉ cái ấy đă đi đến gần vị tỳ khưu ấy. Rồi vị tỳ khưu ấy, sau khi thọ dụng đồ khất thực ấy một phần, đă cho con khỉ cái ấy một phần. Sau đó, khi đă ăn xong con khỉ cái ấy đă đưa hông ra cho vị tỳ khưu ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái ấy.
4. Rồi các vị tỳ khưu ấy đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, chẳng phải điều học đă được đức Thế Tôn quy định hay sao? Này đại đức, tại sao đại đức lại thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái?” - “Này các đại đức, đúng vậy. Điều học đă được đức Thế Tôn quy định và điều ấy là với người nữ chứ không phải với thú cái.” - “Này đại đức, chẳng phải điều ấy là đúng như thế hay sao? Này đại đức, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này đại đức, tại sao đại đức sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đă thuyết giảng pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ―(như trên)― đă đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này đại đức, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.” Sau đó, khi đă khiển trách vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
5. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi vị tỳ khưu ấy rằng:“Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đă thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng:
- “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đă thuyết giảng pháp để đưa đến sự không c̣n tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ―(như trên)― đă đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?
6. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp c̣n là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con hắc xà c̣n là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực c̣n là điều cao thượng, chớ đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không (cao thượng). Điều ấy có lư do như thế nào? Này kẻ rồ dại, bởi v́ do nguyên nhân kia[24] ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không v́ nguyên nhân kia, khi tan ră thân xác và chết đi, ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cơi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[25] khi tan ră thân xác và chết đi, ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cơi khổ, đọa xứ, địa ngục.
7. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây lại là ngươi, tức là việc ngươi bị vướng vào việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này đại đức, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.”
8. Sau đó, khi đă khiển trách vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đă chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức Ngài đă ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đă nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đă bảo các tỳ khưu rằng:
9. “Này các tỳ khưu, như thế th́ Ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu v́ mười điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào thực hiện việc đôi lứa ngay cả với loài thú cái là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[Sự quy định lần hai]
Dứt chuyện con khỉ cái.
--ooOoo--
1. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu nhóm Vajjiputtaka trú xứ Vesālī đă thọ thực theo ư thích, ngủ theo ư thích, tắm theo ư thích. Sau khi đă thọ thực theo ư thích, sau khi đă ngủ theo ư thích, sau khi đă tắm theo ư thích, sau khi đă tác ư không chơn chánh, các vị ấy đă thực hiện việc đôi lứa khi chưa ĺa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ ḷng yếu nhược.
Thời gian sau đó, các vị ấy bị tác động bởi sự bất hạnh của quyến thuộc, bởi sự bất hạnh về tài sản, bởi sự bất hạnh về bệnh hoạn nên đă đi đến gặp đại đức Ānanda và nói như vầy: - “Thưa ngài Ānanda, chúng tôi không phải là những người chê bai đức Phật, không phải là những người chê bai Giáo Pháp, không phải là những người chê bai Hội Chúng. Thưa ngài Ānanda, chúng tôi là những người chê bai chính ḿnh, là những người không chê bai kẻ khác. Chính chúng tôi không có may mắn, chúng tôi có phước báu ít ỏi, chúng tôi đây sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời. Thưa ngài Ānanda, nếu như giờ đây chúng tôi có thể đạt được sự xuất gia trong sự chứng minh của đức Phật, có thể đạt được sự tu lên bậc trên, th́ giờ đây chúng tôi cũng có thể là những người hành Minh Sát, có thể sống gắn bó với sự tu tập về các thiện pháp tức là các pháp có liên quan đến sự giác ngộ vào đầu đêm và cuối đêm. Thưa ngài Ānanda, lành thay xin ngài hăy tŕnh sự việc này lên đức Thế Tôn.” - “Này các đại đức, được rồi.” Nghe theo các vị nhóm Vajjiputtaka trú xứ Vesālī, đại đức Ānanda đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này Ānanda, việc Như Lai có thể hủy bỏ điều học pārājika đă được quy định cho các đệ tử v́ lư do của các vị Vajjī hoặc của những người con trai của các vị Vajjī là điều không có cơ sở và không hợp lư.” Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào khi chưa ĺa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ ḷng yếu nhược mà thực hiện việc đôi lứa th́ vị ấy không được tu lên bậc trên trong tương lai. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sau khi ĺa bỏ sự học tập và sau khi tuyên bố sự yếu nhược rồi thực hiện việc đôi lứa th́ vị ấy có thể được tu lên bậc trên trong tương lai. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
3. “Vị tỳ khưu nào thọ tŕ sự học tập và lối sống của các tỳ khưu, khi chưa ĺa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ ḷng yếu nhược, mà thực hiện việc đôi lứa ngay cả với loài thú cái là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[Sự quy định lần ba]
4. Vị nào: là bất cứ vị nào có mối quan hệ như vầy, có giai cấp như vầy, có tên như vầy, có họ như vầy, có giới hạnh như vầy, có trú xứ như vầy, có nơi đi lại như vầy, là vị trưởng lăo (trên 10 năm tỳ khưu), hoặc là vị mới tu (dưới 5 năm), hoặc là vị trung niên (trên 5 năm); vị ấy được gọi là ‘vị nào.’
5. Tỳ khưu: ‘Vị đi khất thực’ là tỳ khưu. ‘Vị chấp nhận việc đi khất thực’ là tỳ khưu. ‘Vị mặc y đă được cắt rời’ là tỳ khưu. Là tỳ khưu do sự thừa nhận. Là tỳ khưu do tự ḿnh xác nhận. Là tỳ khưu khi được (đức Phật) nói rằng: ‘Này tỳ khưu, hăy đi đến.’ ‘Vị đă tu lên bậc trên bằng Tam Quy’ là tỳ khưu. ‘Vị hiền thiện’ là tỳ khưu. ‘Vị có thực chất’ là tỳ khưu. ‘Vị Thánh hữu học’ là tỳ khưu. ‘Vị Thánh vô học’ là tỳ khưu. ‘Vị đă được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy tŕ’ là tỳ khưu. Ở đây, vị tỳ khưu đă được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất, bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy tŕ, vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
6. Sự học tập: Có ba sự học tập: sự học tập về tăng thượng giới, sự học tập về tăng thượng tâm, sự học tập về tăng thượng tuệ.[26] Ở đây, ‘sự học tập’ được đề cập trong ư nghĩa này là sự học tập về tăng thượng giới.
7. Lối sống: nghĩa là điều học nào đă được đức Thế Tôn quy định, điều học ấy gọi là lối sống. V́ thế, vị học tập theo lối sống ấy được gọi là ‘thọ tŕ lối sống.’
8. Khi chưa ĺa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ ḷng yếu nhược: Này các tỳ khưu, có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ. Này các tỳ khưu, có sự bày tỏ ḷng yếu nhược và sự học tập được ĺa bỏ.
9. Này các tỳ khưu, thế nào là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ? Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, mong mỏi thân phận cư sĩ, mong mỏi thân phận người phụ việc chùa, mong mỏi thân phận sa di, mong mỏi thân phận ngoại đạo, mong mỏi thân phận đệ tử ngoại đạo, mong mỏi thân phận không phải là Sa-môn, mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ đức Phật?’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
10. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ Giáo Pháp?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ Hội Chúng?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ sự học tập?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ Luật?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ giới bổn Pātimokkha?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ việc đọc tụng?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ thầy tế độ?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ thầy dạy học?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ đệ tử?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ học tṛ?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ vị có chung thầy tế độ?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ vị có chung thầy dạy học?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên ĺa bỏ vị đồng Phạm hạnh?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành gia chủ?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành nam cư sĩ?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành người phụ việc chùa?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành sa di?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành ngoại đạo?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành đệ tử ngoại đạo?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành không phải là Sa-môn?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hay là tôi nên trở thành không phải là Thích tử?’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
11. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Nếu như tôi có thể ĺa bỏ đức Phật?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Nếu như tôi có thể không phải là Thích tử?’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
12. Hoặc là ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Giờ tôi nên ĺa bỏ đức Phật?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Giờ tôi nên không phải là Thích tử?’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
13. Hoặc là ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Vậy tôi hăy nên ĺa bỏ đức Phật?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Vậy tôi hăy nên không phải là Thích tử?’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
14. Hoặc là ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Ước ǵ tôi có thể ĺa bỏ đức Phật?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Ước ǵ tôi có thể không phải là Thích tử?’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
15. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ mẹ.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ cha.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ anh (em) trai.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ chị (em) gái.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ con trai.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ con gái.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ vợ.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ quyến thuộc.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ bạn bè.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ làng quê.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ phố phường.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ ruộng.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ vườn.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ tiền vàng.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ vàng khối.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi nhớ nghề nghiệp.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi hồi tưởng lại sự cười, nói, đùa giỡn trước đây.’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
16. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có mẹ. Người ấy có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có cha. Người ấy có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có anh (em) trai. Người ấy có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có chị (em) gái. Người ấy có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có con trai. Nó có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có con gái. Nó có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có vợ. Cô ấy có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có quyến thuộc. Họ có thể nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có bạn bè. Họ có thể nuôi tôi.’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
17. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có mẹ. Người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có cha. Người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có anh (em) trai. Người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có chị (em) gái. Người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có con trai. Người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có con gái. Người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có vợ. Người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có quyến thuộc. Các người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có bạn bè. Các người ấy sẽ nuôi tôi.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có làng quê. Tôi sẽ sống nhờ nó.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có phố phường. Tôi sẽ sống nhờ nó.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có ruộng. Tôi sẽ sống nhờ nó.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có vườn. Tôi sẽ sống nhờ nó.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có tiền vàng. Tôi sẽ sống nhờ nó.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có vàng khối. Tôi sẽ sống nhờ nó.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi có nghề nghiệp. Tôi sẽ sống nhờ nó.’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
18. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Việc khó làm!’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Không phải việc dễ làm!’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Việc khó thực hành!’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Không phải việc dễ thực hành!’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi không nỗ lực!’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi không chịu đựng nổi!’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi không sung sướng!’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi không thỏa thích!’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược mà sự học tập chưa được ĺa bỏ.
*****
19. Này các tỳ khưu, thế nào là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược và sự học tập được ĺa bỏ? Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ đức Phật.’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược và sự học tập được ĺa bỏ.
20. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ Giáo Pháp.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ Hội Chúng.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ sự học tập.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ Luật.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ giới bổn Pātimokkha.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ việc đọc tụng.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ thầy tế độ.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ thầy dạy học.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ đệ tử.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ học tṛ.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ vị có chung thầy tế độ.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ vị có chung thầy dạy học.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi ĺa bỏ vị đồng Phạm hạnh.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi là gia chủ.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi là cư sĩ.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi là người phụ việc chùa.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi là sa di.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi là ngoại đạo.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi là đệ tử ngoại đạo.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi không phải là Sa-môn.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Hăy ghi nhận tôi không phải là Thích tử.’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược và sự học tập được ĺa bỏ.
21. Hoặc là (vị tỳ khưu) bị bực bội, không thỏa thích, có ư định giă từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận tỳ khưu, mong mỏi thân phận gia chủ ―(như trên)― mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi đă chán đức Phật.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi đă chán vị đồng Phạm hạnh.’ Này các tỳ khưu, như thế là ―(như trên)― và sự học tập được ĺa bỏ.
22. Hoặc là ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi c̣n liên quan ǵ với đức Phật?’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi c̣n liên quan ǵ với vị đồng Phạm hạnh?’ Này các tỳ khưu, như thế là ―(như trên)― và sự học tập được ĺa bỏ.
23. Hoặc là ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi không cần đến đức Phật.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi không cần đến vị đồng Phạm hạnh.’ Này các tỳ khưu, như thế là ―(như trên)― và sự học tập được ĺa bỏ.
24. Hoặc là ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi đă hoàn toàn ĺa khỏi đức Phật.’ ―(như trên)― nói ra, tuyên bố rằng: ‘Tôi đă hoàn toàn ĺa khỏi vị đồng Phạm hạnh.’ Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược và sự học tập được ĺa bỏ.
25. Hoặc là, c̣n có những điều khác ám chỉ đức Phật, hoặc ám chỉ Giáo Pháp, hoặc ám chỉ Hội Chúng, hoặc ám chỉ sự học tập, hoặc ám chỉ Luật, hoặc ám chỉ giới bổn Pātimokkha, hoặc ám chỉ việc đọc tụng, hoặc ám chỉ thầy tế độ, hoặc ám chỉ thầy dạy học, hoặc ám chỉ người đệ tử, hoặc ám chỉ người học tṛ, hoặc ám chỉ vị có chung thầy tế độ, hoặc ám chỉ vị có chung thầy dạy học, hoặc ám chỉ vị đồng Phạm hạnh, hoặc ám chỉ gia chủ, hoặc ám chỉ nam cư sĩ, hoặc ám chỉ người phụ việc chùa, hoặc ám chỉ sa di, hoặc ám chỉ ngoại đạo, hoặc ám chỉ đệ tử ngoại đạo, hoặc ám chỉ việc không phải là Sa-môn, hoặc ám chỉ việc không phải là Thích tử, và vị nói ra, tuyên bố với những h́nh thức ấy, với những biểu hiện ấy, với những dấu hiệu ấy. Này các tỳ khưu, như thế là có sự bày tỏ ḷng yếu nhược và sự học tập được ĺa bỏ.
26. Này các tỳ khưu, thế nào là sự học tập chưa được ĺa bỏ? Này các tỳ khưu, ở đây sự học tập được ĺa bỏ với những h́nh thức, với những biểu hiện, với những dấu hiệu mà vị bị điên ĺa bỏ sự học tập với những h́nh thức ấy, với những biểu hiện ấy, với những dấu hiệu ấy th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị bị điên th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị có tâm bị rối loạn ĺa bỏ sự học tập th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị có tâm bị rối loạn th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị bị thọ khổ hành hạ ĺa bỏ sự học tập th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị bị thọ khổ hành hạ th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học trong sự chứng minh của Thiên nhân th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học trong sự chứng minh của loài thú th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học theo ngôn ngữ quư phái trong sự chứng minh của người b́nh dân và nếu người ấy không hiểu th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học theo ngôn ngữ b́nh dân trong sự chứng minh của người quư phái và nếu người ấy không hiểu th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học theo ngôn ngữ quư phái trong sự chứng minh của người quư phái nhưng nếu người ấy không hiểu th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học theo ngôn ngữ b́nh dân trong sự chứng minh của người b́nh dân nhưng nếu người ấy không hiểu th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học theo lối đùa cợt th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ĺa bỏ điều học do bị lỡ lời th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ấy nói ra nhưng có ư định không cho nghe th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ấy có ư định cho nghe nhưng nói ra không nghe được th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ấy nói với kẻ không hiểu biết th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Vị ấy không nói ra cho nghe đến người hiểu biết th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Hoặc vị ấy không nói ra đầy đủ th́ sự học tập vẫn chưa được ĺa bỏ. Này các tỳ khưu, như thế là sự học tập chưa được ĺa bỏ.
27. Việc đôi lứa nghĩa là việc nào là việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa; việc ấy gọi là việc đôi lứa.
28. Thực hiện nghĩa là vị nào đưa vật biểu tượng vào vật biểu tượng, đưa dương vật vào âm vật cho dầu chỉ (đưa vào) khoảng cách bằng hạt mè, vị ấy được gọi là thực hiện.
29. Ngay cả với loài thú cái: Sau khi thực hiện việc đôi lứa với giống cái của loài thú th́ không c̣n là Sa-môn, không c̣n là Thích tử nữa, chứ không phải chỉ với người nữ; v́ thế được gọi là ‘ngay cả với loài thú cái.’
30. Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như người đàn ông bị chặt đứt đầu không thể sống bám víu vào thân thể ấy, tương tợ như thế vị tỳ khưu sau khi thực hiện việc đôi lứa th́ không c̣n là Sa-môn, không c̣n là Thích tử; v́ thế được gọi ‘là vị phạm tội pārājika.’
31. Không được cộng trú: cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, v́ thế được gọi là ‘không được cộng trú.’
32. Nữ tánh có ba loại: người nữ, phi nhân nữ, thú cái. Lưỡng căn có ba loại: người lưỡng căn, phi nhân lưỡng căn, thú lưỡng căn. Vô căn[27] có ba loại: người vô căn, phi nhân vô căn, thú vô căn. Nam tánh có ba loại: người nam, phi nhân nam, thú đực.
33. Vị thực hiện việc đôi lứa với người nữ theo ba đường: ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng th́ phạm tội pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với phi nhân nữ ―(như trên)― với thú cái theo ba đường: ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng th́ phạm tội pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với người lưỡng căn ―(như trên)― với phi nhân lưỡng căn ―(như trên)― với thú lưỡng căn theo ba đường: ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng th́ phạm tội pārājika.
34. Vị thực hiện việc đôi lứa với người vô căn theo hai đường: ở đường đại tiện, ở miệng th́ phạm tội pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với phi nhân vô căn ―(như trên)― với thú vô căn ―(như trên)― với người nam ―(như trên)― với phi nhân nam ―(như trên)― với thú đực theo hai đường: ở đường đại tiện, ở miệng th́ phạm tội pārājika.
35. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện của người nữ th́ phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường tiểu tiện ―(như trên)― vào miệng của người nữ th́ phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện ―(như trên)― vào đường tiểu tiện ―(như trên)― vào miệng của phi nhân nữ ―(như trên)― của thú cái ―(như trên)― của người lưỡng căn ―(như trên)― của phi nhân lưỡng căn ―(như trên)― của thú lưỡng căn th́ phạm tội pārājika.
36. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện ―(như trên)― vào miệng của người vô căn th́ phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện ―(như trên)― vào miệng của phi nhân vô căn ―(như trên)― của thú vô căn ―(như trên)― của người nam ―(như trên)― của phi nhân nam ―(như trên)― của thú đực ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika.
37. Các tỳ khưu đối nghịch[28] đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện (của cô ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện (của cô ấy). Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, (nhưng) ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện (của cô ấy). Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, (nhưng) ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện (của cô ấy). Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, không ưng thuận khi dừng lại, (nhưng) ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện (của cô ấy). Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, không ưng thuận khi dừng lại, không ưng thuận việc rút ra th́ vô tội.
38. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường tiểu tiện ―(như trên)― với miệng (của cô ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
39. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ đang tỉnh táo ―(như trên)― đang ngủ ―(như trên)― đang say sưa ―(như trên)― bị điên ―(như trên)― đang đờ đẫn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ―(như trên)― Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika.
40. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với đường tiểu tiện ―(như trên)― với miệng (của cô ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
41. Các tỳ khưu đối nghịch đem phi nhân nữ ―(như trên)― thú cái ―(như trên)― người lưỡng căn ―(như trên)― phi nhân lưỡng căn ―(như trên)― thú lưỡng căn lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với đường tiểu tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
42. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đang tỉnh táo ―(như trên)― đang ngủ ―(như trên)― đang say sưa ―(như trên)― bị điên ―(như trên)― đang đờ đẫn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ―(như trên)― Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
43. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với đường tiểu tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
44. Các tỳ khưu đối nghịch đem người vô căn ―(như trên)― phi nhân vô căn ―(như trên)― thú vô căn lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
45. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú vô căn đang tỉnh táo ―(như trên)― đang ngủ ―(như trên)― đang say sưa ―(như trên)― bị điên ―(như trên)― đang đờ đẫn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
46. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú vô căn đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
47. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nam ―(như trên)― phi nhân nam ―(như trên)― thú đực lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
48. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú nam đang tỉnh táo ―(như trên)― đang ngủ ―(như trên)― đang say sưa ―(như trên)― bị điên ―(như trên)― đang đờ đẫn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ―(như trên)― Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
49. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú nam đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
50. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với đường tiểu tiện ―(như trên)― với miệng (của cô ấy), của cô ấy được che phủ và của vị ấy không được che phủ ―(như trên)― của cô ấy không được che phủ và của vị ấy được che phủ ―(như trên)― của cô ấy được che phủ và của vị ấy được che phủ ―(như trên)― của cô ấy không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
51. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ đang tỉnh táo ... đang ngủ ... đang say sưa ... bị điên ... đang đờ đẫn ... đă chết chưa bị (thú) ăn ... đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ... Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
52. Các tỳ khưu đối nghịch đem người nữ ―(như trên)― phi nhân nữ ―(như trên)― thú cái đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với đường tiểu tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng), của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
53. Các tỳ khưu đối nghịch đem người lưỡng căn ―(như trên)― phi nhân lưỡng căn ―(như trên)― thú lưỡng căn lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với đường tiểu tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng), của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
54. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đang tỉnh táo ―(như trên)― đang ngủ ―(như trên)― đang say sưa ―(như trên)― bị điên ―(như trên)― đang đờ đẫn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika.
55. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ... với đường tiểu tiện ... với miệng (của đối tượng), của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
56. Các tỳ khưu đối nghịch đem người vô căn ... phi nhân vô căn ... thú vô căn ... người nam ... phi nhân nam ... thú đực lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ... với miệng (của đối tượng), của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
57. Các tỳ khưu đối nghịch đem người vô căn ―(như trên)― thú đực đang tỉnh táo ―(như trên)― đang ngủ ―(như trên)― đang say sưa ―(như trên)― bị điên ―(như trên)― đang đờ đẫn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ―(như trên)― Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
58. Các tỳ khưu đối nghịch đem thú đực đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần lại gần vị tỳ khưu rồi kết hợp dương vật (vị ấy) với đường đại tiện ―(như trên)― với miệng (của đối tượng), của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
59. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ rồi kết hợp đường đại tiện ―(như trên)― đường tiểu tiện ―(như trên)― miệng (của cô ấy) với dương vật (vị ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
60. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ đang tỉnh táo ... đang ngủ ... đang say sưa ... bị điên ... đang đờ đẫn ... đă chết chưa bị (thú) ăn ... đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ... Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
61. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ... đường tiểu tiện ... miệng (của cô ấy) với dương vật (vị ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
62. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần phi nhân nữ ... thú cái ... người lưỡng căn ... phi nhân lưỡng căn ... thú lưỡng căn ... người vô căn ... phi nhân vô căn ... thú vô căn ... người nam ... phi nhân nam ... thú đực rồi kết hợp đường đại tiện ―(như trên)― miệng (của đối tượng) với dương vật (vị ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
63. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần thú đực đang tỉnh táo ―(như trên)― đang ngủ ―(như trên)― đang say sưa ―(như trên)― bị điên ―(như trên)― đang đờ đẫn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn ―(như trên)― đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ―(như trên)― Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
64. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần thú đực đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ―(như trên)― miệng (của đối tượng) với dương vật (vị ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
65. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ rồi kết hợp đường đại tiện ... đường tiểu tiện ... miệng (của cô ấy) với dương vật (vị ấy), của vị ấy được che phủ và của cô ấy không được che phủ ... của vị ấy không được che phủ và của cô ấy được che phủ ... của vị ấy được che phủ và của cô ấy được che phủ ... của vị ấy không được che phủ và của cô ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
66. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ đang tỉnh táo ... đang ngủ ... đang say sưa ... bị điên ... đang đờ đẫn ... đă chết chưa bị (thú) ăn ... đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ... Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
67. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần người nữ đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ... đường tiểu tiện ... miệng (của cô ấy) với dương vật (vị ấy). Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
68. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần phi nhân nữ ... thú cái ... người lưỡng căn ... phi nhân lưỡng căn ... thú lưỡng căn rồi kết hợp đường đại tiện ... đường tiểu tiện ... miệng (của đối tượng) ... lại gần người vô căn ... phi nhân vô căn ... thú vô căn ... người nam ... phi nhân nam ... thú đực rồi kết hợp đường đại tiện ... miệng (của đối tượng) với dương vật (vị ấy), của vị ấy được che phủ và của đối tượng không được che phủ ... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng được che phủ ... của vị ấy được che phủ và của đối tượng được che phủ ... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
69. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần thú đực đang tỉnh táo ... đang ngủ ... đang say sưa ...bị điên ... đang đờ đẫn ... đă chết chưa bị (thú) ăn ... đă chết chưa bị (thú) ăn nhiều phần ... Nếu vị ấy ưng thuận ―(như trên)― th́ phạm tội pārājika. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
70. Các tỳ khưu đối nghịch đem vị tỳ khưu lại gần đă chết đă bị (thú) ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ... miệng (của đối tượng) với dương vật (vị ấy), của vị ấy được che phủ và của đối tượng không được che phủ ... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng được che phủ ... của vị ấy được che phủ và của đối tượng được che phủ ... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra th́ phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― không ưng thuận th́ vô tội.
71. Các vị vua đối nghịch[29] ... Các kẻ trộm cướp đối nghịch ... Các kẻ vô lại đối nghịch ... Các kẻ thảo khấu đối nghịch ... th́ phạm tội ... th́ vô tội (nên phân tích tương tợ như ở các phần liên quan đến ‘các tỳ khưu đối nghịch’).
[Phần ‘Được Che Phủ’ đă được giảng xong].
72. Đưa vào đường khiếu theo đường khiếu th́ phạm tội pārājika. Đưa vào nơi không phải là đường khiếu theo đường khiếu th́ phạm tội pārājika. Đưa vào đường khiếu không theo đường khiếu th́ phạm tội pārājika. Đưa vào nơi không phải là đường khiếu không theo đường khiếu th́ phạm tội thullaccaya.
73. Vị tỳ khưu vi phạm giới với vị tỳ khưu đang ngủ. Vị kia thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị kia thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.
74. Vị tỳ khưu vi phạm giới với vị sa di đang ngủ. Vị sa di thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị sa di thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.
75. Vị sa di vi phạm giới với vị tỳ khưu đang ngủ. Vị tỳ khưu thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị tỳ khưu thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.
76. Vị sa di vi phạm giới với vị sa di đang ngủ. Vị kia thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị kia thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.
77. Vị không biết, vị không ưng thuận, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Dứt tụng phẩm “Được Che Phủ.”
--ooOoo--
Con khỉ cái, và các vị Vajjī, có (h́nh tướng) gia chủ, lơa thể, và ngoại đạo, đứa bé gái, vị ni Uppalavaṇṇā, hai trường hợp chuyển tánh kỳ lạ.
Người mẹ, con gái, chị (em) gái, người vợ, lưng dẻo, dương vật dài, hai trường hợp vết loét, tranh vẽ, và tượng gỗ.
Với năm chuyện Sundara, năm ở băi tha ma, khúc xương, rồng cái, Dạ-xoa nữ, ma nữ, người vô căn, liệt cảm giác, khi đụng,
Chuyện vị A-la-hán ngủ ở Bhaddiya, bốn chuyện Sāvatthī, Vesāli ba chuyện, ṿng hoa, vị ngủ mơ, ở Bhārukaccha,
Supabbā, Saddhā, vị tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, vị sa di ni, gái điếm, người vô căn, nữ gia chủ, lẫn nhau, vị lớn tuổi xuất gia, con nai.
*****
1. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă thực hiện điều đôi lứa với con khỉ cái. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Điều học đă được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đă phạm tội pārājika?” Rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (1)
2. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu Vajjiputtaka cư trú ở Vesālī đă thực hiện việc đôi lứa khi chưa ĺa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ ḷng yếu nhược. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Điều học đă được đức Thế Tôn quy định; phải chăng chúng ta đă phạm tội pārājika?” Rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (2)
3. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này th́ ta sẽ không phạm tội” rồi đă thực hiện việc đôi lứa với h́nh tướng gia chủ. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (3)
4. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này th́ ta sẽ không phạm tội,” sau khi trở nên trần truồng rồi đă thực hiện việc đôi lứa. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (4)
5. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này th́ ta sẽ không phạm tội,” sau khi mặc vải sợi cỏ ―(như trên)― sau khi mặc vỏ cây ―(như trên)― sau khi mặc gỗ lát mỏng ―(như trên)― sau khi mặc tấm mền bằng tóc ―(như trên)― sau khi mặc cánh chim cú ―(như trên)― sau khi mặc da sơn dương rồi đă thực hiện việc đôi lứa. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (5-11)
6. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực. Khi thấy một đứa bé gái nằm trên ghế, vị ấy đă khởi dục vọng rồi đưa ngón tay cái vào âm vật (của đứa bé gái). Đứa bé gái đă chết. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Ngươi phạm tội saṅghādisesa.” (12)
7. Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên Bā-la-môn nọ đem ḷng say đắm tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā. Khi ấy, lúc tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă đi vào làng để khất thực, thanh niên Bā-la-môn ấy đă đi vào liêu cốc nấp kín rồi chờ đợi. Khi đi khất thực trở về sau bữa ăn, tỳ khưu ni Uppala-vaṇṇā đă rửa chân rồi đi vào liêu cốc và ngồi xuống ở trên giường. Khi ấy, người thanh niên Bā-la-môn ấy đă nhấc bổng tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā lên và làm điều tồi bại. Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị ni không ưng thuận th́ vô tội.”[30] (13)
8. Vào lúc bấy giờ, tướng trạng người nữ đă xuất hiện ở vị tỳ khưu nọ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép chuyển sang (sinh hoạt) với các tỳ khưu ni (và vẫn giữ nguyên) thầy tế độ ấy, sự tu lên bậc trên ấy, các năm (thâm niên) ấy. Những tội nào của các tỳ khưu có liên quan đến các tỳ khưu ni, các tội ấy được làm cho hết tội trong sự chứng minh của các tỳ khưu ni. Những tội nào của các tỳ khưu không có liên quan đến các tỳ khưu ni th́ được vô tội với các tội ấy.” (14)
9. Vào lúc bấy giờ, tướng trạng người nam đă xuất hiện ở vị tỳ khưu ni nọ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép chuyển sang (sinh hoạt) với các tỳ khưu (và vẫn giữ nguyên) thầy tế độ ấy, sự tu lên bậc trên ấy, các năm (thâm niên) ấy. Những tội nào của các tỳ khưu ni có liên quan đến các tỳ khưu, các tội ấy được làm cho hết tội trong sự chứng minh của các tỳ khưu. Những tội nào của các tỳ khưu ni không có liên quan đến các tỳ khưu th́ được vô tội với các tội ấy.” (15)
10. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Như thế này th́ ta sẽ không phạm tội” rồi đă thực hiện việc đôi lứa với người mẹ. ―(như trên)― rồi đă thực hiện việc đôi lứa với con gái. ―(như trên)― rồi đă thực hiện việc đôi lứa với chị (em) gái. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (16-18)
11. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (19)
12. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người có lưng dẻo. Vị ấy bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đă dùng miệng ngậm lấy dương vật của ḿnh. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (20)
13. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người có dương vật dài. Vị ấy bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đă đưa dương vật của ḿnh vào đường đại tiện của ḿnh. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (21)
14. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă nh́n thấy thây người chết. Và trên thi thể ấy, có vết loét ở bên cạnh bộ phận sinh dục. Vị ấy (nghĩ rằng): “Như thế này th́ ta sẽ không phạm tội” rồi đă đưa dương vật vào bộ phận sinh dục rồi rút ra bằng chỗ vết loét. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (22)
15. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă nh́n thấy thây người chết. Và trên thi thể ấy, có vết loét ở bên cạnh bộ phận sinh dục. Vị ấy (nghĩ rằng): “Như thế này th́ ta sẽ không phạm tội” rồi đă đưa dương vật vào vết loét rồi rút ra từ bộ phận sinh dục. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (23)
16. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục nên đă dùng dương vật (của ḿnh) sờ vào vật biểu tượng ở tranh vẽ. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (24)
17. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị khởi dục nên đă dùng dương vật (của ḿnh) sờ vào chỗ kín ở tượng gỗ. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (25)
18. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu tên Sundara đă được xuất gia ở thành Rājagaha và (đang) đi trên đường. Có người nữ nọ [sau khi nh́n thấy vị ấy đă nói điều này]: - “Thưa ngài, xin chờ chốc lát, tôi sẽ đảnh lễ.” Trong khi đảnh lễ, người nữ ấy đă vén y nội lên rồi dùng miệng ngậm lấy dương vật (vị ấy). Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, có phải ngươi đă ưng thuận?” - “Bạch Thế Tôn, con đă không ưng thuận.” - “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận th́ vô tội.”[31] (26)
19. Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu đă nói điều này: - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy thực hiện việc đôi lứa.” - “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” - “Thưa ngài, hăy đến. Tôi sẽ ra sức, ngài đừng ra sức; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đă làm như thế. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (27)
20. Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu đă nói điều này: - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy thực hiện việc đôi lứa.” - “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy ra sức, tôi sẽ không ra sức; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đă làm như thế. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (28)
21. Vào lúc bấy giờ, có người nữ nọ sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu đă nói điều này: - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy thực hiện việc đôi lứa.” - “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở bên trong rồi cho xuất tinh ra ở bên ngoài. ―(như trên)― “Ngài hăy cọ xát ở bên ngoài rồi cho xuất tinh ra ở bên trong; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đă làm như thế. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (29-30)
22. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến băi tha ma đă nh́n thấy thi thể chưa bị (thú) ăn và đă thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (31)
23. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến băi tha ma đă nh́n thấy thi thể chưa bị (thú) ăn nhiều phần và đă thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (32)
24. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến băi tha ma đă nh́n thấy thi thể đă bị (thú) ăn nhiều phần và đă thực hiện việc đôi lứa ở thi thể ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (33)
25. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến băi tha ma đă nh́n thấy cái đầu bị đứt ĺa rồi đă đưa dương vật vào vào cái miệng đă được banh ra và có va chạm. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (34)
26. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến băi tha ma đă nh́n thấy cái đầu bị đứt ĺa rồi đă đưa dương vật vào cái miệng đă được banh ra và không va chạm. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (35)
27. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đem ḷng say đắm người nữ nọ. Nàng ấy đă từ trần và bị quăng bỏ ở mộ địa. Các khúc xương đă bị phân tán rải rác. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă đi vào băi tha ma rồi thâu nhặt các khúc xương lại và đă đặt dương vật vào chỗ kín. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (36)
28. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă thực hiện việc đôi lứa với rồng cái. ―(như trên)― đă thực hiện việc đôi lứa với Dạ-xoa nữ. ―(như trên)― đă thực hiện việc đôi lứa với ma nữ. ―(như trên)― đă thực hiện việc đôi lứa với người vô căn. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (37-40)
29. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị liệt cảm giác. Vị ấy (nghĩ rằng): “Ta đây không cảm giác được lạc hay khổ, như thế ta sẽ không phạm tội” rồi đă thực hiện việc đôi lứa. ―(như trên)― Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại ấy đă phạm tội pārājika dầu đă cảm giác hay đă không cảm giác.” (41)
30. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Ta sẽ thực hiện việc đôi lứa với người nữ” nhưng chỉ mới chạm vào vị ấy đă hối hận. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (42)
31. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Jātiyā ở thành Bhaddiya. Các phần cơ thể của vị ấy đă bị cương lên bởi gió. Có người nữ nọ nh́n thấy rồi đă ngồi lên trên dương vật (vị ấy), đến khi đạt được mục đích đă bỏ đi. Các vị tỳ khưu nh́n thấy (vị ấy) bị nhầy nhụa nên đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, dương vật trở nên thích ứng do năm lư do: do ái dục, do phân, do nước tiểu, do gió, do bị cắn bởi sâu bọ. Này các tỳ khưu, đây là năm lư do làm cho dương vật trở nên thích ứng. Này các tỳ khưu, dương vật của vị tỳ khưu ấy trở nên thích ứng do ái dục là điều không có cơ sở và không hợp lư. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy là vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không phạm tội.” (43)
32. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthī. Có cô chăn ḅ nọ nh́n thấy rồi đă ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đă ưng thuận việc đưa vào, đă ưng thuận khi được đẩy vào, đă ưng thuận khi dừng lại, đă ưng thuận việc rút ra. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (44)
33. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthī. Có cô chăn dê nọ nh́n thấy ―(như trên)― Có cô đi mót củi nọ nh́n thấy ―(như trên)― Có cô đi nhặt phân ḅ nọ nh́n thấy rồi đă ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đă ưng thuận việc đưa vào, đă ưng thuận khi được đẩy vào, đă ưng thuận khi dừng lại, đă ưng thuận việc rút ra. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (45-47)
34. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nằm nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī. Có người nữ nọ nh́n thấy rồi đă ngồi lên dương vật (vị ấy), sau khi đạt được mục đích đă đứng cạnh bên rồi cười. Vị tỳ khưu ấy thức giấc đă nói với người nữ ấy điều này: - “Có phải việc làm này là của cô?” - “Thưa vâng, là việc làm của tôi.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi có ưng thuận không?” - “Bạch Thế Tôn, con không biết.” - “Này tỳ khưu, vị không biết th́ vô tội.” (48)
35. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī đă nằm xuống tựa vào thân cây. Có người nữ nọ nh́n thấy rồi đă ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đă lập tức đứng dậy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, có phải ngươi đă ưng thuận? - “Bạch Thế Tôn, con đă không ưng thuận. - “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận th́ vô tội.” (49)
36. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày ở Mahāvana trong thành Vesālī đă nằm xuống tựa vào thân cây. Có người nữ nọ nh́n thấy rồi đă ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đă nhổm dậy khiến cô ấy lăn tṛn. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, có phải ngươi đă ưng thuận? - “Bạch Thế Tôn, con đă không ưng thuận. - “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận th́ vô tội.” (50)
37. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khi nghỉ ngơi vào ban ngày tại giảng đường Kūṭāgāra ở Mahāvana trong thành Vesālī đă mở cửa lớn rồi nằm xuống. Các phần thân thể của vị ấy đă bị cương lên bởi gió. Vào lúc bấy giờ, có nhiều người nữ mang theo vật thơm và tràng hoa đă đi đến tu viện ngắm nh́n các trú xá. Khi ấy, những người nữ ấy đă nh́n thấy vị tỳ khưu ấy nên đă ngồi lên trên dương vật (vị ấy), đến khi đạt được mục đích đă nói rằng: “Đây quả thật là người như ḅ mộng,” sau khi để lại vật thơm và tràng hoa rồi đă bỏ đi. Các vị tỳ khưu nh́n thấy (vị ấy) bị nhầy nhụa nên đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, dương vật trở nên thích ứng do năm lư do: do ái dục, do phân, do nước tiểu, do gió, do bị cắn bởi sâu bọ. Này các tỳ khưu, đây là năm lư do làm cho dương vật trở nên thích ứng. Này các tỳ khưu, dương vật của vị tỳ khưu ấy trở nên thích ứng do ái dục là điều không có cơ sở và không hợp lư. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy là vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không có phạm tội. Này các tỳ khưu, đối với vị nghỉ ngơi vào ban ngày, Ta cho phép nghỉ ngơi sau khi đă đóng cửa lớn lại.” (51)
38. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ người thành phố Bhārukaccha trong lúc đang ngủ (mơ thấy) đă thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ (nên nghĩ rằng): “Ta không c̣n là Sa-môn nữa, ta sẽ hoàn tục.” Trong lúc đi đến thành phố Bhārukaccha, giữa đường đă nh́n thấy đại đức Upāli và đă kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đă nói như vầy: - “Này đại đức, với vị đang ngủ mơ th́ không phạm tội.” (52)
39. Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Supabbā ở trong thành Rājagaha là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có tri kiến như vầy: “Người nữ nào dâng cúng việc đôi lứa th́ người nữ ấy dâng cúng vật thí tối thượng.” Sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu, cô ấy đă nói điều này: - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy thực hiện việc đôi lứa. - “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép. - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở giữa hai bắp vế; như thế ngài sẽ không phạm tội. Vị tỳ khưu ấy đă làm như thế. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (53)
40. Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Supabbā ở trong thành Rājagaha là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có quan điểm như vầy: “Người nữ nào dâng cúng việc đôi lứa th́ người nữ ấy dâng cúng vật thí tối thượng.” Sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu, cô ấy đă nói điều này: - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy thực hiện việc đôi lứa.” - “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.” - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở lỗ rún; ... Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở bụng; ... Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở nách; ... Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở cổ; ... Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở lỗ tai; ... Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở bím tóc; ... Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở giữa hai ngón tay; ... Thưa ngài, hăy đến. Tôi sẽ dùng tay ra sức và làm (ngài) xuất tinh; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đă làm như thế. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (54-61)
41. Vào lúc bấy giờ, nữ cư sĩ tên Saddhā ở trong thành Sāvatthī là người có đức tin mù quáng. Cô ấy có quan điểm như vầy: “Người nữ nào dâng cúng việc đôi lứa th́ người nữ ấy dâng cúng vật thí tối thượng.” Sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu, cô ấy đă nói điều này: - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy thực hiện việc đôi lứa.” - “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép. - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy cọ xát ở giữa hai bắp vế; ―(như trên)― Thưa ngài, hăy đến. Tôi sẽ đến gần và dùng tay làm (ngài) xuất tinh; như thế ngài sẽ không phạm tội.” Vị tỳ khưu ấy đă làm như thế. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội saṅghādisesa.” (62-70)
42. Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đă bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với vị tỳ khưu ni. Cả hai đă ưng thuận. - “Cả hai nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Cả hai đă không ưng thuận. - “Cả hai đều vô tội.” (71)
43. Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đă bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với cô ni tu tập sự. ―(như trên)― rồi buộc phải phạm giới với vị sa di ni. Cả hai đă ưng thuận. - “Cả hai nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Cả hai đă không ưng thuận. - “Cả hai đều vô tội.” (72-73)
44. Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đă bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới với gái điếm. ―(như trên)― rồi buộc phải phạm giới với người vô căn. ―(như trên)― rồi buộc phải phạm giới với nữ gia chủ. Vị tỳ khưu đă ưng thuận. - “Vị tỳ khưu nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Vị tỳ khưu đă không ưng thuận. - “Vị tỳ khưu vô tội.” (74-76)
45. Vào lúc bấy giờ, các vương tử Licchavi ở thành Vesālī đă bắt giữ vị tỳ khưu rồi buộc phải phạm giới lẫn nhau. Cả hai đă ưng thuận. - “Cả hai nên bị trục xuất.” ―(như trên)― Cả hai đă không ưng thuận. - “Cả hai đều vô tội.” (77)
46. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ xuất gia lúc tuổi đă lớn. Vị ấy đă đi gặp người vợ cũ. Cô ấy đă níu giữ lại (nói rằng): - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy hoàn tục.” Vị tỳ khưu ấy trong lúc bước lui đă té ngửa ra. Cô ấy đă giở (y) lên rồi ngồi lên trên dương vật (vị ấy). Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không ưng thuận th́ vô tội.” (78)
47. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ngụ ở trong rừng. Có con nai tơ đă đi đến chỗ tiểu tiện của vị ấy. Trong lúc đang uống nước tiểu, nó đă dùng miệng ngậm lấy dương vật (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đă ưng thuận. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (79)
Dứt điều pārājika thứ nhất.
--ooOoo--
[1] Theo ngài Buddhaghosa, Verañjā là tên của một thành phố, Pucimanda là cây Nimba (Từ điển Pāli-English của Pali Text Society cho biết đó là một loại cây có lá đắng và gỗ cứng), Naḷeru là tên của một Dạ-xoa, và đức Thế Tôn đă đi đến và ngự ở khu vực lân cận của cây ấy (Vin.A. i, 108-109).
[2] Ông Bà-la-môn dùng từ arasarūpo để chỉ trích đức Phật sống không thuận theo tập quán là người trẻ nên cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi đối với các vị già cả, uy tín, v.v... (VinA. i, 131-132). C̣n đức Thế Tôn cũng sử dụng lại từ arasarūpo nhưng giải thích là Ngài sống không c̣n bị vướng bận bởi sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc, là năm đối tượng thích ư đă được tầm cầu bởi năm giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. Ở các phần kế tiếp, khi chỉ trích đức Phật là “không biết thưởng thức,” “thuyết về không hành động,” “có sự ghê tởm,” “là người từ bỏ,” là người thiêu đốt,” vị Bà-la-môn cũng nhằm mục đích ám chỉ việc đức Phật sống không theo tập quán, nghĩa là không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị già cả, uy tín, v.v...
[3] Vị bà-la-môn chỉ trích rằng đức Phật thuyết về đoạn kiến (ucchedavāda) chủ trương sau đời này không có đời khác (VinA. i, 134).
[4] Chú Giải ghi rằng: “Có nhiều xương trắng nằm rải rác v́ có quá nhiều người chết đói hoặc là tên của một loại bệnh mốc trắng ở cây lúa” (VinA. i, 174-175).
[5] Theo ngài Buddhaghosa, lúa mạch (pukakaṃ) này đă được tách vỏ trấu và hấp chín. Các người buôn ngựa đem theo lúa mạch để cho ngựa ăn ở những vùng không kiếm ra cỏ và họ đă xén phần ăn sáng của ngựa để dâng đến các vị tỳ khưu (VinA. i, 176). Mỗi phần lúa mạch như vậy là 1 pattha (đơn vị đo thể tích). Pattha là phần vật thực có khả năng nuôi sống một người trong ngày, bằng lượng chứa của một nālī. (VinA. i, 176). Ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở tác phẩm Vinayamukha th́ pattha có thể tích bằng hai bàn tay bụm lại (tập I, 236).
[6] pappoṭakojaṃ = patṭhavimaṇḍaṃ, dịch chất tiết ra từ trái đất (VinA. i, 182).
[7] Ở tài liệu Saddhammasaṅgaha - Diệu Pháp Yếu Lược có lời giải thích chi tiết về chín thể loại này như sau: “Thế nào là có chín phần khi nói về Thể (aṅga)? Bởi v́ toàn bộ gồm có chín h́nh thức khác biệt, đó là sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhūtadhamma, vedalla. Trong trường hợp này, Ubhatovibhaṅga, Niddesa, Khandhaka, Parivāra, các bài kinh Maṅgalasutta, Ratanasutta, Nalakasutta, Tuvaṭakasutta trong Suttanipāta - Kinh Tập, và các lời dạy của đấng Như Lai có tựa đề là Kinh (suttaṃ) th́ được xếp vào thể SUTTA. Các bài Kinh có xen các bài kệ vào được biết là thể GEYYA; đặc biệt toàn bộ Thiên Có Kệ (Sagāthāvagga) trong Kinh Tương Ưng Bộ là thể GEYYA. Toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, các bài kinh không có xen các bài kệ, và các lời dạy khác của đức Phật không thuộc tám loại trên được xếp vào thể VEYYĀKARAṆA. Kinh Pháp Cú, Trưởng Lăo Tăng Kệ, Trưởng Lăo Ni Kệ, các bài có tên là kinh nhưng chỉ là kệ trong Suttanipāta - Kinh Tập th́ được xếp vào thể GĀTHĀ. Tám mươi hai bài kinh liên quan đến các bài kệ do tuệ giác hoan hỷ được xếp vào thể UDĀNA. Một trăm mười hai bài kinh được giới thiệu bằng: “Vuttaṃ h’ etaṃ Bhagavatā ti” (Đức Thế Tôn thuyết về điều ấy như vầy) th́ được xếp vào thể ITIVUTTAKA. Năm trăm năm mươi bài kinh Bổn Sanh bắt đầu bằng Bổn Sanh Apannaka được xếp vào thể JĀTAKA. Tất cả các bài kinh liên quan đến pháp kỳ diệu phi thường và được giới thiệu như sau: “Này các tỳ khưu, có bốn pháp kỳ diệu phi thường ở Ānanda,” được xếp vào thể ABBHŪTADHAMMA. Tất cả các bài kinh được hỏi và được liên tục ghi nhận trong sự hiểu biết và hoan hỷ như các bài kinh Cullavedalla, Mahāvedalla, Sammādiṭṭhi, Sakkapañhā, Saṅkhāra-bhājaniya, Mahāpuṇṇama, v.v…được xếp vào thể VEDALLA. Như thế khi đề cập đến Thể th́ có chín phần” (Saddhammasaṅgaha - Diệu Pháp Yếu Lược, Chương I, câu 28).
[8] Suy tầm về ly dục, suy tầm về vô sân, và suy tầm vô hại (VinA. i, 188).
[9] Chớ suy tầm về ngũ dục, chớ suy tầm về sân hận, chớ suy tầm về hăm hại (Sđd.).
[10] Tác ư đến vô thường, tác ư đến khổ năo, tác ư đến vô ngă, tác ư đến bất tịnh (Sđd.).
[11] Chớ tác ư đến bốn điều đối nghịch trên là: thường, lạc, ngă, tịnh (Sđd.).
[12] Hăy từ bỏ bất thiện pháp (Sđd.).
[13] Hăy thành tựu và an trú vào thiện pháp (Sđd.).
[14] Đă an trú vào mục đích (sāre patiṭṭhito): được giải thích là: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, và Tri kiến về sự giải thoát (VinA. i, 195).
[15] Payāga là một thị trấn ở bên bờ sông Gaṅgā, nay là thành phố Allahabad (ND).
[16] Dịch sát từ sẽ là: “Sau khi nh́n thấy, điều này đă khởi đến anh ta: ...”
[17] Y paṃsukūla: y được may bằng vải dơ bị người ta quăng bỏ, thông thường là vải quấn tử thi được t́m thấy ở băi tha ma (ND).
[18] Ngài Buddhaghosa giải thích ở Chú Giải Samantapāsādikā rằng đă tám năm trôi qua nên người nữ tỳ không thể nhận ra đại đức Sudinna mà chỉ nhận biết qua các đặc điểm của tay, chân, và giọng nói. Thêm vào đó c̣n cho biết vị Sudinna đă xuất gia vào năm thứ mười hai của đức Thế Tôn và thời điểm xảy ra câu chuyện này là năm thứ hai mươi (VinA. i, 208).
[19] Theo ngài Buddhaghosa cho biết, hai mẹ con đă xuất gia sau đó khoảng bảy hoặc tám năm (VinA. i, 215).
[20] Là việc đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp, vào trong miệng của con hắc xà, vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực (ND).
[21] Là việc đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ (ND).
[22] Chánh Pháp (saddhamma): Ngài Buddhaghosa giải thích saddhamma gồm có ba phần: Pariyattisaddhamma (Pháp Học) gồm tất cả các lời dạy của đức Phật đă được kết tập thành Tam Tạng, Paṭipattisaddhamma (Pháp Hành) là 13 pháp Đầu-đà, 14 pháp hành, 82 phận sự chính, Giới, Định, và Minh Sát, Adhigamasaddhamma (Pháp Đắc Chứng) là 4 Đạo, 4 Quả, và Niết Bàn (VinA. i, 225). Giải thích về 82 phận sự chính Ṭīkā (Sớ Giải) ghi rằng: 66 phận sự của vị hành parivāsa (bắt đầu với điều “Không nên ban phép tu lên bậc trên, ..., không nên đi kinh hành ở đường kinh hành trong khi vị tỳ khưu trong sạch đi kinh hành ở trên mặt đất”); không ngụ chung với 5 hạng tỳ khưu (vị cũng thực hành parivāsa nhưng thâm niên hơn, vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta, vị đang thực hành mānatta, vị xứng đáng sự giải tội) tính là 5 điều thành 71; “không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các vị tỳ khưu trong sạch” tính là 1 điều thành 72; “không nên bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, v.v...” tính là 10 điều; tổng cộng là 82 phận sự.
[23] Từ “bất cộng trụ” đă được sử dụng quen thuộc khi đề cập đến tội pārājika. Thật ra, “bất cộng trụ” là từ dịch của asaṃvāso trong câu “ayampi pārājiko hoti asaṃvāso,” chứ không phải của pārājika. Pārājika được xem là tên của tội, c̣n asaṃvàso có thể xem như là một h́nh thức xử lư tội pārājika, là không được sống chung và tiến hành các hành sự như là lễ Uposatha, lễ Parāraṇā, v.v... Ngài Buddhaghosa chỉ ra động từ liên quan là “parājeti = khuất phục, đánh bại, chế ngự, chiến thắng” và giải thích rằng vị “pārājiko” là vị “parājito,” (parājito là quá khứ phân từ thể thụ động của parājeti, có nghĩa là: bị khuất phục, bị đánh bại, bị chế ngự). Như vậy, pārājika có nghĩa là “kẻ thất trận, kẻ bại trận người thua cuộc” và được sử dụng cho tên của một loại tội cực nặng trong giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu gồm 4 điều được tŕnh bày trong chương này. Chúng tôi giữ nguyên từ pārājika không dịch.
[24] Nguyên nhân kia đă được giải thích ở phần trước.
[25] Nguyên nhân này là việc đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái (ND).
[26] Adhisīla: Tăng thượng giới là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (VinA. i, 244-245).
[27] Từ Pāli paṇḍaka là đề cập đến người phái nam. Về phái nữ, các từ được t́m thấy là paṇḍikā, itthipaṇḍikā, itthipaṇḍaka. Từ tiếng Anh tương đương là eunuch được dịch sang tiếng Việt là “hoạn quan, thái giám.” Từ “bị thiến” đă được dùng đến trong một số bản dịch trước đây. Lâu nay, chúng tôi hiểu theo ư nghĩa thông thường đó. Gần đây, chúng tôi t́m thấy từ jātipaṇḍaka mới biết thêm được là có hạng người paṇḍaka bẩm sanh. Dựa theo phần giảng giải của giới pārājika thứ nhất này, chúng tôi có được khái niệm là hạng này không có bộ phận sinh dục, c̣n việc xác định nam hay nữ là do các đặc tính khác như vóc dáng, bộ ngực, giọng nói, v.v... Về tâm sinh lư, trong Mahāvagga - Đại Phẩm thuộc tạng Luật có câu chuyện đề cập đến bản chất ham muốn về nhục dục của hạng người này. Chúng tôi tạm dịch là “vô căn” cho hạng người không có bộ phận sinh dục này cho dù là bẩm sinh hay bị thiến.
[28] Bhikkhupaccatthikā được Ṭīkā (Sớ Giải) giải thích là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu,” c̣n ngài Buddhaghosa thiên về ư “các tỳ khưu đối nghịch.” Theo văn phạm, hai cách dịch trên đều có khả năng tùy theo cách phân tích hợp từ bhikkhupaccatthikā là tappurisa hay kammadhāraya. Sự chọn lựa của ngài Buddhaghosa có phần hợp lư hơn, xin xem giải thích ở phần kế.
[29] Nếu ở trên dịch hợp từ bhikkhupaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu” th́ ở đây phải dịch rājapaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của vị vua” xét ra không hợp lư. Chính v́ ở đây phải dịch là “các vị vua đối nghịch” nên có thể xác định ư nghĩa cho từ bhikkhupaccatthikā ở trên là “các tỳ khưu đối nghịch.”
[30] Lúc này, vị tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa đă là vị A-la-hán. C̣n người thanh niên ấy khi vừa đi khuất tầm mắt của vị tỳ khưu ni th́ quả địa cầu đă nứt tạo ra lỗ hổng hút vào ḷng đất như thể quả địa cầu này không thể nâng đỡ nỗi kẻ độc ác ấy. Anh ta lập tức bị đọa vào địa ngục Avīci và ở vào trạng thái bị lửa địa ngục thiêu đốt (VinA. i, 273)
[31] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng vị này đẹp trai (sundara) và là vị Bất Lai nên không c̣n ưa thích về việc đôi lứa (VinA. i, 278).