BuddhaSasana Home Page
Tìm hiểu PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ - Tỳ
khưu HỘ PHÁP PHẦN II PHÁP
HÀNH (BHĀVANĀ) 10. NHỮNG PHÁP NÊN BIẾT (tiếp theo) 12- Pháp Hành Giới Ðịnh Tuệ Pháp hành Giới Ðịnh Tuệ là: Pháp hành Giới: là gìn giữ giới hạnh cho được trong
sạch. Nghĩa là có tác ý thiện tâm gìn giữ thân tránh xa
sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm; và có tác ý thiện tâm gìn
giữ khẩu tránh xa sự nói dối; nói lời chia rẽ; nói lời thô
tục, chửi rủa, mắng nhiếc; nói lời vô ích, để làm nền tảng cho pháp
hành thiền định. Pháp hành Ðịnh: là tiến hành thiền định, để chứng đắc
các bậc thiền sắc giới và các bậc thiền vô sắc giới, để làm nền tảng
cho pháp hành thiền tuệ. Pháp hành Tuệ: là tiến hành thiền tuệ, để chứng ngộ
chân lý Tứ thánh đế chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. 12.1- Pháp hành Giới Ðịnh Tuệ trong tam giới Trong tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới,
pháp hành giới, pháp hành định, pháp hành tuệ thường phải hành
theo tuần tự trước sau làm nền tảng cho nhau.
1- Pháp hành giới thuộc phần đầu, là pháp hành trước
tiên, đó là tác ý thiện tâm gìn giữ thân và khẩu cho được trong sạch,
không bị ô nhiễm bởi phiền não, để làm nền tảng cho pháp hành
thiền định.
2- Pháp hành định thuộc phần giữa, đó là pháp hành thiền
định, ở giai đoạn giữa (sau pháp hành giới), để làm nền tảng
cho pháp hành tuệ.
3- Pháp hành tuệ thuộc phần cuối, là pháp hành thiền tuệ
(sau pháp hành thiền định). Nhưng cũng có trường hợp đặc biệt,
tiến hành thiền tuệ trước, tiến hành thiền định sau, sẽ trình bày ở
sau. Ba pháp hành giới, định, tuệ thuộc trong tam giới này là
pháp hành theo tuần tự trước sau, vì mỗi pháp hành đều
có đối tượng riêng biệt, song có thể làm nhân duyên hỗ
trợ lẫn nhau.
Như trong Bộ Thanh Tịnh Ðạo dạy về bảy pháp thanh
tịnh theo tuần tự như sau: 1- Giới thanh tịnh (sīlavisuddhi): thuộc về pháp
hành giới thanh tịnh, đó là tác ý thiện tâm gìn giữ thân và
khẩu cho được trong sạch, để làm nhân duyên phát sanh định thanh
tịnh.
2- Ðịnh thanh tịnh (cittavisuddhi): thuộc về pháp
hành thiền định thanh tịnh, là sự chứng đắc các bậc thiền sắc
giới và các bậc thiền vô sắc giới, để làm nhân duyên phát sanh 5 loại
tuệ thanh tịnh tuần tự tiếp theo. 3- Chánh kiến thiền tuệ thanh tịnh (diṭṭhivisuddhi) là
thanh tịnh thứ nhất của pháp hành thiền tuệ. Ðó là trí tuệ thứ nhất
gọi là Nāmarūpaparicchedañāṇa: Trí tuệ phân biệt thấy rõ biết rõ
thực tánh của mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp đều là pháp vô ngã, đúng
theo chánh kiến thiền tuệ, nên diệt từng thời được tà kiến theo
chấp ngã.
4- Thoát ly hoài nghi thanh tịnh
(kaṅkhāvitaraṇavisuddhi), là thanh tịnh thứ nhì của pháp hành
thiền tuệ, đó là trí tuệ thứ nhì gọi là
Nāmarūpapaccayapariggahañāṇa: Trí tuệ thấy rõ biết rõ nhân
duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp, nên diệt được
hoài nghi nơi tất cả mọi danh pháp, mọi sắc pháp. 5- Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh
(maggāmaggañāṇadassana-visuddhi) là thanh tịnh thứ 3 của pháp hành
thiền tuệ, đó là trí tuệ thiền tuệ thứ 4 gọi là Udayabbayañāṇa:
Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc
pháp ngay trong hiện tại, nên hiện thấy rõ trạng thái vô thường,
trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp; nên diệt
được sự thấy sai chấp lầm nơi danh pháp sắc pháp cho là thường, lạc,
ngã, tịnh.
6- Pháp hành tri kiến thanh tịnh
(paṭipadāñāṇadassanivisuddhi) là thanh tịnh thứ 4 của pháp hành
thiền tuệ, đó là gồm 9 loại trí tuệ thiền tuệ, từ trí tuệ thứ 4 không
có phiền não của thiền tuệ cho đến trí tuệ thứ 12 có khả năng diệt
được từng thời phiền não. 7- Tri kiến thanh tịnh (ñāṇadassanivisuddhi) là
thanh tịnh thứ 5 của pháp hành thiền tuệ, đó là trí tuệ thiền tuệ siêu
tam giới thứ 14 gọi là Maggañāṇa: Thánh Ðạo Tuệ, gồm có
4 Thánh Ðạo Tuệ: Nhập Lưu Thánh Ðạo Tuệ, Nhất Lai Thánh Ðạo Tuệ, Bất
Lai Thánh Ðạo Tuệ, Arahán Thánh Ðạo Tuệ. Mỗi Thánh Ðạo Tuệ có khả năng
đặc biệt diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái, ác pháp tuỳ theo
năng lực của mỗi Thánh Ðạo Tuệ, đến Arahán Thánh Ðạo Tuệ, thì diệt
đoạn tuyệt được mọi phiền não, tham ái, ác pháp không còn dư sót nữa;
cho nên tâm của bậc Thánh Arahán hoàn toàn trong sạch thanh tịnh.
Bảy pháp thanh tịnh theo tuần tự trước sau:
Giới thanh tịnh thuộc về pháp hành giới, là phần đầu. 12.2- Pháp hành Giới Ðịnh Tuệ trong siêu tam giới Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chia
ra 3 pháp hành như sau: 1- Chánh kiến, chánh tư duy
Bát chánh đạo đó là 8 tâm sở: trí tuệ tâm sở, hướng tâm tâm sở,
chánh ngữ tâm sở, chánh nghiệp tâm sở, chánh mạng tâm sở, tinh tấn tâm
sở, niệm tâm sở, định tâm sở, cùng với 28 tâm sở khác đồng sanh
trong siêu tam giới tâm, đó là 4 hoặc 20 Thánh Ðạo Tâm và 4 hoặc 20
Thánh Quả Tâm có Niết Bàn làm đối tượng. Như vậy, trong Bát chánh đạo gồm có 3 pháp hành: pháp hành tuệ,
pháp hành giới, pháp hành định cùng sanh trong 4 hoặc 20 Thánh Ðạo
Tâm và 4 hoặc 20 Thánh Quả Tâm không trước không sau có Niết Bàn làm
đối tượng. Trong Thánh Ðạo Tâm, Thánh Quả Tâm chánh kiến
đóng vai trò chính yếu trong sự chứng ngộ chân lý Tứ
thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn. Do đó, trong Bát
chánh đạo sắp đặt chánh kiến lên hàng đầu làm nền tảng
hỗ trợ cho chánh tư duy. Chánh tư duy làm
nền tảng hỗ trợ cho chánh ngữ; và theo tuần tự cho đến
cuối cùng là chánh định. Ðó là sự sắp đặt theo tính chất
quan trọng của mỗi chánh, làm nhân duyên hỗ trợ tuần tự với nhau,
không phải sắp đặt theo tuần tự pháp hành trước sau. Vì
Bát chánh đạo đó là 8 tâm sở đồng sanh, đồng diệt, đồng đối
tượng Niết Bàn, đồng nơi sanh với 4 Thánh Ðạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm,
thuộc về siêu tam giới tâm, phần pháp thành
(paṭivedha) đồng thời, không trước không sau. Ví dụ: Một thang thuốc chữa bệnh, gồm có 8 vị thuốc, trong đó có một vị
thuốc chính để trị bệnh, 7 vị thuốc còn lại để phụ trợ. Khi đem 8 vị
thuốc đó bỏ chung vào siêu thuốc, đổ thêm vào 3 chén nước, sắc thuốc
cạn xuống còn 8 phân. Trong chén nước thuốc 8 phân này, vị thuốc chính
cũng có thể nhận ra, tuy cùng hòa chung với 7 vị thuốc kia. Khi uống
thuốc, uống một lần, không thể phân biệt được uống vị nào trước, vị
nào sau, như thế nào, Bát chánh đạo đồng sanh với
siêu tam giới tâm cũng như thế ấy. 12.3- Quả báu của mỗi pháp hành Giới, Ðịnh, Tuệ Pháp hành giới: Tác ý (cetanā)
gìn giữ thân và khẩu được trong sạch, thuộc dục giới đại thiện
nghiệp. Ngay trong kiếp hiện tại, hưởng được quả báu
thân, khẩu thanh tịnh, tâm an lạc. Sau khi chết sẽ, do dục
giới thiện nghiệp cho quả được tái sanh làm người, hoặc
làm chư thiên trong 6 cõi thiện dục
giới, thọ hưởng sự an lạc trong cõi người, hoặc cõi trời dục
giới ấy cho đến hết tuổi thọ. Quả báu cao hơn pháp hành giới là: Pháp hành định: Hành giả tiến hành thiền định, nếu
hành giả chỉ đạt đến cận định (upacārasamādhi), thiện
tâm còn thuộc về dục giới đại thiện nghiệp; ngay trong
kiếp hiện tại, thân, tâm thường được an lạc đặc biệt.
Sau khi chết, do dục giới thiện nghiệp cho quả sẽ được tái sanh làm
chư thiên trong 6 cõi thiện dục giới, thọ
hưởng an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Nếu hành giả chứng đắc được bậc thiền sắc giới, hoặc bậc thiền vô
sắc giới nào. Ngay kiếp hiện tại, thọ hưởng quả báu an lạc đặc biệt
của bậc thiền ấy. Sau khi chết, do sắc giới thiện nghiệp hoặc vô sắc
giới thiện nghiệp cho quả sẽ được tái sanh làm phạm thiên trong
cõi trời sắc giới, hoặc cõi trời vô sắc giới tùy
theo bậc thiền sở đắc của mình, thọ hưởng sự an lạc thiền định trong
cõi trời sắc giới hay cõi trời vô sắc giới ấy, cho đến hết tuổi thọ.
Quả báu cao hơn pháp hành định là: Pháp hành tuệ: Hành giả tiến hành thiền tuệ, nếu hành
giả chưa chứng đắc được bậc Thánh Ðạo, bậc Thánh Quả nào, vẫn còn là
phàm nhân, thiện tâm còn thuộc về dục giới đại thiện nghiệp;
ngay trong kiếp hiện tại, có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam
bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, thân tâm thường được an lạc. Sau
khi chết, do dục giới thiện nghiệp cho quả sẽ được tái sanh làm
người có trí tuệ sáng suốt, hoặc làm chư thiên
có trí tuệ trong cõi trời dục giới, thọ hưởng sự an lạc
cho đến hết tuổi thọ trong cõi ấy. Nếu hành giả được chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả sẽ trở thành bậc
Thánh nhân. Bậc Thánh nhân nào, đã diệt đoạn tuyệt được loại tham ái, phiền não
nào rồi, loại tham ái, phiền não ấy vĩnh viễn không bao giờ phát sanh,
không làm khổ tâm bậc Thánh nhân ấy nữa, ngay trong kiếp hiện tại lẫn
kiếp vị lai. Bốn bậc Thánh nhân Bậc Thánh Nhập Lưu sau khi chết, chắc chắn giải thoát
khỏi khổ tái sanh trong 4 ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc
sanh), chỉ còn tái sanh cõi thiện dục giới (cõi người,
và cõi trời dục giới) nhiều nhất 7 kiếp. Ðến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ
chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thàmh bậc Thánh
Arahán, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự khổ tử sanh luân hồi
trong tam giới. Bậc Thánh Nhất Lai sau khi chết, chỉ còn tái sanh một
kiếp nữa trong cõi thiện dục giới. Trong kiếp ấy, chắc
chắn sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thành bậc
Thánh Arahán, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự khổ tử sanh luân
hồi trong tam giới. Bậc Thánh Bất Lai sau khi chết, không tái sanh trở
lại cõi dục giới, chỉ còn tái sanh lên cõi trời sắc giới. Ở tại cõi
trời ấy, chắc chắn sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả,
trở thàmh bậc Thánh Arahán, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự khổ
tử sanh luân hồi trong tam giới. Bậc Thánh Arahán ngay kiếp hiện tại, khi tịch diệt
Niết Bàn, chấm dứt sự khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Pháp hoàn hảo Giáo pháp của Ðức Phật sâu sắc, vi tế về ý nghĩa; chánh pháp hoàn
toàn hoàn hảo suốt 3 phần. Pháp hành giới hoàn hảo ở phần đầu. Hay là: Pháp hành giới, pháp hành định hoàn hảo ở phần đầu. Hay là: Pháp hành giới, pháp hành định, pháp hành tuệ hoàn hảo ở
phần đầu. 13- Ba Phương Pháp Tiến Hành Ðể Chứng Ðắc 4
Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần Yuganaddhakathā dạy ba
phương pháp tiến hành để chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả tóm lược
như sau: 1- Tỳ khưu hành giả tiến hành thiền định trước, tiếp theo sau
tiến hành thiền tuệ.
Phần Giải Thích 1- Tỳ khưu hành giả tiến hành thiền định trước, tiếp theo sau tiến
hành thiền tuệ như thế nào? Trước tiên, hành giả tiến hành thiền định có đề mục thiền định làm
đối tượng, đến khi chứng đắc bậc thiền nào rồi; hành giả xả bậc thiền
ấy để làm nền tảng, sử dụng bậc thiền ấy làm đối tượng. Nếu sử dụng chi thiền lạc ấy, thì thuộc về phần
niệm thọ là danh pháp. Nếu sử dụng
thiền tâm ấy, thì thuộc về phần niệm tâm là
danh pháp. Thiền tâm ấy phát sanh nương nhờ
hadayavatthurūpa: sắc ý căn thuộc về sắc pháp.
Tiếp theo sau, hành giả tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc
pháp của bậc thiền ấy (sở đắc của mình) làm đối tượng, trí tuệ
thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp ấy;
thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô
ngã của danh pháp, sắc pháp ấy; dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt
các pháp ràng buộc (samyojana), các phiền não ngủ ngầm trong
tâm (anusaya) tuần tự theo năng lực của mỗi Thánh Ðạo Tuệ. Như vậy gọi là hành giả tiến hành thiền định trước, tiếp theo sau
tiến hành thiền tuệ. 4 bậc Thánh Ðạo Tuệ diệt phiền não: Bậc Nhập Lưu Thánh Ðạo Tuệ, diệt đoạn tuyệt được 3
pháp ràng buộc: ngũ uẩn tà kiến (sakkāyadiṭṭhi),
hoài nghi (vicikicchā), pháp hành thường
chấp thủ (sīlabbataparāmāsa); và 2 loại phiền não ngủ
ngầm trong tâm: tà kiến ngủ ngầm (diṭṭhānusaya),
hoài nghi ngủ ngầm (vicikicchānusaya).
Bậc Nhất Lai Thánh Ðạo Tuệ, diệt đoạn tuyệt được 2
pháp ràng buộc: ái dục (kāmarāga),
sân hận (paṭigha); và 2 loại phiền não: ái dục
ngủ ngầm, sân hận ngủ ngầm đều là loại thô trong cõi dục giới. Bậc Bất Lai Thánh Ðạo Tuệ, diệt đoạn tuyệt được hai
pháp ràng buộc: ái dục, sân hận;
và 2 loại phiền não: ái dục ngủ ngầm, sân hận ngủ ngầm
đều là loại vi tế trong cõi dục giới không còn dư sót. Bậc Arahán Thánh Ðạo Tuệ, diệt đoạn tuyệt được tất cả
mọi pháp ràng buộc còn lại là: tham ái thiền sắc
giới (rūparāga), tham ái thiền vô sắc giới
(arūparāga), ngã mạn (māna), phóng
tâm (uddhacca) và vô minh (avijjā)
không còn dư sót. Và tất cả mọi phiền não ngủ ngầm trong tâm còn lại
là: ngã mạn ngủ ngầm (mānānusaya), ái kiếp
ngủ ngầm (bhavarāgānusaya), vô minh ngủ ngầm (avijjānusaya)
và tất cả mọi phiền não, mọi ác pháp không còn dư sót. 2- Tỳ khưu hành giả tiến hành thiền tuệ trước, tiếp theo sau tiến
hành thiền định như thế nào? Trước tiên, hành giả tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp làm
đối tượng, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh
pháp sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp; ngay khi ấy, sát na định
(khaṇikasamādhi) định tâm từng thời, khoảnh khắc nơi danh pháp
hoặc sắc pháp hiện tại ấy, có trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc
4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt các pháp ràng
buộc (samyojana), các phiền não ngủ ngầm trong tâm (anusaya)
tuần tự theo năng lực của mỗi Thánh Ðạo Tuệ. Ví dụ: Trường hợp hành giả tiến hành thiền tuệ, sử dụng đối tượng 4 oai
nghi: dáng đi, tư thế đi gọi là sắc đi; dáng đứng, tư
thế đứng gọi là sắc đứng; dáng ngồi, tư thế ngồi gọi là
sắc ngồi; dáng nằm, tư thế nằm gọi là sắc nằm...
thuộc về sắc pháp phát sanh từ tâm. Và thiện tâm hợp với trí, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác, trực
nhận trực giác dáng đi, tư thế đi gọi là sắc đi, v.v... thuộc về
danh pháp.
Mỗi khi chánh niệm trực nhận mỗi sắc pháp nào, mỗi danh pháp nào có
sát na định (khaṇikasamādhi) định tâm từng thời, khoảnh khắc
trong đối tượng hiện tại ấy, thuộc về thiền định.
Hành giả tiến hành thiền tuệ có sắc pháp (của đối tượng 4 oai nghi)
làm đối tượng, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của
danh pháp, sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái
khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ
chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn,
diệt đoạn tuyệt các pháp ràng buộc (samyojana), các phiền não
ngủ ngầm trong tâm (anusaya) tuần tự theo năng lực của mỗi
Thánh Ðạo Tuệ. Như vậy gọi là hành giả tiến hành thiền tuệ trước, tiếp theo sau
tiến hành thiền định. 3- Tỳ khưu hành giả tiến hành thiền định và thiền tuệ cả hai đi đôi
với nhau như thế nào? Tỳ khưu hành giả tiến hành thiền định và thiền tuệ cả hai đi đôi
với nhau bằng nhiều cách: Cùng chung đối tượng (ārammaṇa). Hành giả tiến hành thiền định và thiền tuệ cả hai đi đôi với nhau
cùng chung đối tượng như thế nào? Trong trường hợp thiền định đó là các bậc thiền siêu tam giới có
Niết Bàn làm đối tượng, diệt phóng tâm, và thiền tuệ đó là
thiền tuệ siêu tam giới trong 4 Thánh Ðạo Tâm, 4 Thánh Quả Tâm có Niết
Bàn làm đối tượng. Như vậy, gọi là tiến hành thiền định và thiền tuệ cả hai đi đôi với
nhau cùng chung Niết Bàn làm đối tượng. Tương tự như trên, tiến hành
thiền định và thiền tuệ cả hai đi đội với nhau cùng chung mục đích
hướng đến Niết Bàn. v.v.... Trong ba phương pháp tiến hành để chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4
Thánh Quả và Niết Bàn này, còn tùy thuộc vào căn cơ duyên
lành, trình độ trí tuệ thích hợp của mỗi chúng sinh. Có số hành giả trước tiên cần phải tiến hành thiền định làm nền
tảng, tiếp theo là tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng đắc 4 Thánh Ðạo,
4 Thánh Quả và Niết Bàn. Những bậc Thánh nhân này, thường có lục thông
(abhiññā). Có số hành giả trước tiên cần phải tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự
chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, cùng với đệ nhất
thiền siêu tam giới theo Thánh Ðạo Tâm và Thánh Quả Tâm. Những bậc Thánh nhân này, thường không có lục thông.
Nhưng cũng có trường hợp đặc biệt, do nhờ tiền kiếp đã từng chứng đắc
các bậc thiền và thần thông; kiếp hiện tại dầu không có thiền định làm
nền tảng, khi chứng đắc Thánh Ðạo thì thiền định cùng thần thông phát
sanh. Như trường hợp Ngài Ðại Ðức Arahán Cūḷapanthaka.... Có số hành giả tiến hành thiền định và thiền tuệ cả hai đi đôi với
nhau, dẫn đến sự chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Những bậc Thánh nhân này, thường có lục thông.
Cho nên pháp hành thiền định và pháp hành thiền
tuệ luôn luôn hỗ trợ lẫn nhau. Tùy theo mỗi trường hợp, tùy
theo căn duyên của mỗi hành giả. 14- Niết Bàn Ở Ðâu? Niết Bàn ở đâu là một vấn đề mà hạng phàm nhân thường hay
quan tâm tìm hiểu, nhưng không thể nào thấy được, hiểu được, biết
được, bởi vì Niết Bàn là pháp bên ngoài (bahiddhā dhammā), là
pháp vô vi (asaṅkhatadhamma) không bị cấu tạo do nghiệp, tâm,
thời tiết, vật thực. Niết Bàn thuộc về pháp siêu tam giới, nên không
phải là đối tượng của dục giới tâm, sắc giới tâm, vô sắc giới tâm, mà
chỉ là đối tượng của siêu tam giới tâm đó là 4 Thánh Ðạo Tâm, 4 Thánh
Quả Tâm, là tâm của các bậc Thánh nhân mà thôi. Cho nên các hạng phàm
nhân không thể biết được Niết Bàn. Niết Bàn là pháp của diệt Khổ thánh đế (dukkhanirodha
ariyasacca: là sự thật chân lý mà chư bậc Thánh nhân chứng ngộ) đó
là pháp diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái là nhân sanh
Khổ thánh đế. Như vậy, tham ái sanh nơi nào?
Trong bài kinh Ðại Tứ niệm xứ [9]
(Mahāsatipaṭṭhānasutta), Ðức Phật thuyết giảng phần "Nhân
sanh Khổ thánh đế" như sau: "Katamañca bhikkhave dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ? Yāyaṃ taṇhā ponabhavikā nandīrāgasahagatā tatratatrābhinandinī,
seyyathidaṃ: Kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā. Sā kho panesā bhikkhave taṇhā kattha uppajjamānā uppajjati, kattha
vinisamānā vīnisati? Yaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthāsā taṇhā uppajjamānā uppajjati,
ettha nivisamānā nivisati? Kiñca loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ? Cakkhu loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthāsā taṇhā uppajjamānā
uppajjati, ettha nivisamānā nivisati...". "Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là Nhân sanh Khổ thánh đế?
Tham ái dắt dẫn tái sanh kiếp sau, hợp với tham muốn và thỏa thích,
có trạng thái thường say đắm, hoan lạc trong kiếp sống và các đối
tượng. Nhân sanh Khổ thánh đế ấy là: Kāmataṇhā: Dục ái: Tham ái trong 6 cảnh trần: sắc, thanh,
hương, vị, xúc và pháp trần.
Bhavataṇhā: Hữu ái: Tham ái trong 6 cảnh trần hợp với
thường kiến; hoặc tham ái trong thiền sắc giới, thiền vô sắc giới, cõi
trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới.
Vibhavataṇhā: Phi hữu ái: Tham ái trong 6 cảnh trần hợp
với đoạn kiến.
– Này chư Tỳ khưu, ba loại tham ái này, khi phát sanh, thì phát
sanh ở đâu? Khi dính mắc, thì dính mắc ở đâu?
Pháp nào có trạng thái đáng ưa thích, có trạng thái đáng hài lòng,
ba loại tham ái ấy, khi phát sanh, thì phát sanh do nương nhờ nơi pháp
có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy; khi dính mắc, thì dính
mắc nơi pháp có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy. Pháp nào có trạng thái đáng ưa thích, có trạng thái đáng hài lòng ở
trong đời? 1- Nhãn (mắt) có trạng thái đáng ưa thích, có trạng thái
đáng hài lòng trong đời. Ba tham ái ấy, khi phát sanh thì phát sanh do
nương nhờ nơi nhãn (mắt) có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng
ấy; khi dính mắc thì dính mắc nơi nhãn (mắt) có trạng thái đáng ưa
thích, đáng hài lòng ấy. Cũng tương tự như vậy, nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân và ý
là 6 căn bên trong tiếp xúc với 6 cãnh trần bên ngoài. 2- Sáu đối tượng (ārammaṇa): sắc trần, thanh trần, hương
trần, vị trần, xúc trần và pháp trần bên ngoài tiếp xúc với 6 căn bên
trong. 3- Sáu thức tâm (viññāṇa): nhãn thức tâm, nhĩ thức tâm, tỷ
thức tâm, thiệt thức tâm, thân thức tâm và ý thức tâm phát sanh do 6
trần bên ngoài tiếp xúc với 6 căn bên trong. 4- Sáu xúc (phassa): nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc,
thân xúc và ý xúc phát sanh trong 6 thức tâm. 5- Sáu thọ (vedanā): nhãn thọ, nhĩ thọ, tỷ thọ, thiệt thọ,
thân thọ và ý thọ phát sanh trong 6 thức tâm. 6- Sáu tưởng (saññā): sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng,
vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng phát sanh trong 6 thức tâm. 7- Sáu tác ý (cetanā): sắc tác ý, thanh tác ý, hương tác ý,
vị tác ý, xúc tác ý và pháp tác ý phát sanh trong 6 thức tâm. 8- Sáu ái (taṇhā): sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái
và pháp ái phát sanh do nương nhờ 6 đối tượng. 9- Sáu hướng tâm (vitakka): hướng tâm đến sắc, hướng tâm đến
thanh, hướng tâm đến hương, hướng tâm đến vị, hướng tâm đến xúc và
hướng tâm đến pháp phát sanh do nương nhờ 6 đối tượng. 10- Sáu quan sát (vicāra): quan sát sắc, quan sát thanh,
quan sát hương, quan sát vị, quan sát xúc và quan sát pháp phát sanh
do nương nhờ 6 đối tượng. Gồm có 60 pháp có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng, ba tham
ái ấy, khi phát sanh thì phát sanh do nương nhờ ở 60 pháp có trạng
thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy; khi dính mắc thì dính mắc ở 60
pháp có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy. Tham ái, nhân sanh khổ, phát sanh do nương nhờ ở pháp nào có trạng
thái đáng ưa thích, đáng hài lòng, dính mắc ở pháp nào có trạng thái
đáng ưa thích, đáng hài lòng, thì sự khổ phát sanh do nương nhờ ở pháp
có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy, sự tái sanh kiếp sau,
sự luân hồi tiếp tục kéo dài sanh tử – tử sanh vô cùng vô tận.
Ðó gọi là tham ái, Nhân sanh Khổ thánh đế, mà bậc Thánh nhân đã
chứng ngộ, đã diệt đoạn tuyệt được tham ái bằng Thánh Ðạo Tuệ". Cũng trong bài kinh này, Ðức Phật thuyết giảng phần "Diệt Khổ
thánh đế" như sau: "Katamañca bhikkhave dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ? Yo tassāyeva taṇhāya asesavirāga nirodho cāgo paṭinissaggo mutti
anālayo. Sā kho panesā bhikkhave, taṇhā kattha pahīyamānā pahīyati, kattha
nirujjhamānā nirujjhati? Yaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthāsā taṇhā pahīyamānā pahīyati,
ettha nirujjhamānā nirujjhati? Kiñca loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ? Cakkhu loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthāsā taṇhā pahīyamānā pahīyati,
ettha nirujjhamānā nirujjhati...". – Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là Diệt Khổ thánh đế?
Niết Bàn pháp diệt đoạn tuyệt tham ái nhân sanh khổ không còn dư
sót bằng Thánh Ðạo Tuệ, pháp xả ly ngũ uẩn, pháp từ bỏ ngũ uẩn, pháp
giải thoát khổ, pháp không còn luyến ái dính mắc nữa. – Này chư Tỳ khưu, ba loại tham ái ấy, khi bị hoại, thì bị hoại
ở đâu? Khi bị diệt, thì bị diệt ở đâu?
Pháp nào có trạng thái đáng ưa thích, có trạng thái đáng hài lòng,
ba loại tham ái ấy, khi bị hoại, thì bị hoại nơi pháp có trạng thái
đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy; khi bị diệt, thì bị diệt nơi pháp có
trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy. Pháp nào có trạng thái đáng ưa thích, có trạng thái đáng hài lòng ở
trong đời? 1- Nhãn (mắt) có trạng thái đáng ưa thích, có trạng thái
đáng hài lòng trong đời. Ba tham ái ấy, khi bị hoại, thì bị hoại nơi
nhãn (mắt) có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy; khi bị diệt,
thì bị diệt nơi nhãn (mắt) có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng
ấy. Cũng tương tự như vậy đối với nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi),
thân và ý. 2- Sáu đối tượng (ārammaṇa).... 3- Sáu thức tâm (viññāṇa).... 4- Sáu xúc (phassa).... 5- Sáu thọ (vedanā).... 6- Sáu tưởng (saññā).... 7- Sáu tác ý (cetanā).... 8- Sáu ái (taṇhā).... 9- Sáu hướng tâm (vitakka).... 10- Sáu quan sát (vicāra).... Gồm có 60 pháp có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng trong
đời, ba tham ái ấy, khi bị hoại, thì bị hoại nơi 60 pháp có trạng thái
đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy; khi bị diệt, thì bị diệt nơi 60 pháp
có trạng thái đáng ưa thích, đáng hài lòng ấy. Ðó gọi là Niết Bàn, pháp Diệt Khổ thánh đế, mà bậc Thánh nhân đã
chứng ngộ bằng 4 Thánh Ðạo Tuệ, 4 Thánh Quả Tuệ". Tóm lại, tham ái, nhân sanh Khổ thánh đế phát sanh do nương nhờ vào
60 chi pháp cho quả Khổ thánh đế ở kiếp hiện tại và dắt dẫn tái sanh
kiếp sau, kéo dài sự khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Và tham ái, nhân sanh Khổ thánh đế, bị diệt đoạn tuyệt nơi
chi pháp nào, trong 60 chi pháp ấy, bằng 4 Thánh Ðạo
Tuệ, thì gọi là phiền não Niết Bàn cũng chính tại nơi
chi pháp ấy. Loại tham ái, phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt bằng Thánh
Ðạo Tuệ nào, loại tham ái, phiền não ấy Niết Bàn, nghĩa là
loại phiền não, tham ái ấy vĩnh viễn không còn sanh nữa. Tất cả các pháp hữu vi có sanh, có diệt là thường. Cho nên, phiền
não sanh, rồi diệt đó là trạng thái tự nhiên của pháp hữu vi. Song đặc
biệt nhất là Thánh Ðạo Tuệ diệt đoạn tuyệt phiền não loại nào rồi,
phiền não loại ấy vĩnh viễn không còn sanh nữa, gọi là Phiền Não
Niết Bàn.
Niết Bàn Hiện Hữu Hành giả nào tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo, dẫn
đến sự chứng ngộ Niết Bàn, thì Niết Bàn hiện hữu đối với họ; còn hành
giả nào tiến hành thiền tuệ không đúng theo Pháp hành Trung đạo, thì
không dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn, thì Niết Bàn không hiện hữu đối
với họ. Trong bài kinh Gaṇakamoggallānasutta [10] Ðức Phật dạy: "Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Pubbārama, gần thành
Sāvatthi. Khi ấy, có Bà la môn Gaṇakamoggallāna đến hầu Ðức Phật, nghe
pháp từ Ðức Phật xong, vô cùng hoan hỉ, bèn bạch với Ðức Thế Tôn rằng: Kính bạch Ðức Gotama, các hàng đệ tử của Ðức Thế Tôn, được Ðức
Thế Tôn chỉ dạy rõ ràng như vậy, tất cả đều chứng ngộ Niết Bàn hay có
một số không chứng ngộ Niết Bàn? Bạch Ngài.
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Này Bà la môn, các hàng đệ tử của Như Lai, được Như Lai chỉ dạy
rõ ràng như vậy, có một số ít chứng ngộ Niết Bàn, còn phần đông không
chứng ngộ Niết Bàn.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, do nhân nào, do duyên nào? Một khi Niết
Bàn vẫn hiện hữu, pháp hành dẫn đến Niết Bàn vẫn hiện hữu, Ðức Gotama,
Bậc Tôn Sư chỉ dạy rõ ràng vẫn hiện hữu; nhưng tại sao các hàng đệ tử
của Ðức Gotama một số ít chứng ngộ Niết Bàn, còn phần đông không chứng
ngộ Niết Bàn, bạch Ngài?
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Này Bà la môn, nếu như vậy Như Lai hỏi con về chuyện này, con
nghĩ như thế nào, thì trả lời như thế ấy.
Này Bà la môn, con nghĩ sao về điều này? Con biết đường đến kinh
thành Rājagaha có phải không? Kính bạch Ðức Gotama, con biết rõ đường đi đến kinh thành
Rājagaha.
Vậy, này Bà la môn, nếu mọi người nhờ con chỉ đường đến kinh
thành Rājagaha, họ đều đến nơi kinh thành Rājagaha cả thảy, hay có một
số nào đó không đến nơi.
Kính bạch Ðức Gotama, có số người đến nơi, còn có số người khác
thì không !
Này Bà la môn, do nhân nào, do duyên nào, một khi kinh thành
Rājagaha vẫn hiện hữu, con đường đi đến kinh thành Rājagaha vẫn hiện
hữu, con là người chỉ dẫn rõ ràng vẫn hiện hữu; nhưng tại sao có số
người đến kinh thành Rājagaha, còn có số người thì không đến kinh
thành Rājagaha?
Kính bạch Ðức Gotama, về vấn đề này, con biết làm sao được, con
chỉ là người chỉ đường mà thôi.
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Này Bà la môn, cũng như vậy đó, một khi Niết Bàn vẫn hiện hữu,
pháp hành dẫn đến Niết Bàn vẫn hiện hữu, Như Lai chỉ dạy rõ ràng vẫn
hiện hữu; nhưng mà các hàng đệ tử của Như Lai, một số ít chứng ngộ
Niết Bàn, còn phần đông không chứng ngộ Niết Bàn. Như Lai cũng chẳng
biết làm sao được, vì Như Lai chỉ là người chỉ đường (Maggakkhāyī) mà
thôi!".
Qua đoạn kinh trên, cho chúng ta hiểu rõ: không phải tất cả hành
giả đều có thể chứng ngộ Niết Bàn. Có số ít hành giả chứng ngộ Niết
Bàn nhờ tiến hành pháp hành Bát chánh đạo,
đúng theo Pháp hành Trung đạo. Và nhờ có ba la mật nhiều
đời nhiều kiếp trong quá khứ hỗ trợ, nên kiếp hiện tại này, hành giả
mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4
Thánh Quả, và Niết Bàn; còn số đông hành giả tiến hành không đúng theo
pháp hành Bát chánh đạo, không đúng theo Pháp hành Trung đạo; hoặc
tiến hành đúng Pháp hành Trung đạo nhưng không đủ ba la mật hỗ trợ cho
pháp hành Bát chánh đạo, để chứng ngộ Niết Bàn ngay trong kiếp hiện
tại. 15- Pháp Hành Phạm Hạnh Trong kinh Brahmacariyasutta [11], Ðức Phật dạy rằng: "Này chư Tỳ khưu, Như Lai sẽ thuyết giảng pháp hành phạm hạnh và
quả của pháp hành phạm hạnh cho các con, các con hãy lắng nghe:
Này chư Tỳ khưu, pháp hành phạm hạnh là thế nào? Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh
định. Bát chánh đạo này gọi là Pháp hành phạm hạnh.
"Này chư Tỳ khưu, quaû của pháp hành phạm hạnh là thế nào? Nhập Lưu Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Quả,
Arahán Thánh Quả, 4 Thánh Quả này, gọi là quả của pháp hành phạm
hạnh".
Theo ý nghĩa bài kinh này, Pháp hành phạm hạnh là
Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp... chánh định đồng sanh trong 4 Thánh Ðạo Tâm, là
pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ thánh đế hoặc gọi tắt
là "Ðạo thánh đế".
Như vậy, Ðạo thánh đế đó là pháp hành Bát chánh đạo
hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ... chánh định đồng
sanh trong mỗi Thánh Ðạo Tâm, đã tiến hành xong, đã hoàn thành xong
mọi phận sự Tứ thánh đế: Khổ thánh đế nên biết, thì đã biết;Tập thánh
đế nên diệt, thì đã diệt;Diệt thánh đế nên chứng ngộ, thì đã chứng
ngộ đồng thời cùng một lúc không trước không sau, liền cho quả Thánh
Quả Tâm tương xứng với mỗi Thánh Ðạo Tâm, không có thời gian ngăn cách
(akālika) như: Nhập Lưu Thánh Ðạo liền cho quả Nhập Lưu Thánh Quả. Ðó là Pháp hành phạm hạnh và quả của Pháp hành phạm hạnh. Ðể có được kết quả như vậy, hành giả hành phạm hạnh trong Phật giáo
của Ðức Thế Tôn với mục đích gì? Như trong kinh Kimatthiyasuttā [12] Ðức Phật dạy rằng: "... Dukkhassa hi pariññatthaṃ mayi brahamacarīyaṃ vuccati..." "Này chư Tỳ khưu, đúng vậy, hành phạm hạnh nơi Như Lai, cốt để biết
rõ, để chứng ngộ Khổ thánh đế". "Này chư Tỳ khưu, pháp hành phạm hạnh cốt để biết rõ, để chứng ngộ
Khổ thánh đế, như thế nào? Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh
định. Bát chánh đạo này là pháp hành phạm hạnh cốt để biết rõ, để
chứng ngộ Khổ thánh đế".
Sự bắt đầu của pháp hành Bát chánh đạo là hành chánh niệm:
niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, gọi là tiến
hành Tứ niệm xứ, hay niệm sắc pháp, niệm danh pháp,
gọi là tiến hành thiền tuệ.
Như vậy, tiến hành Tứ niệm xứ hay tiến hành
thiền tuệ, cốt để biết rõ khổ đế
của danh pháp, sắc pháp. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc
pháp là khổ đế, nên nhàm chán nơi danh pháp, sắc pháp;
khi nhàm chán nơi danh pháp, sắc pháp, mới có thể diệt được tâm
tham ái nơi danh pháp, sắc pháp. Tâm tham ái là nhân
sanh khổ đế bị diệt đoạn tuyệt hoàn toàn bằng Arahán
Thánh Ðạo Tuệ. bậc Thánh Arahán được giải thoát hoàn toàn khỏi
khổ tâm, nhưng khi còn có sắc thân là quả của tham ái
nên còn phải khổ thân. Bậc Thánh Arahán
đến khi tịch diệt, Ngũ Uẩn Niết Bàn, giải thoát khỏi khổ thân,
chấm dứt khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.
Giáo Pháp của Ðức Phật, mục đích chính chỉ dạy chúng sinh biết rõ
khổ đế, và cuối cùng chỉ dạy Niết Bàn, pháp diệt
Khổ thánh đế. Thật vậy, Ðức Phật đã từng khẳng định với Ðại Ðức Anurādha rằng: "...Pubbe cā’haṃ Anurādha etarahi ca dukkhañceva paññāpemi
dukkhassa ca nirodhaṃ...". [13] "Này Anurādha, từ trước cho đến nay, Như Lai chỉ có thuyết dạy về
Khổ thánh đế, và Niết Bàn, pháp diệt Khổ thánh đế". Ðó là lời giáo huấn của Ðức Phật tóm tắt về Tứ thánh đế là
Khổ thánh đế và Diệt Khổ thánh đế.
Trong Pháp Cú kệ, Ðức Phật thuyết dạy 3 bài kệ về 3 trạng thái
chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn
đến nhàm chán khổ đế trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp, chứng ngộ
Niết Bàn, an lạc tuyệt đối, như sau: (277)
(278) "Sabbe saṅkhārā dukkhā’ti, yadā paññāya
passati,
(279) "Sabbe dhammā [15] anattā’ti, yadā paññāya
passati, (277) "Khi nào hành giả thấy bằng trí tuệ,
(278) "Khi nào hành giả thấy bằng trí tuệ,
(279) "Khi nào hành giả thấy bằng trí tuệ,
Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp sanh rồi
diệt liên tục không ngừng, nên hiện thấy rõ trạng thái vô
thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trí tuệ thiền tuệ
phát sanh thấy nhàm chán trong Khổ thánh đế, mới diệt được tâm tham ái
nơi danh pháp, sắc pháp. Ðó là Thánh Ðạo thanh tịnh hợp
đủ 8 chánh chứng ngộ Niết Bàn. Trong tam giới này chỉ có khổ đế, ngoài khổ đế
ra không có gì khác, như Ðại Ðức Tỳ khưu ni Vajirā, bậc Thánh
Arahán dạy rằng: "Dukkhameva hi sambhoti,
Thật vậy, chỉ có khổ đế sanh lên, Sự thật chân lý trong tam giới chỉ có "khổ đế"
(dukkhasacca), còn sự an lạc chỉ là "hư ảo"
(sukhavippallāsa), sự an lạc trong tam giới này không phải là
sự thật, không phải là chân lý, vì phải chịu
trạng thái vô thường biến đổi, nên chỉ có khổ mà thôi. Vậy "khổ
đế" là sự thật chân lý.
Mục đích tiến hành thiền tuệ bắt đầu chỉ để biết rõ
sự thật chân lý khổ đế ấy và cuối cùng dẫn đến sự tịch
diệt Niết Bàn, pháp diệt Khổ thánh đế ấy,
chấm dứt khổ tái sanh trong ba giới bốn loài, khi ấy mới
hoàn toàn giải thoát khổ. 16- 5 Pháp Chủ (Indriya) 5 pháp chủ là: tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp
chủ, định pháp chủ và tuệ pháp chủ đóng vai trò trọng yếu
trong việc tiến hành thiền định để chứng đắc các bậc thiền, hoặc tiến
hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh
Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Gọi là pháp chủ: nghĩa là có chủ quyền trong phận sự
của mình. 1- Tín pháp chủ (saddhindriya): Ðức tin làm chủ quyền
trong sự tin tưởng nơi ân đức Tam bảo, như__ Bậc Thánh Thanh Văn có đức tin trong sạch nơi Ân Ðức Phật: – Arahaṃ: là Bậc Arahán cao thượng. Như vậy, gọi là tín pháp chủ. 2- Tấn pháp chủ (vīriyindriya): Tinh tấn làm chủ quyền
trong 4 pháp tinh tấn. Bậc Thánh Thanh Văn có sự tinh tấn như: – Tinh tấn ngăn ác pháp không cho phát sanh. Như vậy, gọi là tấn pháp chủ.
3- Niệm pháp chủ: (satindriya): Niệm làm
chủ quyền trong pháp hành Tứ niệm xứ. Bậc Thánh Thanh Văn tiến hành Tứ niệm xứ như. Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận,
có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ "thân trong thân"
để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài lòng
trong ngũ uẩn chấp thủ này.
Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận,
có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ "thọ trong thọ"
để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài lòng
trong ngũ uẩn chấp thủ này.
Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận,
có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ "tâm trong tâm"
để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài lòng
trong ngũ uẩn chấp thủ này.
Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận,
có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ "pháp trong pháp"
để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài
lòng trong ngũ uẩn chấp thủ này...".
Như vậy, gọi là niệm pháp chủ.
4- Ðịnh pháp chủ (samādhindriya): Ðịnh làm chủ
quyền trong 5 bậc thiền siêu tam giới. Bậc Thánh Thanh Văn tiến hành thiền định chứng đắc các bậc thiền
siêu tam giới có Niết Bàn làm đối tượng: – Ðệ nhất thiền siêu tam giới tâm có 5 chi thiền: hướng tâm, quan
sát, hỉ, lạc và định. Như vậy, gọi là định pháp chủ.
5- Tuệ pháp chủ (paññindriya): Trí tuệ làm chủ quyền
trong sự chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả. Bậc Thánh Thanh Văn có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh,
sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường,
trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp; dẫn đến
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và
Niết Bàn. Như vậy, gọi là tuệ pháp chủ.
16.1- Năng lực 5 pháp chủ đối với bậc Thánh nhân Trong kinh Saṅkhittasutta [18] Ðức Phật dạy rằng: – Này chư Tỳ khưu, có 5 pháp chủ là:
Tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ và tuệ
pháp chủ. – Này chư Tỳ khưu:
Hành giả chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thành
bậc Thánh Arahán, bởi nhờ 5 pháp chủ có đầy đủ năng lực hoàn toàn.
Hành giả chứng đắc Bất Lai Thánh Ðạo, Bất Lai Thánh Quả, trở
thành bậc Thánh Bất Lai, bởi vì 5 pháp chủ có năng lực yếu hơn bậc
Thánh Arahán.
Hành giả chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo, Nhất Lai Thánh Quả, trở
thành bậc Thánh Nhất Lai, bởi vì 5 pháp chủ có năng lực yều hơn bậc
Thánh Bất Lai.
Hành giả chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở
thành thành bậc Thánh Nhập Lưu, bởi vì 5 pháp chủ có năng lực yếu hơn
bậc Thánh Nhất Lai.
16.2- Ðiều hòa 5 pháp chủ đồng đều Trong chú giải kinh Ðại niệm xứ dạy rằng: Tín pháp chủ
và tuệ pháp chủ là một cặp, nên đồng đều với nhau.
Tấn pháp chủ và định pháp chủ là một cặp, nên
đồng đều với nhau. Nếu tín pháp chủ mạnh, còn tuệ pháp chủ
yếu, thì đức tin trở nên mù quáng, không có cơ sở, không có nền
tảng, vì thiếu trí tuệ suy xét phân tích kỷ. Như vậy, hành giả cần phải giảm bớt đức tin, tăng thêm trí tuệ suy
xét đúng, sai, lợi, hại, làm điều hòa tín pháp chủ và
trí tuệ được đồng đều với nhau. Nếu tuệ pháp chủ mạnh, còn tín pháp chủ
yếu, thì trí tuệ trở nên lý luận suông, (ngụy biện), vì thiếu đức tin,
không có nền tảng căn bản vững chắc, rất tai hại. Như vậy, hành giả cần phải làm tăng thêm đức tin, nơi Ðức Phật, Ðức
Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, làm nền tảng căn bản
vững chắc, giảm bớt trí tuệ lý luận suông, làm điều hòa tuệ pháp
chủ và tín pháp chủ được đồng đều với
nhau. Nếu tấn pháp chủ mạnh, còn định pháp chủ
yếu, thì sanh phóng tâm, không định tâm ở đối tượng. Như vậy, giảm bớt tấn pháp chủ xuống, làm tăng thêm định pháp chủ,
làm cho điều hòa tấn pháp chủ và định pháp chủ
được đồng đều với nhau. Nếu định pháp chủ mạnh, còn tấn pháp chủ
yếu, thì dễ sanh tâm biếng nhác, không tinh tấn tiến hành thiền tuệ. Như vậy, hành giả cần phải giảm bớt định pháp chủ xuống, làm tăng
thêm tấn pháp chủ, làm cho điều hòa định pháp chủ và
tấn pháp chủ được đồng đều với nhau. Nếu trường hợp hành giả tiến hành thiền định, dầu
định pháp chủ có năng lực mạnh hơn một chút cũng nên, để
cho tâm định dễ an trụ trong một đối tượng thiền định, để chứng đắc
các bậc thiền sắc giới, các bậc thiền vô sắc giới. Nếu trường hợp hành giả tiến hành thiền tuệ, dầu
tuệ pháp chủ năng lực có mạnh hơn một chút cũng nên, vì để
cho trí tuệ thiền tuệ dễ thấy rõ, biết rõ mau lẹ sự sanh, sự diệt của
danh pháp, sắc pháp; trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái
vô ngã của danh pháp, sắc pháp; dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Riêng phần niệm pháp chủ có nhiều năng lực bao nhiêu
càng tốt, vì niệm pháp chủ vừa làm phận sự của mình, vừa điều hành 4
pháp chủ khác làm phận sự của mỗi pháp chủ được phát triển. Do đó, Ðức Phật dạy: "Satiñ ca khvāhaṃ bhikkhave sabbatthikaṃ vadāmi". [19]
Niệm pháp chủ: Ðó là chánh niệm trong Tứ niệm
xứ, là Pháp hành Trung đạo giai đoạn đầu, để dẫn đến Pháp hành Trung
đạo giai đoạn cuối, đó là Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định đồng sanh trong 4 Thánh Ðạo Tâm, 4 Thánh Quả Tâm có
Niết Bàn làm đối tượng. Ví dụ: Chiếc xe có 5 bánh xe Một chiếc xe có 5 bánh xe, mỗi bánh xe đều có khả năng lăn mau hay
lăn chậm, tùy theo năng lực của mỗi bánh xe. Vị trí của 5 bánh xe ví như 5 pháp chủ: – Bánh xe số 1 ở ngay giữa dẫn đầu, ví như niệm pháp chủ.
– Bánh xe số 2 và 3 ở hai bên đằng trước, ví như tín pháp chủ
và tuệ pháp chủ.
– Bánh xe số 4 và số 5 hai bên đằng sau, ví như tấn pháp chủ
và định pháp chủ. Trong 4 vị trí bánh xe số 2, 3, 4, 5 này, nếu có một bánh xe lăn
mau hoặc lăn chậm, có thể làm ảnh hưởng đến chiếc xe chạy sai hướng.
Cho nên, người tài xế giỏi phải biết điều hành sao cho 2 bánh xe trước
và 2 bánh xe sau lăn đồng đều nhau, khiến cho chiếc xe chạy theo hướng
đã định. Cũng như vậy, nếu 1 trong 4 pháp chủ: là tín pháp chủ, tuệ
pháp chủ, tấn pháp chủ và định pháp chủ có năng lực mạnh
hay yếu, có thể làm cho sự tiến hành thiền định hay tiến hành thiền
tuệ trở ngại, không thể phát triển tốt. Cho nên, hành giả tiến
hành thiền định hay tiến hành thiền tuệ cần phải
biết cách điều hòa 5 pháp chủ: – Tín pháp chủ và tuệ pháp chủ phải
đồng đều với nhau. Ðồ biểu 5 pháp chủ
Chú thích: [9] Dīghanikāya, bộ Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta. [10] Majjhimanikāya, bộ Uparipaṇṇāsaka, kinh Gaṇakamoggallānasutta.
[11] Samyuttanikāya, bộ Mahāvagga, kinh Brahmacariyasutta. [12] Samyuttanikāya, bộ Mahāvagga, kinh Kimatthiyasutta. [13] Samyuttanikāya, bộ Khandhavagga, Kinh Anurādhasutta. [14] Saṅkhàrà: Pháp hữu vi: Đó là danh pháp,
sắc pháp trong tam giới, luôn luôn bị cấu tạo do bởi nghiệp, tâm, thời
tiết và vật thực. [15] Dhammā: Các pháp: Ở đây cũng chỉ hạn chế các
pháp ở trong tam giới mà thôi. [16] Dhammapadagāthā, kệ số 277, 278, 279. [17] Samyuttanikāya, bộ Sagāthavagga, kinh Vājirāsutta. [18] Samyuttanikāya, bộ Mahāvagga, kinh Saṅkhittasutta. [19] Samyuttanikāya, bộ Mahāvagga, kinh Saṅkhittasutta. -ooOoo- Ðầu trang
| Mục lục
| 1.1
| 1.2
| 1.3
| 1.4
| 1.5
| 2.1
| 2.2
| 2.3
| 2.4
| 2.5
| 3.1
| 3.2
| 3.3
| 3.4
| 3.5
| Chân thành cám ơn Tỳ
khưu Hộ Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 05-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Ðịnh thanh tịnh thuộc về pháp hành thiền định, là phần giữa.
Chánh kiến thiền tuệ thanh tịnh cho đến Tri kiến thanh tịnh, cả 5
pháp thanh tịnh này thuộc về pháp hành thiền tuệ, là phần
cuối.
thuộc về pháp hành Tuệ.
2- Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về pháp
hành Giới.
3- Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về
pháp hành Ðịnh.
Pháp hành định hoàn hảo ở phần giữa.
Pháp hành tuệ hoàn hảo ở phần cuối.
Pháp hành tuệ, 4 Thánh Ðạo hoàn hảo ở phần giữa.
4 Thánh Quả, Niết Bàn hoàn hảo ở phần cuối.
4 Thánh Ðạo hoàn hảo ở phần giữa.
4 Thánh Quả, Niết Bàn hoàn hảo ở phần cuối....
2- Tỳ khưu hành giả tiến hành thiền tuệ trước, tiếp theo sau tiến
hành thiền định.
3- Tỳ khưu hành giả tiến hành thiền định và thiền tuệ cả hai đi đôi
với nhau.
Cùng chung mục đích hướng đến (gocara).
v.v....
Nhất Lai Thánh Ðạo liền cho quả Nhất Lai Thánh Quả.
Bất Lai Thánh Ðạo liền cho quả Bất Lai Thánh Quả.
Arahán Thánh Ðạo liền cho quả Arahán Thánh Quả.
"Sabbe saṅkhārā [14] aniccā’ti, yadā
paññāya passati,
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā".
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā"
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā". [16]
Tất cả pháp hữu vi đều vô thường,
Khi ấy trí tuệ nhàm chán khổ đế.
Ðó Thánh Ðạo thanh tịnh, chứng Niết Bàn".
Tất cả pháp hữu vi đều khổ não,
Khi ấy trí tuệ nhàm chán khổ đế.
Ðó Thánh Ðạo thanh tịnh, chứng Niết Bàn".
Tất cả pháp tam giới đều vô ngã,
Khi ấy trí tuệ nhàm chán khổ đế.
Ðó Thánh Ðạo thanh tịnh, chứng Niết Bàn".
[17]
Dukkhaṃ tiṭṭhati veti ca,
Nāññatra dukkhā sambhoti,
Nāññaṃ dukkhā nirujjhati".
Chỉ có khổ đế trụ, và diệt đi,
Ngoài khổ đế ra, không gì khác sanh,
Ngoài khổ đế ra, không gì khác diệt".
– Sammāsambuddho: là Bậc Chánh Ðẳng Giác.
– Vijjācarana sampanno: là Bậc tròn đủ Tam minh, Bát
minh và 15 đức hạnh.
– Sugato: là Bậc dạy lời chân thật, đem lại lợi ích
thật sự.
– Lokavidū: là Bậc thông suốt tam giới: pháp hành
giới, chúng sinh giới, cảnh giới.
– Anuttaropurisadammasārathi: là Bậc Vô Thượng giáo
huấn chúng sinh.
– Satthādevamanussānaṃ: là Bậc Thầy của chư thiên,
phạm thiên, nhân loại.
– Buddho: là Ðức Phật.
– Bhagavā: là Ðức Thế Tôn.
– Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sanh.
– Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sanh.
– Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sanh.
– Ðệ nhị thiền siêu tam giới tâm có 4 chi thiền: quan sát, hỉ, lạc
và định.
– Ðệ tam thiền siêu tam giới tâm có 3 chi thiền: hỉ, lạc, định.
– Ðệ tứ thiền siêu tam giới tâm có 2 chi thiền: lạc và định.
– Ðệ ngũ thiền siêu tam giới tâm có 2 chi thiền: xả và định.
"Này chư Tỳ khưu, Như Lai dạy rằng: niệm pháp chủ cần thiết cho tất cả
mọi pháp".
– Tấn pháp chủ và định pháp chủ phải
đồng đều với nhau.
– Riêng về niệm pháp chủ càng mạnh càng tốt, để điều
hành các pháp chủ làm tròn phận sự của mỗi pháp chủ.
4.1
| 4.2
| 4.3
| 4.4
| 4.5
| 4.6
| 5.1
| 5.2
| 5.3
| 5.4
| 5.5
last updated: 30-05-2003