TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 33
JĀTAKAPĀLI
- BỔN SANH tập II
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
3825. “Này Sumukha, các con chim bay đi không ngó ngàng. Ngươi cũng hãy đi đi, chớ ngần ngại. Không còn tình bằng hữu (với ngươi ở nơi ta) khi ta đã bị dính bẫy.”
3827. Cái chết cùng với ngài hay là cuộc sống không có ngài, nếu sống mà không có ngài thì cái chết quả thật tốt hơn.
3830. Này loài có cánh, hay là ngươi nhìn thấy lợi ích gì cho ta, và cho ngươi, hoặc cho các thân quyến còn lại, khi có sự chấm dứt mạng sống của cả hai ta?
3831. Này loài có cặp cánh vàng, việc từ bỏ mạng sống như thế ấy của ngươi được làm trong đêm đen, trong bóng tối thì giải thích được điều gì?”
3832. “Tâu bậc cao cả của loài chim, tại sao ngài vẫn không thấu hiểu mục đích ở đạo lý? Đạo lý, trong khi được tôn trọng, chỉ cho chúng sanh thấy được mục đích.
3833. Thần đây, trong lúc xem xét về đạo lý và mục đích phát xuất từ đạo lý, trong lúc nhìn thấy sự hy sinh ở ngài, thần không trông mong sự sống còn.
3835. “Pháp ấy đã được ngươi thực hành và sự hy sinh ở ta đã được ngươi biết. Ngươi hãy thực hiện điều mong muốn ấy của ta. Đã được ta cho phép, ngươi hãy đi ngay.
3836. Hơn nữa, khi ta đã bị dính bẫy như vậy, ta đã có sự gắn bó với các thân quyến, này vị có trí giác ngộ, ngươi nên gìn giữ hết mức về việc ấy.”
3837. Trong khi hai con chim đang trao đổi về lối cư xử cao thượng của của các bậc cao thượng như vậy, gã bẫy chim đã xuất hiện, tựa như Thần Chết đã hiện ra đối với những kẻ bị bệnh tật.
3838. Sau khi nhìn thấy kẻ thù đang đi đến, hai con chim ấy, hai người bạn thâm giao, đã ngồi im lặng, và cả hai đã không nhúc nhích khỏi chỗ ngồi.
3839. Sau khi nhìn thấy hai con chim thiên nga đang bay lên từ chỗ này chỗ nọ, kẻ thù của loài chim đã hấp tấp đi đến gần hai con chim chúa.
3840. Và sau khi đã hấp tấp đi đến kế cận hai con chim ưu tú, gã bẫy chim đã phân vân suy nghĩ rằng: “Chúng đã bị dính bẫy hay chưa?”
3842. Do đó, bị phân vân thật sự, gã ấy đã nói với hai con chim thiên nga có thân hình to lớn, đang ngồi, chúa bầy của đàn chim, rằng:
3846. “Làm thế nào con chim này lại không nhìn thấy cái bẫy đã được giăng ra? Bởi vì những kẻ trưởng thành đều có bản tánh này; chúng có khả năng nhận biết sự rủi ro.”
3860. Ông hãy đến, tôi chỉ bảo ông để ông cũng sẽ đạt được lợi lộc, để chim chúa Dhataraṭṭha này không nhìn thấy bất cứ điều gì xấu xa của ông.
3866. “Nhưng làm thế nào những con chim này đã sa vào trong tay của khanh? Làm thế nào thợ săn đã đạt đến nơi này, ở lãnh địa của các con vật to lớn?”
3868. Con chim thiên nga chúa đã đi đến gần bẫy sập như thế ấy và đã bị dính bẫy. Còn con chim không bị dính bẫy này, ngồi gần con chim ấy, đã đối đáp với thần.
3870. Con chim này, sau khi từ bỏ bản thân, là xứng đáng với mạng sống. Trong lúc ngồi kể lể, nó đã cầu xin mạng sống cho chim chúa.
3874. Ông hãy đến, tôi chỉ bảo ông để ông cũng sẽ đạt được lợi lộc, để chim chúa Dhataraṭṭha này không nhìn thấy bất cứ điều gì xấu xa của ông.
3878. Như vậy, theo lời nói của chim ấy, cả hai con chim này đã được thần đưa đi, và chúng đã có mặt ở ngay tại nơi này, (mặc dù) cả hai đã được thần cho phép ra đi.
3884. “Có phải bất cứ lỗi lầm nào đều không tìm thấy ở các quan đại thần của bệ hạ? Có phải họ không tiếc rẻ mạng sống cho những mục đích của bệ hạ?”
3885. “Bất cứ lỗi lầm nào cũng đều không tìm thấy ở các quan đại thần của trẫm. Họ không tiếc rẻ mạng sống cho những mục đích của trẫm.”
3889. Vậy có phải gã này đã lao đến và đánh đập ngài bằng cây gậy? Bản tánh tự nhiên của những kẻ đáng khinh này vào lúc ấy là như vậy.”
3893. Trong khi ước muốn tài sản cho gã thợ săn, vì lợi ích của gã ấy, chính Sumukha đã suy xét việc đi đến yết kiến bệ hạ.”
3895. Sau khi làm thỏa mãn gã bẫy chim bằng các của cải, vị chúa của loài người, trong khi thốt lên lời nói êm tai, đã nói với chim thiên nga chúa rằng:
3896. “Thật vậy, quyền lực giải quyết bất cứ việc gì thuộc về đạo đức, tất cả quyền hành đều thuộc về các ngài. Các ngài hãy chỉ thị điều các ngài muốn.
3905. “Việc nào cần phải làm cho bạn bè chí thân, việc ấy đã được bệ hạ thực hiện đối với chúng tôi. Chúng tôi đã đạt được sự không nghi ngờ của bệ hạ, điều ấy là sự tận tụy của bệ hạ dành cho chúng tôi.
3908. Tôi quả thật tìm được sự hỷ lạc vô bờ do việc gặp gỡ các ông. Việc ấy có thể tạo niềm tin cho thân quyến và còn có lợi ích lớn lao nữa.”
Tiểu Bổn Sanh Thiên Nga. [533]
***
3917. Thưa chim chúa Dhataraṭṭha, (nghĩ rằng): ‘Ngài lâm cảnh khổ đau,’ thần không thể bỏ rơi ngài. Ngài không thể bảo thần dính líu đến việc làm không cao thượng.
3921. Bởi vì, trong khi ta nhìn thấy khanh, thì sự sợ hãi không sanh lên ở ta. Khanh tìm đến với ta, trong khi ta hãy còn mạng sống như vầy.”
3932. Nếu không vì mục đích của bản thân mà ông đặt bẫy bắt chim thiên nga, ông không có quyền trong khi thả chúng tôi đi. Này ông thợ săn, ông có thể phạm vào tội trộm cắp.
3934. Được nói như thế, gã bẫy chim đã nâng hai con chim có lông vàng, có sắc vàng bằng hai tay, rồi cẩn thận đặt xuống trong cái lồng.
3943. “Phụ nữ được biết đến do các sự tăng trưởng, người nào xứng đáng để chê bai phụ nữ. Những người phụ nữ gọi là có đức tính vĩ đại đã sanh lên ở thế gian.
3944. Việc vui đùa được hình thành ở các nàng ấy, sự thích thú được thiết lập ở các nàng ấy, các mầm sống lớn lên trong (tử cung của) các nàng ấy, nghĩa là các chúng sanh được sanh ra. Người nam nào có thể nhàm chán các nàng ấy, sau khi đã kề cận hơi thở của các nàng ấy bằng những hơi thở của bản thân?
3945. Này Sumukha, chính khanh, chứ không ai khác, gắn bó trong các nhu cầu đối với phụ nữ. Hôm nay, khi nỗi sợ hãi của khanh đây đã sanh khởi, do kinh sợ mà ý niệm được sanh ra.
3946. Bởi vì, khi đạt đến sự hoài nghi (về mạng sống), tất cả (chúng sanh) đều cam chịu nỗi sợ hãi và khiếp đảm, còn các bậc sáng suốt, có vị thế cao cả, gắn bó với những mục đích khó gắn bó.
3949. Kẻ được tự do đã không muốn bay đi, tự mình đã đi vào sự giam cầm. Hôm nay, khanh đây đã đạt đến sự hoài nghi. Khanh hãy nắm lấy mục đích, chớ miệng mồm.
3950. Khanh đây hãy áp dụng phương pháp thích hợp, có liên quan đến đạo lý ấy. Khanh hãy đi tìm kiếm mạng sống cho trẫm theo phương thức của khanh.”
3954. “Hãy ban cho gã thợ săn các vải vóc, cơm, nước, và vật thực. Hãy thực hiện ước muốn về vàng của gã; gã muốn chừng nào thì hãy ban cho gã chừng ấy.”
3956. –làm thế nào với chiếc bẫy cầm tay mà khanh đã đi đến gần con thiên nga đang vui chơi ở giữa bầy? Làm thế nào khanh đã bắt được con thiên nga hạng nhất được che khuất bởi tập thể thân quyến?”
3959. “Này thợ săn, đây có hai con chim, mà khanh nói về một con. Vậy có phải tâm của khanh bị lầm lẫn, hay là khanh ao ước điều gì?”
3963. “Tâu vị chúa của xứ Kāsi, tôi không bị khiếp đảm sau khi đi vào hội chúng của bệ hạ. Khi có cơ hội như thế này, không phải vì sợ hãi mà tôi không nói ra lời.”
3965. –không vàng thô hay vàng ròng, hoặc thành phố đã khéo được kiến tạo với tường thành bao bọc, hiểm trở, với tháp canh và trạm gác vững chải, này chim Sumukha, nơi nào người đã đi vào, ngươi không sợ hãi vật đáng sợ hãi (ở nơi ấy).”
3967. Chúng tôi đã được nghe nói là sáng suốt, khôn khéo, có sự suy nghĩ tốt đẹp. Nếu bệ hạ đã an trú ở sự chân thật, chúng tôi sẽ nói lời nói có lợi ích.
3968. Và nếu bệ hạ không chân thật, không cao thượng, có lời nói dối trá, tàn bạo, thì lời khéo nói được nói ra sẽ làm được điều gì cho bệ hạ?
3976. Kẻ nào giết thú bằng thú mồi (đã được huấn luyện), hoặc giết chim bằng chim mồi, hoặc có thể cưỡng bức người thuyết giảng bằng tin đồn thất thiệt, có việc nào khác thô bỉ hơn việc ấy?
3978. Không nên say đắm khi đạt được danh vọng, không nên sầu khổ khi (lâm cảnh hiểm nghèo) có sự hoài nghi về mạng sống, nên nỗ lực trong các việc cần phải làm và nên che đậy các khuyết điểm.
3998. “Tâu vị Sát-đế-lỵ, bệ hạ có quan tâm (mạng sống ở) tương lai là không dài lâu không? Bệ hạ có không say đắm các đối tượng làm cho say đắm không? Bệ hạ có không hãi sợ về kiếp sống sau không?”
4000. Bố thí, trì giới, thí xả, ngay thẳng, nhu hòa, khắc khổ, không giận dữ, không hãm hại, nhẫn nại, và không đối chọi.
4002. Còn con chim Sumukha này không suy nghĩ, không biết rõ khuyết điểm về bản thể của chúng tôi, nên đã tuôn ra lời nói khiếm nhã.
4006. “Trẫm tùy hỷ với việc này của khanh, về việc khanh không che giấu bản thể. Khanh đã phá tan sự ngăn cách. Này chim, khanh thật thẳng thắn.”
4009. “Quả thật chúng tôi đã được bệ hạ nể trọng và tôn vinh, tâu đấng thủ lãnh xa binh, trong lúc chúng tôi tiến hành các thiện pháp, bệ hạ hãy là vị thầy của chúng tôi.
4012. Sau đó, vào lúc cuối đêm, khi mặt trời mọc lên, trong lúc đức vua xứ Kāsi đang nhìn xem, hai con chim ấy đã lao đi từ cung điện của đức vua.
Đại Bổn Sanh Thiên Nga. [534]
***
4018. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
4019. “Kẻ nào một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), việc cúng tế của kẻ này là rỗng không, việc gắng sức (tạo lập tài sản) cũng là rỗng không.
4020. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
4021. “Người nào không một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), việc cúng tế của người ấy là chân thật, việc gắng sức (tạo lập tài sản) cũng là chân thật.
4022. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
4024. Người nào không một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), việc cúng tế của người này là có kết quả, việc gắng sức (tạo lập tài sản) là có kết quả.
4025. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
4026. “Kẻ nào một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), kẻ ấy nuốt vào chính cái lưỡi câu có sợi cước dài, có sự trói buộc.
4027. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
4028. Các vị Bà-la-môn này quả thật có giai cấp cao quý.
Và đây là con chó của các vị, nguyên nhân là thế nào?
Nó biến hóa thành cao, thấp, có màu sắc và ánh sáng.
Thưa các vị Bà-la-môn, các vị hãy giải thích cho chúng tôi các vị là ai?”
4037. Ở trên đỉnh núi, ở ngọn núi cao quý Gandhamādana,
các nàng tiên nữ ấy vui sướng, được Thiên Chủ Sakka bảo vệ.
Rồi vị ẩn sĩ cao quý, bậc thông hiểu tất cả thế gian, đã đi đến,
cầm theo cành cây cao quý khéo trổ đầy hoa.
4054. “Này Mātali, không đúng đắn đối với ta để thọ hưởng
mà không bố thí trước đã,’ như thế đối với ta là sự hành trì tối thượng.
Thêm nữa, việc ăn một mình không phải là sự cúng dường cao thượng;
người không có sự san sẻ không tìm thấy hạnh phúc (nhân thiên).
4055. Những kẻ giết hại phụ nữ và những kẻ nào ngoại tình, những kẻ phản bội bạn bè và những kẻ nào chưởi rủa các bậc có sự hành trì tốt đẹp, và những kẻ có sự bỏn xẻn là thứ năm, tất cả những kẻ ấy là thấp thỏi. Vì thế, khi không bố thí, ngay cả nước uống ta cũng không thọ dụng.
4059. “Hỡi vị Thiên nhân, nàng là ai mà chiếu sáng phương Đông?
Nàng được trang điểm tựa như ngôi sao Mai cao quý trong số các vì sao.
Hỡi cô nàng có thân thể tựa như khối vàng, ta hỏi nàng:
Nàng hãy báo cho ta biết nàng là vị Thiên nhân nào?”
4061. Thưa bậc đại hiền trí, thiếp muốn người nào được sung sướng, thì người ấy được vui thích với tất cả các dục lạc. Thưa bậc ưu tú trong số các vị cúng tế thần lửa, xin ngài hãy nhận biết thiếp là ‘Nữ thần Sirī.’ Thưa bậc có trí tuệ cao quý, xin ngài hãy chia xẻ phần thức ăn của thần tiên cho thiếp đây.”
4063. Ta nhìn thấy người lười biếng, ham ăn,
người có gia tộc vô cùng thấp kém, không có vóc dáng,
nhưng được nàng bảo hộ nên có sự vẻ vang, có dòng dõi;
gã sai bảo tôi tớ như là người có của cải, có sự sung sướng.
4065. “Nàng là ai mà có răng nhọn trắng ngần, có các bông tai cẩn ngọc trai, có vòng đeo tay nhiều màu sắc, mặc y phục bóng láng bằng vàng? Nàng chiếu sáng rực rỡ sau khi khoác lên mảnh vải mang màu sắc của những hạt nước lấp lánh, sau khi cài vào chùm hoa màu đỏ rực như ngọn lửa cỏ kusa.
4079. Tựa như loài dây leo kāḷā có chùm hoa với những lá màu đỏ vào mùa khô hạn run rẩy trước gió tựa như ngọn lửa, nàng là ai mà đứng nhìn xuống tựa như kẻ ngây ngô, dường như đang suy tính câu nói mà không thốt nên lời?”
4080. “Thiếp là Hirī (liêm sỉ), nữ Thần được tôn vinh bởi loài người, luôn luôn có sự gần gũi với những chúng sanh không ác xấu. Do việc tranh cãi về phần thức ăn của thần tiên, thiếp đi đến gặp ngài. Thiếp đây không thể cầu xin ngay cả thức ăn của thần tiên ấy, (bởi vì) việc cầu xin đối với người nữ giống như việc phô bày phần kín đáo của cơ thể.”
4081. “Hỡi nàng tiên có cơ thể xinh xắn, theo nguyên tắc, theo quy định, nàng sẽ nhận được, bởi vì điều ấy là nguyên tắc: Không do cầu xin mà có được thức ăn của thần tiên. Vì thế, ta thỉnh mời nàng là người không cầu xin. Nàng muốn loại nào trong thức ăn của thần tiên, ta sẽ cho nàng loại ấy.
4082. Hỡi cô nàng có thân thể tựa như khối vàng, hôm nay nàng đây được ta thỉnh mời đến khu ẩn cư của ta, bởi vì nàng xứng đáng được cúng dường với tất cả các hương vị. Sau khi cúng dường nàng xong, ta cũng sẽ ăn thức ăn của thần tiên.”
4083. Nàng tiên ấy đã được vị Kosiya có sự chói sáng (năng lực) cho phép,
nàng Hirī quả thật đã đi vào nơi ẩn cư đáng yêu;
(nơi ấy) có nước uống, có trái cây được cúng dường cao thượng,
luôn luôn có sự gần gũi với những chúng sanh không ác xấu.
4084. Nơi này có nhiều lùm cây rậm đã được trổ hoa:
các cây xoài, các cây piyāla, các cây mít, các cây kiṃsukā,
các cây sobhañjana, các cây lodda, rồi các cây padmaka nữa,
các cây keka, các cây bhaṅga và các cây tilaka đã được trổ hoa.
4085. Nơi này có nhiều cây sa-la, các cây bông hường, các cây mận đỏ,
các cây bồ-đề, các cây đa, các cây cam thảo, và các cây sậy,
các cây bả đậu, các cây hoa kèn, các cây sindhuvāraka,
các cây mucalinda và các cây ketaka với mùi thơm làm thích ý.
4086. Các cây họ đậu, các cây veḷuka, các cây sậy, và các cây tinduka,
các cây cao lương, các cây kê, rồi các cây đậu nành nữa,
các cây moca, các cây chuối, ở đây có nhiều lúa sāli (mọc ven hồ),
các cây lúa pavīhi, các cây liễu, và các cây lúa taṇḍula.
4087. Và ở về phía bắc của nơi này có hồ sen an lành,
không gồ ghề, không hố sâu, tốt lành, không có mùi khó chịu.
4088. Nơi ấy có nhiều thức ăn, các con cá có sự bình an cùng nhau nô đùa: các giống cá siṅgu, cá savaṅka, cá sakula, cá satavaṅka, cá hồng, và đông đúc loài cá āli, cá gaggaraka, cá pāṭhīna, và các cá nhỏ mồi của lũ quạ.
4094. Khi ấy, nàng tiên Hirī đã đi đến ngồi ở chiếc ghế nệm, đang mong muốn mỏi thức ăn của thần tiên. Bậc đại hiền trí Kosiya, tóc bện, mặc y da dê, đã mau mắn đích thân trao thức ăn của thần tiên cùng với nước uống (được mang về) bằng những chiếc lá mới cho nàng tiên nữ ấy.
4095. Nàng tiên ấy, sau khi nhận lấy thức ăn bằng cả hai bàn tay,
được hoan hỷ, đã nói với vị mang bện tóc rằng:
“Bây giờ, thiếp đã được ngài cúng dường,
thưa vị Bà-la-môn, người có sự chiến thắng nên đi đến Thiên giới.”
4096. Được vị Kosiya có sự chói sáng (năng lực) cho phép, nàng tiên ấy, đắm say với sự kiêu hãnh về sắc đẹp, sau khi đi đến nơi hiện diện của đấng Ngàn Mắt, đã nói rằng: “Thưa Thiên Chủ Vāsava, đây là thức ăn của thần tiên. Xin ngài hãy ban cho thiếp sự chiến thắng.”
4097. Vào lúc nàng đã đi đến ngồi vào chiếc ghế nệm mới, khi ấy, Thiên Chủ Sakka cũng đã cúng dường nàng ấy với chiếc ghế ấy. Và cùng với Thiên Chủ Inda, chư Thiên đã cúng dường đến nàng tiên nữ ưu tú. Được chư Thiên và nhân loại cúng dường, nàng tiên ấy đã chắp tay lại.
4099. Mātali đã đưa cỗ xe ấy vượt lên nhằm mục đích lao đi dễ dàng.
Cỗ xe, trong lúc đang chói sáng, tương tự như một tòa nhà,
với càng xe bằng vàng đỏ Jambu giống như đã được đốt nóng,
đã được trang hoàng, đã được tô điểm bằng vàng và bảy loại bảo ngọc.
4106. Các nàng trinh nữ được dòng họ bảo hộ,
các góa phụ, và các phụ nữ đã có chồng,
các nàng ấy, khi dục vọng và luyến ái ở các nam nhân sanh khởi,
chận đứng tâm của chính mình nhờ vào sự liêm sỉ.
Bổn sanh Thức Ăn của Thần Tiên. [535]
***
Câu chuyện đã được thuyết như vầy, đã được nghe như vầy:
Ở một vùng núi non có đủ mọi thứ dược liệu, được trải dài với nhiều khóm hoa, được lui tới bởi các loài thú như voi, bò tót, trâu, nai vàng, bò mộng, hươu sao, tê ngưu, nai đốm, sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, chó rừng, rái cá, linh dương, mèo rừng, thỏ tai dài, được trú ngụ đông đúc bởi các đoàn thú nhỏ, các bầy heo rừng, các đàn voi đực, các nhóm voi cái, được lai vãng bởi các loài gấu đen, khỉ, nai sarabha, sơn dương, nai gió, nai nhiều màu, nữ dạ-xoa mõm lừa, nhân điểu, dạ-xoa, quỷ sứ, được trải dài với nhiều lùm cây rậm rạp có các chồi non và các nụ hoa, có những bông hoa nở rộ ở đầu cành, được náo nhiệt với hàng trăm con chim đang say sưa nhảy nhót như chim ưng, chim trĩ, chim đại bàng, chim công, chim cu gáy, gà lôi, chim celāvaka, chim bhiṅkāra, chim cu rừng; ở vùng đất được tô điểm và được bao phủ bởi hàng trăm khoáng chất như ăng-ti-mon, thạch tín, hùng hoàng, thần sa, vàng, bạc, vàng khối; quả thật thưa ông, ở khu rừng rậm thật sự đáng yêu với hình thức như vậy, có con chim tên Kuṇāla vô cùng xinh đẹp, có sự che phủ với bộ lông vô cùng sặc sỡ, trú ngụ.–[1]
Thưa ông, quả thật có ba ngàn năm trăm con chim mái làm công việc hầu hạ cho chính con chim Kuṇāla ấy. Và quả thật, thưa ông, hai con chim mái dùng mỏ ngậm khúc cây rồi đặt con chim Kuṇāla ấy ngồi ở giữa (khúc cây) rồi bay lên (nghĩ rằng): “Chớ để sự mệt nhọc ở con đường di chuyển xa xôi làm cho chim Kuṇāla ấy rơi khỏi chỗ ngồi.”–
Năm trăm con chim mái bay ở phía bên dưới (nghĩ rằng): “Nếu chim Kuṇāla này rơi khỏi chỗ ngồi, chúng ta sẽ đón lấy chim ấy bằng những cặp cánh.”–
Năm trăm con chim mái bay ở phía bên trên (nghĩ rằng): “Chớ để sức nóng thiêu đốt chim Kuṇāla ấy.”–
Năm trăm con chim mái bay ở phía hai bên hông (nghĩ rằng): “Chớ để sự lạnh, sự nóng, cỏ rác, bụi bặm, gió máy, hay mù sương đến gần và chạm vào chim Kuṇāla ấy.”–
Năm trăm con chim mái bay ở phía trước (nghĩ rằng): “Chớ để những kẻ chăn bò, những kẻ chăn thú, những kẻ cắt cỏ, những kẻ nhặt củi, hay những kẻ làm rừng dùng que củi, mảnh sành, nắm tay, (tảng đá), cục đất, cây gậy, con dao, hay viên sỏi công kích chim Kuṇāla ấy. Chớ để chim Kuṇāla này xung đột với những bụi cây, với các giống cây leo, với những thân cây, với những cành cây, với những cột trụ, với những tảng đá, hoặc với những con chim có sức mạnh.”–
Năm trăm con chim mái bay ở phía sau chăm sóc bằng những lời nói mềm mỏng, trìu mến, dịu dàng, ngọt ngào (nghĩ rằng): “Chớ để chim Kuṇāla này chán nản ở nơi chỗ ngồi.”–
Năm trăm con chim mái bay đi đó đây mang về trái cây đủ thứ đủ loại của nhiều giống cây (nghĩ rằng): “Chớ để chim Kuṇāla này mệt nhọc vì đói.”–
Và quả thật, thưa ông, những con chim mái ấy đã nhanh chóng đưa con chim Kuṇāla ấy đi thưởng ngoạn từ khu vườn này đến khu vườn khác, từ vườn hoa này đến vườn hoa khác, từ bến sông này đến bến sông khác, từ đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, từ rừng xoài này đến rừng xoài khác, từ rừng mận đỏ này đến rừng mận đỏ khác, từ rừng mít này đến rừng mít khác, từ trảng dừa này đến trảng dừa khác nhằm mục đích tiêu khiển.–
Và quả thật, thưa ông, con chim Kuṇāla ấy, được những con chim mái ấy cung phụng mỗi ngày, lại miệt thị như vầy: “Hãy đi hết đi, các nàng là những kẻ hạ tiện! Hãy biến mất hết đi, các nàng là những kẻ hạ tiện, trộm cướp, vô lại, lơ là, có tâm thay đổi, không biết ân nghĩa, đi lại tùy tiện như là làn gió vậy!”
Thưa ông, quả thật ở về khu vực phía Đông của chính ngọn núi chúa Hi-mã-lạp ấy, có những dòng nước trong xanh phát xuất từ ngọn núi, vô cùng tinh khiết, vô cùng hoàn hảo.–
Ở vùng đất có hương thơm trong lành, dễ chịu, sáng sủa, đã vươn lên những loài hoa ở nước có trăm cánh, có mùi thơm dịu như sen sanh, súng trắng, sen hồng, sen trắng.–
Ở khu rừng với những chòm cây như cây kuravaka, cây mucalinda, cây ketaka, cây vetasa, cây vañjula, cây nguyệt quế, cây vakula, cây tilaka, cây piyaka, cây asana, cây sa-la, cây salala, cây cầy, cây vô ưu, cây lim, cây tirīṭa, cây bhujapatta, cây lodda, cây trầm hương; ở những rừng cây rậm với những cây kāḷāgaḷu, cây padmaka, cây thuốc piyaṅgu, cây thông, cây chuối; ở những bụi cây mang những chùm hoa như cây kakudha, cây kuṭaja, cây aṅkola, cây kaccikāra, cây kaṇikāra (có hoa lớn), cây kaṇṇakāra (có hoa nhỏ), cây trúc đào, cây koraṇḍa, cây koviḷāra, cây kiṃsuka, cây hoa nhài, cây hoa nhài rừng, cây anaṅgaṇa, cây manavajja, cây bhaṇḍi, cây surucira, cây bhaginimāla, v.v..., được trải dài với những đầm lầy mọc những giống cây có mùi thơm như cây hoa nhài trâu, cây madhugandhika, cây dhanukāri, cây tāḷīsa, cây tagara, cây usīra, cây koṭṭha; ở vùng đất trải dài được tô điểm với những giống dây leo đã nở rộ hoa toàn bộ như giống dây leo atimuttaka; ở vùng đất được vang dội tiếng kêu của các loài chim thiên nga, vịt trời, ngỗng xám, ngỗng đen, được cư ngụ bởi những nhóm các thầy chú thuật, các vị làm trỏ quỷ thuật, các Sa-môn, và các đạo sĩ khổ hạnh, được tới lui bởi các Thiên thần, các Dạ-xoa, các quỷ sứ, các yêu tinh, các Càn-thát-bà, các loài nhân điểu, và các mãng xà; thưa ông, quả thật ở khu rừng rậm thật sự đáng yêu với hình thức như vậy, có con chim cu cu chúa tên Puṇṇamukha có giọng hót vô cùng ngọt ngào, có cặp mắt rực sáng tựa như cặp mắt đỏ ngầu của những kẻ say đắm dục lạc, trú ngụ.
Thưa ông, quả thật có ba trăm năm mươi con chim mái làm công việc hầu hạ cho chính con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy. Lúc bấy giờ, thưa ông, hai con chim mái dùng mỏ ngậm khúc cây rồi đặt con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy ngồi ở giữa (khúc cây) rồi bay lên (nghĩ rằng): “Chớ để sự mệt nhọc ở con đường di chuyển xa xôi làm cho chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy rơi khỏi chỗ ngồi.”–
Năm mươi con chim mái bay ở phía bên dưới (nghĩ rằng): “Nếu chim cu cu chúa Puṇṇamukha này rơi khỏi chỗ ngồi, chúng ta sẽ đón lấy chim ấy bằng những cặp cánh.”–
Năm mươi con chim mái bay ở phía bên trên (nghĩ rằng): “Chớ để sức nóng thiêu đốt chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy.”–
Năm mươi con chim mái bay ở phía hai bên hông (nghĩ rằng): “Chớ để sự lạnh, sự nóng, cỏ rác, bụi bặm, gió máy, hay mù sương đến gần và chạm vào chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy.”–
Năm mươi con chim mái bay ở phía trước (nghĩ rằng): “Chớ để những kẻ chăn bò, những kẻ chăn thú, những kẻ cắt cỏ, những kẻ nhặt củi, hay những kẻ làm rừng dùng que củi, mảnh sành, nắm tay, (tảng đá), cục đất, cây gậy, con dao, hay viên sỏi công kích chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy. Chớ để chim cu cu chúa Puṇṇamukha này xung đột với những bụi cây, với các giống cây leo, với những thân cây, với những cành cây, với những cột trụ, với những tảng đá, hoặc với những con chim có sức mạnh.”–
Năm mươi con chim mái bay ở phía sau chăm sóc bằng những lời nói mềm mỏng, trìu mến, dịu dàng, ngọt ngào (nghĩ rằng): “Chớ để chim cu cu chúa Puṇṇamukha này chán nản ở nơi chỗ ngồi.”–
Năm mươi con chim mái bay đi đó đây mang về trái cây đủ thứ đủ loại của nhiều giống cây (nghĩ rằng): “Chớ để chim cu cu chúa Puṇṇamukha này mệt nhọc vì đói.”–
Và quả thật, thưa ông, những con chim mái ấy đã nhanh chóng đưa con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy đi thưởng ngoạn từ khu vườn này đến khu vườn khác, từ vườn hoa này đến vườn hoa khác, từ bến sông này đến bến sông khác, từ đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, từ rừng xoài này đến rừng xoài khác, từ rừng mận đỏ này đến rừng mận đỏ khác, từ rừng mít này đến rừng mít khác, từ trảng dừa này đến trảng dừa khác nhằm mục đích tiêu khiển.–
Và quả thật, thưa ông, con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy, đã được những con chim mái ấy cung phụng mỗi ngày, nên khen ngợi như vầy: “Tốt lắm, tốt lắm, này các cô em! Hãy đến, này các cô em! Việc các nàng phục vụ người chồng là thích đáng với những cô con gái gia tộc danh giá các nàng!”
Và quả thật, thưa ông, con chim cu cu chúa Puṇṇamukha đã đi đến gặp con chim Kuṇāla. Các con chim mái hầu hạ chim Kuṇāla đã nhìn thấy con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy từ đằng xa đang đi lại; sau khi nhìn thấy, chúng đã đi đến gặp con chim cu cu chúa Puṇṇamukha; sau khi gặp, chúng đã nói với con chim cu cu chúa Puṇṇamukha điều này: “Này bạn cu cu chúa, con chim Kuṇāla này vô cùng thô lỗ, có lời nói vô cùng thô lỗ. Hy vọng sau khi ngài đến, chúng tôi có thể nhận được lời nói trìu mến.” “Này các chị, hy vọng là vậy.” Nói xong, con chim cu cu chúa đã đi đến gặp con chim Kuṇāla, sau khi đến đã tỏ ra vui vẻ với con chim Kuṇāla rồi ngồi xuống ở một bên. Sau khi ngồi xuống ở một bên, con chim cu cu chúa Puṇṇamukha đã nói với con chim Kuṇāla ấy điều này: “Này bạn Kuṇāla, tại sao bạn lại cư xử sái quấy đối với các chim mái thuộc dòng dõi cao sang, là những cô con gái gia tộc danh giá, và đã cư xử đúng đắn? Này bạn Kuṇāla, nghe rằng, ngay cả đối với những phụ nữ có lời nói không hợp ý, cũng nên có lời nói hợp ý, huống hồ là đối với những phụ nữ có lời nói hợp ý?”–
Khi được nói như vậy, con chim Kuṇāla đã miệt thị con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy như vầy: “Ngươi hãy đi đi, này ông bạn thấp hèn, hạ tiện! Hãy biến mất đi, này ông bạn thấp hèn, hạ tiện. Ai mà giống như ngươi, là kẻ thông thái mà còn thua mụ vợ?” Và bị miệt thị như vậy, con chim cu cu chúa Puṇṇamukha đã từ nơi ấy quay trở về.
Và quả thật, thưa ông, vào một lúc khác không lâu sau đó, có cơn bệnh thô tháo đã sanh khởi đến chim cu cu chúa Puṇṇamukha, có sự xuất huyết, có các cảm thọ khốc liệt xuất hiện, có sự cận kề cái chết. Và quả thật, thưa ông, các con chim mái hầu hạ chim cu cu chúa Puṇṇamukha đã khởi ý rằng: “Chim cu cu chúa Puṇṇamukha này bị bệnh, hy vọng có thể qua khỏi cơn bệnh này.” Sau khi bỏ bê chim ấy chỉ một mình, không kẻ thứ hai, chúng đã đi đến gặp chim Kuṇāla. Con chim Kuṇāla đã nhìn thấy các con chim mái ấy từ đằng xa đang đi lại, sau khi gặp những con chim mái ấy, nó đã nói điều này: “Chồng của lũ hạ tiện các ngươi ở đâu?” “Thưa bạn Kuṇāla, chim cu cu chúa Puṇṇamukha bị bệnh, hy vọng có thể qua khỏi cơn bệnh ấy.” Khi được nói như vậy, con chim Kuṇāla đã miệt thị các con chim mái rằng: “Hãy đi hết đi, các nàng là những kẻ hạ tiện! Hãy biến mất hết đi, các nàng là những kẻ hạ tiện, trộm cướp, vô lại, lơ là, có tâm thay đổi, không biết ân nghĩa, đi lại tùy tiện như là làn gió vậy!” Nói xong, nó đã đi đến gặp chim cu cu chúa Puṇṇamukha, sau khi đến đã nói với chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy điều này: “Chào bạn Puṇṇamukha.” “Chào bạn Kuṇāla.”–
Và quả thật, thưa ông, chim Kuṇāla đã ôm choàng lấy chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy bằng cặp cánh và cái mỏ, nâng đứng dậy, rồi đã cho uống nhiều loại thuốc khác nhau. Và quả thật, thưa ông, cơn bệnh ấy của chim cu cu chúa Puṇṇamukha đã được thuyên giảm.
Và quả thật, thưa ông, khi con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy đã qua khỏi cơn bệnh, khi con chim chúa vừa qua khỏi cơn bệnh không lâu lắm, chim Kuṇāla đã nói với con chim chúa điều này: “Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn thấy nàng Kaṇhā có hai người cha, năm người chồng, và tâm của nàng đang gắn bó vào người đàn ông thứ sáu, là gã có cổ rụt, bị què quặt. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng:
4114. ‘Ajjuna, Nakula, Bhīmasena,
Yudhiṭṭhila, và đức vua Sahadeva,
sau khi đã qua mặt năm người chồng này, người đàn bà
đã làm việc xấu xa cùng với gã lùn bị gù lưng.’
Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn thấy nữ Sa-môn Saccatapāvī, trong lúc đang sống ở giữa bãi tha ma và cho đi bữa ăn thứ tư (năm ngày ăn một bữa), đã làm việc xấu xa cùng với con trai của người thợ kim hoàn.
Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn thấy bà hoàng hậu tên Kākātī, vợ của Kim-sỉ-điểu chúa Venateyya, trong lúc đang sống ở giữa biển khơi, đã làm việc xấu xa cùng với nhạc công Naṭakuvera.
Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn thấy cô công chúa xinh đẹp với lớp lông vàng ở bụng tên Kuruṅgadevī, trong lúc đang yêu Eḷakamāraka, đã làm việc xấu xa cùng với tướng quân Chaḷaṅgakumāra và người hầu Dhanantevāsi của vị tướng quân ấy.
4115. Tôi còn biết chuyện như vầy về người mẹ của Brahmadatta, sau khi ruồng bỏ vị vua xứ Kosala, đã làm việc xấu xa cùng với Pañcālacaṇḍa.
4116. Các nàng này và các nàng khác đã làm việc xấu xa;
vì thế, tôi không tin tưởng các nữ nhân, không ca ngợi họ.
Giống như đại địa cầu, quả đất, có sự yêu thích đồng đều,
là nơi cất giữ của cải, nơi chứa đựng thứ này thứ khác (tốt lẫn xấu),
có sự cam chịu tất cả, không có xao động, không bị chuyển dịch,
các nữ nhân là tương tự, người nam không nên tin tưởng các nàng.
4117. Giống như loài sư tử có thức ăn là máu và thịt,
là loại thú dữ, có năm chân (tính thêm cái miệng), vô cùng tàn nhẫn,
ra sức hành hạ rồi ăn thịt, thích thú việc hãm hại động vật khác,
các nữ nhân là tương tự, người nam không nên tin tưởng các nàng.
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, những người đàn bà này không phải là các gái điếm hay các kỹ nữ, bởi vì những người đàn bà này không có bản chất của gái điếm hay kỹ nữ, các nàng này được gọi là các dâm phụ, được gọi là các ác phụ.
Các nàng như là lũ trộm cướp có búi tóc đã được bện lại, như là rượu tẩm thuốc độc, như là thương buôn với lời nói ca ngợi (hàng hóa của mình), cong queo tựa như sừng của loài nai issa, tựa như loài rắn có hai lưỡi, tựa như cái hố đã được che đậy, tựa như vực thẳm ở đại dương khó lấp đầy, như là quỷ cái khó làm hài lòng, tựa như Diêm Vương chỉ có bắt đem đi, tựa như ngọn lửa có sự thiêu đốt mọi thứ, tựa như dòng sông có sự cuốn trôi tất cả, như là làn gió có sự di chuyển theo ý thích, như là núi Neru làm cho mọi thứ trở nên không còn khác biệt, như là giống cây độc hại thường xuyên kết trái. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng:
4118. ‘Giống như kẻ trộm cướp, giống như đã bị tẩm thuốc độc, như là thương buôn có sự ca ngợi, cong queo như là sừng của loài nai issa, giống như con rắn có hai lưỡi.
4119. Tựa như cái hố đã được che đậy, tựa như vực thẳm khó lấp đầy, như là quỷ cái khó làm hài lòng, tựa như Diêm Vương chỉ có bắt đem đi, giống như ngọn lửa, dòng sông có sự mang đi, tựa như làn gió có sự di chuyển theo ý thích.
4120. Và tựa như núi Neru làm cho không còn khác biệt, như là giống cây độc hại thường xuyên kết trái, những người đàn bà làm tiêu hoại của cải ở trong nhà và làm biến mất các loại báu vật.’
Này bạn Puṇṇamukha, bốn thứ này không nên để ở nhà của người khác: bò đực, bò sữa, cỗ xe, người vợ; bậc sáng suốt không nên để bốn loại phương tiện này rời khỏi nhà.
4121. Bò đực, bò cái, cỗ xe,
và người vợ, không nên để ở gia tộc của thân quyến.
Không rành rẽ về cỗ xe, chúng phá hỏng cỗ xe.
Do việc kéo quá nặng, chúng giết chết con bò đực.
Do việc vắt sữa, chúng giết chết con bò cái.
Ở trong các gia tộc của thân quyến, người vợ bị hư hỏng.
Này bạn Puṇṇamukha, sáu thứ này là không có sự lợi ích, khi có công việc phải làm.
4122. Cây cung không có dây, và người vợ ở gia tộc của thân quyến,
chiếc thuyền ở bờ bên kia, và cỗ xe bị gãy trục,
bạn bè ở xa, và kẻ cộng sự ác xấu,
khi có công việc phải làm, chúng không có sự lợi ích.
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân khi dễ người chồng do tám sự việc: do nghèo khó, do bệnh tật, do già cả, do nghiện rượu, do ngu khờ, do xao lãng, cặm cụi trong mọi công việc, không trao tất cả tài sản (cho vợ). Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân khi dễ người chồng do tám sự việc này. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng:
4123. ‘Các nữ nhân khi dễ người chồng nghèo khó, bệnh tật, già cả, nghiện rượu, bị xao lãng, có tình trạng ngu khờ, bị say đắm trong các công việc nên có sự lơ là, d0 việc ban cho mọi ước muốn (của vợ).’
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân mang lại sự xấu xa do chín sự việc: có thói quen đi đến vườn hoa, có thói quen đi đến vườn thượng uyển, có thói quen đi đến bến tắm ở sông, có thói quen đi đến nhà thân quyến, có thói quen đi đến nhà người khác, có thói quen gắn bó với gương soi, vải vóc, và việc trang điểm, thường uống chất say, có thói quen nhìn qua cửa số, thường đứng ở cửa ra vào. Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân mang lại sự xấu xa do chín sự việc này. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng:
4124. ‘Có thói quen đi đến vườn hoa, vườn thượng uyển,
bến sông, thân quyến, và nhà người khác,
gắn bó với vải vóc, và việc trang điểm,
là nữ nhân thường uống chất say,–
4125. –nàng có có thói quen nhìn qua cửa số,
và thường đứng ở cửa ra vào;
do chín sự việc này,
các nữ nhân mang lại sự xấu xa.’
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân quyến rủ nam nhân bằng bốn mươi sự việc: ưỡn người lên, cúi xuống, làm dáng, (gãi nhẹ ở làn da), làm bộ e thẹn, bấm ngón tay này với ngón tay kia, gác chân này lên chân kia, vạch lên mặt đất bằng thanh gỗ, bảo gã trai tơ nhảy lên nhảy xuống, chơi giỡn và bảo gã trai tơ chơi giỡn, hôn và bảo gã trai tơ hôn, ăn và bảo gã trai tơ ăn, ban cho, van xin, nhái lại hành động, nói lớn tiếng, nói hạ giọng, nói công khai, nói lén lút, cười giỡn bằng các việc múa - hát - tấu nhạc - khóc lóc - làm dáng - trang điểm, nhìn chăm chú, lắc hông, lắc háng, phô bày bắp vế, che đậy bắp vế, khoe vú, khoe nách, khoe rún, nheo mắt, nhướng mày, cắn môi, (cắn lưỡi), liếm môi, nới lỏng xiêm y, buộc lại xiêm y, xõa tóc, buộc tóc; nữ nhân quyến rủ nam nhân bằng bốn mươi sự việc này.
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân hư đốn được nhận biết do hai mươi lăm sự việc: nàng ca ngợi việc vắng nhà của chồng, không nhớ nhung khi chồng vắng nhà, không vui mừng khi chồng trở về, nói lời chê bai chồng, không nói lời ca ngợi chồng, thực hiện điều bất lợi cho chồng, không thực hiện điều lợi ích cho chồng, làm việc không phải là bổn phận đối với chồng, không làm bổn phận đối với chồng, mặc đồ kín đáo đi ngủ, nằm quay mặt hướng khác, nằm trăn qua trở lại và còn quấy rối nữa, thở dài, kêu than khổ, đi tiêu tiểu thường xuyên, cư xử trái khoáy, nghe âm thanh của nam nhân khác thì chăm chú lắng nghe, lại còn phá của, giao du thân mật với các người láng giềng, lại còn quen thói đi ra ngoài, hay đi dạo ở đường phố, lại còn ngoại tình nữa, không tôn trọng chồng và có tâm tư xấu xa, thường xuyên đứng ở cửa ra vào, cho nhìn thấy các đồ lót, cơ thể, và bộ ngực, đi chỗ này chỗ nọ ngắm nhìn. Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân hư đốn được nhận biết do hai mươi lăm sự việc này. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng:
4137. Nàng Pañcapāpī là vợ của vua Baka và vua Pāvārika, hai vị vua đeo đuổi dục lạc tột đỉnh. Nàng đã làm điều tà hạnh với kẻ thuộc quyền sai khiến của chồng, vậy còn người nam nào khác nữa mà nữ nhân sẽ không cư xử vượt quá giới hạn?
4144. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, không nhìn thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng lánh xa người ấy ở mọi nơi, tựa như người đã vượt qua, đã đi đến bờ bên kia của dòng sông, xa lánh chiếc bè.
4145. Nữ nhân giống như chất kết dính, tựa như ngọn lửa có sự thiêu đốt tất cả. Các nàng có sự phỉnh lừa chóng vánh, tựa như con sông có dòng nước chảy xiết. Bởi vì các nàng ấy hầu hạ người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống như con thuyền ghé vào bến đò ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.
4146. Các nàng ấy không thuộc về một người, không thuộc về hai người, các nàng ấy tựa như cửa tiệm đã được trưng bày. Kẻ nào nghĩ rằng: ‘Các nàng ấy là thuộc về ta,’ kẻ ấy tưởng rằng có thể tóm gọn làn gió bằng cái lưới.
4147. Giống như dòng sông, con đường, quán nước, phòng hội, lều nghỉ chân, các nữ nhân ở thế gian được gọi là như vậy, giới hạn của các nàng ấy không thể biết được.
4148. Thật vậy, các nàng ấy như là ngọn lửa tế thần, tương tự như đầu con rắn độc màu đen, tựa như bầy bò đối với cọng cỏ ở bên lề, chúng chỉ gặm những cọng ngon nhất.
4149. Ngọn lửa tế thần, con voi, rắn độc màu đen,
người đã được làm lễ phong vương, và tất cả các nữ nhân,
năm hạng này, người nam thường xuyên thận trọng mới có thể giao thiệp.
Thật vậy, mọi ý định của những hạng ấy khó mà biết được.
4150. Không nên thân cận với người nữ có sắc đẹp quá mức, với người nữ được nhiều người yêu thương, với người phụ nữ tài hoa, với nữ nhân là vợ của kẻ khác, với nữ nhân thân cận vì nguyên nhân tài sản; năm hạng nữ nhân này không nên thân cận.”
4152. Dầu cho chàng sốt sắng, có thói quen hoạt động,
là người chồng từ lúc còn son trẻ, đáng yêu, và hợp ý,
các nàng vẫn từ bỏ chàng vào những lúc rủi ro và những lúc hữu sự;
chính vì thế, ta không tin tưởng các nữ nhân.
4153. Người nam không nên tin tưởng nữ nhân (vì nghĩ rằng): ‘Nàng thích ta,’ không nên tin tưởng (vì nghĩ rằng): ‘Nàng khóc trong sự hiện diện của ta,’ bởi vì các nàng ấy hầu hạ người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống như con thuyền ghé vào bến đò ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.
4154. Không nên tin tưởng tấm thảm trải bằng lá cũ,
không nên tin tưởng kẻ trộm cướp dầu là người bạn cũ,
không nên tin tưởng vị vua (nghĩ rằng): ‘Là bạn hữu của ta,’
không nên tin tưởng nữ nhân dầu nàng là mẹ của mười đứa con.
4155. Không nên tin tưởng các nữ nhân là những người tạo ra lạc thú, có thói quen vượt qua lễ giáo, không tự kiềm chế. Người vợ dầu đã gắn bó và có sự yêu thương rất mực, cũng không nên tin tưởng nàng, bởi vì các nữ nhân thì tương tự như những bến tắm (là nơi công cộng của tất cả).
4156. Các nàng có thể giết, có thể chém, có thể cho người chém, thậm chí sau khi cắt đứt cổ họng, các nàng có thể uống máu tươi. Chớ nên đặt sự yêu thương ở những nữ nhân có dục vọng thấp kém, không tự kiềm chế, (vì các nàng ấy) giống như những bến tắm ở dòng sông.
4157. Nói dối đối với các nàng ấy giống như nói thật, nói thật đối với các nàng ấy giống như nói dối, tựa như bầy bò đối với cọng cỏ ở bên lề, chúng chỉ gặm những cọng ngon nhất.
4158. Các nàng ấy cám dỗ (nam nhân) bằng cách đi, bằng việc nhìn, và bằng việc nở nụ cười, rồi với việc ăn bận xộc xệch, và với lời nói dịu dàng.
4164. Các nàng ruồng bỏ người con trai gia đình danh giá không có tài sản cũng giống như ruồng bỏ kẻ dòng dõi hạ tiện, bởi vì các nữ nhân đeo đuổi, xiêu lòng vì nguyên nhân tài sản.”
4166. Mọi dòng sông ở quả đất đều chảy về biển cả. Chúng không làm tràn đầy biển cả, bởi vì sự thiếu thốn (của biển cả) không được làm cho đầy đủ (do biển cả quá rộng lớn so với lượng nước được đổ vào).
4167. Vị Bà-la-môn, sau khi học xong kinh Vệ Đà và truyền thống là thứ năm, mong muốn kiến thức càng nhiều hơn nữa, bởi vì sự thiếu thốn (của vị Bà-la-môn) không được làm cho đầy đủ.
4171. Nam nhân có thể bắt giữ làn gió bằng cái lưới,
có thể tát cạn biển cả bằng một bàn tay,
có thể dập tắt âm thanh bằng cánh tay của mình,
là người có thể buông bỏ mọi yêu thương ở các nữ nhân.
4178. Đối với các nàng ấy, không có kỷ cương, không có sự gìn giữ;
các nàng ấy ưa thích rượu thịt, không tự kiềm chế.
Các nàng ấy tóm thâu tài sản của nam nhân,
tựa như con cá khổng lồ nuốt trọn con cá kiếm ở biển khơi.
4189. Kẻ ấy bị chê trách ở đời này và đời sau.
Kẻ có tâm hư hỏng, khi tiếp cận với nghiệp của mình,
đi đến chốn đọa đày với thời gian không xác định
tựa như cỗ xe được kéo bởi con lừa hư hỏng đi sai đường.
4192. Các nam nhân nào thực hành Phạm hạnh, không có sự tầm cầu các nữ nhân, thì các việc vui đùa cùng những sự thích thú thuộc Thiên giới, cuộc sống Chuyển Luân Vương ở loài người, và các tiên nữ có sự cư ngụ ở Thiên cung bằng vàng không phải là khó đạt được.
4193. Các nam nhân nào thực hành Phạm hạnh, không có sự tầm cầu các nữ nhân, thì cảnh giới tái sanh vượt qua khỏi Dục giới, sự hiện hữu ở Sắc giới, cùng với việc tái sanh ở chốn của những vị đã xa lìa luyến ái (Phạm Thiên giới) không phải là khó đạt được.
Bổn sanh Chim Chúa Kuṇāla. [536]
***
4196. “Này đầu bếp, tại sao ngươi lại làm những hành động vô cùng tàn bạo như thế này? Ngươi giết những người đàn bà và đàn ông do ngươi bị mê muội, vì nguyên nhân miếng thịt hay là vì lý do tài sản?”
4197. “Không vì nguyên nhân miếng thịt, không vì lý do tài sản,
không vì lý do vợ, con, bạn bè, hay thân quyến,
chủ nhân của tôi là đấng hộ quốc có quyền uy,
vị ấy ăn thịt như thế này, thưa ngài.”
4198. “Nếu bị gắn bó với lợi ích của chủ nhân mà ngươi
làm những hành động vô cùng tàn bạo như thế này,
vào sáng sớm mai, sau khi đi đến hoàng cung,
ngươi có thể nói với ta điều ấy trước mặt đức vua.”
4199. “Thưa ngài, tôi sẽ làm như thế ấy,
đúng với điều mà ngài nói, thưa tướng quân Kāḷahatthi.
vào sáng sớm mai, sau khi đi đến hoàng cung,
tôi sẽ nói với ngài điều ấy trước mặt đức vua.”
4203. “Con cá Ānanda, có sự thèm khát mùi vị của mọi loài cá, đã ăn thịt các con cá. Khi loài cá bị cạn kiệt hoàn toàn, nó đã ăn chính mình và chết đi.
4205. Sau khi nghe ví dụ này của thần, tâu bệ hạ, xin bệ hạ chớ thọ thực thịt người bởi lòng mong muốn không có nguyên nhân. Tựa như con cá Ānanda (đã khiến cho đại dương trở nên trống vắng), tâu vị lãnh tụ của loài hai chân, xin bệ hạ chớ làm cho đất nước trở thành trống không.”
4207. Tương tự y như vậy, này tướng quân Kāḷa, sau khi ăn món ăn có hương vị tối thượng, trẫm nghĩ rằng, không đạt được thịt người, trẫm sẽ từ bỏ mạng sống.”
4208. “‘Này Bà-la-môn trai trẻ, con có dáng vóc xinh đẹp, con được sinh ra ở gia tộc hưng thịnh. Này con yêu, con không thích hợp để thọ dụng vật không đáng thọ dụng.’
4209. ‘Bởi vì cha ngăn cấm con về rượu, vật có một hương vị nào đó trong bảy loại hương vị, con đây sẽ đi đến nơi nào con sẽ đạt được vật như thế ấy.
4210. Chính con đây sẽ ra đi, con sẽ không sống bên cạnh cha. Thưa vị Bà-la-môn, do việc nhìn thấy con đây, cha không vui thích.’
4211. ‘Này Bà-la-môn trai trẻ, đương nhiên cha sẽ đạt được những đứa con trai khác làm kẻ thừa kế. Còn ngươi, này kẻ hèn hạ, ngươi hãy biến mất đi. Ngươi đi đến nơi nào, ta sẽ không nghe ngóng về ngươi ở nơi ấy nữa.’
4215. Tương tự y như thế, này tướng quân Kāḷa, sau khi ăn món ăn có hương vị tối thượng, trẫm nghĩ rằng, không đạt được thịt người, trẫm sẽ từ bỏ mạng sống.”
4218. “Đã được trẫm bảo: ‘Hãy đứng lại,’ ngài đây vẫn đi tới, mặt nhìn hướng khác. Này vị hành Phạm hạnh, ngài không đứng yên, nhưng lại nói: ‘Ta đang đứng.’ Này vị Sa-môn, điều này không thích hợp đối với ngài. Và ngài nghĩ rằng thanh gươm của trẫm là cọng lông chim diệc hay sao?”
4223. “Những người trí thức, có trí tuệ, có kiến thức, có nhiều sự suy xét về nguyên nhân, chắc chắn không than khóc, bởi vì sự sáng suốt ấy là hòn đảo (nương tựa) tối cao của những người nam, và các bậc sáng suốt là những người xua đi nỗi sầu muộn (cho những chúng sanh có sự sầu muộn).
4224. Này đại vương Sutasoma, vậy bệ hạcó thể hối tiếc về điều gì,
về bản thân, thân quyến, hay là vợ con,
về lúa gạo, tài sản, bạc, hay vàng?
Này vị đứng đầu của cư dân Kuru, chúng tôi lắng nghe lời nói của bệ hạ.”
4235. Và vị ấy đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người. Đức vua Sutasoma, sau khi đi đến gặp vị Bà-la-môn ấy, đã nói điều này: ‘Hãy cho trẫm nghe các kệ ngôn đáng giá một trăm tiền, này vị Bà-la-môn, các điều được trẫm nghe có thể đem lại lợi ích cho trẫm.’
4236. “Thưa ngài Sutasoma, việc gặp gỡ với những người tốt dầu chi một lần, sự hội ngộ ấy hộ trì vị ấy. Không gặp gỡ nhiều với những kẻ xấu.
4237. Bệ hạ hãy thân cận chỉ với những người tốt. Bệ hạ hãy thực hiện sự thân thiết với những người tốt. Người hiểu rõ chánh pháp của các bậc thiện nhân trở nên tốt hơn, không trở thành xấu hơn.
4238. Thật vậy, các cỗ vương xa khéo được tô điểm cũng trở thành cũ kỹ,
thậm chí thân xác này cũng đi đến sự già nua,
nhưng pháp của các bậc thiện nhân không đi đến sự lão hóa,
các bậc thiện nhân quả thật tuyên thuyết về điều tốt lành.
4239. Bầu trời là xa vời, và trái đất là xa vời,
bờ kia của biển cả là xa vời, các vị đã nói điều ấy.
Thật vậy, các vị nói về điều còn xa vời hơn thế nữa,
về pháp của các bậc thiện nhân và của những kẻ xấu xa, tâu bệ hạ.”
4240. “Các câu kệ này là tiền ngàn, các câu kệ này không phải giá tiền trăm. Này vị Bà-la-môn, ông hãy mau nhận lấy bốn ngàn.”
4242. “Con mong muốn sự tiến bộ về kiến thức cho bản thân,
và các bậc thiện nhân, những người tốt lành, có thể chia sớt cho con.
Con tựa như đại dương (không bị tràn đầy) với những dòng sông,
thưa cha, bởi vì con không nhàm chán đối với thiện ngôn.
4246. “Bởi vì, những người này là để bảo vệ bản thân:
các tượng binh, các xa binh, và các bộ binh,
các kỵ mã, và các cung thủ.
Chúng ta hãy sử dụng quân đội, chúng ta hãy giết chết kẻ thù.”
4254. “Không được ăn mười loại thịt, đã được vị Sát- đế- lỵ biết đến. Này vị chúa tể, ngươi ăn loại thịt không nên ăn; vì thế, ngươi là kẻ phi pháp.”
4255. “Bệ hạ đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người,
sau khi đi đến cung điện của mình, là người có sự ham muốn các dục,
bệ hạ còn quay trở lại trong vòng tay của kẻ thù.
Tâu bệ hạ, bệ hạ không thiện xảo về pháp của vị Sát- đế- lỵ.”
4256. “Những người nào thiện xảo về pháp của vị Sát- đế- lỵ,
phần đông những người ấy trở thành những kẻ sanh vào địa ngục.
Vì thế, trẫm từ bỏ pháp của vị Sát- đế- lỵ.
Là người gìn giữ sự chân thật, trẫm đã tự mình quay trở lại.
Này kẻ ăn thịt người, hãy dâng cúng lễ tế thần, hãy ăn thịt trẫm.”
4257. “Với các tòa lâu đài là chỗ trú ngụ, với đất đai, bò, ngựa,
với các nữ nhân là nguồn của dục vọng, với vải Kāsi, và trầm hương,
bệ hạ đạt được mọi thứ ở nơi ấy với tư cách chủ nhân,
bệ hạ nhìn thấy lợi ích gì với sự chân thật?”
4258. “Bất cứ những hương vị nào có cho trẫm ở trên trái đất,
trong số các hương vị ấy, sự chân thật là ngọt ngào hơn cả.
Và đứng vững ở sự chân thật, các vị Sa-môn và Bà-la-môn
vượt qua bờ kia của sanh và tử.”
4259. “Bệ hạ đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người,
sau khi đi đến cung điện của mình, là người có sự ham muốn các dục,
bệ hạ còn quay trở lại trong vòng tay của kẻ thù,
tâu vị chúa của loài người, chắc hẳn bệ hạ không có sự sợ hãi cái chết,
và bệ hạ có tâm không nhút nhát, có lời nói chân thật.”
4260. “Các hành động tốt lành với nhiều hình thức đã được trẫm làm,
các lễ tế thần đã được trẫm dâng cúng là to lớn, đã được ca ngợi,
con đường đi đến thế giới khác đã được sạch sẽ,
đã đứng vững ở sự chân thật, ai có thể sợ hãi đối với cái chết?
4268. “Giống như người nhận biết chất độc hại mà vẫn ăn vào, hoặc nhận biết con rắn độc có uy lực hung bạo tựa như ngọn lửa cháy rực, mà vẫn nắm giữ, (tương tự y như vậy) kẻ nào ăn thịt người có lời nói chân thật như bệ hạ, thậm chí cái đầu của kẻ ấy cũng có thể vỡ tan thành bảy mảnh.
4278. “Tình thân hữu được hội tụ giữa người thánh thiện với người thánh thiện, được hội tụ giữa người có trí tuệ với người có trí tuệ, (ước gì) có thể nhìn thấy ngươi một trăm tuổi, không bệnh tật; trẫm chọn điều này là điều thứ nhất trong bốn điều ân huệ.”
4279. “Tình thân hữu được hội tụ giữa người thánh thiện với người thánh thiện, được hội tụ giữa người có trí tuệ với người có trí tuệ, bệ hạ hãy nhìn thấy ta một trăm tuổi, không bệnh tật; ta ban cho điều này là điều thứ nhất trong bốn điều ân huệ.”
4280. “Những vị Sát-đế-lỵ nào là các bậc hộ trì lãnh thổ ở nơi này,
đã được làm lễ phong vương, đã được đặt danh hiệu,
ngươi chớ ăn thịt các vị lãnh chúa như thế ấy;
trẫm chọn điều này là điều thứ nhì trong bốn điều ân huệ.”
4281. “Những vị Sát-đế-lỵ nào là các bậc hộ trì lãnh thổ ở nơi này,
đã được làm lễ phong vương, đã được đặt danh hiệu,
ta sẽ không ăn thịt các vị lãnh chúa như thế ấy;
ta ban cho điều này là điều thứ nhì trong bốn điều ân huệ.”
4282. “Hơn một trăm vị Sát-đế-lỵ đã bị ngươi bắt giữ,
bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc.
Ngươi hãy đưa họ về lại đất nước của họ;
trẫm chọn điều này là điều thứ ba trong bốn điều ân huệ.”
4283. “Hơn một trăm vị Sát-đế-lỵ đã bị ta bắt giữ,
bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc.
Ta sẽ đưa họ về lại đất nước của họ;
ta ban cho điều này là điều thứ ba trong bốn điều ân huệ.”
4284. “Đất nước của ngươi bị tan hoang, bị đè nặng bởi các nỗi sợ hãi,
số đông người bỏ trốn vào hang động.
Này vị chúa tể, ngươi hãy chừa bỏ thịt người
trẫm chọn điều này là điều thứ tư trong bốn điều ân huệ.”
4285. “Món ăn ấy thật sự được thích ý đối với ta.
Vì nguyên nhân của việc này mà ta đi vào sống trong rừng.
Làm thế nào ta đây có thể kiêng cử vật này?
Bệ hạ hãy chọn điều khác là điều thứ tư trong bốn điều ân huệ.”
4286. “Này vị chúa của loài người, người như ngươi quả thật không nên nghĩ rằng: ‘Là vật yêu quý của ta,’ rồi quên đi bản thân và phụng sự các vật yêu quý. Chính bản thân là tốt hơn, cao cả hơn vật yêu quý. Các vật yêu quý có thể đạt được sau này nhờ vào phước thiện đã được tích lũy.”
4289. Và người nào, sau khi suy xét về điều này, rồi từ bỏ các vật yêu quý,
và còn phụng sự Thánh pháp bằng những việc cần phải làm,
tựa như người bị khổ đau đã được uống các loại thuốc chữa bệnh,
chính vì điều ấy, kẻ ấy được an lạc vào thời gian sau đó.”
4290. “Sau khi bỏ bê người cha và người mẹ,
và năm loại dục làm cho thích thú,
vì nguyên nhân của việc này mà ta đi vào sống trong rừng,
làm thế nào ta lại ban cho bệ hạ ân huệ ấy?”
4291. “Các bậc sáng suốt đã không nói lời nói theo hai cách,
các bậc thiện nhân có lời hứa hẹn với sự chân thật.
Ngươi đã nói với trẫm rằng: ‘Này bạn tốt, bệ hạ hãy chọn lấy,’
ngươi đã nói như thế, nhưng lời nói không đồng hành với ngươi.”
4292. “Sự nhận lãnh điều vô phước, sự mất danh vọng, mất tiếng tăm,
điều tội lỗi, nhiều việc làm xấu xa, sự ô uế,
vì nguyên nhân thịt người, ta đã đi đến (tình trạng như thế),
làm thế nào ta có thể ban cho bệ hạ ân huệ ấy?”
4294. Các bậc thiện nhân buông bỏ mạng sống, chứ thiện pháp thì không,
các bậc thiện nhân có lời hứa hẹn với sự chân thật.
sau khi ban cho điều ân huệ, ngươi hãy mau chóng thực thi,
này chúa thượng tốt lành, ngươi hãy hoàn thành điều này.
4295. Hơn nữa, người nào từ bỏ tài sản vì lý do (bảo vệ) tay chân,
thì nên từ bỏ tay chân trong khi bảo vệ mạng sống,
trong khi suy niệm về thiện pháp, người ấy nên từ bỏ
tay chân, tài sản, và mạng sống, thậm chí tất cả.
4296. Nhờ vào vị nào mà một người có thể nhận thức được lẽ phải,
và các bậc thiện nhân dẹp bỏ mối nghi ngờ đối với người này,
chính vị ấy là hòn đảo và là nơi nương tựa của người này;
người có sự hiểu biết không nên hủy hoại tình bạn với vị ấy.”
4300. “Do vị Kammāsapāda (này), các ngài đã bị quấy nhiễu,
bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc.
các ngài dứt khoát không được gây hấn với vị chúa tể này,
Các ngài hãy tuyên bố với trẫm lời hứa hẹn với sự chân thật.”
4301. “Do vị Kammāsapāda (này), chúng tôi đã bị quấy nhiễu,
bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc.
Chúng tôi dứt khoát không gây hấn với vị chúa tể này.
Chúng tôi tuyên bố với bệ hạ lời hứa hẹn với sự chân thật.”
4302. “Giống như người cha, hoặc thậm chí là người mẹ,
là bậc có lòng thương tưởng, mong mỏi điều lợi ích cho các con,
vị chúa tể này hãy tỏ ra tương tự y như vậy đối với các ngài,
và các ngài hãy tỏ ra giống y như những người con.”
4303. “Giống như người cha, hoặc thậm chí là người mẹ,
là bậc có lòng thương tưởng, mong mỏi điều lợi ích cho các con,
vị chúa tể này hãy tỏ ra tương tự y như vậy đối với chúng tôi,
và chúng tôi cũng sẽ tỏ ra giống y như là những người con.”
4307. Rồi tiếng âm nhạc, tiếng trống vào lúc nửa đêm
thêm vào dàn nhạc hòa tấu không có nam nhân,
với nhiều bài ca hay và điệu tấu nhạc khéo léo,
tại sao một người (như ngươi) lại từ bỏ và thích thú ở trong rừng?
4309. “Giống như vào nửa tháng thuộc hạ huyền, mặt trăng bị khuyết dần từng ngày một, tâu bệ hạ, việc gặp gỡ với những kẻ xấu là tương tự như nửa tháng thuộc hạ huyền.
4310. Giống như sau khi đi đến với gã đầu bếp, kẻ nấu ăn, hạng người hạ liệt, ta đã tạo ra nghiệp ác, vì việc ấy ta sẽ đi đến cảnh giới khổ đau.
4311. Giống như vào nửa tháng thuộc thượng huyền, mặt trăng tăng trưởng từng ngày một, tâu bệ hạ, việc gặp gỡ với những người tốt là tương tự như nửa tháng thuộc thượng huyền.
4312. Giống như ta sau khi đi đến với bệ hạ, thưa ngài Sutasoma, bệ hạ hãy nhận biết rằng ta sẽ tạo ra nghiệp thiện, nhờ thế ta sẽ đi đến cảnh giới an vui.
4313. Giống như nước luân chuyển ở đất gò, tâu vị chúa của loài người,
không thể duy trì thời gian dài, không tồn tại lâu,
cũng như vậy, nếu là việc gặp gỡ với những kẻ xấu,
thì không thể duy trì thời gian dài, tựa như nước ở đất gò.
4314. Giống như nước luân chuyển ở trong hồ, tâu vị chúa của loài người,
được tồn tại lâu dài, tâu vị tinh tấn hạng nhất của loài người,
cũng như vậy, nếu là việc gặp gỡ với những người tốt,
thì được tồn tại lâu dài, tựa như nước ở trong hồ
4315. Việc gặp gỡ với những người tốt là không bị hư hoại,
có thể tồn tại cho đến hết mạng sống, và giữ nguyên như thế.
Còn việc gặp gỡ với những kẻ xấu tàn tạ thật nhanh chóng,
vì thế, bản chất của những người tốt là xa lạ với những kẻ xấu.”
4318. Người ta không biết về vị không nói, (vì thế) bậc sáng suốt bị lẫn lộn với những kẻ ngu dốt; và người ta biết được vị đang nói, đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử.
4319. Vị có thể giảng giải, có thể làm rõ giáo pháp, có thể giương lên ngọn cờ của các bậc ẩn sĩ. Các bậc ẩn sĩ có thiện ngôn là ngọn cờ, chính giáo pháp là ngọn cờ của các bậc ẩn sĩ.”
Đại Bổn Sanh Sutasoma. [537]
*****
Chim tướng quân Sumukha, thêm nữa là chuyện Đại Thiên Nga,
và bổn sanh Thức Ăn của Thần Tiên là chuyện quý báu khác,
với chuyện có tên là chim chúa Kuṇāla,
và chuyện có tên vị Sutasoma cao quý tối thượng.
Nhóm Tám Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo--
[Mục lục][15][16][17][18][19][20][21]
[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]