BuddhaSasana Home Page TÌM HIỂU Dhammarakkhita Bhikkhu NGHIỆP LỰC Nghiệp lực là năng lực của nghiệp hoàn toàn độc lập,
không bị chi phối bởi một oai lực nào khác. Chính nghiệp cho quả
phân loại các chúng sinh khác nhau: lớn hoặc nhỏ, cao thượng hoặc
thấp hèn, bậc Thiện trí hoặc kẻ si mê, v.v..., tạo ra cảnh giới tái
sanh khác nhau trong tam giới, gồm có 31 cõi.
Nghiệp ấy chính là tác ý (cetanā).
Tác ý (cetanā) tạo thành nghiệp thường trải qua ba thời
kỳ: 1- Tác ý trước khi tạo nghiệp. Mỗi thời kỳ tác ý có tính chất đặc biệt của nó. Tác Ý Tạo Thiện Nghiệp A. Tính chất đặc biệt tác ý thiện tâm đang khi bố thí Sự thành tựu phước thiện bố thí do tác ý thiện tâm đang khi
bố thí đóng vai trò quan trọng, phân chia hai loại thiện
tâm: 1- Thiện tâm có tam nhân (tihetukakusala).
Làm thế nào được thiện tâm có tam nhân? Nếu thí chủ có tác ý thiện tâm đang khi tạo phước thiện bố thí
hợp với trí tuệ biết rõ nghiệp là của riêng mình
(kammassakatañāṇa), thì phước thiện bố thí ấy hợp đủ tam
thiện nhân (vô tham, vô sân, vô si = trí tuệ), gọi là
tihetukakusala: thiện tâm có tam nhân, đó là dục giới đại
thiện tâm hợp với trí tuệ.
Làm thế nào được thiện tâm có nhị nhân? Nếu thí chủ có tác ý thiện tâm đang khi tạo phước thiện bố thí
không hợp với trí tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì
phước thiện bố thí ấy chỉ có nhị thiện nhân (vô
tham, vô sân), gọi là dvihetukakusala: thiện tâm có nhị nhân,
đó là dục giới đại thiện tâm không hợp với trí tuệ.
B. Tính chất đặc biệt tác ý thiện tâm trước và sau khi đã bố thí Tác ý thiện tâm trước khi bố thí và tác ý thiện tâm sau khi đã bố
thí có tầm quan trọng phân chia hai loại thiện tâm: 1- Thiện tâm bậc cao (ukkaṭṭhakusala).
Thiện tâm bậc cao là thế nào? Với đức tin trong sạch muốn tạo phước thiện bố thí, thí chủ có
tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo phước thiện bố thí,
và thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã thành tựu phước thiện bố
thí. Do năng lực tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ cả hai thời kỳ
ấy, nên thí chủ có được thiện tâm bậc cao.
Tác ý thiện tâm trong sạch trước khi làm phước thiện bố thí,
nghĩa là thí chủ có thiện tâm trong sạch hoan hỉ lo sắm sửa đầy đủ
những thứ vật dụng bố thí, thứ nào cũng hài lòng với khả năng của
mình, mọi công việc đều chuẩn bị sẵn sàng chờ đến ngày làm lễ bố thí
như đã dự định. Trong suốt thời gian chờ đợi mỗi khi nghĩ đến cuộc
lễ làm phước thiện bố thí ấy, không có ác pháp nào phát sanh xen vào
làm cho tâm ô nhiễm, buồn lo khổ tâm, mà chỉ có thiện tâm trong
sạch, hoan hỉ phước thiện bố thí ấy sẽ tạo sau này. Ðó gọi là tác
ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo phước thiện bố thí.
Và tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã tạo phước
thiện bố thí, nghĩa là thí chủ sau khi đã thành tựu phước thiện
bố thí xong rồi, mỗi khi nhớ, hoặc thường niệm tưởng lại phước thiện
bố thí ấy thành đề mục thiền định cāgānussati: đề mục niệm tưởng
phước thiện bố thí, phát sanh thiện tâm trong sạch hoan hỉ,
không có ác pháp phát sanh xen vào làm cho tâm bị ô nhiễm, hối tiếc,
buồn khổ, mà chỉ có thiện tâm trong sạch phát sanh hoan hỉ việc
phước thiện bố thí ấy được thành tựu tốt lành theo nguyện vọng của
mình; xem đó là một cơ hội tốt lành đối với mình, có được duyên lành
tạo được phước thiện bố thí ấy, trong cuộc đời của mình. Ðó gọi là
tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã thành tựu phước
thiện bố thí. Do năng lực tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo
phước thiện và sau khi đã tạo phước thiện làm cho thiện tâm có
tam nhân hoặc thiện tâm có nhị nhân trở thành
thiện tâm bậc cao (ukkaṭṭhakusala).
Thiện tâm bậc thấp là thế nào? Thí chủ có tác ý thiện tâm trước khi tạo phước thiện bố thí và
tác ý thiện tâm sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí, cả hai thời
kỳ không hoàn toàn trong sạch, vì có ác pháp phát sanh làm cho tâm
bị ô nhiễm, nên thí chủ có được thiện tâm bậc thấp. Trường hợp, thí chủ không có đức tin trong sạch trước khi làm
phước thiện bố thí, vì có người đến động viên khuyến khích làm phước
thiện bố thí, vì kính nể nên làm theo, nếu không làm sợ người ta chê
trách. Do đó, tác ý thiện tâm trước khi tạo phước thiện bố thí
tâm không hoàn toàn trong sạch, thậm chí còn có ác pháp xen vào
làm cho tâm bị ô nhiễm nữa. Và sau khi làm lễ phước thiện bố thí xong, tâm không hoan hỉ, lại
còn hối tiếc vì tốn kém tiền bạc nên ác pháp chen vào làm cho tâm bị
ô nhiễm. Do đó, tác ý thiện tâm sau khi tạo phước thiện bố thí
xong, tâm không hoàn toàn trong sạch.
Do hai nguyên nhân tác ý thiện tâm trước và sau khi tạo phước
thiện bố thí ấy, nên làm cho thiện tâm có nhị nhân hoặc
thiện tâm có tam nhân trở thành thiện tâm bậc thấp
(omakakusala).
Thật ra, trong hai thời kỳ tác ý: tác ý thiện tâm trước khi tạo
phước thiện bố thí và tác ý thiện tâm sau khi đã thành tựu phước
thiện bố thí ấy; trong 2 tác ý ấy, chỉ có tác ý thiện tâm sau khi đã
thành tựu đóng vai trò quan trọng, chỉ định thiện tâm bậc cao
hoặc thiện tâm bậc thấp; bởi vì, tác ý thiện tâm này phát
sanh sau khi đã hoàn thành phước thiện bố thí. Do đó, tác ý thiện
tâm không trong sạch trước khi bố thí, nhưng tác ý thiện tâm trong
sạch sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí, thì phước thiện ấy trở
thành thiện tâm bậc cao; và tác ý thiện tâm trong sạch trước
khi tạo phước thiện bố thí, nhưng tác ý thiện tâm không trong sạch
sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí, phước thiện ấy trở thành
thiện tâm bậc thấp.
Năng Lực Của Tác Ý (Cetanā)
Tác ý đóng vai trò tạo nghiệp, như Ðức Phật dạy: "Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti
kāyena vācāya manasā...". "Này chư Tỳ Khưu, Như Lai dạy rằng tác ý là nghiệp, sau khi nghĩ
xong, mới hành động bằng thân, khẩu và ý". Tác ý thuộc về tâm sở (cetanācetasika) đồng
sanh trong tất cả 89 hoặc 121 tâm. Song tác ý gọi là nghiệp thì chỉ
có tác ý đồng sanh với 12 tâm bất thiện, 8 đại thiện tâm, 5 sắc giới
thiện tâm, 4 vô sắc giới thiện tâm và 4 hay 20 Thánh Ðạo tâm. Hay
nói cách khác, tác ý đồng sanh với 12 bất thiện tâm và 21 hay 37
thiện tâm; những tác ý ấy được gọi là nghiệp.
Ngoài ra, tác ý đồng sanh với 36 hoặc 53 quả tâm và 20 duy tác tâm,
những tác ý ấy không gọi là nghiệp.
Tác ý có 2 loại: A- Tác ý bất thiện (akusalacetanā)
Tác ý bất thiện đồng sanh với 12 bất thiện tâm, nên tạo 12 bất
thiện nghiệp hay ác nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 3 loại
nghiệp: 1- Thân ác nghiệp có 3 loại: sát sanh, trộm cắp, tà
dâm. Ðó là 10 ác nghiệp cho quả khổ ở kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị
lai. Ác nghiệp trong 12 bất thiện tâm cho quả 2 thời: Thời kỳ tái sanh: 11 bất thiện tâm (trừ si tâm hợp với phóng
tâm) chỉ cho 1 quả bất thiện vô nhân tâm gọi là suy xét tâm
(santīraṇacitta) đồng sanh với xả thuộc vô nhân tâm, tái
sanh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh,
chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo. Thời kỳ sau khi tái sanh: sau khi tái sanh làm chúng
sinh trong cõi ác giới, hoặc đã sanh làm người [*]; 12 bất thiện tâm
này có thể cho 7 quả bất thiện thuộc vô nhân tâm như: 1- Nhãn thức tâm nhìn thấy những sắc trần, hình dáng
không đáng hài lòng. [*] Tái sanh làm người là quả của thiện nghiệp; nhưng sau khi
đã tái sanh làm người, bất thiện nghiệp có thể cho quả xấu. 7 quả bất thiện vô nhân tâm này biết những đối tượng không đáng
hài lòng, chính là quả của 12 bất thiện tâm, có bất thiện nghiệp
hay ác nghiệp, mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại,
hoặc đã tạo trong những kiếp quá khứ, chắc chắn không phải do
một ai khác, mà do chính ác nghiệp của mình đến thời kỳ cho quả,
không đáng hài lòng. Trong đời sống của mỗi chúng sinh nói chung, con người nói riêng,
chắc chắn đã từng tạo mọi ác nghiệp từ nhiều đời, nhiều kiếp trong
quá khứ cho đến kiếp hiện tại, khi ác nghiệp cho quả khổ, chủ
nhân của ác nghiệp nên cam tâm nhẫn nại chấp nhận quả khổ,
thì nỗi khổ tâm không phát sanh. Nếu có thái độ không muốn chấp nhận
quả khổ của ác nghiệp do chính mình đã tạo, mà phải thọ hưởng thì
làm cho mình càng khổ tâm nhiều mà thôi. Thật ra, công minh mà xét, chắc chắn không có một ai bỗng dưng
đối xử xấu, làm khổ mình được! Quả khổ phải phát sanh từ nhân, nhân
ở đây chính là ác nghiệp, mà mình đã tạo trong quá khứ, nay đến thời
kỳ có cơ hội cho quả, nên xui khiến người khác đối xử xấu, làm khổ
mình. Nên có trí tuệ suy xét rằng: "nếu mình không từng tạo ác
nghiệp như thế ấy, thì nay chắc chắn không có một nhân duyên nào xui
khiến họ đối xử xấu, làm khổ mình như thế này".
Tất cả quả khổ không đáng hài lòng, chắc chắn do ác nghiệp. Vậy,
không muốn quả khổ như vậy, thì chỉ nên tránh xa mọi ác nghiệp mà
thôi. Ðược tái sanh làm người chắc chắn do dục giới thiện nghiệp cho
quả, không phải do ác nghiệp. Một khi đã tái sanh được làm người
rồi; ác nghiệp vẫn có cơ hội cho quả khổ. Cho nên, có số người phải
chịu bao nhiêu nỗi khổ đau, cũng chỉ vì ác nghiệp cho quả
mà thôi, không phải ai muốn làm khổ mình được. B- Tác ý thiện (kusalacetanā). Tác ý thiện tạo 4 loại thiện nghiệp: 1- Dục giới thiện nghiệp. - Tác ý thiện đồng sanh với 8 đại thiện tâm, tạo nên dục
giới thiện nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 3 loại thiện
nghiệp: Thân thiện nghiệp có 3 loại: không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm, đó là chánh nghiệp.
Khẩu thiện nghiệp có 4 loại: không nói dối, mà nói lời
chân thật; không nói lời đâm thọc chia rẽ, mà nói lời hòa thuận;
không nói lời thô tục, mà nói lời êm dịu; không nói lời vô ích,
mà nói lời có ích, đó là chánh ngữ.
Ý thiện nghiệp có 3 loại: không tham lam, mà hay bố thí;
không thù hận, mà có tâm từ; không tà kiến, mà có chánh kiến.
Ðó là 10 thiện nghiệp cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều
kiếp vị lai. - Tác ý thiện đồng sanh với 8 đại thiện tâm tạo nên 10
phước thiện như sau: Bố thí: đem của cải, sự hiểu biết của mình đem bố thí,
ban bố, phân phát cho người khác, chúng sinh khác với thiện tâm
tế độ, giúp đỡ.
Giữ giới: giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi tội ác. Hành thiền: tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, để
cho tâm an tịnh, trí tuệ sáng suốt.
Cung kính: cung kính những bậc đáng tôn kính như: Ðức
Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Thầy Tổ, ông bà, cha mẹ, người cao
tuổi.... Giúp đỡ: giúp đỡ mọi người, chúng sinh với thiện tâm.
Hồi hướng: hồi hướng phần phước thiện của mình đã tạo đến
những người khác, chúng sinh khác. Hoan hỉ: hoan hỉ phần phước thiện của người khác hồi
hướng hoặc chia phước đến cho mình.
Thuyết pháp: thuyết giảng chánh pháp tế độ người thoát
khỏi cảnh khổ. Nghe pháp: lắng nghe chánh pháp, hành theo chánh pháp để
giải thoát cảnh khổ.
Chánh kiến: trí tuệ thấy đúng thực tánh của các pháp. Ðó là 10 phước thiện cũng thuộc về dục giới thiện nghiệp; dục
giới thiện nghiệp này cho quả trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị
lai. Dục giới thiện nghiệp trong 8 dục giới đại thiện tâm cho quả 2
thời: Thời kỳ tái sanh: 8 dục giới đại thiện tâm cho 9 loại quả
tâm: 8 dục giới đại quả tâm và 1 quả thiện vô nhân tâm
gọi là suy xét tâm đồng sanh với xả, làm phận sự tái sanh
cõi người và 6 cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc do thiện
nghiệp của mình đã tạo. Thời kỳ sau tái sanh: Dục giới thiện nghiệp cho quả thời kỳ
sau khi đã tái sanh làm người, được tiếp nhận những đối tượng đáng
hài lòng như: - Nhãn thức tâm nhìn thấy những sắc trần, hình dáng
đáng hài lòng. Những quả thiện vô nhân tâm này biết những đối tượng đáng hài
lòng chính là quả của dục giới đại thiện tâm có thiện nghiệp, mà
chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc đã tạo trong những kiếp
quá khứ; chắc chắn không phải do một ai khác, mà do chính thiện
nghiệp của mình đến thời kỳ cho quả. Công minh mà xét, chắc chắn không có ai bỗng dưng đối xử tốt với
mình, giúp đỡ, phục vụ tận tình với mình..., nên có chánh kiến thấy
đúng, hiểu đúng về nghiệp là của riêng mình rằng: đó chẳng qua là
thiện nghiệp của mình đã tạo đến thời kỳ cho quả có năng lực xui
khiến mọi người đối xử tốt với mình, phục vụ tận tình như vậy. Nếu
mình đã không từng tạo thiện nghiệp, thì chắc chắn không có nhân
duyên nào xui khiến mọi người đối xử tốt với mình được. Tất cả mọi quả an lạc đáng hài lòng, chắc chắn là do từ thiện
nghiệp. Muốn được an lạc, thì chỉ nên cố gắng tạo mọi thiện nghiệp
mà thôi. 2- Sắc giới thiện nghiệp. Tác ý thiện đồng sanh với 5 bậc sắc giới thiện tâm, tạo nên 5
bậc saéc giới thiện nghiệp cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và
kiếp vị lai, cho quả thời kỳ tái sanh 16 cõi trời sắc giới. 5 bậc sắc giới thiện tâm cho quả 5 bậc sắc giới quả tâm. Thiền sắc giới có 5 bậc, bậc thiền thiện tâm nào cho quả theo bậc
thiền quả tâm ấy, tương xứng với nhau: Ðệ nhất thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ nhất thiền sắc giới
quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 3 cõi trời của đệ nhất thiền
sắc giới. Ðệ nhị thiền và đệ tam thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ nhị
thiền, đệ tam thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong
3 cõi trời của đệ nhị thiền sắc giới. Ðệ tứ thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ tứ thiền sắc giới quả
tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 3 cõi trời của đệ tam thiền sắc
giới. Ðệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ ngũ thiền sắc giới quả
tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 7 cõi trời của đệ tứ thiền sắc
giới. Cõi trời sắc giới gồm có 16 cõi, tái sanh lên cõi nào tùy theo
năng lực của bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc và tuổi thọ
lâu dài trong cõi trời ấy. Chư phạm thiên có thể thấy và nghe, chiêm ngưỡng
Ðức Phật và lắng nghe chánh pháp của Ngài (còn ngửi, nếm, xúc không
phát sanh). 3- Vô sắc giới thiện nghiệp. Tác ý thiện đồng sanh với 4 bậc vô sắc giới thiện tâm, tạo
nên 4 bậc vô sắc giới thiện nghiệp, cho quả an lạc trong kiếp hiện
tại và kiếp vị lai, cho quả tái sanh trong 4 cõi trời vô sắc giới. 4 bậc vô sắc giới thiện tâm cho quả 4 bậc vô sắc giới quả tâm.
Thiền vô sắc giới có 4 bậc, bậc thiền thiện tâm nào cho quả theo
bậc thiền quả tâm ấy. Ðệ nhất thiền vô sắc thiện tâm gọi là Không vô biên xứ thiện tâm,
cho quả Không vô biên xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong cõi
Không vô biên xứ thiên. Ðệ nhị thiền vô sắc thiện tâm, gọi là Thức vô biên xứ thiện tâm,
cho quả tái sanh Thức vô biên xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên
trong cõi Thức vô biên xứ thiên. Ðệ tam thiền vô sắc thiện tâm, gọi là Vô sở hữu xứ thiện tâm cho
quả Vô sở hữu xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong cõi Vô sở
hữu xứ thiên. Ðệ tứ thiền vô sắc thiện tâm gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ
thiện tâm, cho quả Phi tưởng phi phi tưởng xứ quả tâm, tái sanh làm
phạm thiên trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. Cõi trời vô sắc giới có 4 cõi, tái sanh lên cõi nào tùy theo năng
lực của bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu
dài trong cõi trời ấy. 4- Siêu tam giới thiện nghiệp. Tác ý thiện đồng sanh với 4 hay 20 siêu tam giới
thiện tâm, cho quả không có thời gian ngăn cách (akālika),
đó là siêu tam giới quả tâm. Nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh
Ðạo nào, liền chứng đắc Thánh Quả ấy ngay sau 1 sát na tâm. 4 siêu tam giới thiện tâm đó là 4 Thánh Ðạo Tâm. 4 Thánh Ðạo Tâm --> 4 Thánh Quả Tâm 1- Nhập Lưu Thánh Ðạo Tâm --> 1- Nhập Lưu Thánh Quả Tâm. Thiện Tâm Thiện tâm có 4 loại: Dục giới thiện tâm. Trong 4 loại thiện tâm này, sắc giới thiện tâm, vô sắc giới
thiện tâm và siêu tam giới thiện tâm chắc chắn có đầy đủ
tam thiện nhân: vô tham, vô sân, vô si (trí tuệ). Riêng dục giới thiện tâm có 8 tâm gọi là 8 đại
thiện tâm chia 2 loại: - 4 dục giới thiện tâm hợp với trí thì có đầy đủ tam
thiện nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ).
Do nguyên nhân nào dục giới thiện tâm có đủ tam nhân hoặc chỉ có
nhị nhân? Do tác ý thiện tâm (kusalacetanā) khi đang tạo
thiện nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, hoặc làm phước thiện bố
thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ.... Khi
đang tạo thiện nghiệp, phước thiện nào với thiện tâm hợp với trí
tuệ, hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình (kammassakatañāṇa)
hoặc trí tuệ thiền tuệ (vipassanāñāṇa), do đó, dục giới thiện
tâm ấy có đủ tam nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ), thiện tâm
này còn gọi là đại thiện tâm hợp với trí
(mahākusalañāṇasampayuttacitta) có 4 tâm. Tác ý thiện tâm khi đang tạo thiện nghiệp, phước thiện nào
với thiện tâm không hợp với trí tuệ, không hiểu biết rõ nghiệp là
của riêng mình, hoặc không có trí tuệ thiền tuệ, do đó, dục giới
thiện tâm ấy chỉ có nhị nhân: vô tham và vô sân (không
có vô si). Thiện tâm này còn gọi là đại thiện tâm không hợp với
trí (mahākusalañāṇavippayuttacitta) có 4 tâm. Dục giới thiện tâm theo tác ý Mọi thiện nghiệp, mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, tiến hành
thiền định, tiến hành thiền tuệ..ṭhường trải qua ba giai đoạn tác ý: 1- Pubba cetanā: tác ý trước khi tạo thiện nghiệp.
Mỗi giai đoạn tác ý có một năng lực đặc biệt, đóng một vai trò
quan trọng tạo nên thiện nghiệp và cho quả đặc biệt của thiện nghiệp
ấy. - Muñca cetanā: tác ý đang khi tạo thiện nghiệp
đóng vai trò quan trọng để tạo nên thiện nghiệp trong thiện tâm
có tam nhân hay thiện tâm có nhị nhân.
Nếu tác ý thiện tâm đang khi tạo thiện nghiệp, phước thiện
nào như: bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền
tuệ... với đại thiện tâm hợp với trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của
riêng mình, hoặc trí tuệ thiền tuệ, thì chắc chắn đại thiện tâm ấy
có đủ tam nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ), gọi là đại thiện
tâm hợp với trí hay gọi tam nhân thiện tâm.
Nếu tác ý thiện tâm đang khi tạo thiện nghiệp,
phước thiện nào như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến
hành thiền tuệ... với đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, không
hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình, không có trí tuệ thiền tuệ,
do đó, đại thiện tâm ấy chỉ có nhị nhân: vô tham và vô sân (không có
vô si), gọi là đại thiện tâm không hợp với trí hay gọi nhị nhân
thiện tâm.
Tam nhân thiện tâm và nhị nhân thiện tâm, mỗi loại thiện tâm có
hai bậc: 1- Ukkaṭṭhakusala: thiện tâm bậc cao. 1- Thiện tâm bậc cao như thế nào? Mỗi khi tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như bố thí, giữ giới,
tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... với tác ý thiện tâm
trước khi tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp và tác ý
sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, thiện tâm trong sạch, không bị ô
nhiễm bởi phiền não, do đó, thiện tâm này dầu là tam nhân thiện tâm
hoặc nhị nhân thiện tâm gọi là thiện tâm bậc cao
(ukkaṭṭhakusala).
2- Thiện tâm bậc thấp như thế nào? Mỗi khi tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như bố thí, giữ giới,
tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... với tác ý thiện tâm
trước khi tạo thiện nghiệp, đang khi tạo thiện nghiệp, sau khi đã
tạo thiện nghiệp xong, với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm
bởi phiền não, do đó, thiện tâm này dầu là tam nhân thiện tâm hoặc
nhị nhân thiện tâm, gọi là thiện tâm bậc thấp
(Omakakusala).
Phân loại thiện tâm theo bậc Tam nhân thiện tâm và nhị nhân thiện tâm, mỗi thiện tâm có hai
bậc. Tam nhân thiện tâm bậc cao. Nhị nhân thiện tâm bậc cao. - Do nguyên nhân chính nào mà phân loại thiện tâm bậc cao –
bậc thấp?
Tác ý thiện tâm sau khi đã tạo thiện nghiệp xong là nguyên
nhân chính, đóng vai trò quan trọng để phân loại thiện tâm bậc
cao – thiện tâm bậc thấp. Bởi vì, tác ý sau khi đã tạo thiện
nghiệp xong, đã hoàn thành xong thiện nghiệp trải qua thời gian lâu
dài không hạn định, nên có nhiều năng lực hơn tác ý trước khi tạo
thiện nghiệp và tác ý đang khi tạo thiện nghiệp. Như vậy, tác ý
trước khi tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp, với đại
thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não; nhưng tác ý
sau khi đã tạo thiện nghiệp xong với đại thiện tâm trong sạch, không
bị ô nhiễm bởi phiền não; do đó, thiện tâm ấy thuộc loại thiện
tâm bậc cao.
Tác ý trước khi tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp
với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não; nhưng tác
ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong với thiện tâm không trong sạch,
bị ô nhiễm bởi phiền não; do đó thiện tâm ấy thuộc loại thiện
tâm bậc thấp. Quả của 4 loại thiện tâm Tam nhân thiện tâm, nhị nhân thiện tâm có quả tâm khác biệt nhau.
Và thiện tâm bậc cao – thiện tâm bậc thấp cũng có quả tâm khác biệt
nhau như sau: - Quả của tam nhân thiện tâm bậc cao cho quả hai thời kỳ: Thời kỳ tái sanh (paṭisandhikāla): có 4 đại quả tâm hợp
với trí tuệ, khi tái sanh làm người, là người có đủ tam nhân: vô
tham, vô sân và vô si (trí tuệ) gọi là hạng người tam nhân
(tihetukapuggala: người có quả tâm tái sanh hợp đủ 3 nhân: vô tham,
vô sân, vô si) có trí tuệ sáng suốt, hạng người cao quý, hoặc
tái sanh làm chư thiên có trí tuệ trong cõi trời dục giới, là hạng
chư thiên cao quý, có nhiều oai lực. Thời kỳ sau khi đã tái sanh (pavattikāla): có 8 đại
quả tâm và 8 quả thiện vô nhân tâm, gồm có 16 quả tâm, thường
tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đáng hài
lòng, ít có đối tượng không đáng hài lòng. - Quả của tam nhân thiện tâm bậc thấp và nhị nhân thiện
tâm bậc cao cho quả hai thời kỳ: Thời kỳ tái sanh: có 4 đại thiện tâm không hợp với trí
tuệ, khi tái sanh làm người chỉ có nhị nhân: vô tham và vô sân
(không có vô si) gọi là hạng người nhị nhân
(dvihetukapuggala: người có quả tâm tái sanh hợp với 2 nhân: vô
tham, vô sân) không có trí tuệ, hạng người trung bình; hoặc tái
sanh làm chư thiên có nhị nhân, không có trí tuệ, trong cõi trời dục
giới, không có nhiều oai lực. Thời kỳ sau khi đã tái sanh: có 4 đại quả tâm không hợp
với trí và 8 quả thiện vô nhân tâm, gồm có 12 quả tâm,
thường tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
trung bình, không đặc biệt. - Quả của nhị nhân thiện tâm bậc thấp cho quả hai thời kỳ: Thời kỳ tái sanh: có 1 quả thiện vô nhân tâm gọi là
suy xét tâm đồng sanh với xả, tái sanh làm hạng người vô
nhân [*] (ahetukapuggala: người có quả tâm tái sanh không có nhân
nào), là hạng người câm, điếc, đui mù, mất trí (điên) từ trong
bụng mẹ, hoặc tái sanh làm chư thiên bậc thấp nhất (vinipātika
asurā) trong cõi trời Tứ đại thiên vương, loại chư thiên không
có oai lực, thường hay quấy nhiễu người kém phước đức. [*] Hạng người vô nhân là người khi tái sanh bằng quả thiện
vô nhân tâm, là tâm không có nhân (không có vô tham, vô sân, vô
si). Thời kỳ sau khi đã tái sanh: có 8 quả thiện vô nhân tâm
thường tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tầm
thường nhất. Tác Ý Sau Aparacetanā là Aparāparacetanā Trong Chú giải còn khai triển aparacetanā: tác ý sau khi
đã tạo thiện nghiệp xong, thêm một thời kỳ nữa gọi là
aparāparacetanā: tác ý phát sanh sau tác ý aparacetanā. Aparāparacetanā: là tác ý phát sanh sau tác ý aparacetanā
(tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong) sau nhiều ngày, nhiều
tháng, nhiều năm... mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện bố thí, phước
thiện giữ giới, phước thiện tiến hành thiền định, phước thiện tiến
hành thiền tuệ... mà mình đã từng tạo phước thiện ấy từ trước. Mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện ấy, tác ý phát sanh sau
aparacetanā gọi là aparāparacetanā với thiện tâm trong
sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm phát sanh sau
sau ấy thuộc về thiện tâm bậc cao.
Mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện ấy, tác ý phát sanh sau
aparacetanā gọi là aparāparacetanā với thiện tâm không
trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm phát sanh sau
sau ấy thuộc về thiện tâm bậc thấp.
Phân loại thiện tâm theo aparacetanā và aparāparacetanā Aparācetanā: là tác ý phát sanh sau khi đã tạo thiện nghiệp
xong. Aparāparacetanā: là tác ý phát sanh sau aparacetanā.
Thiện tâm bậc cao hoặc thiện tâm bậc thấp tùy thuộc vào
aparacetanā và aparāparacetanā là chính. Ðể dễ phân biệt 2 loại tác ý này, đặt tên rằng: Aparacetanā: gọi tên là trước, chữ trước ám
chỉ aparacetanā.
Như vậy, phân loại thiện tâm theo aparācetanā và
aparāparacetanā có 8 loại thiện tâm như sau: 1- Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc
cao. Giải thích Tác ý đang khi tạo thiện nghiệp (muñcacetanā) với đại
thiện tâm hợp với trí tuệ, gọi là tam nhân thiện tâm
(tihetukakusala).
Tác ý đang khi tạo thiện nghiệp với đại thiện tâm không hợp với
trí, gọi là nhị nhân thiện tâm (dvihetukakusala).
Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā), với
thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, và tác ý phát
sanh sau sau gọi là aparāparacetanā cũng với thiện tâm trong
sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là
thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao
(ukkuṭṭhukkuṭṭhakusala).
Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā) với
thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não; nhưng tác ý
phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm không
trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là
thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp
(ukkuṭṭhomakakusala).
Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā) với
thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não, nhưng tác ý
phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm trong
sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi
là thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao
(omakukkaṭṭhakusala).
Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā) với
thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não, và tác ý phát
sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm không trong
sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là
thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp (omakomakakusala).
Quả của 8 loại thiện tâm - Quả của: Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao. Cả hai loại thiện tâm này, xét về thiện tâm cho quả thời kỳ
tái sanh và thời kỳ sau khi tái sanh, giống như tam
nhân thiện tâm bậc cao.
Xét về chúng sinh: người hoặc chư thiên về sắc thân hoặc
tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
thì tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau cũng bậc cao có quả báu
cao quý, vi tế đặc biệt hơn tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau
bậc thấp. - Quả của: Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao. Cả 4 loại thiện tâm này, xét về thiện tâm cho quả thời kỳ tái
sanh và thời kỳ sau khi tái sanh, giống như tam nhân
thiện tâm bậc thấp và nhị nhân thiện tâm bậc cao.
Xét về chúng sinh: người hay chư thiên về sắc thân và
tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
thì tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao; nhị nhân thiện
tâm trước bậc cao – sau bậc cao, có quả báu đặc biệt hơn tam nhân
thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp. - Quả của: Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao. Cả hai loại thiện tâm này, xét về thiện tâm cho quả thời kỳ
tái sanh và thời kỳ sau khi tái sanh giống như nhị
nhân thiện tâm bậc thấp .
Xét về chúng sinh: người hay chư thiên về sắc thân và
tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
thì nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao có giá trị quả
báu đặc biệt hơn nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp
không đáng kể. Tóm lại, phân loại các bậc thiện tâm này do năng lực của tác ý
(cetanā) tạo thiện nghiệp. Cho nên, tác ý đóng vai
trò hệ trọng tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, rồi phân loại
các thiện tâm và quả của thiện tâm ấy do năng lực của nghiệp.
Ngoài nghiệp ra, không có một Ðấng Toàn Quyền, Toàn Năng nào thưởng
hoặc phạt chúng sinh; nếu thật có Ðấng Toàn Quyền,
Toàn Năng ấy, đó chính là nghiệp của chính
mình đã tạo, không có một ai khác. Ðức Phật dạy về nghiệp trong bài Kinh Quán Tưởng rằng: "Kammassako’mhi kammadāyādo kamma-yoni kammabandhu
kammapaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa
dāyādo bhavissāmi". [Bộ Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh
Pabbajita-abhinhasutta] "Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của
nghiệp, nghiệp là nhân sanh ta ra, nghiệp là bà con thân quyến của
ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta, ta tạo nghiệp nào: là thiện
nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ta sẽ là người thừa hưởng
quả của thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp ấy". Tất cả của cải trong đời đều là của chung, người
nào có phước thì người ấy tạm thời làm chủ, duy chỉ có nghiệp
(thiện nghiệp, ác nghiệp) mới thật là của riêng mình
mà thôi. Cho nên, mỗi người phải hết sức thận trọng chọn lựa cho
mình mọi thiện nghiệp và hết sức thận trọng tránh xa
mọi ác nghiệp, bởi vì, chỉ có nghiệp mới thật
của riêng mình mà thôi. Nên có đức tin rằng: Thiện nghiệp cho quả an lạc. Nên hiểu rõ rằng trong đời sống hằng ngày của mỗi chúng sinh nói
chung, mỗi người nói riêng phải biết gìn giữ thân, khẩu, ý cho được
trong sạch, không để phiền não làm ô nhiễm. Nên biết rằng mỗi khi hành động bằng thân, hoặc nói bằng khẩu
hoặc nghĩ bằng ý, với tác ý thiện, thì tạo nên thiện nghiệp; với tác
ý bất thiện, thì tạo nên bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp. Thiện nghiệp sanh trong thiện tâm, bất thiện nghiệp hoặc ác
nghiệp sanh trong bất thiện tâm hoặc ác tâm. Khi thiện tâm
phát sanh thì ác tâm không sanh; khi ác tâm phát sanh
thì thiện tâm không sanh, chỉ trừ khi nằm ngủ say không có mộng,
khi ấy mới thật không có thiện tâm, cũng không có ác tâm, vì lúc ấy
chỉ có quả tâm mà thôi; còn như nằm ngủ thấy mộng rõ
ràng như thật, lộ trình tâm mộng ấy có thể là thiện tâm, hoặc
bất thiện tâm (ác tâm), song tác ý thiện tâm hoặc bất
thiện tâm trong khi mộng không có năng lực như tác ý lúc
tỉnh ngủ. Cho nên, thiện tâm hay bất thiện tâm (ác tâm) trong lộ
trình tâm mộng không có khả năng cho quả thời tái sanh, nếu có chỉ
cho quả thời kỳ sau khi đã tái sanh rồi. Vì vậy, mỗi khi chúng ta chủ động tạo nghiệp, thì nên cố gắng tạo
thiện nghiệp, với thiện tâm hợp với trí tuệ, trong sạch hoàn toàn
suốt 3 giai đoạn: trước khi tạo thiện nghiệp, đang khi tạo thiện
nghiệp và sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, không bị ô nhiễm bởi
phiền não, để có được tam nhân thiện tâm bậc cao nhất,
có quả báu cao nhất.
Nhận Xét Về Nghiệp Quả của nghiệp (kammaphala) là một trong bốn pháp "bất
khả tư nghì" (acinteyya) không thể suy nghĩ, tư duy về quả
này là do nghiệp nào, v.v.... Người Phật tử có đức tin chân chánh
nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, tin
rằng: Thiện nghiệp cho quả an lạc. Bất thiện nghiệp hoặc ác
nghiệp cho quả khổ. Hay nói cách khác: Sự an lạc là quả của thiện nghiệp. Sự khổ não
là quả của ác nghiệp. Và có chánh kiến sơ đẳng gọi kammassakatā-sammādiṭṭhi: chánh
kiến thấy đúng, hiểu đúng thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp)
đã tạo rồi là của riêng mình không liên quan đến người khác.
Thật vậy, mỗi chúng sinh có nghiệp riêng của mình; như khi tác ý
thiện nghiệp, mỗi người đều khác nhau, cho nên, quả của nghiệp cũng
khác nhau. Dù hai người sinh đôi, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm,
xét về thân thể có phần giống nhau, song xét về
tâm tánh thì không giống nhau, do bởi mỗi người mỗi nghiệp. - Xét về nghiệp là của riêng mình, không liên quan
đến người khác, nghĩa là: người nào tạo thiện nghiệp
nào, nếu thiện nghiệp ấy cho quả, người ấy hưởng được mọi sự an lạc
trong cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau, trong kiếp hiện tại
lẫn nhiều kiếp vị lai lâu dài. Ngược lại, tạo ác nghiệp
nào, nếu ác nghiệp ấy cho quả, người ấy phải chịu mọi sự khổ trong
cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau, trong kiếp hiện tại lẫn
nhiều kiếp vị lai lâu dài. - Xét về quả của nghiệp không chỉ riêng mình, mà
còn ảnh hưởng đến người khác, chúng sinh khác, nghĩa là: người nào
đang hưởng quả tốt của phước thiện bố thí do mình đã tạo, người ấy
được giàu sang phú quý, có nhiều tiền, nhiều của, nhà cao, cửa rộng,
có xe cộ... còn có chức trọng quyền cao... không chỉ riêng một mình
người ấy hưởng được mọi tiện nghi, thân an lạc; mà còn nhiều người
thân trong gia đình, bà con thân bằng quyến thuộc, bạn bè, thậm chí
đến những người khác, chúng sinh khác cũng hưởng được mọi tiện nghi,
thân an lạc trong cuộc đời của họ. Ngược lại, người nào đang chịu quả xấu của ác nghiệp do mình đã
tạo, người ấy đang chịu mọi cảnh khổ, bịnh hoạn ốm đau, những căn
bệnh nan y, bại liệt..., những tội lỗi, cảnh tù đày... không chỉ
riêng một mình người ấy chịu khổ, mà còn liên luỵ đến những người
thân trong gia đình phải chịu khổ nữa. Tất cả mọi chúng sinh trong ba giới [dục giới, sắc giới, vô sắc
giới] gồm có 31 cõi, có 4 loài chúng sinh [thai sinh, noãn sinh,
thấp sinh, hoá sinh]: Những chúng sinh gọi là chư thiên cõi dục giới, phạm thiên cõi
sắc giới và cõi vô sắc giới, chỉ có thiện nghiệp có cơ
hội cho quả an lạc, những chư thiên hưởng quả an lạc của phước thiện
mà mình đã tạo, phạm thiên hưởng quả an lạc của bậc thiền sở đắc của
mình. Những chúng sinh cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ chỉ có ác nghiệp có
cơ hội cho quả khổ, những hạng chúng sinh ấy chịu quả khổ do ác
nghiệp của mình đã tạo. Có một số loài súc sanh như: chó, mèo, ngựa, voi... dầu tái sanh
do quả của ác nghiệp, song sống chung với loài người, có khi thiện
nghiệp của chúng đã tạo từ kiếp trước cho quả, nên chúng hưởng được
quả an lạc như: có vật thực đầy đủ, có chỗ ở đàng hoàng,... thậm chí
còn có người săn sóc chúng. Riêng về con người, khi thì thiện nghiệp cho quả an lạc, khi thì
ác nghiệp cho quả khổ, tuỳ theo nghiệp nào có cơ hội cho quả. Nghiệp nào cho quả, đó là điều không sao biết trước được, chúng
ta chỉ biết quả an lạc, và quả khổ hiện hữu trong cuộc đời của mỗi
người khác nhau như: - Có số người thời ấu niên được hưởng sự an lạc, đến thời trung
niên và lão niên chịu khổ cực. - Có số người thời ấu niên và thời trung niên được hưởng sự an
lạc, đến thời lão niên chịu khổ cực. - Có số người thời ấu niên, thời trung niên và thời lão niên đều
được hưởng sự an lạc. - Có số người thời ấu niên chịu khổ cực, đến thời trung niên và
lão niên được hưởng sự an lạc. - Có số người thời ấu niên và thời trung niên chịu khổ cực, đến
thời lão niên mới được hưởng sự an lạc. - Có số người thời ấu niên, thời trung niên và thời lão niên đều
chịu khổ cực. - Có số người trong cuộc sống khi thì khổ cực, khi thì an lạc...;
khi thì giàu có, khi thì nghèo khổ v.v.... Tất cả mọi trường hợp như trên đều do nghiệp và quả của nghiệp,
hoàn toàn không phải số phận, hay định mệnh nào an bài cả. Sự thật,
chỉ do nghiệp: thiện nghiệp, ác nghiệp mà chính mình
đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc từ nhiều kiếp quá khứ, nay đến lúc
cho quả của nghiệp ấy. Nếu thiện nghiệp có cơ hội cho quả tốt lành, thì đem lại sự an
lạc trong đời sống của mình. Nếu ác nghiệp có cơ hội cho quả xấu, thì đem lại sự khổ cực trong
đời sống của mình. Ngoài nghiệp và quả của nghiệp ra, không có một ai có quyền năng
ban thưởng cho mình được hưởng sự an lạc, hoặc hành phạt mình phải
chịu khổ cực.... Người khác và môi trường bên ngoài cũng chính do năng lực của
nghiệp tạo nên để thích nghi với sự cho quả của nghiệp ấy mà thôi. Như vậy, công minh của nghiệp mà xét : Sự thật, người khác đối xử tốt với mình, đó chính là do nhờ năng
lực của thiện nghiệp của mình đang trong thời kỳ cho quả tốt, nên
khiến cho họ có thái độ, đối xử tử tế, phục vụ tận tình... để làm
cho mình được hưởng mọi sự an lạc. Và người khác đối xử xấu với mình, đó cũng chính là do năng lực
của ác nghiệp của mình đang trong thời kỳ cho quả xấu, nên khiến cho
họ có thái độ đối xử tệ hại, tàn nhẫn... để làm cho mình phải chịu
bao nhiêu nỗi khổ cực. Quả Của Ác Nghiệp - Thiện Nghiệp * Quả của ác nghiệp Quả ác nghiệp của một người có thể ảnh hưởng làm khổ đến những
người gần gũi thân cận. Ví dụ: Tích Ngài Ðại Ðức Losakatissa trong câu chuyện tiền thân
Losakatissajātaka [Bộ Jātaka] được tóm lược như sau: Kiếp hiện tại của Ngài Ðại Ðức Losakatissa là bậc Thánh A-ra-hán,
mà suốt cuộc đời của Ngài kể từ khi đầu thai vào lòng mẹ, khi sanh
ra đời, cho đến khi Ngài tịch diệt Niết Bàn, thường phải chịu đói
khát, chỉ có một lần trước khi tịch diệt Niết Bàn, Ngài được Ðức
Thầy Tế độ là Ngài Ðại Ðức Sāriputta đi khất thực về cho Ngài độ một
lần ngon lành no đủ, nhưng không phải là món vật thực, mà là một món
thuốc gọi là Catumadhura [Món Catumadhura là một món thuốc làm bằng
4 chất: bơ lỏng + mật ong + dầu mè + đường thốt nốt, được Ðức Phật
cho phép Sa di, Tỳ khưu có bệnh dùng thời gian sau ngọ (quá 12 giờ
trưa)] phát sanh do năng lực phước thiện của Ngài Ðại Ðức Sāriputta.
Sau khi độ xong, Ngài tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử
sanh luân hồi trong tam giới. Vậy, do quả của ác nghiệp nào, khiến cho Ngài phải chịu đói khát
như thế? Tiền kiếp của Ngài Losakatissa trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa,
Ngài là một vị Tỳ khưu chủ chùa. Một hôm, có một vị Tăng khách là
bậc Thánh A-ra-hán đến vùng ấy, người thí chủ hộ độ ngôi chùa nhìn
thấy vị Tăng khách, phát sanh đức tin trong sạch nơi vị Tăng khách,
để bát cúng dường vật thực xong thỉnh vị Tăng khách đến nghỉ tại
ngôi chùa. Vị Tỳ khưu chủ chùa tiếp đón có vẻ không hài lòng với vị
Tăng khách. Chiều hôm ấy, người thí chủ hộ độ chùa đến thăm vị khách
Tăng, kính thỉnh Ngài cùng với vị Tỳ khưu chủ chùa hôm sau đến tư
gia để cúng dường vật thực. Vị Tỳ khưu chủ chùa phát sanh lòng ganh tị, nên sáng hôm sau, làm
bộ dùng ngón tay đánh chuông, gõ cửa, rồi một mình đến nhà người thí
chủ. Người thí chủ hỏi về vị Tăng khách, vị Tỳ khưu chủ chùa nói xấu
vị Tăng khách đủ điều. Người thí chủ vốn có đức tin trong sạch nơi
vị Tăng khách, nên sau khi cúng dường vật thực ngon lành đến vị Tỳ
khưu chủ chùa xong, để trong bát một phần gởi về cúng dường vị Tăng
khách. Trên đường đi về chùa, vị Tỳ khưu chủ chùa nghĩ rằng: "Nếu
đem vật thực ngon lành này về cho vị khách Tăng ấy, thì dầu lôi y ra
khỏi chùa, y cũng không chịu đi; tốt hơn, ta nên đổ bỏ bát vật thực
này". Vị Tỳ khưu chủ chùa đã thực hiện ý định ấy, khi về đến
chùa, không nhìn thấy vị khách Tăng nữa, vị Tỳ khưu chủ chùa hối hận
việc làm tội lỗi của mình. Sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái
sanh sa đoạ vào cõi địa ngục, khi mãn nghiệp cõi địa ngục, do năng
lực ác nghiệp còn dư sót, tái sanh làm dạ xoa, làm chó..., dầu được
tái sanh làm người cũng trong gia đình nghèo khổ cùng cực. Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của
vị Tỳ khưu chủ chùa, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm người
trong xóm 1.000 gia đình dân chài, nhưng ác nghiệp tiền kiếp của
Ngài cho quả khiến 1.000 gia đình dân chài chịu cảnh đói khổ. Ông
trưởng xóm dân chài đoán biết có người Kālakaṇṇī: người xúi quẩy
[người xúi quẩy: người có ác nghiệp của mình cho quả, làm ảnh hưởng
xấu đến người khác] trong xóm mình, nên ông chia dân trong xóm
ra làm hai nhóm. Nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai Ngài chịu
cảnh đói khổ, còn nhóm 500 gia đình kia vẫn làm ăn bình thường. Từ
đó, nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai Ngài chia ra làm 2, mỗi
nhóm 250 gia đình, và cứ thế chia làm 2, làm 2.... Cuối cùng còn 2
gia đình, lại chia làm 2 nữa, như vậy, chỉ có gia đình có người mẹ
mang thai Ngài đói khổ cho đến khi đủ tháng, người mẹ sanh Ngài ra.
Cha mẹ của Ngài vất vả khổ cực lắm mới nuôi Ngài lớn lên 7 tuổi. Một
hôm, người mẹ dẫn Ngài đi xin ăn, trao cho Ngài một cái bát đi xin,
rồi người mẹ trốn đi, bỏ Ngài một mình bơ vơ đói khổ. Khi ấy, Ngài Ðại Ðức Sāriputta nhìn thấy Ngài, phát sanh tâm bi
mẫn đến cứu giúp Ngài, dẫn Ngài về cho làm lễ xuất gia Sa di. Về
sau, đủ 20 tuổi làm lễ nâng lên bậc Tỳ khưu. Dầu Ngài là bậc xuất
gia, nhưng mỗi khi đi khất thực thường được rất ít vật thực, nên
thường chịu cảnh đói khổ. Song Ngài tinh tấn tiến hành thiền tuệ
chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc
Thánh A-ra-hán cao thượng, do nhờ pháp hạnh ba la mật từ kiếp trước.
Tuy vậy, suốt cuộc đời của Ngài từ khi đầu thai, sanh ra đời, cho
đến trước khi tịch diệt Niết Bàn Ngài vẫn thường chịu cảnh đói khổ,
bởi do quả của ác nghiệp ngăn cản vật thực của bậc Thánh A-ra-hán. * Quả của thiện nghiệp Quả thiện nghiệp của một người có ảnh hưởng tốt đến nhiều người
gần gũi thân cận. Ví dụ: Tích Ngài Ðại Ðức Sīvali [Bộ Aṅguttaranikāya, phần Etadagga, bộ
Theragāthā] : Ngài Ðại Ðức Sīvali là con của công chúa Suppavāsā và hoàng tử
Mahāli xứ Koliya. Từ khi Ngài tái sanh vào lòng mẹ, mỗi ngày công chúa Suppavāsā
thường được mọi người đem lễ vật đến dâng cho bà nhiều vô kể, những
lợi lộc phát sanh đến cho bà và cho những người xung quanh. Một trường hợp hi hữu chưa từng có, đó là mẹ của Ngài mang thai
Ngài suốt 7 năm vẫn bình an như thường, mỗi ngày lợi lộc mỗi tăng
trưởng cho bà và những người xung quanh. Nhưng bước sang 7 ngày kế
tiếp, bà cảm thấy đau khổ cùng cực bởi thai nhi. Công chúa Suppavāsā vốn là người cận sự nữ có đức tin nơi Ðức
Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, vì thế bà nghĩ rằng: "trước khi chết
muốn làm phước thiện bố thí đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng",
bà thưa ý muốn ấy với phu quân. Hoàng tử Mahāli đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, kính thỉnh Ðức Thế
Tôn cùng chư Ðại Ðức Tăng làm phước thiện bố thí theo nguyện vọng
của phu nhân. Ðức Thế Tôn thấy rõ biết rõ quả ác nghiệp của thai nhi và người
mẹ đã mãn, Ngài chúc an lành đến công chúa và thai nhi rằng: - Chúc công chúa Suppavāsā xứ Koliya được an lành, hạ sanh hài
nhi được dễ dàng, an toàn. Ðức Thế Tôn chúc lành xong, tại cung điện, công chúa Suppavāsā hạ
sanh công tử dễ dàng, như nước trong bình đổ ra, trước khi hoàng tử
Mahāli về đến. Nhìn thấy công tử mặt mày khôi ngô tuấn tú, do quả phước thiện
đầy đủ của Ngài, bà cảm thấy vô cùng vui mừng, sung sướng. Sự ra đời của Ngài làm cho hoàng tộc cũng như dân chúng trong xứ
Koliya dập tắt ngay sự nóng lòng lo sợ cho sanh mạng công chúa
Suppavāsā và công tử, đem lại sự mát mẻ an lạc cho tất cả mọi người
nên đặt tên Ngài là Sīvali: mát mẻ an lạc.
Công chúa Suppavāsā cho người đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bắt
đầu từ hôm sau kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng 500 chư Ðại Ðức Tăng làm
phước hạnh phúc an lành sanh con suốt 7 ngày. Công tử Sīvali sanh ra mau lớn lạ thường, biết đi, đứng, ngồi,
nằm, biết ăn uống, nói chuyện; đặc biệt có trí tuệ hiểu biết thật
phi thường. Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến cung điện của công chúa
Suppavāsā và hoàng tử Mahāli trai Tăng suốt 7 ngày. Ðến ngày thứ 7,
Ðức Thế Tôn truyền dạy Ngài Ðại Ðức Sāriputta thuyết pháp. Ngài Ðại Ðức Sāriputta thuyết pháp nói về sự khổ sanh
và sự tái sanh là khổ. Công tử Sīvali lắng nghe và
thấu hiểu nỗi khổ sanh một cách sâu sắc, mà chính công tử đã phải
chịu khổ trong bụng mẹ suốt bảy năm lẻ bảy ngày. Khi ấy, Ngài Ðại Ðức Sāriputta bèn hỏi công tử Sīvali rằng: - Này con, nằm trong bụng mẹ lâu đến 7 năm lẻ 7 ngày, con cảm
thấy khổ nhiều có phải không? - Kính bạch Ngài Ðại Ðức, dạ, phải! Con cảm thấy khổ nhiều lắm! - Như vậy, con có muốn xuất gia giải thoát khổ không? - Kính bạch Ngài Ðại Ðức, nếu cha mẹ con cho phép, thì con sẽ
xuất gia. Nghe thấy con mình đang nói chuyện với Ngài Ðại Ðức Sāriputta,
công chúa Suppavāsā vô cùng hoan hỉ. Bà và hoàng tử Mahāli cho phép
công tử Sīvali xuất gia, xin Ngài Ðại Ðức Sāriputta từ bi tế độ. Ngài Ðại Ðức Sāriputta dẫn công tử Sīvali về chùa, Ngài dạy đề
mục thiền định căn bản niệm thể trược trong thân; tóc,
lông, móng, răng, da, và dạy pháp hành thiền tuệ để giải thoát
khổ tái sanh. Sau khi thọ giáo lời dạy của thầy tế độ, Ngài Ðại Ðức Sāriputta,
giới tử Sīvali được Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna bắt đầu cạo tóc,
trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali tiến hành thiền định căn bản, rồi
tiến hành thiền tuệ, biết rõ khổ tái sanh của danh pháp sắc pháp,
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo –
Nhập Lưu Thánh Quả; tuần tự chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo –
A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với Tứ tuệ
phân tích, Lục thông... trong buổi lễ cạo tóc xong, rồi giới tử
Sīvali làm lễ thọ Sa di. Kể từ ngày Ðại Ðức Sīvali trở thành Sa di, hằng ngày không những
các hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 thứ vật dụng đến cúng dường cho
Ngài cùng chư Ðại Ðức Tăng, mà còn chư thiên, Long vương... cũng đem
những thứ vật dụng cúng dường nữa. Từ đó về sau, những thứ vật dụng phát sanh đến chư Ðại Ðức Tăng
càng ngày càng dồi dào sung túc, mà trước đây chưa từng có. Ngài Ðại Ðức Sa di Sīvali tròn 20 tuổi, làm lễ nâng lên bậc Tỳ
khưu, 4 thứ vật dụng lại càng phát sanh dồi dào đến chư Tỳ khưu
Tăng. Hễ mỗi khi có đoàn chư Tăng đông đảo phải đi tế độ chúng sinh
từ xứ này sang xứ khác, trên con đường dài đi qua những nơi hẻo
lánh, dân cư thưa thớt, hoặc không có; nhưng nếu có Ngài Ðại Ðức
Sīvali đi cùng đoàn, thì 4 thứ vật dụng đầy đủ sung túc phát sanh
đến chư Ðại Ðức Tăng; đều là do nhờ năng lực phước thiện của Ngài,
khiến cho chư thiên hoá ra xóm làng, thị thành dân cư đông đúc cúng
dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến chư Ðại Ðức
Tăng. Khi đoàn chư Ðại Ðức Tăng đi khỏi nơi ấy, thì xóm làng kia
biến mất. Một hôm, chư Tỳ khưu hội họp bàn về Ngài Ðại Ðức Sīvali có nhiều
tài lộc đặc biệt, không chỉ phát sanh đến Ngài, mà còn đến cả chư Tỳ
khưu Tăng dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ sung túc. Thật là
điều phi thường! Không những các hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4
thứ vật dụng đến cúng dường Ngài, mà còn có cả chư thiên, Long
vương... cũng đem 4 thứ vật dụng đến cúng dường Ngài cùng tất cả chư
Tỳ khưu Tăng nữa. Chư Tỳ khưu đang bàn về tài lộc đặc biệt của Ngài Ðại Ðức Sīvali,
khi ấy Ðức Thế Tôn vừa ngự đến, bèn hỏi: - Các con đang bàn về chuyện gì vậy? Chư Tỳ khưu bạch rằng: - Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng con đang bàn về quả phước thiện
đặc biệt của Ðại Ðức Sīvali. Nhân dịp ấy, Ðức Thế Tôn chủ trì buổi hội chư Tỳ khưu Tăng, tuyên
dương Ngài Ðại Ðức Sīvali cho các hàng đệ tử biết rằng: - Etadaggaṃ bhikkhave mama Sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali. Này chư Tỳ khưu, Sīvali là bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc
nhất trong các hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai. Ngài Ðại Ðức Sīvali là bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc
nhất trong hàng đệ tử của Ðức Phật Gotama, đó là kết quả thành tựu
nguyện vọng của Ngài đã từng phát nguyện từ thời Ðức Phật
Pudumuttara trong quá khứ. Quá khứ, thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian,
cách 100 ngàn đại kiếp trái đất của chúng ta, tiền thân của Ðại Ðức
Sīvali là một người cận sự nam trong gia đình giàu có. Một hôm, đến
chùa nghe Ðức Phật Padumuttara thuyết pháp, khi ấy, Ðức Phật
Padumuttara tuyên dương một người đệ tử tên Sudassana là bậc Thánh
đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng đệ tử của Ngài, người
cận sự nam , tiền thân của Ðại Ðức Sīvali, nhìn thấy Ðại Ðức
Sudassana, liền phát sanh thiện tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn
trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng
Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật vị lai. Ngay sau đó, người cận sự nam ấy đến hầu đảnh lễ, cung kính thỉnh
Ðức Phật cùng 500 chư Tỳ khưu Tăng đến nhà để làm phước bố thí suốt
7 ngày. Ðức Phật Padumuttara làm thinh nhận lời. Người cận sự nam ấy làm phước thiện bố thí những món vật thực
ngon lành suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7, còn cúng dường tam y đến Ðức
Phật cùng 500 vị Tỳ khưu Tăng, mỗi vị một bộ. Sau khi dâng tam y
xong, ông đến hầu đảnh lễ Ðức Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch
rằng: - Kính bạch Ðức Thế Tôn, phước thiện bố thí mà con đã tạo suốt 7
ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là muốn trở thành bậc Thánh
đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức
Phật vị lai, như ngôi vị cao quý của Ðại Ðức Sudassana bậc Thánh đại
Thanh Văn của Ðức Thế Tôn bây giờ. Ðức Phật Padumuttara dùng trí tuệ vị lai kiến minh thấy rõ nguyện
vọng của vị thiện nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị lai, nên thọ ký
rằng: - Này chư Tỳ khưu, kể từ kiếp trái đất này, trong vị lai sẽ trải
qua 100 ngàn đại kiếp trái đất, đến kiếp trái đất Bhaddakappa, có
Ðức Phật Gotama [*] xuất hiện trên thế gian, khi ấy, vị thiện nam
này tái sanh làm người nam trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia, sẽ
trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng
Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật Gotama, như Sudassana bậc Thánh đại
Thanh Văn của Như Lai bây giờ. [*] Từ Ðức Phật Padumuttara đến Ðức Phật Gotama trải qua 100
ngàn đại kiếp trái đất và trải qua 15 Ðức Phật xuất hiện trên
thế gian. Lắng nghe lời thọ ký của Ðức Phật Padumuttara, vị thiện nam vô
cùng hoan hỉ tạo phước thiện bố thí 4 thứ vật dụng đến Ðức Phật cùng
chư Ðại Ðức Tăng đến trọn đời. Trong vòng tử sanh luân hồi, do phước thiện cho quả được tái làm
chư thiên trong các tầng trời, hoặc khi tái sanh làm người tâm
thường hoan hỉ tạo phước thiện bố thí ít có người nào sánh được. Cho
nên, kiếp nào cũng không hề bị sa đọa vào 4 cõi ác giới (địa ngục,
atula, ngạ quỷ, súc sanh). Thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của vị
thiện nam, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào lòng công chúa
Suppavāsa xứ Koliya như ở đoạn đầu. Thiện nghiệp, ác nghiệp là riêng của mình, còn quả của thiện
nghiệp, ác nghiệp không chỉ riêng cho mình, mà còn có ảnh hưởng đến
người khác, chúng sinh khác. Do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài phải chịu nằm trong bụng mẹ
chịu khổ suốt 7 năm lẻ 7 ngày? Ðức Thế Tôn dạy rằng: - Này chư Tỳ khưu, Sīvali phải chịu khổ do quả ác nghiệp đã tạo
trong kiếp quá khứ! Trong thời quá khứ, tiền kiếp của Sīvali là Thái tử của Ðức vua
trị vì kinh thành Barāṇasi, khi phụ vương băng hà, Thái tử lên ngôi
vua. Lúc ấy, có Ðức vua láng giềng mưu toan kéo quân đến chiếm thành
Barāṇasi, trên đường tiến quân, vị vua ấy lập doanh trại cho quân
nghỉ đêm. Ðức vua kinh thành Barāṇasi hay tin, bèn bàn tính với Hoàng thái
hậu tìm cách ngăn cản quân xâm lược, rồi đem quân vây quanh doanh
trại quân địch. Vây chặt các cửa doanh trại suốt 7 ngày đêm không
cho một ai ra vào được. Khi ấy, Ðức vua kinh thành Barāṇasi ngự đến nghe Ðức Phật Ðộc
Giác thuyết giảng về thiện pháp, ác pháp; Ðức Phật Ðộc Giác khuyên
dạy mọi người không nên tạo ác nghiệp, để tự làm khổ mình, khổ
người; nên cố gắng tạo thiện nghiệp để đem lại sự an lạc cho mình,
cho người. Sau khi nghe pháp xong, Ðức vua hiểu rõ ác nghiệp, thiện nghiệp,
nên liền truyền lệnh mở vòng vây doanh trại quân địch, thả cho vị
vua nước láng giềng và quân lính trở về đất nước họ. Ðức vua kinh thành Barāṇasi sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả
tái sanh đoạ vào địa ngục, chịu khổ suốt thời gian lâu dài. Nay kiếp
hiện tại này, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào lòng công chúa
Suppavāsā, là hậu thân của bà Hoàng thái hậu ở tiền kiếp đã đồng
tình với vương nhi vây hảm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp
quá khứ còn dư lại, nên khiến cho Ngài Ðại Ðức Sīvali và công chúa
Suppavāsā cùng chịu khổ trong suốt 7 năm lẻ 7 ngày. Ðức Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp bằng bài kệ rằng: "Yādisaṃ vapate bījaṃ, Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, [Bộ Samyuttanikāya, phần Sagāthavagga] Người nào gieo hạt giống thế nào, Người hành thiện, thì được quả thiện. Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, ai ai cũng
thích sự an lạc, chán ghét sự khổ; mà sự an lạc, sự khổ đó là
quả (không phải nhân), nên không có quyền chọn lựa. Nên biết rằng: sự an lạc là quả của thiện nghiệp, sự khổ là quả
của ác nghiệp. Như vậy, thiện nghiệp, ác nghiệp là nhân (không phải
quả) nên có quyền chọn lựa. Con người có quyền chủ động chọn lựa tạo thiện nghiệp
hoặc ác nghiệp; một khi đã tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp
nào rồi, thiện nghiệp hoặc ác nghiệp đến thời kỳ, có cơ hội cho quả
của chúng; con người hoàn toàn bị động phải chấp nhận, mà
không có quyền phủ nhận, bởi vì chính mình là người thừa hưởng quả
của nghiệp ấy. Như vậy: - Thích sự an lạc (thích hưởng quả) thì phải biết
thích tạo mọi thiện nghiệp (gieo nhân).
- Chán ghét sự khổ (không thích quả) thì phải biết
chán ghét, không tạo mọi ác nghiệp (không gieo nhân).
Bởi vì, sự công minh của nghiệp không thiên vị một ai cả, dầu là
Ðức Phật hoặc chư bậc Thánh A-ra-hán. Theo quan niệm Phật giáo "còn nghiệp thì còn tái sanh luân
hồi" không hoàn toàn đúng; bởi vì, bậc Thánh A-ra-hán
vẫn còn nghiệp cũ, nhưng sau khi tịch diệt Niết
Bàn (chết) không còn tái sanh kiếp nào khác nữa. Nên hiểu đúng là: "còn phiền não tham ái, thì còn tái sanh
luân hồi". Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán đã diệt đoạn tuyệt
mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, đến khi Ngài hết tuổi
thọ, đồng thời cũng là lúc tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân
hồi trong tam giới; mặc dầu nghiệp cũ của Ngài vẫn còn, nhưng tất cả
nghiệp ấy đều trở thành vô hiệu quả (ahosikamma).
Tất cả mọi thiện nghiệp, mọi ác nghiệp không nhất thiết đều phải
cho quả cả thảy. Thiện nghiệp nào, ác nghiệp nào có cơ hội, có năng
lực, có đầy đủ nhân duyên, thì thiện nghiệp ấy, ác nghiệp ấy mới có
cơ hội cho quả. Còn thiện nghiệp, ác nghiệp nào không có đủ nhân
duyên; thì thiện nghiệp, ác nghiệp ấy không có cơ hội cho quả. Nhân duyên chính đó là tham ái. Bậc Thánh A-ra-hán
đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, đến khi tịch diệt Niết bàn
(chết), tham ái dẫn dắt tái sanh kiếp sau không còn nữa, nên chấm
dứt khổ sanh là giải thoát mọi cảnh khổ già, khổ bệnh,
khổ chết, mới có sự an lạc tuyệt đối, như Ðức Phật dạy: "Nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ". -ooOoo-
Ðầu trang
| Mục lục
| 01
| 02
| 03
| 04.a
| 04.b
| 05
| 06
| 07
| 08
| 09
| 10
| 11
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Hộ
Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PHƯỚC BỐ THÍ
(Tỳ khưu Hộ Pháp)
2- Tác ý đang khi tạo nghiệp.
3- Tác ý sau khi đã tạo nghiệp xong.
2- Thiện tâm có nhị nhân (dvihetukakusala).
2- Thiện tâm bậc thấp (omakakusala).
[Bộ Aṅguttaranikāya, phần Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta]
2- Khẩu ác nghiệp có 4 loại: nói dối, nói lời đâm thọc
chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.
3- Ý ác nghiệp có 3 loại: tham lam, thù hận, tà kiến.
2- Nhĩ thức tâm nghe những thanh trần, âm thanh không
đáng hài lòng.
3- Tỷ thức tâm ngửi những hương trần, các mùi không đáng
hài lòng.
4- Thiệt thức tâm nếm những vị trần, các loại vị không
đáng hài lòng.
5- Thân thức tâm tiếp xúc những xúc trần, không đáng hài
lòng.
6- Tiếp nhận tâm, tiếp nhận những đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc, không đáng hài lòng.
7- Suy xét tâm, suy xét những đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc, không đáng hài lòng.
- Nhĩ thức tâm nghe những thanh trần, âm thanh đáng hài
lòng.
- Tỷ thức tâm ngửi những hương trần, các mùi đáng hài
lòng.
- Thiệt thức tâm nếm những vị trần, các loại vị đáng hài
lòng.
- Thân thức tâm tiếp xúc những xúc trần đáng hài lòng.
- Tiếp nhận tâm, tiếp những đối tượng sắc, thanh, hương,
vị, xúc đáng hài lòng.
- Suy xét tâm, suy xét những đối tượng sắc, thanh, hương,
vị, xúc đáng hài lòng, v.v....
4 siêu tam giới quả tâm đó là 4 Thánh Quả Tâm tương xứng với
nhau:
2- Nhất Lai Thánh Ðạo Tâm --> 2- Nhất Lai Thánh Quả Tâm.
3- Bất Lai Thánh Ðạo Tâm --> 3- Bất Lai Thánh Quả Tâm.
4- A-ra-hán Thánh Ðạo Tâm --> 4- A-ra-hán Thánh Quả Tâm.
Sắc giới thiện tâm.
Vô sắc giới thiện tâm.
Siêu tam giới thiện tâm.
- 4 dục giới thiện tâm không hợp với trí thì chỉ có
nhị thiện nhân: vô tham và vô sân (không có vô si =
trí tuệ).
2- Muñca cetanā: tác ý đang khi tạo thiện nghiệp.
3- Apara cetanā: tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong.
2- Omakakusala: thiện tâm bậc thấp.
Tam nhân thiện tâm bậc thấp.
Nhị nhân thiện tâm bậc thấp.
Aparāparacetanā: gọi tên là sau, chữ sau ám
chỉ aparāparacetanā.
2- Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc
thấp.
3- Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc
cao.
4- Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc
thấp.
5- Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao.
6- Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc
thấp.
7- Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc
cao.
8- Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc
thấp.
Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.
Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau cũng bậc cao.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.
Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả khổ.
[Bộ Aṅguttaranikāya, phần Etadagga]
Tādisaṃ harate phalaṃ.
Pāpakārī ca pāpakaṃ".
Người ấy gặt quả như thế ấy.
Người hành ác, thì được quả ác.
"Niết bàn an lạc tuyệt đối".
last updated: 01-07-2003