Pháp hành trong Phật giáo có 2 loại:
1- Pháp hành thiền định
(Samathabhāvanā).
2- Pháp hành thiền tuệ (Vipassanābhāvanā).
-ooOoo-
1- PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH (Samathabhāvanā)
Pháp hành thiền định là pháp hành làm cho tâm an trú trong
một đề mục thiền định duy nhất, dẫn đến sự chứng đắc tuần tự 5 bậc
thiền sắc giới, 4 bậc thiền vô sắc giới.
Pháp hành thiền định này đã có trước khi Đức Phật xuất hiện trên
thế gian. Theo tiểu sử Đức Phật Gotama, khi còn là Đức Bồ Tát
Siddhattha, Ngài đã từng thọ giáo với vị Đạo sư Ālāra Kalāmagotta về
pháp hành thiền định, Ngài đã chứng đắc đến bậc thiền "Vô sở hữu
xứ thiền"; và đã từng thọ giáo với vị Đạo sư Udaka Rāmaputta,
Ngài đã chứng đắc đến bậc thiền "Phi tưởng phi phi tưởng
xứ thiền" bậc thiền tột đỉnh của thiền vô sắc giới, cũng là
tột đỉnh của thiền tam giới.
Như vậy, pháp hành thiền định có trong Phật giáo và cũng có ngoài
Phật giáo.
Định nghĩa thiền định
Thiền định là định tâm trong một đề mục thiền định duy nhất làm đối
tượng, có khả năng chế ngự, làm vắng lặng được 5 pháp chướng ngại
(nivaraṇa), bằng 5 chi thiền, làm cho tâm an định vững chắc trong một
đề mục thiền định ấy, dẫn đến sự chứng đắc tuần tự 5 bậc thiền sắc
giới, 4 bậc thiền vô sắc giới.
Định tâm an trú trong bậc thiền, hành giả hưởng sự an lạc trong
thiền định.
Những điểm đặc biệt trong phần định nghĩa
1- Định tâm trong một đối tượng thiền định.
2- Đối tượng thiền định.
3- Năm pháp chướng ngại.
4- Năm chi thiền.
5- Năm bậc thiền sắc giới.
6- Bốn bậc thiền vô sắc giới.
7- Quả báu của thiền định.
Phần Giải Thích
1- Định Tâm Của Thiền Định
Thiền định có chi pháp là "nhất tâm tâm sở" [1]
(ekaggatācetasika), gọi là định tâm.
Trong trường hợp hành giả tiến hành thiền định, nhất tâm tâm
sở đóng vai trò chính yếu, làm cho tâm an trú trong một
đề mục thiền định duy nhất làm đối tượng.
Định tâm trong một đề mục thiền định ấy, trải qua 3 giai
đoạn như sau:
* Giai đoạn đầu: Nhất tâm tâm sở đồng
sanh với 8 dục giới đại thiện tâm (hay dục giới đại duy tác tâm), làm
phận sự định tâm tiến hành thiền định
(parikammasamādhi), có đề mục tiến hành (parikammanimitta),
và ấn chứng thô ảnh tương tự (ugghanimitta), làm đối tượng
thiền định.
* Giai đoạn giữa: Nhất tâm tâm sở đồng sanh
với 4 dục giới đại thiện tâm hợp trí tuệ (hay 4 dục giới đại duy tác
tâm hợp với trí tuệ), làm phận sự cận định
(upacārasamādhi) có ấn chứng quang ảnh trong sáng
(paṭibhāganimitta), làm đối tượng thiền định.
* Giai đoạn cuối: Nhất tâm tâm sở đồng sanh
với 5 sắc giới thiện tâm (hay 5 sắc giới duy tác tâm), làm phận sự
an định vững chắc (appanāsamādhi) có ấn chứng
quang ảnh trong sáng (paṭibhāganimitta) làm đối tượng thiền định.
* Và Nhất tâm tâm sở đồng sanh với 4 vô sắc giới
thiện tâm (hay 4 vô sắc giới duy tác tâm), làm phận sự an định
vững chắc (appanāsamādhi) có đề mục thiền vô sắc giới làm đối
tượng.
Nhất tâm tâm sở này gọi là định tâm của thiền định.
2- Đối Tượng Của Thiền Định
Đối tượng của thiền định tất cả gồm có 40 đề mục:
- 10 đề mục hình tròn (kasiṇa).
- 10 đề mục tử thi bất tịnh (asubha).
- 10 đề mục tùy niệm (anussati).
- 4 đề mục tứ vô lượng tâm (appamaññā).
- 1 đề mục quán vật thực đáng nhờm (āhāre paṭikkūlasaññā).
- 1 đề mục phân tích tứ đại (catudhātuvavatthāna).
- 4 đề mục vô sắc giới (āruppa).
2.1- Mười đề mục hình tròn kasiṇa [2]
1- Đề mục đất: Dùng đất làm đối tượng thiền định.
2- Đề mục nước: Dùng nước làm đối tượng thiền định.
3- Đề mục lửa: Dùng lửa làm đối tượng thiền định.
4- Đề mục gió : Dùng gió làm đối tượng thiền định.
5- Đề mục màu xanh: Dùng màu xanh làm đối tượng thiền định.
6- Đề mục màu vàng: Dùng màu vàng làm đối tượng thiền định.
7- Đề mục màu đỏ: Dùng màu đỏ là đối tượng thiền định.
8- Đề mục màu trắng: Dùng màu trắng làm đối tượng thiền định.
9- Đề mục ánh sáng: Dùng ánh sáng làm đối tượng thiền định.
10- Đề mục hư không: Dùng hư không làm đối tượng thiền định.
Đó là 10 đề mục hình tròn kasiṇa, làm đối tượng thiền định.
2.2- Mười đề mục tử thi bất tịnh (asubha)
1- Đề mục tử thi trải qua 2-3 ngày, làm đối tượng thiền định.
2- Đề mục tử thi biến sang màu tím thâm, làm đối tượng thiền định.
3- Đề mục tử thi chảy máu mủ, làm đối tượng thiền định.
4- Đề mục tử thi bị chặt đứt ra thành nhiều đoạn, làm đối tượng
thiền định.
5- Đề mục tử thi bị chó, quạ, diều hâu, kên kên, cắn xé bỏ rải rác,
làm đối tượng thiền định
6- Đề mục tử thi bị chặt tay, chân, đầu, mình bỏ rải rác, làm đối
tượng thiền định.
7- Đề mục tử thi bị đâm lủng nhiều lỗ, làm đối tượng thiền định.
8- Đề mục tử thi có máu chảy lai láng, làm đối tượng thiền định.
9- Đề mục tử thi có giòi, làm đối tượng thiền định.
10- Đề mục tử thi còn bộ xương trắng, làm đối tượng thiền
định.
Đó là 10 đề mục tử thi bất tịnh, làm đối tượng thiền định.
2.3- Mười đề mục tùy niệm (anussati)
1- Đề mục niệm 9 Ân Đức Phật.
2- Đề mục niệm 6 Ân Đức Pháp.
3- Đề mục niệm 9 Ân Đức Tăng.
4- Đề mục niệm về giới trong sạch của mình.
5- Đề mục niệm về sự bố thí của mình.
6- Đề mục niệm về 5 pháp của chư thiên có nơi mình.
7- Đề mục niệm về sự chết.
8- Đề mục niệm về 32 thể trược.
9- Đề mục niệm về trạng thái tịch tịnh an lạc Niết Bàn.
10- Đề mục niệm hơi thở vô – hơi thở ra.
Đó là 10 đề mục tùy niệm, làm đối tượng thiền định.
2.4- Bốn đề mục tứ vô lượng tâm (appamaññā)
1- Đề mục niệm rải tâm từ, chọn chúng sinh đáng yêu, làm
đối tượng thiền định.
2- Đề mục niệm rải tâm bi, chọn chúng sinh đang khổ, làm đối
tượng thiền định.
3- Đề mục niệm rải tâm hỉ, chọn chúng sinh đang hưỡng sự an
lạc hạnh phúc, làm đối tượng thiền định.
4- Đề mục niệm rải tâm xả, chọn chúng sinh có nghiệp là của
riêng mình, làm đối tượng thiền định.
Đó là 4 đề mục tứ vô lượng tâm, làm đối tượng thiền định.
2.5- Một đề mục quán vật thực bất tịnh, làm đối tượng thiền
định.
2.6- Một đề mục phân tích tứ đại: đất, nước, gió, lửa, làm đối
tượng thiền định.
2.7- Bốn đề mục vô sắc giới riêng biệt của 4 bậc thiền vô sắc giới
1- Hư không vô biên
làm đối tượng thiền định của không
vô biên xứ thiền.
2- Thứ vô biên (tâm không vô biên xứ thiền) làm đối tượng
thiền định của thức vô biên xứ thiền.
3- Vô sở hữu làm đối tượng thiền định của vô sở hữu xứ
thiền.
4- Rất vắng lặng, rất vi tế của tâm vô sở hữu xứ thiền
làm đối tượng thiền định của phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền.
Đó là 4 đề mục thiền vô sắc giới, làm đối tượng thiền định.
Pháp hành thiền định gồm 40 đề mục, khi hành giả tiến hành thiền
định chỉ có thể chọn 1 trong 36 đề mục thuộc về thiền sắc giới. Còn 4
đề mục thuộc thiền vô sắc giới, hành giả sau khi đã chứng đắc 5 bậc
thiền sắc giới xong rồi, mới tiếp tục tiến hành thiền vô sắc giới.
Thiền vô sắc giới có 4 bậc, mỗi bậc thiền có đối tượng riêng biệt tuần
tự từ thấp đến cao.
Muốn cho sự tiến hành thiền định được phát triển tốt, hành giả cần
phải biết chọn đề mục thích hợp với bản tánh riêng của mình. Đó là
điều trọng yếu đối với hành giả.
Sáu loại tánh của hành giả hành thiền định
Hành giả nói chung có 6 loại tánh (carita).
1- Rāgacarita:
Tánh tham dục.
2- Dosacarita: Tánh sân hận.
3- Mohacarita: Tánh si mê.
4- Vitakkacarita: Tánh suy diễn.
5- Saddhācarita: Tánh tín.
6- Buddhicarita: Tánh giác.
Trong một người có thể có nhiều tánh kể trên, song có một tánh nào
đó dễ phát sanh, thường phát sanh nhiều hơn các tánh khác, nên gọi
người ấy có tánh ấy.
Đề mục thiền định thích hợp và không thích hợp với mỗi tánh của
hành giả
1- Tánh tham dục (rāgacarita): Người nào
thường phát sanh tâm tham dục trong những đối tượng đáng hài lòng, hơn
các tính khác, người ấy gọi là người có tánh tham dục.
Hành giả có tánh tham dục, nếu tiến hành thiền định trong 8
đề mục như sau:
- 4 Đề mục tứ vô lượng tâm.
- 4 Đề mục màu sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng).
Những đề mục này làm cho tâm tham dục càng tăng trưởng, đồng thời
thiền định không thể phát triển được.
Vì vậy, 8 đề mục thiền định này không thích hợp đối
với hành giả có tánh tham dục.
Hành giả có tánh tham dục nên tiến hành thiền định trong 11
đề mục như sau:
- 10 Đề mục tử thi bất tịnh.
- 1 Đề mục niẹm 32 thể trược trong thân.
Những đề mục này làm cho vắng lặng được tâm tham dục, đồng thời làm
cho thiền định có thể phát triển.
Vì vậy, 11 đề mục thiền định này thích hợp với hành
giả có tánh tham dục.
2- Tánh sân hận (dosacarita): Người nào thường phát
sanh tâm sân hận, nóng nảy, bực bội trong những đối tượng không đáng
hài lòng, hơn các tính khác, người ấy gọi là người có tánh sân
han.
Hành giả có tánh sân hận, nếu tiến hành thiền định trong 11
đề mục như sau:
- 10 Đề mục tử thi bất tịnh.
- 1 Đề mục niẹm 32 thể trược trong thân.
Những đề mục này làm cho tâm sân hận càng tăng trưởng, đồng thời
thiền định không thể phát triển lên được.
Vì vậy, 11 đề mục thiền định này không thích hợp đối
với hành giả có tánh sân hận.
Hành giả có tánh sân hận nên tiến hành thiền định trong 8
đề mục như sau:
- 4 Đề mục tứ vô lượng tâm.
- 4 Đề mục màu sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng).
Những đề mục này làm cho vắng lặng được tâm sân hận, đồng thời làm
cho thiền định có thể phát triển.
Vì vậy, 8 đề mục thiền định này thích hợp với hành
giả có tánh sân hận.
3- Tánh si mê (mohacarita): Người nào thường phát
sanh tâm si mê, phóng tâm và hoài nghi trong các pháp, hơn các tính
khác, người ấy gọi là người có tánh si mê.
Hành giả có tánh si mê, nếu tiến hành thiền định trong 4 đề
mục như sau:
- Đề mục niệm về chết.
- Đề mục niệm về trạng thái tịch tịnh an lạc Niết Bàn.
- Đề mục quán tưởng vật thực bất tịnh.
- Đề mục quán xét phân tích tứ đại: đất, nước, lửa, gió.
Những đề mục này rất vi tế sâu sắc, khó mà thấy rõ được, thì chỉ
làm cho tâm si mê càng thêm tối tăm, đồng thời thiền định không thể
phát triển được.
Vì vậy, 4 đề mục thiền định này không thích hợp đối
với hành giả có tánh si mê.
Hành giả có tánh si mê nên tiến hành thiền định đề mục
niệm hơi thở vô – hơi thở ra rõ ràng không có gì đáng hoài nghi
cả. Đề mục này có thể làm cho vắng lặng được tâm si mê, đồng thời làm
cho thiền định có thể phát triển.
Vì vậy, đề mục thiền định niệm hơi thở vô – hơi thở ra này
thích hợp với hành giả có tánh si mê.
4- Tánh suy diễn (vitakkacarita): Người nào
thường suy diễn lung tung, nói năng đủ chuyện, làm việc gì cũng không
đến nơi đến chốn…, hơn các tính khác, người ấy gọi là người có
tánh suy diễn.
Hành giả có tánh suy diễn, nếu tiến hành thiền định trong 4
đề mục như sau:
- Đề mục niệm về chết.
- Đề mục niệm về trạng thái tịch tịnh an lạc Niết Bàn.
- Đề mục quán tưởng vật thực bất tịnh.
- Đề mục quán xét phân tích tứ đại: đất, nước, lửa, gió.
Những đề mục này rất vi tế sâu sắc, khó mà thấy rõ được, thì chỉ
làm cho tâm suy diễn lung tung thêm, đồng thời thiền định không thể
phát triển được.
Vì vậy, 4 đề mục thiền định này không thích hợp đối
với hành giả có tánh suy diễn.
Hành giả có tánh suy diễn nên tiến hành thiền định đề
mục niệm hơi thở vô – hơi thở ra rõ ràng không có gì đáng
suy diễn nhiều. Đề mục này có thể làm cho vắng lặng được suy nghĩ mung
lung, đồng thời làm cho thiền định có thể phát triển.
Vì vậy, đề mục thiền định niệm hơi thở vô – hơi thở ra này
thích hợp với hành giả có tánh suy diễn.
5- Tánh tín (saddhācarita): Người nào thường
có đức tin trong sạch nơi Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, tin
nghiệp và quả của nghiệp, tin phước, tin tội, hơn các tính khác, người
ấy gọi là người có tánh tín.
Hành giả có tánh tín nên tiến hành thiền định trong 6 đề
mục như sau:
- Niệm Ân 9 Đức Phật.
- Niệm Ân 6 Đức Pháp.
- Niệm Ân 9 Đức Tăng.
- Niệm về giới trong sạch của mình.
- Niệm về sự bố thí của mình.
- Niệm về 5 pháp của chư thiên có nơi mình,
Những đề mục này rất thích hợp với hành giả có
tánh tín, càng làm cho đức tin được tăng trưởng.
6- Tánh giác (buddhicarita): Người nào thường
có trí tuệ quán xét các pháp vi tế sâu sắc, hơn các tính khác,
người ấy gọi là người có tánh giác.
Hành giả có tánh giác nên tiến hành thiền định trong 4 đề
mục như sau:
- Niệm về sự chết.
- Niệm về trạng thái tịch tịnh an lạc Niết Bàn.
- Quán tưởng về đề mục vật thực bất tịnh.
- Quán xét phân tích đề mục tứ đại: đất, nước, lửa, gió,
Những đề mục này rất vi tế, sâu sắc, thích hợp với
hành giả có tánh giác, để làm cho trí tuệ tăng trưởng
sâu sắc thêm nhiều.
Đề mục thiền định thích hợp cả 6 tánh
Những đề mục thiền định thích hợp cho tất cả 6 tánh hành giả như
sau:
- 6 Đề mục hình tròn kasiṇa: đất, nước, lửa, gió, ánh sáng, hư
không.
- 4 Đề mục vô sắc giới.
Những đề mục này thích hợp cho tất cả mọi hành giả, không phân biệt
tánh nào.
Đặc biệt, đối với hành giả có tánh si mê, nếu tiến
hành đề mục hình tròn kasiṇa đất,… nên làm hình tròn đường kính rộng
hơn bình thường, so với các hành giả khác, để tâm trí không bị khó
chịu, hay quên, phóng tâm. Và đối với hành giả có tánh suy diễn,
nếu tiến hành đề mục hình tròn kasiṇa đất,… nên làm hình tròn đường
kính hẹp hơn bình thường, so với các hành giả khác, để tâm an trú
trong đề mục hình tròn kasiṇa dễ dàng.
Phân Loại 40 Đề Mục Thiền Định Theo Các Bậc Thiền
Phân loại các đề mục thiền định theo khả năng của mỗi đề mục như
sau:
* 10 đề mục đạt đến cận định (upacārasamādhi):
1- Đề mục niệm 9 Ân Đức Phật.
2- Đề mục niệm 6 Ân Đức Pháp.
3- Đề mục niệm 9 Ân Đức Tăng.
4- Đề mục niệm về giới trong sạch của mình.
5- Đề mục niệm về bố thí của mình.
6- Đề mục niệm về 5 pháp của chư thiên có ở nơi mình.
7- Đề mục niệm về sự chết.
8- Đề mục trạng thái an lạc tịch tịnh Niết Bàn.
9- Đề mục quán vật thực bất tịnh.
10- Đề mục quán xét phân tích tứ đại: đất, nước, lửa, gió.
10 đề mục thiền định này, có đối tượng là Chân nghĩa pháp vô cùng
vi tế, sâu sắc, ý nghĩa rộng mênh mông, bao la, nên tâm không thể an
trú vững chắc nơi đối tượng được.
Do đó, 10 đối tượng thiền định này chỉ có khả năng đạt đến
cận định (upacārasamādhi), không thể đạt đến an
định (appanāsamādhi) nên không thể chứng đắc được bậc
thiền nào.
* 11 Đề mục chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới:
- 10 Đề mục tử thi bất tịnh.
- 1 Đề mục niệm 32 thể trược trong thân.
11 đề mục thiền định này rất thô, bất tịnh đáng ghê tởm. Khi
hành giả tiến hành thiền định 1 trong 11 đề mục này, cần phải có
chi thiền vitakka: hướng tâm đến đối tượng.
Do đó, 11 đề mục thiền định này chỉ có khả năng chứng đắc đệ nhất
thiền sắc giới, mà không thể chứng đắc các bậc thiền sắc giới cao hơn.
* 3 đề mục vô lượng tâm, chứng đắc 4 bậc thiền sắc giới:
1- Đề mục niệm rải tâm từ, đến với chúng sinh đáng yêu, đáng kính
mến.
2- Đề mục niệm rải tâm bi, đến với chúng sinh đang đau khổ, mong cứu
khổ.
3- Đề mục niệm rải tâm hỉ, đến với chúng sinh đang hưởng hạnh phúc,
an lạc.
3 đề mục vô lượng tâm này chỉ có khả năng chứng đắc được từ đệ
nhất thiền cho đến đệ tứ thiền sắc giới. Nhưng không thể
chứng đắc đến đệ ngũ thiền sắc giới. Vì 3 đề mục thiền định này
luôn luôn tùy thuộc vào thọ hỉ (somanassavedanā) liên quan đến
chi thiền "lạc" (sukha). Còn đệ ngũ thiền sắc giới,
thì phải diệt chi thiền lạc thay vào chi thiền
"xả" (upekkhā) và nhất tâm.
Do đó, 3 đề mục vô lượng tâm này không thể chứng đắc đệ ngũ thiền
sắc giới.
* Đề mục niệm rải tâm xả, chứng đắc đệ ngũ thiền:
Sau khi hành giả tiến hành 1 trong 3 đề mục vô lượng tâm:
niệm rải tâm từ, hoặc niệm rải tâm bi, hoặc
niệm rải tâm hỉ, một khi đã chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc
giới đến đệ tứ thiền sắc giới rồi, muốn chứng đắc
đệ ngũ thiền sắc giới, hành giả cần phải thay đổi sang đề mục
"niệm rải tâm xả đến với chúng sinh có nghiệp là của riêng mình".
Vì đệ ngũ thiền sắc giới luôn luôn tùy thuộc vào thọ
xả, liên quan đến chi thiền "xả" (upekkhā). Do
đó, hành giả chỉ có niệm rải tâm xả đến cho tất cả chúng sinh có
nghiệp là của riêng mình, cho đến khi chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới.
Đề mục niệm rải tâm xả này, chỉ có khả năng đặc biệt chứng đắc
đệ ngũ thiền sắc giới bậc cao nhất mà thôi, không thể chứng đắc
thiền sắc giới bậc thấp. Vì vậy, hành giả không thể bắt đầu tiến hành
thiền định với đề mục "niệm rải tâm xả" mà chỉ tiến hành sau
khi đã chứng đắc đến đệ tứ thiền sắc giới với 1 trong 3 đề mục
vô lượng tâm: niệm rải tâm từ, hoặc niệm rải tâm bi, hoặc niệm rải tâm
hỉ.
* 11 đề mục chứng đắc các bậc thiền sắc giới:
- 10 Đề mục hình tròn kasiṇa.
- 1 Đề mục niệm hơi thở vô – hơi thở ra.
Hành giả tiến hành thiền định 1 trong 11 đề mục thiền định này, có
khả năng chứng đắc tuần tự từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến
đệ ngũ thiền sắc giới. Cho nên hành giả không cần phải thay đổi
sang đề mục thiền định nào khác.
* 4 đề mục thiền vô sắc giới.
Bốn đề mục thiền vô sắc giới, cứ mỗi đề mục, chỉ có khả năng chứng
đắc mỗi bậc thiền vô sắc giới riêng biệt, theo tuần tự từ thấp đến cao
như sau:
1- Đề mục "ākāso ananto…": "hư không vô biên…" làm
đối tượng để chứng đắc đệ nhất thiền vô sắc giới gọi là "Không
vô biên xứ thiền".
2- Đề mục "viññāṇaṃ anantaṃ…": "thức vô biên…"
(tâm không vô biên xứ thiền) làm đối tượng, để chứng đắc đệ nhị
thiền vô sắc giới gọi là "Thức vô biên xứ thiền".
3- Đề mục "natthi kiñci…": "vô sở hữu: không có gì…"
làm đối tượng để chứng đắc đệ tam thiền vô sắc giới gọi là "Vô
sở hữu xứ thiền".
4- Đề mục "santaṃ… paṇitaṃ…": "rất vắng lặng, rất vi tế"
của vô sở hữu xứ thiền làm đối tượng, để chứng đắc đệ tứ thiền
vô sắc giới gọi là "Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền".
Bốn đề mục thiền vô sắc giới này, chỉ có thể tiến hành sau khi hành
giả đã chứng đắc xong 5 bậc thiền sắc giới.
Khi hành giả đã chứng đắc đến đệ ngũ thiền sắc giới xong rồi, muốn
tiếp tục chứng đắc thiền vô sắc giới, bắt buộc hành giả phải tiến hành
mỗi đề mục thiền vô sắc giới tuần tự từ thấp đến cao. Cứ mỗi đề mục vô
sắc giới, chỉ có khả năng chứng đắc mỗi bậc thiền vô sắc giới riêng
biệt theo tuần tự trước sau mà thôi.
3- Năm pháp chướng ngại (Nivaraṇa)
Thiền định không thể phát triển được là do 5 pháp chướng
ngại (nivaraṇa). 5 pháp này là những phiền não làm cho
tâm ô nhiễm, tâm không thể an trú trong một đề mục thiền định nào làm
đối tượng.
Năm pháp chướng ngại (nivaraṇa) là:
1- Kāmacchanda: Tham dục, là tâm tham muốn trong ngũ dục
(sắc, thanh, hương, vị, xúc).
2- Byāpāda: Sân hận, là tâm sân, thù hận làm cho bực bội
khó chịu, nóng nảy trong tâm.
3- Thīna-middha: Buồn chán-buồn ngủ, là 2 tâm sở làm cho
tâm thoái chí, buông bỏ đối tượng, không muốn tiến hành thiền định.
4- Uddhacca-kukkucca: Phóng tâm-hối hận, là 2 tâm sở làm
cho tâm không thể an trú trong đối tượng thiền định. Như phóng
tâm nghĩ chuyện này chuyện khác và tâm hối hận nghiệp ác
đã làm, còn nghiệp thiện không làm.
5- Vicikicchā: Hoài nghi, là tâm hoài nghi, không
có đức tin vững chắc nơi Tam bảo, hoặc nơi nghiệp và quả của nghiệp,
nhất là còn nghi ngờ trong pháp hành thiền định….
Đó là 5 pháp chướng ngại làm cản trở việc tiến hành thiền định, làm
cho tâm không thể an trú trong đề mục thiền định duy nhất nào làm đối
tượng.
Muốn chế ngự, đè nén 5 pháp chướng ngại này cần phải nhờ đến 5 chi
thiền.
4- Năm chi thiền (jhānaṅga)
Năm chi thiền đó là 5 tâm sở đồng sanh trong đệ nhất thiền sắc giới
tâm, có khả năng chế ngự được 5 pháp chướng ngại.
Năm chi thiền là:
1- Vitakka: Hướng tâm đến một đề mục thiền định duy nhất
làm đối tượng.
2- Vicāra: Quan sát đối tượng ấy.
3- Pīti: Hỉ, tâm hoan hỉ phát sanh do tâm an trú trong
đối tượng ấy.
4- Sukha: Thọ lạc, phát sanh do tâm an trú trong đối tượng
ấy.
5- Ekaggatā: Nhất tâm, định tâm an trú vững chắc trong đối
tượng ấy.
Đó là 5 chi thiền đồng sanh trong đệ nhất thiền sắc giới tâm.
5 chi thiền chế ngự 5 pháp chướng ngại
Trong đệ nhất thiền sắc giới tâm có 5 chi thiền, có khả năng chế
ngự được 5 pháp chướng ngại như sau:
1- Vitakka: Chi thiền hướng tâm tâm sở, có khả năng
chế ngự được tâm buồn chán-buồn ngủ
(thīna-middha).
2- Vicāra: Chi thiền quan sát tâm sở, có khả năng
chế ngự được tâm hoài nghi (vicikicchā).
3- Pīti: Chi thiền hỉ tâm sở, có khả năng chế ngự được
tâm sân hận (byāpāda).
4- Sukha: Chi thiền thọ lạc tâm sở, có khả năng chế
ngự được phóng tâm-hối hận (uddhacca-kukkucca).
5- Ekaggatā: Chi thiền nhất tâm tâm sở, có
khả năng chế ngự được tâm tham dục (kāmacchanda).
5- Năm bậc thiền sắc giới
Thiền sắc giới có 5 bậc thiền có thể phát sanh cùng trong một đề
mục thiền định, hay cũng có thể khác đề mục thiền định làm đối tượng.
Nhưng điều chắc chắn 5 bậc thiền sắc giới khác nhau về các chi thiền
như sau:
1- Đệ nhất thiền sắc giới có 5 chi thiền là:
vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatà.
2- Đệ nhị thiền sắc giới do diệt được chi thiền
vitakka, nên còn lại 4 chi thiền là: vicāra, pīti, sukha,
ekaggatā.
3- Đệ tam thiền sắc giới do diệt được chi thiền
vicāra, nên còn lại 3 chi thiền là: pīti, sukha, ekaggatā.
4- Đệ tứ thiền sắc giới do diệt được chi thiền
pīti, nên còn lại 2 chi thiền là: sukha, ekaggatā.
5- Đệ ngũ thiền sắc giới do diệt được chi thiền
sukha, thay bằng chi thiền upekkhā, nên cũng có 2 chi
thiền là: upekkhā, ekaggatā.
Thiền sắc giới theo Kinh tạng
thường có bốn bậc thiền, điểm đặc biệt ở đệ nhị thiền
sắc giới do có khả năng diệt được 2 chi thiền cùng một lúc.
Do đó, thiền sắc giới có 4 bậc thiền như sau:
1- Đệ nhất thiền sắc giới có 5 chi thiền là:
vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.
2- Đệ nhị thiền sắc giới do diệt được 2 chi thiền
vitakka, vicāra, nên còn có 3 chi thiền là: pīti, sukha,
ekaggatā.
3- Đệ tam thiền sắc giới do diệt được chi thiền
pīti, nên còn có 2 chi thiền là: sukha, ekaggatā.
4- Đệ tứ thiền sắc giới do diệt được chi thiền
sukha, thay bằng chi thiền upekkhā, nên cũng có 2 chi
thiền là: upekkhā, ekaggatā.
Sự khác biệt giữa các bậc thiền sắc giới là ở chi thiền,
nhưng có thể giống nhau ở đề mục thiền định làm đối tượng. Nếu
những đề mục thiền định ấy có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc
giới đến đệ ngũ thiền sắc giới.
Trường hợp những đề mục thiền định chỉ có khả năng chứng đắc đệ
nhất thiền sắc giới mà thôi, hay có khả năng chứng đắc từ
đệ nhất thiền sắc giới, cho đến đệ tứ thiền sắc giới,
hành giả muốn chứng đắc bậc thiền sắc giới cao hơn, cần phải thay đổi
sang đề mục thiền định khác, có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc
giới cao hơn nữa.
6- Bốn bậc thiền vô sắc giới
Sau khi hành giả đã chứng đắc qua 5 bậc thiền sắc giới xong rồi,
muốn tiếp tục tiến hành thiền định để chứng đắc các bậc thiền vô sắc
giới, hành giả cần phải thay đổi sang đề mục thiền vô sắc giới.
Thiền vô sắc giới có 4 bậc thiền, cứ mỗi bậc thiền vô sắc giới, có
mỗi đề mục riêng biệt của bậc thiền ấy.
Bốn bậc thiền vô sắc giới là:
1- Đệ nhất thiền vô sắc giới
, gọi là:
"Không vô biên xứ thiền" có 2 chi thiền là: upekkhā
và ekaggatā. Có đề mục "hư không vô biên" làm đối
tượng.
2- Đệ nhị thiền vô sắc giới, gọi là: "Thức vô
biên xứ thiền" có 2 chi thiền là: upekkhā và
ekaggatā. Có đề mục "thức vô biên (tâm không vô biên xứ
thiền)" làm đối tượng.
3- Đệ tam thiền vô sắc giới, gọi là: "Vô sở hữu
xứ thiền" có 2 chi thiền là: upekkhā và ekaggatā.
Có đề mục "vô sở hữu" làm đối tượng.
4- Đệ tứ thiền vô sắc giới, gọi là: "Phi tưởng
phi phi tưởng xứ thiền" có 2 chi thiền là: upekkhā và
ekaggatā. Có đề mục "rất vắng lặng, rất vi tế" của vô
sở hữu xứ thiền làm đối tượng.
Đó là 4 bậc thiền vô sắc giới, cứ mỗi bậc thiền vô sắc giới có mỗi
đề mục khác nhau, nhưng 4 bậc thiền vô sắc giới đều giống nhau về chi
thiền là: upekkhā và ekaggatā.
Điểm khác biệt giữa thiền sắc giới và thiền vô sắc giới:
- Năm bậc thiền sắc giới có chi thiền hoàn toàn khác nhau, về đề
mục giống nhau cũng có và khác nhau cũng có.
- Bốn bậc thiền vô sắc giới có 2 chi thiền hoàn toàn giống nhau,
nhưng mỗi bậc thiền vô sắc giới có đối tượng hoàn toàn khác nhau.
Điều Nên Biết Về Tiến Hành Thiền Định
Hành giả mong muốn tiến hành thiền định, nên biết những điều quan
trọng sau đây:
- Hành giả nên tìm một vị Thiền sư thông thạo về pháp
học và giàu kinh nghiệm về pháp hành thiền định, để nương nhờ học hỏi
trực tiếp, và trình pháp thiền của mình suốt thời gian tiến hành thiền
định, để tránh sai lầm trong pháp hành thiền định.
- Nếu tự mình có khả năng tự chọn một đề mục thiền định thích hợp
với bản tánh riêng của mình, bằng không, nên nhờ vị Thiền sư
chọn giúp đề mục thiền định thích hợp.
Điều này rất quan trọng, nếu hành giả chọn đề mục không thích hợp
với bản tánh riêng của mình, thì sự tiến hành thiền định khó phát
triển tốt được. Khi hành giả chọn đúng đề mục thiền định thích hợp,
thì sự tiến hành thiền định được thuận lợi, dễ dàng phát triển tốt.
Đó quả là điều khó khăn, vì ngoài Đức Phật ra, không
có vị Thiền sư nào có khả năng biết được căn duyên của
hành giả, nên việc chọn đúng đề mục thiền định thích hợp với căn duyên
của hành giả là điều không phải dễ.
- Hành giả phải có giới đức trong sạch làm nền tảng để tiến hành
thiền định, mới được phát triển tốt. Cũng giống như cây được phát
triển tốt là do nương nhờ ở đất tốt.
- Sau khi đã chọn được đề mục thiền định thích hợp với bản tánh
riêng của mình, hành giả nên tìm một nơi thanh vắng, yên tĩnh để tiến
hành thiền định.
- Buổi ban đầu, hành giả phải nên thường gần gũi thân cận với vị
Thiền sư giàu kinh nghiệm về pháp hành thiền định, để trình pháp:
là trình những hiện tượng, những ấn chứng phát sanh lên với hành giả
chưa từng thấy trước đây, để cho vị Thiền sư nhận xét đúng hay
sai rồi chỉ dẫn tiếp tục sự tiến hành thiền định. Nếu không có sự
hướng dẫn trực tiếp của vị Thiền sư thì dễ sanh sự hoài nghi,
có thể làm chướng ngại việc tiến hành thiền định của hành giả.
Tập sách nhỏ này đề cập đến vấn đề "Tìm hiểu về pháp hành
thiền tuệ" không phải pháp hành thiền định. Song pháp
hành thiền định được nêu ra, để có sự nhận xét so sánh; để phân biệt
sự khác nhau giữa pháp hành thiền định và pháp hành thiền tuệ; để hiểu
biết, hỗ trợ lẫn nhau giữa hai pháp hành.
Nếu hành giả muốn tiến hành thiền định, nên học hỏi nghiên cứu ở bộ
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), phần thiền định, để tìm
hiểu rõ ràng hơn.
7- Quả Báu Của Thiền Định
Hành giả tiến hành thiền định, đã chứng đắc được các bậc thiền sắc
giới, các bậc thiền vô sắc giới nào rồi, hành giả sẽ hưởng được nhiều
quả báu ngay cả trong kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai như sau:
1- Nhập định để hưởng sự an lạc trong kiếp hiện tại.
2- Chứng đắc được bát thiền có khả năng luyện Ngũ thông
(Abhiññā).
3- Bậc thiền làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.
4- Bậc thiền hỗ trợ bậc Thánh nhân nhập Thánh Quả định.
5- Bát thiền hỗ trợ bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Arahán nhập Diệt
thọ tưởng định.
6- Quả báu tái sanh kiếp sau.
7.1- Nhập định để hưởng sự an lạc trong kiếp hiện tại
(jhānasamāpatti)
Hành giả đã chứng đắc bậc thiền nào rồi, và đã thường quen tập
luyện 5 pháp thuần thục (vasī):
1- Āvajjanavasī: Thuần thục trong sự quán xét chi thiền do
ý môn hướng tâm.
2- Samāpajjanavasī: Thuần thục trong việc nhập định.
3- Adhiṭṭhānavasī: Thuần thục việc phát nguyện thời gian
nhập định.
4- Vuṭṭhānavasī: Thuần thục việc xả định theo thời
gian.
5- Paccavekkhaṇavasī: Thuần thục trong việc quán xét chi
thiền do tác hành tâm (javanacitta).
Hành giả có 5 pháp thuần tục, có thể nhập định ở bậc thiền nào đã
chứng đắc, để hưởng an lạc ở kiếp hiện tại, trong một thời gian suốt 1
giờ hay 2-3 giờ theo ý muốn của hành giả. Nếu đã chứng đắc tất cả các
bậc thiền sắc giới, thiền vô sắc giới, thì hành giảcó thể nhập định
bậc thiền nào, mà hành giả muốn.
Ví dụ:
Hành giả đã chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới đến đệ
ngũ thiền sắc giới. Nay hành giả phát nguyện muốn nhập định ở
đệ nhị thiền sắc giới, thì hành giả luyện 5 pháp thuần thục rồi
nhập định theo lộ trình đệ nhị thiền sắc giới như sau:
Đồ biểu lộ trình tâm nhập thiền định:
Jhānasamāpattivīthi

Giải Thích:
|
|
viết tắt |
1- Bhavaṅgacitta |
Hộ kiếp tâm |
bha |
2- Bhavaṅgacalana |
Hộ kiếp tâm bị rung động |
na |
3- Bhavaṅgupaccheda |
Hộ kiếp tâm bị cắt đứt
|
da |
4- Manodvāravajjanacitta |
Ý môn hướng tâm |
ma |
5- Parikamma |
Chuẩn bị đệ nhị thiền phát sanh |
pari |
6- Upacāra |
Cận thiền tâm |
upa |
7- Anuloma |
Thuận dòng thiền tâm |
anu |
8- Gotrabhu |
Chuyển dục giới tâm sang sắc giới tâm |
got |
9- Dutiyajjhānacitta |
Đệ nhị thiền sắc giới tâm |
jhā |
10- Bhavaṅgacitta |
Hộ kiếp tâm |
bha |
Hành giả đã nhập định đệ nhị thiền sắc giới, thì đệ nhị thiền sắc
giới tâm phát sanh liên tục trong suốt thời gian mà hành giả đã phát
nguyện, có thể suốt 1 giờ hoặc 2-3 giờ theo ý muốn của mình.
Trong khi nhập định, chỉ có thiền tâm phát sanh theo
ý môn lộ trình thiền tâm mà thôi. Ngoài ra, các loại tâm
khác không phát sanh ở các môn khác, nên hành giả không thấy sắc,
không nghe tiếng, không ngửi mùi, không nếm vị, không biết tiếp xúc
nóng lạnh, mà chỉ có thiền tâm phát sanh liên tục, hành
giả hưởng được sự an lạc trong bậc thiền ấy cho đến khi hết thời gian
phát nguyện. Khi ấy, hộ kiếp tâm phát sanh, chấm dứt lộ trình tâm nhập
định. Hành giả trở lại cuộc sống bình thường. Nhãn thức tâm nhìn thấy
sắc trần; nhĩ thức tâm nghe thanh trần, tỷ thức tâm ngửi hương trần;
thiệt thức tâm nếm vị trần; thân thức tâm tiếp xúc trần và ý thức tâm
biết pháp trần.
7.2- Bát thiền, luyện Ngũ thông (Abhiññā)
Hành giả chứng đắc được tứ thiền sắc giới và tứ thiền vô sắc giới,
có thể luyện Ngũ thông (Abhiññā).
Thế gian thần thông (Lokiya abhiññā) có 5 loại:
1- Iddhividha abhiññā: Thần túc thông: là thần
thông có thể biến hóa một người thành ra cả ngàn người; hiện thân
đến nơi khác; tàng hình không ai thấy; xuyên qua núi; hóa mặt đất
thành biển, hoá biển thành mặt đất, thăng thiên, độn thổ, hóa ra
người già, chư thiên, voi, ngựa, cọp,….
2- Dibbacakkhu abhiññā: Thiên nhãn thông, là
thần thông có thể thấy khắp mọi nơi; thấy các cõi trời dục giới, sắc
giới, thấy ngạ quỷ, atula, địa ngục. Và còn có thể thấy những gì đã
xảy ra trong quá khứ, sẽ xảy ra trong vị lai….
3- Dibbasota abhiññā: Thiên nhĩ thông, là thần thông có
thể nghe được các thứ tiếng từ xa khắp mọi nơi….
4- Pubbenivāsānussati abhiññā: Túc mạng thông, là
thần thông có thể nhớ rõ những kiếp trong quá khứ, đủ mọi chi tiết,
kiếp trước sanh làm loại chúng sinh nào, tên, dòng họ, tạo nghiệp
gì….
5- Paracittavijānana abhiññā: Tha tâm thông,
là thần thông có thể biết rõ được ý nghĩ của người khác, chúng sinh
khác.
Năm loại thần thông này thuộc thế gian.
7.3- Bậc thiền làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ
Hành giả đã chứng đắc được bậc thiền nào, hành giả xả bậc thiền
ấy ra rồi dùng bậc thiền ấy làm nền tảng để tiến hành thiền
tuệ. Nghĩa là dùng chi thiền hay bậc thiền
tâm ấy làm đối tượng của thiền tuệ.
- Thiền tâm, hay chi thiền ấy thuộc
về danh pháp.
- Sắc ý căn (hadayavatthu) nơi nương nhờ phát sanh
thiền tâm cùng chi thiền ấy thuộc về sắc pháp.
Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi phát sanh trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp ấy
sanh rồi diệt, hiện thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc
Thánh Đạo, Thánh Quả theo bậc thiền ấy. Bậc thiền tâm ấy trở
thành "siêu tam giới thiền tâm" vì có Niết Bàn làm đối
tượng.
Do đó siêu tam giới thiền tâm có 5 bậc thiền, từ đệ nhất
thiền đến đệ ngũ thiền, vì đặc biệt có Niết Bàn siêu tam giới
làm đối tượng thiền tuệ.
7.4- Bậc thiền hỗ trợ bậc Thánh nhân nhập Thánh Quả Định
(phalasammāpatti)
Hành giả là bậc Thánh nhân đã chứng đắc thiền định có thể nhập
Thánh Quả Định bậc cao cuối cùng, để hưởng sự an lạc tịch
tịnh Niết Bàn suốt thời gian phát nguyện 1 giờ hay 2-3 giờ tuỳ theo ý
muốn của hành giả.
Ví dụ:
Bậc Thánh Arahán đã chứng đắc đệ ngũ thiền chỉ có thể
nhập Arahán Thánh Quả Định, ở bậc thiền nào trong 5 bậc
thiền đã chứng đắc tùy ý, nhưng không thể nhập Thánh Quả Định bậc
thấp, như Bất Lai Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Quả….
(Lộ trình tâm nhập Arahán Thánh Quả Định, xin xem phần "Quả báu của
thiền tuệ" ở sau).
7.5- Bậc thiền hỗ trợ cho bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh Arahán
nhập Diệt thọ tưởng định (nirodhasamāpatti)
Hành giả là bậc Thánh Bất Lai (Anāgāmī) và bậc Thánh Arahán
(Arahanta) muốn nhập Diệt thọ tưởng định cần phải có đủ 2 năng
lực:
- Năng lực của thiền định (samathabala) phải
chứng đắc cửu thiền (hay bát thiền).
- Năng lực của thiền tuệ (vipassanābala)
phải là bậc Bất Lai Thánh Quả, hoặc bậc Arahán Thánh Quả.
Do nhờ 2 năng lực ấy, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Arahán mới có
thể nhập Diệt thọ tưởng định (nirodhasammāpatti).
Nghĩa là diệt tâm, tâm sở và sắc pháp phát sanh từ
tâm, (chỉ có sắc pháp phát sanh từ nghiệp, từ thời tiết và từ vật
thực còn lại mà thôi), suốt trong 7 ngày hoàn toàn giải thoát khỏi
mọi cảnh khổ. Qua đến ngày thứ 8 xả Diệt thọ tưởng định, trở
lại cuộc sống bình thường, thở vô – thở ra, 6 thức tâm tiếp xúc với 6
trần cảnh như trước.
(Lộ trình tâm nhập Diệt thọ tưởng định xin xem phần "Quả báu của
thiền tuệ" ở sau).
7.6- Quả báu tái sanh kiếp sau
Hành giả tiến hành thiền định sẽ được những quả báu như sau:
- Nếu hành giả tiến hành thiền định chỉ đạt đến cận định
(upacārasamādhi), chưa chứng đắc bậc thiền nào. Sau
khi chết do năng lực dục giới thiện nghiệp cho quả tái sanh làm người
hay làm chư thiên ở 6 cõi trời dục giới, thọ hưởng sự an lạc ở cõi
trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
- Nếu hành giả tiến hành thiền định chứng đắc được bậc thiền
sắc giới hay thiền vô sắc giới nào rồi, bậc
thiền ấy không bị hoại mất cho đến lúc chết. Sau khi chết, do
năng lực sắc giới thiện nghiệp cho quả chắc chắn tái sanh làm
Phạm thiên ở cõi trời sắc giới hay cõi trời vô sắc giới tuỳ theo bậc
thiền sở đắc cuối cùng của hành giả.
Khi hành giả đã tái sanh ở cõi trời sắc giới hay cõi trời vô sắc
giới nào rồi, được hưởng sự an lạc, của cõi trời sắc giới hay cõi trời
vô sắc giới ấy cho đến hết tuổi thọ.
Quả báu 4 bậc thiền sắc giới
Bốn bậc thiền sắc giới, mỗi bậc thiền có năng lực khác nhau tương
xứng với 16 tầng trời sắc giới như sau:
1- Quả báu đệ nhất thiền sắc giới
Hành giả đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, sẽ được tái sanh 3
tầng trời sắc giới tuỳ theo năng lực của bậc thiền.
- Đệ nhất thiền sắc giới bậc hạ, được tái sanh làm
Phạm thiên ở tầng trời Phạm chúng thiên, có tuổi thọ
1/3 a tăng kỳ trụ.
- Đệ nhất thiền sắc giới bậc trung, được tái sanh
làm Phạm thiên ở tầng trời Phạm phụ thiên, có tuổi thọ
1/2 a tăng kỳ trụ.
- Đệ nhất thiền sắc giới bậc thượng, được tái sanh
làm Phạm thiên ở tầng trời Đại phạm thiên, có tuổi thọ
1 a tăng kỳ trụ [3].
2- Quả báu đệ nhị thiền sắc giới
Hành giả đã chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, sẽ được tái sanh 3
tầng trời sắc giới tuỳ theo năng lực của bậc thiền.
- Đệ nhị thiền sắc giới bậc hạ, được tái sanh làm
Phạm thiên ở tầng trời Thiểu quang thiên, có tuổi thọ
2 đại kiếp. [4]
- Đệ nhị thiền sắc giới bậc trung, được tái sanh
làm Phạm thiên ở tầng trời Vô lượng quang thiên, có
tuổi thọ 4 đại kiếp.
- Đệ nhị thiền sắc giới bậc thượng, được tái sanh
làm Phạm thiên ở tầng trời Quang âm thiên, có tuổi thọ
8 đại kiếp.
3- Quả báu đệ tam thiền sắc giới
Hành giả đã chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, sẽ được tái sanh 3
tầng trời sắc giới tuỳ theo năng lực của bậc thiền.
- Đệ tam thiền sắc giới bậc hạ, được tái sanh làm
Phạm thiên ở tầng tròi Thiểu tịnh thiên, có tuổi thọ
16 đại kiếp.
- Đệ tam thiền sắc giới bậc trung, được tái sanh
làm Phạm thiên ở tầng trời Vô lượng tịnh thiên, có
tuổi thọ 32 đại kiếp.
- Đệ tam thiền sắc giới bậc thượng, được tái sanh
làm Phạm thiên ở tầng trời Biến tịnh thiên, có tuổi
thọ 64 đại kiếp.
4- Quả báu đệ tứ thiền sắc giới
Hành giả là hạng phàm nhân và bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất
Lai đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới, sau khi chết, do năng lực bậc
thiền ấy cho quả tái sanh làm Phạm thiên ở tầng trời sắc giới
Quảng quả thiên, có tuổi thọ 500 đại kiếp. Quảng quả thiên
là tầng trời tột đỉnh của cõi trời sắc giới.
Và hành giả là hạng phàm nhân đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới, có
tâm nhàm chán ở 4 danh uẩn (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn và thức uẩn); không muốn có 4 danh uẩn, chỉ muốn có 1
sắc uẩn. cho nên, sau khi chết, do nguyện lực của hành giả, đệ
tứ thiền sắc giới không cho quả 4 danh uẩn tái sanh, mà cho quả sắc
uẩn tái sanh đó là Jīvitanavakakalāpa (nhóm 9 sắc pháp có
sắc mạng chủ là chính) lên cõi trời Vô tưởng thiên.
Phạm thiên ở tầng trời này chỉ có 1 uẩn là sắc uẩn,
không có 4 danh uẩn và có tuổi thọ 500 đại kiếp.
(Như vậy, nếu nói rằng không có tâm thức là không phải chúng sinh,
thì ở trường hợp chư Phạm thiên ở tầng trời Vô tưởng thiên là
không đúng. Chư Phạm thiên ở tầng trời Vô tưởng thiên sống đủ
500 đại kiếp rồi phải tái sanh trở lại cõi trời dục giới).
Quả báu đệ tứ thiền sắc giới, đối với bậc Thánh Bất Lai
Hành giả là bậc Thánh Bất Lai đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc
giới, sau khi chết, do năng lực bậc thiền này cho quả tái sanh làm
Phạm thiên ở 5 tầng trời của Phước sanh thiên theo năng
lực của 5 pháp chủ.
Phước sanh thiên có 5 tầng trời:
1- Bậc Thánh Bất Lai có tín pháp chủ nhiều
năng lực, bậc thiền ấy cho quả tái sanh ở tầng trời Vô phiền
thiên, có tuổi thọ 1.000 đại kiếp.
2- Bậc Thánh Bất Lai có tấn pháp chủ nhiều
năng lực, bậc thiền ấy cho quả tái sanh ở tầng trời Vô nhiệt
thiên, có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.
3- Bậc Thánh Bất Lai có niệm pháp chủ nhiều
năng lực, bậc thiền ấy cho quả tái sanh ở tầng trời Thiện hiện
thiên, có tuổi thọ 4.000 đại kiếp.
4- Bậc Thánh Bất Lai có định pháp chủ nhiều
năng lực, bậc thiền ấy cho quả tái sanh ở tầng trời Thiện kiến
thiên, có tuổi thọ 8.000 đại kiếp.
5- Bậc Thánh Bất Lai có tuệ pháp chủ nhiều
năng lực, bậc thiền ấy cho quả tái sanh ở tầng trời Sắc cứu
cánh thiên, có tuổi thọ 16.000 đại kiếp.
Bậc Thánh Bất Lai chắc chắn chứng đắc Arahán Thánh Đạo, Arahán
Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn 1 trong 5
cõi trời Phước sanh thiên này, chấm dứt sự tử sanh luân hồi trong tam
giới.
Quả báu bốn bậc thiền vô sắc giới
Hành giả đã chứng đắc thiền vô sắc giới, chắc chắn bậc thiền ấy sẽ
cho quả tái sanh làm Phạm thiên ở cõi trời vô sắc giới. Chư Phạm thiên
ở cõi trời này chỉ có 4 danh uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn
và thức uẩn, không có sắc uẩn, nên cõi trời này gọi là cõi
trời vô sắc giới.
1- Đệ nhất thiền vô sắc giới, gọi là "không
vô biên xứ thiền", được tái sanh lên tầng trời vô sắc giới
"Không vô biên xứ thiên", có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.
2- Đệ nhị thiền vô sắc giới, gọi là "thức vô
biên xứ thiền", được tái sanh lên tầng trời vô sắc giới
"Thức vô biên xứ thiên", có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.
3- Đệ tam thiền vô sắc giới, gọi là "vô sở
hữu xứ thiền", được tái sanh lên tầng trời vô sắc giới
"Vô sở hữu xứ thiên", có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.
4- Đệ tứ thiền vô sắc giới, gọi là "phi tưởng
phi phi tưởng xứ thiền", được tái sanh lên tầng trời vô sắc
giới "Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên" là tầng trời
tột cùng của cõi trời vô sắc giới, có tuổi thọ 84.000 đại kiếp.
Đó là quả báu của bốn bậc thiền sắc giới, và bốn bậc thiền vô sắc
giới.
Chư Phạm thiên (không phải bậc Thánh nhân) sanh ở tầng trời
sắc giới, hay tầng trời vô sắc giới nào, dầu có tuổi thọ sống lâu bao
nhiêu đi nữa, đến khi hưởng hết tuổi thọ ở tầng trời ấy rồi, đều phải
chết, rồi tái sanh trở lại kiếp khác do nghiệp dẫn dắt.
Vị Phạm thiên nào trong thời gian đang hưởng thọ ở tầng trời sắc
giới, và tiếp tục tiến hành thiền định, chứng đắc bậc thiền nào, có
thể thấp hơn, hoặc ngang bằng, hoặc cao hơn bậc thiền đang hưởng tại
tầng trời ấy, sau khi chết, sẽ tái sanh kiếp khác như sau:
- Nếu chứng đắc bậc thiền sắc giới thấp hơn, thì sẽ tái sanh
xuống tầng trời thấp hơn, theo bậc thiền sở đắc.
- Nếu chứng đắc bậc thiền ngang bằng bậc thiền cũ, thì sẽ tái
sanh trở lại tầng trời cũ như kiếp trước.
- Nếu chứng đắc bậc thiền cao hơn, thì sẽ tái sanh lên tầng trời
cao hơn, theo bậc thiền sở đắc.
- Nhưng nếu không chứng đắc được bậc thiền nào, thì phải tái sanh
xuống cõi thiện dục giới (1 cõi người + 6 cõi trời dục giới).
- Chư Phạm thiên ở tầng trời Vô tưởng thiên, khi hưởng hết tuổi
thọ 500 đại kiếp rồi, sau khi chết, do năng lực thiện nghiệp kiếp
trước tích lưu lại từ kiếp thứ 3 trở về trước, thiện nghiệp ấy cho
quả, chắc chắn sẽ tái sanh xuống cõi thiện dục giới.
Vị Phạm thiên nào trong thời gian đang hưởng thọ ở tầng trời vô
sắc giới, tiếp tục tiến hành thiền định chỉ có thể chứng đắc ngang
bằng bậc thiền cũ, hoặc chứng đắc bậc thiền cao hơn. Nhưng chắc chắn
không thể chứng đắc bậc thiền thấp hơn bậc thiền cũ, vì không có đề
mục thiền định để làm đối tượng. Như vậy, chư Phạm thiên ở cõi trời
vô sắc giới, sau khi chết, chỉ có thể sẽ tái sanh trở lại tầng trời
vô sắc giới cũ, hoặc tầng trời vô sắc giới cao hơn mà thôi.
- Chư Phạm thiên ở tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ
thiên, tột đỉnh của cõi trời vô sắc giới, hưởng hết tuổi thọ
84.000 đại kiếp rồi, nếu không chứng đắc được bậc thiền cũ, thì sau
khi chết, chắc chắn phải tái sanh xuống cõi thiện dục giới.
Pháp hành thiền định vẫn còn phải chịu cảnh tử sanh
luân hồi quanh quẩn trong tam giới, không thể giải thoát khổ.
Pháp hành có thể dẫn đến sự giải thoát tử sanh luân hồi trong tam
giới, đó là Pháp hành thiền tuệ.
Chú thích:
[1] Trường hợp nhất tâm tâm sở là loại tâm sở đồng sanh với tất cả
các loại tâm, gồm có 89 hoặc 121 tâm, nhận biết cả 6 đối tượng: sắc
trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Nhất tâm
tâm sở này không thuộc về pháp hành thiền định.
[2] Ðề mục hình tròn kasiṇa có đường kính 1 gang + 4 lóng tay, để
cách xa chỗ ngồi 2 hắc tay + 1 gang.
[3] A tăng kỳ phiên âm từ chữ "asaṅkheyya". Thời gian lâu dài không
thể đếm bằng số, thời gian diễn tiến trải qua 4 a tăng kỳ như sau:
- A tăng kỳ thành: khoảng thời gian lâu dài, thế giới được tạo
thành mới.
- A tăng kỳ trụ: khoảng thời gian lâu dài, thế giới đang tồn tại,
như thế giới ngày nay.
- A tăng kỳ hoại: khoảng thời gian lâu dài, thế giới đang bị hoại.
- A tăng kỳ không: khoảng thời gian lâu dài, thế giới không còn nữa.
[4] Ðại kiếp dịch từ Mahākappa: Khoảng thời gian lâu dài trải qua 4
a tăng kỳ thành - trụ - hoại - không.