BuddhaSasana Home Page Thiền
Tâm Từ Tỳ
kheo THIỆN MINH dịch PHẦN BA SỐNG VỚI TRÍ TUỆ VÀ
LÒNG BI MẪN Xuyên qua lịch sử,
chúng ta đã thấy có nhiều nhân vật đã khám phá được
chân lý, những người này đã biểu lộ một cảm xúc trọn
vẹn bắt nguồn từ sự nhận thức rõ ràng và tình yêu thương.
Khi chúng ta nghe đến những con người phi thường như thế,
hoặc nếu như chúng được may mắn được một trong những
người ấy, chúng ta nhận thấy ở trong bản thân họ có một
năng lực tiềm ẩn mà trong mỗi người chúng ta đều có;
chúng ta nhớ lại bản chất thật của mình. Sự tu tập thiền
định mang lại trí tuệ tiềm ẩn của chúng ta và lòng bi mẫn
với cuộc sống. Một khi được phát triển qua sự tu tập,
những phẩm chất này nâng cao lên niềm khát khao không cưỡng
lại được để giúp đỡ kẻ khác. Sự hiểu biết về mối
tương trợ lẫn nhau của chúng ta với tất cả chúng sinh,
và những hành động đó tuôn chảy một cách tự nhiên từ
sự kiện này, rồi cũng tiếp tục đưa chúng qua quay trở lại
bản chất thật của mình, tạo ra sức mạnh lòng biết ơn
và sự tỉnh giác sâu sắc. Năng lực tinh thần này biểu thị
trong cuộc sống của chúng ta, trong thế giới riêng biệt
hàng ngày của chúng ta. Sống bằng sự tu tập qua hành động
chân thành và sự hiểu biết phát sinh tự nhiên do bởi sự
dốc lòng đối với sự giải thoát của bản thân mình và
cho đến sự giải thoát của tất cả chúng sinh. Trong thực
tế chúng ta có thể sống với một tấm lòng rộng mở như
thế gian. CUỘC CÁCH MẠNG CỦA
ÐỨC PHẬT Những lời dạy của
Ðức Phật cách đây hơn 2500 năm vào lúc đó cấu trúc của
xã hội Ấn Ðộ được xây dựng trên một hệ thống triết
học cứng nhắc. Theo quan điểm của thế giới được phổ
biến vào thời đó, mọi việc đều thuộc về một phạm
trù có một bản chất đặc biệt và một bổn phận tương
ứng, hoặc một mục đích trong cuộc sống. Ví dụ, người
ta xem nó như là bản chất hoặc bổn phận của lửa là để
đốt cháy và của đá là cứng, của cây cỏ để mọc và
màu xanh, và của bò là ăn cỏ và tạo nên sữa. Trách nhiệm
của mỗi con người là nhận ra bản chất của riêng nó và
tuân theo một khuynh hướng lý tưởng đặc biệt đối với
họ. Khuynh hướng này được xem là một chân lý bất di bất
dịch. Theo khuynh hướng xã hội,
khái niệm này được chuyển đổi thành hệ thống đẳng cấp.
Người ta sanh ra đã được định trước số phận để đáp
ứng bản chất nào đó. Nó là bổn phận của những tầng
lớp nào đó hoặc những đẳng cấp của con người để
cai trị, của tầng lớp Bà La Môn để làm trung gian với những
thế lực thần thánh, và của một số người khác tham gia
vào việc sản xuất thực phẩm và vật liệu hàng hóa. Với
nhân sinh quan này, những hành động được quan niệm như là
luân lý và phù hợp cho một giai cấp hoăc giới tính được
cảm thấy hoàn toàn bất diệt với người khác. Nó thích hợp
và lợi ích cho một người nam thuộc giai cấp Bà La Môn để
đọc và nghiên cứu kinh điển, ví dụ như, trong lúc đó sự
kiện này hoàn toàn bị ngăn cấm và được xem thật ghê sớm
đối với một ai đó bị khai trừ ra khỏi đẳng cấp hoặc
kẻ hạ lưu. Theo bối cảnh xã hội
này, đức Phật đã đưa ra giáo pháp có tính chất cách mạng
này. Những gì Ngài đã giảng dạy bằng ngôn từ hợp với
đạo lý là cơ bản, và nó vẫn còn bơ bản cho tới ngày
nay. Ngài tuyên bố rằng việc duyên định một hành động
có hoặc vô đạo đức là ý muốn của người thực hiện
nó ý định phát sinh ra nó "Không phải do bởi sinh ra
là một vị Bà La Môn, hoặc một kẻ vô gia cư", đức
Phật dạy, "nhưng bởi nghiệp. Thực tế, lời dạy này
nói lên toàn bộ cấu trúc xã hội Ấn Ðộ - được nhiều
người xem là bất khả xâm phạm - là hoàn toàn không có một
ý nghĩa tâm linh chút nào. Ðức Phật tuyên bố rằng
chính hoàn cảnh thật sự đã tạo nên sự tốt đẹp của
mỗi con người sự tốt đẹp của người đó đạt được
nhờ nỗ lực cá nhân, chứ không phải bởi dòng giống, gia
tộc. Không đặt thành vấn đề nếu bạn là người đàn
ông hoặc đàn bà, sang hoặc hèn, người Bà La Môn hoặc kẻ
hạ lưu - một hành động dựa trên lòng tham chắc hẳn sẽ
gặp một loại nhân quả nhất định, và một hành động dựa
trên tình thương chắc hẳn sẽ gặt được một loại nhân
quả nhất định. "Một người Bà La Môn đích thật là
người hòa nhã, khôn ngoan và quan tâm", Ngài dạy, như vậy
và hoàn toàn phủ nhận sự quan trọng của đẳng cấp trong
xã hội, màu da, tầng lớp và giới tính để đổi lấy chuẩn
mực đạo đức. Ðức Phật tuyên bố
rõ ràng rằng chúng ta không bị lệ thuộc vào bất cứ
tiêu chuẩn khác biệt nào. Khổ đế và sự diệt khổ, bị
ràng buộc thật sâu xa đối với hành vi đạo đức của mình,
là điều giống nhau cho tất cả mọi người chúng ta. Bất
kể người đó đang hành động điều gì, ý định hoặc ý
muốn phía sau hành động là hạt giống của nghiệp được
gieo trồng. Sức mạnh thôi thúc (nghiệp lực) phía sau hành
động như vậy được xem là khía cạnh có quan trọng và
tác động mạnh nhất của hành động. Theo cơ bản, những
ý định của chúng ta là một biểu hiện về sức mạnh của
tâm chúng ta. Việc chuyển đổi sự thúc đẩy của chúng ta
biến chuyển toàn bộ cuộc sống của chúng ta; hạnh phúc,
mức độ quan hệ của chúng ta với người khác, sự tự do
của chúng ta. Chẳng có một điều nào của sự biến này bị
gắn chặt vào vẻ đặc biệt bên ngoài của chúng ta là ai,
điều duy nhất là được giữ lại trong khả năng tiềm tàng
không giới hạn về những gì mà chúng ta có thể thành tựu. Bằng cách phủ nhận
quyền lực tâm linh đó và khả năng được dành cho một tầng
lớp đặc biệt, đức Phật chấp nhận rằng chúng ta không
cần một ai khác nữa để làm trung gian với thần thánh,
chúng ta không cần một giai cấp đặc biệt mà bổn phận của
họ đã là đi sâu vào tâm linh. Tâm linh ở trong khả năng của
mọi người; nó là bổn phận của mọi người, là vai trò
của mọi người. Tất cả mọi người có thể sử dụng sức
mạnh tỉnh giác cho sự giải thoát của bản thân; chân lý
của chúng ta là một sự thật "tự chứng ngộ"; đức
tin của chúng ta được thử thách và được cố gắng bởi
cảm nhận của bản thân. Một công việc có hiệu quả mạnh
mẽ nhất đầu tiên được thực hiện bằng tâm, bởi vì
tâm là người tiên phong cho tất cả mọi yếu tố của cuộc
sống. Bằng cách vạch rõ cho chúng ta thấy sự quan trọng về
những ý định của mình, đức Phật cho thấy rõ rằng mỗi
người chúng ta đều có bổn phận đối với tâm của
chúng ta, và do đó đi đến sự giải thoát của bản thân
ta. Một quan điểm vô cùng quen thuộc ở Ấn Ðộ xa xưa cho
rằng sự ham muốn xác thịt phát sinh nơi tâm của người
đàn ông là do lỗi của người đàn bà, là do kết quả sự
cám dỗ của người nữ với người nam. (Có phải điều này
nghe có vẻ quen thuộc thậm chí cho đến ngày nay phải
không?). Ðức Phật phản bác quan điểm này bằng cách dạy
rằng, bất cứ đối tượng nào, bản chất ham muốn phát
sinh trong bất cứ tâm của người nào đều giống như nhau,
và sự chọn lựa bằng cách nào để đáp lại là trách nhiệm
của người đó do sự ham muốn trong tâm của người đó
sinh khởi. Cuối cùng, việc chối bỏ trách nhiệm đơn thuần
chỉ kết án chúng ta là một người bị tước quyền trong
cuộc sống của mình. Giải thoát là một năng lực tiềm
ẩn có thật, nhưng chúng ta làm việc như thế nào với tâm
của mình là tùy thuộc nơi chúng ta. Chỉ bản thân chúng ta
mới có thể biết những thôi thúc của mình. Trong bất cứ
hành động nào những gì được người ta nhìn từ bên
ngoài đơn thuần không khác hơn là một hành động. Nếu
như tôi trao cho bạn một cuốn sách, bất cứ ai chứng kiến
chỉ sẽ thấy bàn tay tôi đưa ra và tặng bạn cuốn sách.
Tôi có thể cho bạn cuốn sách bởi vì tôi thích bạn và muốn
bạn có nó. Tôi có thể cho bạn cuốn sách bởi vì tôi biết
bạn cần cuốn sách. Tôi muốn và hy vọng rằng bạn sẽ thấy
thích hợp để tặng nó làm vật trao đổi; tôi có thể cho
bạn cuốn sách bởi vì chúng ta đang ở trong một căn phòng
đông người và tôi muốn tỏ ra là một người rộng lượng;
hoặc tôi có thể hành động từ nhiều động cơ thúc đẩy
khác nhau. Sự khác biệt được nêu ra là một trường hợp
điển hình và động cơ thúc đẩy của tôi sẽ trau dồi
tính rộng lượng, hoặc một hình thức khác là tham. Trên cơ
sở nhấn mạnh rằng giáo pháp đặt quan trọng sự giải
thoát về việc chuyển đổi những ý định của một người,
điều đáng phê phán là chúng ta biết rõ những gì về những
ý định của chúng ta. Bởi vì ý định của chúng ta nằm
trong sức mạnh của tâm, và khả năng thay đổi bản chất. Trong lời dạy độc nhất
này về sức mạnh của ý đức Phật đã phá vỡ cái bong
bóng của giai cấp, xã hội; sự sai lệch của trách nhiệm;
sự tôn sùng ngu muội về quyền lực tôn giáo, và sự phân
định khả năng theo tiêu chuẩn bên ngoài. Trong lời dạy
này Ngài trả lại khả năng giải thoát cho mỗi người chúng
ta. CỐ CHẤP Hai người bạn của tôi
đã từng làm việc chung với nhau trong một thời gian, về
sau đó có sự bất đồng ý kiến. Họ không trò chuyện với
nhau trong một năm - cho tới khi hoàn cảnh đưa họ trở lại
gần gũi với nhau chỉ trong vài phút. Mặc dù đó chỉ là một
khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng họ có sự giải hòa
chân thành. Một thời gian ngắn sau đó, một trong hai người
bạn ấy bất ngờ bị bệnh nặng. Trong khi chúng tôi chờ
đợi sự chẩn đoán, tôi đã gọi điện cho một người bạn
khác biết. Sau đó tiếp tục bình luận về sự việc mà
chúng tôi không biết sẽ xảy ra thế nào; cô ta phản ánh một
cách chân thành về mối quan hệ được phục hồi của họ.
"Tôi thật sung sướng biết bao khi chúng tôi có những
khoảnh khắc bên nhau" cô ta nói. Rồi hồi tưởng lại
một tình huống khác mà ở đó mà cô ta vừa mới từ bỏ
những gì xấu xa từ một sự mâu thuẫn cá nhân đã qua, chị
ta nói một cách phấn khởi, "Tôi hơi cố chấp!" Tôi
yêu cái lối bình luận đó. Thực tế, bởi vì chúng ta
không biết được điều gì sẽ đến với mình ở bất cứ
lúc nào, có một sự nhẹ nhõm lớn lao ngay lúc này "hơi
cố chấp" chính xác hơn là theo đuổi dấu vết những
điều phẫn uất, những điều gây phiền muộn, và những cảm
xúc không nói nên lời. Dựa trên một phần của
sự hiểu biết là thật sự chúng ta không bao giờ biết
chúng ta sẽ gặp nhau trở lại. Những cộng đồng tu sĩ châu
Á có một nghi lễ tha thứ chính thức khi từ biệt. Lần đầu
khi U Pandita đến dạy ở Trung tâm Thiền Minh Sát Tuệ, đó
là lần đầu tiên Ngài làm việc hoàn toàn với những người
phương Tây. Ðó là một khóa tu tập thiền tích cực. Trong
lúc đó nhiều người trong chúng tôi nhận ra được một lợi
ích cá nhân tuyệt vời khi làm việc với thiền sư, nhưng
cũng có một số điều hiểu lầm về văn hóa. Khi U Pandita
chuẩn bị rời Thiền viện, khi buổi lễ kết thúc khóa thiền,
thiền sư nói rằng "Nếu tôi đây đã làm tổn thương
hoặc làm hại đến quývị bằng bất cứ hình thức nào,
hoặc cố ý hoặc vô tình, tôi đây xin được tha thứ".
Và nếu quý vị đã làm tổn thương tôi bằng hình thức
nào đó vô tình lầm hoặc cố ý, tôi tha thứ cho quý vị".
Bằng hình thức này thiền sư có thể ra đi mà không mang
theo những ghi sâu về bất cứ sai dựa trên quá khứ. Không
một ai sẽ bị in hằn vào tâm khảm của Ngài như là
"một người đã nói điều không thích hợp" hoặc
"một người thường không theo bất cứ sự dẫn dắt
nào". Và Ngài có thể vượt qua bất cứ phẫn nộ hoặc
những cảm xúc tồi tệ bất cứ ai có thể mang lại cho
Ngài. Ngài đã thực hiện điều này không vì những vấn đề
đã hết sức tồi tệ trong suốt khóa thiền nhưng bởi vì
nó được xem là một tính cách thích hợp của lời nói tạm
biệt. Nó phản ánh tính chất quan trọng của sự đoạn trừ
những cảm nhận quá khứ để chúng ta không mang theo những
ấn tượng sâu sắc của nhau. Thực ra, khi tôi gặp lại
thiền sư U Pandita khoảng sáu tháng sau đó, tôi cảm thấy rất
khác lạ, và Ngài dường như khác lạ đối với tôi. Mặc
dù mối quan hệ trước đây của chúng tôi rất tốt, điều
này như thể mối quan hệ của chúng tôi đang bắt đầu trở
lại, và sự mới mẻ của một sự mở đầu khác thật tuyệt
vời. Bởi vì Ngài đã thực hiện nghi lễ đó cách đây
sáu tháng, chúng tôi có thể gặp nhau mà không bị ràng buộc
bởi những cảm nhận lúc trước, tốt hay xấu. Hình thức
tha thứ này tạo nên khả năng của sự gặp gỡ một ai đó
chúng ta biết sau khi chia tay, và cả hai cùng đến với nhau
với những tấm lòng rộng mở. Và nếu chúng ta không gặp
nhau trở lại, chúng ta sẽ không bị trói buộc với bất cứ
mối quan hệ vướng mắc dây dưa. Chúng ta sẽ bị
"ràng buộc". Mang một mối thù hằn
có thể cảm thấy giống như một hình thức an toàn:
"Tôi biết mình là ai. Tôi là người bị làm tổn thương
bởi một người nào đó và sẽ luôn luôn nổi giận với
anh ta". Nhưng cái cảm giác an toàn đó là giả tạo; nó
không bao gồm sự biết rõ chắc chắn về cái chết của bản
thân và của người khác. Khi tử thần ra tay, chúng ta đau
khổ cùng với tiếc nuối đắng cay về những sự việc sẽ
mãi mãi lưu lại không tỏ bày ra được và những cảm
giác sẽ không được truyền đạt. Thời gian cho sự đuổi
kịp là bây giờ. Không còn đủ thời gian cho sau này, hoặc
bất cứ sự vững chắc nào về những gì tương lai nắm giữ.
Bất cứ cách nhìn hiện thực nào khác đều được xây dựng
lên từ cái tâm bởi vì nó tin tưởng rằng một ngày nào
đó chúng ta phải chết đi. Mọi lời từ giã mà
chúng ta nói trong cuộc sống của mình là một sự từ bỏ
hoàn toàn để đi vào một nỗi chưa hề biết đến. Và như
vậy, ở mỗi cuộc chia tay đều có một dịp để chấp thủ
vào, để giải phóng bản thân khỏi những trạng thái tâm
tiêu cực, và dâng hiến sự giải thoát này cho những người
khác. LỖI LẦM Cách đây vài năm Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đã dành nhiều tuần để dạy về "Pháp
kiên nhẫn" ở Tucson, Ariszona. Có hơn 1200 người đã
tham dự . Tất cả mọi người chúng tôi đều nghỉ ở khách
sạn bên ngoài thành phố, biến đổi một địa điểm
thương mại trở thành một trung tâm thiền. Mỗi buổi sáng
và chiều Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thường phụ trách, và vào
những buổi tối, những thiền sư Phật giáo phương Tây
chúng tôi sẽ nói về những "khía cạnh đặc biệt về
pháp kiên nhẫn". Sylvia Boorstein và tôi là hai thiền sư
phương Tây đầu tiên trong chương trình sẽ giảng pháp.
Tôi phải thú nhận là mình cảm thấy một chút lo âu hồi
hộp khi nói chuyện trước một số khán thính giả đông như
vậy, và tôi muốn hiểu rõ một việc "một cách tường
tận". May mắn thay, một ít đêm sau đó, Ðức Ðạt Lai
Lạt Ma với tính cách tuyệt vời của Ngài, đã đem lại
cho tất cả chúng tôi một lời dạy sâu sắc thật sự về
"việc hiểu rõ nó một cách tường tận". Ngài đang phân tích một
chương của Shantideva, "Hướng dẫn đến cách sống của
Bồ Tát - Nhập Bồ Tát Hạnh", một bản kinh thuộc thế
kỷ thứ 8 bao hàm toàn bộ con đường dẫn đến sự giác
ngộ. Ði hết dòng này sang dòng khác của bản kinh, đức Ðạt
Lai Lạt Ma trình bày sự chú giải của Ngài bằng tiếng
Tây Tạng, và trong khi nó được người khác phiên dịch,
thì Ngài xem xét những dòng kế tiếp Ngài sẽ trình bày. Vốn
tiếng Anh của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma khá tốt, và vào một
điểm phát biểu trong phần dịch, Ngài xem bản kinh và nói
với người phiên dịch "Anh đã nhầm rồi. Ðó không phải
là những gì tôi đã phát biểu". Sự bất đồng tiếp
theo là về vấn đề cú pháp - có phải Shantiveda khi đưa ra
một quan điểm về pháp kiên nhẫn, đã nói "Bà ta nói
điều đó với anh ta" hoặc "Anh ta đã nói điều đó
với bà". Người phiên dịch đáp lại bằng cách nói rằng
"Thưa Ngài, tôi không nhầm. Theo thực tế bản kinh viết
"Anh ta đã nói điều đó với bà ta". Ðức Ðạt
Lai Lạt Ma trả lời "Không, bản kinh viết "Bà ta đã
nói điều đó với anh ta". Người phiên dịch lại
không đồng ý, và rồi họ thảo luận lại trong một lúc:
"Anh ta đã nói điều đó với bà ta". Không,
"Bà ta đã nói điều đó với anh ta", và v.v... Sau
đó Ðức Ðạt Lai Lạt Ma lật trở lại các trang trong bản
kinh cho tới khi tìm được phần tranh luận. Ngài xem nó, rồi
bật tiếng cười lớn, nói một cách vui vẻ, "Ha, ha,
ha! Ôi, tôi sai rồi". Chính là Ngài đang mắc
phải một lỗi lầm trước 12000 người, nhưng vẫn phá lên
cười ầm ĩ về việc này. Tôi không chắc là mình có thể
cười một cách thật thoải mái như thế nếu như tôi đã
nhầm lẫn khi đang nói chuyện trước 12000 người vào mấy
đêm trước đó. Ngài đóng một vai trò tuyệt vời một mẫu
người có tấm lòng bao dung độ lượng, đầy nhiệt huyết
tự nhiên xuất hiện khi chúng ta không còn bảo vệ một
khái niệm thường có về sự việc chúng ta là ai. Khi chúng ta cố gắng
đưa ra một hình ảnh nào đó, hoặc do một ai đó đặc biệt,
hoặc hoàn hảo và chưa bao giờ có một lỗi lầm, đều có
một sự khắt khe trong lòng. Khi chúng ta để cho lòng mình
thoải mái, không làm ra vẻ là "một ai đó đặc biệt",
chúng ta có thể thật sự là ta, với tính trung thực, với
quan điểm bao dung, và với lòng bi mẫn. Những phẩm chất
này là những điều kiện của sự giải thoát, bất cứ điều
gì đang xảy ra. Và khi chúng ta thật sự thảnh thơi, bao
dung, chúng ta có thể giống như Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, có
thể cười lớn vui vẻ khi chúng ta mắc sai lầm. NĂM TRIỀN
CÁI Vào buổi sáng nọ có
một phụ nữ rời khỏi căn hộ của mình để đi làm việc.
Bà ta đi xuống đường, rút chìa khóa và mở khóa chiếc xe
hơi của mình. Ngay khi bà ta tra chiếc chìa khóa vào ổ khóa
của xe, bà ta nhận thấy rằng chiếc xe dường như thấp gần
mặt đất hơn thường lệ. Khi bà ta nhìn xuống và hết sức
sửng sốt, trông thấy bốn bánh xe đã bị đánh cắp! Phản
ứng tức khắc của bà ta là rảo nhanh đến trung tâm thương
mại gần nhất và mua cho mình một bộ đồ ngủ bằng lụa
như là một cách để trấn an mình. Chỉ như vậy sau đó
bà ta có thể quay về nhà và gọi cảnh sát. Bạn của tôi, Sylvia
Boorstein, cũng là một thiền sư, dùng câu chuyện này như một
cách để mô tả (ngũ triền cái) năm trở ngại. Trong giáo
pháp của Ðức Phật, năm triền cái là tham dục, sân, hôn
trầm, trạo cử và hoài nghi. Chúng đặc biệt dùng để mô
tả những trạng thái tâm làm cho chúng ta mất tập trung khi
tu tập thiền, nhưng chúng là những trạng thái tâm thần
làm chúng ta mất chánh niệm về những gì đang xảy ở bất
cứ khoảnh khắc nào. Khi bị cuốn hút vào những trạng
thái tâm thần nầy, cảm xúc của chúng ta về những gì có
thể xảy ra đều bị giới hạn. Tâm của chúng ta không thể
hoạt động một cách thoải mái và bao dung. Hơn thế nữa,
mỗi người trong chúng ta có khuynh hướng phản ứng lại với
những hoàn cảnh trong đó có một người nổi bật hoặc hình
thức khác của những tính cách này. Trong câu chuyện về những
chiếc vỏ xe bị đánh cắp, phản ứng của một người đối
với tình huống là một thí dụ hoàn hảo về trạng thái
tâm của một ai đó bị cuốn vào sự trở ngại của tâm
tham. Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng một người nào đó
có một khuynh hướng mạnh mẽ về giận hờn (sân) hơn là
tham. Người này đi xuống lầu, bắt đầu tra chìa khóa vào
cửa xe, và sự việc giống như trên xảy ra - bà ta phát hiện
thấy vỏ xe mình bị đánh cắp. Bà nổi giận và đá vào
chiếc xe, bà ta đá vào chiếc xe rồi quay trở lại chung cư
và la lối với người bảo vệ. "Tại sao ông không quan
tâm cẩn thận hơn?" Khi bà ta đến sở làm, bà ta giận
dữ và nổi cáu với bất cứ ai ở đó. Rốt cuộc, sự việc
dường như có lý với bà ta là sự khó chịu có thể chia xẻ
cho mọi người. Tiếp đến là một người
có thói quen uể oải lười biếng (hôn trầm). Bà ta đi đến
chiếc xe của mình và phát hiện các bánh xe bị mất cắp.
Sau đó bà quay trở lại căn hộ, không đi đến sở làm nữa,
và nói "Tôi không thể xử lý được, tôi quá mệt mỏi
chán chường. Ngày mai tôi sẽ đi làm việc". Bà ta nằm
nghỉ một vài giờ, và chỉ như vậy bà ta mới có năng lực
để đối phó với tình huống. Rồi có một người có
thói quen không giữ được bình tĩnh, bất an. Bởi vì bất
an thường biểu hiện bằng sự việc dễ bực bội và cáu
gắt, một khía cạnh của trở ngại này là trạng thái lo
âu. Mẫu người này khi phát hiện ra những bánh xe của
mình bị mất, và bắt đầu lo âu, cáu gắt. Bà ta lại nghĩ
thầm "Hôm nay là mấy cặp vỏ xe; ngày mai là chiếc xe,
rồi sau đó đến mình". Cuối cùng là trở ngại
hoài nghi, sự kiện này biện hộ trong bản thân chúng ta là
"bị si mê" khi chúng ta bị cuốn vào sự hoài nghi,
chúng ta không biết phải làm gì tiếp theo đó. Năng lực và
sự tỉnh giác của chúng ta bị sụp đổ. Mọi thứ đều
như để tan vỡ, và không kiểm soát được tâm vì nó nhảy
từ việc này sang việc khác. Trong tình huống những vỏ xe
bị đánh cắp đặc biệt này, trạng thái tâm có thể là tự
thán và tự nghi ngờ. Người phụ nữ trông thấy mấy cặp
vỏ xe bị đánh cắp nhưng chỉ đứng đó và nói thầm
"Tại sao tôi luôn luôn tạo ra những sự chọn lựa tồi
tệ như thế? Tại sao tôi lại đậu xe ở đây? Tại sao
tôi lại sống ở trong khu phố tồi tệ như vầy? Ðây là tất
cả lỗi lầm của tôi". Không biết làm gì hơn ngoại
trừ oán thán bản thân, bà ta cảm thấy bối rối và hồ
nghi, và không thể đưa ra một hành động hữu dụng để cải
thiện tình huống. Chúng ta gọi câu chuyện
này là "Chuyện về Tham, Sân, Si, Hôn trầm", hoặc,
bởi vì đôi lúc chúng ta cảm thấy rằng mình đang chiến
đấu với 5 trở ngại (ngũ triền cái) cùng một lúc, nó cũng
được gọi là "Câu chuyện về Tham, Sân, Si, Hôn Trầm
và Trạo cử". Tuy thế, bất kể nhiều trở ngại phát
sinh trong tâm, hoặc bất kể chúng có thể sâu sắc như thế
nào, chúng ta không cần phán xét chúng hoặc bản thân chúng
ta đối với sự tồn tại của chúng. Trí tuệ, được đạt
do nhờ chánh niệm, cho chúng ta thấy rằng chúng hoàn toàn
là những trạng thái tâm đi qua. Chúng ta nhận thức chúng
rõ ràng cùng với một ý tưởng thông thoáng. Như vậy chúng
ta không còn bị bó buộc để hành động bằng một tính
cách đặc biệt, được kiểm soát bằng trạng thái tâm đó. Như vậy vào một buổi
sáng, khi chúng đi đến xe hơi của mình và phát hiện ra những
vỏ xe bị đánh cắp. Chúng ta cảm thấy một sự thôi thúc
để đi mua bộ áo ngủ bằng lụa, hoặc đổ lỗi cho mọi
người; chúng ta đối mặt với những phiền muộn rắc rối
của mình, hoặc đi nghỉ, hoặc có những nỗi lo âu của
chúng ta nảy sinh ra nỗi lo lắng sâu sắc, hoặc suy sụp trở
thành hoài nghi và hoang mang. Mặc dù một hoặc một số những
khuynh hướng này buộc phải phát sinh, nếu chúng ta có
chánh niệm về chúng thay vì bị chúng lôi kéo, chúng ta sẽ
có một sự mở rộng của tâm. Bằng sự mở rộng này,
chúng ta có sự tự do để quyết định phản ứng của mình
đối với bất cứ tình huống nào. Ở GIỮA CON ÐƯỜNG
TRUNG ÐẠO Giáo pháp của Ðức Thế
Tôn được mọi người biết đến là Con Ðường Trung Ðạo,
bởi vì nó tránh những điều thái quá của sự thỏa thích
trong những cảm giác, mặt khác là khổ hạnh quá mức và tự
hành xác. Cuộc đời của Ðức Phật trước lúc thành đạo,
theo như được truyền lại, bao gồm hai cực đoan này. Khi
Ngài còn là thái tử Siddhattha, đức Phật sống trong hào
nhoáng thỏa thích dục lạc. Chuyện kể rằng cha mẹ của
Ngài hết sức quan tâm đến nỗi Ngài không biết đến bất
cứ sự bất hạnh nào, họ dùng những thợ làm vườn làm
việc suốt đêm thâu để hái những bông hoa tàn, héo úa,
để cho thái tử không bị lụy phiền vì hình ảnh héo úa
của bông hoa. Cuối cùng, khi Thái tử
Siddhattha chứng kiến được khổ đau thật sự vẫn tồn tại
trong thế gian, Ngài bị thôi thúc buộc phải đi tìm chân
lý. Ðầu tiên Ngài đi theo con đường tự hành xác kéo dài
trong sáu năm. Ngài sống một cuộc đời xuất gia và cực kỳ
khổ hạnh. Vào thời đó ở Ấn Ðộ, người ta tin rằng bằng
cách hành hạ thân xác, người ta có thể giải thoát tinh thần,
có thể giúp nó bay vút lên vượt qua những kiềm tỏa của
thế giới trần tục. Tuy thế, sau nhiều năm tu ép xác khổ
hạnh, Ðức Phật nhận ra sự thỏa thích dục lạc quá độ
cũng như sự thiếu thốn quá mức cũng không dẫn đến mục
đích giải thoát thật sự. Thế giới dục lạc thỏa
thích quá mức là đầy hoan lạc nhưng trống rỗng, và nó
bao bọc xung quanh ta bằng một đám sương mù làm cho chúng
ta không tìm được bất cứ điều gì sâu sắc hơn. Trong
khi ấy, chúng ta đang say sưa với những cảm giác, nỗi thống
khổ của kẻ khác đe dọa tính tự mãn thích thú kèm theo
cuộc sống phóng túng buông thả của chúng ta. Như vậy chúng
ta có khuynh hướng không quan tâm đến nỗi khổ của những
người khác, cùng với nỗ lực che dấu nỗi đau khổ trong
lòng mình. Và như vậy chúng ta chấm dứt cách sống cách biệt
với cuộc sống trọn vẹn. Tương tự, con đường
tự hành xác và khổ hạnh chỉ củng cố những cảm giác tự
phản và tự căm thù, làm cho chúng ta xa cách với tình thương,
đó là ở phần quan trọng nhất của sự biến chuyển tâm
linh. Ngày nay chúng ta không thể bị lôi cuốn trở thành những
đạo sĩ khổ hạnh và tu ép xác, nhưng chúng ta vẫn lạm dụng
và khinh bỉ thân xác với những hy vọng tìm được hạnh
phúc, như đã được nhìn thấy ở bệnh dịch căng thẳng
tinh thần (ăn uống mất ngon) trong xã hội của chúng ta.
Thêm nữa, có lẽ được che giấu nhiều hơn, hình thức tự
hành xác là tạo nên những mối quan hệ giày vò ngay chính
tâm của bản thân chúng ta, như thể là một sức mạnh lăng
mạ của sự tự kiểm điểm bản thân và tự căm thù bằng
một cách nào đó để giải thoát chúng ta. Ði theo con đường
Trung Ðạo giữa hai cực đoan này không có nghĩa theo một chút
buông thả và một chút ép xác và pha trộn lẫn nhau. Sự việc
không như thể là ta nhủ thầm, "Chà, tôi đã trải qua
mấy ngày buông thả, có thể đây là lúc để ép xác. Nếu
sống một vài ngày tương đương nhau ở hai khuynh hướng,
chúng sẽ mang lại sự quân bình". Con đường Trung Ðạo
không phải là việc tầm thường, tìm ra được mẫu số
chung thấp nhất của hai cực đoạn về sự buông thả và tự
hành xác và hoàn toàn thụ động. Ðúng hơn, đó là việc
nhận thức được sự căng thẳng tinh thần và sự đau khổ
của mỗi cực đoạn và đi đến một nơi khác lạ hoàn
toàn, ở đó người ta không rơi vào một trong hai phạm vi
này. Chúng ta không bị cuốn theo hai cực đoan này. Con Ðường Trung Ðạo
là sự quân bình của tính chính trực đạo đức, tập
trung tư tưởng và tuệ giác trong sáng. Chúng ta tìm ra được
Con Ðường Trung Ðạo, nơi quân bình, từ một cách nhìn lại
bản thân chúng ta trọn vẹn, về những gì chúng ta có khả
năng biết được hạnh phúc tìm ra ở nơi nào. Và chúng ta
theo đuổi nó vì lòng yêu thương cho bản thân và những người
khác, bắt nguồn từ sự nhận thức đầy lòng biết ơn và
phấn khởi về tiềm năng của chúng ta là giải thoát và
vì lợi ích cho thế gian. Hiểu biết được chân lý hạnh
phúc tìm ra nơi đâu, chúng ta cống hiến hết mình cho điều
chúng ta cần đến và chúng ta cảnh giác về những gì
chúng ta không cần. Ði theo Con Ðường
Trung Ðạo là một tiến trình khám phá liên tục từng khoảnh
khắc. Chúng ta không thể dựa vào con Ðường Trung Ðạo của
Ðức Phật đi qua 2500 năm trước, hoặc thậm chí ngay chính
bản thân mình khám phá ra nó ngày hôm qua. Bao dung , tế nhị
và sống động, chúng ta phải nhận ra nó liên tục từng mỗi
khoảnh khắc. Nhờ sự tỉnh giác và sự thương xót cho bản
thân và người khác, chúng ta khám phá cái vị trí trong
thân chúng ta đó là sự biểu hiện của cái tâm được giải
thoát. Như thế, Trung Ðạo vừa là con đường vừa là sự
biểu hiện tự do và giải thoát. Bởi vì có vô số lần
và những tính cách chúng ta phải đối phó với nó hàng
ngày, con đường Trung Ðạo được xem như là một đường
vô cực nó là một hình dáng bất thường mô phỏng bằng
những dáng tương tự trên một phạm vi những kích cỡ to lớn.
Ví dụ như, theo tự nhiên, thông thường một phần nhỏ của
một vật gì xuất hiện trong một tỷ lệ thu gọn giống như
một mô hình nhỏ trọn vẹn. Những bờ biển bị lởm chởm
khi người ta nhìn cách một khoảng thật xa từ vệ tinh, từ
một chiếc phi cơ, hoặc đứng từ một vách đá dốc ngay
trên chúng. Toàn bộ một chiếc lá dương xỉ trông giống
như một kiểu phóng đại của những phần nhỏ hơn của nó.
Những dãy núi cũng có những hình dáng gồ ghề, bất thường
như thế khi chúng ta nhìn chúng từ một khoảng cách thật
xa hoặc nhìn chúng cận cảnh ở những mẫu đá granit. Ngay
cả hệ thống thái dương hệ bao la cũng giống như một
nguyên tử được phóng đại khổng lồ. Mỗi và từng khoảnh
khắc tìm được sự quân bình giữa hai cực đoan tự hành
xác và buông thả là một khuôn mẫu hoàn hảo của Con Ðường
Trung Ðạo tuyệt vời dẫn đến giải thoát mỗi khoảnh khắc
quân bình là một khớp nối của toàn bộ con đường bằng
sự trọn vẹn của nó. Giải thoát không chỉ là mục đích
nhận ra trong tiến trình mở rộng liên tục. Trên Con Ðường
Trung Ðạo, chúng ta tìm thấy sự giải thoát không chỉ ở
lúc kết thúc chuyến hành trình, mà ở chính giữa, và ở
chính giữa của con đường, hơn thế nữa, ở chính giữa của
chính giữa của con đường. Mỗi bước chân trên con đường
đi đến giải thoát là mỗi bước chân giải thoát. NhỮNG LỜI CẦU
NGUYỆN Ở BỨC TƯỜNG PHÍA TÂY Bức Tường Phía Tây
ở Jerusalem, từng được mọi người biết đến là Bức Tường
Than Khóc, nó được xem là một trong những địa điểm thiêng
liêng nhất của thế giới Do Thái giáo. Nó là một Bức Tường
còn lại của một ngôi đền lịch sử được xây dựng
vào thế kỷ thứ 2 trước CN. Có một phong tục thiêng
liêng liên quan đến việc viết một lời cầu nguyện trên
một mảnh giấy và đặt mảnh giấy trong một khe ở một
nơi nào đó trong Bức Tường. Khi tôi ở Jerusalem, tôi đã
đến đó đặt những lời cầu nguyện trong Bức Tường cùng
với những lời cầu nguyện của những người khác. Tôi theo phong tục này
trong tinh thần lời cầu nguyện đầy ý nghĩa nhất đối với
tôi, đó là không phải viết cho một đấng tối cao hoặc dùng
để van xin, nhưng chính xác hơn là trong tinh thần của tâm
từ, sự tu tập tâm từ (Metta) tâm từ có nghĩa là tấm
lòng hướng về hạnh phúc và an lạc đến tất cả chúng
sinh và hướng thẳng sức mạnh của ý định của chúng ta
trong sự nhận thức mục đích đó. Như vậy, trên mảnh giấy
của tôi, tôi đã viết ra những lời cầu nguyện của tôi
cho những người bạn bị bệnh tật, và những người bạn
có bố mẹ qua đời v.v..., rồi đặt nó vào trong những lời
cầu nguyện của người khác vào một trong những khe hở của
Bức Tường. Ngày hôm sau, tôi trở
lại Bức Tường đó, tôi nhận thấy mảnh giấy của tôi vẫn
còn ở đó, dường như đáng ngạc nhiên, xét cho cùng có đến
hàng trăm người đặt những lời cầu nguyện của họ vào
trong Bức Tường mỗi ngày. Với một lý do nào đó, đối với
tôi nó là một điềm lành vì mảnh giấy của tôi không rơi
ra ngoài hoặc bị rớt xuống đất. Ngày hôm sau tôi trở lại
Bức Tường để kiểm tra. Lần này tôi không còn chắc rằng
tôi có thể tìm thấy mảnh giấy màu vàng nhỏ bé của tôi
với những lời mong ước cho hạnh phúc và tốt đẹp đến
với những bè bạn của tôi, và tôi để lại cái cảm
giác hơi chút thất vọng. Khi tôi trở lại vào
ngày thứ tư, tôi lại càng khó chịu hơn, bởi vì bây giờ
tôi không thể phân biệt mảnh giấy đặc biệt của tôi với
tất cả những mảnh khác. Nó vẫn còn đó hay đã rơi mất? Vào ngày thứ năm, khi
tôi trở lại, trong lòng vẫn còn bận tâm về mảnh giấy của
mình, tôi biết nó không còn hy vọng. Bức Tường đã phủ
đầy hàng ngàn mảnh giấy khác, tất cả đều mang những lời
cầu nguyện, tôi sẽ chẳng bao giờ biết được điều gì
đã xảy đến với tôi. Bất ngờ sau đó, tôi
nhận ra sự cố chấp với mảnh giấy mang lời cầu nguyện
đặc biệt của tôi thật vô lý biết bao. Ðột nhiên, sự
việc không thành vấn đề là tôi có thể phân biệt những
lời cầu nguyện của mình với tất cả những lời cầu
nguyện khác. Mỗi lời cầu nguyện theo tính cách nào đó
vang vọng lại với từng lời nguyện khác. Mỗi người chúng
ta đã đi đến Bức Tường thể hiện cách diễn đạt của
chúng ta với sự thôi thúc cơ bản quen thuộc là hướng về
hạnh phúc, an lạc, cho bản thân mình và những người chúng
ta yêu mến. Không đặt thành vấn đề những gì đặc biệt,
thực tế tất cả những gì đặc biệt, thực tế tất cả
chúng ta đều cầu nguyện chung một điều. Không còn đặt
vấn đề nữa là tôi đang xem mảnh giấy của mình hoặc bất
cứ mảnh giấy nào của người khác. Những ước mong của
tôi phản ánh trong những lời cầu nguyện của họ và ngược
lại. Bất kể chúng ta cầu
nguyện thế nào hoặc bằng ngôn ngữ gì, bất kể tôn giáo
nào chúng ta đang tu tập, bất kể xứ sở nào chúng ta đến,
cơ bản là tất cả chúng ta đều mong muốn cùng một điều:
được hạnh phúc, an lành và giải thoát. Vào ngày đó, đứng
trước Bức Tường Phía Tây, tiếng than khóc chung của toàn
thể chúng sinh mong muốn là hạnh phúc, luôn cả bản thân
tôi, vang lên cùng một tiếng nói. MỘT CÁI GÌ ÐÓ HOẶC
KHÔNG "Tại sao có một
điều gì khi không thể có điều gì?". Có một lần bạn
của tôi nói rằng đây là câu hỏi chính đáng sau những
tác phẩm triết học của Ludwig Wittgenstein. Sau khi đó, khi
tôi đang thảo luận tư tưởng này với một người bạn khác,
chị ta nói "À, là các tu sĩ Phật giáo, chúng ta cũng có
thể hỏi, ‘Tại sao không có gì khi có thể có một cái
gì?’" Thực sự theo tôi nghĩ, tại sao không có điều
gì tồn tại, không điều gì là có thực, trong khi dường
như nó giống có thể có một điều gì đó? Toàn bộ
thế giới này có thể phát sinh bằng cách nào, tuy thế
không có một điều gì để bám víu được? Làm cách nào
toàn thể vũ trụ có thể xuất hiện, rồi chỉ để tàn lụi
theo thời gian? Phần nhiều nỗi khổ
riêng tư của chúng ta được tạo nên do bởi rơi vào một
trong hai quan điểm quá khích về đời sống thực tại - là
mọi thứ là một cái gì đó hoặc không là gì cả. Theo một
quan điểm chúng ta cảm thấy rằng có một điều gì an
toàn hoặc có thực là được nhận ra ở một nơi nào trên
thế gian. Chắc hẳn phải có một điều gì tồn tại mà
chúng ta có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm hoặc biết.
Sau đó mọi vật tạo ra nhiều thực thể, bởi vì chúng ta
có niềm hy vọng liên tục là có một nơi nào đó có sự
an toàn tuyệt hảo và hạnh phúc vững bền, và chúng ta tiếp
tục tìm kiếm nó, rồi chỉ là thất vọng. Khi chúng ta bị
dính mắc hoặc bị cuốn dính vào quan điểm này, chúng ta
bám víu và chấp vào một thế gian thay đổi và vẻ bên
ngoài, rồi chúng ta đau khổ. Một quan điểm quá
khích khác toàn bộ chẳng có gì để trở thành vấn đề.
Mọi vật là một hình thức rỗng không, và chúng ta sống
trong vô thức, trong sự nổi loạn vô vọng. Quan điểm đoạn
diệt này dẫn đến tình trạng tê liệt. Nhân sinh quan này
nói rằng, "Bởi vì mọi vật trống rỗng và không có
thực thể, dù gì đi nữa chẳng có điều nào tạo nên sự
khác biệt? Tại sao phải thực hiện bất cứ điều gì?
Chúng ta rơi vào sự lãnh đạm, cô lập và đau khổ. Con Ðường Trung Ðạo
của Ðức Thế Tôn tránh xa cả hai quan điểm quá khích
này.Vạn vật không phải thường còn, cũng không trống rỗng
sự biểu hiện duy nhất của thực thể. Cuộc sống của
chúng ta dựa vào cái nơi rất mong manh đó, ở đấy mọi
điều kiện phát sinh, và tuy thế nó không có thực thể,
không có thực. Thực thể là mơ hồ, lờ mờ, và sinh động;
và tuy vậy nó không có thực thể, mong manh và chúng suy
tàn. Bởi vì nó diễn tả nên lời sự nghịch lý này, đức
Phật thường dùng những hình ảnh để mô tả bản chất của
sự hiện hữu. Ngài dạy rằng chúng ta cảm nhận cuộc sống
giống như cái cầu vồng, tiếng vang dội, giấc mơ, giống
như giọt sương trên cọng cỏ, như tia chớp trong bầu trời
mùa hè. Nhờ có tuệ giác,
chúng ta thấy được có và không của sự hiện hữu. Chúng
ta thấy rằng bất cứ điều gì có thể biết được với
thân hoặc tâm này, biết được nhờ bởi những cảm giác
của chúng ta, là thoáng qua và không có thực, giống như chiếc
cầu vồng. Chúng ta cũng thấy rằng cảm nhận của chúng ta
sinh rồi diệt phù hợp với định luật thiên nhiên, chẳng
hạn như luật của nghiệp. Chúng ta thấy rằng mình không sống
trong một vũ trụ ngẫu nhiên, vô thức, không thứ tự. Có
điều kiện trong thế gian, tương trợ lẫn nhau, và có mối
quan hệ. Khi chúng ta cảm nhận
sự mong manh, sự yếu ớt, không vững bền của cuộc sống,
chúng ta có khả năng phát triển trí tuệ. Khi chúng ta cảm
nhận mối quan hệ trong cuộc sống, mối tương trợ lẫn
nhau, chúng ta phát triển tình thương. Không ai sống tách rời
khỏi người khác. Ðúng hơn là họ giống như hai cánh của
con chim. Như nhà thơ Issa viết: Thế giới của
sương "và thế nhưng"
điều mà chúng ta mang nặng trong trái tim mình và ở đây
điều nghịch lý bề ngoài toàn bộ lại xảy ra như thế. -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ kheo
Thiện Minh đã gửi tặng phiên bản vi tính (Bình Anson, 01-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PL 2545 - TL 2002
Chỉ là thế giới của sương –
và thế nhưng
updated: 01-02-2002