TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 33
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH tập II
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
 

XVI. TIṂSATINIPĀTO - NHÓM BA MƯƠI KỆ NGÔN

 

1. BỔN SANH MONG MUỐN GÌ

 

2713. “Này vị Bà-la-môn, ngài một mình ngồi ở nơi nóng nực với mong muốn gì, với ý định gì, đang ước nguyện điều gì, đang tìm kiếm cái gì, nhằm mục đích gì?”

 

2714. “(Ta đã nhìn thấy) trái xoài chín, có màu sắc, mùi thơm, và hương vị tuyệt vời, trông tương tự như cái hũ đựng nước lớn, có kiểu dáng đẹp.

 

2715. Hỡi cô nàng có vòng eo thanh khiết, sau khi nhìn thấy trái xoài đang bị cuốn trôi bởi dòng nước, ta đã vớt lấy nó bằng hai bàn tay, rồi đã mang nó đến ngôi nhà cúng tế thần lửa.

 

2716. Sau đó, đích thân ta đã đặt nó xuống ở những mảnh lá chuối, rồi dùng dao cắt thành miếng. Nó đã làm tiêu tan sự đói khát của ta.

 

2717. Ta đây không còn trạng thái đuối sức, và trái xoài chín đã hết. Ta có sức chịu đựng sự khốn khó, nhưng ta không đạt đến sự hứng thú ở các loại trái cây nào khác.

 

2718. Trái xoài ấy là thứ trái cây ngon, có vị ngọt đậm đà, làm thích ý, mà ta đã vớt nó lên trong lúc nó đang trôi nổi từ đầm nước ở trong biển lớn. Chẳng lẽ sau khi không có nó để thọ dụng, nó sẽ mang lại cái chết cho ta?

 

2719. Tất cả đã được ta giải thích cho nàng vì sao ta chịu đói khát, (mặc dù) ta ngồi bên cạnh dòng sông đáng yêu có nhiều loại cá.

 

2720. Hỡi cô nàng (dạn dĩ) không trốn chạy, nàng hãy nói với ta về bản thân. Này mỹ nữ, nàng là ai? Hỡi cô nàng có vòng eo xinh xắn, vì sao nàng đi đến đây?

 

2721. Những người nữ trong số chư Thiên, các nàng hầu của chư Thiên, trông tựa như những dải lụa vàng bóng loáng, tựa như những chú cọp con (xinh xắn) được sanh ra ở vùng núi non.

 

2722. Cho đến các phụ nữ được phú cho sắc đẹp ở thế giới nhân loại, người sánh bằng với nàng về sắc đẹp là không có ở giữa chư Thiên, ở các Càn-thát-bà, và ở thế giới loài người. Hỡi nàng có đôi chân đẹp, được ta hỏi, xin nàng hãy trả lời. Nàng hãy nói cho ta về danh tánh và về các thân quyến.”

 

2723. “Này vị Bà-la-môn, ngài ngồi bên cạnh dòng sông Kosikī đáng yêu, còn thiếp đây sống ở trú xứ nhộn nhịp với những dòng nước triều và nước lũ.

 

2724. Nhiều hang núi được xen lẫn với những đám cây cối khác loại tuôn chảy vào mùa mưa khiến chính thiếp trở thành dòng chảy tiên phong.

 

2725. Và còn có nhiều nguồn nước chảy ra từ các cánh rừng mang theo dòng nước màu lục, có nhiều dòng nước đầy màu sắc của các con rồng tuôn chảy với nguồn nước (dồi dào).

 

2726. Các dòng nước ấy luôn luôn mang theo nhiều loại trái cây như trái xoài, trái đào đỏ, trái sa-kê, trái nīpa, trái thốt nốt, và trái sung.

 

2727. Bất cứ trái cây nào ở hai bên bờ rơi rụng xuống nước, chắc chắn rằng trái cây ấy bị cuốn trôi theo mãnh lực của dòng nước chảy.

 

2728. Thưa bậc thông minh, thưa bậc có trí tuệ bao la, sau khi biết rõ điều ấy, xin ngài hãy lắng nghe thiếp. Thưa bậc quân vương, chớ vui thích sự bám víu (vào tham ái). Hãy chặn đứng điều ấy.

 

2729. Thưa bậc làm hưng thịnh đất nước, thưa nhà vua ẩn sĩ, thiếp không nghĩ rằng việc ngài mong mỏi cái chết trong lúc còn trẻ tuổi là điều sáng suốt.

 

2730. Các bậc cha ông, các Càn-thát-bà, luôn cả chư Thiên, biết được bản tính tham ái của ngài đây, và thậm chí các vị ẩn sĩ có bản thân thu thúc, có danh tiếng ở thế gian, và những người lớn tuổi, có danh vọng, chắc chắn rằng những người ấy cũng biết.”

 

2731. “Các bậc hiểu biết dã hiểu rõ như vậy về tất cả các thiện pháp, về sự tan rã, về sự tiêu hoại của mạng sống. Tội ác không bị tích lũy cho người nam ấy, nếu người ấy không suy nghĩ về việc giết hại kẻ khác.

 

2732. Hỡi cô nàng được tôn trọng bởi tập thể các ẩn sĩ, trong khi nàng được thể gian biết đến như vậy, nàng lại muốn tạo ra ác nghiệp ở việc chê bai không thánh thiện.

 

2733. Hỡi nữ thần có cặp mông nở nang xinh xắn, nếu như ta chết ở bờ sông của nàng, chắc chắn rằng tiếng xấu sẽ đến với nàng khi ta đã ra đi.

 

2734. Chính vì điều ấy, hỡi cô nàng có vòng eo xinh xắn, nàng hãy bảo vệ hành động xấu xa (của ta trong việc ham muốn trái xoài). Chớ để sau này, khi ta đã chết, tất cả mọi người lại phỉ báng nàng.”

 

2735. “Thưa vị có sự chịu đựng việc không thể chịu đựng, điều ấy đã được biết rõ. Thiếp sẽ đích thân biếu trái xoài ấy đến ngài. Ngài đây, sau khi dứt bỏ các loại dục khó thể từ bỏ, ngài hãy duy trì sự an tịnh và thiện pháp.

 

2736. Kẻ nào sau khi từ bỏ sự ràng buộc trước đây, rồi lại dính vào sự ràng buộc sau này, và còn thực hành phi pháp nữa; sự xấu xa gia tăng cho kẻ ấy.

 

2737. Ngài hãy đến, thiếp sẽ giúp ngài đạt được điều mong muốn. Ngài hãy ít ham muốn. Hãy để thiếp đưa ngài đi, và ngài hãy trú ở nơi (rừng xoài) mát mẻ, không còn ham muốn nữa.

 

2738. Thưa vị thuần hóa kẻ thù, nơi ấy với những con chim bị say đắm hương vị của các bông hoa. Có các chim cò, các chim công, các chim sếu, và các chim sáo ngọt ngào thuộc cõi Trời.

 

2739. Được cất tiếng kêu cùng với bầy thiên nga, các con chim cu cu làm thức giấc chốn này. Ở đây, có những cây xoài với những chùm trái trĩu nặng ở đầu cành, trông giống như những bó lúa trĩu hạt, có những cây kosumbha, cây salala, cây nīpa, và những quầy trái thốt nốt chín treo lỏng thỏng.”

 

2740. “Là người có vòng hoa, có khăn đội đầu, có vòng đeo tay, có thoa trầm hương, ông hưởng thụ vào ban đêm, và cảm nhận thọ khổ vào ban ngày.

 

2741. Mười sáu ngàn phụ nữ này là những người hầu hạ của ông. Như vậy, ông có uy quyền lớn lao, ông thật phi thường, có sự dựng đứng lông.

 

2742. Ông đã tạo nghiệp gì xấu xa trong đời quá khứ khiến nó đem lại khổ đau cho bản thân? Sau khi đã làm nghiệp gì ở thế giới loài người khiến ông phải ăn các miếng thịt ở lưng?”

 

2743. “Sau khi tiếp thu các môn học, tôi bị tham đắm ở các dục. Tôi đã hành xử điều bất lợi đến những người khác trong một thời gian dài.

 

2744. Hôm nay tôi ngấu nghiến những miếng thịt lưng của chính mình như thế nào, thì kẻ nói xấu sau lưng người khác sẽ phải rứt ra (những miếng thịt lưng) rồi nhai tương tự như thế ấy.”

 

Bổn Sanh Mong Muốn Gì. [511]

 

***

 

2. BỔN SANH CÁI BÌNH RƯỢU

 

2745. “Ngài là ai mà đến từ Thiên cung và hiện ra ở trên bầu trời? Ngài đang chiếu sáng đêm đen tựa như mặt trăng. Các hào quang phát ra từ thân thể của ngài tựa như tia chớp Sateritā ở không trung.

 

2746. Ngài đây lướt gió bước đi ở bầu trời. Ngài đi và đứng ở không trung. Thần thông của ngài đã được tạo thành nền tảng, đã khéo được phát triển, phải chăng nó không thuộc về các khách lữ hành, mà thuộc về chư Thiên?

 

2747. Ngài đã đi đến theo đường không trung rồi đứng lại. Và ngài nói rằng: ‘Bệ hạ hãy mua cái bình.’ Ngài là ai? Cái bình này là của ai? Thưa vị Bà-la-môn, xin ngài hãy giải thích ý nghĩa ấy cho trẫm.”

 

2748. “Nó không phải là bình bơ lỏng, cũng không phải là bình dầu, không phải là bình mật đường, không phải là bình mật ong. Các điều đáng chê trách của cái bình không phải là ít. Bệ hạ hãy lắng nghe nhiều tật xấu liên quan đến cái bình.

 

2749. Người uống vào thức uống này thì có thể đi loạng choạng, có thể té ngã vào vực thẳm, hố rãnh, hang hốc, hầm phân, và nơi ô uế, thậm chí có thể ăn nhiều thức không nên ăn. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2750. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì không còn làm chủ tâm trí, tựa như con bò đi lang thang gặm cỏ; trong lúc không còn tự chủ, lại còn ve vãn ca hát, và nhảy múa. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2751. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì giống như người lõa thể, không mặc y phục, rồi đi lang thang ở những đường lộ trong làng, có tâm trí bị đần độn, và ngủ quá mức bình thường. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2752. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì sau khi đứng dậy thường khuấy động, lúc lắc đầu, và vung vẩy cánh tay. Người ấy nhảy múa tựa như hình nhân múa rối bằng gỗ. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2753. Thật vậy, những người uống vào thức uống này thì bị ngọn lửa thiêu đốt, nằm dài, rồi bị các chó rừng ăn thịt, đi đến tình trạng bị giam cầm, tử hình, và tiêu hao của cải. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2754. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì có thể nói điều không nên nói, ngồi ở cuộc hội họp không mặc y phục, tự làm cho lem luốc, đi đến ói mửa, bị suy sụp. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2755. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì kiêu ngạo, mắt bị đỏ ngầu, nghĩ rằng: ‘Toàn bộ trái đất thuộc về một mình ta, thậm chí vị vua cai trị bốn phương cũng không sánh bằng với ta.’ Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2756. (Thức uống này là vật tạo ra) ngã mạn và ngã mạn thái quá, các sự cãi cọ, các việc nói đâm thọc, các vóc dáng xấu xí, các sự lõa lồ, các sự trốn chạy, nó là đích đến, là chỗ trú của những kẻ trộm cướp, của những gã vô lại. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2757. Bị lệ thuộc vào thức uống này, nhiều người làm tiêu tan thóc lúa, tài sản, bạc vàng, ruộng vườn, trâu bò. Thức uống này là sự phá hoại đối với những gia đình có của cải. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2758. Có những gia đình giàu có, thịnh vượng, có tài sản nhiều ngàn tiền vàng ở thể gian, bị làm cho tiêu hoại phần gia tài thừa kế bởi vì thức uống này. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2759. Sau khi uống vào thức uống này, người nam như là có dáng vẻ tồi bại, mắng nhiếc cha và mẹ, và có thể cưỡng ép mẹ vợ, rồi luôn cả con dâu. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2760. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, người nữ như là có dáng vẻ tồi bại, mắng nhiếc cha chồng và chồng, và có thể cưỡng ép đầy tớ trai, luôn cả người nam hầu cận. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2761. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, người nam có thể giết hại vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn đã trú vào thiện pháp, do nguyên nhân ấy có thể đi đến cảnh giới khổ đau. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2762. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, nhiều người thực hành uế hạnh bằng thân, bằng lời, hoặc bằng ý; sau khi thực hành uế hạnh thì đi đến địa ngục. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2763. Trước đây, trong khi bỏ ra nhiều vàng rồi yêu cầu kẻ nào đó (nói dối), nhưng không thành công, kẻ ấy (giờ đây), sau khi uống thức uống ấy, liền nói điều giả dối. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2764. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, kẻ được phái đi đưa tin vào lúc có công việc cần làm khẩn cấp sanh khởi, kẻ ấy cũng không biết ý nghĩa (lời nhắn gởi) khi được hỏi đến. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2765. Ngay cả những người có tâm ý gắn bó với sự hổ thẹn, khi bị say sưa bởi chất say, cũng phô bày bản tánh không hổ thẹn. Ngay cả các bậc sáng trí, trong khi say sưa, cũng nói nhiều. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2766. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, nhiều người nằm một đống ở chỗ nằm khổ sở là nền đất cứng, không ăn uống, rồi đạt đến vóc dáng xấu xí và sự mất danh tiếng. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2767. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, nhiều người có thân hình bị đổ xuống, nằm dài, tựa như con bò bị đánh bởi cái búa tạ, bởi vì với rượu mạnh thì không còn sự mau mắn, dường như với người nam thì có sự khéo chịu đựng.

 

2768. Loài người tránh xa thức uống này như là tránh xa con rắn có nọc độc dữ dội, vậy người nam nào ở thế gian có khả năng để uống thứ nước sánh bằng với nọc độc ấy?

 

2769. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, những người con trai của Andhaka và Veṇhu, trong lúc dạo chơi ở bờ biển, đã đánh đập lẫn nhau bằng những cái chày. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.

 

2770. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, chư Thiên trong thời quá khư bị say sưa, rồi bị lìa khỏi cõi Trời Tam Thập vĩnh viễn cùng với phép thần. Tâu đại vương, trong khi biết chất say này là không có lợi ích giống như thức uống ấy, làm sao người ta có thể uống được?

 

2771. Tâu bệ hạ, trong bình này không phải là sữa đông hay mật ong, bệ hạ phải biết rõ như vậy rồi hãy mua. Này Sabbamitta, thức uống chứa đựng ở trong cái bình này, như đã được ta giải thích cho bệ hạ, đúng là như vậy và thuộc về bệ hạ.

 

2772. “Ngài không phải là cha hay là mẹ của trẫm, nhưng họ như thế nào thì ngài như thế ấy; ngài là người hữu ích và có lòng trắc ẩn, có sự ước muốn về mục đích tối thượng. Hôm nay, trẫm đây sẽ làm theo lời nói của ngài.

 

2773. Trẫm ban cho ngài ân huệ là năm ngôi làng, một trăm nữ tỳ, bảy trăm con bò cái, và mười cỗ xe kéo này đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng. Ngài hãy là thầy dạy học có lòng mong mỏi đến sự lợi ích của trẫm.”

 

2774. “Tâu bệ hạ, một trăm nữ tỳ là thuộc về chính bệ hạ, các ngôi làng và bầy bò là thuộc về chính bệ hạ, và các cỗ xe kéo đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng là thuộc về chính bệ hạ. Ta là Thiên Chủ Sakka, chúa của chư Thiên cõi Tam Thập.

 

2775. Bệ hạ hãy thọ dụng cơm thịt và cơm sữa. Bệ hạ hãy nhai bánh đậu và mật ong. Tâu vị chúa của loài người, được vui thích với thiện pháp như vậy, bệ hạ là người không bị chê trách, và sẽ đạt đến vị thế cõi trời.”

 

Bổn Sanh Cái Bình Rượu. [512]

 

***

 

3. BỔN SANH VUA JAYADDISA

 

2776. “Quả thật đã lâu lắm mới có một bữa ăn thịnh soạn sanh lên cho ta hôm nay, vào bữa ăn lần thứ bảy. Ngươi từ đâu đến? Hoặc ngươi là ai? Nào, hãy nói ra điều ấy. Hãy khai báo dòng dõi như ngươi đã được biết.”

 

2777. “Trẫm là vua xứ Pañcāla tên Jayaddisa đang đi săn thú, nếu ngươi đã được nghe tin. Trẫm lang thang ở các đầm lầy và các khu rừng. Hôm nay, ngươi hãy ăn thịt con hươu này và hãy thả trẫm ra.”

 

2778. “Trong khi bị hãm hại, ngài đánh đổi mạng sống bằng chính vật sở hữu của mình. Con hươu này sẽ là thức ăn của ta là điều ngài nói. Ta sẽ ăn ngài là vật nên ăn (trước), còn con hươu kém ngon hơn ta sẽ ăn sau. Giờ không phải là lúc nói nhảm.”

 

2779. “Không có việc trốn tránh đối với sự đánh đổi của trẫm. Trẫm ra đi rồi sau đó trở lại vào sáng sớm ngày mai. Là người bảo vệ sự chân thật, sau khi bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, trẫm sẽ quay trở lại.”

 

2780. “Này đức vua, việc gì khiến ngài lo lắng, khi ngài đã đến bên cạnh cái chết? Hãy nói việc ấy với ta, thậm chí ta có thể cho phép ngài quay lại vào sáng sớm ngày mai.”

 

2781. “Sự mong mỏi tài sản của vị Bà-la-môn đã được thực hiện bởi trẫm, và điều đã được thỏa thuận ấy còn bị vướng lại, chưa được tháo gỡ. Là người bảo vệ sự chân thật, trẫm sẽ bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi sẽ quay trở lại.”

 

2782. “Về sự mong mỏi tài sản của vị Bà-la-môn đã được thực hiện bởi ngài, và điều đã được thỏa thuận ấy còn bị vướng lại, chưa được tháo gỡ. Là người bảo vệ sự chân thật, ngài hãy bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi hãy quay trở lại.”

 

2783. Và vị vua ấy đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người. Vị có sự đeo đuổi ước muốn, sau khi di đến cung điện của mình, đã bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi đã nói với hoàng tử Alīnasatta rằng:

 

2784. “Nội trong ngày hôm nay, con hãy làm lễ đăng quang vương quyền và luật pháp ở trong các xứ sở và luôn cả ở nơi các người dân. Và con chớ có các hành động bất công trong xứ sở, trẫm sẽ đi đến nơi ở của kẻ ăn thịt người.”

 

2785. “Tâu phụ vương, con đã không làm cho phụ vương hài lòng trong khi làm công việc gì dưới quyền của phụ vương? Để rồi hôm nay phụ vương sẽ đưa con lên làm vua, con mong được nghe về điều ấy. Con không mong muốn ngay cả vương quyền, nhưng thiếu vắng phụ vương.”

 

2786. “Này con thương, vào lúc này trẫm không nhớ đến lỗi lầm gì do hành động hay do chính lời nói của con. Là người bảo vệ sự chân thật, sau khi thực hiện điều cam kết với kẻ ăn thịt người, trẫm sẽ quay trở lại.”

 

2787. “Con sẽ đi, phụ vương hãy ở lại tại nơi này. Không có sự phóng thích đối với người còn sống từ nơi kẻ ấy. Tâu phụ vương, nếu phụ vương đi, con cũng đi nữa. Hãy để cả hai không còn tồn tại.”

 

2788. “Này con thương, quả đúng thế, điều này là bản thể của các hiền nhân. Việc ấy đối với trẫm còn khổ sở hơn là cái chết, là vào lúc gã Kammāsapāda xuyên thủng con ở nơi cọc gỗ, nướng chín, rồi dùng bạo lực nhai ngấu nghiến.”

 

2789. “Con có thể trao đổi mạng sống của phụ vương bằng mạng sống (của con). Phụ vương chớ đi đến nơi ở của kẻ ăn thịt người. Và con có thể trao đổi mạng sống này cho phụ vương, vì điều ấy, con chọn cái chết cho sự sống còn (của phụ vương).”

 

2790. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã đảnh lễ hai bàn chân của mẫu hậu và phụ vương. Người mẹ, khổ đau, đã ngã quỵ xuống đất, còn người cha đã đưa hai cánh tay lên, khóc lóc.

 

2791. Cho đến lúc biết được người con ấy đang bước đi, người cha, với mặt quay hướng khác, chắp tay lên, đảnh lễ các vị: Vua Soma, Vua Varuṇa, Thần Pajāpatī, Mặt Trăng, và Mặt Trời. “Này con thương, được các vị này bảo vệ, được cho phép từ kẻ ăn thịt người, con hãy trở về bình yên.”

 

2792. “(Có câu chuyện) một người mẹ khéo được bảo vệ đã tạo ra sự bình yên cho Roma (con mình), là kẻ đã đi vào khu rừng Daṇḍaka; vậy hãy để mẹ tạo ra sự bình yên ấy cho con; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Này con trai, được cho phép, con hãy trở về bình yên.”

 

2793. “Tôi nhớ một cách chắc chắn là tôi đã không có ác ý nào đối với anh trai Alīnasatta (của tôi), dầu là lộ liễu hay kín đáo; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Này anh trai, được cho phép, anh hãy trở về bình yên.”

 

2794. “Thưa tướng công, bởi vì chàng không có ý phụ bạc thiếp, và thiếp cũng không có ý nghĩ không yêu thương chàng; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Thưa tướng công, được cho phép, tướng công hãy trở về bình yên.”

 

2795. “Ngươi cao to, ngay thẳng, có khuôn mặt khôi ngô, ngươi từ nơi nào đến? Ngươi không biết lão đang cư ngụ ở khu rừng hay sao? Sau khi biết được lão là kẻ hung bạo có biệt hiệu ‘kẻ ăn thịt người,’ người nào còn quan tâm đến sự bình yên, sao lại có thể đi đến nơi này?”

 

2796. “Này kẻ hung bạo, ta biết ngươi là kẻ ăn thịt người. Không phải ta không biết ngươi đang cư ngụ ở khu rừng. Và ta là con trai của vua Jayaddisa. Vì việc giải thoát cho người cha, nên hôm nay, ngươi hãy ăn thịt ta.”

 

2797. “Lão biết là ‘con trai’ của Jayaddisa, bởi vì khuôn mặt và vóc dáng của cả hai người các ngươi là giống nhau. Việc đã làm này của ngươi quả là việc làm vô cùng khó khăn, là một người có thể chấp nhận cái chết vì việc giải thoát cho người cha.”

 

2798. “Ta nghĩ rằng bất cứ việc gì ở đây không phải là việc khó làm, là một người có thể chấp nhận cái chết vì việc giải thoát cho người cha và vì nguyên nhân của người mẹ, (người ấy) sau khi đi đến thế giới khác, sẽ đạt được hạnh phúc và cõi Trời.

 

2799. Và thật vậy, ta nhớ một cách chắc chắn rằng bản thân ta không có bất cứ hành động xấu xa nào, dầu là lộ liễu hay kín đáo. Ta bị tạo tác bởi sanh và tử. Ở kiếp này, của ta là như thế nào thì ở kiếp sau sẽ là như vậy.

 

2800. Này lão có đại năng lực, lão hãy ăn thịt ta ngày hôm nay, vào lúc này. Lão hãy làm các việc cần phải làm với thân xác này. Hay là ta rơi xuống từ chóp đỉnh của thân cây cho lão. Trong khi hứng thú, lão hãy ăn phần thịt của ta.”

 

2801. “Này hoàng tử, và việc này được ngươi ưa thích. Ngươi từ bỏ mạng sống vì việc giải thoát cho người cha. Vì thế, ở đây ngươi có vẻ gấp gáp. Ngươi hãy bẻ gãy các nhánh củi rồi đốt lên ngọn lửa.”

 

2802. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã gom lại các khúc gỗ và đốt cháy ngọn lửa lớn, rồi đã thông báo rằng: ‘Bây giờ, ngọn lửa lớn này đã được đốt cháy.’

 

2803. “Lão hãy ăn thịt ta ngày hôm nay, vào lúc này, bằng hành động bạo lực. Việc gì mà lão lén nhìn ta, (sửng sốt) có lông dựng đứng? Ta làm cho lão thế này thế nọ để cho lão hứng thú ăn thịt ta.”

 

2804. “Ai xứng đáng để ăn thịt người vững vàng về đạo đức, có lời nói chân thật, rộng lượng như thế ấy? Kẻ nào ăn thịt người có lời nói chân thật như thế ấy, thậm chí cái đầu của kẻ ấy cũng có thể vỡ tan thành bảy mảnh.”

 

2805. “Trong khi nghĩ rằng: ‘Người này là Bà-la-môn,’ con thỏ ấy đã quyết định bố thí thân thể của mình; chính vì thế, vị Thiên tử Mặt Trăng ấy, được ngợi khen về (hình bóng) con thỏ, ngày nay là vị Dạ-xoa có nguồn ban phát các điều mong muốn.”

 

2806. “Giống như mặt trăng được thoát khỏi miệng của thần Rāhu (nguyệt thực) chiếu sáng vào ngày rằm, tựa như mặt trời, tương tự như vậy, này vị hoàng tử có đại năng lực, được thoát khỏi kẻ ăn thịt người, ngài hãy chiếu sáng xứ sở Kampilla. Trong lúc làm cha và mẹ hoan hỷ, ngài hãy để cho toàn bộ nhóm thân quyến của ngài vui mừng.”

 

2807. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã chắp tay lại, đi vòng quanh kẻ ăn thịt người. Được cho phép, hoàng tử Alīnasatta đã trở về lại thành Kampilla bình yên, hạnh phúc, khỏe mạnh.

 

2808. Tất cả các thị dân và dân chúng cỡi ngựa, đi xe, và đi bộ, đã đến gần vị hoàng tử ấy, chắp tay, bày tỏ sự tôn kính: ‘Kính lễ đến ngài. Ngài là người làm công việc khó khăn.’”

 

Bổn Sanh Vua Jayaddisa. [513]

 

***

 

4. BỔN SANH VOI CHÚA CHADDANTA

 

2808. “Này cô nàng có cơ thể tựa như vàng, vì sao nàng sầu muộn? Này cô nàng có sắc đẹp cao quý, vì sao nàng có vẻ xanh xao? Này cô nàng có đôi mắt to, vì sao nàng bị héo hon, tựa như lẵng hoa bị vày vò?”

 

2809. “Tâu đại vương, thiếp có sự khao khát. Nó đến trong giấc mơ. Sự khao khát như thế ấy của thiếp dường như có vẻ không dễ dàng đạt được.”

 

2810. “Bất kỳ những dục vọng nào thuộc về nhân loại ở thế gian này, tất cả các điều ấy đều dồi dào đối với trẫm. Trẫm sẽ ban cho nàng điều khao khát ấy.”

 

2811. “Tâu bệ hạ, hãy cho tập hợp các thợ săn lại, bất kỳ những ai đang ở trong lãnh địa của bệ hạ. Thiếp sẽ nói cho những người ấy điều khao khát của thiếp là như thế nào.”

 

2813. “Này ái hậu, những người thợ săn này là thuộc về nàng. Họ đã khéo được rèn luyện, tự tin, hiểu biết về rừng và các loài thú, có mạng sống đã được buông bỏ cho mục đích của trẫm.”

 

2814. “Hỡi các thợ săn trai trẻ đã đến tụ hội ở nơi này, các người hãy chú tâm lắng nghe. Bổn cung đã nhìn thấy con voi sáu ngà màu trắng ở trong giấc mơ. Bổn cung có nhu cầu với những cái ngà của nó; nếu không đạt được thì không sống nổi.”

 

2815. “Tâu lệnh bà, các người cha, các người ông của chúng tôi còn chưa được thấy, chưa được nghe về con voi có sáu ngà. Xin lệnh bà hãy nói rõ cho chúng tôi về con long tượng mà lệnh bà đã nhìn thấy trong giấc mơ là như thế nào.

 

2816. Bốn hướng chánh, bốn hướng phụ, hướng trên, hướng dưới, trong mười hướng này, con long tượng mà lệnh bà đã nhìn thấy trong giấc mơ đứng ở hướng nào?”

 

2817. “Từ nơi này, thẳng lên hướng bắc, sau khi vượt qua bảy ngọn núi khổng lồ; (trong số đó) ngọn núi nổi bậc ấy có tên là Suvaṇṇapassa (Sườn Núi Vàng), được khéo nở rộ hoa, được lai vãng bởi loài nhân điểu.

 

2818. Sau khi trèo lên tảng núi đá là chỗ ngụ của các nhân điểu, ngươi hãy nhìn xuống khu vực ở chân núi, và ngươi sẽ nhìn thấy một cây đa chúa, với gốc có tám ngàn cành, có hình dáng giống như đám mây.

 

2819. Con voi sáu ngà trú ẩn tại nơi ấy. Nó có toàn thân màu trắng, khó bị khuất phục bởi những con voi khác. Tám ngàn con voi bảo vệ nó. Chúng có ngà như cán cày, có cú đánh với tốc độ của gió.

 

2820. Chúng đứng, thở ra một cách ồn ào. Chúng giận dữ, thậm chí đối với làn gió bị xao động. Hơn nữa, sau khi nhìn thấy bóng dáng con người ở nơi ấy, chúng có thể làm thành tro, thậm chí hạt bụi của con người cũng không được.”

 

2821. “Tâu lệnh bà, có quá nhiều các thứ này ở hoàng gia, các đồ trang sức thuộc về vàng, các ngọc trai, các ngọc ma-ni, và các vật làm bằng ngọc bích. Với ước muốn giết chết con voi sáu ngà, lệnh bà sẽ làm gì với đồ trang sức bằng ngà voi? Hay là lệnh bà sẽ giết hại các thợ săn trai trẻ?”

 

2822. “Này thợ săn, bổn cung đây bị ganh ghét, khổ đau. Và ta bị héo hon trong khi nhớ về quá khứ. Này thợ săn, ngươi hãy làm việc ấy cho bổn cung. Bổn cung sẽ ban cho ngươi ân huệ là năm ngôi làng.”

 

2823. “Nó trú ở đâu? Nó đi đến chỗ đứng ở đâu? Lối đi nào của nó khi đi tắm? Con voi chúa ấy tắm như thế nào? Làm thế nào chúng thần có thể biết được đường lối đi lại của con voi?”

 

2824. “Ngay tại nơi đó, hồ sen (Chaddanta) ấy ở không xa, đáng yêu, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước, được nở rộ nhiều hoa, được lai vãng bởi các bầy ong. Chính nơi này, con voi chúa ấy tắm.

 

2825. Khi đã tắm xong cái đầu, con voi đội lên vòng hoa sen xanh, toàn thân có màu trắng, với các phần thân thể và làn da tựa như hoa sen trắng. Trong lúc vui thích, con voi đi về nơi trú ngụ của mình, dẫn đầu là voi chánh hậu Sabbabhaddā.

 

2826. Ngay tại nơi ấy, sau khi đã nắm vững lời dặn, gã thợ săn ấy đã cầm lấy túi tên và cây cung. Gã ấy đã vượt qua bảy ngọn núi lớn khổng lồ, (trong số đó) ngọn núi nổi bậc có tên là Suvaṇṇapassa (Sườn Núi Vàng).

 

2827. Sau khi trèo lên tảng núi đá là chỗ ngụ của các nhân điểu, gã đã nhìn xuống khu vực ở chân núi, và đã nhìn thấy tại nơi ấy một cây đa chúa, với gốc có tám ngàn cành, có hình dáng giống như đám mây.

 

2828. Gã đã nhìn thấy tại nơi ấy con voi sáu ngà có toàn thân màu trắng, khó bị khuất phục bởi những con voi khác. Tám ngàn con voi bảo vệ nó. Chúng có ngà như cán cày, có cú đánh với tốc độ của gió.

 

2829. Gã đã nhìn thấy tại nơi ấy hồ sen (Chaddanta) ở không xa, đáng yêu, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước, được nở rộ nhiều hoa, được lai vãng bởi các bầy ong. Chính nơi này, con voi chúa ấy tắm.

 

2830. Sau khi nhìn thấy đường lối đi lại và chỗ đứng của con voi, gã thợ săn, với bộ dạng không thánh thiện, bị gắn bó theo mãnh lực tâm (của hoàng hậu), đã thực hiện một cạm bẫy ở lối đi của con voi khi nó đi tắm.

 

2831. Sau khi đào một cái hố và che đậy bằng các tấm ván, gã thợ săn đã ẩn mình và cây cung (ở trong cái hố), rồi đã xuyên thủng con voi ở bên hông bằng mũi tên lớn; gã là kẻ đã tạo nghiệp ác hạnh.

 

2832. Và con voi bị xuyên thủng đã kêu tiếng rống ghê rợn. Toàn bộ tất cả các con voi đã rống đáp lại với hình thức ghê rợn. Chúng đã chạy theo tám hướng ở xung quanh, làm cho lá cỏ và cây cối bị nát vụn.

 

2833. (Nghĩ rằng): ‘Ta sẽ giết chết kẻ này,’ trong lúc chạm vào (gã thợ săn), con voi đã nhìn thấy tấm vải màu ca-sa, biểu hiệu của các ẩn sĩ. Sự nhận biết đã sanh khởi đến con voi bị xúc chạm bởi khổ đau rằng: ‘Biểu hiệu của các bậc A-la-hán, theo các bậc sáng suốt, là không được xâm phạm.’

 

2834. Kẻ nào có uế trược chưa lìa, sẽ khoác lên tấm vải ca-sa, (mà) bỏ bê việc rèn luyện và sự chân thật, kẻ ấy không xứng với y ca-sa.

 

2835. Còn vị nào có uế trược đã được tẩy trừ, khéo định tĩnh trong các giới, gắn bó với việc rèn luyện và chân thật, người ấy quả nhiên xứng với y ca-sa.

 

2836. Bị mũi tên lớn đâm vào, con voi, với tâm không sân hận, đã nói với gã thợ săn rằng: “Này bạn, bạn đang ước nguyện điều gì? Cái chết của ta là vì nguyên nhân gì? Kế hoạch này là của ai?”

 

2837. “Thưa ngài, chánh hậu của đức vua xứ Kāsi, nàng Subhaddā ấy được tôn vinh ở gia đình hoàng tộc. Bà ấy đã nhìn thấy ngài và đã giải thích cho tôi, rồi đã nói với tôi rằng: ‘Có nhu cầu với những cái ngà.’”

 

2838. “Các cặp ngà cao quý này của các cha ông của ta là rất nhiều. Bà hoàng hậu ấy biết, nhưng vì sân hận, ngu dốt, có ý định giết hại, nên đã gây ra việc thù hằn.

 

2839. Này thợ săn, ngươi hãy đứng lên, rồi cầm lấy cái cưa, và hãy cắt những cái ngà này trước khi ta chết. Ngươi có thể nói với hoàng hậu về sự sân hận ấy rằng: ‘Con voi đã chết. Còn đây là những cái ngà của nó.’”

 

2840. Gã thợ săn ấy đã đứng lên, rồi cầm lấy cái cưa, và cắt những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng, sau đó, cầm lấy chúng rồi vội vã rời khỏi nơi ấy.

 

2841. Bị hốt hoảng bởi nỗi sợ hãi, bị khổ đau bởi cái chết của con voi chúa, các con voi ấy đã chạy tản mác tám phương. Sau khi không nhìn thấy con người thù địch của loài voi, chúng quay trở lại nơi con voi chúa ấy.

 

2842. Các con voi ấy than van, khóc lóc tại nơi ấy. Sau khi rắc bụi tro xuống ở trên đầu của mình, tất cả các con voi ấy đã đi về chỗ trú ngụ của mình, dẫn đầu là voi chánh hậu Sabbabhaddā.

 

2843. Sau khi cầm lấy những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng; chúng chiếu sáng ở xung quanh với những tia sáng màu hoàng kim. Gã thợ săn ấy đã đi đến thành Kāsi. Gã ấy đã dâng các cái ngà đến vị hoàng hậu (tâu rằng): ‘Con voi đã chết. Còn đây là những cái ngà của nó.’

 

2844. Sau khi nhìn thấy những cái ngà của con voi tối thượng, của người chồng yêu quý trong kiếp sống trước. Ngay tại nơi ấy, trái tim của nàng ấy đã vỡ tan. Chính vì điều ấy, người đàn bà ngu si ấy đã từ trần.

 

2845. Và bậc đã đạt đến quả vị Toàn Giác, có đại thần lực, đã nở nụ cười ở giữa hội chúng. Các vị tỳ khưu có tâm khéo được giải thoát đã thắc mắc rằng: “Chư Phật biểu lộ (nụ cười) không phải không có nguyên nhân.”

 

2846. “Người thiếu nữ trẻ tuổi khoác tấm vải màu ca-sa đang sống không nhà mà các ngươi nhìn thấy, vào lúc bấy giờ, nàng ấy đã là công chúa (sau trở thành chánh hậu), còn Ta khi ấy đã là con voi chúa.

 

2847. Gã thợ săn, sau khi cầm lấy những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng, rồi đã đi đến thành Kāsi, lúc bấy giờ, Devadatta đã là gã ấy.”

 

2848. Là bậc đã xa lìa sự lo lắng, bậc đã xa lìa sự sầu muộn, bậc không còn mũi tên, đức Phật, sau khi tự mình biết rõ, đã nói về hạnh kiểm cao thượng và thấp hèn này trong thời quá khứ đã được trải qua thời gian dài lâu, nhưng còn chưa phai nhạt.

 

2849. Này các tỳ khưu, vào lúc ấy, Ta đã ở nơi ấy (hồ nước Chaddanta). Khi ấy, Ta đã là con voi chúa. Các ngươi hãy ghi nhớ chuyện Bổn Sanh như thế ấy.

 

Bổn Sanh Voi Chúa Chaddanta. [514]

 

***

 

5. BỔN SANH BẬC TRÍ SAMBHAVA

 

2850. “Này khanh Sucīrata, chúng ta đã đạt được vương quốc và quyền thống trị. Trẫm muốn đạt đến bản thể vĩ đại để cai quản trái đất này–

 

2851. –bằng công lý không phải bằng phi công lý; phi công lý không hứng thú đối với trẫm. Này Sucīrata, công lý được thực hành chính là việc cần phải làm của vị vua.

 

2852. Và nhờ thế, chúng ta không bị chê bai ở đời này; nhờ thế, chúng ta không bị chê bai ở đời sau; này Bà-la-môn, nhờ thế, chúng ta có thể đạt được danh tiếng ở chư Thiên và nhân loại.

 

2853. Này Bà-la-môn, trẫm đây mong muốn thực hiện phúc lợi và công lý. Này Bà-la-môn, được hỏi, khanh hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2854. “Tâu bệ hạ, về việc bệ hạ mong muốn tạo ra phúc lợi và công lý, tâu vị Sát-đế-lỵ, không có ai ngoại trừ Vidhura có khả năng nói về điều ấy.”

 

2855. “Này Sucīrata, được ủy nhiệm, khanh hãy đi đến khu vực của Vidhura. Khanh hãy đi mang theo tấm lắc vàng ròng. Khanh nên trao quà biếu này vì lời giáo huấn về phúc lợi và công lý.

 

2856. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Vidhura và đã nhìn thấy vị ấy đang thọ thực ở nhà của mình.

 

2857. “Tôi là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Vidhura, được hỏi, ông hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2858. “Thưa vị Bà-la-môn, nhiều công việc ngăn cản tôi. Tôi không thể ngăn chặn con sông lớn Sindhu được, làm thế nào sẽ có cơ hội cho việc ấy? Dầu được hỏi, tôi không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.

 

2859. Này vị Bà-la-môn, Bhadrakāra là con trai của tôi, là đứa con trai ruột được tôi nuôi lớn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2860. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Bhadrakāra, và đã nhìn thấy vị ấy đang ngồi ở chỗ cư ngụ của mình.

 

2861. “Ta là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Bhadrakāra, con hãy giải thích cho ta về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2862. “Sau khi bỏ xuống một gánh thịt, con lại đeo đuổi con kỳ đà.[1] Dầu được hỏi, con không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.

 

[1] Theo lời giải thích của Chú Giải, Bhadrakāra bỏ bê vợ nhà và đeo đuổi người phụ nữ thuộc quyền bảo hộ của người khác (JaA. v, 61).

 

2863. Thưa ông Sucīrata, Sañjaya là người em trai của con. Thưa vị Bà-la-môn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2864. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Sañjaya, và đã nhìn thấy vị ấy đang ngồi ở chỗ cư ngụ của mình.

 

2865. “Ta là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Sañjaya, được hỏi, con hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2866. “Thưa ông Sucīrata, cái chết luôn luôn nuốt lấy con vào buổi tối và buổi sáng. Dầu được hỏi, con không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.

 

2867. Thưa ông Sucīrata, Sambhava là người em trai của con. Thưa vị Bà-la-môn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2868. “Con ơi, câu hỏi quả thật là phi thường! Điều này không làm cho chúng ta ưa thích. Ba người gồm có người cha và hai người con trai, họ không hiểu được bằng trí tuệ.

 

2869. Dầu được hỏi, họ không thể nói về phúc lợi và công lý ấy. Vậy làm thế nào đứa trẻ con có thể biết về phúc lợi và công lý, khi được hỏi?”

 

2870. “Xin ngài chớ xem thường em, (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

 

2871. Cũng giống như mặt trăng (tròn), trong ngần, đang di chuyển ở hư không giới, nó vượt trội tất cả các quần thể tinh tú ở thế gian về ánh sáng.

 

2872. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

 

2873. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như tháng Rammaka thuộc mùa nắng là vượt trội các tháng khác; nó rực rỡ với những bông hoa của các loại cây.

 

2874. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

 

2875. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như ngọn núi tuyết Gandhamādana được bao phủ bởi nhiều loại cây khác nhau, là nơi trú ngụ của tập thể chư Thiên. Với các loại thảo dược của cõi Trời, nó chói sáng và tỏa hương đi khắp các phương.

 

2876. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

 

2877. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như trận hỏa hoạn với nhiều ngọn lửa, có sức nóng, trong lúc đốt cháy, nó di chuyển ở khu rừng, không hề thỏa mãn, tạo thành vệt dài đen thui (nơi nào nó đi qua).

 

2878. Ngọn lửa tế thần (cháy bằng bơ lỏng), có cột khói là biểu hiệu, đốt cháy khu rừng loại tốt nhất. Với nhiều nhiên liệu, nó rực sáng trong đêm tối ở trên đỉnh ngọn núi.

 

2879. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

 

2880. Người ta biết được ngựa tốt bởi tốc độ, và con bò đực trong việc kéo nặng. Người ta biết được bò sữa do việc vắt sữa, và bậc sáng suốt trong khi vị ấy nói.

 

2881. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

 

2882. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Sambhava, và đã nhìn thấy vị ấy đang đùa giỡn ở bên ngoài thành phố.

 

2883. “Tôi là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Sambhava, được hỏi, em hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

 

2884. “Chắc chắn rồi, vị thiện xảo sẽ nói như thế nào thì con cũng sẽ nói với ông như thế ấy. Và đức vua, đương nhiên hiểu được điều ấy, tuy nhiên đức vua sẽ làm hay không làm (không phải là lỗi của con).

 

2885. Thưa ông Sucīrata, khi được đức vua hỏi: ‘Có người tuyên bố chuyện hôm nay hãy để ngày mai,’ (thì nên nói rằng): ‘Khi lợi ích sanh khởi, đức vua Yudhiṭṭhila không nên thực hành và sống như vậy.’

 

2886. Thưa ông Sucīrata, khi được đức vua hỏi: ‘Có người tuyên bố chỉ có bản ngã,’ (thì nên nói rằng): ‘Không nên đi vào con đường sai trái, giống như kẻ ngu si không có tâm tư.’

 

2887. Không nên vượt qua bản thân, không nên thọ trì phi pháp, không nên dẫn đến nơi không phải bến đỗ (dẫn đến 62 tà kiến), không nên gắn bó ở điều không có lợi ích.

 

2888. Và vị Sát- đế- lỵ nào biết thực hiện các công việc này, vị vua ấy luôn luôn lớn mạnh, tựa như mặt trăng vào thượng tuần.

 

2889. Và người có trí tuệ được yêu quý trong số các thân quyến, và sáng chói ở giữa bạn bè; do sự hoại rã của thân, vị ấy sẽ tái sanh vào cõi Trời.”

 

Bổn Sanh Bậc Trí Sambhava. [515]

 

***

 

6. BỔN SANH CON KHỈ VĨ ĐẠI

 

2890. Đức vua của xứ Kāsi ngụ ở thành Bārāṇasī là bậc làm hưng thịnh đất nước. Được tháp tùng bởi các thân hữu và các viên quan đại thần, đức vua đã đi đến vườn hoa Migājira.

 

2891. Tại nơi ấy, đức vua đã nhìn thấy một vị Bà-la-môn bị bệnh cùi, (làn da) có lốm đốm màu trắng, có vết thương bị lở loét tựa như bông hoa koviḷāra, (có thân thể) gầy ốm, nổi đầy gân.

 

2892. Sau khi nhìn thấy người đàn ông bị lâm cảnh khó khăn, đã đạt đến trạng thái bi thương tột độ, đức vua bị sửng sốt, đã nói rằng: “Ngươi là loại nào trong số các Dạ-xoa?

 

2893. Các tay chân của ngươi màu trắng, và đầu còn trắng hơn thế nữa. Thân thể của ngươi có làn da lốm đốm. Ngươi sống với nhiều bệnh ngoài da.

 

2894. (Xương sống) lưng của ngươi lồi lên lõm xuống giống như một chuỗi gồm các trục quay. Tay chân của ngươi tựa như các khúc dây leo màu đen. Trẫm chưa thấy người nào khác giống như thế này.

 

2895. Ngươi có bàn chân bị rách tươm, run rẩy, gầy ốm, nổi đầy gân, đói khát, có dáng vẻ cằn cỗi. Ngươi từ đâu đến? Ngươi đi về đâu?

 

2896. Ngươi có bộ dạng xấu xí, không được bình thường, xấu tướng, có hình dáng ghê rợn. Thậm chí mẹ của ngươi, là người sanh ra ngươi, cũng không muốn nhìn thấy ngươi.

 

2897. Ngươi đã tạo nghiệp gì trước đây? Có phải ngươi đã giết người vô tội, và sau khi gây ra tội ác ấy, ngươi đã đi đến sự khổ đau này?”

 

2898. “Chắc chắn rồi, vị thiện xảo nói như thế nào thì thần cũng sẽ nói với bệ hạ như thế ấy. Bởi vì, các bậc sáng suốt ở thế gian này khen ngợi người có lời nói chân thật.

 

2899. Trong khi một mình lang thang cho việc tìm kiếm các con trâu, thần bị lạc lối và đã đi vào quá sâu trong khu rừng, không người lai vãng, nơi hoang vu, vắng vẻ, được vô số con voi lai vãng.

 

2900. Thần đã bị lạc mất phương hướng ở trong khu rừng rậm, nơi các loài thú dữ thường lui tới. Thần đã lang thang ở nơi ấy bảy ngày, phải chịu đựng đói khát.

 

2901. Tại nơi ấy, bị đói vô cùng, thần đã nhìn thấy cây tinduka mọc chênh vênh, mang nặng những trái ngon ngọt đang treo lủng lẳng ở bên vực thẳm.

 

2902. Thần đã ăn những trái bị rụng xuống bởi gió, chúng đã làm cho thần hứng thú rất nhiều. Chưa được thỏa mãn, (thần đã nghĩ rằng): ‘Sau khi trèo lên cây, ta sẽ được ăn ở trên đó.’

 

2903. Thần đã ăn được một trái, và (với tay ra) mong được trái thứ hai. Do đó, cành cây ấy đã gãy lìa, tựa như bị chặt đứt bởi cái rìu.

 

2904. Thần đây cùng với các cành cây, chân phía trên đầu phía dưới, đã rơi xuống khe núi hiểm trở, không đứng lên được, không nơi bám víu.

 

2905. Và bởi vì độ sâu của nước nên thần đã không làm gì được. Thần đã nằm ở nơi ấy mười đêm, không chút vui thích, không gì nương tựa.

 

2906. Rồi có con khỉ đã đi đến nơi này, là loài khỉ có đuôi dài như đuôi bò, sống ở hang động. Nó di chuyển từ cành này sang các cành khác và ăn trái cây.

 

2907. Nhìn thấy thần gầy ốm, vàng vọt, con khỉ đã có lòng thương xót đến thần (nói rằng): ‘Này ông, ông đây là ai mà phải bị hành hạ một cách khổ sở như vầy? Ông là người hay là phi nhân? Ông hãy cho tôi biết về bản thân.’

 

2908. Sau khi cúi mình chắp tay với nó, thần đã nói lời nói này: ‘Ta là người, ta bị lâm cảnh khốn cùng. Lối đi ra khỏi nơi này không có cho ta. Ta nói điều ấy cho ngươi. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho ngươi. Và ngươi hãy là nơi nương nhờ cho ta.’

 

2909. Trong khi di chuyển ở ngọn núi, con khỉ đã chọn lấy một tảng đã lớn. Sau khi thực hiện việc tính toán với tảng đá, con khỉ lực lưỡng đã nói điều này:

 

2910. ‘Ông hãy đến, hãy leo lên lưng tôi và hãy ôm cổ tôi bằng hai cánh tay, tôi sẽ mang ông lên khỏi khe núi hiểm trở một cách mau chóng.’

 

2911. Nghe được lời nói ấy của con khỉ chúa có sự vinh quang ấy, thần đã leo lên lưng của con khỉ sáng suốt và đã ôm cổ nó bằng hai cánh tay.

 

2912. Con khỉ có năng lực và có sức mạnh ấy, trong lúc bị mệt nhọc bởi sự khó khăn, đã nhanh chóng đưa thần lên khỏi khe núi hiểm trở.

 

2913. Sau khi mang thần lên, bị kiệt sức, con khỉ lực lưỡng đã nói điều này: ‘Nào, ông hãy bảo vệ tôi cẩn thận, tôi sẽ ngủ trong chốc lát.

 

2914. Các con sư tử, các con cọp, các con báo, và các con gấu, chó sói, và chó rừng, chúng có thể hãm hại tôi khi tôi đã ngủ say. Ông hãy trông chừng và ngăn chặn chúng.’

 

2915. Sau khi đã tạo sự hộ trì bởi thần như vậy, con khỉ ấy đã ngủ trong chốc lát. Khi ấy, thần đã có ý nghĩ xấu xa, không đúng đắn rằng:

 

2916. ‘Đây là thức ăn của loài người, giống như các con thú khác ở trong rừng. Bị đói lả, có lẽ ta nên giết chết và ăn thịt con khỉ này.

 

2917. Và khi đã ăn no, ta sẽ ra đi mang theo thịt làm thức ăn dự phòng. Ta sẽ đi ra khỏi khu rừng hoang. Sẽ có thực phẩm đi đường cho ta.’

 

2918. Sau đó, thần đã cầm lấy tảng đá và đã đánh vào đầu (con khỉ). Trong khi mệt nhọc vì (thiếu) thức ăn, cú đánh của thần đã là yếu ớt.

 

2919. Và con khỉ ấy đã mau chóng đứng lên, đầm đìa máu me. Với hai con mắt đẫm lệ, nó ngước nhìn thần, than khóc rằng:

 

2920. ‘Thưa tôn ông, ông chớ làm vậy với tôi. Ông đây đã làm cái việc như thế này! Và thật vậy, ông đây lại có thể ngăn chặn người khác về tuổi thọ!

 

2921. Ôi, thật vậy sao, hỡi gã đàn ông! Hỡi kẻ làm công việc khó làm đến chừng này! Ông đã được tôi mang lên từ vực thẳm hiểm trở, chênh vênh như thế ấy!

 

2922. Kẻ đã được đem về từ nơi được ví như thế giới bên kia đã tưởng rằng tôi là có thể phản bội. Việc ác ấy được suy nghĩ bởi kẻ ác có pháp ác ấy.

 

2923. Này kẻ sống theo phi pháp, mong rằng ngươi chớ có gánh chịu cảm thọ cay đắng, chớ có giống như kẻ gánh chịu ác nghiệp ấy, tương tự như trái ở cây tre đã hại chết cây tre ấy.

 

2924. Không còn sự tin tưởng của ta ở nơi ngươi nữa, này kẻ có ác pháp không được chế ngự. Ngươi hãy đến, hãy đi ở phía sau lưng của ta, sao cho ngươi còn được nhìn thấy ở khoảng cách không xa.

 

2925. Ngươi đã được thoát khỏi tầm tay của các dã thú, ngươi đã đạt đến dấu vết của loài người. Này kẻ sống theo phi pháp, đây là con đường, ngươi hãy đi theo lối đó một cách thoải mái.’

 

2926. Nói xong điều này, con khỉ đã rửa sạch cái đầu đẫm máu. Sau khi lau sạch những giọt nước mắt, nó đã từ nơi ấy leo lên ngọn núi.

 

2927. Thần đây bị con khỉ ghét bỏ, bị hành hạ bởi cơn sốt, với thân thể bị đốt nóng, thần đã đi đến gần (hồ nước) để uống nước.

 

2928. Hồ nước, giống như bị thiêu đốt bởi ngọn lửa, trở thành bị lấm lem bởi máu. Tất cả, đối với thần, đã trở nên như là mủ và máu.

 

2929. Có bao nhiêu giọt nước đã rơi xuống thân thể của thần, thì có bấy nhiêu mụt nhọt đã sanh lên, có kích thước bằng một nửa trái cây beḷuva.

 

2930. Bị vỡ ra, các mụt nhọt rỉ ra máu mủ từ thân thể hôi thối của thần. Thần đi đến con đường nào, ở các thôn làng và ở các thị thành–

 

2931. –bị tràn ngập bởi mùi hôi thối, những người đàn bà và đàn ông, tay cầm gậy gộc, ngăn chận thần lại (nói rằng): ‘Chớ đến gần phía chúng tôi.’

 

2932. Nỗi khổ đau như thế này của thần đến nay đã bảy năm. Thần chịu đựng nghiệp của mình, là việc đã làm sai trái của bản thân trước đây.

 

2933. Tôi nói điều ấy cho quý vị. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho quý vị, hết thảy những người đã tụ hội ở đây. Các vị chớ có phản bội các bạn bè, bởi vì việc phản bội bạn bè là xấu xa.

 

2934. Người nào phản bội các bạn bè ở đời này sẽ trở thành kẻ bị cùi, bị ghẻ lở, d0 sự hoại rã của thân, kẻ phản bội bạn bè ấy sẽ tái sanh ở địa ngục.”

 

Bổn sanh Con Khỉ Vĩ Đại. [516]

 

***

 

7. CÂU HỎI CỦA THỦY THẦN

 

2935. “Nếu trong lúc tìm kiếm vật hiến tế là con người, quỷ thần sẽ bắt giữ chiếc tàu gồm bảy người của bệ hạ đang lênh đênh ở biển cả, thì bệ hạ sẽ hiến dâng và trao cho thủy thần theo thứ tự như thế nào?”

 

2936. “Trẫm sẽ hiến dâng mẫu hậu trước tiên, rồi hiến dâng hoàng hậu, đến em trai, kế đó hiến dâng người cộng sự, và thứ năm sẽ hiến dâng vị Bà-la-môn, thứ sáu trẫm sẽ hiến dâng bản thân, và sẽ không bao giờ hiến dâng vị Mahosadha.”

 

2937. “Mẫu hậu là người nuôi dưỡng, là người sanh ra, và là người có lòng thương xót đến bệ hạ trong thời gian dài lâu. Khi bệ hạ bị Chambhī hãm hại, mẫu hậu là người sáng suốt, quan tâm đến lợi ích, đã tạo ra người khác giống như bệ hạ để thế chỗ, và đã giúp cho bệ hạ thoát khỏi cái chết.

 

2938. Người phụ nữ như thế ấy đã ban cho mạng sống, đã mang nặng bào thai, đã bồng ẵm bệ hạ, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng mẫu hậu cho thủy thần?”

 

2939. “Mẫu hậu đeo đồ trang điểm và vật trang sức như là còn con gái. Bà cười lớn tiếng và quá lố, nhạo báng các quân gác cổng và các lính ngự lâm.

 

2940. Kế đó, bà còn dạy bảo các sứ giả của mình đi gặp các vị vua đối nghịch. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng mẫu hậu cho thủy thần.”

 

2941. “Hoàng hậu là người nữ cao quý trong toán nữ nhân, có giọng nói vô cùng đáng yêu, không làm bộ quý phái, có giới hạnh, không xa cách, tựa như cái bóng,–

 

2942. –không giận dữ, có trí tuệ, là người sáng suốt, quan tâm đến lợi ích, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng hoàng hậu cho thủy thần?”

 

2943. “Biết trẫm say đắm với các việc vui đùa cùng những sự thích thú và chịu sự tác động của các trò vô bổ, hoàng hậu cầu xin trẫm phần tài sản thuộc về các người con của trẫm, không thể cho được.

 

2944. Bị luyến ái, trẫm đây ban cho hoàng hậu nhiều tài sản cao thấp khác nhau. Sau khi từ bỏ vật rất khó từ bỏ, về sau trẫm sầu muộn, buồn bã. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng hoàng hậu cho thủy thần.”

 

2945. “Nhờ vào người em trai mà dân chúng được tập hợp lại rồi được đưa về nhà, và nhiều tài sản sau khi chiến thắng được mang lại từ các vương quốc khác.

 

2946. Chàng dũng sĩ Tikhiṇamanti là tuyệt vời trong số các cung thủ, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng em trai cho thủy thần?”

 

2947. “‘Nhờ vào ta mà dân chúng được tập hợp lại rồi được đưa về nhà, và nhiều tài sản sau khi chiến thắng được mang lại từ các vương quốc khác.

 

2948. Ta là dũng sĩ Tikhiṇamanti là tuyệt vời trong số các cung thủ. Nhờ vào ta mà vị vua này được sung sướng,’ chàng trai trẻ tự hào như thế.

 

2949. Thưa nữ ẩn sĩ, thậm chí vị ấy không đi đến hầu cận trẫm giống như trước đây. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng em trai cho thủy thần.”

 

2950. “Cả hai người, bệ hạ và Dhanusekhavā, đã được sanh ra cùng một đêm. Cả hai đã được sanh ra ở nơi này, đều là người xứ Pañcāla, là cộng sự, là đồng niên tốt.

 

2951. Vị ấy đã đi theo bệ hạ trong các cuộc du hành, có chung sự vui khổ với bệ hạ, siêng năng, gắn bó ngày đêm với bệ hạ trong mọi công việc; vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng người cộng sự cho thủy thần?”

 

2952. “Thưa nữ ẩn sĩ, vị này đã cười lớn tiếng cùng với trẫm trong cuộc du hành, thậm chí hôm nay, cũng với cung cách đó cười lớn tiếng và quá lố.

 

2953. Thưa nữ ẩn sĩ, ngay cả khi trẫm bàn bạc với hoàng hậu ở nơi kín đáo, vị này, không được triệu mời, cũng đi vào không thông báo trước.

 

2954. Với dịp may đã đạt được, với cơ hội đã được tạo ra, vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng người cộng sự vô liêm sỉ, bất kính cho thủy thần.”

 

2955. “Vị Bà-la-môn là thiện xảo về mọi điềm báo hiệu, biết giải thích về tiếng kêu (của các loài thú), có học thức được truyền thừa, chuyên chú về thiên văn, giải mộng, sự di chuyển đi và đến của các tinh tú,–

 

2956. –là người thông thạo về trái đất và không gian, rành rẽ về các chòm sao, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng vị Bà-la-môn cho thủy thần?”

 

2957. “Thưa nữ ẩn sĩ, thậm chí trong buổi họp, vị này mở mắt nhìn thẳng vào trẫm. Vì thế, hôm nay trẫm sẽ hiến dâng kẻ nhướng mày, dữ tợn cho thủy thần.”

 

2958. “Được phò tá bởi các cận thần, bệ hạ cư ngụ trên phần đất có đại dương là vòng rào, có biển cả là vành đai, ở quả địa cầu.

 

2959. Có đất nước rộng lớn gồm cả bốn phương, bệ hạ là người thắng trận, có sức mạnh vĩ đại, là vị vua độc nhất ở trên trái đất; danh tiếng của bệ hạ lan truyền rộng khắp.

 

2960. Mười sáu ngàn nữ nhân có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, thuộc các xứ sở khác nhau, xinh đẹp tương tự như các nàng tiên nữ.

 

2961. Tâu vị Sát-đế-lỵ, người ta đã nói cuộc sống được đầy đủ mọi yếu tố, được thành tựu tất cả các dục của những người hạnh phúc là đáng yêu và lâu dài.

 

2962. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, trong khi bảo vệ bậc nhân sĩ, bệ hạ lại từ bỏ mạng sống là vật khó từ bỏ?”

 

2963. “Thưa nữ ẩn sĩ, từ khi Mahosadha đi đến dưới trướng của trẫm, trẫm không hay biết việc làm sai trái nào, dầu là nhỏ nhoi, của bậc sáng trí.

 

2964. Và nếu vào một thời điểm nào đó, cái chết xảy ra cho trẫm trước, vị Mahosadha có thể giúp cho các con và các cháu của trẫm được hạnh phúc.

 

2965. Vị ấy nhìn thấy rõ tất cả mọi việc tương lai và hiện tại. Trẫm sẽ không bao giờ hiến dâng vị không có hành động lỗi lầm cho thủy thần.”

 

2966. “Này những người dân xứ Pañcāla, các người hãy lắng nghe lời nói này của đức vua Cūḷanīya. Trong khi bảo vệ bậc nhân sĩ, đức vua từ bỏ mạng sống là vật khó từ bỏ.

 

2967. Đức vua xứ Pañcāla từ bỏ mạng sống của sáu người là: người mẹ, người vợ, người em trai, người cộng sự, vị Bà-la-môn, và luôn cả bản thân.

 

2968. Như vậy, trí tuệ khôn khéo, sự suy nghĩ tốt đẹp, có ý nghĩa lớn lao cho sự lợi ích và tấn hóa ở đời này và hạnh phúc ở đời sau.”

 

Câu Hỏi của Thủy Thần. [517]

 

***

 

8. BỔN SANH RỒNG CHÚA PAṆḌARAKA

 

2969. “Kẻ có lời nói lung tung, không kín đáo,

không cẩn mật, không xem xét toàn diện,

nguy hiểm đi theo kẻ không tự mình thấu hiểu ấy,

giống như linh điểu đeo đuổi rồng chúa Paṇḍaraka vậy.

 

2970. Người nào, trong lúc đùa giỡn, vì si mê mà bày tỏ chú thuật bí mật cần được giấu kín, nguy hiểm tức thời đi theo kẻ có chú thuật đã bị tiết lộ ấy, giống như linh điểu đeo đuổi rồng chúa Paṇḍaraka vậy.

 

2971. Người bạn sơ giao không xứng đáng để biết ý nghĩa quan trọng cần được giấu kín, và người bạn tốt không khôn ngoan, hoặc kẻ đối nghịch khôn ngoan (cũng vậy).

 

2972. Tôi đã đạt đến sự tin tưởng rằng: Gã lõa thể này đã được công nhận là vị Sa-môn, có bản thân đã được tu tập. Tôi đã giải thích cho gã ấy, trong khi bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.

 

2973. Này linh điểu cao cả, bởi vì trước đây tôi đã không thể tự kiềm chế mình về lời nói cần được giấu kín đối với gã ấy. Và chính từ phía gã ấy, nguy hiểm đã đến với tôi. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.

 

2974. Thật vậy, người nào nghĩ là thân tình, rồi bày tỏ ý nghĩa cần được giấu kín cho kẻ có gia tộc thấp kém, bởi vì sân hận, bởi vì sợ hãi, hay là bị đắm say ái luyến, kẻ ngu ấy chắc chắn sẽ bị tiêu tùng.

 

2975. Lời nói thầm kín đã bị lan tỏa giữa những người xấu. Kẻ nào thốt lên lời nói ấy ở các cuộc hội họp, người ta đã nói kẻ ấy là: ‘Loài rắn độc, kẻ thối miệng,’ nên tránh xa kẻ như thế ấy, thật xa, thật xa!

 

2976. Hãy để cho chúng tôi ra đi sau khi đã bỏ xuống thức ăn, nước uống, vải Kāsi, gỗ trầm hương, các phụ nữ hợp ý, tràng hoa, vật thoa, và tất cả các dục. Này linh điểu, chúng tôi đi đến nương tựa mạng sống vào ngài.”

 

2977. “Này rồng chúa, ai trong số ba người ở đây xứng đáng sự chê trách, khi ở thế gian này có ba sinh mạng: vị Sa-môn, linh điểu, hay là chính ngài? Này Paṇḍaraka, vì lý do gì ngài đã bị bắt giữ?”

 

2978. “Đối với tôi, ‘Sa-môn,’ là vị có bản thân đã được công nhận, có bản thân đã được tu tập về tâm ý, và là đáng yêu quý đối với tôi. Tôi đã giải thích cho vị ấy, trong khi bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.”

 

2979. “Ở trên trái đất, không có chúng sanh nào không chết.

Việc có được trí tuệ là không thể bị chê bai. Với sự chân thật, với công lý, với trí thông minh, với sự rèn luyện, con người thành tựu điều khó đạt được ở nơi này.

 

2980. Mẹ và cha là tốt nhất trong số các thân quyến, không thể có người thứ ba nào là người có lòng thương xót, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến họ.

 

2981. Mẹ, cha, chị em gái, và anh em trai, các người cộng sự hay là những người cùng phe nhóm, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến họ.

 

2982. Nếu người vợ trẻ trung nói chuyện với chồng,, có lời nói đáng yêu, có sanh con trai, có sắc đẹp, có danh tiếng, được tập thể thân quyến ưu ái, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến nàng.

 

2983. Không nên bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín; nên bảo vệ nó như là của chôn giấu. Bởi vì, người có sự nhận thức làm rõ ràng ý nghĩa cần được giấu kín là không tốt đẹp.

 

2984. Vị sáng suốt không nên bày tỏ điều bí mật cho phụ nữ, cho kẻ đối nghịch, là hạng có thể bị mua chuộc bởi tài vật và hạng người giả vờ kết thân.

 

2985. Người nào cho biết ý nghĩa cần được giấu kín đến kẻ không khôn ngoan do nỗi sợ hãi về chú thuật hay về sự đổ vỡ quan hệ đối với kẻ ấy, thì phải chịu đựng thân phận làm nô lệ (cho kẻ biết được ấy).

 

2986. Càng có nhiều kẻ biết được ý nghĩa cần được giấu kín của một người (do) đã được thổ lộ, thì càng có nhiều kích động đối với người ấy; vì thế, không nên thố lộ điều bí mật.

 

2987. Vào ban ngày, nên tách ly rồi mới nói điều bí mật, vào ban đêm không nên thốt ra lời vượt quá thời gian (hạn định).

Bởi vì những kẻ nghe lén lắng nghe điều thố lộ; vì thế, điều thố lộ mau chóng đi đến việc rò rỉ.

 

2988. Cũng giống như thành phố Bhaddasālā rộng lớn, làm bằng sắt, không có cửa ra vào, được trang bị với các hào nước được đào ở xung quanh, cũng tương tự như vậy, các chú thuật cần được giấu kín ấy của tôi là ở nơi này.

 

2989. Này (rắn chúa) loài có hai lưỡi, những người nào có chú thuật cần được giấu kín, không có lời nói lung tung, kiên quyết trong các mục đích của mình, các kẻ thù nghịch lánh ra những người ấy, tựa như các hạng chúng sanh lánh xa những con rắn độc.”

 

2990. “Sau khi từ bỏ gia đình, vị xuất gia, lõa thể, trần truồng, đầu cạo, đi lại đó đây vì nguyên nhân vật thực. Quả thật, tôi đã bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín cho vị ấy. Chúng tôi đã bị lìa khỏi mục đích và công lý.

 

2991. Này linh điểu chúa, vị Sa-môn là người có hành động thế nào, có giới cấm gì, đang thi hành phận sự gì? Trong khi thực hành hạnh xuất gia sau khi đã từ bỏ các vật thuộc sở hữu, vị Sa-môn làm thế nào đi đến vị thế cõi trời?”

 

2992. “Với sự hổ thẹn (tội lỗi), với sự chịu đựng, với sự thuần hóa, với sự nhẫn nại, không giận dữ, đã dứt bỏ việc nói đâm thọc, trong khi thực hành hạnh xuất gia sau khi đã từ bỏ các vật thuộc sở hữu, vị Sa-môn làm như vậy đi đến vị thế cõi trời.”

 

2993. “Ví như người mẹ, trong khi nhìn đứa con trai thơ dại được sanh ra từ cơ thể của mình, khiến toàn thân rung động, cũng tương tự như vậy, này chúa của loài chim, ngài hãy thể hiện với tôi giống như người mẹ đang thương xót đứa con trai.”

 

2994. “Nào, này (rắn chúa) loài có hai lưỡi, hôm nay hãy để ngài thoát khỏi sự giết hại. Bởi vì có ba loại con: học trò, con nuôi, và con ruột, không có loại (thứ tư) nào khác. Ngài hãy vui mừng! Một người con khác nữa đã có thêm cho tôi.”

 

2995. Sau khi nói lời nói y như thế, con linh điểu đã phóng thích (con rắn). Con chim đã đặt con rắn chúa xuống ở mặt đất (nói rằng): “Hôm nay, ngài đã được tự do, đã qua khỏi tất cả hiểm nguy. Ngài hãy ở trên đất liền và ở trong nước. Ngài được tôi bảo vệ.”

 

2996. “Giống như người thầy thuốc thiện xảo cho các bệnh nhân, tựa như hồ nước mát lạnh cho những người bị khát nước, giống như chỗ trú ngụ cho những người bị hành hạ bởi tuyết lạnh, cũng tương tự như vậy, tôi có sự nương tựa ở ngài.”

 

2997. “Này loài thai sanh, sau khi đã thực hiện sự liên kết với kẻ thù là loài noãn sanh, ngài nhe răng nanh và nằm sát xuống, vậy sự nguy hiểm của ngài từ đâu đến?”

 

2998. “Nên nghi ngại kẻ thù, cũng không nên tin tưởng người bạn, từ chỗ không nguy hiểm, sự nguy hiểm được sanh lên, thậm chí còn cắt đứt các gốc rễ (của sự sống).

 

2999. Làm thế nào có thể tin tưởng vào ngài, mà với ngài có sự cãi cọ đã được tạo ra? Người nào tồn tại với sự thường xuyên sẵn sàng, người ấy không bị quyến luyến với các kẻ thù (của mình).

 

3000. Nên làm cho kẻ khác tin tưởng mình, và không nên tin tưởng kẻ ấy. Không nên bị kẻ khác nghi ngờ và kẻ khác nên bị mình nghi ngờ. Người hiểu biết nên nỗ lực như thế ấy để kẻ khác không có thể biết được bản chất của mình.”

 

3001. Họ có vẻ đẹp Thiên thần, có dáng vóc thanh nhã. Cả hai tương đương nhau về sự ngay thẳng và các tích lũy về phước thiện. Họ kết hợp bản thể với nhau, tựa như hai con voi kéo cỗ xe ngựa. Họ đã đi đến gặp vị lõa thể Kādambiya.

 

3002. Thật vậy, sau đó, rồng chúa Paṇḍaraka đích thân đi đến gặp vị lõa thể và đã nói điều này: “Hôm nay, tôi đã được tự do, đã qua khỏi tất cả hiểm nguy. Chúng tôi, quả thật, đã không yêu thích gì tâm ý của ông.”

 

3003. “Bởi vì linh điểu chúa đã được ta yêu mến hơn so với rồng chúa Paṇḍaraka; điều ấy là sự thật, không có hoài nghi. Và bị đắm say ái luyến, ta đây đã làm hành động xấu xa ấy, trong khi biết rõ, không phải do si mê.”

 

3004. “Không có việc yêu mến tôi hay không yêu mến tôi đối với vị đang xem xét đời này và đời sau. Bởi vì, so với điểm đặc trưng của các vị đã khéo tự chế ngự, ông sống ở thế gian này, không tự chế ngự.

 

3005. Ông giả vờ là Thánh nhân, và không phải là Thánh nhân. Không tự chế ngự, ông làm như là đã được tự chế ngự. Ông là người có bẩm tánh đen tối, có bản chất không thánh thiện. Ông đã làm nhiều hành động ác độc, xấu xa.

 

3006. Này kẻ phản bội, ông là kẻ phản bội người không bị hư hỏng, và là kẻ nói đâm thọc. Do lời nói chân thật này, mong rằng cái đầu của ông hãy vỡ tan thành bảy mảnh.”

 

3007. Chính vì thế, không nên phản bội các bạn bè. Không có người nào là ác độc hơn so với kẻ phản bội bạn bè. Con người đã rưới rắc (nọc độc) bị rơi vào trong trái đất. Chính vì lời nói của rồng chúa, mà kẻ (mạo nhận) thu thúc bị chết.

 

Bổn sanh Rồng Chúa Paṇḍaraka. [518]

 

***

 

9. BỔN SANH HOÀNG HẬU SAMBULĀ

 

3008. “Hỡi cô nàng có cặp đùi kín đáo, nàng là ai, một mình đứng ở hang núi, run rẩy? Hỡi cô nàng có vòng eo có thể được đo bằng bàn tay, được ta hỏi, nàng hãy nói cho ta biết tên và các thân quyến.

 

3009. Này mỹ nữ, nàng là ai, đang làm chói sáng khu rừng xinh đẹp, nơi được lai vãng bởi loài sư tử và loài cọp? Này cô nàng có vòng eo xinh xắn, nàng thuộc về ai? Này người nữ hiền thục, ta xin thi lễ với nàng. Ta là loài A-tu-la, xin kính lễ nàng.”

 

3010. “Người ấy là con trai của đức vua xứ Kāsi. Người ta biết chàng với tên Sotthisena. Thiếp là Sambulā, vợ của người ấy. Thưa vị A-tu-la, ngài hãy biết như thế. Thưa bậc tôn đức, thiếp xin thi lễ với ngài. Thiếp là Sambulā, xin kính lễ ngài.

 

3011. Thưa bậc tôn đức, người con trai xứ Vedeha bị bệnh, sống ở trong rừng. Một mình thiếp đã phục vụ chỉ mỗi chàng, trong lúc chàng đang bị hành hạ bởi căn bệnh.

 

3012. Và thiếp đã thu nhặt ở trong rừng miếng thịt ngon, là vật ăn còn thừa lại của thú rừng. Vật thiếp mang về ấy, thật vậy, sẽ là thức ăn đáp ứng nhu cầu của chàng ngày hôm nay.”

 

3013. “Nàng sẽ làm gì trong khu rừng với vị hoàng tử bị bệnh đang được chăm sóc? Này nàng Sambulā, hãy để ta trở thành người chồng của nàng.”

 

3014. “Do trạng thái sầu muộn, do bản thân bị khốn khổ, sắc đẹp gì được tìm thấy ở thiếp? Thưa bậc tôn đức, ngài hãy tìm kiếm người nữ khác xinh đẹp hơn thiếp.”

 

3015. “Nàng hãy đến, hãy bước lên ngọn núi này. Ta có bốn trăm người vợ. Nàng hãy là người nữ cao quý trong số các nàng ấy; nàng có sự thành tựu tất cả các dục.

 

3016. Thật vậy, này người nữ có ánh sáng như màu sắc của các vì sao, bất cứ vật gì mà nàng mong muốn ở trong tâm, mọi thứ ấy của ta đều dồi dào. Hôm nay, nàng hãy vui sướng cùng với ta.

 

3017. Này nàng Sambulā, nếu nàng không chịu làm hoàng hậu, ta nghĩ rằng nàng đương nhiên sẽ là thức ăn cho bữa ăn sáng.

 

3018. Và trong lúc nàng ấy không tìm thấy người bảo hộ ở khu rừng, gã ăn thịt người có bảy búi tóc, hung dữ, răng hô đã nắm lấy Sambulā ở cánh tay.

 

3019. Và bị bắt giữ bởi gã quỷ sứ hung dữ, quan tâm về vật chất, bị rơi vào sự khống chế của kẻ thù, nàng ấy lo âu chỉ mỗi người chồng.

 

3020. “Sự khổ sở như thế này của thiếp không phải là việc quỷ sứ có thể ăn thịt thiếp, mà là việc tướng công của thiếp sẽ có ý nghĩ theo cách khác.

 

3021. Chư Thiên không hiện hữu, chắc chắn các ngài sống ở nơi khác! Chắc chắn các bậc hộ trì thế gian không có ở nơi này! Chắc chắn không có các vị ngăn chặn những kẻ không tự kiềm chế đang hành động bằng bạo lực!”

 

3022. “Trong số những người phụ nữ, nàng ấy là cao quý, có danh tiếng, điềm đạm, bình lặng, có năng lực nổi trội tựa như ngọn lửa. Này quỷ sứ, nếu ngươi ăn thịt người thiếu nữ ấy, cái đầu của ngươi có thể vỡ tan thành bảy mảnh. Ngươi chớ có thiêu đốt nàng. Ngươi hãy trả tự do cho người vợ chung thủy ấy.”

 

3023. Được thoát khỏi kẻ ăn thịt người, nàng ấy đã đi về lại khu ẩn cư, tựa như con chim mẹ tha mồi về tổ, về chỗ trú ngụ vắng bóng các chim con.

 

3024. Tại nơi ấy, nàng công chúa danh tiếng Sambulā ấy, hai mắt khờ dại, trong khi không nhìn thấy người chồng ở trong rừng, đã than khóc rằng:

 

3025. “Thiếp xin đảnh lễ các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, các vị ẩn sĩ đầy đủ đức hạnh. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các ngài.

 

3026. Thiếp xin đảnh lễ các loài sư tử, các loài cọp, và các con thú khác ở trong rừng. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các vị.

 

3027. (Thiếp xin đảnh lễ các vị thần ngự ở) các giống cỏ, các dây leo, các cây thuốc, các ngọn núi, và các khu rừng. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các ngài.

 

3028. Thiếp xin đảnh lễ (vị thần) đêm tối có màu sắc tựa như bông hoa súng, có vòng hoa là các vì tinh tú. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.

 

3029. Thiếp xin đảnh lễ thần sông Bhāgīrathī, nơi tiếp nhận các dòng nước. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.

 

3030. Thiếp xin đảnh lễ thần núi đá Himavantu, ngọn núi chúa hạng nhất. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.”

 

3031. “Này nàng công chúa danh tiếng, thật sự nàng đã trở về quá tối. Vậy hôm nay, nàng đã đi đến với ai? Ai được nàng yêu thương hơn ta?”

 

3032. “Bị bắt giữ bởi kẻ thù ấy, quả thật khi ấy thiếp đã có nói điều này: ‘Sự khổ sở như thế này của thiếp không phải là việc quỷ sứ có thể ăn thịt thiếp, mà là việc tướng công của thiếp sẽ có ý nghĩ theo cách khác.’”

 

3033. “Đối với các nữ đạo tặc có nhiều trí thông minh, sự chân thật ở các nàng này là điều khó đạt được. Bản tánh của các người nữ là khó hiểu, tựa như đường đi của loài cá ở trong nước.”

 

3034. “Thiếp biết chắc là không có người đàn ông nào khác được thiếp yêu thương hơn chàng. Nếu lời nói như thế của thiếp là sự thật, xin hãy hộ trì cho thiếp, và sẽ hộ trì cho thiếp trong tương lai. Do lời nói chân thật này, mong rằng bệnh của chàng được lặng yên.”

 

3035. “Bảy trăm con voi xuất sắc,

có vũ khí sẵn sàng, bảo vệ ngày đêm,

và một ngàn sáu trăm cung thủ.

Này thục nữ, bằng cách nào con nhìn thấy những kẻ thù?”

 

3036. “Chàng nhìn xem các nữ nhân đã được trang điểm, có làn da tuyệt mỹ màu hoa sen, có vòng eo thon, có giọng nói ngọt ngào như chim thiên nga, sau khi lắng nghe lời ca tiếng nhạc đã được chọn lọc của các nàng ấy, giờ đây, tâu phụ hoàng, chàng đối với con không còn như là trước đây.

 

3037. Các nàng ấy có thân hình xinh đẹp, mang thắt lưng bằng vàng, đã được trang điểm, sánh tựa tiên nữ, là những người yêu dấu của Sotthisena, có cơ thể không bị chê bai, thưa cha, các công nương dòng Sát-đế-lỵ quyến rủ chàng.

 

3038. Thưa cha, nếu con có thể cưu mang người chồng ấy bằng cách thu nhặt ở trong rừng lần nữa như là trước đây, mà chàng có thể tôn trọng con và không xem thường con, thưa cha, vì điều ấy, đối với con khu rừng ấy còn quý giá hơn cả nơi này.

 

3039. Người phụ nữ, khi được bố trí ở nơi dồi dào cơm ăn nước uống, có đồ trang sức bóng láng, đã được trang điểm, được đầy đủ mọi thứ, và không được chồng yêu thương, dầu không bị giam giữ, nhưng đối với người nữ ấy, cái chết là cao quý hơn so với việc kia.

 

3040. Thậm chí, nếu người phụ nữ nghèo khó, khốn khổ, không thóc lúa, có manh chiếu làm bạn, và nàng ấy được chồng yêu thương; so với người phụ nữ được đầy đủ mọi thứ mà không được yêu thương, chính người phụ nữ khốn khổ được yêu thương này là tốt hơn.”

 

3041. “Người phụ nữ có lợi ích đối với người nam là rất khó đạt được, và người chồng có lợi ích đối với người phụ nữ là khó đạt được. Người vợ của con là người nữ có lợi ích và có giới hạnh. Này vị chúa của loài người, hãy cư xử đúng pháp với Sambulā.”

 

3042. “Này ái hậu, nếu trong lúc của cải đã đạt được dồi dào, mà nàng bị áp lực bởi lòng ganh tị và tìm đến cái chết, thì trẫm và các công chúa này là thuộc về nàng, hết thảy tất cả chúng tôi hãy là người làm theo lời nói của nàng.”

 

Bổn sanh Hoàng Hậu Sambulā. [519]

 

***

 

10. BỔN SANH THẦN CÂY TINDUKA

 

3043. “Sự không xao lãng là đạo lộ Bất Tử (Niết Bàn), sự xao lãng là con đường đưa đến sự chết. Những người không xao lãng không chết, những người nào xao lãng giống như đã chết.

 

3044. Từ mê đắm, sanh ra xao lãng; từ xao lãng, sanh ra sự tiêu hoại; và từ sự tiêu hoại, sanh ra các tội lỗi. Tâu vị lãnh đạo tối cao, chớ có mê đắm.

 

3045. Bởi vì nhiều vị Sát-đế-lỵ có sự xao lãng, đã đánh mất sự tiến thân và đất nước; cũng vậy, những người chủ làng đánh mất các ngôi làng, những người chủ nhà trở thành không nhà.

 

3046. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, tất cả của cải ở đất nước của vị Sát-đế-lỵ đã bị xao lãng đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.

 

3047. Tâu đại vương, việc ấy không phải là đúng pháp. Bệ hạ chớ xao lãng quá nhiều thời gian. Lũ trộm cướp phá hoại đất nước giàu có, phồn thịnh ấy.

 

3048. Bệ hạ sẽ không có con trai kế nghiệp, không có vàng, không có tài sản. Khi đất nước đang bị cướp bóc, bệ hạ bị mất mát mọi thứ của cải.

 

3049. Khi vị vua hoặc luôn cả vị Sát-đế-lỵ đã bị tiêu tán mọi thứ của cải, các thân quyến, bạn bè, và các thân hữu không nghĩ về vị ấy với sự tôn trọng.

 

3050. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh đang sống nương vào chính vị ấy, họ không nghĩ về vị ấy với sự tôn trọng.

 

3051. Vinh quang từ bỏ kẻ có trí tồi, ngu si, có công việc không được sắp xếp, có sự cố vấn bởi kẻ cố vấn tồi, tựa như con rắn từ bỏ lớp da già cỗi.

 

3052. Mọi thứ của cải tăng trưởng cho người có công việc khéo được sắp xếp, có sự thức dậy sớm, không biếng nhác, tựa như bầy bò có con bò mộng đầu đàn (sẽ phát triển đông đúc).

 

3053. Tâu đại vương, bệ hạ hãy du hành ở đất nước, ở xứ sở cho việc nghe ngóng. Sau khi nhìn thấy và lắng nghe tại nơi ấy, kế đó, mong rằng bệ hạ hãy thực hành điều ấy.”

 

3054. “Hôm nay, ta cảm thọ bị gai đâm như thế nào, thì vua Pañcāla hãy cảm thọ bị tên bắn ở chiến trường giống như vậy.”

 

3055. “Ông già cả, mắt yếu, không nhìn thấy cảnh vật rõ ràng, nên cây gai mới đâm vào ông; trong việc ấy, điều gì liên quan đến vua Brahmadatta?”

 

3056. “Thưa vị Bà-la-môn, ở đây, việc tôi bị gai đâm có nhiều liên quan đến vua Brahmadatta. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

 

3057. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.

 

3058. Tôn ông ơi, khi có sự sợ hãi như thế này, bị hành hạ vì sợ hãi, dân chúng tạo ra chỗ ẩn náu trong rừng, sau khi đã rải rắc gai nhọn (ở căn nhà của mình).”

 

3059. “Vậy cho đến khi nào ông vua Brahmadatta này sẽ chết? Ở trong đất nước của ông, các cô con gái tới tuổi già mà vẫn không chồng.”

 

3060. “Ôi lời nói tầm xàm của bà! Này bà lão kém cỏi, không thông suốt chữ nghĩa, ở đâu mà đức vua tìm kiếm chồng cho các cô con gái?”

 

3061. “Thưa vị Bà-la-môn, lão không có lời nói tầm xàm, lão là người có chữ nghĩa được thông suốt. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

 

3062. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức. Khi cuộc sống khó nhọc, khó cấp dưỡng cho người vợ, thì chồng ở đâu cho cô con gái?”

 

3063. “Con bò khốn khổ Sāliya này bị đâm bởi lưỡi cày nằm xụi như thế nào, thì vua Pañcāla, bị đâm bởi cây thương ở chiến trường, hãy nằm đơ giống như vậy.”

 

3064. “Này ông lão kém cỏi, lão nổi giận với vua Brahmadatta một cách vô lý; sau khi gây ra lầm lỗi cho bản thân, lão lại nguyền rủa đức vua.”

 

3065. “Thưa vị Bà-la-môn, lão nổi giận với vua Brahmadatta một cách có lý lẽ. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

 

3066. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.

 

3067. Đúng vậy, người phụ nữ đã nấu lại lần nữa và đã mang lại bữa ăn trễ giờ. Trong khi ta trông ngóng nàng mang lại bữa ăn, con bò Sāliya đã bị thương tích bởi lưỡi cày.”

 

3068. “Hôm nay, ta đã bị bò đá và sữa của ta bị đổ tràn như thế nào, thì vua Pañcāla, bị gươm đâm ở chiến trường, hãy bị thương tích giống như vậy.”

 

3069. “Việc con thú làm đổ sữa và hãm hại người chăn thú, việc ông chê trách chúng tôi, trong việc ấy, điều gì liên quan đến vua Brahmadatta?”

 

3070. “Thưa vị Bà-la-môn, vua Pañcāla thuộc hoàng tộc Brahmadatta là đáng bị chê trách. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

 

3071. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.

 

3072. Trước đây, chúng tôi không vắt sữa con bò cái thô tháo, hoang dã. Giờ đây, bị quấy rối bởi những đòi hỏi về sữa, hôm nay chúng tôi vắt sữa nó.”

 

3073. “Con bò cái khốn khổ, mất bê con, chạy lung tung này như thế nào, thì vua Pañcāla, bị mất con, hãy than khóc, hãy héo khô giống như vậy.”

 

3074. “Việc con thú đi lang thang hoặc kêu ầm ĩ đối với người chăn thú, trong việc này, có tội lỗi gì liên quan đến vua Brahmadatta?”

 

3075. “Thưa vị Bà-la-môn, có tội lỗi liên quan đến vua Brahmadatta. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

 

3076. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức. Vậy làm thế nào mà con bê còn bú sữa bị giết chết vì mục đích làm bao gươm?”

 

3077. “Hôm nay, là loài nhái sanh ra ở rừng, tôi bị ăn thịt bởi những con quạ sống ở trong làng như thế nào, thì vua Pañcāla, bị giết chết ở trận chiến cùng với con trai, hãy bị ăn thịt giống như vậy.”

 

3078. “Này nhái, các vị vua ở thế giới loài người không xếp đặt sự bảo vệ cho tất cả các loài sinh vật. Với bấy nhiêu đó, không thể gọi đức vua là người thực hành phi pháp trong việc các con quạ ăn thịt những con nhái các ngươi đang còn sống như thế ấy.”

 

3079. “Ông quả là người thực hành Phạm hạnh với hình thức phi pháp, ông nói lời xu nịnh đến vị Sát-đế-lỵ. Trong khi số đông chúng sanh đang bị cướp bóc, ông ca ngợi đức vua có lời tuyên bố tuyệt hảo.

 

3080. Thưa vị Bà-la-môn, nếu đất nước có sự cai trị tốt đẹp này là phồn thịnh, hòa bình, an lạc, các con quạ sau khi đã ăn đồ cúng tế và các phần thức ăn quý giá, các con quạ sẽ không ăn thịt những con nhái đang còn sống như tôi.”

 

Bổn sanh Thần Cây Tinduka. [520]

 

***

 

TÓM LƯỢC NHÓM NÀY

 

Mong muốn gì, bình rượu, vua Jayaddisa, voi chúa Chaddanta,

rồi bậc trí Sambhava, thêm con khỉ thủ lãnh,

chuyện vị thủy thần, và rồng chúa Paṇḍaraka,

kế đến hoàng hậu Sambulā, và Thiên tử Tinduka.

 

Nhóm Ba Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.

 

--ooOoo--

 


[Mục lục][15][16][17][18][19][20][21]


[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]