BuddhaSasana Home Page TÌM HIỂU Dhammarakkhita Bhikkhu BỐ THÍ VÀ HỒI HƯỚNG Thí chủ làm phước thiện bố thí xong, thường hồi hướng phần phước
thiện bố thí ấy đến người thân yêu đã quá vãng nào đó. Ví dụ:
"Con xin hồi hướng phần phước thiện bố thí thanh cao này đến cho
cha con là Nguyễn Văn A. Cầu mong cha con hoan hỉ phần phước thiện
thanh cao này, được thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài...". Như vậy, thử hỏi ông "A" có thọ hưởng phần phước thiện, mà người
con hồi hướng đến cho ông được hay không? Ðể trả lời câu hỏi này, trước hết nên tìm hiểu 3 vấn đề: 1- Dānakusala: phước thiện phát sanh do bố thí: thí chủ sử
dụng của cải của mình đem bố thí đến cho người khác, để tạo được
phước thiện bố thí của mình. 2- Pattidānakusala: phước thiện phát sanh do hồi hướng: sau
khi thí chủ đã tạo được phước thiện bố thí xong rồi, đem phần phước
thiện ấy xin hồi hướng đến người đã quá vãng nào đó (ví như ông,
bà, cha, mẹ,v.v...).
3- Pattānumodanākusala: phước thiện phát sanh do hoan hỉ
phần phước thiện mà người thí chủ hồi hướng: những chúng sinh
hay biết, hoan hỉ phần phước thiện của thân quyến hồi hướng đến họ.
Trường hợp ông A không phải là bậc Thánh A-ra-hán [*], nên
còn phiền não, tham ái vẫn còn tái sanh kiếp sau như thế nào, hoàn
toàn tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của ông A cho quả tái
sanh. Như vậy, ông A có thọ hưởng được phần phước thiện bố thí của
thân quyến hồi hướng đến cho ông hay không? [*] Theo Phật giáo, bậc Thánh A-ra-hán khi tịch diệt Niết Bàn
rồi, chắc chắn không còn tái sanh kiếp nào nữa. Muốn biết vấn đề phước thiện bố thí và hồi hướng
phần phước thiện đến cho người quá vãng, họ có thọ hưởng được hay
không? Chúng ta cùng tìm hiểu bài kinh "Jāṇusasoṇīsutta"
[Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Jānusasoṇīsutta].
Trong bài kinh này, có đoạn ông Bà la môn Jāṇusasoṇī đến hầu đảnh lễ
Ðức Thế Tôn, bèn bạch rằng: - Kính bạch Ðức Sa môn Gotama, chúng con là Bà la môn thường bố
thí rồi hồi hướng đến những người quá vãng rằng: "phần phước thiện
bố thí này, cầu mong cho được thành tựu đến thân quyến đã quá vãng,
mong thân quyến quá vãng ấy hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố
thí này". Kính bạch Ðức Sa môn Gotama, phần phước thiện bố thí này, có thể
thành tựu đến thân quyến đã quá vãng của chúng con được hay không? Thân quyến đã quá vãng của chúng con có hoan hỉ thọ hưởng phần
phước thiện bố thí của chúng con được hay không? Bạch Ngài. Ðức Phật giải đáp rằng: - Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí được thành tựu tùy theo
loại chúng sinh này; không được thành tựu tùy theo loại chúng sinh
khác. Kính bạch Ðức Sa môn Gotama, loại chúng sinh nào được thành tựu?
Loại chúng sinh nào không thành tựu? Bạch Ngài. Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người không có giới,
thường sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia
rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam của người
khác, có tánh thù hận, có tà kiến; người ấy sau khi chết, do ác
nghiệp cho quả tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chúng
sinh trong cõi địa ngục sống tồn tại bằng vật thực ở địa ngục. Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng
sinh ở địa ngục. Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người sát sanh, trộm
cắp, tà dâm... có tà kiến; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho
quả tái sanh làm súc sanh, loài súc sanh sống tồn tại bằng vật thực
riêng của mỗi loài. Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến loài
súc sanh. Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh
xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa
sự nói dối, tránh xa sự nói lời đâm thọc, tránh xa sự nói lời thô
tục, tránh xa sự nói lời vô ích, tâm không tham lam của người khác,
tâm không thù hận, có chánh kiến; người ấy sau khi chết, do thiện
nghiệp cho quả tái sanh trở lại làm người, con người sống tồn tại
bằng vật thực của cõi người. Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng
sinh tái sanh trở lại làm người. Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh
xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp..., có chánh kiến; người ấy sau
khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên, chư thiên
trong cõi trời, sống tồn tại bằng vật thực trong cõi trời. Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí cũng không thành tựu đến
chư thiên trong cõi trời. Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người không có giới,
thường sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia
rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù
hận, có tà kiến; người này sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái
sanh làm loài ngạ quỷ, ngạ quỷ sống tồn tại bằng vật thực của hàng
ngạ quỷ. Hàng ngạ quỷ này thường trông ngóng thân quyến trong cõi
người hồi hướng phước thiện đến cho họ, khi họ hay biết hoan hỉ phần
phước thiện ấy, họ thọ hưởng được, chắc chắn họ thoát khỏi cảnh khổ,
tái sanh cõi thiện giới hưởng được mọi sự an lạc. Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí chỉ có thể thành tựu đến
cho loài ngạ quỷ mà thôi. Khi lắng nghe Ðức Phật giải đáp như vậy, ông Bà la môn bạch tiếp
rằng: Kính bạch Sa môn Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng ấy không thọ
hưởng được phần phước thiện bố thí hồi hướng ấy, vậy ai thọ hưởng
phần phước thiện ấy? Bạch Ngài. Này Bà la môn, hàng ngạ quỷ thân quyến khác của thí chủ, thọ
hưởng được phần phước thiện hồi hướng ấy. Kính bạch Sa môn Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng không có
trong hàng ngạ quỷ, thì ai là người thọ hưởng phần phước thiện hồi
hướng ấy? Bạch Ngài. Này Bà la môn, trong vòng tử sanh luân hồi trải qua vô số kiếp
của mỗi chúng sinh trong quá khứ, không có người thân quyến tái sanh
làm ngạ quỷ, đó là điều không thể có được, (chắc chắn có thân quyến
sanh làm ngạ quỷ). Ðiều chắc chắn thí chủ là người được phần phước thiện bố thí ấy
và thọ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy. Kính bạch Sa môn Gotama, Ngài có hạn chế những chúng sinh không
thọ hưởng được phước thiện bố thí hay không? Này Bà la môn, Như Lai có hạn chế chúng sinh. Này Bà la môn có số người trong đời này, là người không có giới,
thường sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia
rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù
hận, có tà kiến; nhưng người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ,
hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la
môn; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả dầu tái sanh làm
con voi; trong kiếp voi ấy, được nuôi nấng chăm sóc chu đáo, có đầy
đủ vật thực, nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ, đồ trang sức đẹp
đẽ... do quả của phước thiện bố thí trong kiếp trước. Này Bà la môn, có số người trong đời này là người không có giới,
thường sát sanh, trộm cắp... có tà kiến, nhưng người ấy thường bố
thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ
ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp
cho quả dầu tái sanh làm chó; trong kiếp chó ấy, được nuôi nấng làm
chu đáo, có đầy đủ vật thực, nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ,
đồ trang sức đẹp đẽ... do quả của phước thiện bố thí trong kiếp
trước. (Tái sanh làm con ngựa, con bò.... v.v...). Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh
xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm
thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có
tánh thù hận, có chánh kiến; người ấy thường bố thí cơm, nước, vải,
xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn,
Bà la môn. Người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh
trở lại làm người; trong kiếp người, là người giàu sang, phú quý, có
chức cao, quyền lớn, sung túc đầy đủ ngũ trần trong đời, phát sanh
do quả báu của phước thiện bố thí trong kiếp quá khứ. Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người có giới, tránh
xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp... có chánh kiến; người ấy
thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa,
chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy sau khi chết, do
thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên; trong kiếp chư thiên
trong cõi trời, là chư thiên có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc
cao quý trong cõi trời ấy, do phước thiện bố thí, đã tạo trong kiếp
quá khứ. Này Bà la môn, chính thí chủ là người có phước thiện bố thí và
hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy. Kính bạch Sa môn Gotama, thật phi thường! Chưa từng nghe bao giờ! Kính bạch Sa môn Gotama, như vậy, thật ra nên bố thí bằng đức tin
trong sạch, phước thiện bố thí không chỉ có quả báu cho chính mình,
mà còn hồi hướng đến người khác, khi biết hoan hỉ họ cũng thọ hưởng
được quả báu của phước thiện này nữa. Kính bạch Sa môn Gotama, lời dạy của Ngài rõ ràng quá!......". * Qua bài kinh này, chúng ta hiểu được rằng: thí chủ làm phước
thiện bố thí rồi hồi hướng riêng đến thân quyến đã quá
vãng nói riêng, có ý chỉ định đến một chúng sinh nào đó, thì
điều ấy không chắc chắn, bởi vì, chúng sinh ấy có hay
biết được thân quyến hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho mình
hay không? Nếu chúng sinh ấy biết được mà hoan hỉ thì thọ hưởng được phần
phước thiện ấy. Nếu chúng sinh ấy không hay biết, không hoan hỉ, thì không thọ
hưởng được phần phước thiện ấy. Còn thí chủ làm phước thiện bố thí rồi, xin hồi hướng chung
đến những thân quyến đã quá vãng nói chung, không có ý định chỉ định
đến chúng sinh nào, điều ấy chắc chắn thân quyến của thí chủ
thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy. Bởi vì, trong vòng tử
sanh luân hồi vô số kiếp của mỗi chúng sinh, chắc chắn có thân quyến
tái sanh trong hàng ngạ quỷ. Nếu họ hoan hỉ thọ hưởng được phần
phước thiện của thí chủ hồi hướng, thì họ thoát khỏi cảnh khổ, được
tái sanh cõi thiện giới an lành, hưởng được mọi sự an lạc. Ngoài ra, các chúng sinh khác không hay biết, không hoan hỉ phần
phước thiện bố thí của thí chủ hồi hướng, thì không thọ hưởng được
phần phước thiện bố thí ấy. Tích thân quyến ngạ quỷ của đức vua Bimbisāra Những thân quyến của đức vua Bimbisāra từ thời kỳ Ðức Phật
Phussa, cách Ðức Phật Gotama trải qua 6 Ðức Phật xuất hiện trên thế
gian, thời gian khoảng cách 92 đại kiếp trái đất. Họ đã tạo nghiệp
ác, nên cho quả bị tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, từ
địa ngục này sang địa ngục khác, mãi cho đến thời kỳ Ðức Phật
Kassapa xuất hiện trên thế gian, họ mới thoát khỏi địa ngục, tái
sanh làm ngạ quỷ. Một hôm, nhóm ngạ quỷ này đến hầu Ðức Phật Kassapa, bèn bạch
rằng: Kính bạch Ðức Thế Tôn, đến bao giờ, mới có thân quyến hồi hướng
phước thiện bố thí đến nhóm ngạ quỷ chúng con, để chúng con thoát
khỏi cảnh khổ, được hưởng sự an lạc? Bạch Ngài. Ðức Phật Kassapa dạy rằng: Này các ngạ quỷ, bây giờ các con chưa được gì đâu! Các con hãy
chờ trong vị lai đến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế
gian, thuở ấy có Ðức Vua gọi là Bimbisāra đã từng là thân quyến của
các con, trước đây cách 92 đại kiếp trái đất. Ðức vua Bimbisāra làm
phước cúng dường đến Ðức Phật Gotama cùng chư Ðại Ðức Tăng, rồi hồi
hướng phước thiện bố thí ấy đến cho các con. Nhóm ngạ quỷ nghe lời thọ ký của Ðức Phật Kassapa [Ðức Phật
Kassapa xuất hiện trên thế gian vào thời đại tuổi thọ con người
khoảng 20.000 năm], tâm cảm thấy vô cùng hoan hỉ trông ngóng như sắp
được hoan hỉ phần phước thiện vào ngày mai. Thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con
người khoảng 20.000 năm, khi Ðức Phật Kassapa tịch diệt Niết Bàn và
giáo pháp của Ngài cũng hoàn toàn tiêu hoại; con người làm cho mọi
ác pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện pháp từ từ suy thoái; cho
nên, tuổi thọ con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống còn
khoảng 10 năm. Từ đó, con người kinh sợ tội lỗi, tránh xa ác pháp;
cố gắng tạo thiện pháp; mọi thiện pháp dần dần tăng trưởng, còn ác
pháp từ từ suy thoái; cho nên, tuổi thọ con người tăng dần, tăng dần
từ 10 năm lên đến tột cùng a tăng kỳ năm [A tăng kỳ (asaṅkheyya):
được tính theo số lượng là số 1 đứng đầu, theo sau là 140 con số
không (0), 10**140]. Từ đó, con người bắt đầu dể duôi, ác pháp phát
sanh, làm cho tuổi thọ con người lại giảm dần, giảm dần cho đến khi
tuổi thọ khoảng 100 năm. Khi ấy, Ðức Phật Gotama hiện tại của chúng
ta xuất hiện trên thế gian, tại xứ Māgadha có đức vua Bimbisāra trị
vì, đóng đô tại kinh thành Rājagaha. Ðức vua Bimbisāra có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp,
Ðức Tăng, Tam bảo, xây dựng ngôi chùa Veḷuvana dâng đến chư Ðại Ðức
Tăng tứ phương có Ðức Phật chủ trì chứng minh, nhóm ngạ quỷ thân
quyến đang trông chờ Ðức Vua hồi hướng phần phước thiện đến cho họ;
nhưng trong dịp ấy, Ðức Vua không hồi hướng phước thiện bố thí đến
cho chúng. Nhóm ngạ quỷ thân quyến thất vọng đêm khuya đến kêu la
than khóc âm thanh đáng kinh sợ. Sáng ngày, Ðức Vua đến hầu Ðức Phật, bạch hỏi do nhân nào có hiện
tượng như vậy. Ðức Phật dạy: - Này Ðại Vương, không có gì đáng kinh sợ, đó là tiếng kêu la
than khóc của nhóm ngạ quỷ thân quyến của Ðại Vương trong quá khứ.
Nhóm ngạ quỷ này trông ngóng Ðại Vương làm phước thiện bố thí, rồi
hồi hướng phần phước thiện cho chúng, để chúng thoát khỏi cảnh khổ,
được tái sanh nơi cảnh giới an lạc. Lắng nghe Ðức Phật dạy như vậy, Ðức Vua liền bạch: - Kính bạch Ðức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng
chư Ðại Ðức Tăng ngự đến cung điện của con, để con làm phước thiện
bố thí một lần nữa, lần này con sẽ hồi hướng phước thiện đến nhóm
ngạ quỷ thân quyến của con. Ðức Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời
của Ðức Vua. Ðức Vua Bimbisāra đảnh lễ Ðức Thế Tôn trở về cung điện, sửa soạn
vật thực làm phước thiện bố thí cho ngày mai. Sáng hôm sau, Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến cung điện
của Ðức Vua. Chính tự tay Ðức Vua cúng dường vật thực đến Ðức Phật
cùng chư Ðại Ðức Tăng xong, Ðức Phật thuyết bài kinh
"Tirokuṇṇapetavtthu" [Khuddakanikāya, bộ Petavatthu,
Tirokuṇṇapetavtthu] tế độ nhóm ngạ quỷ, đồng thời đức vua
Bimbisāra hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến nhóm ngạ quỷ thân
quyến, chúng hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện cấy, nên tất cả đều
thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, ngay khi ấy, do nhờ năng lực phước
thiện cho quả, được tái sanh làm chư thiên hưởng mọi sự an lạc cõi
trời dục giới. Chúng ta được sanh làm người, có cơ hội làm phước thiện bố thí,
còn các chúng sinh khác khó có cơ hội bố thí. Cho nên, chúng ta nên
tìm cơ hội tốt để làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước
thiện ấy đến cho thân quyến của chúng ta chịu đói khát, khổ cực
trong hàng ngạ quỷ; họ lúc nào cũng trông ngóng đến sự hồi hướng
phước thiện của thân quyến. Khi họ hay biết, hoan hỉ phần phước
thiện mà chúng ta hồi hướng đến cho họ, chắc chắn họ thoát ra khỏi
kiếp ngạ quỷ đói khát, do nhờ phước thiện ấy cho quả được tái sanh
cõi thiện giới: cõi trời, cõi người. Cho nên, khi thí chủ tạo được phước thiện nào xong rồi, nên đọc
câu hồi hướng rằng: "Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, [Khuddakanikāya, bộ Petavatthu, Tirokuṇṇapetavtthu] "Cầu mong phước thiện này, Như vậy, thân quyến ngạ quỷ đang đứng trông chờ hoan hỉ phần
phước thiện mà thân quyến đã hồi hướng, ngay khi ấy, do năng lực
phước thiện cho quả, họ được thoát khỏi kiếp sống ngạ quỷ đói khát,
được chuyển kiếp tái sanh làm chư thiên, hưởng mọi sự an lạc trong
cõi trời. Lời Hồi Hướng Tất cả chúng sinh trong ba giới bốn loài, chỉ có loài người trong
cõi Nam thiện bộ châu này có được thuận lợi tạo mọi phước thiện,
nhất là phước thiện bố thí. Ngoài ra, các chúng sinh còn lại và các
cõi khác, khó có cơ hội tạo phước thiện bố thí. Chư thiên muốn tạo
phước thiện bố thí cần phải hiện xuống cõi người, biến hóa thành con
người mới có thể tạo phước thiện bố thí. Như vậy, chúng ta đã là con người trong cõi Nam thiện bộ châu
này, có điều kiện và cơ hội tạo nên được phước thiện bố thí, thì
chúng ta nên có tâm từ, tâm bi quan tâm đến những chúng sinh khác,
họ không phải ai xa lạ, họ chính là những người thân bằng quyến
thuộc của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ và kiếp
hiện tại. Ðức Phật dạy: "Không thấy một chúng sinh nào không từng là thầy, tổ, ông, bà,
cha, mẹ, anh, chị, em, chú, bác, cô, dì, bà con thân bằng quyến
thuộc... của chúng ta". Như vậy, tất cả chúng sinh đều là những người thân quyến của
chúng ta gần kiếp này, hoặc xa trong những kiếp quá khứ. Nay chúng
ta có điều kiện, có cơ hội tạo nên phước thiện bố thí, thì ta nên
hồi hướng, ban bố, phân phát... phần phước thiện bố thí này đến cho
tất cả chúng sinh, thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Có số chúng
sinh đang sống trong cảnh khổ, đang khao khát, trông ngóng, chờ đợi
phần phước thiện của thân quyến hồi hướng, nếu họ hay biết mà hoan
hỉ phần phước thiện ấy, ngay tức khắc, họ thoát khỏi cảnh khổ, được
tái sanh lên cõi thiện giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi ấy. Muốn vậy, chúng ta cần phải thành tâm hồi hướng và có lời hồi
hướng như sau: Ðọc câu Pāḷi: "Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, Sukhitā hontu ñātayo..."
Hoặc bằng tiếng Việt: Hôm nay, chúng tôi đã tạo mọi phước thiện như bố thí, thọ trì Tam
quy, giữ giới, nghe pháp, hành thiền.... Chúng tôi thành tâm hồi
hướng phần phước thiện này đến tất cả chư thiên, nhất là chư thiên
hộ trì mỗi người chúng tôi, chư thiên ở tại nơi đây, chư thiên ở
trong nhà, chư thiên ở trong tỉnh, thành, chư thiên ở trong nước,
chư thiên ở ngoài nước và toàn thế giới, chư thiên ở trên mặt đất,
chư thiên ở cội cây, chư thiên ở trên hư không; Tứ Ðại Thiên Vương: đức vua Dhataraṭṭha, đức vua Viruḷhaka, đức
vua Virūpakkha, đức vua Kuvera cùng tất cả chư thiên trong cõi Tứ
đại thiên vương thiên. Ðức vua trời Sakka cùng tất cả chư thiên trong cõi Tam thập tam
thiên. Ðức vua trời Suyāma cùng tất cả chư thiên trong cõi Dạ ma thiên. Ðức vua trời Santussita cùng tất cả chư thiên trong cõi Ðâu xuất
đà thiên. Ðức vua trời Sunimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Hoá lạc
thiên. Ðức vua trời Paranimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Tha hóa
tự tại thiên. v.v.... Xin quý vị chư thiên hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao
này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, làm cho tăng thêm sự an lạc lâu
dài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay! Chúng tôi thành tâm hồi hướng đến những ân nhân đã quá vãng như
tổ tiên, thầy tổ, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, bè bạn...
từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là ...
[tên người vừa quá vãng hoặc người đang nhớ đến trong ngày làm phước
thiện này ...]
Chúng tôi thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến những
ân nhân còn sống như: ông bà, cha mẹ, thầy tổ, anh chị em, con cháu,
bà con thân bằng quyến thuộc, bè bạn.... Mong quý vị hoan hỉ thọ
hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả
thảy, cầu mong quý vị thân tâm thường được an lạc, tiến hóa trong
mọi thiện pháp. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay! Chúng tôi thành tâm hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến
chúng sinh trong địa ngục, các hàng atula, các hàng ngạ quỷ, các
loại súc sanh, đặc biệt đến chúa địa ngục Yāma. Mong quý vị hoan hỉ,
thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả
thảy, cầu mong quý vị thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh nơi cõi
thiện giới cho được an lạc. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay! Nói chung, chúng tôi thành tâm hồi hướng đến tất cả 4 loài chúng
sinh, trong tam giới gồm có 31 cõi. Cầu mong tất cả chúng sinh hoan
hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau
cả thảy, cầu mong tất cả chúng sinh giải thoát mọi cảnh khổ, được an
lạc lâu dài, tiến hóa trong mọi thiện pháp làm duyên lành trên con
đường giải thoát khỏi khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. –
Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay! Bố Thí – Hồi Hướng Phước thiện bố thí và hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy là một
việc rất cần thiết đối với hàng ngạ quỷ. Kiếp ngạ quỷ chịu bao nhiêu
nỗi khổ vì đói khát, lạnh lẽo. Họ chỉ còn biết trông ngóng, chờ đợi
phước thiện mà thân bằng quyến thuộc hồi hướng đến cho họ mà thôi.
Nếu họ không được hoan hỉ phần phước thiện nào của thân bằng quyến
thuộc hồi hướng, thì họ phải chịu kiếp sống ngạ quỷ đói khát, khổ
cực, không biết bao giờ mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Như tích Sāriputtattheramātupeta [Khuddakanikāya, Petavatthu,
truyện Sāriputtattheramātupeta]: Ngạ quỷ thân mẫu của Ngài
Ðại Ðức Sāriputta, được tóm lược như sau: Nữ ngạ quỷ tiền thân đã từng là thân mẫu của Ngài Ðại Ðức
Sāriputta kiếp thứ 5 trong quá khứ, kể từ kiếp hiện tại. Tiền thân của nữ ngạ quỷ là vợ của ông Bà la môn giàu có nhiều
của cải. Ông Bà la môn có đức tin trong sạch, có tác ý thiện tâm,
thường làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực, đồ uống, y
phục... đến Sa môn, Bà la môn. Bố thí ban bố, phân phát đến những
người nghèo khổ, người qua đường.... Một hôm, ông Bà la môn có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo
vợ ở nhà thay ông gìn giữ phong tục tập quán, lo công việc làm phước
thiện bố thí cúng dường đến Sa môn, Bà la môn, phân phát vật thực,
đồ dùng đến những người nghèo khổ đói khát.... Người vợ ở nhà không
làm theo sự dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nương nhờ, bà ta buông
lời mắng nhiếc, ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng.... Sau khi bà ta chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào hàng ngạ
quỷ đói khát, ăn đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước
miếng... chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh lẽo do ác nghiệp của
mình đã tạo. Nữ ngạ quỷ nhớ lại tiền kiếp đã từng là thân mẫu của
Ngài Ðại Ðức Sāriputta, muốn đến nương nhờ Ngài, chư thiên giữ cổng
ngăn cản không cho nữ ngạ quỷ vào. Nữ ngạ quỷ thưa với vị chư thiên
rằng: - Thưa chư thiên, tiền kiếp tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Ðại
Ðức Sāriputta, xin chư thiên cho tôi vào thăm Ngài. Nữ ngạ quỷ được vào đứng khép nép, Ngài Ðại Ðức Sāriputta nhìn
thấy nữ ngạ quỷ, với tâm bi mẫn bèn hỏi rằng: - Này ngạ quỷ! Thân trần truồng, hình dáng đáng thương hại, ốm
yếu da bọc xương, thân mình run rẩy. Ngươi là ai mà đến đứng nơi
này? Nghe Ngài hỏi, nữ ngạ quỷ thưa rằng: - Kính bạch Ngài Ðại Ðức, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu
của Ngài, do nghiệp ác cho quả tái sanh làm ngạ quỷ chịu cảnh đói
khát, đành phải ăn những đồ dơ dáy như nước miếng, nước mũi, đàm
người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy từ xác chết, uống máu của đàn
bà đẻ, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay chân, ăn máu mủ các loài
động vật, sống không có nương tựa, các nơi nghĩa địa, bãi tha ma. Kính bạch Ngài, xin Ngài làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng
phần phước thiện ấy đến cho mẹ với. Nhờ phước thiện ấy, may ra mẹ
mới thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ như thế này. Ngài Ðại Ðức Sāriputta lắng nghe lời nữ ngạ quỷ đã từng là thân
mẫu trong tiền kiếp, phát sanh tâm bi mẫn, nên tìm cách cứu khổ nữ
ngạ quỷ, Ngài bàn tính với Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, Ngài Ðại Ðức
Anuruddha và Ngài Ðại Ðức Mahākappina. Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna
đi khất thực vào cung điện gặp đức vua Bimbisāra, Ðức vua thỉnh mời
yêu cầu Ngài cần thứ vật dụng nào để Ðức vua dâng cúng. Nhân dịp ấy,
Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna thưa cho Ðức Vua biết chuyện nữ ngạ quỷ
đã từng là thân mẫu của Ngài Ðại Ðức Sāriputta sống trong cảnh khổ
không có nơi nương nhờ. Nghe vậy, Ðức Vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc, chỗ ở của chư Tỳ
khưu Tăng. Khi xây cất xong, Ðức Vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài
Ðại Ðức Sāriputta 4 cái cốc ấy. Một lần nữa, Ngài Ðại Ðức Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến
chư Tỳ khưu Tăng từ bốn phương, có Ðức Phật chủ trì, xin hồi hướng
phần phước thiện này đến cho nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu trong
tiền kiếp. Nữ ngạ quỷ hoan hỉ phần phước thiện bố thí mà Ngài Ðại
Ðức Sāriputta hồi hướng. Ngay sau khi hoan hỉ phần phước thiện bố
thí ấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sanh lên làm thiên nữ có
hào quang sáng ngời, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng lẫy, có lâu
đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ của cải của chư thiên, hưởng sự an
lạc cao quý trong cõi trời. Hôm sau, vị thiên nữ ấy hiện xuống đảnh lễ Ngài Ðại Ðức
Mahāmoggallāna, Ngài hỏi thiên nữ rằng: - Này thiên nữ, ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, có hào quang sáng
chói khắp mọi nơi, như vầng trăng sáng. - Do phước thiện gì mà ngươi có được như vậy? Này thiên nữ, ngươi có nhiều oai lực đặc biệt, vậy, khi sống cõi
người, ngươi tạo phước thiện gì, mà nay có được những quả báu đáng
hài lòng như vậy? Vị thiên nữ bạch với Ngài Ðại Ðức Mahā-moggallāna rằng: - Kính bạch Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, con là thân mẫu của Ngài
Ðại Ðức Sāriputta trong tiền kiếp, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm
nữ ngạ quỷ chịu cảnh khổ đói khát đành phải ăn đồ dơ dáy như máu,
mủ.... Vừa qua, con đã đến hầu Ngài Ðại Ðức Sāriputta cầu xin Ngài
có lòng bi mẫn cứu khổ con, Ngài đã làm phước thiện bố thí xong hồi
hướng đến cho con; con đã hoan hỉ phần phước thiện ấy, nên con thoát
khỏi kiếp ngạ quỷ, được tái sanh làm thiên nữ có được tất cả như
Ngài đã thấy. Kính bạch Ngài Ðại Ðức, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân
Ngài và Ngài Ðại Ðức Sāriputta là bậc Thánh thiện trí, có tâm bi mẫn
cứu khổ chúng sinh trong đời. Những câu truyện như trên có rất nhiều trong bộ Peṭavaṭṭhu và
trong Kinh tạng. -ooOoo-
Ðầu trang
| Mục lục
| 01
| 02
| 03
| 04.a
| 04.b
| 05
| 06
| 07
| 08
| 09
| 10
| 11
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Hộ
Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PHƯỚC BỐ THÍ
(Tỳ khưu Hộ Pháp)
Sukhitā hontu ñātayo...".
Thành tựu đến tất cả,
Thân quyến của chúng tôi.
Cầu mong họ hoan hỉ,
Ðược an lạc lâu dài".
- Do phước thiện gì mà ngươi được sanh trong lâu đài nguy nga
tráng lệ như thế ấy?
- Do phước thiện gì mà ngươi có đầy đủ mọi thứ trong cõi trời
đáng hài lòng như vậy?
last updated: 01-07-2003