BuddhaSasana Home Page
Tìm hiểu PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ - Tỳ
khưu HỘ PHÁP PHẦN II PHÁP
HÀNH (BHĀVANĀ) 4. ĐỐI TƯỢNG TỨ OAI NGHI Đối tượng tứ oai nghi (Iriyapathapabba) là một trong 14 đối
tượng trong phần niệm thân. Đức Phật dạy trong kinh Đại Tứ niệm xứ, phần đối tượng tứ oai nghi
rằng: "Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu. "Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati. "Atthi kāyo"ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti.
Nghĩa: Sau khi thuyết giảng xong đối tượng "niệm hơi thở vô – hơi thở ra",
Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ khưu rằng: "Này chư Tỳ khưu, (hay hành giả), một đối tượng khác, Tỳ khưu: - Khi đang đi, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác biết rõ rằng:
"sắc đi".
- Khi đang đứng, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác biết rõ rằng:
"sắc đứng".
- Khi đang ngồi, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác biết rõ rằng:
"sắc ngồi".
- Khi đang nằm, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác biết rõ rằng:
"sắc nằm".
- Hoặc toàn thân của hành giả đang trong tư thế (dáng) như thế
nào, hành giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác biết rõ toàn thân
đang trong tư thế (dáng) như thế ấy…". - Như vậy, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thường theo
dõi thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân của mình.
- Hoặc, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thường theo
dõi thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân của người khác.
- Hoặc, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thường theo
dõi thấy rõ, biết rõ khi thì toàn thân trong thân của mình, khi thì
toàn thân trong toàn thân của người khác.
- Hoặc, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thường theo
dõi thấy rõ, biết rõ trạng thái sanh do nhân duyên nào sanh trong
thân.
- Hoặc, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thường theo
dõi thấy rõ, biết rõ trạng thái diệt do nhân duyên ấy diệt trong thân.
- Hoặc, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết
rõ trạng thái sanh do nhân duyên nào sanh, thì trạng thái diệt do nhân
duyên ấy diệt trong thân.
Chánh niệm của hành giả trực nhận rằng: "chỉ là thân mà thôi", đối
tượng hiện tại chỉ để phát triển chánh niệm, chỉ để phát triển trí tuệ
tỉnh giác mà thôi. Hành giả không có tham ái và tà kiến nương nhờ (nơi
đối tượng và chủ thể), không có chấp thủ nào (ta và của ta) trong ngũ
uẩn này. Này chư Tỳ khưu (hay hành giả), như vậy gọi là Tỳ khưu có chánh
niệm, trí tuệ tỉnh giác thường theo dõi trực nhận, trực giác thấy rõ
biết rõ toàn thân trong thân. (Xong đối tượng 4 oai nghi). Đoạn kinh này có những động từ: * Gacchāmi: Theo nghĩa thường là "tôi đi",
nhưng theo Chân nghĩa pháp là: "thân đi", hoặc
"sắc đi".
* Ṭhito’mhi: Theo nghĩa thường là: "tôi đứng", nhưng
theo Chân nghĩa pháp là: "thân đứng", hoặc
"sắc đứng".
* Nisinno’mhi: Theo nghĩa thường là: "tôi ngồi",
nhưng theo Chân nghĩa pháp là: "thân ngồi", hoặc
"sắc ngồi".
* Sayāno’mhi: Theo nghĩa thường là: "tôi nằm", nhưng
theo Chân nghĩa pháp: "thân nằm", hoặc "sắc
nằm".
Nhận xét về "thân đi" hoặc "sắc đi" Thân dịch từ danh từ kāya.
Kāya: thân có nghĩa là tổng hợp các phần lớn nhỏ lại với nhau,
như 32 thể trược trong thân v.v…. Hay nói cách khác, kāya: thân là nơi tổng hợp 28 sắc pháp có
tâm làm chủ. Thật ra, trong thân của mỗi người bình thường tổng hợp gồm có 27
sắc pháp. - Nếu là đàn ông trừ sắc nữ tính. - Nếu là đàn bà trừ sắc nam tính. Cho nên, gọi "thân đi" hoặc "sắc đi"
chỉ khác nhau về danh từ, song giống nhau về ý nghĩa. Thân đứng hoặc sắc đứng, thân ngồi hoặc sắc ngồi, thân nằm hoặc sắc
nằm cũng giải thích như thân đi. 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm thuộc về sắc pháp
phát sanh từ tâm (cittajarūpa).
Do đó, gọi là: "Sắc đi", "Sắc đứng", "Sắc ngồi", "Sắc nằm".
Tâm có thể phát sanh tứ oai nghi chính: đi, đứng, ngồi, nằm
và các oai nghi phụ khác, gồm có 32 tâm, đó là: 8 tham tâm + 2 sân tâm + 2 si tâm + 8 dục giới đại thiện tâm + 8
dục giới duy tác tâm + 1 tiếu sanh tâm + 1 ý môn hướng tâm + và đặc
biệt có 2 thần thông tâm. Ví dụ: - Đi, đứng, ngồi, nằm sanh từ tham tâm, thì đi, đứng,
ngồi, nằm… với dáng điệu khoan thai, nhẹ nhàng đáng yêu…. - Đi, đứng, ngồi, nằm sanh từ sân tâm, thì đi, đứng,
ngồi, nằm… với dáng điệu nóng nảy, mạnh bạo…. - Đi, đứng, ngồi, nằm sanh từ si tâm, thì đi, đứng,
ngồi, nằm… với dáng điệu ngơ ngẩn, thẩn thờ, phóng tâm…. - Đi, đứng, ngồi, nằm sanh từ dục giới đại thiện tâm không
hợp trí tuệ, thì đi, đứng, ngồi, nằm… với dáng điệu, tư thế tự
nhiên, có trí nhớ, nhưng không có trí tuệ biết rõ thực tánh của danh
pháp, sắc pháp. - Đi, đứng, ngồi, nằm sanh từ dục giới đại thiện tâm hợp với
trí tuệ, đối với hành giả tiến hành thiền tuệ thì đi, đứng,
ngồi, nằm… với dáng điệu, tư thế tự nhiên, có trí nhớ, có trí tuệ có
thể biết rõ thực tánh của danh pháp, sắc pháp. - Đi, đứng, ngồi, nằm sanh từ 8 dục giới đại duy tác tâm,
tâm của bậc Thánh Arahán, thì đi, đứng, ngồi, nằm… với dáng điệu, tư
thế tự nhiên, luôn luôn có trí nhớ, khi hợp trí tuệ, khi
không hợp trí tuệ, tùy theo đối tượng. Đối Tượng Tứ Oai Nghi 4 oai nghi: oai nghi đi, oai nghi đứng, oai nghi ngồi, oai
nghi nằm là những oai nghi bình thường tự nhiên của mỗi chúng sinh,
Đức Phật dạy 4 oai nghi làm đối tượng trong phần niệm thân, bởi vì,
đối tượng tứ oai nghi này là sắc pháp phát sanh từ tâm,
có thể làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ. Tứ oai nghi làm nơi nương nhờ của tà kiến Có số người không được gần gũi, thân cận với bậc Thiện trí trong
Phật giáo, không được học hỏi, nghiên cứu về Chân nghĩa pháp,
không hiểu biết về danh pháp, sắc pháp, là pháp vô
ngã; cho nên số người ấy, mỗi khi đi, đứng, ngồi, nằm
không diệt được chấp thủ về chúng sinh (sattūpaladdhiṃ na pajahati)
và cũng không từ bỏ sự tưởng lầm cho là ta (attsaññā na ugghāṭeti:
ngã tưởng); vì vậy, đối tượng đi, đứng, ngồi, nằm làm nơi nương
nhờ cho tà kiến phát sanh thấy sai, chấp lầm rằng: - Khi thân đi hoặc sắc đi, thì tà
kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc đi cho là
"ta đi".
- Khi thân đứng hoặc sắc đứng, thì
tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc đứng cho là
"ta đứng".
- Khi thân ngồi hoặc sắc ngồi, thì
tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc ngồi cho là
"ta ngồi".
- Khi thân nằm hoặc sắc nằm, thì tà
kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc nằm cho là "ta
nằm",…. Khi có sắc đi, thì tà kiến nương
nhờ ở sắc đi để thấy sai, chấp lầm rằng: "ta đi".
Thật ra, "ta đi" không có, mà chỉ có "sắc đi".
Nhưng do tâm tà kiến thấy sai chấp lầm từ "sắc đi"
cho là "ta đi". Khi tâm có tà kiến phát sanh, thì
chắc chắn ắt phải có si tâm sở (vô minh) đồng sanh làm
che án, bao trùm phủ kín thực tánh của danh pháp, sắc pháp ấy. Đúng theo thực tánh của danh pháp sắc pháp là pháp vô ngã,
không có ngã. Vậy, ngã không có thật, thì
chắc chắn không thể diệt ngã được. Sở dĩ có sự
chấp ngã là do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ
danh pháp chấp là ngã (ta) và từ sắc pháp chấp là
ngã (ta). Tâm tà kiến có thật, nên hành giả tiến
hành thiền tuệ có thể diệt được tâm tà kiến ấy. Khi tâm
tà kiến bị diệt bằng chánh kiến thấy đúng, biết đúng
theo thực tánh của danh pháp sắc pháp là pháp vô ngã,
thì sự chấp ngã không còn nữa. Tứ oai nghi làm nơi nương nhờ của chánh kiến Có số người thường gần gũi, thân cận với bậc Thiện trí trong Phật
giáo, được học hỏi, nghiên cứu về Chân nghĩa pháp, hiểu
biết rõ về danh pháp, sắc pháp, là pháp vô ngã.
Họ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có giới hạnh thanh tịnh,
tiến hành thiền tuệ dùng 4 oai nghi làm đối tượng; cho nên mỗi
khi đi, đứng, ngồi, nằm diệt được sự chấp thủ về chúng sinh
(sattūpaladdhiṃ pajahati) và từ bỏ được sự tưởng lầm cho là ta
(attasaññā ugghāṭeti: ngã tưỡng); vì vậy, đối tượng đi, đứng,
ngồi, nằm làm nơi nương nhờ cho chánh kiến phát sanh thấy đúng, biết
đúng rằng: - Khi thân đi hoặc sắc đi, thì
chánh kiến thấy đúng, biết đúng từ oai nghi đi, dáng đi
là "sắc đi".
- Khi thân đứng hoặc sắc đứng, thì
chánh kiến thấy đúng, biết đúng từ oai nghi đứng,
dáng đứng là "sắc đứng".
- Khi thân ngồi hoặc sắc ngồi, thì
chánh kiến thấy đúng, biết đúng từ oai nghi ngồi,
dáng ngồi là "sắc ngồi".
- Khi thân nằm hoặc sắc nằm, thì
chánh kiến thấy đúng, biết đúng từ oai nghi nằm, dáng
nằm là "sắc nằm"….
Chánh kiến chính là trí tuệ. Tâm hợp với trí tuệ thiền tuệ là tâm
sáng suốt thấy rõ, biết rõ đúng theo sự thật thực tánh của danh pháp,
sắc pháp. Cho nên, tiến hành Tứ niệm xứ hay tiến
hành thiền tuệ là cốt để trở lại thấy đúng, biết đúng theo
thực tánh của danh pháp, sắc pháp là pháp vô ngã,
không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn
bà, không phải chúng sinh nào, không phải vật này, vật kia… mà sự thật
theo Chân nghĩa pháp là: - Danh pháp nào là danh pháp ấy.
- Sắc pháp nào là sắc pháp ấy. Tứ oai nghi làm đối tượng thiền tuệ như thế nào? Đức Phật dạy trong kinh Đại Tứ niệm xứ, đối tượng "tứ oai
nghi" là 1 trong 14 đối tượng trong phần niệm thân.
4 oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm là sắc
pháp phát sanh từ tâm, gọi là cittajarūpa cũng thuộc về
Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma).
Thật vậy, trong Chú giải kinh Đại Tứ niệm xứ, về phần niệm thân,
dạy rằng: "Paramatthato hi dhātūnaṃ yeva gamanaṃ, dhātūnaṃ ṭhānaṃ, dhātūnaṃ
nisajjaṃ, dhātūnaṃ sayanaṃ". [7] Thật vậy, xét về chân nghĩa pháp, thì "oai nghi đi" chỉ là
của tứ đại, "oai nghi đứng" chỉ là của tứ đại, "oai nghi
ngồi" chỉ là của tứ đại, "oai nghi nằm" chỉ là của tứ đại
mà thôi. Như vậy, tứ oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm là sắc pháp phát sanh từ
tâm, thuộc về sắc tứ đại, nên không thuộc về của người
nào, của chúng sinh nào cả. Sắc tứ đại, có 4 sắc pháp là: - Sắc địa đại, chất đất. Sắc tứ đại này, là 4 sắc pháp căn bản chính, làm nền tảng cho 24
sắc pháp phụ thuộc phát sanh. Đối tượng 4 oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm.. là sắc toàn thân, không
phải một phần nào của thân, mà trong thân của mỗi người bình thường có
đầy đủ 27 sắc pháp, gồm sắc tứ đại và 23 sắc pháp phụ thuộc. Do đó, sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm thuộc sắc
pháp là đối tượng của pháp hành thiền tuệ. I- Phần Lý Thuyết Pháp Học Tứ Oai Nghi Hành giả muốn tiến hành thiền tuệ, dùng tứ oai nghi
làm đối tượng, trước tiên, hành giả cần phải học hỏi, nghiên cứu tìm
hiểu sâu sắc bằng trí tuệ hiểu biết đúng đắn về 4 oai nghi: đi, đứng,
ngồi, nằm là sắc pháp phát sanh từ tâm. Hành giả có trí tuệ sáng suốt hiểu biết đúng rằng: - Oai nghi đi, đó là "thân đi" hoặc
"sắc đi".
- Oai nghi đứng, đó là "thân đứng"
hoặc "sắc đứng".
- Oai nghi ngồi, đó là "thân ngồi"
hoặc "sắc ngồi".
- Oai nghi nằm, đó là "thân nằm" hoặc
"sắc nằm".
Đó là sự hiểu biết theo chánh kiến thiền tuệ. 1- Thế nào gọi là sắc đi? Sắc đi, chính là dáng đi, tư thế đi, toàn thân di chuyển
bước đi từng bước, một cách tự nhiên.
Cho nên, sắc đi trong trạng thái động.
Sắc đi thuộc về sắc pháp, làm đối tượng của thiền tuệ, đó
là: dáng đi, tư thế đi. Có vô số dáng đi, tư thế đi gọi
là sắc đi có vô số. 2- Thế nào gọi là sắc đứng? Sắc đứng, chính là dáng đứng, tư thế đứng, toàn thân
đứng yên [8] không cử động, một cách tự nhiên. Cho nên, sắc đứng trong trạng thái tĩnh
(hiện tại ngắn ngủi).
Sắc đứng, thuộc về sắc pháp, làm đối tượng của thiền tuệ,
đó là: dáng đứng, tư thế đứng. Có vô số dáng đứng, tư
thế đứng, gọi là sắc đứng có vô số. 3- Thế nào gọi là sắc ngồi? Sắc ngồi, chính là dáng ngồi, tư thế ngồi, toàn thân
ngồi yên không cử động, một cách tự nhiên; thân phần trên ngồi yên,
thân phần dưới co theo dáng ngồi, theo tư thế ngồi; như ngồi xếp bằng,
ngồi bán già, ngồi kiết già, ngồi trên ghế dựa, ngồi trên ghế salon,….
Cho nên, sắc ngồi trong trạng thái tĩnh
(hiện tại ngắn ngủi).
Sắc ngồi, thuộc về sắc pháp, làm đối tượng của thiền tuệ,
đó là: dáng ngồi, tư thế ngồi. Có vô số dáng ngồi, tư
thế ngồi, gọi là sắc ngồi có vô số. 4- Thế nào gọi là sắc nằm? Sắc nằm, chính là dáng nằm, tư thế nằm, toàn thân nằm
yên không cử động, một cách tự nhiên, như nằm nghiêng, nằm
ngửa,….
Cho nên, sắc nằm trong trạng thái tĩnh
(hiện tại ngắn ngủi). Sắc nằm, thuộc về sắc pháp, làm đối tượng của thiền tuệ, đó
là: dáng nằm, tư thế nằm. Có nhiều dáng nằm, tư thế nằm,
gọi là sắc nằm có vô số. Hành giả nên hiểu biết đúng rằng: - Khi đi, không phải ta đi, cũng không phải ai đi, sự thật chỉ là
"thân đi" hoặc "sắc đi". Đó là dáng
đi, tư thế đi.
- Khi đứng, không phải ta đứng, cũng không phải ai đứng, sự thật
chỉ là "thân đứng" hoặc "sắc đứng". Đó là
dáng đứng, tư thế đứng.
- Khi ngồi, không phải ta ngồi, cũng không phải ai ngồi, sự thật
chỉ là "thân ngồi" hoặc "sắc ngồi". Đó là
dáng ngồi, tư thế ngồi.
- Khi nằm, không phải ta nằm, cũng không phải ai nằm, sự thật chỉ
là "thân nằm" hoặc "sắc nằm". Đó là
dáng nằm, tư thế nằm.
Nhân duyên phát sanh Danh pháp, sắc pháp phát sanh đều do nhân duyên. Danh pháp nào phát
sanh, do nhân duyên của danh pháp ấy. Sắc pháp nào phát sanh, do nhân
duyên của sắc pháp ấy. 4 oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm thuộc về sắc pháp phát sanh từ tâm
gọi là sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm phát sanh đều do nhân duyên
của chúng. Theo bộ Chú giải [9] của bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta (kinh
Đại Tứ niệm xứ) dạy rằng: - Không có chúng sinh nào đi, đứng, ngồi, nằm.... - Oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm... không phải của chúng sinh nào,
không phải của người nào. - Sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm phát sanh đều do nhân duyên
của chúng. 1- Nhân duyên nào phát sanh sắc đi? Sắc đi phát sanh từ tâm, qua quá trình diễn biến liên tục
do nhiều nhân duyên như sau__ - Tâm nghĩ "đi".
- Do tâm nghĩ đi làm cho phát sanh chất gió. - Chất gió phát sanh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động. - Toàn thân di chuyển bước đi từng bước do năng lực của chất gió
phát sanh từ tâm ấy. Do đó, gọi là "thân đi" hoặc "sắc đi"
là sắc pháp phát sanh do tâm (cittajarūpa).
2- Nhân duyên nào phát sanh sắc đứng? Sắc đứng phát sanh từ tâm, qua quá trình diễn biến liên tục
do nhiều nhân duyên như sau__ - Tâm nghĩ "đứng".
- Do tâm nghĩ đứng làm cho phát sanh chất gió. - Chất gió phát sanh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động. - Toàn thân từ chân đến đầu đứng yên theo mỗi dáng đứng, tư thế
đứng, do năng lực của chất gió phát sanh từ tâm ấy. Do đó, gọi là "thân đứng" hoặc "sắc đứng",
là sắc pháp phát sanh từ tâm.
3- Nhân duyên nào phát sanh sắc ngồi? Sắc ngồi phát sanh từ tâm, qua quá trình diễn biến liên tục
do nhiều nhân duyên như sau__ - Tâm nghĩ "ngồi".
- Do tâm nghĩ ngồi làm cho phát sanh chất gió. - Chất gió phát sanh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động. - Toàn thân ngồi: thân phần trên ngồi yên, thân phần dưới co theo
mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi, do năng lực của chất gió phát sanh từ
tâm ấy. Do đó, gọi là "thân ngồi" hoặc "sắc ngồi",
là sắc pháp phát sanh từ tâm.
4- Nhân duyên nào phát sanh sắc nằm? Sắc nằm phát sanh từ tâm, qua quá trình diễn biến liên tục
do nhiều nhân duyên như sau__ - Tâm nghĩ "nằm".
- Do tâm nghĩ nằm làm cho phát sanh chất gió. - Chất gió phát sanh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động. - Toàn thân đặt nằm ngang theo mỗi dáng nằm, tư thế nằm yên, do
năng lực của chất gió phát sanh từ tâm ấy. Do đó, gọi là "thân nằm" hoặc "sắc nằm",
là sắc pháp phát sanh từ tâm.
Nếu trường hợp thiếu một nhân duyên nào, thì sắc đi, sắc
đứng, sắc ngồi, sắc nằm,… không thể phát sanh được. Ví dụ: Sở dĩ, người bị bại liệt, dầu tâm của họ muốn đi,
muốn đứng, muốn ngồi, muốn nằm… trong tư thế này hay tư thế khác, cũng
không thể đi, đứng, ngồi, nằm… theo ý muốn của mình, như người bình
thường; là vì chất gió phát sanh từ tâm không đủ năng
lực làm cho toàn thân cử động theo ý muốn của họ. Con người bình thường đi, đứng, ngồi, nằm,... cử động được dễ dàng
là do nhờ năng lực của chất gió phát sanh từ tâm điều hòa được tứ đại
(đất, nước, lửa, gió). Ví dụ: Oai nghi đi, hay "sắc đi". - Khi nhấc chân lên: phong đại và hỏa
đại có năng lực mạnh, còn địa đại và
thủy đại có năng lực yếu. - Khi đạp chân xuống: địa đại và thủy
đại có năng lực mạnh, còn phong đại và
hỏa đại có năng lực yếu. Bởi vậy cho nên, sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm,
co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra,… là
công việc của tứ đại, do tâm chủ động, điều khiển. Đức Phật ví "thân" này như một chiếc xe;
"tâm" này ví như người lái xe. Thật vậy,
chiếc xe chạy mau, chạy chậm, quẹo trái, quẹo phải, ngừng lại,… đều do
người lái xe điều khiển. Cũng như vậy, thân này đi, đứng, ngồi, nằm, bước tới,
bước lui, quay bên phải, quay bên trái, co tay vào, co chân vào, duỗi
tay ra, duỗi chân ra,… đều do tâm điều khiển, cho nên
gọi là "sắc pháp phát sanh từ tâm" (cittajarūpa).
Phân biệt đối tượng tứ oai nghi thuộc Paññatti - Paramattha 4 oai nghi: sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm là sắc pháp phát
sanh từ tâm (cittajarūpa) thuộc paramattha (chân nghĩa
pháp).
Hành giả tiến hành thiền tuệ dùng tứ oai nghi làm đối tượng, điều
trước hết là cần phải học hỏi, nghiên cứu rõ ràng về tứ oai nghi như
thế nào thuộc về đối tượng Paramattha (Chân nghĩa pháp),
và như thế nào thuộc về đối tượng Paññatti (Chế định pháp);
điều này tối quan trọng, bởi vì mỗi đối tượng sẽ dẫn đến mỗi kết quả
hoàn toàn khác nhau. Tứ oai nghi thuộc về Paññatti: Chế định pháp Chế định pháp là pháp mà con người đặt ra do căn cứ nơi chân nghĩa
pháp, có quy ước với nhau theo mỗi nhóm người, mỗi dân tộc được lưu
truyền từ thế hệ trước cho đến thế hệ sau nối tiếp nhau. Pháp chế định có 2 loại: 1- Atthapaññatti: Ý nghĩa, hình dạng chế định. Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ có khái niệm về dáng đi, tư thế
đi; dáng đứng, tư thế đứng; dáng ngồi, tư thế ngồi; dáng nằm, tư thế
nằm là những hình dạng khái niệm trong tâm, thì những
đối tượng ấy thuộc về atthapaññatti: ý nghĩa, hình dạng chế định. 2- Nāmapaññatti: Danh từ, ngôn ngữ chế định. Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ căn cứ vào những khái niệm trong
tâm: - Về dáng đi, tư thế đi ấy, mà niệm tưởng trong tâm rằng: "sắc
đi", "sắc đi",…. - Về dáng đứng, tư thế đứng ấy mà niệm tưởng trong tâm rằng: "sắc
đứng", "sắc đứng"…. - Về dáng ngồi, tư thế ngồi ấy mà niệm tưởng trong tâm rằng: "sắc
ngồi", "sắc ngồi"…. - Về dáng nằm, tư thế nằm ấy mà niệm tưởng trong tâm rằng: "sắc
nằm", "sắc nằm"…. Thì những đối tượng này thuộc về vijjānāmapaññatti: danh từ, ngôn
ngữ chế định có thực tánh pháp làm nền tảng. Hành giả trong khi niệm tưởng trong tâm đến đối tượng sắc đi, sắc
đứng… nào, thì tâm cũng có thể an trú ở đối tượng ấy như đối tượng của
thiền định, mà không phải tiến hành thiền định, vì tứ oai nghi không
có trong 40 đề mục thiền định; hơn nữa, sự tiến hành thiền định chỉ có
một đề mục duy nhất làm đối tượng, nhưng ở đây mỗi lần thay đổi oai
nghi là thay đổi đối tượng. Do đó, hành giả không phải tiến hành
thiền định mà cũng không phải tiến hành thiền tuệ,
bởi vì đối tượng tứ oai nghi ấy thuộc về Chế định pháp, sẽ dẫn đến kết
quả như sau: - Không thể thấy rõ, biết rõ được thực tánh của danh pháp, sắc
pháp. - Không thể thấy rõ, biết rõ trạng thái riêng của mỗi danh pháp,
mỗi sắc pháp. - Không thể thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc
pháp. - Không thể thấy rõ, biết rõ 3 trạng thái chung: trạng thái vô
thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp.... Tứ oai nghi thuộc về Paramattha: Chân nghĩa pháp Chân nghĩa pháp là pháp không do con người chế định, pháp này có
thực tánh hiện hữu một cách tự nhiên của chúng, nhưng không có một ai
thấy rõ biết rõ đến chúng, bởi vì vô minh bao trùm phủ kín thực tánh
pháp của chúng. Cho đến khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian, Ngài đã
diệt đoạn tuyệt được vô minh, cho nên sự thật chân nghĩa pháp hiển
nhiên hiện rõ; rồi Ngài giảng dạy cho chúng sinh hiểu biết chân nghĩa
pháp. 4 oai nghi thuộc về chân nghĩa pháp đó là: - Dáng đi, tư thế đi thuần túy tự nhiên.
- Dáng đứng, tư thế đứng thuần túy tự nhiên.
- Dáng ngồi, tư thế ngồi thuần túy tự nhiên.
- Dáng nằm, tư thế nằm thuần túy tự nhiên.
Những dáng đi, tư thế đi… này là những trạng thái diễn biến của tứ
đại phát sanh từ tâm gọi là cittajarūpa (sắc pháp sanh từ tâm),
được thể hiện toàn thân, hoàn toàn không qua một
khái niệm hoặc một danh từ ngôn ngữ nào, có thể
diễn đạt được thực tánh của nó. Do đó, dáng đi, tư thế đi, dáng đứng,
tư thế đứng… này thuộc về paramattha: chân nghĩa pháp. Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ, có chánh niệm trực nhận, trí tuệ
tỉnh giác trực giác trực tiếp ngay đối tượng paramattha của 4 oai
nghi: "dáng đi, tư thế đi; dáng đứng, tư thế đứng; dáng ngồi, tư
thế ngồi; dáng nằm, tư thế nằm", được thể hiện toàn
thân, không qua khái niệm trong tâm và danh từ ngôn
ngữ chế định, thì có thể dẫn đến kết quả như sau: - Có thể thấy rõ, biết rõ được thực tánh của danh pháp, sắc pháp. - Có thể thấy rõ, biết rõ trạng thái riêng của mỗi danh pháp, mỗi
sắc pháp. - Có thể thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của mỗi danh pháp, mỗi
sắc pháp. - Có thể thấy rõ, biết rõ 3 trạng thái chung: trạng thái vô
thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp. - Có thể chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo,
Thánh Quả và Niết Bàn. Như vậy, để tiến hành đúng theo pháp hành thiền tuệ, hành giả cần
phải biết phân biệt rõ đối tượng thuộc paññatti và đối tượng thuộc
paramattha, để mà biết chọn đúng đối tượng paramattha làm đối tượng
của pháp hành thiền tuệ. Cho nên, đối với hành giả tiến hành thiền tuệ có 3 giai đoạn quan
trọng: Giai đoạn đầu tiên: hành giả cần phải tìm hiểu,
học hỏi để biết rõ tứ oai nghi thuộc đối tượng paññatti (chế định
pháp) và tứ oai nghi thuộc đối tượng paramattha (chân nghĩa pháp). Giai đoạn giữa: khi hành giả tiến hành thiền tuệ có
chánh niệm trực nhận, trí tuệ tỉnh giác trực giác trực tiếp ngay đối
tượng paramattha dáng đi, tư thế đi; hoặc dáng đứng, tư thế
đứng; hoặc dáng ngồi, tư thế ngồi; hoặc dáng nằm, tư thế nằm…
được thể hiện toàn thân, hoàn toàn không phải khái
niệm trong tâm, hoặc danh từ ngôn ngữ nào.
Giai đoạn cuối: trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực
tánh của danh pháp, sắc pháp; sự sanh, sự diệt, của danh pháp, sắc
pháp; trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh
pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4
Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. II- Phần Thực Hành Đối Tượng Tứ Oai Nghi Tứ oai nghi là một trong 21 đối tượng của Tứ niệm xứ có khả
năng dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo,
4 Thánh Quả và Niết Bàn. Sau khi hiểu rõ phần lý thuyết pháp học của tứ oai nghi, hành giả
muốn tiến hành thiền tuệ, cần phải có những điều kiện cần thiết như
sau__ - Điều đầu tiên, hành giả cần phải tìm một vị Thiền sư thông thạo
về pháp học, có đầy đủ kinh nghiệm về pháp hành thiền tuệ, để nương
nhờ. Trực tiếp thụ giáo với vị Thiền sư ấy, theo một
nghi lễ thọ pháp hành thiền tuệ trang nghiêm, tôn kính, để
hộ trì cho hành giả được an toàn trong khi tiến hành thiền tuệ. Và
trình pháp, là trình bày pháp hành của mình, khi mình chưa
có khả năng nhận định được đúng hay sai; trình bày những cảm giác phát
sanh trong khi tiến hành thiền tuệ, làm cho phát sanh tâm hoài nghi,
làm cản trở việc tiến hành thiền tuệ. Hành giả nhờ vị thiền sư giảng
giải cho hiểu rõ không còn hoài nghi, để tiếp tục pháp hành thiền tuệ
đúng theo Pháp hành Trung đạo.
- Hành giả phải là người có giới hạnh trong sạch để
làm nền tảng cho định và tuệ phát sanh.
Nếu giới không trong sạch, thì định và tuệ không có chỗ nương nhờ để
phát sanh. Ví như không có đất, thì cây không có chỗ nương nhờ để sanh
trưởng, thì còn mong gì đến hoa và quả. - Là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có chánh kiến đúng
đắn, có sự tinh tấn liên tục không ngừng, vì sự giải thoát khổ
do nhờ tinh tấn.
Như Đức Phật dạy: "Vīriyena dukkhamacceti…". [10] "Chúng sinh giải thoát khổ do nhờ tinh tấn". - Phải có đủ những điều kiện thuận lợi cho sự tiến hành thiền tuệ
được phát triển tốt. Hành giả muốn tiến hành thiền tuệ có 4 oai nghi: sắc đi, sắc
đứng, sắc ngồi, sắc nằm… làm đối tượng, cần phải hiểu rõ
phương pháp tiến hành thiền tuệ như sau__ 1- Sắc Đi 1- Đối tượng sắc đi:
Đó chính là dáng đi, tư thế đi là sắc pháp phát sanh từ tâm,
toàn thân di chuyển, bước đi từng bước. Dáng đi, tư thế
đi phải tự nhiên, thanh thản, như đi tản bộ, không nên đi chậm
quá, cũng không nên đi mau quá, làm mất dáng tự nhiên, làm che án thực
tánh của nó. Thực tánh của các pháp luôn luôn trong trạng thái tự nhiên, nên
dáng đi, tư thế đi làm đối tượng của thiền tuệ cũng phải tự nhiên. Sắc đi trong trạng thái động, thuộc về
sắc pháp, dùng làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ, đó chính
là mỗi dáng đi, tư thế đi, toàn thân di chuyển,
do bước đi từng bước, từng bước một cách tự nhiên. 2- Chủ thể:
* Hành giả là người có chánh niệm (niệm thân)
trực nhận đúng ngay đối tượng mỗi dáng đi, tư thế đi,
theo dõi, ghi nhớ quá trình diễn biến mỗi dáng đi, tư thế đi,
toàn thân di chuyển do bước đi từng bước, từng bước một
cách tự nhiên…. Toàn thân di chuyển như thế nào? Ví dụ: Khi nhìn thấy chiếc xe chạy, là nhìn thấy toàn chiếc xe di
chuyển, không phải nhìn thấy bánh xe lăn…. Cũng như vậy, hành giả có chánh niệm trực nhận ngay
đối tượng theo dõi quá trình diễn biến mỗi dáng đi, tư thế đi, toàn
thân di chuyển bước đi một cách tự nhiên. Hành giả không nên chú tâm ở một phần nào của thân như chân bước
từng bước, không nên có khái niệm về dáng đi, tư thế đi
trong tâm; và cũng không nên niệm tưởng trong tâm rằng: sắc đi…
sắc đi… hoặc chân trái bước, chân mặt bước…. Bởi vì, khái niệm
về dáng đi, tư thế đi, hoặc niệm tưởng sắc đi, chân trái bước, chân
phải bước… trong tâm như vậy, thì đối tượng sắc đi… trở thành đối
tượng paññatti: chế định pháp, không phải là đối tượng
paramattha: chân nghĩa pháp. Cho nên, đối tượng ấy không
phải là đối tượng của thiền tuệ. Theo Chân nghĩa pháp, thì đối tượng "sắc đi"
đó chính là mỗi dáng đi, tư thế đi hiện rõ toàn
thân di chuyển bước đi, đối tượng hiện tại sắc đi không ở
trong tâm tưởng. Nếu hành giả niệm tưởng sắc
đi trong tâm, thì sự trực nhận đối tượng sắc đi
không đúng chỗ (vị trí), hành giả không thể nào thấy rõ, biết rõ thực
tánh của đối tượng sắc đi ấy. Vì vậy, hành giả có chánh niệm trực nhận đúng ngay
đối tượng mỗi dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển từng bước,
từng bước một cách tự nhiên. * Hành giả là người có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ biết
rõ mỗi dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển
bước đi ấy; mỗi dáng đi, tư thế đi, gọi là sắc đi; có vô
số dáng đi, tư thế đi, nên sắc đi có vô số. Hành giả tiến hành thiền tuệ có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ biết rõ
dáng đi, tư thế đi gọi là sắc đi ấy đúng theo
chánh kiến thiền tuệ, đồng thời có thể diệt được tà kiến
theo chấp ngã tưởng lầm rằng: "ta đi" và các
phiền não khác (diệt theo cách từng thời).
Tóm lại, hành giả là người có chánh niệm, có trí tuệ tỉnh giác trực
nhận, trực giác thấy rõ biết rõ mỗi dáng đi, tư thế đi toàn thân di
chuyển bước đi như thế nào, thì thấy rõ biết rõ mỗi dáng đi, tư thế đi
toàn thân di chuyển bước đi như thế ấy, một cách thoáng qua
[11] (ví như chụp hình mỗi tư thế đi khác biệt nhau).
* Hành giả là người có tâm tinh tấn hỗ trợ cho
chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác, tiến hành thiền tuệ liên tục không
ngừng, để cho trí tuệ thiền tuệ được phát triển, chánh kiến thiền
tuệ càng thấy rõ sắc đi, thì đồng thời tà kiến
theo chấp ngã tưởng lầm "ta đi" bị lu mờ dần, cho
đến khi tà kiến theo chấp ngã bị tiêu diệt hẳn, do năng lực của
trí tuệ thiền tuệ.
Trên đây phân tách 3 loại tâm sở: niệm tâm sở là chánh
niệm; trí tuệ tâm sở: trí tuệ tỉnh giác là chánh
kiến; tinh tấn tâm sở là chánh tinh tấn
với 3 phận sự khác nhau, cùng với các thiện tâm sở khác, đồng sanh
trong một dục giới đại thiện tâm, có chung một đối tượng
thiền tuệ. Song mỗi tâm sở có phận sự riêng, đồng thời, không trước,
không sau. 2- Sắc Đứng 1- Đối tượng sắc đứng:
Đó chính là mỗi dáng đứng, tư thế đứng, là sắc pháp phát
sanh từ tâm, toàn thân đứng yên không cử động. Dáng đứng, tư thế
đứng phải tự nhiên, không nên đứng kiểu này kiểu nọ, cũng
không nên đứng trân người, làm mất dáng tự nhiên, làm che án thực tánh
của nó. Thực tánh của các pháp luôn luôn trong trạng thái tự nhiên, nên
dáng đứng, tư thế đứng làm đối tượng của thiền tuệ cũng phải tự nhiên. Sắc đứng trong trạng thái tĩnh [12],
thuộc về sắc pháp, dùng làm đối tượng để tiến hành thiền
tuệ, đó chính là mỗi dáng đứng, tư thế đứng toàn thân
đứng yên không cử động (đối tượng hiện tại ngắn
ngủi, nếu thân cử động, thì không còn dáng đứng, tư thế đứng).
2- Chủ thể:
* Hành giả là người có chánh niệm (niệm thân) trực
nhận đúng ngay đối tượng mỗi dáng đứng, tư thế
đứng toàn thân đứng yên không cử động, theo dõi, ghi nhớ mỗi
dáng đứng, tư thế đứng tự nhiên toàn thân đứng yên không cử động,
đối tượng hiện tại ấy.
Hành giả không nên chú tâm ở một phần nào của thân; không nên có
khái niệm về dáng đứng, tư thế đứng trong tâm, và cũng không nên niệm
tưởng trong tâm rằng: sắc đứng,… sắc đứng,… hoặc
đứng à,… đứng à…. Bởi vì, khái niệm về dáng đứng, tư thế đứng;
niệm tưởng sắc đứng trong tâm như vậy, thì đối tượng sắc đứng
trở thành đối tượng chế định pháp, không phải chân nghĩa
pháp. Cho nên, đối tượng ấy không phải là đối tượng của thiền tuệ. Theo Chân nghĩa pháp, thì đối tượng sắc đứng
chính là mỗi dáng đứng, tư thế đứng tự nhiên hiện rõ toàn
thân đứng yên không cử động, đối tượng hiện tại
của sắc đứng không ở trong tâm tưởng. Nếu
hành giả niệm tưởng sắc đứng trong tâm, thì sự trực nhận
đối tượng sắc đứng không đúng chỗ (vị trí), hành giả
không thể nào thấy rõ, biết rõ thực tánh của đối tượng sắc đứng
ấy.
Vì vậy, hành giả có chánh niệm trực nhận đúng ngay
đối tượng mỗi dáng đứng, tư thế đứng toàn thân đứng
yên, không cử động một cách tự nhiên.
* Hành giả là người có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ,
biết rõ mỗi dáng đứng, tư thế đứng toàn thân đứng yên
ấy, mỗi dáng đứng tư thế đứng gọi là "sắc đứng" có vô số
dáng đứng, tư thế đứng, nên sắc đứng có vô số. Hành giả tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ biết rõ
dáng đứng, tư thế đứng gọi là sắc đứng ấy đúng theo
chánh kiến thiền tuệ, đồng thời có thể diệt được tà
kiến theo chấp ngã tưởng lầm rằng "ta đứng" và
các phiền não khác (diệt theo cách từng thời).
Tóm lại, hành giả là người có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực
nhận, trực giác thấy rõ biết rõ mỗi dáng đứng, tư thế đứng toàn thân
như thế nào, thì thấy rõ biết rõ mỗi dáng đứng, tư thế đứng toàn thân
như thế ấy, một cách thoáng qua (ví như chụp hình mỗi
tư thế đứng khác biệt nhau).
* Hành giả là người có tâm tinh tấn hỗ trợ cho
chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác tiến hành thiền tuệ liên tục không
ngừng, để cho trí tuệ thiền tuệ được phát triển, chánh kiến thiền
tuệ càng thấy rõ sắc đứng, thì đồng thời tà kiến
theo chấp ngã tưởng lầm "ta đứng" bị lu mờ dần, cho
đến khi tà kiến theo chấp ngã bị tiêu diệt hẳn, do năng lực của
trí tuệ thiền tuệ.
3- Sắc Ngồi 1- Đối tượng sắc ngồi:
Đó chính là mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi, là sắc pháp
phát sanh từ tâm, toàn thân ngồi yên không cử động, thân phần trên
ngồi thẳng, thân phần dưới co theo mỗi tư thế ngồi. Dáng ngồi,
tư thế ngồi phải tự nhiên, không nên ngồi kiểu này, kiểu kia,
làm mất dáng tự nhiên, làm che án thực tánh của nó. Thực tánh của các pháp luôn luôn trong trạng thái tự nhiên, nên
dáng ngồi, tư thế ngồi làm đối tượng của thiền tuệ cũng phải tự nhiên. Sắc ngồi trong trạng thái tĩnh [13] ,
thuộc về sắc pháp, dùng làm đối tượng để tiến hành thiền
tuệ, đó chính là mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân ngồi yên
không cử động (đối tượng hiện tại rất ngắn ngủi, nếu thân cử động,
thì không còn dáng ngồi, tư thế ngồi).
2- Chủ thể:
* Hành giả là người có chánh niệm (niệm thân) trực
nhận đúng ngay đối tượng mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân
ngồi yên không cử động [14], theo dõi ghi
nhớ mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân, ngồi yên2 không
cử động ấy.
Hành giả không nên chú tâm ở một phần nào của thân; không nên có
khái niệm về dáng ngồi, tư thế ngồi trong tâm, và cũng không nên niệm
tưởng trong tâm rằng: sắc ngồi,… sắc ngồi,… hoặc
ngồi à,… ngồi à…. Bởi vì, khái niệm về dáng ngồi, tư thế ngồi;
niệm tưởng sắc ngồi trong tâm như vậy, thì đối tượng sắc ngồi
trở thành đối tượng chế định pháp, không phải
chân nghĩa pháp. Cho nên, đối tượng ấy không phải là đối tượng của
thiền tuệ. Theo Chân nghĩa pháp, thì đối tượng sắc ngồi
chính là mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi tự nhiên hiện rõ
toàn thân ngồi yên, đối tượng hiện tại của
sắc ngồi không ở trong tâm tưởng. Nếu hành
giả niệm tưởng sắc ngồi trong tâm, thì sự trực nhận đối
tượng sắc ngồi không đúng chỗ (vị trí), hành giả không
thể nào thấy rõ, biết rõ thực tánh của đối tượng sắc ngồi ấy.
Vì vậy, hành giả có chánh niệm trực nhận đúng ngay
đối tượng mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân ngồi
yên, không cử động một cách tự nhiên.
* Hành giả là người có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ,
biết rõ mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân ngồi
yên ấy, mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi
gọi là "sắc ngồi" có vô số dáng ngồi, tư thế ngồi,
nên sắc ngồi có vô số. Hành giả tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ biết rõ
dáng ngồi, tư thế ngồi gọi là sắc ngồi ấy đúng theo
chánh kiến thiền tuệ, đồng thời có thể diệt được tà
kiến theo chấp ngã tưởng lầm rằng "ta ngồi" và
các phiền não khác (diệt theo cách từng thời).
Tóm lại, hành giả là người có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực
nhận, trực giác thấy rõ biết rõ mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân
như thế nào, thì thấy rõ biết rõ mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân
như thế ấy, một cách thoáng qua (ví như chụp hình mỗi
tư thế ngồi khác biệt nhau).
* Hành giả là người có tâm tinh tấn hỗ trợ cho
chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác tiến hành thiền tuệ liên tục không
ngừng, để cho trí tuệ thiền tuệ được phát triển, chánh kiến thiền
tuệ càng thấy rõ sắc ngồi, thì đồng thời tà kiến
theo chấp ngã tưởng lầm "ta ngồi" bị lu mờ
dần, cho đến khi tà kiến theo chấp ngã bị tiêu diệt hẳn, do năng lực
của trí tuệ thiền tuệ.
4- Sắc Nằm 1- Đối tượng sắc nằm:
Đó chính là mỗi dáng nằm, tư thế nằm, là sắc pháp
phát sanh từ tâm, toàn thân nằm yên không cử động
theo mỗi tư thế nằm. Dáng nằm, tư thế nằm phải tự nhiên,
không nên nằm kiểu này, kiểu kia, làm mất dáng tự nhiên, làm che án
thực tánh của nó. Thực tánh của các pháp luôn luôn trong trạng thái tự nhiên, nên
dáng nằm, tư thế nằm làm đối tượng của thiền tuệ cũng phải tự nhiên. Sắc nằm trong trạng thái tĩnh [15] ,
thuộc về sắc pháp, dùng làm đối tượng để tiến hành thiền
tuệ, đó chính là mỗi dáng nằm, tư thế nằm toàn thân nằm yên
không cử động (đối tượng hiện tại rất ngắn ngủi, nếu thân cử động,
thì không còn dáng nằm, tư thế nằm).
2- Chủ thể:
* Hành giả là người có chánh niệm (niệm thân) trực
nhận đúng ngay đối tượng mỗi dáng nằm, tư thế nằm
toàn thân nằm yên không cử động, theo dõi, ghi
nhớ mỗi dáng nằm, tư thế nằm toàn thân nằm yên không cử động ấy.
Hành giả không nên chú tâm ở một phần nào của thân; không nên có
khái niệm về dáng nằm, tư thế nằm trong tâm, và cũng không nên niệm
tưởng trong tâm rằng: sắc nằm,… sắc nằm,… hoặc nằm
à,… nằm à…. Bởi vì, khái niệm về dáng nằm, tư thế nằm; niệm
tưởng sắc nằm trong tâm như vậy, thì đối tượng sắc nằm
trở thành đối tượng chế định pháp, không phải chân nghĩa
pháp. Cho nên, đối tượng ấy không phải là đối tượng của thiền tuệ. Theo Chân nghĩa pháp, thì đối tượng sắc nằm
chính là mỗi dáng nằm, tư thế nằm hiện rõ toàn thân
nằm yên không cử động, đối tượng hiện tại của
sắc nằm không ở trong tâm tưởng. Nếu hành giả
niệm tưởng sắc nằm trong tâm, thì sự trực nhận đối tượng
sắc nằm không đúng chỗ (vị trí), hành giả không thể nào
thấy rõ, biết rõ thực tánh của đối tượng sắc nằm ấy.
Vì vậy, hành giả có chánh niệm trực nhận đúng ngay
đối tượng, là theo dõi mỗi dáng nằm, tư thế nằm toàn thân
nằm yên, không cử động một cách tự nhiên.
* Hành giả là người có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ,
biết rõ mỗi dáng nằm, tư thế nằm toàn thân nằm
yên ấy, mỗi dáng nằm, tư thế nằm gọi
là "sắc nằm" có vô số dáng nằm, tư thế nằm, nên sắc nằm
có vô số. Hành giả tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ tỉnh giác thấy rõ biết rõ
dáng nằm, tư thế nằm gọi là sắc nằm ấy đúng theo
chánh kiến thiền tuệ, đồng thời có thể diệt được tà kiến
theo chấp ngã tưởng lầm rằng "ta nằm" và các
phiền não khác (diệt theo cách từng thời).
Tóm lại, hành giả là người có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực
nhận, trực giác thấy rõ biết rõ mỗi dáng nằm, tư thế nằm toàn thân như
thế nào, thì thấy rõ biết rõ mỗi dáng nằm, tư thế nằm toàn thân như
thế ấy, một cách thoáng qua (ví như chụp hình mỗi tư
thế nằm khác biệt nhau).
* Hành giả là người có tâm tinh tấn hỗ trợ cho
chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác tiến hành thiền tuệ liên tục không
ngừng, để cho trí tuệ thiền tuệ được phát triển, chánh kiến thiền
tuệ thấy rõ sắc nằm, thì đồng thời tà kiến theo
chấp ngã tưởng lầm "ta nằm" bị lu mờ dần, cho đến
khi tà kiến theo chấp ngã bị tiêu diệt hẳn, do năng lực của trí
tuệ thiền tuệ.
Oai nghi chính – oai nghi phụ Oai nghi chính luôn luôn cần có những oai nghi phụ hỗ trợ, như
trường hợp thay đổi từ oai nghi cũ sang oai nghi mới, cần phải có
những oai nghi phụ hỗ trợ để hoàn thành oai nghi mới. Ngoài ra, các
oai nghi phụ phát sanh như đưa tay gải, cử động..., những trường hợp
ấy, oai nghi chính không còn hiện hữu. Khi ấy, hành giả nên có
chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận, trực giác ngay
các oai nghi phụ ấy, cũng là sắc pháp phát sanh
từ tâm. Khi các oai nghi phụ xong phận sự, hành giả trở lại đối tượng
oai nghi chính ngay, để cho sự tiến hành thiền tuệ liên
tục, không bị gián đoạn. Khi hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ biết rõ, phân
biệt rõ được sắc pháp - danh pháp hiện rõ trong mỗi oai nghi chính,
mỗi oai nghi phụ thuộc sắc pháp. Nếu trường hợp có danh pháp nào phát
sanh, thì chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác cũng thấy rõ biết rõ danh pháp
ấy như: - Khi nhãn thức tâm nhìn thấy sắc trần: hình dáng,
hành giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận,
trực giác ngay: "danh thấy" (không phải ta thấy). [16] - Khi nhĩ thức tâm nghe thanh trần: các âm thanh,
hành giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận,
trực giác ngay: "danh nghe" (không phải ta nghe).
[16] - Khi tỷ thức tâm ngửi hương trần: các loại mùi, hành
giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận, trực
giác ngay: "danh ngửi" (không phải ta ngửi). [16] - Khi thiệt thức tâm nếm vị trần: các loại vị, hành
giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận, trực
giác ngay: "danh nếm" (không phải ta nếm). [16] - Khi thân thức tâm tiếp với xúc trần: cứng, mềm,
nóng, lạnh,… hành giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác
trực nhận, trực giác ngay: "danh tiếp xúc" (không phải
ta tiếp xúc). [16] - Khi ý thức tâm phóng tâm về chuyện
này, chuyện kia phát sanh, hành giả nên có chánh niệm, trí tuệ
tỉnh giác trực nhận, trực giác ngay: "danh phóng tâm"
(không phải ta phóng tâm, không nên quan tâm đến chuyện ấy).
- Khi ý thức tâm xao lãng việc tiến hành thiền
tuệ, suy nghĩ vấn đề khác, hành giả nên có chánh niệm,
trí tuệ tỉnh giác trực nhận, trực giác ngay: "danh suy
nghĩ" (không phải ta suy nghĩ, không nên suy nghĩ đến vấn
đề ấy)…. Những trường hợp trên là nguyên nhân buông bỏ oai nghi chính,
hành giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận,
trực giác thấy rõ, biết rõ danh pháp ấy xong;
hành giả trở lại ngay đối tượng oai nghi chính, để cho
sự tiến hành thiền tuệ được liên tục không bị gián đoạn. Ngoài 4 oai nghi chính: sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm
ra, còn có vô số oai nghi phụ thuộc sắc pháp phát sanh
từ tâm, và các danh pháp cũng đều có thể là đối
tượng thiền tuệ, vì có thực tánh của sắc pháp, danh pháp; có sự
sanh, sự diệt của sắc pháp, danh pháp; có ba trạng thái chung: trạng
thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của sắc pháp, danh
pháp.
Như vậy, hành giả tiến hành thiền tuệ không nên xem trọng
danh pháp, sắc pháp này, xem khinh danh pháp, sắc pháp kia,
đặt thiện tâm trung dung trong mọi đối tượng sắc pháp danh pháp, để
cho sự tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo,
dẫn đến thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh pháp, sắc pháp; thấy
rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; có thể thấy rõ trạng
thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã
của danh pháp, sắc pháp; dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế,
chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Nguyên nhân không biết đối tượng chân nghĩa pháp Thực tánh của danh pháp sắc pháp là có thật, là một sự thật hiển
nhiên, đó là 6 đối tượng: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần,
xúc trần và pháp trần (trừ chế định pháp) luôn luôn hiện rõ trong 6 lộ
trình tâm: nhãn môn lộ trình tâm, nhĩ môn lộ trình tâm, tỷ môn lộ
trình tâm, thiệt môn lộ trình tâm, thân môn lộ trình tâm và ý môn lộ
trình tâm tuỳ theo mỗi đối tượng tương ứng với môn của chúng. Nhưng
thực tế trong cuộc sống, đối với hàng phàm nhân, không phải là hành
giả đang tiến hành thiền tuệ, thường không thấy, không biết đến thực
tánh của danh pháp sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp, mà thường chỉ thấy,
chỉ biết đến chế định pháp theo khái niệm ý nghĩa, hình dạng chế định
trong tâm và danh từ ngôn ngữ chế định gọi tên như: con người, đàn
ông, đàn bà, chúng sinh, vật này, vật kia v.v…… Bởi do nguyên nhân nào không thấy, không biết thực tánh của danh
pháp sắc pháp đúng theo chân nghĩa pháp; mà thường chỉ thấy, chỉ biết
đến chế định pháp, theo khái niệm ý nghĩa chế định, danh từ ngôn ngữ
chế định? Sở dĩ, chúng ta không biết được thực tánh của danh pháp sắc pháp
thuộc chân nghĩa pháp; là vì, những đối tượng danh pháp, sắc pháp hiện
tại hiện ra và tồn tại (trụ) thời gian quá ngắn ngủi. Hơn nữa, mỗi sát
na tâm biết đối tượng sanh rồi diệt lại càng quá mau lẹ (chỉ một
lần búng đầu móng tay, tâm sanh diệt liên tục trải qua 1.000 tỷ lần)
qua các lộ trình tâm quá mau lẹ theo định luật tự nhiên của chúng. Cho nên, đối tượng danh pháp sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp vừa
hiện rõ trong lộ trình tâm này, liền chuyển sang ý môn lộ trình tâm
khác, trở thành đối tượng chế định pháp. Tuy nhiên, nguyên nhân chính làm cho chúng ta không thấy không biết
được thực tánh của danh pháp, sắc pháp đúng theo chân nghĩa pháp, đó
là do vô minh bao trùm phủ kín trên đối tượng danh pháp
sắc pháp ấy. Theo thói quen của tâm thường biết đến đối tượng chế định pháp,
theo khái niệm ý nghĩa chế định, danh từ ngôn ngữ chế định gọi tên
khái niệm ý nghĩa ấy. Do đó, tâm không thể biết được thực tánh của
danh pháp sắc pháp đúng theo chân nghĩa pháp. Bí quyết pháp hành thiền tuệ Để biết thực tánh của danh pháp, sắc pháp đúng theo chân nghĩa pháp
(paramatthadhamma), hành giả tiến hành thiền tuệ cần phải biết
bí quyết pháp hành thiền tuệ là "tâm chỉ cần biết thoáng qua".
Tâm đó là đại thiện tâm có chánh niệm trực
nhận đối tượng danh pháp hoặc sắc pháp nào, trí tuệ tỉnh giác
trực giác chỉ cần biết thoáng qua đối tượng danh pháp hoặc sắc pháp ấy
mà thôi. Tại sao tâm chỉ cần biết thoáng qua? Bởi vì, đối tượng danh pháp, sắc pháp hiện tại của
chân nghĩa pháp (paramatthadhamma) hiện rõ trên ý môn lộ
trình tâm vô cùng mau lẹ; cho nên, thiện tâm có chánh niệm trực nhận
đối tượng danh pháp hoặc sắc pháp nào, trí tuệ tỉnh giác trực giác
thấy rõ biết rõ ngay đối tượng danh pháp hoặc sắc pháp ấy chỉ
cần biết thoáng qua mà thôi; thì đối tượng danh pháp hoặc sắc
pháp ấy vẫn còn trong lãnh vực thuộc chân nghĩa pháp.
Nếu hành giả chú tâm lâu nơi đối tượng, thì đối tượng ấy vượt qua khỏi
lãnh vực của đối tượng chân nghĩa pháp, chuyển sang đối tượng chế định
pháp, không phải là đối tượng của pháp hành thiền tuệ. Vả lại,
pháp hành thiền tuệ chỉ cần khaṇikasamādhi (sát na định) định
tâm trên đối tượng danh pháp hoặc sắc pháp hiện tại trong khoảnh khắc
rất ngắn ngủi; khác với pháp hành thiền định phải có
upacārasamādhi: cận định và appanāsamādhi: an định trên một
đối tượng duy nhất, để có thể chứng đắc các bậc thiền sắc giới, thiền
vô sắc giới. Trong tiểu sử Ngài Đại Đức Ānanda (bậc Thánh Nhập Lưu) chứng đắc từ
Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai
Thánh Quả, Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả cùng với thần thông
trong khoảng thời gian thay đổi oai nghi ngồi sang oai nghi nằm, mà
đầu chưa đụng gối. Như vậy, Ngài chứng đắc 3 Thánh Đạo - 3 Thánh Quả bậc cao không
trong oai nghi chính nào, chỉ trong oai nghi phụ mà thôi. Cho nên, oai nghi chính - oai nghi phụ đều là đối tượng của pháp
hành thiền tuệ, có khả năng dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế,
chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn. Bảng phân biệt đối tượng
Vai Trò Của Đối Tượng Và Chủ Thể 1- Vai trò đối tượng: Đó là 4 oai nghi chính: sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm
thuộc về sắc pháp phát sanh từ tâm, xem như vai trò
chính.
Ngoài tứ oai nghi chính ra, còn có vô số oai nghi phụ cử động của
thân như: thay đổi từ oai nghi cũ này sang oai nghi mới khác,
cần phải nhờ đến nhiều oai nghi phụ hỗ trợ, để có thể hoàn thành oai
nghi mới; và có những oai nghi phụ cử động riêng rẽ như: đưa tay
lên gãi ngứa, để tay xuống, duỗi chân ra, co chân vào,…. Tất cả
những oai nghi phụ này, cũng là sắc pháp phát sanh từ tâm, xem như
vai trò phụ. Tứ oai nghi chính và tất cả oai
nghi phụ có giá trị tương đương nhau, cũng đều có thể làm đối
tượng của thiền tuệ.
Ngoài sắc pháp ra, còn những danh pháp là tham tâm, sân tâm, si
tâm, phóng tâm… cũng đều là đối tượng của thiền tuệ, xem như
vai trò phụ.
Tất cả mọi sắc pháp, tất cả mọi danh pháp
đều có giá trị tương đương; có thực tánh của mỗi sắc pháp, mỗi danh
pháp phát sanh lên làm phận sự xong rồi đều phải diệt một cách tự
nhiên; có 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã; đều dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế,
chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả, và Niết Bàn, như nhau cả thảy. Tất cả mọi sắc pháp, mọi danh pháp đều là đối tượng của thiền tuệ,
ví như những vai diễn trung thực trong một bộ phim, hay
một vở tuồng. 2- Vai trò chủ thể: Đó là chánh niệm trực nhận nơi đối tượng dáng đi,
tư thế đi, hoặc dáng đứng, tư thế đứng, hoặc dáng ngồi, tư thế ngồi,
hoặc dáng nằm, tư thế nằm, gọi là tứ oai nghi chính; và trí
tuệ tỉnh giác trực giác nơi đối tượng (mà chánh niệm trực
nhận) thấy rõ biết rõ dáng đi, tư thế đi gọi là "sắc đi"
hoặc dáng đứng, tư thế đứng gọi là "sắc đứng"; hoặc dáng
ngồi, tư thế ngồi gọi là "sắc ngồi"; hoặc dáng nằm, tư
thế nằm gọi là "sắc nằm", đúng theo thực tánh của sắc
pháp ấy, để diệt tà kiến thấy sai chấp lầm cho là ta.
Ngoài ra, chánh niệm trực nhận, trí tuệ tỉnh
giác trực giác mọi sự cử động của thân gọi là oai nghi
phụ. 4 oai nghi chính, và các oai nghi phụ, đều thuộc về sắc
pháp phát sanh từ tâm. Và chánh niệm trực nhạn, trí tuệ tỉnh giác
trực giác trạng thái các tâm, tâm strong tam giới, gọi
là danh pháp.
Các đối tượng dầu là sắc pháp hay danh pháp
cũng đều có giá trị tương đương như nhau; nghĩa là có thực tánh của
mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp; có sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc
pháp; có 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, đều có thể dẫn đến sự chứng
ngộ sự thật chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả,
và Niết Bàn, như nhau cả thảy. Cho nên, hành giả không nên xem trọng một sắc pháp, một danh pháp
nào, cũng không nên xem khinh một sắc pháp, một danh pháp nào; để
tránh mắc phải 2 cực đoan thuộc 2 biên kiến, để cho sự tiến hành thiền
tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo.
Vậy, vai trò hành giả có chánh niệm trực nhận,
trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ các danh pháp, sắc
pháp là đối tượng của pháp hành thiền tuệ, ví như vai trò người
khán giả xem các vai chính, vai phụ trong một bộ
phim hay một vở tuồng mà thôi. Thật ra, đối tượng của pháp hành thiền tuệ đó là danh pháp, sắc
pháp thuộc về Chân nghĩa pháp. Cho nên, không có danh từ ngôn ngữ chế
định nào có thể diễn tả được thực tánh trung thực của danh
pháp, sắc pháp; mà chỉ thực hành đúng theo pháp hành thiền tuệ, khi
trí tuệ thiền tuệ phát sanh mới có thể thấy rõ biết rõ được thực tánh
của danh pháp, sắc pháp mà thôi. Do đó, phần thực hành đối tượng tứ oai nghi: sắc đi, sắc đứng,
sắc ngồi, sắc nằm, dầu giảng giải tỉ mỉ như thế nào đi nữa, cũng
không thể nào diễn tả được thực tánh trung thực của sắc pháp,
danh pháp đối tượng của thiền tuệ. Về pháp hành thiền tuệ, hành giả tự học ở sách, rồi tự tiến
hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo không phải là việc
dễ dàng! Trong pháp hành thiền tuệ, dầu hành giả là người có giới trong
sạch, có định vững vàng, có tâm tinh tấn liên tục; nhưng chỉ cần
hiểu sai, hành sai một chút nào đó cũng có thể dẫn đến kết quả
hoàn toàn khác, không thể chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế,…. Vậy điều tốt hơn hết, hành giả nên tìm gặp vị Thiền sư thông
thạo về pháp học, đầy đủ kinh nghiệm về pháp hành thiền tuệ,
để thân cận, nương nhờ học hỏi, để được sự chỉ dạy trực tiếp. Khi tiến
hành thiền tuệ hành giả có thấy, có biết những pháp mà tự mình chưa có
khả năng ý thức được, chưa nhận định được đúng hoặc sai; hành giả nên
trình những pháp ấy, để vị Thiền sư nhận định phê bình đúng hay sai.
Điều này rất cần thiết đối với hành giả, nhất là hành giả ban đầu tập
tiến hành thiền tuệ. Chú thích: [6] Bộ Dīghanikāya, Mahāvagga, Kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta. [7] Majjhimanikāya, Mùlapannāsa, Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇnā . [8] Yên: mỗi dáng đứng, tư thế đứng đối tượng hiện tại rất ngắn
ngủi. [9] Chú giải Dīghanikāya, Mahāvaggaṭṭhakathā, và M. Mū. aṭṭhakathā,
kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇnā . [10] Samyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Āḷavakasutta. [11] Một cách thoáng qua: nghĩa là không cần chú tâm rõ ràng đối
tượng quá, chỉ cần chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác biết thoáng qua đối
tượng, nhờ tinh tấn nên càng lúc càng rõ thêm. Bởi vì, chú tâm nơi đối
tượng quá, thì đối tượng không còn ở lãnh vực đối tượng paramattha, mà
chuyển sang lãnh vực đối tượng paññatti. [12] Trạng thái tĩnh: trong một giây lát ngắn ngủi của mỗi dáng
đứng, tư thế đứng đối tượng hiện tại. [13] Trạng thái tĩnh: trong một giây lát ngắn ngủi của mỗi dáng
ngồi, tư thế ngồi đối tượng hiện tại. [14] Yên: mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi đối tượng hiện tại rất ngắn
ngủi. [15] Trạng thái tĩnh: trong một giây lát ngắn ngủi của mỗi dáng
nằm, tư thế nằm đối tượng hiện tại. [16] Ngũ thức tâm: nhãn thức tâm, nhĩ thức tâm, tỷ thức tâm, thiệt
thức tâm, thân thức tâm chỉ có thể biết đối tượng thuộc về
paramatthadhamma, không thể biết đối tượng paññattidhamma. -ooOoo- Ðầu trang
| Mục lục
| 1.1
| 1.2
| 1.3
| 1.4
| 1.5
| 2.1
| 2.2
| 2.3
| 2.4
| 2.5
| 3.1
| 3.2
| 3.3
| 3.4
| 3.5
| Chân thành cám ơn Tỳ
khưu Hộ Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 05-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
[5]
"Gacchanto vā gacchāmī’ti pajānāti
"Ṭhito vā ṭhito’mhī’ti pajaànāti,
"Nisinno vā nisinno’mhī’ti pajānāti,
"Sayāno vā sayāno’mhī’ti pajānāti,
"Yathā yathā vā pana’ssa kāyo paṇihito hoti.
"Tathā tathā naṃ pajānāti…".
Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhāvā kāye kāyānupassī viharati.
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya.
Anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati.
Evampi kho bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati".
(Iriyāpathapabbaṃ niṭṭhitaṃ).
- Sắc thủy đại, chất nước.
- Sắc hỏa đại, chất lửa.
- Sắc phong đại, chất gió.
4.1
| 4.2
| 4.3
| 4.4
| 4.5
| 4.6
| 5.1
| 5.2
| 5.3
| 5.4
| 5.5
last updated: 03-06-2003