BuddhaSasana Home Page
Tìm hiểu PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ - Tỳ
khưu HỘ PHÁP PHẦN II PHÁP
HÀNH (BHĀVANĀ) 2- PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (Vipassanābhāvanā)
Pháp hành thiền tuệ là pháp hành chỉ có trong Phật giáo,
không có ngoài Phật giáo. Qua tiểu sử của Đức Phật khi còn là Đức Bồ
Tát, Ngài đã từng thọ giáo với vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta và vị Đạo
sư Udaka Rāmaputta về pháp hành thiền định, Đức Bồ Tát đã chứng đắc tứ
thiền sắc giới và tứ thiền vô sắc giới, là pháp hành cao nhất ở thời
kỳ ấy, nhưng hoàn toàn không có pháp hành thiền tuệ.
Pháp hành thiền tuệ là pháp hành dẫn đến sự chứng
ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, diệt đoạn tuyệt được tham ái là nhân sanh khổ, và tất cả mọi
phiền não, mọi ác pháp, cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử
sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Vì vậy, pháp hành thiền tuệ là pháp hành rất vi
tế, sâu sắc, rất khó hiểu về phần pháp học (lý thuyết),
lại càng khó về pháp hành (thực hành) cho đúng.
Phần pháp học khó hiểu, là vì những danh từ ngôn
ngữ chế định có Thực tánh pháp làm nền tảng. Song
thực tánh của tất cả danh pháp, sắc pháp hoàn
toàn không phải là danh từ ngôn ngữ chế định (paññatti).
Do đó, pháp học cũng chỉ là phương tiện để hiểu rõ,
phân biệt rõ được danh từ chế định thực tánh của mỗi
danh pháp, sắc pháp để hiểu biết về pháp hành thiền
tuệ. Phần pháp hành thiền tuệ lại càng rất khó, là vì đối
tượng của pháp hành thiền tuệ là danh pháp, sắc
pháp thuộc Chân nghĩa pháp
(Paramatthadhamma), hay Thực tánh pháp (Sabhāvadhamma),
hoàn toàn không phải danh từ ngôn ngữ chế định. Cho nên rất khó thấy
rõ, rất khó biết rõ, bởi vì vô minh (avijjā) bao trùm
phủ kín lên thực tánh của danh pháp, sắc pháp, lại còn bị tham
ái (taṇhā) lôi cuốn theo 6 dục cảnh: sắc đẹp, tiếng
hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm ái, pháp trần hài lòng, nên mắc
phải những sai lầm hư ảo (vipallāsa) như sau: * Tâm hư ảo (cittavipallāsa): Tâm biết sai lầm
nơi danh pháp, sắc pháp. * Tà kiến hư ảo (diṭṭhivipallāsa): Tà kiến
thấy lầm nơi danh pháp, sắc pháp. * Tưởng hư ảo (saññāvipallāsa): Tưởng sai lầm
nơi danh pháp, sắc pháp. - Tâm biết lầm, tà kiến thấy lầm, tưởng sai lầm nơi danh pháp, sắc
pháp cho là "thường" (nicca); nhưng sự thật danh
pháp, sắc pháp có "trạng thái vô thường" (anicca).
- Tâm biết lầm, tà kiến thấy lầm, tưởng sai lầm nơi danh pháp, sắc
pháp cho là "lạc" (sukha); nhưng sự thật danh pháp, sắc
pháp có "trạng thái khổ" (dukkha).
- Tâm biết lầm, tà kiến thấy lầm, tưởng sai lầm nơi danh pháp, sắc
pháp cho là "ngã" (attā); nhưng sự thật danh
pháp, sắc pháp có "trạng thái vô ngã" (anattā).
- Tâm biết lầm, tà kiến thấy lầm, tưởng lầm nơi danh pháp, sắc pháp
cho là "tịnh, đẹp" (subha); nhưng sự thật danh
pháp, sắc pháp có trạng thái "bất tịnh" (asubha).
Do tâm biết lầm, tà kiến thấy lầm, tưởng sai lầm nơi danh pháp cho
rằng thường, lạc, ngã, tịnh nên làm cho chúng sinh say
mê trong danh pháp, sắc pháp, ngũ uẩn; mà không biết rằng danh pháp,
sắc pháp, ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh.
Pháp hành thiền tuệ là pháp hành để phát sanh trí tuệ
thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo sự thật thực tánh của danh
pháp, sắc pháp sanh rồi diệt liên tục không ngừng, nên hiện rõ
trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trạng thái
bất tịnh, để diệt được những điều hư ảo sai lầm cho là
"danh pháp, sắc pháp là thường, lạc, ngã, tịnh", làm cho chúng
sinh say mê trong danh pháp, sắc pháp, ngũ uẩn. Pháp hành thiền tuệ hoàn toàn không sáng tạo thêm ra những gì mới
mẽ, không làm cho phát sanh những ấn chứng, hỉ lạc như pháp hành thiền
định. Sự thật, pháp hành thiền tuệ cốt để phát sanh trí tuệ thiền tuệ
thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng
thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp là sự thật hiển nhiên. Sở dĩ không thấy rõ, không biết rõ được thực tánh của các
pháp, là vì vô minh che phủ sự thật thực tánh pháp ấy.
Cho nên, tiến hành thiền tuệ để phát sanh trí tuệ thiền tuệ diệt tâm
vô minh, trở lại thấy rõ, biết rõ sự thật thực tánh pháp, chỉ có
khổ mà thôi, để nhàm chán nơi danh pháp, sắc pháp; để diệt
tâm tham ái nơi danh pháp, sắc pháp; để giải thoát khỏi
danh pháp, sắc pháp, đó là giải thoát khổ sanh chính là
giải thoát mọi cảnh khổ.
Định Nghĩa Thiền Tuệ (Vipassanāñāṇa).
Thiền tuệ là trí tuệ thấy rõ và biết rõ danh pháp, sắc pháp sanh
rồi diệt, nên hiện thấy rõ biết rõ ba trạng thái chung: trạng thái vô
thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn đến sự chứng ngộ chân
lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt
đoạn tuyệt được mọi tham ái cùng mọi phiền não và mọi ác pháp, giải
thoát mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài Những điểm đặc biệt trong phần định nghĩa 1- Trí tuệ thiền tuệ (vipassanāñāṇa): là chủ
thể của pháp hành thiền tuệ. 2- Danh pháp (nāmadhamma), sắc pháp
(rūpadhamma): là đối tượng của pháp hành thiền tuệ. 3- Sự sanh (upāda), sự diệt
(vāya) của danh pháp, sắc pháp trong hiện tại, đó là sự thấy rõ,
biết rõ của trí tuệ thiền tuệ. 4- Ba trạng thái chung (sāmaññalakkhaṇa) của
danh pháp, sắc pháp: đó là sự thấy rõ, biết rõ của trí tuệ thiền
tuệ. 5- Tứ thánh đế (Ariyasacca): là mục đích của
trí tuệ thiền tuệ.
6- 4 Thánh Đạo (Ariyamagga): là 4 siêu tam
giới thiện tâm, là kết quả của pháp hành thiền tuệ. 7- 4 Thánh Quả (Ariyaphala): là 4 siêu tam
giới quả tâm, là quả của 4 siêu tam giới thiện tâm. 8- Niết Bàn (Nibbāna): là đối tượng của 4
Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm. 9- Diệt đoạn tuyệt (samucchedapahāna) được
tham ái, phiền não, ác pháp: bằng Thánh Đạo Tuệ. 10- Quả báu của pháp hành thiền tuệ. PHẦN GIẢI THÍCH 1- Trí Tuệ Thiền Tuệ Trí tuệ thiền tuệ (Vipassanāñāṇa) là chủ thể chính
yếu của pháp hành thiền tuệ, có khả năng đặc biệt, thấy rõ, biết rõ
danh pháp, sắc pháp sanh rồi diệt, nên hiện rõ 3 trạng thái
chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã,
dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4
Thánh Quả và Niết Bàn. Còn lại các loại trí tuệ khác hiểu biết các pháp chế định
(paññattidhamma), pháp học, pháp hành thiền định, các ấn chứng của
thiền định…, những loại trí tuệ ấy không gọi là
trí tuệ thiền tuệ.
Chức năng của trí tuệ nói chung: Trí tuệ thuộc về tâm sở gọi là tuệ chủ tâm sở
(paññindriya-cetasika), đồng sanh với 47 hay 79 tâm như sau: - 12 dục giới tịnh hảo tâm hợp với trí (ñāṇasampayuttacitta).
Tuệ chủ tâm sở hợp trong mỗi tâm có khả năng biết đối tượng riêng
biệt như sau: - Tuệ chủ tâm sở đồng sanh trong 12 dục giới tịnh hảo
tâm hợp với trí, đó là: 4 dục giới đại thiện tâm hợp với trí + 4 dục
giới đại quả tâm hợp với trí + 4 dục giới đại duy tác tâm hợp với trí,
có khả năng biết 6 đối tượng: sắc trần, thanh trần, hương trần,
vị trần, xúc trần, pháp trần [5] , biết đối
tượng Chân nghĩa pháp và đối tượng Chế định pháp. - Tuệ chủ tâm sở đồng sanh với 15 sắc giới tâm, đó
là: 5 sắc giới thiện tâm + 5 sắc giới quả tâm + 5 sắc giới duy tác
tâm, có khả năng chỉ biết được 1 đối tượng là pháp trần,
phần thuộc về Chế định pháp (Paññattidhamma).
- Tuệ chủ tâm sở đồng sanh với 12 vô sắc giới tâm,
đó là: 4 vô sắc giới thiện tâm + 4 vô sắc giới quả tâm + 4 vô sắc
giới duy tác tâm, có khả năng chỉ biết được 1 đối tượng là pháp
trần, phần thuộc về Chế định pháp và Chân nghĩa pháp
là đối tượng của thiền định. - Tuệ chủ tâm sở đồng sanh với 8 hay 40 siêu tam giới
tâm, đó là: 4 hay 20 Thánh Đạo Tâm + 4 hay 20 Thánh Quả Tâm, có khả
năng chỉ biết được 1 đối tượng là pháp trần, phần thuộc
về Niết Bàn, Chân nghĩa pháp.
Trí tuệ thiền tuệ phát sanh như thế nào? Trí tuệ thiền tuệ phát sanh do nhiều nguyên nhân xa và gần. - Nguyên nhân xa: hành giả phải là người tam nhân (vô tham, vô
sân, vô si) từ khi tái sanh. - Nguyên nhân gần: do trí tuệ lắng nghe, học hỏi, nghiên cứu hiểu
biết rõ ràng về danh pháp, sắc pháp thuộc Chân nghĩa pháp; và do trí
tuệ tư duy đúng đắn theo pháp đã học, làm nền tảng căn bản, để tiến
hành đúng theo pháp hành thiền tuệ. Khi hành giả tiến hành thiền tuệ, có chánh niệm trực nhận, trí tuệ
tỉnh giác trực giác danh pháp, sắc pháp, có sự tinh tấn phát sanh trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc
pháp, nên hiện rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô
ngã, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo,
4 Thánh Quả và Niết Bàn. Trí tuệ thiền tuệ (Vipassanāñāna), có hai loại: - Trí tuệ thiền tuệ thuộc tam giới (lokiyavipassanāñāṇa).
- Trí tuệ thiền tuệ thuộc siêu tam giới (lokuttaravipassanā).
* Trí tuệ thiền tuệ thuộc tam giới: là tuệ chủ tâm sở
đồng sanh trong 4 dục giới đại thiện tâm hợp với trí, (trong tâm
của hạng thiện trí phàm nhân và 3 bậc Thánh Hữu Học: bậc Thánh Nhập
Lưu, Thánh Nhất Lai, Thánh Bất Lai), và 4 dục giới đại duy tác tâm
hợp với trí, (trong tâm của bậc Thánh Arahán), có 6 đối tượng:
sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần,
thuộc danh pháp sắc pháp trong tam giới; hay nói cách khác: Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc
pháp thuộc tam giới, sanh rồi diệt, nên hiện rõ 3 trạng thái
chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã.
Do đó, gọi là: "Trí tuệ thiền tuệ thuộc tam giới".
* Trí tuệ thiền tuệ thuộc siêu tam giới: là tuệ chủ
tâm sở đồng sanh trong 8 hay 40 siêu tam giới tâm, hoặc
4 hay 20 Thánh Đạo Tâm và 4 hay 20 Thánh Quả Tâm, chỉ có
Niết Bàn siêu tam giới làm đối tượng. Do đó, gọi là:
"Trí tuệ thiền tuệ thuộc siêu tam giới".
Trí tuệ thiền tuệ thuộc siêu tam giới này, có tên gọi là:
4 Thánh Đạo Tuệ và 4 Thánh Quả Tuệ.
2- Danh pháp, Sắc pháp Đối tượng của thiền tuệ phải là danh pháp
(nāmadhamma) và sắc pháp (rūpadhamma) thuộc
về Chân nghĩa pháp (Paramattha-dhamma), không
phải là Chế định pháp (Paññattidhamma).
2.1- Danh Pháp Danh pháp (nāmadhamma) là pháp có trạng thái hướng biết đối
tượng (nāmanalakkhaṇa).
Danh pháp đó là: tâm và tâm sở. - Tâm gồm có 89 hay 121 tâm. * Tâm (citta): là đối tượng của thiền tuệ, chỉ có
81 tâm thuộc tam giới, trừ 8 hay 40 siêu tam giới tâm, vì siêu tam
giới tâm không thuộc về Khổ thánh đế.
Tam giới tâm có 81 tâm là: 1- Dục giới tâm có 54 tâm, gồm: - Bất thiện tâm có 12 tâm (8 tham tâm + 2 sân tâm + 2 si tâm).
2- Sắc giới tâm có 15 tâm, gồm: - Sắc giới thiện tâm có 5 tâm. 3- Vô sắc giới tâm có 12 tâm, gồm: - Vô sắc giới thiện tâm có 4 tâm. 81 tam giới tâm này, thuộc Khổ thánh đế là pháp nên
biết. * Tâm Sở (cetasita), có 52 tâm. Tâm sở luôn luôn tùy thuộc vào tâm, với 4 trạng thái: - Đồng sanh với tâm. Số lượng tâm sở đồng sanh với mỗi tâm, ít hay nhiều khác nhau tùy
theo mỗi tâm, để trợ giúp tâm làm các phận sự. Ví dụ: - 2 nhãn thức tâm, chỉ cần có 7 tâm sở
đồng sanh, làm các phận sự trợ giúp cho nhãn thức tâm làm một phận sự
nhìn thấy sắc trần.
Cũng như vậy, 2 nhĩ thức tâm, 2 tỷ thưc tâm, 2 thiệt thức
tâm, 2 thân thức tâm, chỉ cần có 7 tâm sở đồng sanh trợ giúp
làm phận sự của mỗi tâm ấy. Đó là 10 tâm có số lượng tâm sở ít nhất. Riêng dục giới đại thiện tâm cần có đến 38 tâm sở
đồng sanh. Vì tâm này làm nhiều phận sự, nên cần có số lượng tâm sở
đồng sanh nhiều nhất. Trạng Thái Tâm, Tâm Sở Tâm và tâm sở có 2 trạng thái: trạng thái riêng và trạng
thái chung. - Trạng thái riêng của tâm, tâm sở.
* Tâm gồm có 89 hay 121 tâm cùng một trạng thái
riêng là biết đối tượng.
- Trạng thái chung của tâm, tâm sở.
Tâm và tâm sở thuộc về danh pháp cùng có 3 trạng thái chung: * Trạng thái vô thường (aniccalakkhaṇa).
Phận Sự Của Danh Pháp Danh pháp có 2 phận sự chính: 1- Danh pháp làm phận sự chủ thể nhận biết đối tượng. - Nhãn thức tâm, có phận sự nhìn thấy sắc
trần: hình dạng, do nương nhờ nhãn môn (mắt). 2- Danh pháp làm phận sự đối tượng của thiền tuệ. Hành giả tiến hành thiền tuệ có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác
thấy rõ, biết rõ danh pháp làm đối tượng. Danh pháp làm đối tượng của thiền tuệ gồm có 81 tâm thuộc
tam giới và 52 tâm sở. Trong trường hợp hành giả tiến hành thiền tuệ có chánh niệm, trí
tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thọ hay tâm
làm đối tượng của thiền tuệ, gọi là: "danh pháp biết danh pháp".
Nghĩa là, chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thuộc về
danh pháp chủ thể phát sanh sau, thấy rõ, biết rõ thọ
hay tâm thuộc về danh pháp đối tượng trước
vừa mới diệt. Như phần niệm thọ, niệm tâm trong pháp
hành Tứ niệm xứ.
2.2- Sắc Pháp Sắc pháp (rūpadhamma) là pháp có trạng thái bị hủy hoại do
nóng, lạnh, đói, khát,… (ruppanalakkhaṇa). Sắc pháp gồm có 28 sắc pháp, trong thân thể của mỗi người bình
thường không bị bệnh tật khiếm khuyết, có thể có đủ 27 sắc pháp. - Nếu là người đàn ông, thì trừ sắc nữ tính. Phận Sự Của Sắc Pháp Sắc pháp chỉ có một phận sự duy nhất là làm đối tượng
của tâm, hay làm đối tượng của danh pháp.
Sắc pháp hoàn toàn không thể biết được đối tượng, không biết
cảm giác. Riêng phần sắc thân của con người không biết cảm giác nóng,
lạnh, đói, khát, đau nhức…. Sở dĩ, sắc thân biết cảm giác nóng, lạnh,
đói, khát, đau nhức,… là do tâm và tâm sở
tức là danh pháp. Nếu không có tâm và tâm sở hay
danh pháp nương nhờ nơi sắc thân này nữa, thì sắc thân này trở
thành tử thi, không thể thở vô, thở ra, đi, đứng, nằm, ngồi,… nói
năng, ăn uống; cũng không biết cảm giác nóng lạnh, đói khát, đau
nhức…. Sắc thân này thở vô, thở ra, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng,… đều do
tâm chủ động, gọi là sắc pháp phát sanh từ tâm
(cittajarūpa). Sắc pháp trong thân chỉ có thể tiếp xúc với đối tượng, làm
nhân duyên để phát sanh tâm hay danh pháp
mà thôi. Ví dụ: - Mắt (nhãn tịnh sắc: cakkhupasādarūpa) không
thể nhìn thấy sắc trần, chỉ là nơi tiếp xúc với sắc trần, do sự tiếp
xúc ấy, nên phát sanh nhãn thức tâm. Chính nhãn
thức tâm mới có thể nhìn thấy sắc trần. Cũng như
vậy, nhĩ tịnh sắc, tỷ tịnh sắc, thiệt tịnh sắc, thân tịnh sắc, sắc ý
căn (hadayavatthurūpa) chỉ là nơi tiếp xúc với đối tượng riêng
biệt từng mỗi môn mà thôi. Phân Biệt Danh Pháp, Sắc Pháp Trong 6 Môn Danh pháp, sắc pháp phát sanh do nương nhờ 6 môn như sau: 1- Nhãn môn (mắt): Khi sắc trần, hình dạng, tiếp xúc
với nhãn tịnh sắc (mắt), do sự tiếp xúc ấy, nên phát sanh
nhãn thức tâm làm phận sự nhìn thấy được sắc trần: hình dạng…
trong hiện tại. Nhãn thức tâm có 2 tâm: - Nhãn thức tâm là quả của bất thiện tâm, nhìn thấy
sắc trần xấu xí. * Sắc trần với nhãn tịnh sắc thuộc về sắc
pháp.
2- Nhĩ môn (tai): Khi thanh trần, các âm
thanh, tiếp xúc với nhĩ tịnh sắc (tai), do sự tiếp xúc ấy, nên
phát sanh nhĩ thức tâm làm phận sự nghe thanh trần, các
âm thanh, trong hiện tại. Nhĩ thức tâm có 2 tâm:
- Nhĩ thức tâm là quả của bất thiện tâm, nghe thanh
trần, âm thanh dở. * Thanh trần với nhĩ tịnh sắc thuộc về sắc
pháp.
3- Tỷ môn (mũi): Khi hương trần, các loại mùi
tiếp xúc với tỷ tịnh sắc (mũi), do sự tiếp xúc ấy, nên phát
sanh tỷ thức tâm làm phận sự ngửi hương trần, các loại
mùi, trong hiện tại. Tỷ thức tâm có 2 tâm:
- Tỷ thức tâm là quả của bất thiện tâm, ngửi hương
trần, mùi hôi thối. * Hương trần với tỷ tịnh sắc thuộc về sắc
pháp.
4- Thiệt môn (lưỡi): Khi vị trần, các loại
vị, tiếp xúc với thiệt tịnh sắc (lưỡi), do sự tiếp xúc ấy, nên
phát sanh thiệt thức tâm làm phận sự nếm vị trần, các
loại vị, trong hiện tại. Thiệt thức tâm có 2 tâm:
- Thiệt thức tâm là quả của bất thiện tâm, nếm vị
trần, vị dở. * Vị trần với thiệt tịnh sắc thuộc về sắc
pháp.
5- Thân môn (thân): Khi xúc trần, cứng, mềm,
nóng, lạnh, phồng, xẹp…, tiếp xúc với thân tịnh sắc (thân), do
sự tiếp xúc ấy, nên phát sanh thân thức tâm làm phận sự tiếp
xúc với xúc trần, cứng, mềm, nóng, lạnh…, trong hiện tại. Thân thức tâm có 2 tâm: - Thân thức tâm là quả của bất thiện tâm, tiếp xúc
trần thô, cứng. * Xúc trần với thân tịnh sắc thuộc về sắc
pháp.
6- Ý môn (ý): Khi pháp trần tiếp xúc với
sắc ý căn (hadayavatthu-rūpa), do sự tiếp xúc ấy nên phát
sanh ý thức tâm làm phận sự biết pháp trần ở 3 thời: quá
khứ, hiện tại, vị lai và ngoại 3 thời [7] , đó là đối tượng Niết Bàn
và đối tượng paññatti: chế định pháp. Ý thức tâm phát sanh do nương nhờ ý môn, gồm có 75 tâm
(trừ 10 thức tâm và 4 vô sắc giới quả tâm). * Sắc pháp với sắc ý căn thuộc về sắc pháp.
* Niết Bàn là vô vi pháp thuộc về danh pháp đặc
biệt, làm đối tượng của siêu tam giới tâm. * Chế định pháp không thuộc về sắc pháp, cũng không
thuộc về danh pháp, nên không thể làm đối tượng của pháp
hành thiền tuệ.
– Pháp trần có 3 pháp: tâm, tâm sở, sắc pháp trong quá
khứ, hiện tại, vị lai.
– Niết Bàn và Chế định pháp không trong 3 thời,
vì không có sự sanh, sự diệt.
Danh pháp, Sắc pháp trong Tứ niệm xứ Pháp hành Tứ niệm xứ, Đức Phật thuyết giảng trong kinh "Đại Tứ niệm
xứ" có 4 phần như sau: – Thân niệm xứ: thân là đối tượng của chánh niệm,
trí tuệ tỉnh giác, tất cả phần thân thuần túy thuộc sắc pháp.
Nhân Duyên Phát Sanh Danh Pháp, Sắc Pháp Mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp phát sanh lên do hội đủ nhân duyên, nếu
thiếu nhân duyên nào, danh pháp, sắc pháp không thể phát sanh lên
được. Nhân Duyên Phát Sanh Danh Pháp Sự phát sanh danh pháp đối với chúng sinh trong tam giới, có sự
nương nhờ khác nhau như sau: * Đối với chúng sinh có ngũ uẩn trong 11 cõi dục giới, danh
pháp: tâm, tâm sở phát sanh do nường nhờ 3 pháp. – Atītakamma: Nghiệp quá khứ, ác nghiệp hoặc thiện
nghiệp trong quá khứ. * Đối với chúng sinh Phạm thiên có ngũ uẩn trong 15 cõi trời sắc
giới (trừ cõi Vô tưởng thiên), danh pháp: tâm, tâm sở
phát sanh do nương nhờ 3 pháp. – Nghiệp quá khứ. * Đối với chúng sinh Phạm thiên có tứ uẩn trong 4 cõi trời vô sắc
giới, danh pháp: tâm, tâm sở phát sanh do nương
nhờ 2 pháp. – Nghiệp quá khứ. Danh pháp phát sanh do nương nhờ sắc pháp Danh pháp: Đó là tâm + tâm sở phát sanh do nương nhờ
sắc pháp. Ví dụ:
Nhãn thức tâm được phát sanh do nhờ sắc trần:
hình dạng, tiếp xúc với nhãn tịnh sắc.
Ví như: "tiếng chuông" được phát ra thành tiếng là do
nhờ dùi chuông đánh đụng vào cái chuông. Thật ra, trong dùi chuông không có tiếng chuông, và trong
cái chuông cũng không có tiếng chuông. Sở dĩ có tiếng chuông là vì
dùi chuông đụng vào cái chuông. Cũng như vậy, khi sắc trần tiếp xúc với nhãn tịnh sắc,
do nhân duyên tiếp xúc ấy, mới phát sanh "nhãn thức tâm",
là tâm phát sanh do nương nhờ nhãn tịnh sắc, làm phận sự nhìn
thấy sắc trần, hình dạng. Nếu chỉ riêng nhãn tịnh sắc (mắt) thì không
thể nhìn thấy được, như khi tâm đăm chiêu suy nghĩ về một vấn đề gì
thuộc nội tâm, dầu đôi mắt đang mở vẫn không nhìn thấy những vật đằng
trước mặt; hoặc chỉ riêng tâm cũng không thể nhìn thấy
được sắc trần, hình dạng, như khi nhắm mắt, bịt mắt, dầu tâm muốn nhìn
thấy một vật gì cũng không thể thấy được. Vì cả 2 trường hợp này không hội đủ nhân duyên để cho nhãn thức
tâm phát sanh, nên không thể nhìn thấy. Vậy, khi sắc trần: hình dạng tiếp xúc với nhãn tịnh sắc
(mắt), do nhân duyên tiếp xúc ấy, mới phát sanh nhãn thức
tâm là tâm phát sanh do nương nhờ ở nhãn tịnh sắc.
Chính nhãn thức tâm này làm phận sự nhìn thấy sắc trần.
Ngoài nhãn thức tâm ra, không có một tâm nào khác, hay một người nào
khác, một chúng sinh nào khác có thể nhìn thấy sắc trần, hình dạng
trong hiện tại. Tương tự như vậy, nhĩ thức tâm được phát sanh do nhờ
thanh trần, âm thanh, tiếp xúc với nhĩ tịnh sắc (tai). Nếu chỉ riêng nhĩ tịnh sắc (tai), không thể
nghe được thanh trần, âm thanh, như khi ngủ say, tai không nghe được
âm thanh nào; hoặc chỉ riêng tâm cũng không thể
nghe được âm thanh nào, như khi tai bị bịt chặt, hay trong phòng kín,
dẫu tâm muốn nghe âm thanh, cũng không thể nghe được. Vì cả hai trường hợp này, không hội đủ nhân duyên, để cho nhĩ
thức tâm phát sanh, nên không thể nghe được. Vậy, khi thanh trần, âm thanh tiếng nói tiếp xúc với nhĩ
tịnh sắc (tai), do nhân duyên tiếp xúc ấy, mới phát sanh nhĩ
thức tâm là tâm phát sanh do nương nhờ ở nhĩ tịnh sắc. Chính nhĩ thức tâm này làm phận sự nghe thanh trần, âm
thanh. Ngoài nhĩ thức tâm ra, không còn có tâm nào khác, hay một người
nào khác, một chúng sinh nào khác có thể nghe được thanh trần, âm
thanh trong hiện tại. Tương tự như vậy, tỷ thức tâm, thiệt thức tâm, thân thức tâm, ý
thức tâm. Mỗi tâm phát sanh cũng đều do hội đủ nhân duyên riêng
của tâm ấy. Nhân Duyên Phát Sanh Sắc Pháp Sắc pháp phát sanh do 4 nhân duyên. 1- Sắc pháp phát sanh do nghiệp (kammajarūpa).
* Sắc pháp phát sanh do tâm hay danh pháp.
Hành giả tiến hành thiền tuệ nên tìm hiểu về sắc pháp phát
sanh do tâm (cittajarūpa), vì liên quan đến đối tượng
trí tuệ thứ nhì trong 16 loại trí tuệ thiền tuệ. Ví dụ: 4 oai nghi chính: đi, đứng, ngồi, nằm, và các oai
nghi phụ: bước tới, bước lui, quay bên trái, quay bên phải, co
tay, co chân, duỗi tay, duỗi chân… đều là những sắc pháp phát sanh do
tâm, làm đối tượng thiền tuệ. - Nhân duyên phát sanh 4 oai nghi.
4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm là sắc pháp phát sanh do tâm. Ví dụ: "Oai nghi đi" gọi là "thân đi" hoặc
"sắc đi" là sắc pháp phát sanh do bởi nhiều nhân duyên tuần tự
như sau: - Tâm nghĩ "đi".
- Do tâm nghĩ đi làm cho phát sanh chất gió. - Chất gió phát sanh do tâm ấy làm cho cử động toàn thân. - Toàn thân di chuyển bước đi từng bước do năng lực của chất gió
phát sanh từ tâm ấy, gọi là "thân đi" hoặc "sắc
đi" là sắc pháp phát sanh do tâm (cittajarūpa).
Tương tự như vậy, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm, và
sắc bước tới, sắc bước lui, sắc quay bên phải, sắc quay bên trái,
sắc co tay vào, sắc co chân vào, sắc duỗi tay ra, sắc duỗi chân ra,…
đều là những sắc pháp phát sanh do tâm (do danh pháp).
Như vậy, mỗi oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm được là do hội đủ nhân
duyên; chứ không phải người nào, hoặc chúng sinh nào có thể đi, đứng,
ngồi, nằm. Sở dĩ, người bị bệnh bại liệt, dầu tâm muốn đi, đứng, ngồi, nằm,…
như người bình thường không thể được, là vì chất gió phát sanh
do tâm quá yếu, không đủ năng lực làm chuyển động thân thể
nặng nề do bởi chất đất và chất nước này.
Điều quan trọng của danh pháp, sắc pháp Hành giả muốn tiến hành thiền tuệ, điều quan trọng đầu tiên cần
phải học cho hiểu biết rõ ràng về danh pháp, sắc pháp,
vì danh pháp, sắc pháp là đối tượng của thiền tuệ; là pháp để thực
nghiệm sự thật chân lý, để thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh
pháp, sắc pháp đúng theo Chân nghĩa pháp
(Paramatthadhamma), hay Thực tánh pháp
(Sabhāvadhamma) có trạng thái riêng của mỗi danh pháp, mỗi sắc
pháp; có sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; có 3 trạng thái
chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của
danh pháp, sắc pháp, có thể dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế,
chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Ngoài danh pháp, sắc pháp thuộc về Chân nghĩa pháp ra, Chế
định pháp, dầu danh từ ngôn ngữ chế định ấy có Thực tánh
pháp làm nền tảng đi nữa, thì cũng hoàn toàn không có trạng
thái riêng, không có sự sanh, sự diệt, không có trạng thái chung,
không thể dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4
Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Ví như một người đọc chữ (sách), điều quan trọng là phải có chữ để
mà đọc, phải biết từng nguyên âm, phụ âm, cách ráp vần thành chữ; hiểu
ý nghĩa của chữ ấy, thì người ấy đọc được chữ, hiểu được nghĩa. Cũng như vậy, hành giả tiến hành thiền tuệ, cần phải học hiểu rõ
mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp dùng để làm đối tượng thiền tuệ, để thực
nghiệm sự thật chân lý của nó. Phiền Não Nương Nhờ Nơi Danh Pháp, Sắc Pháp Tất cả mọi phiền não nhất là tà kiến (diṭṭhi),
tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna)
đều nương nhờ nơi danh pháp, sắc pháp mà phát sanh. 1- Tà kiến nương nhờ nơi danh pháp, sắc pháp Một số người trong đời này, không gần gũi thân cận với bậc Thiện
trí trong Phật giáo, không được học hỏi hiểu rõ về danh pháp, sắc pháp;
không tiến hành thiền tuệ, nên không thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc
pháp đúng theo thực tánh của các pháp là pháp vô ngã.
Do đó, tà kiến (diṭṭhi) nương nhờ nơi danh pháp, sắc
pháp phát sanh, nên thấy sai, chấp lầm từ danh pháp cho là ta,
sắc pháp cho là ta, là ngã như sau: 1- Khi nhãn thức tâm nhìn thấy sắc trần,
thì tâm tà kiến thấy sai, chấp lầm từ chủ thể
"nhãn thức tâm" cho là "Ta thấy", và từ đối
tượng "sắc trần" cho là "người này, người kia…
vật này, vật kia…".
2- Khi nhĩ thức tâm nghe thanh trần,
thì tâm tà kiến thấy sai, chấp lầm từ chủ thể
"nhĩ thức tâm" cho là "Ta nghe", và từ đối
tượng "thanh trần" cho là "tiếng Việt, tiếng
Pháp, tiếng Anh…".
3- Khi tỷ thức tâm ngửi hương trần,
thì tâm tà kiến thấy sai, chấp lầm từ chủ thể
"tỷ thức tâm" cho là "Ta ngửi", và từ đối
tượng "hương trần" cho là "mùi thơm nước hoa…
mùi hôi tử thi…".
4- Khi thiệt thức tâm nếm vị trần,
thì tâm tà kiến thấy sai chấp lầm từ chủ thể
"thiệt thức tâm" cho là "Ta nếm", và từ đối
tượng "vị trần" cho là "vị đường ngọt… vị chanh
chua…".
5- Khi thân thức tâm tiếp xúc với xúc trần
(cứng, mền, nóng, lạnh…), thì tâm tà kiến thấy
sai, chấp lầm từ chủ thể "thân thức tâm" cho là
"Ta tiếp xúc", và từ đối tượng "xúc trần" cho
là "sắt cứng, trời lạnh…". 6- Khi ý thức tâm biết pháp trần, thì
tâm tà kiến thấy sai, chấp lầm như sau: – Khi sắc đi, thì tâm tà kiến thấy
sai, chấp lầm từ "sắc đi" cho là "Ta đi".
– Khi sắc đứng, thì tâm tà kiến
thấy sai, chấp lầm từ "sắc đứng" cho là "Ta
dứng".
– Khi sắc ngồi, thì tâm tà kiến
thấy sai, chấp lầm từ "sắc ngồi" cho là "Ta
ngồi".
– Khi sắc nằm, thì tâm tà kiến thấy
sai, chấp lầm từ "sắc nằm" cho là "Ta nằm".
– Khi sắc bước tới, thì tâm tà kiến
thấy sai, chấp lầm từ "sắc bước tới" cho là
"Ta bước tới".
– Khi sắc bước lui, thì tâm tà kiến
thấy sai, chấp lầm từ "sắc bước lui" cho là
"Ta bước lui"…. – Khi ý thức tâm nào biết pháp
trần nào, thì tâm tà kiến thấy sai,
chấp lầm từ chủ thể "ý thức tâm" ấy cho
là "Ta biết", và từ đối tượng "pháp trần"
nào cho là "môn này, ngành kia,"…. Sở dĩ tâm tà kiến thấy sai, chấp lầm từ danh pháp, từ
sắc pháp cho là "Ta" (Ngã), là vì không có
chánh kiến thiền tuệ thấy đúng, biết đúng rằng: "Thực
tánh của danh pháp, sắc pháp là Pháp vô ngã, và không có
trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp
có trạng thái vô ngã". Sự thật, danh pháp là pháp vô ngã, sắc pháp
là pháp vô ngã: không phải ta, không phải người, không phải chúng
sinh, không phải vật này, vật kia. Nhưng do tâm tà kiến theo
chấp ngã (attānudiṭṭhi) thấy sai, chấp lầm cho là "ta,
người, chúng sinh, vật này vật kia…".
Như vậy, đúng theo thực tánh của các pháp không
có ngã thì làm sao mà diệt ngã được? Thật ra, sự chấp có ngã là do tà kiến
thấy sai chấp lầm; mà tâm tà kiến là có thật, khi diệt được tà
kiến, thì không còn chấp ngã nữa.
2- Tham ái nương nhờ nơi danh pháp, sắc pháp Tâm tham ái (taṇhā) hài lòng thỏa
thích, say mê ở danh pháp, sắc pháp cho là "tốt đẹp, lợi ích, an
lạc…". Sở dĩ tâm tham ái nương nhờ ở danh pháp, sắc pháp cho là tốt đẹp,
lợi ích, an lạc, là vì không có trí tuệ thiền tuệ thấy
rõ, biết rõ rằng: – Danh pháp, sắc pháp chỉ là pháp khổ đế.
3- Ngã mạn nương nhờ nơi danh pháp, sắc pháp. Tâm ngã mạn (māna) chấp ta là danh pháp, sắc pháp
cho là "ta hơn người, ta bằng người, ta kém người…".
Sở dĩ tâm ngã mạn nương nhờ ở danh pháp, sắc pháp
chấp ta hơn người, ta bằng người, ta kém người, là vì không có
trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ rằng: – Danh pháp, sắc pháp chỉ là pháp vô thường.
Do đó, sự học hỏi để hiểu biết rõ về tất cả mọi danh pháp, sắc pháp
là điều quan trọng đầu tiên của hành giả muốn tiến hành thiền
tuệ.
Tà kiến thấy sai làm khổ mình, khổ người Tà kiến thấy sai, biết lầm, chấp lầm danh pháp, sắc pháp cho là
"ta, người, đàn ông, đàn bà, chúng sinh, vật này, vật kia,…"
cùng với tham tâm phát sanh chấp rằng: "của ta, của người",…
rồi phát sanh mọi phiền não tham, sân, si,… tự làm khổ mình, làm
khổ người không chỉ ở kiếp hiện tại, mà còn nhiều kiếp vị lai nữa. Ví dụ như: Ban đêm, một người đi đường, nhìn thấy lờ mờ sợi dây ngoằn ngoèo
giống như con rắn nằm ở giữa đường. Người ấy nhìn sợi
dây ấy, thấy sai, tưởng lầm, chấp lầm cho là "con rắn độc"
nên phát sanh tâm sợ hãi, tự làm khổ mình, lại còn nói cho người khác
cũng sợ hãi nữa. Cũng như vậy, một số người trong đời này, là người si mê, bị vô
minh che phủ thực tánh của danh pháp, sắc pháp, có tà kiến thấy sai,
biết lầm, chấp lầm danh pháp, sắc pháp cho
là "Ta, của Ta, người, của người, chúng sinh, vật này, vật
kia,…". Do đó, các phiền não tham, sân, si, ngã mạn,… có thể
phát sanh, tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ mình lẫn người,
không chỉ trong kiếp hiện tại này, mà còn phải chịu khổ nhiều kiếp vị
lai nữa. Chánh kiến thiền tuệ không làm khổ mình, khổ người Có một số người trong đời này, là người thường được gần gũi với bậc
Thánh nhân, bậc Thiện trí trong Phật giáo, được lắng nghe chánh pháp
của Đức Phật, được học hỏi hiểu biết rõ về danh pháp, sắc pháp,
được tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ,
biết rõ thực tánh của danh pháp, sắc pháp, có chánh kiến thiền
tuệ thấy đúng, biết đúng theo thực tánh của danh pháp, sắc
pháp là: - Danh pháp chỉ là danh pháp.
Nhờ chánh kiến thiền tuệ mới diệt được tà kiến
theo chấp ngã, đồng thời diệt tất cả mọi tà kiến khác.
Bậc Thánh Thanh Văn có chánh kiến thiền tuệ nên không
còn làm khổ mình, làm khổ người, không còn làm khổ cả mình lẫn người,
ngay kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai. Ví dụ như: Ban đêm, một người đi đường, có người cho biết có sợi dây
ngoằn ngoèo nằm giữa đường. Người ấy, tay cầm đèn thắp sáng, nhìn thấy
rõ đúng một sợi dây ngoằn ngoèo nằm ở giữa đường. Người ấy biết rõ
rằng sợi dây chỉ là sợi dây, nên không phát sanh tâm sợ
hãi, không làm khổ mình, lại còn nói cho người khác cũng không sợ hãi
nữa. Cũng như vậy, bậc Thánh Thanh Văn trong đời này, là bậc có
chánh kiến thiền tuệ thấy đúng, biết đúng theo thực tánh của
các pháp là: - Danh pháp chỉ là danh pháp.
Do đó, các phiền não tham, sân, si, ngã mạn,… không phát sanh,
không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn
người, không chỉ trong kiếp hiện tại này mà còn nhiều kiếp vị lai nữa. Danh Pháp, Sắc Pháp Làm Đối Tượng Thiền Tuệ Danh pháp, sắc pháp thuộc về Chân nghĩa pháp có ba thời: quá khứ,
hiện tại, vị lai. - Danh pháp, sắc pháp đã diệt rồi, thuộc quá khứ. Danh pháp, sắc pháp ở thời nào là đối tượng của thiền tuệ? - Danh pháp, sắc pháp thuộc quá khứ đã sanh, đã diệt rồi,
danh pháp, sắc pháp ấy không thể làm đối tượng của thiền tuệ. Bởi vì,
trí tuệ thiền tuệ không thấy rõ, biết rõ sự sanh,
sự diệt của danh pháp, sắc pháp trong quá khứ ấy. Và trí
tuệ thiền tuệ cũng không thể thấy rõ, biết rõ trạng thái
vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô nga của danh pháp,
sắc pháp trong quá khứ ấy. Vì vậy, danh pháp, sắc pháp trong quá khứ không trực tiếp làm đối
tượng thiền tuệ. - Danh pháp, sắc pháp thuộc vị lai chưa sanh, danh pháp, sắc
pháp ấy không thể làm đối tượng của thiền tuệ. Bởi vì, trí tuệ
thiền tuệ không thể thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt
của danh pháp, sắc pháp trong vị lai ấy. Và trí tuệ thiền tuệ
cũng không thể thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái
khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp trong vị lai
ấy. Vì vậy, danh pháp, sắc pháp trong vị lai không trực tiếp làm đối
tượng thiền tuệ. - Danh pháp sắc, pháp đang sanh trong hiện tại này, mới có
thể làm đối tượng của thiền tuệ. Bởi vì, trí tuệ thiền tuệ
có thể thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp,
sắc pháp ấy. Và trí tuệ thiền tuệ cũng có thể thấy rõ,
biết rõ được trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô
ngã của danh pháp, sắc pháp trong hiện tại ấy. Vì vậy, chỉ có danh pháp, sắc pháp trong hiện tại mới trực
tiếp làm đối tượng thiền tuệ.
Tuy nhiên, khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết
rõ danh pháp, sắc pháp trong hiện tại, có sự sanh sự
diệt, có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; thì
trí tuệ thiền tuệ cũng có thể thấu triệt, thông suốt
được danh pháp, sắc pháp trong quá khứ cũng đã có trạng
thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Và trí tuệ
thiền tuệ cũng có thể thấu triệt, thông suốt được danh
pháp, sắc pháp trong vị lai cũng sẽ có trạng thái vô thường,
trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; cũng như danh pháp, sắc pháp
trong hiện tại này. Chỉ có danh pháp, sắc pháp thuộc về Chân nghĩa
pháp mới có sự sanh, sự diệt, nên có 3 thời: quá khứ,
hiện tại, vị lai mà thôi.
Niết Bàn và Chế định pháp (Paññattidhamma)
thuộc về kālavimutti: ngoại 3 thời: không có quá khứ, không có
hiện tại, không có vị lai. Bởi vì, Niết Bàn và Chế định pháp không có
sự sanh, sự diệt. Danh pháp, sắc pháp hiện tại có 4 loại : [8] 1- Addhā paccuppanna: Nhất kiếp hiện tại: Kể từ khi
ngũ uẩn tái sanh cho đến khi ngũ uẩn tan rã (chết) là thời gian hiện
tại của một kiếp người. 2- Samaya paccuppanna: Nhất thời hiện tại: Ngũ uẩn
lúc buổi sáng, lúc buổi trưa, lúc buổi chiều, lúc buổi tối… thời
gian hiện tại trong một buổi, một lúc. 3- Santati paccuppanna: Liên tục hiện tại:
Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp đang sanh diệt liên tục không ngừng qua
các lộ trình tâm (vīthicitta).
4- Khaṇa paccuppanna: Sát na hiện tại: Ngũ uẩn danh
pháp, sắc pháp hiện tại ở sát na trụ. Trong 4 loại hiện tại này, nhất kiếp hiện tại và
nhất thời hiện tại danh pháp, sắc pháp có thời gian quá
dài, không thể làm đối tượng của thiền tuệ; sát na hiện
tại danh pháp, sắc pháp sanh rồi diệt quá ngắn ngủi, mau lẹ,
cũng không thể làm đối tượng của thiền tuệ. Chỉ có liên tục hiện tại, danh pháp, sắc pháp có
khoảng thời gian không dài quá, cũng không ngắn quá, nên có thể làm
đối tượng của thiền tuệ.
Một khi, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ
danh pháp, sắc pháp trong hiện tại sanh rồi diệt, có
trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; điều
dĩ nhiên, trí tuệ thiền tuệ hoàn toàn không còn hoài
nghi danh pháp, sắc pháp trong quá khứ và danh
pháp, sắc pháp trong vị lai là "thường", "lạc", "ngã".
Điều chắc chắn là phải có trạng thái vô thường, trạng thái
khổ, trạng thái vô ngã.
3- Sự Sanh Sự Diệt Của Danh Pháp, Sắc Pháp Danh pháp, sắc pháp thuộc về Chân nghĩa pháp
(Paramattha-dhamma) hay Thực tánh pháp (Sabhāvadhamma), là
pháp hữu vi (saṅkhatadhamma) bị cấu tạo do bởi 4 nhân
duyên: nghiệp (kamma), tâm (citta), thời tiết
(utu), vật thực (āhāra), nên có trạng thái sanh rồi diệt
liên tục không ngừng. Niết Bàn (Nibbāna) là danh pháp thuộc
pháp vô vi (asaṅkhata-dhamma), Và Chế định pháp
(Paññattidhamma) cũng được ghép vào pháp vô vi, vì chúng
không bị cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật
thực, nên không có sự sanh, sự diệt. Niết Bàn và Chế định pháp không có sự sanh,
sự diệt, nên không có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng
thái vô ngã; nhưng cả 2 đều là pháp nên thuộc pháp vô ngã.
Như Đức Phật dạy: "Āniccā sabbe saṅkhārā, dukkhānattā ca sankhatā. "Tất cả pháp hữu vi, danh pháp và sắc pháp 1- Sự Sanh, Sự Diệt Của Danh Pháp Danh pháp là Tâm và Tâm sở,
có sự sanh sự diệt vô cùng mau lẹ, như Đức Phật dạy rằng: - Này chư Tỳ khưu, Như lai không thấy pháp nào có sự sanh sự
diệt vô cùng mau lẹ như Tâm. [10] Trong Chú giải dạy rằng: "Chỉ một lần búng đầu móng tay, tâm +
tâm sở (danh pháp) sanh rồi diệt 1000 tỷ lần". [11]
Mỗi tâm + tâm sở có 3 sát na là: 1- Uppāda khaṇa:
2- Sự Sanh, Sự Diệt Của Sắc Pháp Sự sanh, sự diệt của sắc pháp chậm hơn sự sanh sự
diệt của danh pháp, với sự so sánh thời gian 3 sát na sanh - trụ
- diệt của danh pháp như sau:
* Sắc pháp sanh 1 sát na, diệt 1 sát na giống như danh pháp, thời
gian trụ của danh pháp chỉ có 1 sát na, nhưng thời gian trụ của sắc
pháp lâu hơn thời gian trụ của danh pháp đến 16 lần tâm sanh diệt.
Theo nhãn môn lộ trình tâm gồm có 17 tâm liên tục
sanh diệt, cứ mỗi tâm có 3 sát na nhỏ: sanh - trụ - diệt. Như vậy suốt
một nhãn môn lộ trình tâm gồm có 51 sát na nhỏ. Sắc trần: là sắc pháp, hình dạng rõ ràng làm
đối tượng của nhãn môn lộ trình tâm có thể tồn tại trải qua
suốt một lộ trình tâm theo tuần tự có 17 tâm liên tục sanh - trụ -
diệt, gồm có 51 sát na nhỏ. Trong đó 1 sát na sanh, 1 sát na diệt, còn
lại 49 sát na là thời gian trụ của sắc trần (sắc pháp). Vậy, danh pháp và sắc pháp giống nhau 1 sát na sanh và 1
sát na diệt. Nhưng khác nhau sát na trụ. Danh pháp thời
gian trụ chỉ 1 sát na nhỏ, còn sắc pháp thời gian trụ gồm có 49 sát na
nhỏ của tâm. Nghĩa là sắc trần bắt đầu sanh từ tâm thứ nhất cho
đến tâm thứ 17 mới diệt. Như vậy, sắc pháp sanh rồi diệt chậm hơn danh pháp, đến 16 lần tâm
sanh - diệt. Xem đồ biểu nhãn môn lộ trình tâm, có sắc trần: hình dạng rõ ràng
làm đối tượng để có sự so sánh thấy rõ sát na sanh - trụ - diệt
của danh pháp và sắc pháp. Đồ biểu nhãn môn lộ trình tâm (Cakkhudvāravīthicitta)
Giải Thích: Nhãn môn lộ trình tâm
Nhãn môn lộ trình tâm gồm có những tâm sanh rồi diệt theo
tuần tự liên tục, có sắc trần rõ ràng làm đối tượng. Bắt
đầu từ hộ kiếp tâm quá khứ thứ nhất cho đến tiếp
đối tượng tâm thứ 17, là chấm dứt. Nhãn thức tâm phát sanh là do sắc trần tiếp xúc với nhãn
tịnh sắc, theo nhãn môn lộ trình tâm sanh rồi diệt như sau:
Bhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm viết tắt (bha) 1- Atītabhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm quá khứ nt (atī) 2- Bhavaṅgacalana: Hộ kiếp tâm rung động nt (na) 3- Bhavaṅgupaccheda: Hộ kiếp tâm bị cắt đứt nt (da) 4- Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ môn hướng tâm nt (pan) 5- Cakkhuviññaṇacitta: Nhãn thức tâm nt (cak) 6- Sampaṭicchanacitta: Tiếp nhận tâm nt (sam) 7- Santīraṇacitta: Suy xét tâm nt (san) 8- Voṭṭhabbanacitta: Xác nhận tâm nt (vot) 9- 15 Javanacitta: Tác hành tâm nt (ja) 16- 17 Tadālammaṇa: Tiếp đối tượng tâm nt (ta) Bhavaṅgacitta : Hộ kiếp tâm nt (bha) Qua 17 tâm sanh diệt, sắc trần diệt cùng với tâm thứ 17. Hộ kiếp
tâm phát sanh chấm dứt một nhãn môn lộ trình tâm. 3- Nhân Duyên Sanh Diệt [12] Tất cả mọi danh pháp, sắc pháp sanh rồi diệt liên tục không ngừng.
Song mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp sanh do nhân duyên sanh, diệt do nhân
duyên diệt. * Nhân duyên sanh của danh pháp
5 nhân duyên sanh của danh pháp là: – Danh pháp sanh do vô minh sanh. * Nhân duyên diệt của danh pháp 5 nhân duyên diệt của danh pháp là: – Danh pháp diệt do vô minh diệt. * Nhân duyên sanh của sắc pháp 5 nhân duyên sanh của sắc pháp là: – Sắc pháp sanh do vô minh sanh. * Nhân duyên diệt của sắc pháp 5 nhân duyên diệt của sắc pháp là: – Sắc pháp diệt do vô minh diệt. 4- Trí Tuệ Thiền Tuệ Thấy Rõ Sự Sanh Sự Diệt Hành giả tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp
thuộc về Chân nghĩa pháp làm đối tượng. Trí tuệ tuần tự
phát triển như sau: - Trí tuệ thứ nhất gọi là Nāmarūpaparichedañāṇa:
Trí tuệ thấy rõ, phân biệt rõ "trạng thái riêng biệt của mỗi
danh pháp, mỗi sắc pháp" là pháp vô ngã: không
phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà,
không phải chúng sinh nào,… đúng theo sự thật Chân nghĩa
pháp hay Thực tánh pháp là:
* Danh pháp chỉ là danh pháp.
Trí tuệ thứ nhất này đạt đến chánh kiến thanh tịnh
(diṭṭhi-visuddhi). Như vậy, Trí tuệ này chỉ có khả năng thấy rõ,
biết rõ, phân biệt rõ mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp, nhưng vẫn
chưa có đủ khả năng thấy rõ sự sanh, sự diệt của
danh pháp, sắc pháp. - Trí tuệ thứ nhì gọi là
Nāmarūpapaccayapariggahañāṇa: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ
nhân duyên phát sanh của mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp.
Trí tuệ thứ nhì này có khả năng thấy rõ, biết rõ được
"sự sanh" của danh pháp, sắc pháp là do bởi "nhân duyên
sanh", nhưng vẫn chưa có khả năng thấy rõ được "sự diệt"
của danh pháp, sắc pháp ngay trong hiện tại. - Trí tuệ thiền tuệ thứ ba gọi là
Samasanañāṇa: Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ được
sự diệt của mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp. Trí tuệ
thiền tuệ thứ ba này có khả năng thấy rõ, biết rõ được
"sự diệt" của danh pháp, sắc pháp là do "nhân duyên
diệt", nhưng vẫn chưa có khả năng thấy rõ, biết rõ được
"sự sanh" của danh pháp, sắc pháp ngay trong hiện tại. - Trí tuệ thiền tuệ thứ tư gọi là
Udayabbayañāṇa: Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự
sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp ngay trong hiện tại. Trí tuệ thiền tuệ thứ tư có khả năng thấy rõ, biết rõ được
rằng: * Sự sanh của danh pháp, sắc pháp là do bởi nhân
duyên sanh.
Trí tuệ thiền tuệ thứ tư này là trí tuệ thiền tuệ
chính thức đầu tiên trong 9 loại trí tuệ thiền tuệ có khả năng
thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc
pháp ngay trong hiện tại.
* Danh pháp nào sanh do nhân duyên nào sanh, thì
danh pháp ấy diệt cũng do nhân duyên ấy diệt ngay
trong hiện tại; nên trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ được
trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của
danh pháp ấy.
* Sắc pháp nào sanh do nhân duyên nào sanh, thì
sắc pháp ấy diệt cũng do nhân duyên ấy diệt ngay trong
hiện tại; nên trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ được
trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của sắc
pháp ấy.
Chú thích: [5] Pháp trần gồm có tất cả 6 chi pháp: tâm + tâm sở + 5 sắc căn +
16 sắc pháp vi tế + Niết Bàn + ngôn ngữ Chế định pháp. [6] Pháp trần là đối tượng của thiền tuệ, bị hạn chế còn lại 81 tâm
thuộc tam giới + 52 tâm sở + sắc pháp hiện hữu và Niết Bàn. (Trừ ra 10
sắc pháp không rõ ràng, và Chế định pháp). [7] Ngoại 3 thời: không ở trong thời quá khứ, thời hiện tại, thời
vị lai. [8] Bộ Visuddhimagga, phần Khandhaniddesa. [9] Vinayapiṭaka, bộ Parivàra. [10] Anguttaranikāya, phần Ekakanapāta. [11] Chú giải Samyuttanikāya, phần Khandhavagga, Chú giải kinh
Phenapin-dupamasuttavaṇṇanā. [12] Bộ Paṭisambhidāmagga, phần Udayabbayanānaniddesa. -ooOoo- Ðầu trang
| Mục lục
| 1.1
| 1.2
| 1.3
| 1.4
| 1.5
| 2.1
| 2.2
| 2.3
| 2.4
| 2.5
| 3.1
| 3.2
| 3.3
| 3.4
| 3.5
| Chân thành cám ơn Tỳ
khưu Hộ Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 05-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
- 15 sắc giới tâm (rūpavacaracitta).
- 12 vô sắc giới tâm (arūpavacaracitta).
- 8 hay 40 siêu tam giới tâm (lokuttaracitta).
- Tâm sở gồm có 52 tâm sở.
- Vô nhân tâm có 18 tâm.
- Đại thiện tâm có 8 tâm.
- Đại quả tâm có 8 tâm.
- Đại duy tác tâm có 8 tâm.
- Sắc giới quả tâm có 5 tâm.
- Sắc giới duy tác tâm có 5 tâm.
- Vô sắc giới quả tâm có 4 tâm.
- Vô sắc giới duy tác tâm có 4 tâm.
- Đồng diệt với tâm.
- Đồng đối tượng với tâm.
- Đồng nơi phát sanh với tâm.
* Tâm sở gồm có 52 tâm sở, mỗi tâm sở đều có mỗi
trạng thái riêng khác nhau. Vậy, 52 tâm sở có 52 trạng thái
riêng. (Xin xem lại phần "Tâm sở" ở trước, trang 61-65).
* Trạng thái khổ (dukkhalakkhaṇa).
* Trạng thái vô ngã (anattalakkhaṇa).
- Nhĩ thức tâm, có phận sự nghe thanh trần: các âm
thanh, tiếng nói, do nương nhờ nhĩ môn (tai).
- Tỷ thức tâm, có phận sự ngửi hương trần: các loại
mùi, do nương nhờ tỷ môn (mũi).
- Thiệt thức tâm, có phận sự nếm vị trần: các loại vị,
do nương nhờ thiệt môn (lưỡi).
- Thân thức tâm, có phận sự tiếp xúc trần: nóng, lạnh,
cứng, mềm, phồng, xẹp…, do nương nhờ thân môn (thân).
- Ý thức tâm, có phận sự biết pháp trần [6] , do nương
nhờ ý môn.
- Nếu là người đàn bà, thì trừ sắc nam tính.
- Nếu người nào bị mắt mù, tai điếc,… thì người ấy bị giảm số lượng
sắc pháp theo bệnh tật ấy.
- Nhãn thức tâm là quả của thiện tâm, nhìn thấy sắc
trần tốt đẹp.
* Nhãn thức tâm nhìn thấy sắc trần thuộc về
danh pháp.
- Nhĩ thức tâm là quả của thiện tâm, nghe thanh trần,
âm thanh hay.
* Nhĩ thức tâm nghe thanh trần thuộc về
danh pháp.
- Tỷ thức tâm là quả của thiện tâm, ngửi hương trần
mùi thơm tho.
* Tỷ thức tâm ngửi hương trần thuộc về danh
pháp.
- Thiệt thức tâm là quả của thiện tâm, nếm vị trần, vị
ngon.
* Thiệt thức tâm nếm vị trần thuộc về danh
pháp.
- Thân thức tâm là quả của thiện tâm, tiếp xúc trần
tế, êm dịu.
* Thân thức tâm tiếp xúc trần thuộc về
danh pháp.
* Ý thức tâm biết pháp trần thuộc về danh pháp.
– Thọ niệm xứ: thọ là đối tượng của chánh
niệm, trí tuệ tỉnh giác, tất cả phần thọ thuần túy thuộc danh
pháp.
– Tâm niệm xứ: tâm là đối tượng của chánh
niệm, trí tuệ tỉnh giác, tất cả phần tâm thuần túy thuộc danh
pháp.
– Pháp niệm xứ: pháp là đối tượng của chánh
niệm, trí tuệ tỉnh giác, tất cả phần pháp thuộc danh pháp
lẫn sắc pháp.
– Vatthu: Nơi phát sanh, có 6 tịnh sắc: nhãn tịnh sắc,
nhĩ tịnh sắc, tỷ tịnh sắc, thiệt tịnh sắc, thân tịnh sắc và sắc ý
căn.
– Ārammaṇa: Đối tượng, có 6 đối tượng: sắc trần, hương
trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.
– Nơi phát sanh: có 3 tịnh sắc: nhãn tịnh sắc, nhĩ tịnh sắc và sắc ý
căn.
– Đối tượng: có 3 đối tượng: sắc trần, thanh trần và pháp trần.
– Đối tượng: có một đối tượng, pháp trần.
2- Sắc pháp phát sanh do tâm (cittajarūpa).
3- Sắc pháp phát sanh do thời tiết (utujarūpa).
4- Sắc pháp phát sanh do vật thực (āhārajarūpa).
– Danh pháp, sắc pháp có trạng thái khổ.
– Danh pháp, sắc pháp có trạng thái vô
thường.
- Sắc pháp chỉ là sắc pháp.
- Danh pháp là một, sắc pháp là một.
- Tất cả mọi danh pháp, sắc pháp đều là pháp vô ngã: không phải ta,
không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải
chúng sinh, không phải vật này, vật kia,…. Và tất cả mọi danh pháp,
sắc pháp trong tam giới đều có trạng thái vô ngã.
- Sắc pháp chỉ là sắc pháp.
- Danh pháp, sắc pháp đều là pháp vô ngã.
- Danh pháp, sắc pháp đang sanh, thuộc hiện tại.
- Danh pháp, sắc pháp chưa sanh, thuộc vị lai.
[9]
Nibbānañca paññatti, anattā iti nicchayā".
Đều có 3 trạng thái, vô thường, khổ, vô ngã.
Niết Bàn và Chế định, thuộc về vô ngã pháp".
Sát na sanh.
2- Ṭhiti khaṇa: Sát na trụ.
3- Bhaṅga khaṇa: Sát na diệt.
– Danh pháp sanh do tham ái sanh.
– Danh pháp sanh do nghiệp sanh.
– Danh pháp sanh do danh pháp, sắc pháp sanh.
– Trạng thái sanh của danh pháp.
– Danh pháp diệt do tham ái diệt.
– Danh pháp diệt do nghiệp diệt.
– Danh pháp diệt do danh pháp, sắc pháp diệt.
– Trạng thái diệt của danh pháp.
– Sắc pháp sanh do tham ái sanh.
– Sắc pháp sanh do nghiệp sanh.
– Sắc pháp sanh do vật thực sanh.
– Trạng thái sanh của sắc pháp.
– Sắc pháp diệt do tham ái diệt.
– Sắc pháp diệt do nghiệp diệt.
– Sắc pháp diệt do vật thực diệt.
– Trạng thái diệt của sắc pháp.
* Sắc pháp chỉ là sắc pháp.
* Danh pháp là một, sắc pháp là một.
* Trong danh pháp không có sắc pháp.
* Trong sắc pháp không có danh pháp.
* Tất cả mọi danh pháp, sắc pháp đều là pháp vô ngã.
* Sự diệt của danh pháp, sắc pháp là do bởi nhân
duyên diệt.
4.1
| 4.2
| 4.3
| 4.4
| 4.5
| 4.6
| 5.1
| 5.2
| 5.3
| 5.4
| 5.5
last updated: 30-05-2003