BuddhaSasana Home Page TÌM HIỂU Dhammarakkhita Bhikkhu NHỮNG TÍCH BỐ THÍ Những tích bố thí dưới đây, được trích dịch tóm tắt từ các bộ
Apādāna, bộ Vimānavatthu, bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, bộ Chú
giải Aṅguttaranikāya, v.v.... Tích Bố Thí Những Vật Dụng Vào thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền
thân Ngài Ðại Ðức Pilindavaccha [Bộ chú giải Aṅguttaranikāya, phần
Etadaggavagga] là một cận sự nam có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật
Padumuttara. Một hôm, người cận sự nam này đến nghe thuyết pháp, nhìn thấy Ðức
Phật tuyên dương một Tỳ khưu xuất sắc đệ nhất trong hàng Thanh Văn
đệ tử về đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến. Người cận sự nam này
có nguyện vọng mong muốn được địa vị như vị Tỳ khưu ấy, nên làm
phước bố thí cúng dường Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng những vật
dụng như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh; và được Ðức Phật
Padumuttara thọ ký rằng: "Trong tương lai, còn 100 ngàn đại
kiếp nữa, đến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, người
cận sự nam này sẽ xuất gia trở thành Tỳ khưu, rồi sẽ được địa vị
xuất sắc đệ nhất đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến, như vị Tỳ khưu
đệ tử của Như Lai".
Người cận sự nam ấy, sau khi chết, do phước thiện bố thí những
vật dụng cho quả, khi thì tái sanh làm chư thiên cõi trời dục giới
hưởng đầy đủ mọi sự an lạc trên cõi trời ấy; khi thì tái sanh làm
người trong gia đình giàu sang phú quý, đầy đủ những món vật dụng
quý báu trong cõi người, kiếp nào cũng như vậy, suốt 100 ngàn đại
kiếp trái đất không hề sa đọa trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula,
ngạ quỷ, súc sanh); chỉ tái sanh những cõi thiện giới: cõi người,
cõi trời mà thôi. Ðến kiếp chót, được tái sanh làm người trong gia đình Bà la môn
dòng dõi cao quý, đặt tên Pilindavaccha. Vào thời kỳ Ðức Phật Gotama
xuất hiện trên thế gian, Ngài đến nghe pháp rồi phát sanh đức tin
trong sạch nơi Ðức Phật, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, tiến hành
thiền định và thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu
Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả cùng với
Tứ tuệ phân tích và Lục thông. Ðức Phật tuyên dương Ngài Ðại Ðức Pilinda-vaccha rằng: "Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ devatānaṃ
piyamanāpānaṃ yadidaṃ Pilindavaccho". "Này chư Tỳ khưu, trong hàng Tỳ khưu Thanh Văn đệ tử của Như Lai,
Pilindavaccha là Tỳ khưu cao quý nhất về đức hạnh, làm cho chư thiên
yêu mến". Như vậy, sự việc đã thành tựu đúng theo nguyện vọng của Ngài và
đúng theo lời thọ ký của Ðức Phật Padumuttara trong quá khứ. Tích Bố Thí Thuốc Tiền thân của Ngài Ðại Ðức Bākula được tóm lược như sau__ Thời kỳ Ðức Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian, tiền thân
Ngài Bākula là một vị đạo sĩ chứng đắc 8 bậc thiền, có ngũ thông,
đến hầu Ðức Phật nghe pháp, xin thọ Tam quy nơi Ðức Phật. [Bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga; Thời kỳ Ðức
Phật Anomadassī đến Ðức Phật Padumuttara cách 1 a tăng kỳ] Một thời nọ, Ðức Phật Anomadassī bị lâm bệnh phong hàn, vị đạo sĩ
(tiền thân Ngài Ðại Ðức Bākula) đi tìm thuốc đem về làm phước
bố thí cúng dường đến Ðức Phật. Nhờ uống thuốc ấy, Ðức Phật khỏi
bệnh. Vị đạo sĩ cầu nguyện rằng: do nhờ phước thiện bố thí thuốc,
trị khỏi bệnh của Ðức Phật, kiếp nào con cũng có sắc thân không bệnh
hoạn ốm đau.
Vị đạo sĩ ấy sau khi chết, do năng lực bậc thiền sở đắc của mình
được tái sanh lên cõi trời phạm thiên, những kiếp kế tiếp suốt 1 a
tăng kỳ tái sanh làm người hoặc chư thiên, phạm thiên. Ðến thời kỳ Ðức Phật Padumuttara [*], tiền thân Ngài Bākula sanh
trong gia đình quý tộc, thường đến nghe Ðức Phật thuyết pháp. Một
hôm, Ngài nhìn thấy Ðức Phật tuyên dương một vị Tỳ khưu xuất sắc
nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau. Ngài rất hoan hỉ có nguyện
vọng muốn được địa vị xuất sắc nhất ấy, Ngài cố gắng tạo mọi phước
thiện bố thí cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, nhất là
bố thí cúng dường thuốc trị bệnh. Ngài được Ðức Phật Padumuttara thọ
ký, trong vị lai, vào thời kỳ Ðức Phật Gotama, Ngài sẽ là bậc Thánh
Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật Gotama xuất sắc nhất về đức hạnh ít
bệnh hoạn ốm đau. Ngài vô cùng hoan hỉ tạo mọi phước thiện đến trọn
kiếp, do thiện nghiệp ấy cho quả chỉ tái sanh làm người hoặc chư
thiên nơi cõi trời mà thôi. Ðến thời kỳ Ðức Phật Vipassī [*] xuất hiện trên thế gian, tiền
thân Ngài Ðại Ðức Bākula sanh trong dòng dõi Bà la môn cao quý. Khi
trưởng thành Ngài xuất gia trở thành đạo sĩ chứng đắc các bậc thiền,
thường đến hầu Ðức Phật nghe pháp, thọ Tam quy nơi Ðức Phật. Vị đạo
sĩ thường đến hộ độ Ðức Phật. [*] Thời kỳ Ðức Phật Padumuttara cách trái đất của chúng ta
100 ngàn đại kiếp trái đất. Thời kỳ Ðức Phật Vipassī cách trái
đất của chúng ta 91 đại kiếp trái đất. Một lần nọ, có một số Tỳ khưu bị bệnh, vị đạo sĩ đi tìm thuốc về
làm phước bố thí chữa trị cho những vị Tỳ khưu ấy đều khỏi bệnh. Ðến
khi vị đạo sĩ hết tuổi thọ, do năng lực sắc giới thiện nghiệp cho
quả tái sanh lên cõi phạm thiên. Suốt 91 đại kiếp chỉ tái sanh làm
người hoặc chư thiên nơi cõi trời mà thôi. Ðến thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp
Ngài Ðại Ðức Bākula sanh trong gia đình giàu sang phú quý; Ngài đã
xây cất chánh điện, trai đường, nhà bếp, nhà vệ sinh, nhà thương
dâng cúng đến chư Tăng, đặc biệt thích làm phước bố thí thuốc trị
bệnh đến chư Tỳ khưu Tăng. Khi hết tuổi thọ, do phước thiện ấy cho
quả được tái sanh cõi trời và cõi người, không hề sa đọa trong 4 cõi
ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh). Kiếp hiện tại, cũng là kiếp chót, Ngài sanh trong gia đình phú hộ
xứ Kosambī. Ngài sanh ra đời đến ngày thứ năm, theo tục lệ, những
người vú nuôi bồng ẵm Ngài xuống dòng sông Yāmunā để tắm cho khỏi
bệnh. Một con cá lớn nhìn thấy đứa trẻ tưởng là miếng mồi, bơi đến
nuốt chửng Ngài vào bụng. Dầu Ngài nằm trong bụng con cá vẫn cảm
thấy an lạc. Do năng lực phước thiện của Ngài, làm cho con cá cảm
thấy nóng nảy bơi suốt 3 do tuần đến xứ Bārāṇasi thì bị mắc lưới của
dân chài xứ ấy. Dân chài bắt con cá đem bán cho gia đình phú hộ
Bārāṇasī không có con. Do năng lực phước thiện của Ngài, khiến cho
bà phu nhân phú hộ tự tay mình mổ bụng con cá phát hiện một đứa trẻ
nằm trong bụng con cá, bà vô cùng vui mừng, hạnh phúc được một đứa
trẻ, bà reo lên "tôi được một đứa con trong bụng cá".
Tiếng lành phi thường lan rộng, ông bà phú hộ Kosambī đến nhìn nhận
là đứa con trai của chính mình cưu mang đủ 10 tháng sinh ra, đứa bé
bị con cá nuốt vào bụng. Như vậy, đứa bé này đúng là con của họ,
không phải con của gia đình ông bà phú hộ xứ Bārāṇasī. Hai gia đình
phú hộ tranh chấp, không bên nào nhường bên nào. Họ đem sự việc
trình Ðức vua phán xử. Ðức vua phán rằng: đứa bé này là con
chung của hai gia đình phú hộ: phú hộ xứ Kosambī và phú hộ
Bārāṇasī. Do đó, đặt tên Ngài là Bākulakumāra có nghĩa là đứa bé
của hai gia đình. Ngài được hai gia đình nuôi dưỡng, mỗi gia
đình 4 tháng. Ngài ở gia đình bên này suốt 4 tháng rồi đến gia đình
bên kia 4 tháng, và cứ thế thay phiên như vậy. Cuộc đời Ngài hưởng sự an lạc của hai gia đình phú hộ suốt 80
năm. Trong thời kỳ Ðức Phật Gotama, một thuở nọ, Ðức Phật ngự đến xứ
Kosambī, Ngài Bākula đến hầu Ðức Phật lắng nghe chánh pháp, nhàm
chán đời sống tại gia, xin Ðức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ
khưu. Sau khi đã trở thành Tỳ khưu được 7 ngày, qua đến sáng ngày
thứ 8 Ngài tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo –
Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả
cùng với Tứ tuệ phân tích, hoàn thành xong phận sự của bậc xuất gia. Ðức Phật tán dương Ngài Ðại Ðức Bākula rằng: "Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ appābādhānaṃ
yadidaṃ Bākulo". "Này chư Tỳ khưu, trong hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Bākula
xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau". Những quả báu đều bắt nguồn từ phước thiện bố thí thuốc trị bệnh
đến Ðức Phật Anomadassī. Ngài Ðại Ðức Bākula ít bệnh hoạn ốm đau nhất, xuất gia trở thành
Tỳ khưu được 80 hạ. Ngài tịch diệt Niết Bàn lúc tròn 160 tuổi, là
người có tuổi thọ, sống lâu nhất trong giáo pháp của Ðức Phật
Gotama. Tích Bố Thí Ðèn Tiền thân của Ngài Ðại Ðức Pañcadīpaka là một cận sự nam trong
thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian [Bộ Apādāna,
tích Pañcadīpaka apādāna]. Người cận sự nam nhìn thấy những người Phật tử có đức tin nơi Ðức
Phật, thường đến lễ bái cúng dường tại đại cội Bồ Ðề của Ðức Phật
Padumuttara. Một hôm, Ngài phát sanh đức tin trong sạch bố thí những
ngọn đèn thắp sáng chung quanh cúng dường đại cội Bồ Ðề. Do năng lực bố thí đèn cúng dường đại cội Bồ Ðề ấy, Ngài được tái
sanh làm vua cõi Tam thập tam thiên hưởng sự an lạc trong cõi trời
ấy; khi tái sanh làm người là Ðức Chuyển luân thánh vương, hoặc làm
Vua một nước lớn hưởng sự an lạc trong cõi người, suốt 100 ngàn đại
kiếp trái đất, chỉ tái sanh những cõi thiện giới: cõi người và cõi
trời, không hề bị sa đọa trong 4 cõi ác giới. Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài sanh
trong gia đình quý tộc. Khi trưởng thành, một hôm đến nghe Ðức Phật
thuyết pháp phát sanh tâm nhàm chán đời sống tại gia, xin Ðức Phật
cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Sau khi trở thành Tỳ khưu, Ngài
tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ chứng đắc từ Nhập Lưu
Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán
Thánh Quả với Tứ tuệ phân tích, Lục thông, hoàn thành xong phận sự
của Sa môn. Như vậy, tất cả quả báu đều bắt nguồn từ bố thí đèn
thắp sáng chung quanh cúng dường đại cội Bồ Ðề của Ðức Phật
Padumuttara. Tích Bố Thí Vật Thực Trong bộ Vimāvatthu, tích Bhikkhādāyakavi-māna được tóm lược như
sau: Người cận sự nam ở trong nhà, rửa tay sửa soạn dùng vật thực,
đang xới cơm ra đĩa để ăn, nhìn thấy một vị Tỳ khưu đi khất thực
đang đứng trước cửa nhà. Người cận sự nam đem đĩa cơm, có một món đồ
ăn ra để vào bát vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu cầu nguyện an lành xong rồi
đi. Người cận sự nam vô cùng hoan hỉ nghĩ rằng: "Hôm nay, ta nhịn
ăn, dành vật thực làm phước bố thí cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy".
Về sau người thí chủ ấy chết, do năng lực phước thiện bố thí vật
thực ấy cho quả, được tái sanh làm vị thiên nam ở cõi Tam thập tam
thiên có lâu đài bằng vàng cao 12 do tuần, xung quanh lâu đài có 700
phòng lớn, những cây cột bằng ngọc quý, những đồ trang trí toàn bằng
những vật quý giá. Vị thiên nam có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời mọi phương
hướng, có nhiều thiên nữ hầu hạ ngày đêm.... Tất cả mọi quả báu phát sanh do phước thiện bố thí vật thực đến
vị Tỳ khưu. Tích Bố Thí Dép Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna bay lên cõi Tam thập tam thiên, nhìn
thấy một lâu đài nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nữ hầu hạ, bèn
hỏi rằng: - Này thiên nữ, tiền kiếp cô đã tạo phước thiện gì, kiếp này cô
hưởng sự an lạc như vậy? Thiên nữ Upāhanadāyikā trả lời Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna: - Kính bạch Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, con là thiên nữ
Upāhanadāyikā. Kiếp trước, khi ở cõi người vào thời Ðức Phật Kassapa
xuất hiện trên thế gian, con nhìn thấy vị Tỳ khưu đang đi bát, con
có dâng một đôi dép đến vị Tỳ khưu. Do năng lực phước thiện bố thí
dép ấy, cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập tam thiên, trong lâu
đài xinh đẹp, có thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc như thế này. Tích Bố Thí Hoa Thời kỳ Ðức Phật Sikhi xuất hiện trên thế gian, một người bán hoa
lài, đem hoa từ rừng ra, giữa đường gặp Ðức Phật Sikhi ngự đi khất
thực, người ấy phát sanh đức tin trong sạch, để giỏ hoa xuống đảnh
lễ Ðức Phật rồi cúng dường Ðức Phật một nắm hoa lài. [Thời kỳ Ðức
Phật Sikhi cách trái đất chúng ta 31 đại kiếp trái đất.] Ðức Phật muốn làm cho người bán hoa phát sanh đức tin, nên hóa
phép thần thông ghép những đóa hoa thành lọng che trên đầu Ngài, cho
đến khi ngự trở về chùa mới biến mất. Người bán hoa nhìn thấy vô
cùng ngạc nhiên, vô cùng hoan hỉ. Ðến khi hết tuổi thọ, do phước
thiện bố thí cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập tam thiên. Do
năng lực phước thiện bố thí hoa ấy, chỉ cho quả tái sanh cõi trời,
cõi người suốt 31 đại kiếp trái đất, không hề bị sa đọa trong 4 cõi
ác giới. Thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của
người bán hoa, cũng do năng lực phước thiện bố thí hoa ấy cho quả
tái sanh làm người, gặp Ðức Phật Gotama xin phép xuất gia trở thành
Tỳ khưu, hành thiền tuệ chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Quả. Tích Bố Thí 4 Quả Xoài Trong bộ Vimānavatthu, tích Phaladāyaka-vimāna được tóm lược như
sau: Một người làm vườn xoài của Ðức vua Bimbisāra, một hôm, Ðức vua
truyền gọi người làm vườn xoài đến và phán rằng: - Này ngươi, Trẫm muốn thưởng thức xoài; ngươi có thể làm cách
nào để có xoài, đem đến dâng Trẫm được hay không? - Tâu bệ hạ! Lúc này không phải mùa xoài, xin bệ hạ ráng đợi một
thời gian ngắn, hạ thần sẽ cố gắng làm cho cây xoài ra quả sớm. Ðức vua ưng thuận, người làm vườn xoài chọn một cây xoài rồi chăm
sóc đặc biệt, làm cho cây xoài ra bông, kết trái chín được 4 quả.
Người ấy đem đến dâng Ðức vua, trên đường đi, nhìn thấy Ngài Ðại Ðức
Mahāmoggallāna đang đi khất thực, liền nghĩ rằng: "Những quả xoài
này trái mùa rất ngon, ta nên làm phước bố thí để bát đến Ngài Ðại
Ðức Mahāmoggallāna, dầu Ðức vua có giết ta hoặc đuổi ta ra khỏi
nước, ta cũng chấp nhận. Nếu ta đem 4 quả xoài này đến dâng cho Ðức
vua, thì ta chỉ được bỗng lộc trong kiếp hiện tại mà thôi; còn như
ta làm phước thiện bố thí dâng 4 quả xoài này đến Ngài Ðại Ðức, thì
ta không những được quả báu ở kiếp hiện tại mà còn vô lượng kiếp vị
lai nữa".
Nghĩ vậy, người ấy đem 4 quả xoài đến cung kính làm phước để bát
dâng đến Ngài Ðại Ðức. Khi dâng xong, tâm cảm thấy vô cùng hoan hỉ,
đi đến hầu Ðức vua tâu rõ mọi việc rồi xin chịu tội. Nghe tâu xong, Ðức vua truyền lệnh cho một vị quan điều tra xem
chuyện này thực hư như thế nào, rồi về trình Ðức vua. Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đem 4 quả xoài kính dâng đến Ðức
Phật, Ðức Phật độ 1 quả, còn 3 quả, Ngài ban phát cho Ngài Ðại Ðức
Sāriputta, Ngài Mahāmoggallāna, Ngài Mahākassapa mỗi Ngài 1 quả. Vị quan trở về tâu Ðức vua biết sự việc ấy, nghe vậy, Ðức vua vô
cùng hoan hỉ nghĩ rằng: người làm vườn là bậc Thiện trí, dám hy sinh
sanh mạng để mưu cầu phước thiện thanh cao. Ðức vua ban thưởng cho người làm vườn một làng để thu thuế, vàng,
bạc, vải, đồ đạc... và Ðức vua yêu cầu rằng: "Nhà ngươi có cơ hội
tốt làm phước thiện bố thí 4 quả xoài đến Ngài Ðại Ðức, vậy nhà
ngươi hãy chia phần phước thiện ấy đến cho Trẫm với".
Người làm vườn xoài tâu rằng: - Tâu bệ hạ! Kính xin bệ hạ hoan hỉ phần phước thiện ấy. Về sau, người làm vườn xoài ấy chết, do năng lực phước thiện bố
thí ấy cho quả tái sanh làm thiên nam cõi Tam thập tam thiên trong
lâu đài bằng vàng cao 16 do tuần, có 700 phòng lớn, cột bằng ngọc
quý, những đồ trang trí quý giàu; là một thiên nam có nhiều oai lực,
có hào quang sáng ngời khắp mọi phương, có rất nhiều thiên nữ hầu
hạ, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời. Ðó là quả báu của phước thiện bố thí 4 quả xoài đến Ngài Ðại Ðức
Mahāmoggallāna. Tích Bố Thí Cơm Cháy Trong bộ Vimānavatthu, tích Ācāmadāyikā-vimāna được tóm lược như
sau: Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống nhờ đằng sau hiên nhà người
khác, người ta nhìn thấy bà đáng thương nên thường cho cơm, cháo và
miếng cơm cháy... để bà sống qua ngày. Một hôm, Ngài Ðại Ðức Mahākassapa vừa xả diệt thọ tưởng định,
quán xét nên đi khất thực để tế độ người nào. Ngài nhìn thấy một bà
già nghèo khổ, gần chết, nếu bà chết có thể sa đọa địa ngục. Ngài
nghĩ nên đi khất thực tế độ bà, để cứu vớt bà tránh khỏi bị sa đọa
địa ngục, do nhờ phước thiện bố thí miếng cơm cháy, còn cho quả tái
sanh lên cõi Hóa lạc thiên. Xét thấy như vậy, vào buổi sáng, Ngài mặc y mang bát đi đến chỗ ở
của bà. Trong khi đó vua trời Sakka biến hóa thành người già đem vật
thực đến để bát dâng cho Ngài, Ngài biết người già đó là vua trời
Sakka, nên bảo rằng: - Này Ðức vua trời, ông không nên giành phước báu của người nghèo
khổ. Ngài không chịu dỡ bát, vẫn đứng yên trước bà già nghèo khổ kia.
Bà nghĩ rằng: Ngài Ðại Ðức là bậc có giới đức lớn, được phần đông
tôn kính, phận ta nghèo khổ không có gì quý giá để làm phước thiện
bố thí đến Ngài, ta chỉ có nước cơm và miếng cơm cháy không ngon
lành gì cả. Vã lại, còn đựng trong một đồ dùng không sạch sẽ, ta nào
dám làm phước bố thí để bát đến Ngài được. Nên bà bạch rằng: - Kính xin Ngài đi nơi khác. Bạch Ngài. Ngài vẫn đứng yên không đi nơi khác, những người khác đem vật
thực đến để bát dâng cúng, Ngài vẫn không dỡ nắp bát để nhận. Bà già
nghĩ rằng: chắc chắn Ngài Ðại Ðức đứng đây để tế độ ta. Bà phát
sanh đức tin trong sạch muốn làm phước thiện bố thí. Bà đem miếng
cơm cháy đến, Ngài liền dỡ nắp bát, bà để vào trong bát cúng dường
Ngài một cách tôn kính.
Ngài Ðại Ðức tỏ vẻ muốn thọ thực, để cho bà thấy, càng phát sanh
đức tin trong sạch, hoan hỉ trong việc phước thiện bố thí của bà.
Mọi người hiểu ý, trải chỗ ngồi, Ngài ngồi thọ thực miếng cơm cháy
ấy. Uống nước xong, Ngài thuyết pháp, làm cho bà già hoan hỉ trong
phước thiện bố thí của mình và cho bà biết được rằng; bà đã từng là
thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp. Bà càng có đức tin trong sạch nơi
Ngài Ðại Ðức và vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí đã làm. Về sau,
bà chết, do năng lực phước thiện bố thí cho quả, được tái sanh làm
thiên nam cõi Hóa lạc thiên (cõi thứ năm trong 6 cõi trời dục
giới) có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy. Tích Dâng Vật Thực Ðến Ðức Phật Trong bộ Vimānavatthu, tích Bhikkhadāyikā-vimāna được tóm lược
như sau: Vào canh chót đêm, Ðức Phật nhập đại bi định, khi xả định quán
xét chúng sinh nên tế độ, Ngài nhìn thấy một người đàn bà sắp hết
tuổi thọ, sau khi chết, do ác nghiệp của bà đã tạo sẽ bị sa vào địa
ngục. Ðức Phật muốn tế độ bà tránh khỏi cảnh địa ngục, được tái sanh
cõi trời. Sáng hôm ấy, Ðức Phật một mình mặc y mang bát ngự đến kinh thành
Uttaramadhura để tế độ người đàn bà ấy. Người đàn bà nấu cơm xong,
lấy hũ đi lấy nước, trên đường về nhà gặp Ðức Phật, bạch rằng: - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài đã thọ nhận vật thực được hay chưa?
Bạch Ngài. - Chắc sẽ được. – Ðức Phật đáp. Người đàn bà biết Ðức Phật chưa được vật thực, nên kính thỉnh Ðức
Phật đến nhà bà để dâng cúng, Ðức Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời
của bà. Bà vô cùng hoan hỉ đi về nhà trước, sửa soạn trải chỗ ngồi
chờ tiếp đón Ðức Phật vào nhà, ngồi chỗ cao quý, chính tự tay bà
dâng cúng những vật thực. Ðức Phật thọ thực xong, thuyết pháp để cho
bà hoan hỉ phước thiện bố thí của mình. Sau đó 2 – 3 ngày bà chết, do năng lực phước thiện bố thí vật
thực cho quả, được tái sanh làm thiên nữ trong lâu đài xinh đẹp, có
ngàn thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc trong cõi trời. Tích Bố Thí Bánh Trong bộ Vimānavatthu, tích Uḷāravimāna được tóm lược như sau: Cô gái sanh trưởng trong gia đình thường hộ độ Ngài Ðại Ðức
Mahāmoggallāna, cô có đức tin nơi Tam bảo, hoan hỉ trong việc bố
thí, khi lớn lên cô có chồng, làm dâu trong gia đình ngoại đạo tà
kiến. Một hôm, Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đi khất thực trong thành
Rājagaha, đang đứng trước cửa nhà chồng, cô nhìn thấy liền thỉnh vào
nhà, đảnh lễ Ngài xong, khi ấy mẹ chồng không có ở nhà, cô tự xem là
con dâu trong nhà, cô mới dám lấy cái bánh mà mẹ chồng để trong tủ
đồ ăn, đem làm phước thiện bố thí để bát đến Ngài Ðại Ðức
Mahāmoggallāna. Cô nghĩ rằng, khi mẹ chồng trở về, cô sẽ thưa lại,
chắc mẹ chồng hoan hỉ lắm. Ngài Ðại Ðức thuyết pháp, làm cho cô hoan hỉ phước thiện bố thí
rồi đi ra. Khi mẹ chồng trở về, cô thưa lại với bà rằng: - Thưa mẹ, con đã lấy cái bánh mẹ để trong tủ đem làm phước để
bát đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna rồi, xin mẹ hoan hỉ phần phước
thiện bố thí này. Mẹ chồng nghe như vậy, không hoan hỉ, lại còn tức giận mắng chửi
nàng dâu thậm tệ rằng: Tại sao đem bánh cho Sa môn! Vì tức giận quá, không còn biết tội lỗi nữa, bà mẹ chồng cầm cái
chầy đâm tiêu đánh nàng dâu trọng thương, 2 – 3 ngày sau cô chết. Cô
dâu vốn là người có đức tin nơi Tam bảo, có thiện tâm hoan hỉ trong
sự bố thí, nhất là phước thiện bố thí để bát cái bánh cúng dường đến
Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna hiện rõ trong khi sắp chết. Cho nên, sau
khi chết, do năng lực phước thiện ấy cho quả, được tái sanh làm một
thiên nữ có nhiều oai lực cõi Tam thập tam thiên, trong lâu đài bằng
vàng nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nữ hầu hạ đờn ca múa hát,
hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời. Tích Một Lần Ðể Bát Trong bộ Therī-apādāna, tích Ekapiṇṇapāti-katherī được tóm lược
như sau: Tiền thân của Ðại Ðức Tỳ khưu ni Ekapiṇṇapā-tikatherī là Hoàng
hậu của Ðức vua Bandhumā vào thời Ðức Phật Vipassī xuất hiện trên
thế gian, trong thời đại con người có tuổi thọ khoảng 80.000 năm,
cách kiếp trái đất này 91 đại kiếp trái đất. Một hôm, có nguyện vọng
muốn để bát, bà hoàng hậu đến tâu lên Ðức vua rằng: - Tâu hoàng thượng! Thần thiếp có nguyện vọng muốn để bát một vị
Tỳ khưu, kính xin hoàng thượng cho phép thỉnh một vị Tỳ khưu về cung
để thần thiếp làm phước bố thí cúng dường vật thực. Ðức vua chuẩn tấu xong, truyền vị quan thỉnh một vị Tỳ khưu vào
cung. Hoàng hậu có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, vô cùng hoan hỉ cung
kính lễ bái vị Tỳ khưu xong, tự tay mình để những vật thực vào bát
cúng dường vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu nhận vật thực xong, phúc chúc
hoàng hậu rồi đi ra. Với tác ý thiện tâm hoan hỉ đầy đủ 3 giai đoạn: trước khi làm
phước thiện bố thí, đang khi làm phước thiện bố thí và sau khi đã
làm xong phước thiện bố thí; dầu chỉ một lần để bát cúng dường đến
vị Tỳ khưu ấy, nhưng hoàng hậu vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí,
thường niệm tưởng đến phước thiện bố thí (cāgānussati). Hoàng
hậu đến khi hết tuổi thọ (chết), do năng lực phước thiện bố thí để
bát cúng dường một lần đến vị Tỳ khưu ấy, cho quả tái sanh làm thiên
nữ cõi Tam thập tam thiên; suốt 30 kiếp làm Hoàng hậu của Ðức vua
trời Sakka cõi Tam thập tam thiên; khi tái sanh cõi người, làm chánh
cung Hoàng hậu của Ðức Chuyển luân thánh vương 20 kiếp; suốt 91 đại
kiếp trái đất không hề sa đọa 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ
quỷ, súc sanh) chỉ tái sanh cõi thiện giới: cõi trời và cõi
người mà thôi. Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, do thiện
nghiệp ấy cho quả được tái sanh làm công chúa Mittā dòng Sakya, ở
kinh thành Kapilavatthu. Khi Ðức Phật ngự trở về thuyết pháp tế độ
hoàng tộc Sakya, công chúa nghe pháp, thọ Tam quy và thọ trì bát
giới, đến khi bà Gotamī từ bỏ cung điện đi xuất gia trở thành Tỳ
khưu ni cùng với 500 cô gái dòng Sakya, trong đó có công chúa Mittā.
Sau khi trở thành Tỳ khưu ni, tinh tấn tiến hành thiền tuệ, chứng
đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán
Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đến khi
tịch diệt Niết Bàn chấm dứt khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Những quả phước thiện bắt nguồn từ phước thiện bố thí để bát cúng
dường một lần đến một vị Tỳ khưu, do đó, có tên là
Ekapiṇṇapātikatherī: vị Ðại Ðức Tỳ khưu ni một lần để bát.
Tích Bố Thí Nước Trong bộ Apādāna tích Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu ni Udakadāyikātherī
tóm lược như sau: Thời kỳ Ðức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài
Ðại Ðức Tỳ khưu ni Udaka-dāyikātherī, là người đàn bà nghèo, sống
bằng nghề đội nước dùng đến các nhà phú hộ, nhà các vị quan, nhà
giàu có... khi nhìn thấy những người giàu có làm phước thiện bố thí
đến chư Tỳ khưu Tăng, bà suy xét rằng: "người ta có nhiều của
cải, họ muốn làm mọi phước thiện bố thí thật dễ dàng, còn ta nghèo
khổ thiếu thốn, không có vật gì đáng để làm phước thiện bố thí được
cả; kiếp này ta đã nghèo khổ, ta không bố thí, kiếp sau ta lại càng
nghèo khổ hơn nữa; tốt hơn, ta nên đội nước để làm phước thiện bố
thí vậy".
Bà suy xét như vậy, từ đó về sau, hằng ngày bà làm phước thiện bố
thí nước đến chư Tỳ khưu Tăng để uống, để dùng. Trong chùa, chỗ nào
có đồ đựng nước uống, bà đổ đầy nước uống, chỗ nào đựng nước dùng,
bà đổ đầy nước dùng, vì thế chư Tỳ khưu Tăng được đầy đủ nước uống,
nước dùng. Sau khi bà chết, do phước thiện bố thí nước cho quả tái
sanh cõi thiện giới: cõi trời và cõi người hưởng được mọi sự an lạc Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân
người đàn bà ấy, do phước thiện cho quả tái sanh làm người, đến hầu
Ðức Phật nghe pháp, xin Ðức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu
ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni không lâu, bà tiến hành thiền tuệ,
chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến
A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sanh
luân hồi trong tam giới. Bố thí nước có 7 quả báu 1- Ðược nhiều kiếp làm vua trời. Ðó là 7 quả báu của phước thiện bố thí nước. Nhân Và Quả Tương Xứng Quả tuỳ thuộc vào nhân. Nhân thế nào, quả thế ấy; nghĩa là nhân
tốt thì cho quả tốt, nhân xấu thì cho quả xấu, lâu hay mau tuỳ theo
năng lực của nghiệp ấy. Như trong bài kinh Manāpadāyīsutta [1] tóm lược như sau: Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại giảng đường Kutāgāra trong khu
rừng lớn gần xứ Vesāli. Vào buổi sáng, Ðức Thế Tôn mặc y, mang bát
ngự đi khất thực, vào biệt thự của ông cư sĩ Ugga, người dân thành
Vesāli, ngồi trên toạ cụ cao quý. Khi ấy ông cư sĩ Ugga đảnh lễ Ðức
Thế Tôn rồi ngồi nơi hợp lẽ, bèn bạch với Ðức Thế Tôn rằng: - Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe từ kim ngôn của Ngài
rằng: "Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".
Như vậy, món ăn tên Sālapupphaka [2] thơm ngon như hoa sāla làm
rất công phu, là món ăn mà con rất hài lòng ưa thích nhất; con đã
kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận
món ăn ấy của con rồi. - Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe từ kim ngôn của Ngài
rằng: "Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng"
Như vậy, món thịt heo loại ngon [3] (sampanna-varasukaramaṃsa)
nấu rất công phu thật ngon lành, mà con rất hài lòng ưa thích
nhất; con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi
tế độ thọ nhận món ăn ấy của con rồi. Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố thí
vật hài lòng, thường được vật hài lòng".
Như vậy, món ăn Nāḷiyāsāka [4] là món rau trộn với bột gạo sāli
chiên bơ rất thơm ngon, là món ăn mà con rất hài lòng ưa thích nhất,
con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ
thọ nhận món ăn ấy của con rồi. - Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố
thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".
Như vậy, cơm nấu bằng gạo Sāli thượng hạng, cùng với các món đồ
ăn ngon lành, là món ăn rất hài lòng nhất đối với con, con đã kính
dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ lãnh món
vật thực ấy của con rồi. - Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố
thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".
Như vậy, một chiếc giường làm bằng gỗ quý có 4 chân chạm trổ hình
thú dữ với nghệ thuật tuyệt vời, lót trải tấm vải làm bằng lông cừu
màu trắng, phủ một lớp vải có thêu những đoá hoa rất xinh đẹp, có
gối đầu, gối hai bên... là chiếc giường mà con rất hài lòng ưa thích
nhất. Nhưng con biết rằng chiếc giường ấy không thích hợp với Ðức
Thế Tôn. Con có chiếc giường khác làm bằng gỗ trầm hương [5], giá
100 ngàn kahāpana [6] cũng là một chiếc giường mà con rất hài lòng
ưa thích nhất, con đã dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ
bi tế độ thọ nhận chiếc giường ấy của con rồi. Sau khi ông cư sĩ Ugga bạch xong, Ðức Phật thuyết bài kệ rằng: Người có đức tin tốt, bố thí vật hài lòng, Thuyết bài kệ tế độ làm cho ông cư sĩ Ugga xứ Vesāli vô cùng hoan
hỉ xong, Ðức Phật rời khỏi tư thất của ông trở về chùa. Sau đó thời gian không lâu, ông cư sĩ Ugga xứ Vesāli qua đời, do
phước thiện ấy cho quả tái sanh lên cõi trời bậc cao trong nhóm chư
thiên có tên Manomaya (thành tựu do tâm).
Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, khi ấy, vào
canh giữa đêm, vị thiên nam Ugga có hào quang sáng ngời hiện xuống
ngôi chùa Jetavana, làm cho toàn ngôi chùa sáng ngời, đến hầu đảnh
lễ Ðức Thế Tôn xong, đứng một nơi hợp lẽ. Ðức Thế Tôn bèn hỏi rằng: - Này Ugga, những điều mong ước của con đã thành tựu rồi hay
chưa? - Kính bạch Ðức Thế Tôn, những điều mong ước của con đã được
thành tựu rồi, bạch Ngài. Khi ấy Ðức Thế Tôn thuyết bài kệ rằng: Người thí vật hài lòng, với thiện tâm hoan hỉ, [1] Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Manāpadāyīsutta. [2] Sālapupphaka: một món ăn làm bằng bột gạo sàli trộn với
các đồ gia vị ngon lành, chiên bơ... là món ăn làm rất công phu,
rất ngon có mùi thơm như hoa sàla. [3] Chiếc giường bằng gỗ trầm hương, Ðức Phật cho cưa từng
mảnh nhỏ, ban cho tất cả chư Tỳ khưu tán thành bột làm thuốc nhỏ
mắt. [4] Kahāpana: là thứ tiền vàng xứ Ấn thời xưa. [5] Sampannavarasukaramaṃsa: món thịt heo ngon nấu với các đồ
gia vị ngon lành, để cất kỷ một năm sau mới dùng. [6] Nāḷiyāsāka: món rau làm rất công phu, rất ngon lành. Ưu Thế Ðặc Biệt Của Thí Chủ Ở trong đời này, người có phước thiện bố thí luôn luôn có ưu thế
hơn người không bố thí. Tìm hiểu bài kinh Sumanāsutta [Aṅguttaranikāya, Phần
Pañcakanipāta, kinh Sumanāsutta] tóm lược như sau: Sumanā là công chúa của Ðức vua Paseṇadi xứ Kosala. Cô công chúa
có một đoàn nữ tuỳ tùng 500 người đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong
bạch rằng: Kính bạch Ðức Thế Tôn, hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức Thế Tôn có 2
vị có đức tin, có giới, có trí tuệ
đồng đều nhau. Song, một vị này có phước bố thí và một vị
kia không có phước bố thí; cả hai vị ấy khi từ bỏ cõi đời này, do
thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên cùng một cõi trời dục
giới giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai chư thiên ấy
hay không? Bạch Ngài. Ðức Phật dạy rằng: - Này Sumanā, hai vị thiên nam ấy có sự khác biệt nhau là: Vị thiên nam vốn có phước bố thí có ưu thế hơn hẳn vị thiên nam
vốn không có phước bố thí bởi 5 điều trong cõi trời là: - Tuổi thọ sống lâu. Này Sumanā, vị thiên nam có phước bố thí đặc biệt hơn hẳn vị
thiên nam không có phước bố thí bởi 5 điều trong cõi trời ấy như
vậy. - Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu hai vị thiên nam ấy sau khi chết từ
cõi trời, đều tái sanh làm người. Cả hai người này cũng là loài
người giống nhau. Vậy có gì đặc biệt khác nhau giữa hai người ấy hay
không? Bạch Ngài. - Này Sumanā, hai người này có sự khác biệt nhau là: người có
phước bố thí có ưu thế hơn người không có phước bố thí bởi 5 pháp:
sống lâu, sắc đẹp, an lạc, danh tiếng, tuỳ tùng đông và quyền lực
lớn trong cõi người. Này Sumanā, người có phước bố thí ưu thế hơn người không có phước
bố thí bởi 5 pháp như vậy. - Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu cả hai người đều xuất gia trở thành
Tỳ khưu giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai vị Tỳ
khưu ấy hay không? Bạch Ngài! - Này Sumanā, hai vị Tỳ khưu này có sự khác biệt nhau, vị Tỳ khưu
có phước bố thí ưu thế hơn vị Tỳ khưu không có phước bố thí bởi 5
pháp là: Tỳ khưu có phước bố thí, - Nếu cần y, thì có được nhiều y; không cần y cũng có được ít
y. - Nếu cần vật thực, thì có được nhiều vật thực; không cần vật
thực cũng có được ít vật thực. - Nếu cần chỗ ở, thì có được chỗ ở to lớn; không cần chỗ ở
cũng có được chỗ ở vừa. - Nếu cần thuốc trị bệnh, thì có được nhiều thuốc trị bệnh;
không cần thuốc trị bệnh cũng có được ít thuốc trị bệnh. - Khi sống chung với những bạn đồng phạm hạnh nào, những
người bạn ấy thường có thân, khẩu, ý đối xử tốt, đáng hài lòng
nhiều hơn là đối xử xấu, không hài lòng; thường đem lại điều hài
lòng nhiều hơn là điều không hài lòng. Này Sumanā, vị Tỳ khưu có phước bố thí ưu thế hơn vị Tỳ khưu
không có phước bố thí bằng năm pháp như vậy. - Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu hai vị đều chứng đắc thành bậc Thánh
A-ra-hán giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai vị thánh
A-ra-hán hay không? Bạch Ngài. - Này Sumanā, Như Lai không nói đến có sự khác biệt giữa sự giải
thoát (A-ra-hán Thánh Ðạo) của người này, với sự giải thoát
(A-ra-hán Thánh Ðạo) của người kia. - Kính bạch Ðức Thế Tôn, thật là điều phi thường! Kính bạch Ðức Thế Tôn, thật là điều chưa từng được nghe như vậy
bao giờ! Kính bạch Ðức Thế Tôn, như vậy, nên làm phước thiện bố thí, nên
làm mọi phước thiện, bởi vì phước thiện này làm duyên hỗ trợ sau khi
tái sanh cõi trời, cõi người, hay ngay sau khi xuất gia trở thành Tỳ
khưu. Ðúng như vậy Sumanā! Nên làm phước thiện bố thí, nên làm mọi
phước thiện, bởi vì phước thiện này làm duyên hỗ trợ sau khi tái
sanh cõi trời, cõi người, hay ngay sau khi xuất gia trở thành Tỳ
khưu. Bố Thí Có Quả Báu Vô Lượng Bố thí để có được quả báu vô lượng, sự bố thí ấy phải hợp đủ 6
pháp. Thí chủ hợp đủ 3 pháp và người thọ thí hợp đủ 3 pháp, gồm đủ 6
pháp, chắc chắn quả báu vô lượng, đáng hài lòng hoan hỉ. A- Ðối với người thí chủ hợp đủ 3 pháp là:
1- Trước khi bố thí, thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch và
hoan hỉ. 2- Ðang khi bố thí, thí chủ có tác ý thiện tâm, có đức tin
trong sạch, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ hiểu biết
rõ nghiệp là của riêng mình. 3- Sau khi bố thí xong, thí chủ có tác ý thiện tâm trong
sạch, có thiện tâm hoan hỉ phước thiện bố thí đã tạo xong; mỗi
khi nghĩ đến phước bố thí ấy, thí chủ phát sanh thiện tâm trong
sạch và hoan hỉ, không để ác tâm nào phát sanh xen lẫn làm cho
tâm ô nhiễm. B- Ðối với người thọ thí hợp đủ 3 pháp là: 1- Người thọ thí là bậc Thánh không còn tham ái (hoặc hành
giả tiến hành thiền tuệ cốt để diệt tận tâm tham ái). 2- Người thọ thí là bậc Thánh không còn sân hận (hoặc hành
giả đang tiến hành thiền tuệ cốt để diệt tận tâm sân hận). 3- Người thọ thí là bậc Thánh không còn tâm si mê (hoặc hành
giả đang tiến hành thiền tuệ cốt để diệt tận tâm si mê). Phước bố thí hợp đầy đủ 6 chi pháp như vậy, thì chắc chắn quả báu
của phước bố thí vô lượng, sự an lạc vô lượng, tái sanh cảnh giới
nào cũng được sự sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh, trí tuệ tuyệt
vời trong cảnh giới ấy. -ooOoo-
Ðầu trang
| Mục lục
| 01
| 02
| 03
| 04.a
| 04.b
| 05
| 06
| 07
| 08
| 09
| 10
| 11
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Hộ
Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PHƯỚC BỐ THÍ
(Tỳ khưu Hộ Pháp)
2- Ðược nhiều kiếp làm Ðức chuyển luân thánh vương.
3- Tránh khỏi sa vào 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ,
súc sanh.
4- Ở nơi nào, nơi ấy có nước đầy đủ.
5- Ít bệnh hoạn ốm đau, có sắc thân xinh đẹp.
6- Dầu mùa nắng hoặc mùa lạnh, khi cầu mưa, thì có mưa ngay.
7- Diệt được phiền não ô nhiễm.
Thường được vật hài lòng. Người bố thí y phục,
Vật thực, nước, chỗ ở, thuốc men, vật dụng khác,
Với tâm rất hoan hỉ, đến bậc có giới đức.
Những vật bố thí rồi, là vật đã xả ly,
Không nghĩ lấy trở lại. Người ấy có trí tuệ,
Hiểu biết rõ ràng rằng, bậc Thánh A-ra-hán
Như phước điền cao thượng. Bố thí vật khó thí,
Gọi là vật hài lòng, thường được vật hài lòng.
Thường được vật hài lòng. Người thí vật quý báu,
Thường được vật quý báu. Người thí vật tốt lành,
Thường được vật tốt lành. Người thí vật quý nhất,
Thường được vật quý nhất. Người thí vật quý báu,
Tốt lành và quý nhất, tái sanh cảnh giới nào,
Thường được sự sống lâu, sự hiển vinh, quyền lực.
- Sắc đẹp tuyệt vời.
- An lạc tuyệt vời.
- Danh tiếng, tuỳ tùng đông.
- Quyền lực lớn trong cõi trời ấy.
last updated: 01-07-2003