BuddhaSasana Home Page Thiền
Tâm Từ Tỳ
kheo THIỆN MINH dịch PHẦN HAI PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN
HÓA Qua việc tu tập thiền
chúng ta học hỏi để thông hiểu sự im lặng, và ở đó
những thành quả của sự tu tập phơi bày ra; trí tuệ, là
sự nhận thức sâu sắc vào bản chất thật của cuộc sống,
và lòng bi mẫn là sự rung động của trái tim đáp lại sự
đau khổ. Trí tuệ cho thấy tất cả mọi người chúng ta
là bộ phận của một khối, và lòng bi mẫn nói cho chúng
ta rằng chúng ta thật sự không bao giờ đứng riêng rẽ một
mình. Qua ô kính lăng trụ này chúng ta nhìn thấy cuộc đời
cởi mở, biết được tính nhất thể của chúng ta. Chúng
ta có lòng bi mẫn và trí tuệ đi đến với cuộc sống,
chuyển đổi chúng ta hiểu được bản thân ra sao và làm thế
nào chúng ta hiểu được nhân loại. GIỐNG NHƯ SỰ HIỆN DIỆN
CỦA BẦU TRỜI Một ngày nọ tôi hỏi
một người quen của mình, "Cuộc đời của bạn thay đổi
như thế nào kể từ khi bạn bắt tay vào việc tu tập thiền?"
Không chút do dự, anh ta nói rằng trước khi khởi sự tu tập,
bất cứ điều gì xảy ra trong tâm anh ta được cảm thấy
như thể là đang diễn ra ở trong một nhà hát nhỏ tối tăm
đóng kín và mọi thứ diễn ra trên sân khấu dường như hết
sức thu hút và hiền lạc vững chắc. Anh ta tiếp tục nói
sự việc bây giờ, kể từ khi anh ta bắt đầu tu tập thiền,
anh ta nhận biết điều gì đang xảy ra trong tâm mình giống
như việc xem một vở nhạc kịch ở một nhà hát lộ
thiên. Thật buồn cười anh
ta thường dùng biểu tượng của một nhà hát lộ thiên
này. Không bao lâu trước cuộc đối thoại đó, một vài người
bạn đã đưa tôi đến xem vở nhạc đầu tiên của tôi -
ở một nhà hát lộ thiên ở Santafe, New Mexico. Những chỗ
ngồi của chúng tôi thật thoáng, do đó chúng tôi có thể
nhìn thấy sân khấu lẫn bầu trời xung quanh . Ở New Mexico
bầu trời thật bao la. Theo đó những nhân vật đang chiến
đấu với những phức tạp to lớn trong của cuộc sống của
họ nổi bật trên màn sân khấu của bầu trời mở rộng
thoáng đãng là một sự xếp đặt kề nhau tuyệt vời: dù
sự kiện đầy kịch tính như thế nào, dù gây ấn tượng
ra sao, dù thất vọng hay xuất thần đang xảy ra như thế nào
trên sân khấu, toàn bộ đều ở trong khung cảnh của bầu
trời rộng lớn bao la đó. Qua việc tu tập thiền
định chúng tôi bắt đầu nhân rộng ra viễn cảnh sự việc
của chính bản thân. Chúng tôi khám phá đặc tính của
không gian mà được biết là không có biên giới, một đặc
tính của tâm là có thể chấp nhận bất cứ điều gì. Việc
tu tập thiền là về việc nuôi dưỡng cách nhìn sâu sắc rộng
lớn này. Ðôi khi chúng ta nghĩ rằng những gì ở phía trước
chúng ta là thật vững chắc và hết sức thật, nhưng tuy vậy
thực tế nó chỉ là một cách diễn tả thuộc về nhạc kịch.
Nếu chúng ta bước lui và trông thấy những sự vật trong một
viễn cảnh lớn lao hơn, cảm nhận của chúng ta thay đổi
hoàn toàn. Nhưng khi chúng ta không thể nhìn thấy viễn cảnh
này to lớn hơn, năng lực và sự nhận biết có khuynh hướng
suy sụp tinh thần xung quanh những sự kiện nào đó. Chúng
ta có thói quen gây ra sự bó buộc cho bản thân với những
cảm nhận giới hạn, như William Black diễn tả về nó
"những xiềng xích của cái tâm bị gò bó". Tuy thế chúng ta có thể
huấn luyện tâm trở lại để tỉnh giác, chánh niệm và
tâm thanh thản ở những gì thực sự đang xảy ra, để từ
bỏ sự bám víu, khó chịu, ảo tưởng và tràn đầy tình
thương. Tâm đã được huấn luyện trước đó: để bám
víu, xua đuổi xa cách, suy sụp hoang mang, không nhìn thấy những
sự lựa chọn. Chúng ta đã huân tập lòng ganh tỵ, lo âu,
nghi ngờ, lo sợ và phán xét bản thân. Tâm của chúng ta đã
bị lôi cuốn vào vở nhạc kịch và bỏ quên đi bầu trời
ở bên trên và xung quanh. Sự tu tập tâm qua thiền
định không có nghĩa chế ngự nó hoặc đưa nó vào khuôn
khổ; nó mang ý nghĩa kiên nhẫn hướng tâm đến sự tỉnh
giác, từ bi, bác ái, từ bỏ và hướng tới một tinh thần
bao dung. Dù bất cứ điều gì đang xảy ra, chúng ta vẫn
liên tục hướng dẫn tâm qua sự tu tập thiền để thư giãn
và cảm nhận sự bao la rộng lớn đó là điều cố hữu
đi đến tỉnh giác và từ bi. Mười ngàn niềm vui và mười
ngàn nỗi sầu có thể phát sinh - nhưng khoảng không bao la rộng
lớn đó, như là sự hiện diện của bầu trời, là có thể
biến đổi cuộc sống của chúng ta. KHÔNG BAO GIỜ CÔ ÐỘC Tâm bi là một trong những
phương pháp tu tập thiền chính của Phật giáo cổ truyền.
Nó là một phương pháp đòi hỏi dâng hiến một cảm giác
chăm sóc trìu mến cho bản thân và rồi mở rộng sự dâng
hiến này đến những người yêu thương, bạn bè, người
quen, những người khó khăn, và cuối cùng đến với tất cả
chúng sinh khắp mọi nơi. Một lần nọ, khi tôi
đang dạy một khóa thiền tâm từ, một trong những người
học trò bảo với tôi là phương pháp tu tập này đã tác
động vào cuộc sống của bà. Bà ta nói rằng toàn bộ năm
tháng qua trong cuộc đời của bà đầy những mất mát và
thất vọng. Ðiều đó chắc hẳn đối với bà ta không dễ
dàng nguôi ngoai - ngoại trừ một điều: việc bà ta nhận
ra được rằng một nơi nào trong thế gian một ai đó đang
dâng hiến lòng từ bi đến cho tất cả chúng sinh khắp mọi
nơi. Bằng sự xác định, nó bao gồm luôn cả trường hợp
của bà ta. Một nơi nào đó một ai đó chưa từng gặp gỡ
bà, không biết đến hoàn cảnh của bà, không có một mối
quan hệ riêng tư với bà thực sự đang gởi đến cho bà những
ý tưởng từ bi bác ái. Một số người nào đó đang mở rộng
trái tim của họ và cầu chúc cho bà được hạnh phúc, an
vui, và thanh thản. Ðiều này đang xảy ra đơn thuần do bởi
sự kiện là bà ta đang sống, bà ta là một chúng sinh, điều
đó đủ cho bà là người xứng đáng nhận lãnh sức mạnh
của tình thương. Bà ta nói, sự thừa nhận này là một sức
mạnh phi thường đã mang lại sức mạnh cho bà tiến bước,
giữ cho trái tim bà khỏi tan vỡ trong những lúc khó khăn. Thật tuyệt vời biết
bao để biết rằng luôn luôn có một ai đó đang hiến dâng
từng khoảnh khắc trong cuộc sống này để mang lại tình
thương và lòng bi mẫn cho bạn và tất cả chúng sinh. Hoàn
toàn không biết bất cứ điều gì về bạn, không biết bạn
là ai, không phải vì bạn là người đặc biệt tử tế, không
phải vì sự trao đổi cho bất cứ đặc ân hoặc vì bổn
phận, nhưng đơn thuần vì bạn đang hiện hữu - ngay lúc
này một ai đó đang cầu mong bạn tốt lành, cầu chúc bạn
được hạnh phúc. Nếu, giống như người phụ nữ ở khóa
thiền, chúng ta có thể chấp nhận điều này, rồi chúng ta
nhận ra rằng mình không bị cô lập trong nỗi đớn đau của
chúng ta. Dù chúng ta ở trong những hoàn cảnh đặc biệt nào,
chúng ta chẳng bao giờ cô độc. Mỗi người chúng ta đang
nhận sức mạnh của lòng từ thiện này. Chúng ta cũng có
thể nhận ra rằng khi chúng ta tu tập tâm từ, khi chúng ta
dâng hiến tình thương và lòng bi mẫn là chúng ta đang trao
tặng một món quà chân thật và đầy sức mạnh. Một ai đó
đang ở một nơi xa xôi nào đó đang nhận tình thương yêu
và cảm thấy hạnh phúc. NHẬN THỨC NỖI ÐAU ÐỚN Cái cảm nhận nổi bật
nhất của tôi khi tôi bắt đầu tu tập thiền là sự đau
đớn thân xác. Không chỉ là việc tôi chưa bao giờ hành
thiền trước đây mà tôi chưa bao giờ có thể ngồi kiết
già (ngồi bắt tréo chân). Thật bất ngờ, khi tôi ở Ấn
Ðộ tôi đã được yêu cầu ngồi trên sàn nhà theo tư thế
thiền cổ điển. Không có ghế ngồi, và sự kiện này xảy
đến trước khi xuất hiện chiếc băng dài để đỡ tư thế
quỳ gối. Thậm chí chúng tôi không có những chiếc đệm
đặc biệt dành cho ngồi hành thiền, chẳng hạn như là
"Zafus - Tọa cụ". Tôi đã ngồi hành thiền trên
cái túi ngủ được cuộn lại hoặc trên đống quần áo dư
thừa. Dù thế nào đi nữa tôi
luôn luôn bị căng cứng ở cơ thể và khi lần đầu tôi ngồi
xuống, chỉ ở trong tư thế giống kiểu ngồi kiết già, đầu
gối của tôi gần hai vai hơn là gần mặt đất. Tôi đã trải
qua nhiều mức độ đau đớn, không chỉ ở tư thế không
quen thuộc, mà còn bị ăn sâu ở sự căng thẳng về tinh thần
lẫn thể xác. Ðó là một sự phát hiện đầy năng lực để
nhìn thấy những ý tưởng và những sự phán xét phát sinh
trong tâm với việc đáp lại cơn đau mà tôi đối mặt. Chúng
là một phản ánh hoàn hảo về khuynh hướng quen thuộc của
tôi là tránh quan sát sự đau đớn hoặc bất cứ sự cảm
nhận khó chịu nào. Bất cứ khi nào có sự
đau đớn phát sinh trong lúc ngồi tham thiền - mà hầu như
liên tục - tôi lập tức đổi tư thế ngồi của mình.
Ngoài giờ tôi bắt đầu nhận xét lại tư thế mà tôi đã
không có cảm xúc bởi vì sự đau đớn quá mức hoặc vi tế.
Tôi đã cảm nhận với đau đớn khó chịu không gắt lắm
lúc ban đầu, để đáp lại với một vài ý tưởng nào
phát sinh trong tâm tôi. "Ồ, không, sự đau đớn sẽ giống
như thế này suốt phần còn lại trong ngày". Hoặc tôi
sẽ đau đớn như thế này mỗi lúc khi tôi ngồi xuống tham
thiền suốt trong toàn bộ cuộc đời còn lại của mình.
"Hoặc tôi sẽ không bao giờ bị đau đớn vào lúc kết
thúc thời gian ngồi tham thiền". Tôi giả thiết là những
gì tôi đang cảm nhận vào khoảnh khắc đó chỉ sẽ trở
nên tồi tệ hơn. Bằng cách từ bỏ ý tưởng đã khống chế
tôi, cơ bản là tôi bổ sung thêm vào nhiều phút, hoặc nhiều
ngày hoặc một khoảng thời gian của sự đau đớn đã được
tính trước cho cơn đau cho đến khoảnh khắc cơn đau hiện
diện. Cố gắng đối mặt với nó ngay lập tức, tôi cảm
thấy hoàn toàn bị bất lực và bị áp đảo. Thực tế, lẽ
ra tôi đã có thể chịu đựng thật tốt những gì đang xảy
ra ở bất cứ khoảnh khắc nào đã được ấn định,
nhưng những nỗi lo sợ của tôi về tương lai đã làm cho
tôi không thể chịu đựng được sự đau đớn. Ngoài vấn đề này, cộng
thêm vào những sự so sánh giữa sự cảm nhận của tôi và
những gì tôi đã tưởng tượng ra là tất cả mọi người
khác ở trong thiền đường đều đang cảm nhận: "Không
có một ai đau đớn như tôi. Tôi tin rằng mọi người khác
đang có thời gian hành thiền tuyệt vời thú vị. Những ý
tưởng này không bao giờ kết hợp thành một sự tự tôn
quá tiêu cực: "Nếu bạn là một người có tinh thần
tiến bộ, sẽ có một luồng năng lượng trôi chảy khắp
châu thân, mà chẳng có điều gì trở ngại hoặc méo mó, bạn
sẽ không cảm thấy đau đớn chút nào. Bởi vì bạn quá cố
ý tạo nên quá nhiều điều trở ngại đến nỗi bạn bị
đau đớn. Ðối với những gì là một mức độ vừa phải
của sự khó chịu của cơ thể, tôi đang bổ sung thêm một
mức độ day dứt tinh thần to lớn hơn. Cuối cùng tôi đi đến
sự nhận thức rằng tôi đã có cùng một loại phản công
quen thuộc với bất cứ cảm nhận khó chịu nào, thân hoặc
tâm. Tôi đã muốn tách rời ra khỏi nó, và tôi phán xét bản
thân một cách tiêu cực vì đã có điều này ở nơi đầu
tiên". Những động lực này đang xảy ra trong tâm tôi,
không thể quan sát được, vào những thời gian khác, không
phải chỉ "khi tôi đang ngồi tham thiền. Ngay cả từ ngữ
"đau" giống như ánh đèn néon tỏa sáng trong tâm
tôi như là một điều gì sợ hãi, ghê tởm, khủng khiếp -
dứt khoát phải tránh xa với bất cứ giá nào. Trong toàn bộ của cuộc
sống của chúng ta đã được dạy bảo để tránh xa sự
đau đớn thể xác hoặc tâm lý, hoặc ngụy trang nó, như thế
nó là điều vô ơn bội bạc. Chúng ta thường tin rằng mình
sẽ có thể làm cho sự đau đớn biến mất. Hiếm khi chúng
ta thật sự ngồi xuống, với một tính cách không phán
xét, đầy cởi mở và thoải mái, xem xét chân thành nỗi
đau đớn trong cuộc sống của mình. Sự tu tập thiền là một
khí cụ mạnh mẽ cho việc thể hiện từ những phản ứng
quen thuộc cho đến những cảm nhận khó chịu, giúp cho
chúng ta thể nhập vào sự sâu kín nhất của chúng. Mở rộng
những cảm nhận đau đớn không có nghĩa là một cách chấp
nhận thụ động sự đau đớn. Ðúng hơn là chúng ta học
cách đi đến vấn đề cốt lõi của từng khoảnh khắc cảm
nhận, dù cho nó đau đớn, ở đó không bị che lấp bởi
điều kiện quen thuộc - chúng ta khám phá cuộc sống của
mình. Sự nỗ lực để xua đuổi những gì khó chịu, khuynh
hướng để hướng sự đau đớn "vào tương lai và rồi
cảm thấy bị kiệt sức bởi nó những sự diễn giải mà
chúng ta bổ xung thêm cho nó - tất cả đều khiến cho chúng
ta không có sự hiểu biết trực tiếp riêng tư thâm trầm với
những gì chúng ta đang thực sự cảm nhận. Như vậy, khi chúng
ta đang quan sát kỹ lưỡng một điều gì đó chẳng hạn như
sự đau đớn - chúng ta đi đến sự hiểu biết bản chất
thực của nó: giống như mọi điều khác, đau đớn là một
hiện tượng đổi thay mà không có thực chất cố hữu. Cuối cùng, tôi nhận
ra rằng đôi chân của tôi thoải mái, hai đầu gối của tôi
đụng sàn nhà, và tôi có thể ngồi tham thiền trong những
thời gian dài mà không cảm thấy đau đớn. Tuy vậy, trong
thực tế tôi đã thoát khỏi sự lo sợ khủng khiếp của sự
đau đớn rất lâu trước đó, khi tôi biết rõ ràng cái vẻ
cứng rắn bên ngoài của sự đau đớn. Thay vì quan sát nó
như là một thực thể bất di bất dịch điều khiển cơ thể
"của tôi". Tôi đã biết được sự đau đớn như
là một thế giới biến ảo đầy màu sắc của những cảm
giác liên tục biến đổi: bồn chồn, căng cứng, lưỡng lự,
co giật liên hồi và một ngàn đặc tính khác của cảm
xúc. Ðây là những gì tôi đã và đang gom lại với nhau và
gọi là "đau đớn". Bằng cách nhận ra những thành
phần này về cơ bản tất cả đều không quan trọng và
phù du - Cuối cùng tôi đã học hỏi cách khám phá tính
cách của sự đau đớn thay vì cảm thấy bị đánh bại bởi
nó. Tôi có thể đưa bài học
này trở thành một sự khám phá nỗi đau đớn thuộc về cảm
xúc cũng quan trọng như sự thất vọng buồn chán. Giống như
sự đau đớn, chúng ta nghĩ sự thất vọng buồn chán như là
một "sự việc" cứng rắn và kiểm soát tâm. Nhưng
khi chúng ta nhận thức nó thật sự như là: - một vài khoảnh
khắc của cơn giận, một chút thương tiếc, một chút buồn
rầu, và một chút thất vọng, một sự kết hợp của thực
thể ngẫu nhiên, không vững chắc và thay đổi nhưng lỏng
và cô động trong bản chất của nó - chúng ta không cần cảm
thấy quá lo sợ nó. Ðây là cốt lõi của sự đau đớn mà
ta phải đối mặt: bằng cách nhận thức nó rõ ràng, thay
vì chạy trốn nó hoặc phán xét bản thân vì nó, chúng ta
có thể phát huy suốt mối quan hệ mới cấp tiến đối với
nó. Sau đó chúng ta có thể dứt bỏ nỗi lo sợ vì đau đớn
của mình và tìm thấy được bản thân. SỰ ÐÁNH GIÁ Vào buổi đầu tu tập
thiền, tôi có cái ý tưởng rằng những thiền sư tốt
đang thật sự liên tục tắm trong làn ánh nắng trắng tràn
ngập. Chưa từng có một ai đã nói tôi rằng mình đã phải
cảm nhận ánh sáng trắng này; vì một lý do nào đó tôi chỉ
tưởng tượng rằng nó là dấu hiệu của sự tu tập tốt
đẹp. Và tôi nghĩ thấm trong bụng rằng cuối cùng ngay khi
tôi cảm nhận được ánh sáng trắng, các vị thầy của
tôi sẽ ban cho tôi một sự thật: "Cuối cùng", họ
thường nói "Chúng tôi hầu như đã thất vọng vì các
bạn chẳng bao giờ đạt được sự kiện này". Nhưng tôi đã thông cảm
nhận được bất cứ ánh sáng trắng nào. Tôi bị đau ở
đầu gối rất nhiều. Khi thời gian trôi qua và sự tu tập
của tôi đã sâu sắc. Tôi có nhiều cảm nhận khác nhau, nhưng
chẳng có một cảm nhận nào là ánh sáng trắng và tôi thật
sự ham muốn ánh sáng trắng đó. Dù bất cứ sự kiện nào
tôi đã cảm nhận, nó không đủ tốt cho tôi: "Ánh
sáng ở đâu rồi? Tại sao nó không ở đây?" Ðây là
câu thần chú trong tâm tôi. Tôi cảm thấy khinh thường sự
tu tập của tôi và liên tục đánh giá nó, so sánh nó với
những gì tôi đã nghĩ là sẽ phải xảy ra. Nỗi buồn đau
thật lớn lao. Trong lúc tu tập thiền,
cũng như trong cuộc sống, chúng ta có thể đánh giá những
thử thách khó khăn của mình: chẳng hạn như sự bất an,
những trạng thái tâm tiêu cực, sự đau đớn thể xác, và
v.v... bởi vì không đúng, bởi vì một lý do nào đó không
thích đáng hoặc xứng đáng. Chúng ta thường cố gắng kéo
dài những cảm nhận thích thú, như thể chúng là những điều
duy nhất xứng đáng. Nhưng với sự kiên nhẫn gia tăng cùng
với tuệ giác, sự tu tập thiền có thể đưa chúng ta vượt
xa những phản ứng quen thuộc này. Khi chúng ta tham thiền,
chúng ta quan sát kỹ bất cứ điều gì phát sinh với sự chấp
nhận và một tinh thần bao dung, với cái tâm thanh thản và
rộng mở. Mục đích của sự chấp nhận này là không để
phát triển tính cách thụ động nhưng chúng ta có thể đến
với những cảm nhận của chúng ta càng gần càng tốt. Khi
chúng ta thoát khỏi những phản ứng quen thuộc của mình,
chúng ta có thể có một cách nhìn thâm trầm riêng tư về
điều gì là thật. Phạm vi đầy đủ về những gì mà con
người có thể biết, cảm thấy, thích thú và sợ hãi là nằm
ở trong mỗi người chúng ta: sự biểu lộ toàn diện của
đời sống con người. Không đặt thành vấn đề những gì
chúng ta đang cảm nhận, nhưng hãy nhận biết về nó là con
đường dẫn đến trí tuệ. Có một lần khi tôi
đang ngồi đàm đạo Ngài U Pandita, tôi bắt đầu ghi nhận
những cung cách lặp đi lặp lại trong những cuộc trò chuyện
của chúng tôi. Bất cứ khi nào tôi trình bày cho Ngài về một
cảm nhận về thiền mà tôi cho rằng nó thật tuyệt vời
và ấn tượng câu trả lời của Ngài là "ghi nhận"
đề cập đến việc đặt danh hiệu tinh thần cho mỗi cảm
nhận, để phân biệt nó rõ ràng hơn. Nhưng tôi thường ngồi
thừ người ra và suy nghĩ "Ngài muốn ngụ ý gì?
"Con đã ghi nhận nó chưa?" Nó thật là tuyệt vời,
làm thế nào tôi có thể ghi nhận nó giống như mọi điều
khác?". Vào những lần khác tôi đến gặp Ngài với những
bản tường thuật buồn thảm về những cảm nhận đau đớn
khi tham thiền. Ngài quan sát tôi và lại nói "Con có ghi
nhận điều đó không?" Tôi thường suy nghĩ, "Ngài
ngụ ý gì, Con có ghi nhận nó không?" Nó thật là khủng
khiếp, Ngài không thể hiểu được điều đó sao?" Tôi
phải mất một khoảng thời gian ngắn để hiểu rõ sự giản
dị và sự quan trọng về phương pháp của Ngài U Pandita:
Ngài đang hỏi tôi có phải tôi đã nhận biết từng cảm
nhận với sự trong sạch và rộng thoáng của tâm. Ngài đã
không còn quan tâm với những gì đang xảy ra hơn là phẩm
chất của sự nhận xét (tỉnh giác) mà tôi đang mang đến
cho nó. Những gì chúng ta cần trong việc tu tập, là hiểu
được bản chất của sự sống, và điều này không đòi hỏi
một cảm nhận đặc biệt như là một phẩm chất của sự
nhận biết mà không bao gồm điều gì . Thiền giống như việc
đi vào một căn phòng cũ ở một căn gác xếp và bật lên
một ánh đèn. Nó không phải là ánh sáng trắng kỳ lạ mà
tôi đã hết sức ham muốn khát khao nhưng lại là ánh sáng
quen thuộc, trung bình và phóng khoáng. Trong ánh nắng đó
chúng ta trông thấy được mọi thứ. Chúng ta thấy tất cả
những bảo vật quý giá mà sinh ra sự thán phục và lòng biết
ơn đối với khả năng của chúng ta để khám phá chúng.
Chúng ta trông thấy được cát bụi, ở những góc cạnh
không được quan tâm tạo cho chúng ta một ý nghĩ phải nói
"Tốt hơn tôi nên lau dọn những cái gì đó" chúng
ta đã nhận ra tất cả những vật khó chịu của quá khứ
mà chúng ta nghĩ rằng đã thoát khỏi chúng lâu rồi. Chúng
ta nhận thấy nó với sự tỉnh giác đầy tình thương và
thoải mái. Tính rộng lớn và bản
chất thâm sâu của tâm chánh niệm phản ánh bản chất của
tình thương. Chúng ta khám phá sự kiện là sự tỉnh giác
có thể đi tới bất cứ nơi nào, và điều đó chúng ta có
thể có trái tim yêu thương ở bất cứ tình huống nào. Sự
khám phá này là nguồn suối của niềm vui mà thiền có thể
mang lại cho cuộc sống của chúng ta. Sự tỉnh giác trìu mến
chứa đựng một sức mạnh mà cái tâm phán xét không bao giờ
có thể mang lại cho chúng ta. Chân lý thì ở khắp mọi nơi,
ở trong tất cả những cảm nhận của chúng ta. Chúng ta
không cần phải cố gắng đạt được một cảm nhận kỳ
bí cao siêu, và với nỗ lực này, chúng ta xem thường những
gì đang thực sự xảy ra. Chúng ta không cần phải phấn đấu
để tìm kiếm chân lý. Từng khoảnh khắc riêng biệt là hữu
hiệu chân lý cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta biết nhận
thức như thế nào. Như thánh Augustine nói: "Nếu bạn
đang tìm kiếm một điều gì đó, nó ở khắp mọi nơi, bạn
không cần đi đến đó; bạn cần tình thương". NHỮNG LOẠI NHÂN CÁCH Vào buổi sáng sớm nọ,
tôi đã gặp một chuyện buồn cười khi đi từ nhà tôi đến
Hiệp hội Thiền Minh sát Tuệ. Khi tôi đi ngang qua, nơi tôi
thường đậu xe , tôi nhận ra là chiếc xe hơi đã biến mất. Tôi nghĩ "Thật quái
lạ, chiếc xe của tôi đã biến mất. Tại sao lại như thế?
Ðêm hôm trước tôi đã đến Cambridge để thực hiện một
buổi thuyết trình, và khi tôi trở lại,thấy xăng trong xe hầu
như đã cạn, như vậy tôi không hoàn toàn tỉnh giác, tôi
nghĩ lẫn lộn, "Có lẽ một ai đó đem nó đi đổ
xăng" tôi đi đến văn phòng, và người tôi gặp đầu
tiên là một nhân viên văn phòng, là người có thể đã lấy
chiếc xe của tôi. Vì thế tôi đã hỏi anh ta, "Anh đã
lấy xe của tôi?" Và anh ta trả lời rằng: " Không,
tôi đâu có lấy xe của cô". Tôi lại nói "Anh
không lấy xe của tôi hả?" Anh ta trả lời tiếp:
"Không" và tôi nói, "Chà, nó mất biến rồi".
Và rồi anh ta nói, "Cô có chắc không?" Chà, chiếc xe thì to cả
bằng con bò, vì thế tôi nói "Nó dường như thật sự
đã mất rồi. Như thế là tiêu đời tôi". Nhưng rồi
ngay lập tức tôi lại giật mình nghi ngờ. Tôi nghĩ có thể
là nó ở đó và tôi đã đi ngay qua nó nhưng không để ý
đến. Sau đó một người bạn tình cờ nghe qua câu chuyện
bèn nói "Chị biết đấy, chị cho người nào đó mượn
rồi quên không". Rồi tôi trả lời "Lẽ đương nhiên
tôi có thể quên". Rồi tôi lại nghĩ ra bất cứ người
nào. Vì vậy suốt cả buổi sáng tôi đã mất nhiều thời
giờ để thắc mắc việc gì đã xảy ra cho chiếc xe của
tôi. Khi tôi đi dùng bữa trưa, một người bạn khác bước
vào và tôi hỏi chị ta, "Chị có mượn xe của tôi
không?" Và chị ta trả lời "Không, tôi đâu có mượn
xe của chị". Ngay lúc ấy Joseph đi ngang qua và nói,
"Ồ, tôi biết việc gì đã xảy ra với chiếc xe của
chị?" Tôi hỏi "Việc gì xảy ra với chiếc xe của
tôi?" Anh ta giải thích rằng "anh ta" đã cho một
người nào đó cần mượn gấp chiếc xe , nhưng vì suốt cả
buổi sáng không có dịp để nói về việc này. Toàn bộ sự trao đổi
này đã làm cho tôi nhớ lại thật nhiều về hệ thống
các phẩm chất của con người theo Phật giáo cổ truyền.
Trong hệ thống này, tôi là người được đề cập như là
một loài người bị lừa dối và tôi nhận ra rằng phản
ứng của tôi đối với những gì đã xảy ra với chiếc xe
của tôi là một sự thể hiện tính tình về loại nhân
cách đó. Ðối với một vấn đề,
những loại người si mê đã không thực hiện tốt vào
chính ngay buổi sáng sớm hôm đó. Vì thế tôi cảm thấy hết
sức hoang mang. Những loại người si mê thường có khuynh hướng
mất tự tin trong sự nhận thức của chính mình và như vậy
đi đến việc bị cuốn hút trong sự hoang mang bối rối với
những cảm giác lừa dối và lưỡng lự. Ðấy chỉ là những
gì mà tôi đã đối phó với chiếc xe bị mất tích. Bằng cách phản ứng với
bất cứ tình huống nào, một số người thường nhìn vào
khía cạnh sáng sủa, một số người khác đương nhiên sẽ
tập trung vào những gì sai trái, và một số người sẽ cảm
thấy hết sức bối rối. Ba hình thức phản ứng này tạo
nên ba cá tính chủ yếu được phân định rõ trong tâm lý
Phật giáo (Vi diệu pháp): mẫu người tham, mẫu người sân
hận, và mẫu người si mê. Trong khi đó tất cả mọi người
chúng ta đều có một mức độ pha trộn về tất cả ba loại
này, mọi người thực sự có sự nổi trội mạnh mẽ của
một cá tính này hoặc cá tính khác thuộc ba cá tính chủ yếu
trên. Ví dụ, nếu bạn thuộc
loại người tham và một ai đó nói cho bạn về hệ thống
phẩm chất con người của Phật giáo, các bạn có thể để
ý đến thông tin này cẩn thận, suy nghĩ về bản thân bạn
đâu là một môn học phân tích tâm hết sức tuyệt vời,
và ở môn học này bạn sẽ tìm hiểu tất cả những gì bạn
có thể hiện được về cá tính đó. Nếu bạn là loại người
sân hận, bạn có thể nói với bản thân, "làm cách
nào mọi người có thể phù hợp với ba sự loại nhỏ nhoi
đơn giản này. Tôi ghét sự việc như thế này. Nó làm cho
tôi cảm thấy bị hạ thấp đối với ý tưởng của một
người nào khác về tôi là ai". Nếu bạn là một loại
người bị lừa dối, bạn có thể cảm thấy bị một chút
hoang mang, bởi tất cả sự kiện này, rồi tự hỏi "Người
nào là tôi?" Hoặc nếu bạn là một sự pha trộn của
những loại này, sự phản ứng của bạn có thể bao gồm một
khuynh hướng của tất cả những cá tính trên. Chúng ta có thể hiểu
rất nhiều về bản thân khi chúng ta khám phá phần tâm lý
học Phật giáo này. Rất quan trọng, khi chúng ta có thể hiểu
rằng đây là những khuynh hướng khách quan, đã được chứng
thực cách đây hàng ngàn năm, và chúng ta không cần phải sử
dụng chúng như là một sự cố tình xúc phạm đối với bản
ngã của chúng ta. Chúng hoàn toàn là những khuynh hướng
quen thuộc của cá tính con người. "Thanh Tịnh Ðạo"
một công trình chú giải của Phật giáo Nguyên thủy, mô tả
từng loại thật chi tiết. Hãy lưu ý mặc dù bất cứ điều
gì ở đoạn văn dưới. Khi một người với tính
tham thậm chí thấy một trần cảnh hơi thú vị, họ nhìn
thấy lâu như thể là điều bất ngờ. Họ khai thác những
lợi ích tầm thường những lỗi lầm chính thật, và khi từ
giã cõi đời họ làm như vậy với nỗi hối tiếc như thể
miễn cưỡng để ra đi. Khi người có tính sân
hận, thậm chí khi thấy một cảnh trần khó chịu, họ
tránh nhìn lâu như thể là họ bị mệt mỏi. Họ đưa ra những
lầm lỗi tầm thường, xem thường những đạo đức đích
thật, và khi lìa đời họ làm như vậy mà không hối tiếc. Khi một người có
tính khí si mê sợ nhìn thấy bất cứ trần cảnh nào, họ
bắt chước theo những gì người khác làm. Nếu họ nghe kẻ
khác chỉ trích, họ chỉ trích theo. Nếu họ nghe kẻ khác
ca ngợi, họ ca ngợi theo, nhưng thực tế họ cảm thấy vô
tư, sự vô tư mù quáng! Có lẽ chúng ta biết tất
cả về mẫu người thứ nhất, người gặp một thời gian
căng thẳng đối mặt với những sự khó khăn, ở bất cứ
tình huống đã được ấn định và hầu như có thể nhất
quyết làm lơ chúng; họ chỉ luôn luôn muốn những điều tốt
đẹp. Có lẽ bạn biết mẫu người thứ hai, tâm của họ
dường như khai thác điều gì sai trai ở bất cứ tình huống
nào, đôi lúc vạch ra những vấn đề mà mọi người đã bỏ
qua (nhưng không cần nhớ rằng họ sẽ bị chống đối!) Và
chúng ta có thể biết mẫu người thứ ba, người dễ dàng
bị hoang mang, không chắc chắn về những gì họ cảm thấy
hoặc cảm nhận, họ có phần nào dựa theo quan điểm của
những người khác. Một lần nữa, chúng ta có tất cả những
khía cạnh của ba khuynh hướng này, nhưng thỉnh thoảng một
khuynh hướng lại nổi bật trong sự hình thành nhân cách của
chúng ta hơn những người khác. Một số người, khi đọc
đoạn văn này, có thể mỉm cười, thừa nhận bởi vì họ
nhận ra bản thân mình ngay lập tức và những người khác
trong sự mô tả của ba mẫu người này. Mặc khác việc mô
tả của Thanh Tịnh Ðạo và mỗi loại có khuynh hướng di
chuyển như thế nào có thể nhớ lại mang máng. Bạn có thể nhận ra
tính cách của con người bằng dáng điệu của họ. Khi một
người có tính tham thì đi theo cách quen thuộc của họ, họ
đi cẩn thận, đôi bàn chân của họ đặt xuống từ từ,
đặt nó xuống ngay bằng, nhấc lên ngay bằng, và bước chân
của họ nhún nhảy. Một người có tính khí sân hận đi
như thể họ đang dùng mũi chân để đào bới, đôi bàn
chân họ hạ xuống rồi dở lên nhanh, và bước chân họ
kéo lê. Một người với tính si bước đi với dáng đi bàn
chân đưa lên hạ xuống lưỡng lự, và bước chân của họ
đạp xuống bất ngờ. Khi họ ngồi hoặc nằm
ngủ, người có tính tham trải giường của họ từ tốn nằm
xuống chậm rãi, tứ chi thoải mái, và họ ngủ với dáng vẻ
tự tin. Khi bị đánh thức thay vì bước ngay xuống giường,
họ đưa ra những câu trả lời như thể nghi ngờ. Một người có tính
khí sân hận họ trải giường cẩu thả. Họ gieo mình xuống
giường, họ ngủ với khuôn mặt cáu kỉnh. Khi bị đánh thức,
ngồi dậy nhanh chóng và trả lời như thể bị quấy rầy. Một người có tính
khí si mê trải giường xốc xếch và khi ngủ hầu như nép
mặt xuống và nằm sóng xoài người ra. Khi bị đánh thức,
họ ngồi dậy vội vả, và hỏi "Cái gì?". Phần chú giải về bản
kinh có nhiều thí dụ hơn như thế. Theo truyền thống, sự
phân loại này phù hợp với mẫu người để sử dụng cho
việc quyết định loại thiền nào có thể ích lợi cho hạng
người nào, và hỗ trợ mọi người trong việc sử dụng những
khuynh hướng quen thuộc của họ ít hơn là khinh bản thân.
Thông tin này có thể dẫn đến việc tìm được sự quân
bình hơn trong cuộc sống của chúng ta. Cho nên chẳng hạn
như để chữa trị một khuynh hướng nhằm đưa tới cơn giận,
chúng ta tu tập tâm từ. Ðể làm giảm bớt sự chấp thủ,
(quyến luyến), chúng ta tu tập lòng bao dung hoặc sự tự bỏ.
Ðể chống lại ảo tưởng, chúng ta tu tập về sự tập
trung chú ý. Một cá tính này không
được xem là tốt đẹp hơn cá tính khác, tất cả đều khách
quan và có điều kiện tương đương nhau. Với tâm chánh niệm
như là một tác nhân giả kim, một trong những yếu tố này
có thể được biến đổi. Có khả năng để cảm nhận khía
cạnh tích cực của mỗi khuynh hướng tinh thần, không có
tính cách ép buộc hoặc một khả năng nhận thức giới hạn.
Trong giáo pháp, sự kiện này được xem như là hình thức
thanh lọc của chúng. Ví dụ như khuynh hướng
về tham cũng chứng tỏ một sự sẵn lòng để tiến gần
những sự kiện, để cảm nhận cuộc sống trọn vẹn hoặc
từ bỏ cảm nhận. Như vậy sự biểu lộ được thanh lọc
của những loại tâm tham bằng đức tin. Ðức tin giúp cho
ta tiếp xúc với cảm nhận, đối mặt với cuộc sống đầy
đủ hơn, để từ bỏ, và sự việc được thực hiện như
vậy mà không có sự bám víu và sự say mê tầm thường của
lòng tham. Những mẫu người sân
hận có thể vương vấn về những gì sai trái trong một
hoàn cảnh, nhưng điều này có thể chứa đựng một khía cạnh
sẵn sàng quan sát sâu sắc hơn những mẫu người khác , sẵn
lòng chấp nhận một cách trung thực, nhưng gì có thể khó
chịu hoặc không được hưởng ứng. Bởi vì những yếu tố
này sự giận dữ chuyển sang trí tuệ. Trí tuệ cũng đòi hỏi
rằng chúng ta ở mức độ bên ngoài của sự cảm nhận,
mà chúng ta có thể kết hợp sự khó chịu đó mà nó thường
ẩn mình dưới cách nhìn, và như vậy càng hiểu biết đầy
đủ hơn những yếu tố của cuộc sống. Trí tuệ có thể
là những cách này mà không có những hậu quả đau đớn và
cô lập của cơn giận. Loại mẫu người si mê
cảm thấy xa cách những gì đang xảy ra trong một tình huống
và hoàn toàn không biết cách phản ứng lại, nhưng với chánh
niệm gia tăng, mẫu người này có thể chuyển cùng một
khuynh hướng đó trở thành một mẫu người vô tư rộng
lượng. Thay vì vô tình với những gì đang xảy ra, mẫu
người này đáp lại với lòng thanh thản đến từ mối
quan hệ trọn vẹn mọi lúc do bởi sự trong sạch của tâm
chánh niệm. Chúng ta có thể là bất
cứ một mẫu người nào, nhưng điều quan trọng là nhận
ra rằng chúng ta đang bị mắc bẫy bằng hình thức này hoặc
hình thức khác bởi cái tâm quen thuộc của chúng ta. Chánh
niệm là tác nhân giải thoát của chúng ta. Qua chánh niệm
chúng ta đi đến đức tin, chúng ta phát triển trí tuệ và
chúng ta đạt được tâm xả. Không đặt thành vấn đề chúng
ta đến bằng con đường nào, sự giải thoát của chúng ta
thành đạt qua chánh niệm ở từng khoảnh khắc . TRIỀU CƯỜNG Có một dạo tôi và
Joseph Goldstein dạy một khóa thiền ở Big Island Hawaii. Một
ngày nọ trong lúc tôi đang hướng dẫn buổi tham thiền đầu
tiên sau giờ độ ngọ, tôi đã nghe điện thoại liên tục
reo ở văn phòng nằm phía dưới thiên đường. Tôi biết
Joseph vừa đi ra ngoài, đến một dãy nhà gần đó, nhưng tôi
vẫn hy vọng có nhân viên sang văn phòng trả lời điện thoại.
Tuy thế vẫn không có một ai trả lời, và điện thoại vẫn
tiếp tục reo và tôi bắt đầu nghĩ ngợi". Có một việc
gì đang xảy ra, chắc hẳn có điều gì bất tường. Tôi chấm
dứt buổi ngồi thiền, đi xuống văn phòng, và chờ không
được bao lâu thì chuông điện thoại tiếp tục reo. Ðó
là điện thoại của một người ở sở phòng vệ Duyên Hải
Hawaii thông báo một đợt triều cường lớn nhất lịch sử
có thể xảy ra vào hôm nay! Bởi vì chúng tôi đang ở trong
một cơ sở và gần bờ biển, chúng tôi có được 45 phút
để di tản. Họ bảo chúng tôi dời đến nơi an toàn gần
nhất khoảng một giờ đường. Tôi nói với người báo
điện; "Ông biết đấy, chúng tôi có bảy mươi người
ở đây, và chỉ có hai chiếc xe. Bất cứ đường nào phải
đi ngay xuống bờ biển. Tôi nghĩ rằng chúng tôi không thể
di chuyển khỏi đây, đúng giờ". Cô ta nói, "Tôi sẽ
gọi lại ". Mấy phút sau cô ta gọi
lại và báo rằng họ đang gởi đến cho chúng tôi một chiếc
xe buýt, rồi sau đó điện thoại gọi trở lại và nói rằng
không còn đủ thời giờ để thực hiện công việc như vậy.
Cô ta hướng dẫn chúng tôi tìm một nơi trú ẩn cao nhất
theo khả năng có được. Bởi vì vùng đất ở trên trung
tâm là không thể đến được, nơi an toàn nhất chúng tôi
có thể đến được chỉ cao bằng tầng hai tòa nhà của
chúng tôi. Ðợt triều cường lớn nhất lịch sử Hawaii sẽ
đến với chúng tôi, và chúng tôi không thể đi xa hoặc cao
hơn mực nước biển nhiều! Sững sờ, tôi gác máy
và đến phòng của Joseph để hỏi ý kiến. Ông ta đang cùng
một nhóm thực hiện cuộc vấn đáp. Khi ấy tôi đứng phía
sau căn phòng một chốc lát, tôi nghe được một trong nhóm
người đó nói nhiều về sự khó chịu đau đớn của đầu
gối. Khi ngồi kiết già trong tâm tham thiền, tôi thầm nghĩ
"Này chàng trai, nếu bạn nghĩ mình có một vấn đề lớn
về việc đau đầu gối, bạn hãy đợi đấy!" Không phải
là tôi không gặp sự đau đớn đầu gối trong khi tu tập,
mà tôi cần tham thiền về việc đó. Trước khi nhận cú
điện thoại đó, tôi chắc hẳn có thể một phản ứng rất
khác lạ cho cảm nhận của người này. Nhưng vào giây phút
đó tôi đang gánh chịu nguồn tin về sự hiểm nghèo vô
hình, tôi đã có một ý tưởng hoàn toàn mất thăng bằng
do bởi điều này. Chúng tôi ngưng việc
di dời tất cả đồ đạc đến nơi cao, chúng tôi có thể
tìm ở trong cơ sở của mình mà không cần để ý đến mực
nước lên cao bao nhiêu. Sau đó chúng tôi tham thiền trong khi
chờ đợi triều cường. Trong lúc chúng tôi ngồi thiền,
khi thời gian trở nên đàn hồi với một vài phút tưởng
chừng như vài giờ, và những giờ trôi qua giống như những
phút. Ðó là một buổi ngồi thiền sâu sắc tuyệt vời, bởi
vì mọi người đang đối mặt với cái chết, chìm đắm
trong biển nước dữ dội, người thì cầu nguyện, người
thì kêu la, kẻ thì im lặng. Ðôi với tôi, từng
khoảnh khắc từ bỏ trong buổi thiền định đó giống như
một tấm gương phản ánh cái chết của tôi, với sự cấp
bách của nó là tuyệt đối dứt bỏ mọi điều được biết
đến. Từng khoảnh khắc bám víu và hướng về tương lai
để nắm giữ khoảnh khắc kế tiếp đang đau đớn mãnh liệt.
Từng khoảnh khắc thoải mái trở lại và chỉ với khoảnh
khắc hiện tại là an lạc. Tôi thường nghĩ về người
đau đầu gối rồi thắc mắc anh ta đã tiến bộ như thế
nào. Cuối cùng, chẳng có
điều gì xảy ra. Ðợt triều cường đã bỏ qua hòn đảo.
Chúng tôi yên lặng gom góp các vật dụng và trở xuống tầng
trệt. Trong một khoảng thời gian ngắn mọi người đã làm
việc với một quan điểm bắt nguồn từ một sự hiểm nghèo
vô hình. Và tất cả mọi người chúng ta đã hoàn toàn có
một cảm giác mới khác lạ về việc đau đầu gối của
chúng tôi và về những khó khăn thường lệ của đời sống
chúng ta. Trong chốc lát, mọi người đã nhận thức mọi sự
việc hầu như đã xảy ra với họ; và mọi người cảm thấy
biết ơn với những gì đã giữ vững bản thân họ khi họ
lo sợ và hoang mang. Chúng tôi tu tập thiền
để hỗ trợ tính cách mới mẽ đó, bởi vì nó là chân
lý. Cuộc sống chúng ta phù du và không chắc chắn; hầu hết
chúng ta không biết mình sẽ chết khi nào và bằng cách
nào. Chúng ta tu tập thiền để ổn định tâm trong khoảnh
khắc và biết dứt bỏ, hơn là bám víu vào những gì chúng
ta không có, hoặc cố gắng giữ chặt những gì đang thay đổi.
Chúng ta tu tập thiền là vì không muốn hoang phí cuộc sống
quý giá của mình. NĂNG LỰC
THẦN THÔNG Tôi nhận ra đây là một
điều làm cho người ta khó tin, nhưng người ta nói rằng vị
thầy của tôi là Dipa Ma có thể nướng khoai bằng bàn tay của
bà ta, và thậm chí có thể tạo nó có mùi vị sôcôla. Bà
có thể đi xuyên qua tường. Người ta nói rằng bà có thể
phân thân cùng một lúc ở hai nơi. Ðôi khi, vào ban đêm khi
đi qua các khu phố ở Rangoon, bà biến thêm một người bạn
đồng hành đi cùng với bà. Bà ta cũng xuất hiện tự nhiên
ở bất cứ nơi nào với những buổi hẹn với vị thầy của
bà. Dipa Ma có thể biết
được tâm của bạn và tiết lộ những gì giấu kín trong
lòng của bạn. Một dạo nọ bà nhìn sâu vào tương lai
trong vòng một tháng và mô tả chính xác nội dung bài diễn
văn mà Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc sẽ phát biểu. Bà có
thể chuyển tâm mình qua nhiều kiếp khác nhau và quay trở lại
hàng ngàn năm để nghe Ðức Phật giảng pháp. Bà ta có thể
thực hiện nhiều việc mà bình thường chúng ta cho là khó
tin được. Dipa Ma chẳng bao giờ
biểu diễn những năng lực này nơi công cộng, nhưng đôi
khi chúng trở thành những công cụ dạy dỗ của bà với những
người mà bà tin tưởng. Bà ta thường sử dụng chúng mà
không chút ngã mạn, giống như một sự dâng hiến tình cờ,
tự nhiên của một khía cạnh hoàn toàn khác lạ đối với
những sự việc. Chứng kiến những sự kiện như thế chắc
chắn sẽ mở rộng quan điểm của chúng ta về vũ trụ và
những biên giới của cuộc sống. Chúng cho chúng tôi thấy
một thế giới bao la hơn ta đã tưởng tượng. Những hiện tượng chẳng
hạn như những thần thông này xảy ra theo luật tự nhiên.
Chúng được xem là huyền bí nên việc định nghĩa của chúng
ta về những gì bình thường thì rất hạn hẹp. Thậm chí
với sự mở rộng nhỏ nhặt về sự hiểu biết của chúng
ta, chúng ta chống lại những định nghĩa thông thường của
định luật tự nhiên tạo hóa. Ví dụ như, chúng ta đã luyện
tập ở môi trường phi trọng lực và như thế chúng ta lần
lượt bay tới nơi này đến nơi khác và thậm chí thám hiểm
thượng tầng không gian. Mức độ năng lực thần thông của
bà Dipa Ma biểu diễn là kết quả của sự tập trung. Theo đạo Phật, tập
trung (định) được xem như là con đường của sức mạnh,
bởi vì như chúng ta tập trung, tất cả những năng lượng
thường xuyên phân tán mình cùng nhau tụ lại thành một khối
trọn vẹn. Chúng ta càng tập trung, thì năng lượng càng
quay trở về với chúng ta, và năng lượng này trao lại quyền
cho chúng ta. Với năng lực phát triển tập trung cao, nó có
thể cảm nhận cái khoảnh khắc đó hoặc thời điểm chủ
yếu ở đó những quy ước của thời gian và không gian, vật
chất và sự vững chắc phát sinh đầu tiên. Vào thời điểm
đó, thế giới hết sức dễ dàng bị thay đổi. Tuy vậy, bởi vì hiện
tượng thần thông xảy ra do sức mạnh của tâm hơn là bằng
trí tuệ, chúng không được người ta xem là sự giải
thoát tối cao. Vì sự việc này cho nên những thiền sinh
được thiền sư khuyến khích đừng nên bị chúng quyến rũ.
Ngài Munindra đã dạy bà Dipa Ma những phương pháp tu tập
này bởi vì ngài nhận thấy bà ta có một sự tập trung tốt,
và bởi vì chúng là những phương pháp tu tập cổ mà ông
ta ước ao làm sống lại. Ðiều quan trọng nhất, ông ta đã
dạy phương pháp này cho Dipa Ma bởi vì ông ta biết rõ trái
tim trong sạch của bà, và bà sẽ không sử dụng chúng sai
trái. Trong khi ông đang hướng dẫn bà ta phát huy những năng
lực này, ông ta đã đạt được thành quả của chúng bằng
một tính cách trong sạch, và nói rằng: "Những năng lực
thần thông này không quan trọng, giác ngộ là quan trọng. Những
năng lực này có thể mang lại sự suy sụp tinh thần của một
người, nếu sử dụng sai trái, nếu dùng bởi bản ngã và
cho rằng "bạn" là người có năng lực mạnh mẽ
nhưng năng lực này là những điều nhỏ nhặt. Nó vui thật,
giống trò ảo thuật. Nó không quan trọng. Trí tuệ thì rất
quan trọng". Trong khi những năng lực
này dường như có thể phi thường và tiến bộ cao, con đường
tập trung không cần thiết thanh lọc quan điểm của chúng
ta về bản chất của cuộc sống và cách nhìn về chân lý.
Sự tập trung (thiền định) có thể không làm trong sạch
cái cảm nghĩ chúng ta là ai và cuộc sống của chúng ta thì
thế nào. Qua sự phát triển của trí tuệ chúng ta khám phá
được bản chất thật của cái tâm, những ý nghĩ và những
tình cảm của chúng ta. Chú ý hết sức cẩn thận, chúng ta
nhận thấy rằng thân và tâm dường như đã vững chắc và
những thực thể đồng nhất nhưng thực sự đó là một loạt
những sự kiện liên tục thay đổi, nhấp nhô và dễ tan vỡ.
Chúng ta nhận thấy rằng thân và tâm này, trong khi có thể
phân biệt, thì cũng thể tách rời và có thể phụ thuộc lẫn
nhau. Chúng ta nhận ra thân tác động tâm như thế nào và ngược
lại tâm tác động thân ra sao, trong một sự tác động lớn
lẫn nhau, hết sức lớn lao của mọi con người. Chúng ta nhận
thấy những định luật sự phụ thuộc lẫn nhau trong thế
giới chung quanh ta và nhận ra chúng ta được kết hợp tất
cả trong dòng chảy vô cùng tận, chúng ta gọi nó là cuộc
sống. Sự thừa nhận về sự tương trợ lẫn nhau tạo ra lòng
từ bi không chút ngụy tạo. Do sự hiểu biết sâu
sắc về sự tập trung, chúng ta có thể nhận ra thế giới
tự nhiên bao la hơn chúng ta nghĩ, chúng ta có thể tham dự
vào thế giới bằng một tính cách phi thường, nhưng điều
đó không phải là mục đích giải thoát trong đời sống tu
tập của chúng ta. Người phiên dịch của Ngài U Pandita, cố
gắng để diễn tả khái niệm này bằng tiếng Anh, đã từng
nói "Người ta có thể có tất cả những năng lực này
và thực hiện tất cả những điều khác thường này và vẫn
là... một kẻ mất mát". Sự giải thoát thật sự là sự
viên mãn của trí tuệ và lòng bi mẫn vô bờ bến. Khả năng
nhận thức của chúng ta để nhận thấy rõ ràng và yêu thương
thật tràn đầy là những năng lực phi thường nhất. Dipa
Ma thông đạt cả hai con đường thần thông lẫn trí tuệ.
Và mặc dù bà có những năng lực thần thông như thế,
nhưng bất cứ lúc nào tôi nghĩ đến bà, điều tôi gợi nhớ
đáng kể nhất là bà ta hoàn toàn không có ngã mạn và người
đáng yêu nhất mà tôi đã từng gặp. TRÁI TÁO CUỐI CÙNG CỦA
BẠN Một trong những lời hướng
dẫn đầu tiên về thiền của thiền sư Munindra, thầy của
tôi là luôn luôn ở cùng với từng hơi thở, từ hơi thở
đầu tiên cho đến hơi thở cuối cùng của mình. Tôi đã
theo dõi từng bước chân, từng âm thanh, từng vị nếm ngay
với chính cách này. Tu tập với tinh thần này giúp cho tôi
mang lại một sự viên mãn và một sự chú ý đến từng
khoảnh khắc tham thiền của mình. Những khía cạnh mong manh
về bản ngã của tôi đến cùng một lúc đó. Tôi không
còn bị cám dỗ để so sánh hiện tại với những gì đã xảy
ra trong quá khứ, bởi vì quá khứ đã ở đâu nếu đây là
hơi thở đầu tiên của tôi? Và nếu đây là hơi thở cuối
cùng, chắc chắn tôi không thể hoãn lại việc chú tâm đầy
đủ của tôi về nó, và bị lôi cuốn với niềm hy vọng rằng
một điều gì đó tốt đẹp hơn có thể xảy ra sau đó.
Tôi không quá thiên về cảm nhận hiện tại với sự phán
xét, bởi vì làm sao tôi có thể phán xét những gì tôi
đang trải qua mà không đạt được ở quá khứ hoặc tương
lai? Nó là một phương cách mạnh mẽ và tốt đẹp để tu
tập - cũng như là một tính cách tốt đẹp để sống và
chết. Nếu chúng ta sống
không có cảm giác ngay hiện tại về sự tỉnh giác của
mình, chúng ta tìm kiếm sự thỏa mãn ở ngoài bản thân của
mình, bám víu vào những cảm nhận đã qua. Nó dễ dàng rơi
vào sự đam mê với những mức độ gia tăng như cảm giác
kích thích. Những mức độ này mang lại cho chúng ta một cảm
giác trọn vẹn, nhưng nó là một sự trọn vẹn không thật,
chỉ bám víu với những hiện tượng đã qua của thế giới
bên ngoài. Hãy tưởng tượng mình
đang làm một điều gì thật đơn giản, có thể một số
công việc mà bạn đã từng thực hiện trước đây, vì thế
nó không gợi lên một mối quan tâm thu hút - một vài điều
chẳng hạn như ăn một trái táo. Nếu bạn ăn một trái
táo trong khi không quan tâm nhiều đến sự việc nhìn thấy
nó, sự cảm nhận về nó, mùi và vị của nó, như vậy ăn
một trái táo có thể không phải là một cảm nhận thỏa
mãn. Khi đã nhận biết được một cảm nhận hơi khó chịu,
bạn có thể bắt đầu nghĩ suy có một điều gì không ổn
với quả táo, hoặc có lẽ bạn thật sự không thích quả
táo chút nào. Bạn có thể bắt đầu nghĩ rằng "Nếu
như tôi có được một trái chuối, như thế còn thích hơn".
Nhưng nếu bạn tìm được một trái chuối, xong rồi ăn nó,
một lần nữa với tính cách lơ là, bạn sẽ đi đến một
cảm giác không được hài lòng. Thay vì nhận ra rằng bạn
đã hoàn toàn không chú ý đến cảm nhận của việc ăn trái
chuối, bạn có thể bắt đầu nghĩ ngợi. "Cuộc sống
của tôi hết sức tẻ nhạt; nó thật tầm thường. Làm thế
nào để người ta có thể hạnh phúc với chuối và táo?
Ðiều mà tôi cần là một cái gì đó kỳ lạ hấp dẫn.
Tôi sẽ sung sướng nếu tôi đi ra ngoài và mua một vật gì
đặc biệt giống như là một quả xoài". Sau đó, có lẽ
với nhiều khó khăn, bạn kiếm được một quả xoài. Một
ít miếng đầu tiên có thể là một cảm giác tuyệt vời
và ngon ngọt. Tuy vậy, không bao lâu khi bạn ăn xong quả xoài
hấp dẫn giống như tính cách bạn đã ăn quả táo và quả
chuối tầm thường, và một lần nữa còn giữ lại trong bạn
một cảm giác không thỏa mãn. Thật hiếm có cho bất
cứ người nào trong chúng ta tưởng tượng rằng phẩm chất
sự chú ý của chúng ta có thể đóng một vai trò trong cảm
giác khó chịu của mình. Nhưng nó chỉ có khi chúng ta có
chánh niệm là chúng ta tìm được sự thỏa mãn trong cuộc
sống của mình. Tâm chánh niệm là chiếc chìa khóa của cuộc
sống. Khi chúng ta cảm thụ đầy đủ cảm nhận của chúng
ta, chúng ta nhận thấy rằng thế giới sâu sắc của chúng
ta thì thật sự đầy rẫy với những cảm giác phi thường
lạ lùng. Mặc dù chúng ta đang cảm nhận mỗi sự việc
ngay chính lần đầu tiên. Giữ chánh niệm về sự
thú vị của giác quan thì rất khác biệt với sự cuốn
hút vào nó. Sự chấp thủ (quyến luyến) không làm cho cảm
giác thích thú thú vị hơn. Sự cuốn hút thật sự làm giảm
bớt nguồn vui của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể
tránh được nỗi lo âu về bất cứ sự thay đổi tiềm ẩn
trong tình huống tuyệt vời. Nói cách khác, khi chúng ta có
chánh niệm về sự khoái lạc thích thú chúng ta không cần
phải bám lấy cái khoảnh khắc tuyệt vời tiếp theo. Hoặc
chúng ta cũng không cần hoãn lại cái cảm giác hạnh phúc
sung sướng cho chúng ta cho tới khi có một đối tượng thú
vị hoặc hài lòng hơn xuất hiện, rồi nghĩ rằng "Sự
việc này không tuyệt vời lắm bởi vì nó sẽ có thể tốt
đẹp hơn nếu...". Tâm chánh niệm cho phép bất cứ điều
gì xảy ra ở đó. Thực tế, chúng ta
không thể biết có phải hơi thở mà chúng ta đang hít thở
ở ngay giây phút này sẽ là hơi thở cuối cùng, hoặc có
phải chúng ta đang ăn quả táo cuối cùng, hoặc nghe tiếng
chim hót lần cuối. Bằng tính nhận biết - như thể là mối
cảm nhận là lần cuối - chúng ta vượt lên khỏi thế giới
nửa chết của sự phân biệt và tiến vào một sự thỏa
thích bất tận và vi tế, đó là quả của tâm chánh niệm. NHỮNG KHOẢNH KHẮC GIẢI
THOÁT Thầy U Pandita có lần
đã nói với tôi "Con có tin về những gì Ðức Phật dạy,
từng khoảnh khắc chánh niệm là khoảnh khắc của giải
thoát?" Tôi trả lời, "Ồ,
vâng, con thật sự tin tưởng như thế" và rồi thầy
tôi bảo "Con có nghĩ là thật tốt đẹp hơn nếu chúng
thật sự nhận thức được nó hơn là tin vào nó". Tôi trả lời,
"Vâng, chắc chắn như vậy". Thực tế lời dẫn giải
của Ngài thật sự đã giảm bớt sự hoài nghi của tôi về
khả năng là tôi có thể đạt được sự giải thoát, và
nó đưa tôi đối mặt với lời dạy đầy thuyết phục của
Ðức Phật: khi giữ tâm chánh niệm, chúng ta có thể cảm
nhận bất cứ khoảnh khắc nào về sự giải thoát. Khi
chúng ta nhận ra được điều này trong cuộc sống, chúng ta
hiểu được rằng bất cứ cảm nhận nào mà chúng ta có,
dù đau đớn hay thích thú đều xứng đáng với sự chú
tâm quan sát của ta vì rằng nó là một cơ hội cho sự giải
thoát. Những gì giải thoát chúng ta trong khoảnh khắc đó
là sức mạnh của tỉnh giác, bất chấp đối tượng của
sự tỉnh giác đó. Chính tâm chánh niệm có thể nới lỏng
bất cứ sự trói buộc nào. Một trong những mâu
thuẫn lớn lao nhất, người ta có thể nói rằng đau khổ
cũng như giải thoát có thể phát sinh từ đau khổ ngay lúc
này, hình thành ở thân và tâm này. Hai cụm từ Pàli được
dùng để diễn tả sự mâu thuẫn này là Kilesa bhumi và
Panna bhumi. Bhumi có nghĩa là nơi xảy ra, nơi phát sinh. Kilesa
đề cập đến những đặc tính phiền não của chúng ta và
đem lại một mức độ đau buồn mạnh mẽ. Và Panna có nghĩa
là trí tuệ. Bhumi (sự phát sinh) luôn luôn hiện diện trong
hình thức tâm và thân của chúng ta; những gì tách rời
"Kilesa" khỏi "panna" là chánh niệm. Với
chánh niệm, thân và tâm được dùng như là nền tảng cho
giải thoát, không có chánh niệm ngay chính với thân và tâm
đó trở thành nền tảng cho sự phiền não. Giáo pháp Ðức
Phật vạch rõ cho chúng ta ngay cả người bình thường nhất
đi trong con đường đạo pháp có thể thành công, bởi vì
chất liệu cơ bản dành cho sự giải thoát đều sẵn có
trong tất cả mọi người chúng ta. Chúng ta chỉ cần phải
chọn lựa hoặc là chúng ta trau dồi trí tuệ hay gia tăng khổ
đau. Ẩn dụ truyền thống
được dùng
để diễn tả cho sự kiện này là cái xô đựng rác làm bằng
đồng thau. Bởi vì nó là cái xô rác, chúng ta thường có
khuynh hướng bỏ qua nó hoặc cảm thấy xem thường nó. Sau
đó chúng ta tưởng tượng rằng chính đồ đồng đó được
tạo thành ngọc ngà châu báu. Bây giờ chúng ta quan sát vật
đồ đồng đó với tính cách thưởng ngoạn, và ngay cả việc
khát khao. Rồi dùng cùng loại đồng đó và tạo nó thành
những bức tượng nam, nữ thần rồi biến thành những đối
tượng sùng bái. Vật chất thì giống nhau nhưng khi được
sử dụng thì khác nhau, vì thế những phản ứng của chúng
ta thay đổi. Cùng một cách, thay vì không lưu ý những cảm
nhận của chính thân tâm chúng ta, có khả năng - ở bất cứ
khoảnh khắc nào - hãy quan tâm chúng như là chất liệu cho
sự giải thoát.
Từ khi bắt đầu con
đường tâm linh, chúng ta phát huy một khả năng là bình thản
hơn và để sống hài hòa hơn. Chúng ta phơi bày sự đau khổ
của chúng ta và học hỏi sự tự chấp nhận và lòng bi mẫn.
Chúng ta tập trung tâm và mở ra bản chất thật của chúng
ta. Và tất cả sự kiện này tập trung lại một sự giải
thoát hoàn hảo, hoặc Niết bàn. Ðây không phải là một mục
tiêu xa vời, bởi vì dường như nó là ở hiện tại; từng
khoảnh khắc mà chúng ta cảm nhận có sự bám víu, khó chịu,
hoặc ảo giác là một khoảnh khắc của Niết bàn. Nó có
thể ở ngay giây phút này. MẠNG LƯỚI
Một hình ảnh sáng
chói và nổi tiếng trong giáo pháp của Ðức Phật đó là mạng
lưới trời Ðế thích. Hình ảnh mô tả vũ trụ như là một
mạng lưới cân đối tuyệt vời. Ở mỗi điểm tiếp xúc
nhau, nơi ấy những sợi dây lưới gặp nhau, có một viên
ngọc nhiều mặt phản chiếu lấp lánh, như viên kim cương
hoặc một viên pha lê. Mỗi viên ngọc phản chiếu những
viên khác, gồm luôn cả những hình ảnh phản chiếu nằm
ở trong những viên khác. Nhìn vào một viên ngọc, vào một
điểm, là thấy sự phản ánh lại tất cả các viên ngọc,
ở tất cả các điểm. Tôi đã nhớ lại hình
ảnh lưới trời Ðế thích khi thăm viếng bảo tàng trại tập
trung Yad Vashem, ngoại thành Jerusalem. Một trong những nơi đầy
xúc động và hết sức thu hút trong khu phức hợp là tượng
đài kỷ niệm những đứa trẻ, do sự đóng góp của một
cặp vợ chồng có con trai của họ bị chết trong trại tập
trung ở Ðức. Ðài kỷ niệm là một gian phòng rất tối
mang hình vòm. Khi bạn bước vào, bạn không thể nào trông
thấy bất cứ vật gì chung quanh, vì vậy bạn dò dẫm đường
đi qua bóng tối bằng cách lần theo một hàng rào chấn song
chung quanh chu vi. Khi bạn bước đi, bạn sẽ nghe người ta
đọc to và chầm chậm những tên họ của các em đã tử nạn
trong trại tập trung. Nằm ở giữa trung tâm
mái vòm là một ngọn nến cháy lập lòe. Dọc theo các bức
tượng của tòa nhà mái vòm là hàng trăm tấm gương phản
chiếu ánh sáng của ngọn nến đang cháy ở giữa. Ðiều
ấn tượng là một sự hiện hữu được bao quanh bởi những
điểm sáng bất tận, mỗi điểm sáng đó tượng trưng cho
một đứa trẻ bị giết ở trong trại tập trung. Khi tâm
tôi trở nên tĩnh lặng và cảm thấy rung động bởi soi sáng
này, tôi bắt đầu cảm thấy rằng mình cũng ở trong những
sự phản chiếu; tôi cũng là một thành phần của toàn bộ
mạng lưới liên kết này và có mối quan hệ với nhau. Tôi không thể tách rời
bản thân tôi với tất cả những điểm sáng, tôi không thể
tách rời bản thân với những cuộc sống và những cái chết
của tất cả những đứa trẻ đã qua đời đó. Tôi đã bước
vào mạng lưới trời. Hoặc có lẽ chính xác hơn tôi đã hết
sức quan tâm đến tính chất xác thực của lưới trời. Khi chúng ta quan sát người
khác cũng như chúng ta nhìn vào bản thân mình; khi chúng ta
quan sát bản thân mình, chúng ta khám phá tất cả chúng sinh
và vạn vật trong vũ trụ. Từng sự kiện, từng thực thể,
từng trạng thái tâm, từng cảm nhận chúng ta có được là
sanh ra bởi một mạng lưới của sự kết hợp. Bản thân
chúng ta được sanh ra ở từng khoảnh khắc của một mạng
lưới kết hợp. Vô số những nguyên nhân lớn lao không ngớt
đến cùng nhau, để tạo ra những gì chúng ta gọi là bản
thân mình, những gì chúng ta gọi là cuộc sống. Ở đài kỷ
niệm trẻ em ở Yad Vashem, tôi đã không đứng cách biệt
với những gì đã xảy ra ở trại tập trung, cũng như tất
cả kiếp sống. Trong tất cả sự hiện hữu kiếp sống không
có một ai, một điều gì đúng xa cách nhau. SỰ ÐỔI THAY CÁC MÙA Vào một năm nọ, một
người bạn của tôi sống ở California dự định thăm viếng
Anh Quốc vào mùa thu. Biết trước việc thăm viếng của chị
ta, tôi nhìn những chiếc lá đầy màu sắc rực rỡ trên
cây, lòng đầy lo lắng, hy vọng rằng chúng sẽ giữ mãi
tính cách thường lệ của nó. Tôi hết sức mong mỏi cây cỏ
vẫn giữ mãi nét xinh tươi dành cho chị ấy, tôi cảm thấy
thích thú muốn dán những chiếc lá vào những cành cây để
chúng ở đó khi chị ấy đến. Tôi chợt nghĩ "Nó phải
như vậy khi chị ấy đến, bởi vì nếu lá rụng và chúng
sẽ héo hon, vàng úa, chuyến du lịch mở đầu mùa thu loại
nào sẽ dành cho chị ấy? Khi mùa thu đến, rốt cuộc chị
ấy không thể nào đến thăm viếng được. Khi tôi hiểu
được điều đó, tôi nghĩ rằng "Chà, bây giờ tôi nghĩ
rằng mình có thể để cho thiên nhiên xảy ra theo tiến
trình của nó". Lẽ dĩ nhiên, thật là
buồn cười khi tìm cách giữ cho những chiếc lá khỏi lìa
cành. Nhưng hãy quan sát biết bao nhiêu cuộc sống đang được
dành để thực hiện cùng một công việc giống vậy bằng
những hình thức khác. Chúng ta cố gắng để giữ cho mọi
sự việc không thay đổi. Tuy thế, vô thường chính là kết
cấu của cuộc đời chúng ta. Thực sự không phải là cuộc
sống của chúng ta luôn luôn thay đổi; nhưng cuộc sống
được tạo nên bởi sự thay đổi. Khi chúng ta quan sát thế
giới tự nhiên, chúng ta nhận thấy rõ ràng rằng các mùa
đến rồi đi. Tương tự như thế, chúng ta có thể thấy rằng
người ta đến và đi trong cuộc sống của chúng ta. Chúng
ta biết rằng chúng ta có những tư hữu những vật đó có
thể hư hoại, bị tan vỡ hoặc bị cho đi hoặc chúng ta
không còn quan tâm chúng hoặc chúng ta có thể không lưu ý
và không xem chúng quan trọng nữa. Chúng ta có thể biết rằng
buổi sáng thì nghĩ như thế này mà chiều lại nghĩ như thế
nọ, và có lẽ vào ban tối lại nghĩ cách khác. Chúng ta biết
rằng cuối cùng của cuộc sống rồi sẽ phải chết. Sự tu tập thiền đặc
biệt giúp chúng ta nhạy cảm đối về những nhận thức của
chúng ta đang thay đổi liên tục đến dường nào. Có một
ý tưởng phát sinh rồi biến mất. Một âm thanh phát sinh rồi
biến mất. Hương vị và những cảm thụ đến rồi đi. Những
hình ảnh đến hiện hữu rồi biến mất. Chúng ta có thể
cảm nhận cuộc sống của mình từng khoảnh khắc, ở những
lời nói của Ralph Waldo Emerson là "sự hiện diện của
núi lửa". Qua thiền định chúng ta đi đến sự hiểu
biết, không phải bằng tính chất thi ca hoặc trữ tình, nhưng
thực tế, chúng ta đang chết và đang được tái sinh ở từng
khoảnh khắc. Ðôi khi trong lúc tu tập
tâm thức tự nhiên sáng ngời lên cái khuynh hướng được
tái sinh từng khoảnh khắc. Nó thật đẹp. Chúng ta nhận ra
sự khởi đầu của vạn vật, sự phát sinh những đối tượng.
Dù một âm thanh hoặc một cảm giác trong thân, hoặc một cảm
xúc, khuynh hướng đáng ghi nhận nhất đối với chúng ta
là sự trở thành hiện thực của nó. Chúng ta đang cảm nhận
cái thế giới và bản thân của chúng ta, nổi bật lên, đổi
mới bắt đầu trở lại - và nó thật vẻ vang rực rỡ.
Chúng ta đang chứng kiến điều thần kỳ đó là cuộc sống
sinh khởi. Khi chúng ta cảm nhận
về chân lý vô thường đôi lúc nó thật hoàn toàn khác biệt
nhau. Tâm tự nhiên tỏa sáng về sự kết thúc của những sự
việc từng khoảnh khắc này đến khoảng trôi qua đó là mặt
khác của sự biến đổi. Chúng ta ghi nhận sự phân hủy của
từng vật mà chúng ta cảm nhận. Chúng ta đi đến sự nhận
thức được sự trôi qua của mọi vật mà chúng ta yêu thương
gìn giữ, mọi thứ mà chúng ta cố gắng gìn giữ và mong mỏi
dài lâu chúng ta xoay sang nhìn một số sự việc, và nó biến
mất. Chúng ta bắt đầu đáp lại với một cảm tình, rồi
chúng ta nhận thấy nó đã bỏ ta đi. Mọi vật thật mỏng
manh, thật mờ nhạt, ở đây tuy thế lại thoáng qua, cho thấy
mầm mống của cái chết ngay đúng vào thời điểm nó sinh
sôi. Chúng ta có thể bám víu với bất cứ điều gì ở nơi
nào? Như Kalu Kinpoche nói "Hơi thở của sự sống là giống
như bọt nước". Mặc dù thấy được bản
chất phát sinh của vạn vật là kỳ lạ, và thấy được bản
chất mong manh thoáng qua của vạn vật có thể là hết sức
hoang mang, nhưng cả hai sự kiện trên đều là cơ bản. Sự
mở rộng đối với hai khía cạnh của sự biến đổi giúp
chúng ta thấy được chân lý của vạn vật là thế nào.
Dù chúng ta thích sự thay đổi các mùa hay không, chúng ta học
cách nào đặt niềm tin vào chúng, hiểu được sự chính
xác của các chu kỳ. Hiểu rõ chân lý của sự thay đổi
trong cuộc sống của mình, chúng ta có thể sống với cùng
sự hiểu biết đó về lòng tin và lẽ phải. MỘT ÐIỀU DUY NHẤT
Một người bạn của
tôi, có một lần phải giải thích cho đứa con trai bốn tuổi
của mình về người bác đã nuôi nó từ khi mới sanh, sắp
phải dọn đi nơi khác. Bởi vì đứa con của bà ta rất quyến
luyến người này, bạn của tôi cẩn thận bảo với đứa
bé từng bước một, và nói một cách chắc chắn rằng người
yêu mến cậu bé, họ có thể viết thư, thăm viếng và gọi
điện cho nhau, nhưng bà phải dọn đi xa và sống cùng với
người em gái. Cậu bé con lắng nghe chăm chú, rồi sau nói với
mẹ "Mẹ ơi, hãy kể lại câu chuyện đó cho con, nhưng
phần kết cuộc khác đi". Ðôi lúc trong cuộc sống
của chúng ta, có khi chúng ta cũng ước ao mình có thể thay
đổi đoạn kết câu chuyện. Thỉnh thoảng chúng ta mất đi
những thứ mà mình quan tâm, chia lìa những gì yêu thương,
khi chúng ta già yếu, thể xác trở nên tàn tạ. Chúng ta cảm
thấy vô dụng hoặc đau đớn, hoặc cuộc sống của mình dường
như bị trượt dài. Ðây là tất cả những khía cạnh của
khổ đau, một trong những nguyên tắc của Giáo pháp đức
Phật. "Dukkha" có nghĩa là khổ, không thỏa mãn,
không hài lòng, rỗng không và thay đổi. Ðức Phật dạy,
"Như Lai dạy một điều và một điều duy nhất: khổ và
đoạn trừ khổ." Trong Giáo pháp của Ngài, khổ không
có nghĩa cần thiết là đau đớn thể xác nghiêm trọng, nhưng
đúng hơn là đau khổ về tinh thần mà chúng ta phải gánh
chịu, khi xu hướng của chúng ta bám víu vào niềm hoan lạc
đối nghịch với bản chất mong manh của cuộc sống, và
điều không cảm nhận của chúng ta gặp phải khó chịu và
không thể khống chế được. Lần đầu tiên khi đến
Ấn Ðộ và được nghe bài pháp về "sự khổ"
trong phật giáo, tôi cảm thấy như thể ai cho mình một món
quà quý giá. Cuối cùng, một người nào đó đã mở rộng
ra và thực tướng của vạn vật là thế nào. Khổ tạo
nên sự hiện hữu. Trong khi thế gian này có niềm hoan lạc
lớn lao thì cũng có những nỗi đớn đau ê chề. Có những
thời gian tuyệt vời để đến cùng nhau thì cũng có những
ngày tháng chia lìa, và mất mát. Có sinh thì có tử. Tôi cảm
thấy như thể là lần đầu tiên mình được nghe nói đến
chân lý này, một sự thật mà không còn một ai khác muốn
nói đến. Bất kỳ ai trong chúng
ta cố gắng đóng kín cánh cửa chân lý này, họ sẽ tạo
nên đau khổ. Nhưng cánh cửa này thường bị đóng kín vì
chúng ta được dạy rằng đau khổ là xấu hổ. Chúng ta có
thể khép kín bản thân, bởi vì không muốn thấy sự đau
khổ của chính mình hoặc nói cho người khác nghe biết về
nó. Sự phủ nhận về nỗi
khổ đau này thường xảy ra trong đời sống gia đình. Ðôi
khi có sự đau đớn tột bực trong gia đình - bất hòa, mâu
thuẫn, không an toàn, bạo lực - và bằng một nỗ lực để
che dấu sự thật với trẻ con: im lặng, che dấu, và né
tránh. Nếu như người ta chưa từng nói về sự đau khổ,
được bọc kín lại và sắp xếp khéo léo, để trông giống
như một điều gì khác khi nói về những tình huống đau đớn
với trẻ con ,người ta cần có thông tin khéo léo, phù hợp.Tuy
nhiên, nó thường là trường hợp mà chúng ta nhận biết
rõ những gì thật sự đang xảy ra. Không khẳng định bề
ngoài về những gì một đứa trẻ cảm thấy là thật, một
sự bất đồng phát sinh trong tâm - một sự mâu thuẫn giữa
những gì đứa bé được người ta kể cho nó và những gì
được biết qua trực giác. Trẻ em học cách không tin vào bản
thân, hãy tin tưởng độc nhất vào bố mẹ. Bởi vì những
khuôn mẫu giống như thế này, thừa nhận chân lý về sự
khổ là một sự giải thoát lớn lao đối với tất cả những
gì hệ lụy đến. Nhưng Ðức Phật không
chỉ dạy về đau khổ, mà Ngài còn dạy về diệt khổ. Một
người bạn của tôi, nghe được lời tuyên bố nổi tiếng
của Ðức Phật về lời dạy một điều duy nhất, bình luận
rằng "Khổ và diệt trừ khổ là hai điều, chứ không
phải một điều". Từ một quan điểm chúng là hai sự
kiện rõ ràng - hoặc là chúng ta khổ hoặc là giải thoát.
Chúng ta biết được sự khác biệt trong thể xác (thân) của
chúng ta, trong tâm của chúng ta, trong xương tủy của chúng
ta. Tuy vậy, khi chúng ta quan sát sâu sắc hơn lời dạy này,
chúng ta bắt đầu mở rộng ra tính trung thực của nó. Bởi
vì đối với bất cứ cảm nhận nào, thậm chí là một cảm
nhận đau đớn, chúng ta có thể tìm ra được sự chấm dứt
nỗi đau khổ ngay chính ở khoảnh khắc trong tâm. Tuy thế khi chúng ta đối
mặt với sự khổ và không thể thay đổi được "phần
kết của câu chuyện", rồi "như vậy làm cách nào
để diệt khổ?" Ðây là một trong những tình huống
khó khăn nhất, chúng ta có thể chạm trán trong cuộc sống.
Chúng ta bắt đầu chấp nhận sự đau đớn, bằng cách chấp
nhận chân lý của sự khổ. Chúng ta không trở thành kẻ nhẫn
nhục hoặc thờ ơ với nó; chúng ta quan sát sự khổ và
khám phá khả năng bao la của trái tim chúng ta, bao gồm luôn
tất cả những khía cạnh của cuộc sống trong sự tỉnh
giác của chúng ta. Khi chúng ta cảm nhận sự bao dung của
trái tim này, chúng ta nhận ra rằng nó thật sự không phải
chính ở sự đau đớn giả tạo và tàn ác, nhưng cảm giác
cô đơn trong nỗi đớn đau. Khi chúng ta mở rộng
vòng tay với điều này, nó có khả năng tiếp xúc với
chân lý cơ bản về cuộc sống đau khổ thuộc hình thức
này hoặc hình thức khác, là một phần tự nhiên của kiếp
sống. Biết được chân lý này tạo cho cuộc sống của ta
trọn vẹn và bình an, bởi vì nó giải thoát chúng ta khỏi
những tình huống suy sụp của tính tự phụ và phủ nhận.
Thỉnh thoảng khi chúng ta xé toang sự đau khổ và thấy được
những cội rễ của nó, chúng ta cũng nhận ra những hành động
để có thể làm giảm bớt khổ đau. Ðiển hình như trường
hợp đứa con trai của bạn tôi đau khổ do bởi thiếu nhiều
sự quan tâm và chăm sóc của mẹ mình. Bằng cách này, con
đường đi đến sự diệt khổ kể luôn cả sự nhận thức
rõ ràng nỗi đau đớn và thay thế sự chối bỏ bằng sự
nhận biết (tỉnh giác) và lòng bi mẫn. Vô số lần khi tôi ở
gần sư phụ của tôi U Pandita, tôi nói với Ngài "Những
sự việc thật sự hết sức tồi tệ. Hai đầu gối của tôi
đau, lưng của tôi nhức, tâm của tôi lang thang khắp mọi nơi,
tôi không thể tu tập". Vì thế nhiều lần lắng nghe,
và rồi được hoàn được đáp lại "Ðây là dukkha (khổ)
có phải không?" Tôi liên tục ngồi đối diện thầy tôi,
nhìn Ngài với những kỳ vọng lớn lao, chờ đợi Ngài để
nảy lên trong tâm trí giải pháp kỳ diệu - bất cứ điều
gì thường tạo nên những khó khăn tất cả điều biến mất.
Khi tôi chờ đợi, với tất cả niềm hy vọng và lo sợ
thì Ngài chỉ lập lại rõ ràng của tôi. "Ðây là khổ,
có phải vậy không?" Trong lúc thất vọng,
vào lúc ban đầu, câu trả lời của Ngài U Pandita, cuối
cùng trở nên hết sức thanh thản, tôi không thể làm hoặc
thay đổi bất cứ điều gì để so sánh với sức mạnh và
sự thanh thản về sự nhận ra một cách hết sức thành thật
"Ðây là khổ". Cơ bản là những lời nói của
Ngài U Pandita đưa tôi đến sự hiểu biết rằng những khó
khăn của tôi thật sự không phải là một bi kịch cá
nhân, nhưng là một sự mở rộng đi vào một khía cạnh cuộc
sống. Sự khổ cần phải được nhận thấy và được chấp
nhận, không phải vì đắm chìm, hoặc bị cuốn hút vào
nó, nhưng để mở rộng chân lý và đối với tất cả chúng
sinh. Có đôi khi chúng ta
không thể thay đổi đoạn kết của câu chuyện "và
làm cho tất cả những khổ đau biến mất. Nhưng kết cuộc
thay đổi tự nhiên bởi vì chúng ta liên hệ với chân lý
trước mắt chúng ta với tỉnh giác và lòng bi mẫn. Ðây
là lời dạy của Ðức Phật: Khổ đế cũng là con đường
dẫn đến diệt đế. -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ kheo
Thiện Minh đã gửi tặng phiên bản vi tính (Bình Anson, 01-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PL 2545 - TL 2002
updated: 01-02-2002