BuddhaSasana Home Page Thiền
Tâm Từ Tỳ
kheo THIỆN MINH dịch Phần
Một (tiếp theo) THỰC TƯỚNG CHỈ LÀ
NHƯ THẾ Vào một mùa thu nọ, một
người bạn của tôi đã gọi điện cho tôi sau khi trải qua
nhiều tháng tu tập thiền ở Thái Lan. Khi tôi hỏi thăm sự
việc của anh ta thế nào, anh trả lời, "Công việc của
tôi tiến triển tốt đẹp". Tôi hơi bị một chút hoang
mang. Tôi đã mạo hiểm, "Ồ, cho ngày lễ Các
Thánh". Anh ta trả lời
"Không. Tôi chỉ dành một tháng để tu tập thiền tích
cực suy niệm, về các bộ xương, và tôi thật sự bị thu
hút về điều này". Tôi hỏi: "À, việc đó đối với
anh như thế nào?" "Lúc ban đầu, điều
đó hết sức ghê tởm". Anh ta trả lời. "Nhưng qua
thời gian, một hình thức đặc biệt minh bạch xảy đến -
không một chút giả tạo nào, không có những phân biệt
sâu sắc giai cấp xã hội. Tôi thường đi vào phòng ăn và
quán chiếu bản thân mình là một bộ xương người và những
người khác là một bộ xương. Tính cách nó là như thế đó". Khi anh ta nói như vậy,
tôi liên tưởng đến một cuộc triển lãm ở viện bảo
tàng nghệ thuật dân gian ở Santa Fee nơi đó những hình người
bé tí đang tham gia những hoạt động quen thuộc như nấu
ăn và chơi âm nhạc - nhưng mọi người trong cuộc triển lãm
là một bộ xương; như vậy những bộ xương đang chơi vĩ
cầm, chiên trống v.v... Nó là sự gợi ý khẳng định về
một sự thật được che giấu mà chúng ta thường không muốn
quan tâm đến. Những phương pháp tu tập
của Phật giáo giống như hình thức mà người bạn tôi đã
tham gia là một phần của những phương pháp thiền được
gọi là Asubha, theo truyền thống được dịch là "suy niệm
về bản chất bất tịnh của thân xác". Trong khi đó dường
như những phương pháp tu tập đó có thể tạo ra sợ hãi
và ghê tởm. Chúng hoàn toàn không có ý kích thích những sự
hưởng ứng này, nhưng chính xác hơn là đem lại sự giải
thoát và rõ ràng đối với tâm. Kết quả này có thể
dường như không chắc chắn. Một hình thức phiên dịch
chính xác hơn của từ Pàli "Asubha" có thể đạt
được sự thành công đầy tiềm năng của hình thức tu tập
này để dễ dàng hiểu rõ hơn. Thực sự Asubha có nghĩa điều
đi ngược lại khuynh hướng thường tình. Và chắc chắn những
phép tu tập này đi ngược lại khuynh hướng thường tình
trong xã hội! Chúng đi ngược lại khuynh hướng thường tình
xem trọng thân xác của chúng ta như là những mục tiêu
chúng ta phải làm đẹp với bất cứ giá nào để thỏa mãn
theo những tiêu chuẩn văn hóa nào đó.Chúng đi ngược lại
khuynh hướng tin tưởng vào xác thân của chúng ta có thể
giữ lại sự trẻ trung và khỏe mạnh vĩnh cửu, và tin tưởng
rằng chúng ta có thể dựa vào xác thân để không làm
chúng ta ngã lòng hoặc thất vọng. Ở trong một xã hội
như xã hội của chúng ta đang sống, nó đi ngược lại
khuynh hướng để có sự nhận thức trực tiếp và bản chất
thật sự của xác thân. Nó liên tục gợi lên cho chúng ta -
qua hình thức quảng cáo, thông tin đại chúng, phim ảnh - rằng
nó đang làm nguy hại chân giá trị để có được một xác
thân không hoàn hảo - không có chức năng hoàn hảo. Việc
không kiềm chế được bản thân được trình làng thật sự
là thế đó! Hình thức quy ước xã
hội này tạo nên nhiều nỗi đau buồn và sự tự phán xét
vô bổ. Thật rõ ràng, những thói quen và phẩm chất cuộc
sống của chúng ta tác động đến thể xác của mình, nhưng
chúng ta không thể kiểm soát được bản thân một cách tuyệt
đối; chúng ta không thể giữ cho nó khỏi sự biến đổi.
Và không một người nào trong chúng ta lại không quan tâm đến
việc chúng ta đã tiêu phí bao nhiêu tiền trong việc theo đuổi
sự thu hút, rồi ai sẽ chết. Tuy vậy, cái chết vẫn còn bị
che giấu, hầu như thể nó là điều bất thường và đáng
hổ thẹn, như thể người đó đã làm điều gì sai trái
khi họ qua đời. Khi chúng ta thoát khỏi điều thật phiền
não như vậy chúng ta nhận ra rằng, chúng ta "bị trói
buộc bởi một con thú chết" như lời của nhà thơ
William Butler Yeats nói, chúng ta ai cũng đang "bị buộc vào
một con thú đang hấp hối." Các phép tu tập thiền
Asubha đều đi đến sự nhận thức thực tế của xác thân
là như thế, và đây là điều giải thoát tuyệt vời. Sự
kiện này không liên quan đến việc không yêu quý bản thân
hoặc không ca ngợi cuộc sống của chúng ta. Nó không liên
quan đến nơi sâu kín lạnh lùng trong bản thân chúng ta; điều
đó e sợ rằng cuối cùng chúng ta không thể yêu thương. Nó
liên quan với việc có dũng khí để thổ lộ những gì thường
được che giấu. Chúng ta sẽ hoàn toàn nhận thức và thấy
rõ thực chất của vạn vật là thế. Khi chúng ta thấy được
sự thật, thì chẳng có một điều gì để e ngại hoặc trốn
tránh. Thực chất của thân xác là một điều gì mà tất cả
chúng ta đều có dự phần. Khi chúng ta sống có ý
thức về sự thật, chúng ta không còn những ép buộc phải
giả tạo và phủ nhận. Rốt cuộc, chúng ta sống trong một
xã hội nơi những xác chết được tô điểm như thể là
đi dự tiệc; ở đó người ta thường chết cô đơn mà
không có sự giúp đỡ tương trợ, ở đó những thứ dơ bẩn
khó chịu của mọi hình thức đã được vệ sinh hóa và
được người ta mang đi nơi khác để xử lý, cho nên chúng
ta không phải nhìn thấy sự việc đó. Chẳng ai thắc mắc
tại sao chúng ta thường mệt mỏi và lo sợ. Cố tìm cách
tránh không nhìn vào dòng đời trôi chảy tự nhiên là một
công việc chán nản và đáng sợ. Và nó không chỉ tạo
nên đau khổ, phiền não cho bản thân mà còn đến với người
khác, khi chúng ta xung đột trong huyền thoại về bản chất
bất biến của thân xác. Bệnh tật, hư hoại, máu
huyết, ruột gan, và xương cốt là hình ảnh phiền muộn nhưng
khi suy nghĩ về điều đó chúng ta đặt nhiều vấn đề
theo quan điểm phù hợp. Thật mỉa mai biết bao sự phân ra
được những thành phần kết hợp của cơ thể là điều
giải thoát. Như vậy nếu đôi khi chúng ta nhận ra rằng con
người đang chiên những quả trứng của mình là một bộ xương,
và chúng ta, người sẽ ăn những quả trứng cũng là những
bộ xương có lẽ điều đó có thể giúp chúng ta thoát khỏi
cách bấu víu sự việc theo đúng quan điểm, không cảm thấy
thù ghét thân xác chúng ta khi chúng già nua, không xa lánh những
kẻ bệnh tật hay qua đời, không oán hận những sự việc
xảy ra theo tính cách thật tế của chúng. Khi người bạn tôi
nói khi anh ta tu tập thiền đã dẫn dắt anh ta nhìn thấy
con người là một bộ xương, "tính cách của nó là như
thế". TRỞ VỀ MÁI ẤM Một lần nọ khi tôi
đi dạo cùng với một người bạn ở nghĩa trang Mount Auburn
ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. Cô ta và tôi đi đây đó,
mê mải trò chuyện về những kinh nghiệm trong cuộc sống
ở Ấn Ðộ nhiều năm trước. Trong khi chúng tôi vừa đi vừa
trò chuyện thì trời đã sập tối và chúng tôi chợt giật
mình nhận ra là mình đã lạc lối. Chúng tôi hết sức
hoang mang và nghĩ rằng sẽ phải trải qua đêm ở nghĩa
trang. Chúng tôi tiếp tục đi trong bóng đêm xuống dần cho
tới khi trời tối mịt. Tôi cảm thấy hết sức lo sợ và
bất an khi chúng tôi trải qua một trạng thái hết sức bối
rối, cố gắng định hướng của mình. Bạn có thể tưởng
tượng từng ngôi mộ giống như thế nào khi chúng được
nhìn thấy trong đêm tối. Chúng tôi nói với nhau:
"Chúng ta đã vượt qua Carters rồi phải không? Cách đây
bao lâu rồi? Ðường nào chúng ta đi khi chúng ta đi qua đài
tưởng niệm của họ?". Cuối cùng, sau nhiều giờ tìm
kiếm, chúng tôi tìm được cổng nghĩa trang, nhưng đã bị
khóa lại tự bao giờ. Một sự chờ đợi bất tận khác lại
đến, người bảo vệ xuất hiện, thế là chúng tôi được
tự do. Cái cảm nhận hoàn
toàn lạc lõng đó là một "phép loại suy" tốt đối
với trạng thái tâm mang tính chất ảo tưởng. Ở sự ảo
tưởng đó chúng ta không biết mình đang ở đâu và đang
đi đâu. Khi ảo tưởng phát sinh mạnh mẽ trong tâm, chúng
ta cảm thấy như mình đã thật sự đi qua cái nghĩa trang đó
, trong tâm đầy hoang mang và thậm chí lo sợ "Và chúng
ta bắt đầu cảm thấy dao động càng nhiều". Việc gì
sẽ xảy ra cho tôi nếu tôi bước về phía trái và nếu bước
sang phía phải thì sẽ ra sao? Rồi tiếp đến là điều gì?
Và tiếp theo sau đó là gì nữa?" Tiếng Pàli, từ ngữ về
ảo tưởng là "moha" có nghĩa là làm cho u mê. Ở trạng
thái này chúng ta cảm thấy bị hoang mang và vô dụng. Tâm bị
ngu muội, bối rối và bất an ở trạng thái ảo tưởng, chúng
ta cảm thấy không ổn định trong tâm, trong con người của
chúng ta, như thể không thuộc vào ở đó, như thể chúng ta
đang ở một nơi xa lạ. Cuộc sống bắt đầu thể hiện bằng
đặc tính của một loạt đòi hỏi những thành phần phức
tạp ghép lại với nhau mà dường như không được ăn khớp.
Chúng ta hoàn toàn không thể thấy vạn vật được liên kết
ở đâu, chúng có liên quan và được kết hợp bằng cách
nào. Sự thất bại trong việc nhận thức bản chất thật sự
của chúng là thế đó, chúng ta cảm thấy hoàn toàn bị mơ
hồ về một ý tưởng của mối quan hệ đối với bất cứ
điều gì. Nhưng ngay cả khi chúng ta chỉ có một cái nhìn
thoáng qua về những mối liên hệ đó, chúng ta được thúc
đẩy để từ bỏ ảo tưởng và phát huy trí tuệ. Một sự
chú tâm khéo léo hay tâm giữ chánh niệm, chuyển đổi ảo
tưởng thành trí tuệ. Có được chánh niệm giúp chúng ta
nhận thấy được vạn vật phù hợp theo bản chất thật của
chúng. Chánh niệm có nghĩa là liên kết sự cảm nhận của
chúng ta mà không phản ứng theo thói quen. Phẩm chất này
làm tan đi sự bối rối và giúp chúng ta khám phá tính trọn
vẹn của bản thân chúng ta và mối quan hệ lẫn nhau của tất
cả cuộc sống. Bất chấp điều gì sẽ xảy ra, chúng ta
có thể xử lý tình huống của mình thật rõ ràng và bình
tĩnh. Nếu như bạn tôi và
tôi có thể tìm thấy sự an lạc trong tâm, ngay cả khi ở
nghĩa trang chúng tôi chắc đã có thể an vui. Thiền sư người
Thái Lan, ngài Ajahn Chah, so sánh sự ảo tưởng là giống như
con người không có mái ấm gia đình. Ông nói "Khi chúng
ta không có một mái nhà thật sự, chúng ta giống như người
lữ hành vô định trên đường đi, lúc thì đi con đường
này, lúc thì đi con đường khác. Cho tới khi chúng ta trở về
mái ấm thật sự của mình thì mới cảm thấy thanh thản
ở bất cứ công việc gì mà mình đang thực hiện". Nhiều
người trong chúng ta tìm đến sự tu tập thiền đặc biệt
là để tìm kiếm một mái ấm thật sự. Sau khi lang thang từ nơi
này đến nơi khác, khi chúng ta tìm được mái nhà việc
này giống như thắp lên một ánh đèn trong căn phòng tối.
Sự việc không thành vấn đề là căn phòng đã bị tối tăm
trong một ngày, một tuần hoặc mười ngàn năm. Khi chúng ta
thắp lên ngọn đèn trí tuệ chánh niệm; chúng ta có thể
thấy rõ ràng. Khi đã trông thấy rõ ràng, chúng ta nhận ra
rằng con đường đi đến mái nhà thật sự không còn xa và
lạc lối nữa, nơi đó chúng ta an trú, nơi đó chúng ta có
thể thanh thản - đó đúng là mái ấm của chúng ta. ÐIỀU CƠ BẢN CỦA SỰ
TU TẬP Trong những khóa thiền
đầu tiên, chúng tôi dành cho các gia đình ở Hiệp hội Thiền
Minh Sát Tuệ đặc biệt thiết kế dành cho những bậc cha mẹ
của những thiền sinh của chúng tôi. Giới thiệu họ đến
phương pháp tu tập là một phương cách để xua tan những
lo lắng của họ về những sở thích kỳ quặc lạ lùng của
con cái họ. Một thiền sinh cảm kích về việc mẹ cô ta đến
để học hỏi cách tu tập thiền, nói rằng "Mẹ tôi
là một típ phụ nữ thường nói rằng: Những con chim khốn
kiếp kia làm tôi mất ngủ suốt đêm". Thực đúng thế,
mẹ cô ta đã nói đúng những lời như thế sau đêm đầu
tiên bà ta lưu lại ở nơi đây! Nhưng vào cuối tuần, bà
ta đã lắng nghe với một tâm trạng hoàn toàn khác hẳn.
Bà ta đã bắt đầu lắng nghe một cách dễ dàng, từ bỏ
những sự đánh giá mà họ có thể gán cho là giống như những
tiếng chim hót vào giữa khuya. Có nhiều cách để lắng
nghe một âm thanh. Chúng ta có thể nghe được một tiếng động
ồn ào nào đó và trở nên khó chịu và bực mình, rồi nhận
thấy đó là một điều phiền não. Nếu chúng ta nghĩ âm
thanh là một điều gì thú vị sung sướng, chúng ta có thể
muốn nó diễn ra mãi mãi. Tuy vậy, nếu như âm thanh không
gây cho chúng ta khó chịu hoặc không, chúng ta chỉ có thể
"nghe phân nửa" về nó. Và ta cũng có thể trực tiếp
lắng nghe một âm thanh, mà không phê phán, không thêm bớt-
nó chỉ đơn thuần là một tác động của thính giác - và
toàn bộ thế giới có thể mở rộng trước mắt chúng ta.
Ðể cảm nhận những hiện tượng của thế giới bằng
phương cách trực tiếp này làsự tinh túy của tâm chánh niệm. Tâm Chánh niệm là phẩm
chất của sự nhận biết là thấy rõ trực tiếp bất cứ
điều gì đang xảy ra bởi sự cảm nhận của chúng ta và
đối mặt với nó, không có sự xâm phạm của định kiến,
không có hỗ trợ thêm những sức mạnh như tham lam, ác cảm,
hoặc ảo tưởng đối với sự cảm nhận. Khi đã quen sống
trong một trạng thái lam lam, chúng ta tấn công vô ích để
tiếp tục giữ những cảm giác thích thú mãi mãi. Khi đã
quen sống với sự giận hờn, lo sợ, chúng ta chùn lại trước
những cảm nhận đau đớn như thể chúng ta có thể ngăn chặn
chúng xảy ra. Khi đã quen sống với ảo tưởng, chúng ta
"bị mê muội" và trở nên bối rối với khoảnh khắc
khi một cảm nhận không tạo nên thú vị hoặc khó chịu. Nếu chúng ta kết hợp
tất cả những sự kiện đó ở mọi lúc thì chúng ta không
cảm nhận được cuộc sống đầy đủ, bởi vì sự ham muốn
và chấp thủ làm chúng ta xa rời với hiện tại; và luôn
luôn tìm cách xa vời với bản chất thật do bởi giận hờn
hoặc lo sợ và chúng ta luôn luôn mê muội, và chúng ta kết
thúc với nhiều khoảnh khắc. Những gì chúng ta còn lại
là những khoảnh khắc chánh niệm nhỏ nhoi khi chúng ta sống
thật trọn vẹn, không bị cuốn hút trong sự dính mắc, chấp
thủ, phản kháng, hoặc xa cách. Ðây là một cách sống hết
sức thanh cao. Ðể có khả năng tỉnh
giác và tỏ ra quân bình, thanh thản và hiểu biết, dù cảm
nhận của chúng ta là thú vị, không thú vị hoặc khách
quan. Ðây là năng lực chánh niệm. Tâm chánh niệm là một
sự nhận biết sâu sắc và thu hút được biểu hiện bằng
sự sâu sắc bên trong nội tâm. Thông thường, phẩm chất của
chánh niệm được minh họa bằng cách so sánh sự việc xảy
ra khi bạn ném một cục bần xuống nước ngược lại với
những gì sẽ xảy ra khi bạn ném một cục đá. Sự nhận
biết bên ngoài thì giống như nút bần nổi trên mặt nước.
Ngược lại, cục đá chìm ngay xuống đáy nước. Một cách hiểu biết
khác về phẩm chất của sự nhận biết này là xem xét những
gì xảy ra giống như chúng ta để nước vào một cái tách.
Nước không ở một nơi, nó sẽ choáng bất cứ nơi nào có
khoảng trống. Tương tự, tâm chánh niệm ghi nhận tất cả
các đề mục. Khi chánh niệm, chúng ta ghi nhận tất cả những
sự vật xung quanh một cách rõ ràng. Khi chúng ta nghe một
âm thanh, sự ghi nhận của chúng ta thật là sâu sắc. Khi chúng ta có chánh niệm,
lúc ấy chúng ta có thể đối mặt trực tiếp những gì
đang xảy ra trực tiếp, rồi sẽ có một nguồn sinh khí lớn
lao trong thế giới của chúng ta. Ðúng hơn là nhìn thấy
được cái tinh túy về những niềm hy vọng và những nỗi
lo sợ quen thuộc, chúng ta có thể đối mặt với bản chất
của những sự việc. Khi chúng ta có chánh niệm, chúng ta
nhìn vạn vật với cách nhìn đầy tính cách suy niệm, hoặc
như Sufis nói với "cặp mắt sáng suốt đầy nỗi khát
khao". Cách nhìn bằng hình thức
này có thể ví như những gì xảy ra khi chúng ta đạt được
sự hiểu biết mới lạ về một người nào đó. Lần đầu
tiên khi chúng ta gặp gỡ một con người, chúng ta có thể
muốn họ theo một tính cách nào đó, và có thể lơ là
trong việc nhận xét cho nên chúng ta tạo nên một sự ngụy
tạo về những người đó dựa trên vẻ bề ngoài của họ.
Dần dần, khi sự suy diễn của chúng ta càng giảm xuống,
chúng ta càng chú ý nhiều hơn và có thể nhìn thấy rõ
ràng qua những yếu tố hào nhoáng bề ngoài. Chúng ta đi đến
gần hơn về thực tế sống động rõ ràng về con người
ấy. Giống như vậy, khi chúng ta có chánh niệm, chúng ta
càng sâu sắc hơn về sự thật rõ ràng sống động trong sự
cảm nhận của chúng ta. Tâm chánh niệm thật
bao la. Nó không bị giới hạn ở bất cứ sự cảm nhận
nào. Bạn có thể nói như bà mẹ của người thiền sinh nói,
"Chà, tôi không thể giữ được tâm chánh niệm bởi
vì quá ồn ào". Nhưng sự việc đó có thể một sự nhận
thức sai lầm tâm chánh niệm. Chúng ta có thể giữ chánh niệm
về yên lặng, chúng ta có thể chánh niệm về tiếng ồn
ào. Chúng ta có thể chánh niệm về việc hết sức bực
mình tiếng động ồn ào. Chúng ta có thể giữ chánh niệm
về mọi thứ trong sự cảm nhận của chúng ta. Chánh niệm
là một phẩm chất hết sức bao quát, độc đáo của tâm. "Người ta cho rằng
sự tỉnh giác không ghi nhận được hình dáng của đề mục
(của cảnh vật), nghĩa là chúng ta có thể giữ chánh niệm
về niềm vui trong một khoảnh khắc, về nỗi buồn trong khoảnh
khắc kế tiếp, và rồi đến sự chán nản, và bản chất
của chánh niệm không thay đổi. Bất cứ điều gì chúng ta
đang tỉnh giác; bản chất sự tỉnh giác đó thì không giới
hạn, mở rộng và không bị ràng buộc". Sự tu tập chánh niệm
thì giống như đang tham dự một chuyến đi vô cùng kỳ bí.
Có vô số lần trong mỗi ngày chúng ta mất đi sự chánh niệm
và bị cuốn hút trong phản ứng hoặc nắm giữ được việc
gì đang xảy ra. Nhưng ngay khi chúng ta nhận thức rằng
chúng ta bị mất chánh niệm, chúng ta có thể trở lại từ
đầu. Trong thực tế ngay khoảnh khắc chúng ta nhận ra mình
mất đi chánh niệm thì chúng ta đã lấy lại được nó rồi,
bởi vì bản thân sự nhận ra là một chức năng của sự tỉnh
giác. Khi chúng ta sẵn sàng
tiếp tục trở lại, sức mạnh của chánh niệm đã biểu lộ.
Sự tu tập đạt đến sự thành công ở từng khoảnh khắc
(sát na) phát sinh cũng như những khoảnh khắc trong tương
lai. Chánh niệm là không phải một điều gì quá xa vời hoặc
viễn vông; nó xuất hiện sống động ở từng mỗi khoảnh
khắc trong đời sống của chúng ta, và ngay khi chúng ta bắt
đầu trở lại. Ðây chính là điều cơ bản của sự tu tập. TỪNG BƯỚC Suốt trong một khóa tu
tập thiền, các thiền sinh thường trình pháp và cảm thấy
xấu hổ,bởi vì họ đã trải qua một thời gian căng thẳng
không giữ tâm chánh niệm. Họ nghĩ mình giống như bị trượt
xuống núi, khó bao giờ có thể leo lên lại được. Dường
như họ không cảm thấy tin tưởng ngay cả họ đang phải bỏ
công, họ đã đi lệch quá xa khỏi con đường. Nhưng rốt
cuộc không có khoảng cách nào xa xôi phải đi qua để có
chánh niệm trở lại, hoặc tình thương, hoặc lòng bi mẫn.
Chúng ta cần nhận ra rằng những phẩm chất này đã có sẵn
ngay tại chỗ, ở từng khoảnh khắc (sát na) của sự tỉnh
giác. Trong sự tu tập của
riêng mình, một trong những hình tượng giản dị nhất của
Ðức Phật mà tôi đã sử dụng thì hết sức hữu ích. Ðức
Phật dạy: "Tâm sẽ tràn đầy, nhiều phẩm chất như là
chánh niệm, từ bi ở từng khoảnh khắc (sát na) - giống như
hình thức từng giọt nước làm đầy một xô nước".
Ngay khi tôi nghe về hình tượng đó, tôi đã nhận thấy thật
rõ ràng hai khuynh hướng mạnh mẽ trong tâm tôi. Một là đứng
bên cạnh cái xô nước, bị thu hút trong sự hoang tưởng về
sức thích thú và tuyệt vời biết bao như xô nước tràn đầy.
Trong lúc đó, khi tôi bị cuốn hút về những sự huy hoàng
về sự giác ngộ của tôi vào một ngày nào đó, tôi đã
lãng quên việc cho thêm vào một giọt nước. Một khuynh hướng
khác cũng mạnh mẽ tương tự là đứng bên cạnh chiếc xô
đựng nước trong nỗi thất vọng dường nào, về cái xô cạn
nước và càng thêm nhiều nỗi thất vọng biết bao khi sự
việc xảy ra tiếp tục - một lần nữa khi đã không có sự
kiên nhẫn, nhún nhường thì ý tưởng tốt đẹp để thêm
một giọt nước ngay vào khoảnh khắc bằng tâm chánh niệm. Chúng ta không chỉ có
thể bị cuốn hút theo sự phán đoán về những cái xô nước,
mà còn có khuynh hướng phí nhiều thời giờ cho việc theo
dõi những cái xô của người khác để xem xét sự việc của
chúng tiến triển tốt đẹp ra sao. Cái của họ có đầy
hơn của chúng ta không? Nó có cạn hơn không? Việc gì đang
xảy ra đàng kia? Thực sự, tiến trình rõ ràng này đang đi
sai hướng và lạc đề. Trước hết, những gì chúng ta nhận
thấy từ bên ngoài là hình ảnh của chúng ta về cảm nhận
vẻ của bên ngoài một ai đó. Thực tế, "cái xô"
không tràn đầy bằng bất cứ sự tích lũy về những cảm
nhận đặc biệt; nó tràn đầy do bởi những khoảnh khắc
(sát na) tâm chánh niệm hoặc những thời điểm của lòng từ
bi. Ðiều cơ bản là không phải những gì xảy đến cho một
ai đó, nhưng họ có liên quan như thế nào về những gì xảy
ra đối với họ. So sánh những cảm nhận không có liên hệ
với việc cảm nhận với bất cứ sự sâu sắc về sự hiểu
biết thuộc tâm linh hoặc lòng bi mãn hay sự tỉnh giác của
họ. So sánh bản thân chúng
ta với người khác, hoặc ngay cả với những ý tưởng của
chúng ta về tiến trình, dẫn dắt chúng ta để thể hiện
khách quan những phẩm chất, chẳng hạn như sự chánh niệm
và lòng từ bi, tạo cho chúng trở thành một điều gì để
chúng ta đạt được và bám chặt vào để chúng ta trở
thành những người tốt. Khi chúng ta thể hiện khách quan với
mọi người hoặc những trạng thái tâm, chúng ta liên kết
chúng trong những thời hạn hoặc chúng ta có chúng hoặc
không. Hiển nhiên, khoảng cách hoặc sự cách biệt được
tạo nên giữa bản ngã và "một điều" nào đó hoặc
giữa bản thân và người khác. Một khi có sự cách biệt
thì có sự lo sợ mất mát rồi một lần nữa chúng lại
đi vào cái vòng dính mắc và lo âu. Chánh niệm và tâm từ
không phải là những đề mục mà chúng ta có thể có hoặc
không. Chúng ta có thể không bao giờ đánh mất nó. Chúng ta
có thể xa rời những đặc tính cơ bản này, nhưng ngay bây
giờ chúng ta có thể phục hồi chúng. Không cần đến một
phương pháp điều trị hoặc bất cứ sự phấn đấu cần
thiết để tìm cách đạt được chúng trở lại. Ở ngay
chính khoảnh khắc này, bất chấp những gì đang xảy ra; chúng
ta có thể giữ tâm được chánh niệm và lòng bi mẫn. Ngay
vào lúc đó làm cơ thể và liên hệ trở lại với những
phẩm chất này và biết được chúng trở lại. Tiến trình
là một sự nhận thức được rằng một sự tỉnh giác
hoàn toàn có thể nhận ra ở bất cứ khoảnh khắc nào. Ở
sự hiểu biết này cái xô hoàn toàn tràn đầy với từng
giọt. ÐỐI TƯỢNG LÒNG HAM
MUỐN Một người bạn của
tôi trải qua nhiều năm trong một tu viện ở Hàn Quốc, tu tập
với một trong những vị thiền sư (phái Zen) nổi tiếng nhất
của thời đại chúng ta. Vào một khoảng thời gian nọ bà
ta đưa vị thiền sư đến Hoa Kỳ: một nơi mà ta muốn đến
nhiều hơn những nơi khác đó là Las Vegas. Khi bà ta kể cho
tôi câu chuyện, tôi hết sức sửng sốt. Tôi hỏi "Ông
ấy không chơi cờ bạc, có phải không?" Ô! Không".
Bạn tôi nói. "Nhiều người Hàn Quốc đến thăm viếng
Hoa Kỳ khi trở về đã kể lại cho ông ta về những ngọn
đèn rực sáng ở Las Vegas. Ông ta muốn đi xem tất cả những
ngọn đèn sáng". Vị thiền sư ở Las Vegas chắc chắn có
một cảm nhận hoàn toàn khác biệt hơn tất cả những khách
du lịch ở đó. Phần đông, những ngọn đèn đang lôi cuốn
về những gì chúng ta vừa hẹn. Tôi có thể tưởng tượng
vị thiền sư đang đi cùng với đám đông, không bị thu
hút bởi những lời hứa hẹn, nhưng lại hết sức thích
thú với những ánh đèn rực rỡ. Thế giới của chúng
ta thì hơi giống như con đường phố chính ở Las Vegas: tỏa
sáng lấp lánh với những lạc thú cám dỗ mà chúng ta vươn
tay lấy bởi vì hạnh phúc của mỗi lời hứa. Nhưng để
phát huy mối quan hệ đối với "những ánh đèn rực rỡ"
sẽ mang lại cho chúng ta hạnh phúc thật sự, chúng ta cần
học hỏi làm cách nào để thưởng thức sự trình diễn
mà không bị bám víu vào nó. Cuối cùng, con đường tâm
linh sẽ là niềm hạnh phúc - một thứ hạnh phúc lớn lao -
nhưng hạnh phúc đó không bị trói buộc với sự mê muội
hoặc ảo tưởng, và hạnh phúc đó không phải là một đối
tượng đối với một sự thay đổi liên tục. Tất cả mọi người
chúng ta đều thích những cảm nhận thú vị và may mắn thụ
hưởng được chúng, nhưng nếu chúng ta bị cuốn hút trong
sự chấp thủ, niềm vui thích đó tất nhiên sẽ trở thành
điều bám víu rồi chúng ta sẽ đau khổ. Tôi đã tham dự hội
nghị Phật giáo -Thiên Chúa giáo ở Tu viện Gethsemani ở
Kentucky, Hoa Kỳ. Ðức Ðạt Lai Lat Ma đang nói về chuyến thăm
viếng tu viện mà Ngài đã thực hiện vài ngày trước đó.
Ngài nói rằng Ngài hết sức có ấn tượng là tu viện có
thể tự nuôi ăn qua việc sản xuất phó mát, bánh, trái
cây. Và sau đó, giữa buổi trình diễn trang trọng có quay
truyền hình, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma nói rằng,"Tôi đã
được giới thiệu về một miếng phó mát của quê nhà,
nó thật là ngon, nhưng tôi thật sự thích một ít bánh ngọt".
Ngài cười lớn tiếng và lặp lại "Ðiều này thật
là kém may mắn. Tôi thật sự mong ước một ai đó sẽ cho
tôi một ít bánh ngọt, nhưng chẳng có ai làm điều này!
Thái độ ngay thẳng như trẻ thơ của Ngài thật tuyệt vời,
không có một điều nào chi phối về sự việc. Rõ ràng là
Ngài có thể hết sức hạnh phúc mà không cần đến một
miếng bánh, trái cây, và một phần nào trạng thái hạnh
phúc của Ngài chính là năng lực để vui cười. Sự ước
ao của Ngài về miếng bánh ngọt cũng như có thể nói về
nó mà không chút xấu hổ trước chức sắc của hai tôn
giáo và khán thính giả truyền hình! Thật tuyệt vời khi đạt
được những gì chúng ta mong ước, chúng ta thật may mắn
khi được người ta dâng tặng trái cây và chúng ta có thể
thưởng thức nó. Nhưng khi chúng ta ước ao một điều gì
ngoài khả năng để bù đấp một ham muốn nhức nhối bên
trong tâm hồn, tìm kiếm một cảm giác trọn vẹn nào đó,
rồi chúng ta bị cuốn hút vì sự dính mắc (chấp thủ).
Chúng ta đang tìm cách khỏa lấp sự trống vắng mà không
đối tượng nào có thể thực hiện được. Một điều gì
đó chẳng hạn như một sự tỉnh giác hoàn toàn hoặc lòng
bi mẫn sâu sắc có thể khỏa lấp được sự trống vắng,
nhưng tuy thế không phải bất cứ đối tượng nhất thời
nào cũng được. Thông điệp mà chúng
ta thường nhận được từ xã hội là cuộc sống của
chúng ta thiếu thốn. Chúng ta không có đủ, bản thân chúng
ta thiếu thốn ở một hình thức nào đó, và nếu như chúng
ta phải đánh đổi sự kiện này bằng một, rồi cuối
cùng chúng ta có thể được hạnh phúc. Chúng ta hết sức
ham muốn tìm được một thứ hạnh phúc vững chắc, an
toàn và không trệch hướng đơn thuần bằng cách đạt được
một điều gì đó (để đạt được một sự việc là một
điều nào đó đôi khi chúng ta có thể thực hiện được).
Tương tự như vậy, chúng ta hy vọng rằng chúng ta có thể
giữ gìn được những gì chúng ta đã đạt được từ những
điều chưa hề thay đổi (là một điều nào đó mà chúng
ta có thể chưa bao giờ thực hiện). Mãi mãi vươn tay ra chộp
lấy, chúng ta quyến luyến về một người, một vật hoặc
cảm nhận mà chúng ta khát khao, và nỗ lực đòi hỏi nó như
là "của chúng ta" cố gắng khống chế nó và giữ
cho nó khỏi biến mất. Một trong những điều
ngạc nhiên nhất về tâm đó là nó có thể bám víu bất cứ
điều gì. Chúng ta có thể bị bám víu vào một cảm giác vắng
lặng, hoặc chúng ta có thể bám víu vào một cảm xúc mãnh
liệt. Chúng ta có thể bị bám víu vào một cơn khủng hoảng
một sự giải tỏa cơn cảm xúc mạnh mẽ, một trạng thái
mụ mẫm - bất cứ điều gì. Chúng ta nghĩ rằng mình rất
cần bất cứ điều gì là đối tượng nơi sự bám víu của
chúng ta để cảm thấy mình đang sống, để cảm thấy đầy
đủ. Một điều cực kỳ mỉa
mai về sự chấp thủ (quyến luyến) đó là chúng ta hoàn
toàn bị cuốn hút ở trạng thái tâm này bởi vì chúng ta
muốn cảm thấy được quan hệ hơn là xa cách và bị cô lập.
Chúng ta tin tưởng một cách sai lầm rằng sự bám víu đó
sẽ trợ lực mối quan hệ, phục hồi sinh lực và làm sâu
sắc thêm cho nó. Tuy vậy chính cuộc sống là sự đổi
thay. Chúng ta có thể phấn đấu bằng sự thách thức để
chống lại sự thật cơ bản về sự vô thường này. Chúng
ta có sửa chữa, bỏ đi hoặc thay thế". Những đối
tượng "khi chúng ta cố gắng duy trì hạnh phúc, hoặc cố
gắng thuyết phục bản thân rằng chúng ta có mối quan hệ
khi chúng ta vươn tay nắm lấy sự việc kế tiếp diễn ra,
nhưng hạnh phúc của mối quan hệ thật sự vẫn nằm ở
ngoài vòng tay. Theo lời dạy của đức
Phật, chấp thủ (quyến luyến) là điều đầu tiên trong năm
điều chướng ngại (triền cái) thường phát sinh trong tâm,
làm cho sự tập trung khó khăn và cám dỗ chúng ta xa rời
tâm chánh niệm và dẫn đến những hành động vô ý thức,
cuối cùng tạo cho chúng ta đau khổ. Bốn chướng ngại khác
thường được người ta biết là sân, hôn trầm, trạo cử,
hoài nghi. Những chướng ngại là sự thể hiện cách biệt
của chúng ta. Khi chúng ta hiểu lầm những trạng thái tâm
này và đam mê theo đuổi chúng, chúng mang lại cho chúng ta sự
đau khổ, phiền não. Tuy nhiên, khi chúng ta hành động với
chúng một cách khéo léo, bao gồm chúng trong khía cạnh tỉnh
giác của chúng ta cùng với lòng bi mẫn, thực sự có thể
mang lại một cơ sở phong phú cho sự khám phá mối quan hệ
cố hữu của chúng ta cho tất cả cuộc đời. Làm cách nào để chúng
ta hành động khôn khéo với sự chấp thủ? Khuynh hướng của
chúng ta tập trung thật mạnh mẽ đến đối tượng chúng
ta bám víu đến độ chúng ta không quan tâm đến cảm giác
bám víu (quyến luyến). "Những ánh đèn rực rỡ" hết
sức gây xao lãng, thật mê hoặc, làm cho chúng ta bị lôi
kéo mà không chú ý đến đặc tính của sự bám víu (quyến
luyến) mà chúng ta đang cảm nhận. Khi chúng ta cảm nhận trực
tiếp cái cảm giác chấp thủ, chúng ta không còn bị mê muội
với nó, và chúng ta phá vỡ sự mê hoặc. Khi chúng ta có thể
cảm thấy sự đau đớn của chấp thủ bằng hình thức thật
sự không che giấu của nó, chúng ta không còn để nó khống
chế cuộc sống của chúng ta và làm giảm bớt khả năng của
chúng ta đối với sự thỏa thích hưởng thụ và mối quan
hệ. Chú ý đến sự chấp
thủ với tâm chánh niệm tạo cho chúng ta một sự can đảm
mạnh mẽ. Chúng ta không chỉ thưởng thức những thời điểm
chúng ta đạt được, những gì chúng ta ao ước đạt được
đừng để sự thất vọng cuốn theo khi chúng ta không thể
đạt được. Chánh niệm tạo cho chúng ta một sự bao dung của
tâm. Chúng ta có thể làm giảm bớt thói quen dính mắc, về
cụ thể hóa cảm nhận làm cho tâm của chúng ta bớt chấp
thủ về những gì chúng ta ham muốn. Nó cũng tạo cho chúng
ta khả năng cảm thấy lòng bi mẫn (tâm từ), khi chúng ta thấy
sự đau đớn. Chúng ta và những người khác mãi mãi bị trở
ngại của chấp thủ khống chế. Cuối cùng, khi chúng ta nhận
thức rằng chúng ta đừng nên bám víu bất cứ điều gì,
hoặc luôn luôn tìm cách đạt cho được những gì chúng ta
muốn để có hạnh phúc. Chúng ta nhận ra rằng lòng can đảm,
sự rộng mở của tâm, và lòng bi mẫn chính là những
thành phần của niềm hạnh phúc bất diệt. GIẬN DỮ Một ngày nọ, một ai
đó đã gởi E-mail cho tôi để hỏi về bản chất của sự
giận dữ. Tôi hồi âm như vầy: - À, một trong những điều
đau khổ về cơn giận là cái khuynh hướng chúng ta gặp phải
khi giận dữ là bỏ người ta vào trong một cái hộp. Chúng
ta trói buộc đối tượng cơn giận của chúng ta, dù bản
thân chúng ta hoặc của người khác cho đến một sự xác
định nào đó và không thể nhìn xa hơn sự việc. Ngay sau
khi hồi âm,có một điều gì đó sai lệch trong mối quan hệ
của tôi giữa máy tính và máy in của tôi. Hết sức thất
vọng, tôi rụng rời tay chân và bắt đầu rút các dây cắm
điện từ chỗ này cắm sang chỗ khác, cố gắng điều chỉnh
vấn đề. Người phụ trách máy tính cho văn phòng chúng
tôi ở Hiệp hội Thiền Minh sát tuệ đã đi nghỉ hè, và
tôi cảm thấy hết sức giận anh ta. Tâm của tôi tràn ngập
những ý tưởng "Tại sao anh ta không có mặt ở đây
khi tôi có việc cần đến anh ta?" Nhưng tôi hoàn toàn bỏ
qua sự kiện là tôi đã mạnh dạn khuyên anh ta đi xa, nghỉ
ngơi tạm rời khỏi Hiệp hội, và đã tận tâm giúp đỡ
anh ta sắp xếp chuyến đi. Tôi cũng tự oán giận mình đã
không hiểu biết nhiều hơn về máy tính, và tự trách
mình" Tại sao mày không phải là người có thể sửa chữa
những điều này?" Trong khi đó tự tôi đã tìm cách giải
quyết vấn đề. Ngay sau đó, tôi đã
liên lạc được trở lại với người trao đổi thư tín với
tôi, lần này tôi nói rằng: "Tôi không biết chính xác
điều anh ngụ ý gì bằng cách nói là cơn giận đặt mọi
người vào những hoàn cảnh khó khăn bó buộc". Tôi lập
tức viết thư trả lời cho anh ta mô tả sự việc tôi vừa
mới hành động đúng như lời nói biết bao với người bạn
phụ trách máy tính của tôi và cũng như với bản thân
tôi. Cơn giận là một trạng
thái tâm không thích những gì đang xảy ra và chống lại
nó kịch liệt. Cơn giận muốn tạo nên khoảng cách và sự
cách biệt. Nó là một trạng thái tâm không bám víu vào những
sự việc nhưng chính xác hơn là tìm kiếm những lỗi lầm,
và xua chúng ra. Hãy nghĩ về những gì xảy ra khi bạn lên cơn
giận: Tâm trở nên hết sức hẹp hòi và khó lay chuyển.
Nó tách biệt "vấn đề" và chỉ nhằm vào một người
hoặc điều nào đó. Bị cuốn hút trong tình trạng này,
chúng ta mắc phải một sự thiển cận và không thấy đường
thoát ra. Chúng ta quên đi định luật của sự biến đổi.
Và như vậy chúng ta đặt mọi người, bản thân, và những
tình huống vào trong những cái hộp: "Ðây là bản chất
của nó như thế, và đây là sự việc mà nó sẽ phải là
như vậy?". Bởi vì chúng ta không nhận ra nhiều sự
thay đổi và không thể tưởng tượng ra bất cứ điều gì
vượt xa sự đau đớn và những thiếu thốn của chúng ta,
chúng ta cảm thấy bị áp đảo và khủng hoảng. Chúng ta mất
đi khả năng nhìn thấy được mối quan hệ thật sự của
sự việc và quên đi rằng vạn vật đều phải đổi thay. Bị lôi cuốn theo cơn
giận, chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta sẽ có thể kiểm
soát những sự kiện trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta
đổ lỗi cho bản thân khi chúng ta bất lực, thậm chí những
sự kiện này hoàn toàn vượt quá sự kiểm soát của một
người. Tôi đã không làm gì cho máy tính và máy in của
tôi không chạy nữa, nhưng tôi cũng thật buồn giận với bản
thân vì tưởng tượng mình không có khả năng để sửa chữa
nó, mà thực tế là tôi tuyệt nhiên không nhận ra mình
đang sửa chữa nó. Khi cơn giận là một yếu
tố mạnh mẽ của tâm, nó thường là một hậu quả của
việc tạo ra sự khó chịu trong nội tâm của chúng ta. Ở mọi
nơi chúng ta nhìn, chúng ta nhìn thấy điều sai trái. Khi
chúng ta bước vào một căn phòng, chúng ta trông thấy những
gì chúng ta không thích. Chúng ta không thích những gì mà người
ấy đang mặc, người ở cùng với người ấy, giấy dán tường
v.v... Tất cả chúng ta có thể biết đến một người nào
đó mà dường như anh ta, cô ta chẳng bao giờ bằng lòng với
bất cứ hoàn cảnh nào; người ấy có một sự biểu hiện
chua chát liên tục trên khuôn mặt của họ, người này thường
chống đối . Tất cả sự việc này đều do sức mạnh quen
thuộc của sự giận hờn. Ngay ở chính cơn giận,
đã không được người ta nhìn với quan điểm tốt nhất là
xấu hoặc sai trái. Nó là một trạng thái tâm hoàn toàn
khác phát sinh theo phản ứng với những hoàn cảnh. Ðó là
điều tự nhiên đôi lúc mình cảm thấy giận dữ, đặc biệt
khi phải đương đầu với sự tàn ác hoặc bất công, và cơn
giận này có thể bùng lên qua sự lãnh đạm quanh những vấn
đề như thế. Khi chúng ta nhận thấy bản thân ở trong một
tình huống mà ở đó chúng ta cảm thấy thờ ơ không nhận
ra, nơi những người khác đã đặt chúng ta vào một
"cái hộp", một lần nữa chúng ta cũng có thể phản
ứng giống như vậy với cơn giận. Mặc dù điều này có
thể hiểu được, nó vẫn còn giới hạn một cách nhức nhối
và bối rối. Tâm của chúng ta trở nên hẹp hòi và tấm
lòng của chúng ta khép lại. Chúng ta cảm thấy rất cô
đơn, và chúng ta có thể tìm được sự kiểm soát trở lại
có lẽ trừ phi hiểu biết đầy đủ tình huống. Chúng ta cần phải hiểu
cơn giận tiến triển ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào,
đừng kết án bản thân vì cảm thấy điều đó. Có phải
cơn giận giúp chúng ta có năng lực để tạo nên sự thay
đổi bằng một hình thức chịu đựng? Có phải nó giúp
chúng ta nhận thức được rõ ràng? Có phải nó thật sự
có thể giúp chúng ta nắm được tình huống, một con người,
thân hoặc tâm của chúng ta? Có phải nó giúp cho chúng ta
có bản năng tạo một sự thay đổi? Hoặc, khi chúng ta nổi
giận, có phải chúng ta kích động bằng những hình thức
ngăn ngừa sự thay đổi có tác động? Thật là quan trọng để
tìm hiểu bản chất của cơn giận bởi vì nó thật sự là
một năng lực mạnh mẽ và có thể tàn phá ghê gớm. Khi
chúng ta có thể đối mặt với cơn giận không một chút sợ
hãi nó, hoặc bực bội với nó; hoặc không phòng thủ khi
đối mặt với nó, như vậy chúng ta có thể tiếp cận với
nó. Khi chúng ta có thể quan sát cơn giận thật kỹ càng,
chúng ta thấy được những đe dọa của những cảm giác
khác nhau. Nỗi buồn và nỗi lo sợ đan nhau - và chúng ta có
thể thấy bản chất thật của nó. Khi chúng ta có thể
khám phá sự vô dụng và sự mất năng lực mà thường nuôi
sống cơn giận, chúng ta biến đổi chúng. Bằng sự chánh
niệm của những cảm giác này, chúng ta thực sự sử dụng
toàn bộ năng lượng của cơn giận - mà không bị cuốn
hút bởi chúng hoặc bị chế ngự bởi sự đánh lừa ghê gớm
của nó và đặc tính lưu luyến - thay vào đó hãy biểu lộ
sự can đảm và bi mẫn đã được che dấu. CHỜ ÐỢI ÐỂ SỐNG Khi tôi tu tập thiền
ở Miến Ðiện , chúng tôi đã giữ bát quan trai giới, trong
đó có giới không được ăn sau giờ ngọ, tức sau mười
hai giờ trưa. Thực tế, bữa ngọ được dùng vào lúc mười
giờ sáng, và việc ăn uống chấm dứt vào lúc mười giờ
ba mươi. Sau đó không dùng trà, không được ăn bất cứ thức
ăn và thức uống gì có thể ăn được. Tôi nhớ lại một
khoảng đường đi bộ dài từ phòng ăn trở lại phòng
riêng của tôi, biết rằng sẽ không còn gì để ăn nữa
cho toàn bộ trong ngày. Ðiều gì đã chờ đợi tôi, vào tất
cả những giờ còn lại đó là từ mười giờ ba mươi sáng
cho đến mười một giờ đêm, là thời gian tu tập thiền
tích cực: chỉ ngồi rồi đi kinh hành, ngồi rồi đi kinh hành,
ngồi rồi đi kinh hành. Với từng bước đi, trở lại từ
phòng ăn trong ánh đèn, chẳng hiểu sao tôi luôn cảm thấy
mệt mỏi hơn. Vào lúc ấy tôi thường trở lại phòng
riêng của mình, tôi ngủ một cách say sưa. Thực tế, điều
đó tôi chẳng phải thèm ngủ, nhưng chính xác hơn là niềm
kỳ vọng thiếu đi sự tiên liệu về sự hứng thú thì thật
là ghê sợ đến nỗi tôi chỉ muốn không làm gì cả và
quên đi mọi thứ. Trong cuộc sống, chúng
ta thường quen thuộc với một mức độ thích thú nào đó.
Theo thực tế, chúng ta dựa vào nó để giúp chúng ta tỉnh
giác, để giúp chúng ta cảm thấy mình đang sống. Trong lúc
tu tập thiền, khi chúng ta gia tăng sự tỉnh táo, đến một
mức độ vi tế, chúng ta khám phá rằng mình là những người
nghiện những cảm nhận xiết bao, những mức độ khác khao
của sự thú vị gia tăng mãi mãi. Khi chúng ta hành thiền,
chúng ta tu tập làm quen với sự vắng lặng và cuối cùng
có thể quen thuộc với sự vắng lặng của những cảm
giác của chúng ta. Tuy thế nó vẫn đòi hỏi một sự điều
chỉnh, và trong tiến trình chúng ta thường phải đối mặt
với những cơn buồn ngủ ghê gớm. Ở trạng thái này,
theo như người ta được biết trong Giáo Pháp của Ðức Phật
là "hôn trầm, thụy miên", tâm trở nên nặng nề,
chán nản và hẹp hòi. Thường có một cảm giác chán nản,
xa cách bất cứ diễn tiến bên trong bên ngoài chúng ta. Cảm
giác ru ngủ trong lúc hành thiền, chúng ta cảm thấy chập
chờn và uể oải. Ðôi khi có trạng thái tâm mơ màng và bồng
bềnh, nhưng khi ở trong trạng thái này thì không có nhiều
tỉnh giác hoặc năng lực. Tuy thế, ngay khi có một điều gì
hứa hẹn đầy thú vị xảy ra, chẳng hạn như chuông báo
giờ, cơm ngọ, tất cả cảm giác buồn ngủ của chúng ta
biến mất ngay lập tức. Ở vào giai đoạn đầu
tu tập, khi ấy tôi đang ở trong một tu viện ở Ấn Ðộ,
người ta đã đưa ra một sự hướng dẫn được xem là một
phần về phương pháp tu tập thiền của tôi để tạo nên
một sự ghi nhận tinh thần với cảm nhận nổi bật của
tôi. Suốt cả ngày, tôi đã ghi nhận dù khi mình đang đi,
đứng, ngồi, nằm, hoặc bất cứ điều gì đang xảy ra mạnh
mẽ nhất. Tôi bắt đầu chú ý thấy rằng một điều ghi
nhận độc nhất trong tâm là tôi đang thực hiện là một
"sự chờ đợi". Khi tôi đi vòng quanh tu viện tôi
nghe văng vẳng trong tâm nói rằng, "chờ đợi... chờ đợi...chờ
đợi...chờ đợi...". Cuối cùng tôi nhủ thầm,
"Mình đang chờ đợi điều gì...". Trong khoảnh khắc
ấy tôi nhận thức ra rằng mình đang chờ đợi một điều
thú vị quan trọng hoặc tâm linh đủ xảy ra để tôi có thể
tạo một sự ghi nhận thuộc tinh thần về nó! Tôi đang sống
như thể mình là một chiếc máy thu băng với nút đang tạm
dừng. Tôi đang chờ đợi cuộc sống xảy ra - sau đó. Không sống trọn vẹn
với những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại chính
là nền tảng của hồn trầm thụy miên. Trong thiền định,
nó biểu lộ sự buồn ngủ.Trong cuộc sống hằng ngày thì
nó có nghĩa là chúng ta chờ đợi cuộc sống bắt đầu. Chúng
ta có khả năng sống một cách thật trọn vẹn hơn là chỉ
chờ đợi một điều nào khác xảy đến cho cuộc sống. Cuộc
sống đâu phải là ta ngủ vùi cho đến khi nào có một biến
cố gì tốt đẹp xảy đến. Ở Miến Ðiện, cuối cùng
tôi đã khám phá ra rằng việc đi, đứng, ngồi chứa đựng
cái cảm nhận trọn vẹn đích thật của tôi. Chẳng có một
điều gì hơn nữa để chờ đợi. Ở những khoảnh khắc
"chờ đợi" đó, cuộc sống của tôi thật sự nở
hoa ngay trước mắt tôi. Tôi đã không có thể nhận được
điều này, trừ phi tôi ngưng lại việc chờ đợi một điều
nào khác xảy ra. Hãy học hỏi để sống một cuộc sống của
chúng ta thật trọn vẹn, tỉnh giác ở từng khoảnh khắc
(sát na), đólà món quà mà việc tu tập thiền có thể mang
lại cho chúng ta. BẤT AN (Trạo cử) Vẻ bên ngoài, thiền
đường trong thời gian tu tập có vẻ giống như một nơi
nghỉ ngơi yên lành. Nhưng dưới bề mặt yên tĩnh êm đềm
đó, nhiều cơn bão và những trận chiến đang diễn ra khi
những hành giả đang theo dõi tiếng trình hoạt động của
tâm thức. Một trong những trở ngại chính là sự bất an,
một hình thức mạnh mẽ của sự dao động trong tâm. Trong
khi từng hành giả ngồi thiền ở trong khoảnh khắc hiện tại,
thì tâm của họ có thể bị chìm đắm trong nỗi khắc khoải
về tương lai hoặc quá khứ. Tôi nhớ lại khóa thiền
đầu tiên
trong sự nghiệp tu tập, khi tôi đang ở Ấn Ðộ và đã đi
đến một quyết định lớn lao là tôi sẽ sống ở đây
cho toàn bộ phần cuộc đời còn lại. Tôi hết sức mong muốn
điều này, nhưng tôi lo lắng là chánh quyền có khả năng
không cho phép. Và như vậy tôi đã ngồi thiền và mong cầu
làm thế nào để sống ở Ấn Ðộ mãi mãi. Tôi nghĩ,
"Năm tới khi tôi gia hạn được giấy nhập cảnh, tôi
sẽ đi đến văn phòng đó, bởi vì tôi nghe nói rằng viên
chức phụ trách ở đó rất có cảm tình với những hành
giả tu thiền , và chắc chắn họ sẽ gia hạn cho tôi. Và
đến năm sau , tôi sẽ lo việc này ở một nơi khác, vì
tôi nghe rằng viên chức lo Visa ở đó tham nhũng và sẽ chấp
nhận của đút lót, cho chút quà chắc chắn sẽ xong ngay. Rồi
tiếp đến năm kế, tôi sẽ đi xin ở một nơi khác, bởi
vì tôi biết chắc rằng vào thời điểm ấy tôi sống ở
đây được hai năm, người ta sẽ thông cảm với sự mong mỏi
được ở lại của tôi. Và rồi tiếp đến năm sau nữa tôi
sẽ quay trở lại nơi đầu tiên..."Và sự việc cứ tiếp
diễn như vậy. Tâm của tôi luôn luôn đầy ắp nỗi băn
khoăn lo lắng. Tôi thường đứng dậy và đi kinh hành rồi
lại ngồi xuống, và rồi ôn lại toàn bộ tiến trình của
tôi, tin chắc rằng điều đó sẽ không thành công ,trừ phi
tôi thực hiện dự tính đó không hoàn hảo. Ðây là một sự
bất an. Một trong năm chướng ngại của thiền giả.
Sự bất an thường đến
từ một nỗi khát khao để kiềm chế một điều nào đó
mà thường thì không thể kiểm soát được. Một sự lo lắng
bồn chồn không thể cưỡng lại được, phát sinh khi chúng
ta thực hiện điều này, tạo cho chúng ta nhiều sự khổ
đau phiền não. Theo quan điểm Phật giáo, bất an
(phóng dật) là một trở ngại chính, bởi vì khi tâm của
chúng ta đầy nỗi băn khoăn khắc khoải và ý tưởng ám
ảnh, chúng ta không thể nhận thức được nó rõ ràng. Ðôi khi tâm có thể bị
khống chế bởi nỗi khắc khoải về quá khứ, hơn là bị
chìm đắm trong nỗi lo âu về tương lai. Thông thường trong
lúc tu tập thiền, khi ấy chúng ta nhận thức sâu sắc hơn
về tinh thần của chúng ta, những hồi ức bắt đầu phát
sinh; những sự việc mà chúng ta đã làm hoặc đã không
làm đểõ tạo nên nỗi đớn đau cho bản thân hoặc cho người
khác. Có một lần khi tôi đang hành thiền ở Miến Ðiện với
Ngài U Pandita, trong buổi trình pháp của tôi đã được sắp
xếp ngay sau chương trình của Joseph Goldstein. Ðiều này có
nghĩa là, khi tôi đã chờ đợi ở hậu phòng, tôi đã tình
cờ nghe được những cuộc vấn đáp của Joseph. Một hôm nọ,
trong lúc anh ta đang trình pháp với U Pandita, anh ta có vẻ thất
vọng, anh ta nói với U Pandita rằng: "Tôi đang hồi tưởng
một vài điều vụng về mà tôi đã thực hiện cách đây
nhiều năm. Ðiều này làm cho tôi hết sức đau khổ khi nhớ
đến". Vào thời điểm đó
Joseph và tôi đã là những người bạn thân thiết gần 16 năm
trời, và vì vậy sự quan tâm của tôi đến anh ta không nhỏ.
Bởi vì chúng tôi đang tôn trọng sự im lặng trong việc
hành thiền nên không đề cập đến việc ấy . Tuy nhiên,
sau vài tháng tôi mới có cơ hội để hỏi anh ta về điều
đó. Không bao lâu khi rời Miến Ðiện, vào một ngày nọ
tôi bất ngờ hỏi anh ta, "anh có nhớ ngày ở Miến điện
không? Anh chẳng vui chút nào, anh nhớ việc làm ngày xưa nào
mà quan trọng quá vậy?" Joseph đã kể lại câu chuyện
đã xảy ra cách đây 26 năm. Một cô gái đã mời
Joseph đến buổi tiệc sinh nhật lần thứ 16 của cô ta, nhưng
anh ta cảm thấy không thích đi; vì vậy anh ta đã không đến.
Khi sự việc diễn ra như thế, có rất ít người đến dự,
và cô gái bị tổn thương về tâm lý nặng nề. Rồi tất
cả những năm sau đó những cảm giác về việc từ chối
buổi tiệc của cô ta đã bắt đầu ảnh hưởng đến
Joseph khi anh ta đang hành thiền. Mặc dù sự việc có thể
giống như một vấn đề nhỏ nhoi, đôi khi chính cái nhỏ
nhoi đó tạo nên nỗi đau đớn cho một người khác, khi nó
phát sinh trong tâm, có thể gây nên sự khắc khoải và bất
an. Nhưng chúng ta có thể
không kiểm soát những sự kiện ở quá khứ nhiều hơn những
sự kiện thuộc tương lai. Cũng như chúng ta không thể kiểm
soát những kỷ niệm phát sinh lại trong tâm. Nhưng chúng ta
có thể quyết định bằng cách nào để đáp ứng sự đau
đớn mà chúng ta cảm thấy qua những hành động xấu xa mà
chúng ta có thể đã phạm phải. Chúng ta có thể dính mắc
vào những điều đó, bị day dứt bởi tội lỗi và tự
phán xét, hoặc chúng ta tha thứ cho bạn rồi lại tiếp tục. Một sự phân biệt hết
sức thú vị được trình bày trong tâm lý học Phật giáo
giữa trạng thái ăn năn và trạng thái mặc cảm tội lỗi.
Ăn năn được xem là một trạng thái tâm tốt. Chúng ta nhận
ra rằng mình đã nói hoặc làm một việc gì đã tạo nên một
sự tổn thương ở một tính cách nào đó, và chúng ta cảm
nhận sự đau đớn đó. Nhưng vì chúng ta thực chất đã
tha thứ cho bản thân, chúng ta có thể từ bỏ, và như vậy
chúng ta có năng lực, nguồn cảm hứng, không tiếp tục đi
theo lỗi lầm cũ. Nói một cách khác, Mặc cảm tội lỗi,
được xem là tâm hành bất thiện, bởi vì yếu tố phẩn hận
trong đó. Chúng ta liên tục nhớ lại những hành động đã
làm, không ngừng đổ lỗi cho bản thân cho tới khi chúng ta
kiệt sức. Kết quả là chúng ta không còn năng lực để
chuyển đổi những hành động của chúng ta. Do đó tâm của
chúng ta vẫn còn bất an. Dù cho sự bất an được
tạo nên bởi nỗi lo âu khắc khoải về quá khứ hoặc tương
lai, điểm mấu chốt vẫn là sự giải thoát. Ðể kết
thúc vòng đau khổ, chúng ta có thể bắt tay vào hành động
khôn khéo. Lời dạy củaU Pandita cho Joseph vào ngày đó là:
"Sự hiểu biết trung thực về điều bạn đã làm sai
trái là đau khổ, bạn là nhân chứng tốt nhất cho bản
thân mình, bạn không thể trốn tránh được bản thân. Bây
giờ là thời điểm để bạn tiến bước; Hãy theo dõi cảm
giác đau đớn một cách thanh thản; không có sự khó chịu,
chán ghét, rồi tâm của bạn sẽ tìm được sự an lạc". Khi tôi xin phép Joseph
để thuật lại câu chuyện này, anh ta hỏi mục đích tôi
muốn trình bày câu chuyện là gì. Tôi trả lời "Làm thế
nào, mà chúng ta có thể có một sự ăn năn hối lỗi về một
điều nhỏ nhặt như thế". Anh ta trả lời: "Nó chẳng
phải là một điều nhỏ nhặt. Cô ta thật sự đau đớn xiết
bao". Bất kể sự kiện nào mà người khác tạo nên sự
đau đớn làm tổn thương chúng ta, thì điều đó có thể tạo
nên sự bất an trong tâm. Khi tâm ghi nhận đúng
đắng giúp ta tiếp xúc được những cảm xúc và tình cảm
nằm sâu kính trong tâm, dước những ý nghĩ, nó cũng tạo nên
những sự bất an, nhưng những sự bất an ấy rất quan trọng.
Chúng là hệ quả của sự trốn chạy, không đối diện với
những nỗi khắc khoải và mặc cảm tội lỗi trong ta. Việc
thực hành của chúng ta là làm thế nào để lắng dịu những
tư tưởng xao động của mình, tiếp xúc được những cảm
thọ mà ta thực sự kinh nghiệm, bằng ánh sáng của tình thương
và sự hiểu biết. Tính cách này sẽ làm
cho chúng ta cảm thấy được sự nhẹ nhõm lẫn thanh thản,
vượt qua mối quan hệ quen thuộc đó với nỗi đau đớn của
chúng ta. Mỉa mai thay ngay cả khi tâm hồn chúng ta có thể
tràn đầy với một cảm giác hết sức thoải mái ở giữa
cơn đau. Ðây là thứ hạnh phúc không phải phát sinh từ những
gì đang xảy ra với chúng ta nhưng bằng cách mà chúng ta
đang liên hệ được với những gì đang xảy ra. Chúng đang
liên hệ với những cảm giác của chúng ta với sự hiểu
biết nội tâm,"Ðiều này tạm ổn. Tôi không phải bỏ
chạy. Tôi không phải xua đuổi sự đau đớn. Tôi không phải
bị cuốn hút vào nó. Việc này tạm ổn để nhận biết nó
thật đầy đủ". Phẩm chất của mối
liên hệ này đối với những cảm giác của chúng ta là thuốc
giải độc sự bất an, tội lỗi và khắc khoải lo âu. Khi
chúng ta phát huy khả năng để mở ra những cảm giác tiềm
ẩn của chúng ta, chúng ta có thể biến đổi tội lỗi trở
thành sự ăn năn khéo léo. Nhận biết được những gì
chúng ta đang cảm nhận với một thái độ an lạc giúp
chúng ta không bị lôi cuốn vào sự bất an. TỰ THA THỨ BẢN THÂN Nhà thơ Rumi nói,
"Nỗi đau đớn sẽ được sanh ra từ cái nhìn bám chặt
vào bản thân, và nỗi đau này sẽ giúp bạn khám phá phía
sau của bức màn". Khi chúng ta nhận thức rõ ràng những
tính cách mà ở đó chúng ta đã làm tổn thương những người
khác, trong khoảnh khắc hồi tưởng đó, chúng ta cảm nhận
được nỗi đau đớn. Và nỗi đau này có thể trở thành một
công cụ cho sự biến đổi. Ði phía sau tấm màn của sự
ảo giác, chúng ta ngừng lại việc xem xét bản thân là
"xấu" và mở rộng ra bản chất đau đớn của sự
cảm nhận. Chúng ta biết điều này
có thể hết sức đau đớn để gợi nhớ lại sự nguy hại
mà chúng ta đã gây cho người khác. Tôi đã ngồi thiền
cùng với một người phụ nữ mà chồng bà ta đã lạm dụng
tình dục với đứa con của họ trong nhiều năm trong khi đó
bà ta đã bỏ qua điều linh cảm của mình với ý nghĩ
"Có thể điều đó không đúng sự thật". Tôi đã
ngồi thiền cùng với người đàn ông đã đánh đập những
người phụ nữ trong cơn cuồng nộ, và với một người đàn
ông đã giết một ai đó 20 năm trước trong một vụ đánh
cướp. Và tôi đã ngồi thiền cùng với sự hồi tưởng
đau đớn của bản thân về điều mà tôi đã làm người
khác tổn thương. Dù ở mức độ nào, nỗi đau đớn bắt
những người khác phải chịu tất nhiên phải dẫn đến cảm
nhận đau đớn của bản thân chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng
việc ôn lại mãi mãi những hành động nguy hại trong tâm
chúng ta với sự tự thán, than thân trách phận cấu xé
trong lòng được xem như một hình thức nào đó của sự
chuộc lỗi, nhưng thực tế lòng bi mẫn là sự chuộc lỗi
lầm. Khi bản thân chúng ta đầy ắp tội lỗi. Chúng ta bị
sụp đổ và chúng ta nghĩ "Ðây là bản thân ta, người
mà..." Khi ý tưởng về bản thân bị hạn hẹp ở tính
cách này, chúng ta luôn luôn hành hạ bản thân, cô lập, cô
đơn, thất vọng. Ðây là những gì chúng ta cảm thấy mình
phải đáng đời như thế. Thậm chí chúng ta có thể nghe biết
được một điều gì đó giống như lời dạy của Ðức Phật
là tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc và có
nhiều khả năng để hưởng hạnh phúc, nhưng điều này chỉ
làm cho chúng ta cảm thấy cô lập hơn. Nhiều năm trước khi tôi
ngồi thiền ở một khóa thiền, tôi thấy rõ bản thân
mình nhớ tưởng quá khứ ở một giai đoạn khó khăn trong
cuộc đời mình. Tôi cảm thấy buồn khi nhớ lại một vài
hành động của mình, nhưng tôi thấy rằng khi tôi bắt đầu
nhìn vào tư cách của mình như là một phần của một dòng
chảy nối tiếp của những sự kiện, tôi đã có thể dễ
dàng nhìn thấy được bản thân với sự hiểu biết và tha
thứ. Tôi có thể nhìn thấy rõ rằng từng sự kiện đã
hình thành ra sao, nó tạo nên một nền tảng cho sự kiện kế
tiếp phát sinh. Theo giáo pháp cổ truyền,
phép loại suy được dùng để mô tả một chuỗi những sự
kiện liên tục và ngẫu nhiên. Khi đại dương dâng thủy
triều, sông dâng lên; khi sông lớn dâng lên, sóng nhỏ ở
vùng đồng bằng dâng lên. Khi thủy triều của đại dương
rút xuống thì sông lớn, sông nhỏ ở đồng bằng cũng thế.
Ảnh hưởng sức hút của mặt trăng trên ao hồ biển cả,
tất cả đều hòa hợp với nhau, ngoài trừ trường hợp đặc
biệt. Với sự phát sinh của một sự việc, thì có sự
phát sinh của việc khác điều đó được liên kết với
nó. Sự tồn tại của một sự kiện là duyên bởi của một
sự việc khác. Cùng một hình thức, tất cả những yếu tố
sự sống của chúng ta - thân và tâm này, nội và ngoại cảnh
của chúng ta - phụ thuộc lẫn nhau. Trong suốt khóa thiền,
tôi đã nhận thức những sự kiện trong đời tôi, giống
như những đại dương và sông rạch, đã mở ra trong một
trình tự hợp lý. Tôi nhận thấy mình đã thực hiện nhưng
điều tốt đẹp nhất ở những tình huống khi chúng tiến
triển. Dựa vào những điều kiện (duyên) dẫn đến thời
điểm đó, không có nhiều khả năng có thể xảy ra mà lẽ
ra tôi phải cư xử một thái độ khác. Cách cư xử khác chắc
hẳn đòi hỏi một sự hiểu biết đã được chuyến biển
mà chắc hẳn là cần thiết dựa trên thông tin và sự cảm
nhận khác. Chúng ta không thể xóa
bỏ được hậu quả mà chúng ta đã gây ra, và chúng không
thể thoát khỏi những hậu quả về những hành động của
chúng ta. Nhưng thay vì thù ghét bản thân chúng ta hoặc nương
gá trong nỗi xấu hổ bất lực, chúng ta có thể thay đổi
thửa ruộng trong đó những hạt giống đã trổ quả bằng
cách phát triển chánh niệm và từ bi bác ái. Ðây là điều
cơ bản của đời sống tinh thần. Ðịnh luật nghiệp
báo là sự hiểu biết thuộc về tinh thần và đạo đức của
việc làm, có nghĩa là ý định và động lực phía sau một
hành động quyết định hạt giống chúng ta gieo trồng ở từng
khoảnh khắc (sát na). Dựa trên những điều kiện chính
xác, hạt giống không chóng thì chầy sẽ trổ hoa. Nhưng định
luật nghiệp báo không tác động một cách cứng nhắc máy
móc. Nếu thế giới ở tính cách đó, sẽ chẳng có một
điều gì để chúng ta có thể thực hiện để thay đổi tiến
trình cuộc sống. Sẽ không có một cách thức nào nào để
nhận ra việc đoạn trừ khổ đau, phiền não và không có mục
đích cho cuộc sống tâm linh. Giống như thiên nhiên
ưu ái cho nhiều hình thức khác nhau ở sự trổ quả của một
hạt giống, mục đích của hạt giống là không tồn tại
trong sự cô lập. Kết quả tạo ra từ một hành động không
chỉ phụ thuộc vào hạt giống (nhân), nhưng cũng tùy thuộc
vào những đặc tính của thửa ruộng, lúc đó hạt giống
sẽ trổ quả. Bởi vì chúng ta đang thay đổi để ảnh hưởng
sự sống của mình, nên miếng đất mà hạt giống đang bám
rễ cũng sẽ biến đổi luôn. Như vậy, khả năng giải thoát
và chấm dứt khổ đau của chúng ta là điều có thể thực
hiện được. Nếu chúng ta lỡ phạm
một điều gì bất thiện, hoặc gây tác hại cho bất cứ
ai, nhưng biết sống trở lại trong chánh niệâm, và từ bi.
Lúc đó thửa ruộng bất thiện đã được gieo trồng thay
đổi một cách triệt để . Ðây là sự chuyển đổi mà
chúng ta có thể bắt đầu ngay bây giờ. Chúng ta khởi sự bằng
cách sử dụng tâm chánh niệm và lòng từ bi để nhìn thẳng
vào nỗi đau đớn mà chúng ta đã gây nên cho người khác
và nỗi đau đớn bản thân chúng ta đang cảm nhận. Chúng
ta theo dõi cái cảm giác xấu hổ tội lỗi, lo sợ, buồn
bã của mình với sự hiểu biết và tấm lòng bao dung.
Chúng ta nhận thấy sự khác biệt giữa sự việc đó
"Tôi hết sức sai trái, và tất cả những gì là do tôi
gây ra". Và nói một cách khác "Tôi đã hành động
một số điều sai trái, và cảm thấy ân hận về sự việc
đó khi chúng tôi có thể cảm nhận luồng tư tưởng của
chúng tôi một cách rõ ràng, khách quan, và sự hiện diện của
tình thương không phán xét và hẹp hòi - tâm của chúng ta
giống như tấm gương soi phản ánh tất cả những gì đang
phát sinh. Trong tiến trình đó, tâm giống như tấm gương
soi cũng phản ánh trở lại bản chất thật của nó; sự tỏa
sáng tự nhiên, tinh khiết và trong sáng. Như Ðức Phật đã
dạy, "Tâm tư của chúng ta lúc nào cũng trong sáng". Chúng ta có thể khám
phá khả năng của tâm là để nhận biết, để thương yêu
, để bắt đầu trở lại. Thậm chí trước đó chúng ta chắc
hẳn đã hành động không được khôn khéo, chúng ta khám
phá được sự trong sạch và an lạc mà bản chất của
chúng ta thật sự là thế. Chính xác hơn là tham, hoặc sân
hoặc lo sợ đã kích động chúng ta gây hại cho một ai đó.
Ðiều đó thì hoàn toàn tự nhiên đối với con người. Chúng
ta chắc hẳn đã sống tách biệt nó trong tất cả cuộc sống
của chúng ta, nhưng nó đã không biến mất. Hoặc chúng ta
đã không tôn trọng , xúc phạm nó, nhưng nó vẫn không đổi
thay và đang chờ đợi chúng ta khám phá lại. Khi nỗi đau đớn đưa
chúng ta "đi phía sau tấm màn che mặt" của sự xa
cách rõ ràng, chúng ta nối kết với toàn bộ cuộc đời và
nơi của chúng ở trong nó. Cuộc sống chấp nhận chúng ta,
nó chỉ đang chờ đợi sự chấp nhận của chúng ta về bản
thân. Tha thứ cho bản thân không có nghĩa mọi thứ chúng ta
đã gây ra, hoặc tưởng tượng rằng nỗi đau đớn của sự
hồi tưởng sẽ dễ dàng biến mất. Nó có nghĩa là sự hiểu
biết một mạng lưới to lớn về những điều kiện (duyên)
đã giúp cho việc tạo ra mỗi hành động và qua sự hiểu
biết, đạt được lòng bi mẫn dành cho bản thân và người
khác. NHÌN THẤY TÍNH CÁCH CỦA
CHÚNG TA QUA SỰ HOÀI NGHI Từ giây phút đầu tiên
khi tôi bắt đầu tu tập thiền, tôi cảm thấy như thể mình
đã trở về với gia đình. Tôi chưa bao giờ có bất cứ sự
hoài nghi nào về những lợi ích giáo Pháp của Ðức Phật
hoặc giá trị của sự tu tập thiền. Tôi đã không có những
nghi ngờ về những vấn đề khác. Khả năng tu tập thiền
của tôi, mặc dù tâm của tôi chưa chưa trầm tĩnh nhiều,
tôi đã có thể cảm nhận được bao nhiêu điều về lòng
bi mẫn. Và trong một thời gian tu tập tôi đã có nhiều
hoài nghi, chủ yếu là phương pháp nào tôi cần phải tu tập. Vị thầy đầu tiên của
tôi theo truyền thống Miến Ðiện, và vì thế tôi đã tu tập
theo phương pháp thiền đó trong một ít tháng. Rồi sau đó
có vài người cho tôi xem hình một vị Lạt Ma Tây Tạng.
Tôi lấy làm tò mò và quyết định đến gặp vị này. Ông
ta trở thành người thầy thứ nhì của tôi. Ðó là một
truyền thống khác, một Tông phái khác, và có một hình thức
tu tập khác. Không bao lâu tôi cảm thấy mình đang ở trong
tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tôi hoàn toàn không thể
quyết định nên tu tập theo phương pháp nào. Bất cứ khi
nào tôi ngồi thiền, tôi thường bị ám ảnh bởi ý nghĩ
"Tôi nên thực hành theo phương pháp này hay phương pháp
kia? Tôi nghĩ chắc chắn là phương pháp đó nhanh hơn. Có lẽ
phương pháp này đã nhanh hơn. Hãy nhìn những người tu tập
theo phương pháp đó. Tôi nghĩ gì về họ? Những người tu
tập theo phương pháp này là gì? Bất cứ khi nào tôi tu tập
với các vị thầy người Miến Ðiện tôi thường hỏi họ
có quan điểm thế nào về phương pháp tu tập của người
Tây Tạng, và khi tôi tu tập với những vị thầy người Tây
Tạng thì tôi lại hỏi ngược lại. Các vị thầy thường
tán dương cho tông phái của mình vì thế họ thật sự biết
rất ít về những phương pháp tu tập khác, và những quan
điểm họ đã hết lòng theo đuổi đôi lúc dựa trên những
sự bất đồng về giáo điều và cổ xưa. Thực vậy, tôi
không tu tập theo một tông phái nào. Chính xác hơn là thiếu
tu tập thiền, tôi ngồi thiền nhưng trong lòng suy nghĩ miên
man phương pháp tu tập sẽ đạt được kết quả tốt nhất.
Trong tâm không biết rõ phương pháp nào"đúng" hoặc
"sai", thậm chí tôi không thể tập trung vào đề mục
thiền định, ngay khi tôi vừa mới quyết định theo dõi hơi
thở, thì lại bắt đầu thắc mắc thay vào đó tại sao
tôi lại không đọc câu thần chú hoặc niệm thiên. Và thay
vì nên học tập những gì mà các vị thầy của tôi hiểu
biết sâu sắc, tôi lại khăng khăng hỏi họ ở những lãnh
vực họ biết rất ít. Tôi nhận thấy mình
ở trong tình trạng lưỡng lự là một khía cạnh của trở
ngại (triền cái) về hoài nghi. Một trong những chức năng
quan trọng và tổn hại nhất của hoài nghi đó là việc nó
cản trở chúng ta đặt mình ở trong một thái độ lắng
nghe thật sự. Nó ngăn trở chúng ta nói lên sự thật. Như
vậy, khi tâm chúng ta bị vướng mắc vào sự hoài nghi, khi
chúng ta tin vào những ý tưởng hoài nghi và mang lại cho
chúng sức mạnh, điều này thật khó khăn để đạt được
tiến triển ở bất cứ sự tu tập nào. Sự hoài nghi làm chúng
ta không tự tin ở bản thân. Ðôi khi chúng ta không hăng hái
để mạo hiểm đưa ra một tiến trình cho phép sự thật.
Thay vì cho phép những câu trả lời được bày tỏ theo trực
giác, sự hoài nghi đòi hỏi rằng chúng phải biết câu trả
lời ngay lập tức. Thay vì đi đến gần sự cảm nhận của
chúng ta, tâm nghi hoặc đẩy chúng ta lùi ra khỏi bất cứ
điều gì ngay khoảnh khắc đang phát sinh để chúng ta có thể
xem xét nó kỹ lưỡng , do đó chúng ta thường thường có
thể so sánh nó với những điều khác. Và vì thế chúng ta
ngồi, rồi suy nghĩ, "Tôi làm việc đó có đúng không?
Tôi làm việc đó có hoàn hảo không? "Nó có xứng đáng
để thực hiện không? Tôi đang làm điều gì ở đây? Sự
việc liên tục so sánh, phán xét, và đánh giá làm cho chúng
ta bị kẹt lại và không thể nhìn thấy được bản thân
chúng ta một cách sâu sắc. Sự kiện không phải
là chúng ta sẽ trở nên cả tin và hoàn toàn tin tưởng những
điều chúng ta nghe được. Thật là lành mạnh lẫn hữu
ích để có một mức độ nào đó của thái độ hoài nghi
về những điều mà mọi người đã nói với chúng ta là
có thật. Nhưng Ðức Phật khuyên cho các đệ tử của Ngài
đừng hoàn toàn chấp nhận những gì Ngài đã dạy mà
không có sự thẩm tra lại cẩn thận. Ngài muốn nói rằng
sự hoài nghi sẽ thúc đẩy chúng ta khám phá sự thật cho bản
thân. Nếu sự thật là trở nên của chính chúng ta, chúng
ta cần cho phép những cảm nhận của chúng ta nói chuyện với
chúng ta. Và nếu chúng ta bỏ cuộc trước một tiến trình
quá dài để đủ cảm nhận nó, rồi sau đó chúng ta sẵn
sàng đưa ra một sự phán xét thận trọng: "Việc đó
có ý quan trọng như thế nào đối với tôi? Nó có xứng đáng
bỏ công không? Nó có quan trọng không? Nó có vô ích không?
Tôi có nên quên nó đi không?" Nhận thức điều đó
tôi hết sức bối rối về phương pháp nào tôi nên thực
hành, tôi biết rằng tôi sẽ phải giải quyết nó. Tôi phải
cam kết theo đuổi phương pháp này hay phương pháp khác.
Không đặt thành vấn đề tôi đã thực hành phương pháp
nào, nhưng miễn là tôi thực hành nó trọn vẹn. Tôi nhủ
thầm với bản thân, "Hãy làm một điều gì đó. Nó
không buộc phải là một sự cam kết suốt quãng đời người.
Nó không buộc phải là một quyết định hoàn toàn đúng đắn.
Hãy thực hành nó sáu tháng, một năm, hay một khoảng thời
gian nào đó mà thật sự là tinh chuyên. Hãy thực hành điều
đó và xem xét việc gì đang xảy ra". Ngay lập tức tôi
có thể hành thiền trở lại. Tôi bắt đầu học hỏi trở
lại một lần nữa nơi những vị thầy bằng cách hỏi họ
biết điều gì sâu sắc nhất. Có nhiều cách để nhận
biết sự trở ngại của hoài nghi. Một trong những điều
hiệu quả nhất là sử dụng nó thật sự như là đề mục
chánh niệm, để nhận ra sự bối rối, sự lưỡng lự, sự
nghi vấn, không phải giống như là một cuộc điều tra thực
sự nhưng chỉ với mục đích của chúng là: nghi ngờ. Nhận
thức được điều đó, chúng ta có thể nhớ lại mục
tiêu tuệ giác thật sự. Chúng ta có thể nhớ rằng phương
pháp được chọn là một tình huống mà chúng ta có thể
giúp cho tự nó phơi bày ra xa chân lý. Thỉnh thoảng chúng
ta có thể cần tìm kiếm những câu trả lời cho các vấn
đề của mình ở nơi vị thầy hoặc qua sự nghiên cứu học
hỏi để chúng ta có đi đến sự hiểu biết những điều
nào là sự hoài nghi lành mạnh và những điều nào là sự
hoài nghi chỉ đem lại cho chúng ta vướng mắc. Ðôi khi, nó
chỉ là vấn đề thời gian, bởi vì tôi phải thực hiện.
Khi cố gắng đi đến quyết định giữa các hình thức tu tập. Dụng cụ quan trọng nhất
tiến hành cùng với sự hoài nghi là sự tin tưởng vào
chính khả năng của mình để nhận thấy được chân lý.
Khi tôi không còn bị những câu hỏi về phương pháp nào
nên tu tập làm xao lãng, tôi có thể đối mặt với nỗi hoài
nghi sâu kín nhất của mình, nó nằm ở dưới tất cả hoạt
động tinh thần bên ngoài - dù tôi thật sự đã có khả năng
để đáp ứng đầy đủ những mục đích tu tập. Bằng sự
trở ngại về hoài nghi, hình thức tự nghi ngờ này có lẽ
là cơ bản nhất và tiềm ẩn nhất. "Khiêm tốn", một
khái niệm tâm lý và là một phẩm chất có thể giúp cho
chúng ta đối phó những thử thách khi hoài nghi phát sinh. Với
lòng khiêm tốn chúng ta có niềm tin vào bản thân, vào khả
năng của chúng ta để đương đầu với những khó khăn. Một
người có một mức độ khiêm tốn mạnh mẽ sẵn sàng mạo
hiểm, để đối mặt với những thử thách mới. Khái niệm
này cho thấy những gì chúng ta tin tưởng về những khả
năng của bản thân ảnh hưởng sâu xa đến chúng. Khả năng
của chúng ta phát triển, hiểu biết, yêu thương, và quan hệ
không phải là số lượng giới hạn hoặc được phân định.
Nhưng chúng ta hạn chế nó bởi những gì chúng ta tin tưởng
vào bản thân. Khi sự tự nghi ngờ
phát sinh trong tâm, chúng ta có thể biến nó thành một khí
cụ hữu ích. Chúng ta sử dụng nó như là một dấu hiệu
để trau dồi sự tự tin vào khả năng của bản thân để
đối mặt những trở ngại phát sinh một cách tự nhiên
trên con đường khám phá. Sự tự tin cơ bản này có thể
giúp chúng ta đương đầu với mức độ hoài nghi . Rồi
chúng ta có thể dốc lòng thử nghiệm, không ngại ngùng
dâng hiến bản thân trong sự tu tập và cuộc sống của
chúng ta. Ðiểm mấu chốt để
trau dồi sự tự tin bản thân là hiểu biết sự đúng đắn
của chúng ta để tạo nên chân lý cho chính mình. Trong một
bài pháp, trong bản kinh đầu tiên của Phật giáo, Ðức Phật
dạy cho một nhóm dân làng bị bối rối do bởi những lời
phát biểu khác nhau của quá nhiều vị thầy, như vầy
"Này chư vị nhất quyết không tin những gì bạn đã
nghe nói, không theo thói thường, không dựa theo những gì
ở kinh điển và chắc chắn không thiếu đi sự tôn kính đối
với một vi thầy. Khi bạn biết "bản thân" rằng
"những điều này không tốt lành, những điều này dẫn
đến nguy hại và khổ đau", rồi chư vị sẽ đoạn trừ
chúng. Khi chư vị biết cho "bản thân" rằng:
"những điều này là tốt lành, những điều này dẫn
đến sự lợi ích và hạnh phúc", rồi khi đã tìm gặp
chúng, chư vị phải tiếp tục lắng nghe chúng. Khi chúng ta nhận ra rằng
con đường dẫn đến chân lý là quyền chọn lựa của
chúng ta, chúng ta có thể dứt bỏ được sự hoài nghi, mà
nó đang tìm cách phân ly chúng ta ra khỏi sự cảm nhận của
mình. Rồi chúng ta có thể nhập tâm mạnh mẽ ở từng khoảnh
khắc (sát na), không có sự bối rối nhưng có nhiều trí tuệ
. HÃY CHO TÂM MỆT MỎI
NGHỈ NGƠI Khi Hiệp Hội Thiền
Minh Sát Tuệ đầu tiên mở cửa, một trong những vị thiền
sư, Steve Arnus Strong, đã sáng tạo một tập sách nhỏ giới
thiệu phương châm nổi bật là: "Tốt hơn là đừng làm
một điều gì còn hơn để phí phạm thời gian của bạn".
Mặc dù phương châm đó chẳng bao giờ trở thành một sự
phát biểu chính thức của chúng tôi, nhưng nó thật sự là
một sự mô tả chính xác về thiền quán (Minh Sát tuệ). Cơ
bản, chúng ta đi vào sự tu tập tâm chánh niệm để tìm hiểu
thế nào là không làm bất cứ điều gì để không phí phạm
thời gian hoặc cuộc sống của chúng ta. Chúng ta tìm hiểu
thế nào là không hành động ngoài những khuynh hướng quen
thuộc mà chúng ta thường sống bởi vì những hành động
đó tạo nên sự đau buồn cho bản thân và người khác, và
chúng ta gặp phải quá nhiều rắc rối. Không làm điều gì
cả (hoặc điều mà đạo Lão gọi là vô vi) không có nghĩa
là khép tâm của chúng ta lại hoặc đi ngủ, nhưng có nghĩa
là để cho nghỉ ngơi - để cho tâm nghỉ ngơi bằng cách
trình bày bất cứ điều gì đang xảy ra trong khoảnh khắc,
không bổ sung cho nó nỗ lực cố gắng để kiểm soát nó.
Không làm gì cả (vô vi) có nghĩa là an lạc. Trong trạng thái tâm
bình thường của mình, chúng ta tiếp tục khởi động tiến
trình mà trong thuật ngữ Phật học gọi là tu tập (bhavana)
mà nghĩa đen là "phát triển". Ở trạng thái phát
triển, chúng ta đang khéo léo hướng về tương lai, cố gắng
đạt được sự an toàn, một cảm giác chúng ta có thể
bám víu vào, cố gắng giữ cho mọi sự việc không thay đổi,
chúng ta tiếp tục giữ quân bình trong trạng thái này, ngay
cả chúng ta cố gắng cảm nhận hơi thở kế tiếp trong khi
hơi thở hiện tại đang diễn tiến. Khi các thiền sư Phật
giáo nói về việc từ bỏ, đoạn trừ hay dứt bỏ, họ
đang nói về việc quăng đi cái gánh nặng và quay trở lại
sự nhận đối với bản chất tự nhiên của con người chúng
ta, quay trở lại với trạng thái an lạc tự nhiên. Sự hoạt
động này thật đặc biệt hữu ích trong thiền là để trở
lại, để thư giãn, để dứt bỏ việc nương dựa vào
phía trước, để dứt bỏ sự chấp thủ; dính mắc. Chúng
ta có thể thanh thản thậm chí ở việc tiên liệu hơi thở
kế tiếp của chúng ta. Chúng ta lấy lại sự thoải mái,
quay về với hiện tại, và quay về với bản thân chúng ta.
Ðiều này có ý nghĩa "Vô tư". Thiền không phải là
kiến tạo một điều gì xa lạ từ bên ngoài vào; nó không
phải là một nỗ lực để đạt được rồi bám víu vào một
cảm nhận đặc biệt. Chúng ta có thể có một ham muốn kỳ
bí qua thiền định chúng ta sẽ tích lũy một số lượng lớn
những cảm nhận siêu phàm, hoặc ít nhất là một hoặc hai
chiến lợi phẩm, và rồi chúng ta có thể trưng bày cho những
người khác thưởng ngoạn. Chúng ta có thể cảm thấy rằng
chúng ta sẽ tăng thêm giá trị của chúng ta là những con người
bằng một tiến trình tâm linh đạt được, đạt thêm nhiều
điều tốt lành, trong sạch với một cảm giác nào đó về
quyền sở hữu và vật sở hữu: "sự giác ngộ của
tôi", "sự hiểu biết rõ ràng của tôi", cái
tâm tu dưỡng tiêu biểu của người tiêu dùng của chúng ta
muốn xem sự giác ngộ như là cuộc nghệ thuật diễn xuất
hoặc như là uy tín xã hội. Người ta chắc chắn sẽ nhận
thấy rằng tôi đã được biến đổ". Hãy từ bỏ lòng ham muốn
nặng nề này cho điều đạt được và thành tích, chúng ta
có thể giữ tâm an lạc. Như vị thầy của tôi Nejoshul Khan
Rinpoche diễn tả về nó, "cái tâm mệt mỏi này hãy
yên nghỉ trong niềm an lạc, thoải mái tuyệt vời". Như
thế, còn hơn phí phạm thời giờ của chúng ta, không làm
điều gì, giữ tâm an lạc, có thể dẫn chúng ta đến tuệ
giác và phục hồi lại toàn bộ thời gian bất tận. NỖI DAY DỨT KHÔN
NGUÔI Trong khóa thiền đầu
tiên của tôi với thiền sư U Pandita, tôi siêng năng ghi chép
lại những phần ghi chú ngắn gọn sau mỗi thời gian thiền
tọa và thiền hành . Tôi đã thực hiện điều này để tôi
có thể mô tả những cảm nhận về thiền định của tôi
một cách rõ ràng đối với Ngài trong những buổi đàm đạo
của chúng tôi. Tôi tham dự vào một trong những cuộc phỏng
vấn đầu tiên của tôi chuẩn bị thực hiện một buổi
trình bày về sự tu tập của tôi. Khi tôi bắt đầu thuật
lại những kinh nghiệm thiền định của tôi, U Pandita nói
"Ðừng quan tâm điều đó, hãy nói cho tôi mọi điều bạn
ghi nhận khi bạn mang giày của bạn vào" Tôi
nói,"Chà, tôi thật sự không quan tâm nhiều về việc
mang giày của tôi", thiền sư bảo tôi cố gắng lần nữa,
và điều đó kết thúc cuộc trình pháp. Tôi dành toàn bộ
việc hành thiền, đi, ngồi cả ngày, và đặc biệt chú ý
cẩn thận khi mang giày vào, lưu ý những ý định, những sự
di chuyển, và những cảm giác. Ngày hôm sau, tôi bắt
đầu chuẩn bị cuộc trình pháp của mình, sẵn sàng báo
cáo việc đi, ngồi và mang giày của tôi, khi Ngài U Pandita
nói, "Hãy kể cho tôi mọi việc, cô đã nhận thức khi
cô rửa mặt". Thật buồn, tôi thật sự đã không chú
ý đến việc rửa mặt của tôi, và tôi đã phải nói
"Chà, tôi đã không chú tâm đến bất cứ điều gì’.Cuộc
trình pháp của tôi xem như là xong, tôi đi ra ngoài để ngồi,
đi, mang giày, rửa mặt, tất cả những hành động này đều
được tôi hết mực chú tâm. Hàng ngày, U Pandita thường
hỏi tôi một vấn đề khác nhau. Không biết Ngài có thể
tìm cho tôi câu hỏi nào, dần dà tôi nhận ra mình đang giữ
chánh niệm ở mọi thứ tôi đang làm - mang giày vào, gội
đầu, đánh răng, giặt quần áo, xem giờ. Ðầu tiên công
việc làm của tôi cảm thấy thật nặng nề - tôi phải
chú ý từng khoảnh khắc. Trong tâm tôi bắt đầu gọi khóa
thiền này là "Sự day dứt khôn nguôi". Tuy thế,
không lâu sau đó, tôi nhận ra rằng tầm quan trọng về sự
nhận biết liên tục là một món quà lớn lao. Khi tôi ngừng
phản kháng, nó mở rộng ra một sự hiểu biết sâu sắc
và rõ ràng thực tế về thiền là gì. Theo giải pháp cổ truyền
Phật giáo, có một danh sách được gọi là "Mười chín
pháp để giữ Chánh Niệm", và nó bao gồm về mỗi
hành động của thân mà bạn có thể thực hiện trong ngày.
Ngoài việc ghi nhận mà bạn có thể chánh niệm trong lúc ngồi,
nằm, đứng và đi, danh sách bao gồm những chi tiết. Chẳng
hạn như giữ chánh niệm khi di chuyển về phía trước hoặc
khi thụt lùi, nhìn về phía trước, và mọi phía; hãy giữ
chánh niệm khi bạn dự định co duỗi tay chân, khom mình.
Lúc ăn và lúc uống là những lần phải chánh niệm. Kể
luôn cả mặc và thay quần áo, vào phòng tắm, thức dậy, mở
mắt. Tâm chánh niệm khi bạn phải trò chuyện và khi bạn
giữ im lặng. Giáo pháp nguyên thủy chỉ rõ ràng rằng thiền
không chỉ là ngồi và đi; thiền kể luôn cả mọi điều
chúng ta thực hiện. Phương pháp này đã
được thiền sư U Pandita truyền dạy cho tôi, nỗi day dứt
khôn nguôi, thực sự đã trở thành một cảm giác thoải
mái tuyệt vời. Thay vì với cái cảm giác là tôi phải dứt
bỏ những gì mình đang làm và phóng nhanh vào thiền đường
để có những cảm nhận tuyệt vời, tôi nhận ra rằng bất
cứ những gì tôi đang làm chính xác là những gì tôi cần
để giữ chánh niệm. Dù khi uống một tách trà hoặc ngồi
nghiêm trang trong thiền đường, sự tu tập là sự hiện hữu
và nhận thức mà tôi có thể thực hiện. Duỗi ra, khom
mình, ngồi xuống, đứng dậy, nhìn, nghe, nếm. Mọi bước
chân tôi tiến về thiền đường đều quan trọng như bất
cứ điều gì tôi đã cảm nhận. Như tôi đã có lần tôi
ngồi trên tấm thảm. Tôi đã không phải tìm kiếm một cảm
nhận tuyệt vời hoặc một cảm giác đặc biệt nào đó.
Thiền trở thành một cách sống. Vào cuối khóa thiền đó,
bất cứ những khái niệm mà tôi đã từng nghĩ về phương
pháp thiền đích thật chỉ xảy ra ở sự tu tập trang trọng
đã hoàn toàn bị đánh đổ. Một điều gì khác
quan trọng hơn là hãy để cho tôi được yên nghỉ trong sự
day dứt khôn nguôi này. Hãy luôn luôn giữ chánh niệm có
nghĩa là không còn thời gian nữa để phán xét đánh giá.
Ví dụ như tôi không thể còn nhìn lại chỗ ngồi, và cố
gắng quyết định xem có phải nó là một chỗ ngồi tốt
hay xấu, bởi vì ngay chính ở hành động đứng dậy, tôi
phải chú ý ngay lúc ấy mình đang cảm nhận về điều gì.
Nếu sự chú ý của tôi không tập trung, như ý định muốn
thực hiện, vào khoảnh khắc đó luôn luôn có một điều gì
xảy ra hãy tập trung lại - mùi vị, âm thanh, khoảnh khắc
khom mình xuống, hoặc cảm giác sờ mó. Không còn thời giờ
để thất vọng, suy nghĩ, "Tôi từng ở đâu? Tại sao
tôi đã bỏ qua điều xảy ra đó? Tôi là loại hành giả
nào?" Một khi gánh nặng về phán xét và sự đánh giá
đã được từ bỏ, mỗi khoảnh khắc (sát na) trở nên quý
báu và quan trọng tương đương nhau. Bằng sự day dứt khôn
nguôi, tôi nhận thức được mức độ sâu kín nhất của bản
thân tôi rằng không có điều gì cần thiết ngoài những
gì đang xảy ra ngay bây giờ... ngay bây giờ... và ngay bây
giờ với sự nhận thức về chánh niệm. Mục đích của
chúng ta không còn ở tương lai xa xôi, nó ngay lúc này, ở bất
cứ hoạt động nào đang xảy ra. GIẢI THOÁT HÀNG NGÀY Người bạn đồng nghiệp
của tôi, bà Kalama, bắt đầu việc tu tập thiền với thiền
sư Munindra, vị thầy đầu tiên của bà ta. Khi Ngài đến
Hawaii để dạy thiền. Kamala mời Ngài đến nhà của bà ta
ở lại. Vào thời gian đó bà ta là một người mẹ cô
đơn, một mình nuôi ba đứa con và làm hai công việc để
kiếm tiền đủ sống. Buổi ban đầu khi đặt chân đến,
Munindra cổ vũ mạnh mẽ Kamala dành một khoảng thời gian
cho việc ngồi thiền. Cuối cùng, đây là khuôn sáo cổ truyền
của các vị thiền sư: "Hãy ngồi tham thiền mỗi ngày,
hãy ngồi mỗi ngày". Kamala vạch rõ cho thiền sư
Munindra rằng không còn cách nào ở trong thế giới để cho
bà sẽ có thời gian ngồi tham thiền mỗi ngày. Rốt cuộc,
có lẽ nhận thấy sự phản kháng của bà ta có phản ứng
ông ta hỏi bà ta hàng ngày bà làm công việc nào nhiều hơn
tất cả những việc khác. Bà ta suy nghĩ một lát; rồi trả
lời "Rửa chén bát" Munindra đi xuống bồn giặt cùng
bà ta, và họ cùng thực hành chánh niệm qua việc rửa chén
bát. Như thế là bắt đầu sự tu tập thiền hàng ngày của
Kamala. Rồi Munindra nhận thấy
rằng ở trong hành lang ngắn tối tăm giữa phòng ngủ của
Kalama và toàn bộ căn nhà còn lại, mấy đứa trẻ thường
bỏ bà ta một mình. Ông ta gợi ý rằng bà ta nên xem hành
lang là ngôi chùa dành cho việc đi hành thiền. Bất cứ khi
nào Kamala ở một phần trong căn nhà đó, bà ta tu tập thiền
di hành chánh niệm ở đó vài bước. Bây giờ bà ta nói rằng,
bởi vì bà ta nhận biết ở đó rất rõ, đến nỗi bà ta
cho rằng đó là nơi thiêng liêng. Một trong những khía cạnh
tuyệt vời nhất về lời dạy của Ðức Phật là chúng chẳng
bao giờ xa cách sự khôn ngoan của con người. Cũng là một
con người, Ðức Phật nói về những gì được xem là phương
tiện tối cao cho người để có được hạnh phúc. Sự sâu
sắc và lòng bi mẫn của Ðức Phật là phản ánh chủ nghĩa
thực dụng tuyệt vời về giáo pháp của Ngài. Ngài vạch
ra một con đường, nó đi thẳng tới, hiện diện, và có sẵn
qua mọi khía cạnh của cuộc sống con người, không trừu tượng
hoặc xa cách với những con người bình thường. Nguyên tắc cơ bản của
Giáo Pháp Ðức Phật là không nhấn mạnh truyền thống nhưng
vạch rõ khả năng của chính chúng ta đối với tuệ giác
và sự nhận thức. Chúng bao hàm một tính chất tâm linh
hoàn toàn sống động, mà có thể hỗ trợ bởi truyền thống
nhưng chẳng bao giờ thay thế bởi nó. Bám rễ sâu vào sự
đơn giản và mối liên hệ, con đường chính đạo sẽ vượt
xa giới hạn của con người, kết hợp thành một cuộc sống
bao la, và biết được sự giải thoát. Ðức Phật dạy rằng
tất cả những lời dạy của Ngài chỉ có một vị duy nhất:
Vị giải thoát. Con đường của chúng
ta, ý thức tâm linh của chúng ta đòi hỏi một nỗ lực lớn
lao, sự dâng hiến, lòng trung thành, và tính liên tục, nhưng
nó không phải dùng cho một sự theo đuổi miễn cưỡng, cuồng
nhiệt hoặc day dứt. Quan trọng hơn hết, nó có nghĩa là của
chính chúng ta. Nó là một phương pháp tu tập được trên cảm
giác thoải mái trong tiến trình của chính chúng ta, ở bản
thân chúng ta, và ở những tình huống độc đáo của chúng
ta, cho nên trong khi chúng ta thực hành với sự nỗ lực và
lòng nhiệt tình, chúng ta cũng thực hành với lòng biết ơn
và sự thoải mái. Thậm chí chúng ta có thể tự nhiên khi
chúng ta đang dốc lòng áp dụng sự tu tập. Chúng ta có thể
phát huy nỗ lực hoàn thiện của chúng ta trong khi ấy cũng
thanh thản. Sự thanh thản đến từ tính khách quan trong những
nỗ lực của chúng ta và dùng hết mọi khoảnh khắc để
chúng ta có thể nhận thức rõ ràng hơn. Giống như Kamala chánh
niệm trong khi rửa chén bát hoặc đi ở hành lang, sự cống
hiến của chúng ta để sự tỉnh giác có thể được thể
hiện qua những khoảnh khắc của cuộc sống thường nhật
của chúng ta. Thực tế điều mà
gây một sự khó chịu thân xác không quá mức, tôi trôi chảy
khắp chân thân, mà không có điều gì cản trở hoặc lệch
lạc, và bạn sẽ không cảm thấy đau đớn. Do bởi quá gò
bó cho nên bạn gặp phải sự đau đớn. Thực tế đối với
sự khó chịu của cơ thể không đến nỗi quá mức, tôi tạo
thêm một mức độ gì giày vò tinh thần nhiều hơn. -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ kheo
Thiện Minh đã gửi tặng phiên bản vi tính (Bình Anson, 01-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PL 2545 - TL 2002
updated: 01-02-2002