TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 33
JĀTAKAPĀLI
- BỔN SANH tập II
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
3508. “Người nào nói cho trẫm về vị Soṇaka, người bạn đã cùng trẫm đùa nghịch đất cát, trẫm sẽ ban một trăm cho người nào đã nghe, một ngàn để trẫm nhìn thấy vị Soṇaka?”
3509. Khi ấy, một đứa bé trai dòng Bà-la-môn có năm búi tóc đã nói rằng: “Xin bệ hạ hãy cho một trăm sau khi lắng nghe lời nói của con, rồi một ngàn để nhìn thấy vị Soṇaka. Con sẽ nói về vị Soṇaka, người bạn đã cùng bệ hạ đùa nghịch đất cát.”
3510. “Vị Soṇaka ấy đã được con nhìn thấy ở đâu, ở xứ sở nào, ở các quốc độ nào và các thị trấn nào? Được hỏi, con hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”
3511. “Tâu bệ hạ, ở lãnh địa của chính bệ hạ, ở khu đất thuộc vườn thượng uyển của chính bệ hạ, có những cây sālā to lớn, giống cây có thân thẳng, có tán màu xanh lục, làm thích ý. Chúng đứng thẳng, nương tựa với nhau, đáng yêu, tương tự đám mây.
3512. Vị Soṇaka tham thiền ở gốc của những cây ấy, không còn chấp thủ, đã được tịch tịnh, trong khi các chúng sanh có sự chấp thủ đang bị thiêu đốt.”
3513. Và sau đó, đức vua đã xuất phát cùng với bốn binh chủng. Sau khi đã cho làm bằng phẳng con đường, đức vua đã đi đến nơi vị Soṇaka trú ngụ.
3514. Sau khi đi đến khu đất thuộc vườn thượng uyển, trong lúc đang đi loanh quanh ở khu vườn rộng lớn, đức vua đã nhìn thấy vị Soṇaka đang ngồi, đã được tịnh tịnh, ở giữa những người đang bị thiêu đốt.
3515. “Vị tỳ khưu này quả thật khốn khổ, đầu cạo trọc, được trùm lại với tấm y khoác ngoài, không có mẹ, không có cha, đang tham thiền ở gốc cây.”
3516. Sau khi nghe được lời nói ấy, vị Soṇaka đã nói điều này: “Tâu bệ hạ, người đạt được thiện pháp bằng thân thì không khốn khổ.
3517. Ở đây, người nào lơ là thiện pháp và hành theo bất thiện pháp, tâu bệ hạ, người ấy bị khốn khổ, là kẻ ác, có sự nương tựa vào việc ác.”
3518. “Tên của trẫm là: ‘Arindama (bậc thuần hóa kẻ thù).’ Mọi người biết trẫm là: ‘Vua của xứ Kāsi.’ Thưa vị Soṇaka, có lẽ sự nghỉ ngơi của ngài được thoải mái khi đến ở đây?”
3519. “Vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa, luôn luôn có điều tốt đẹp là: Các vị ấy không cất giữ ở nhà kho, trong lu chậu, trong túi xách. Các vị có sự hành trì tốt đẹp nuôi thân bằng vật xin được ở nhà của những người khác.
3520. Điều tốt đẹp thứ nhì của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Thọ dụng miếng ăn không tội lỗi và không bị bất cứ ai quấy rầy.
3521. Điều tốt đẹp thứ ba của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Thọ dụng miếng ăn đã được quán xét và không bị bất cứ ai quấy rầy.
3522. Điều tốt đẹp thứ tư của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Đối với vị đã được giải thoát đang du hành ở quốc độ, sự quyến luyến của vị ấy không hiện diện.
3523. Điều tốt đẹp thứ năm của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Khi thành phố đang bị đốt cháy, không có một vật nào thuộc về vị ấy bị đốt cháy.
3524. Điều tốt đẹp thứ sáu của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Khi quốc độ đang bị cướp bóc, không có một vật nào thuộc về vị ấy bị cướp bóc.
3525. Điều tốt đẹp thứ bảy của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Ở con đường được bảo hộ bởi bọn trộm cướp và ở những nơi có các bọn đạo tặc khác, vị có sự hành trì tốt đẹp mang theo bình bát và y ra đi một cách bình yên.
3526. Điều tốt đẹp thứ tám của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Khi khởi hành đi đến bất cứ phương trời nào, vị ấy ra đi không có trông mong.
3527. “Thưa vị tỳ khưu, ngài ca ngợi nhiều điều tốt đẹp của các vị Sa-môn. Còn trẫm thì thèm khát các dục, thưa vị Soṇaka, trẫm sẽ làm thế nào?
3528. Các dục thuộc về nhân gian được trẫm yêu thích, và (các dục) thuộc về Thiên giới cũng được trẫm yêu thích; vậy thì bằng cách nào chúng tôi đạt được cả hai thế giới ấy?”
3529. “Những người thèm khát các dục, thích thú các dục, bị mê mẫn ở các dục, làm các việc ác rồi sanh vào khổ cảnh.
3530. Và những người đã dứt bỏ, đã đi ra ngoài các dục, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu, đã đạt đến trạng thái chuyên nhất (của tâm), những người ấy không đi đến khổ cảnh.
3531. Tâu đấng thuần hóa kẻ thù, bần đạo sẽ làm ví dụ cho bệ hạ. Xin bệ hạ lắng nghe chuyện ấy. Cũng nhờ vào ví dụ, một số người sáng suốt hiểu được ý nghĩa.
3532. Sau khi nhìn thấy thây (con voi) chết ở sông Gaṅgā đang trôi nổi ở vũng nước lớn, con quạ thiểu trí, vô tư, đã nghĩ rằng:
3533. ‘Vật đã đạt được này quả thật là phương tiện di chuyển, vật này còn là thức ăn không phải ít. Ban đêm ở nơi ấy, ban ngày ở nơi ấy, tâm (của ta) ưa thích ở chính nơi ấy.’
3534. Trong khi ăn các miếng thịt của con voi, trong khi uống nước của sông Bhāgīrathī, trong khi nhìn xem các bảo tháp ở khu rừng, con chim đã không bỏ đi.
3535. Và bị say đắm, thích thú ở thây chết, với sự trôi xuôi theo dòng sông Gaṅgā, con quạ ấy đã đi sâu vào biển khơi, nơi không phải là chỗ đến của loài chim.
3536. Và khi thức ăn đã hết hẳn, con chim ấy đã bay lên, về hướng tây không được, về hướng đông không được, hướng bắc không được, và hướng nam cũng không được (vì bốn bề đều là biển cả).
3537. Nó đã không đạt đến được hòn đảo. Và nó đã ngã xuống ngay tại nơi ấy, nơi không phải là chỗ đến của loài chim, giống như một kẻ yếu ớt.
3538. Và các loài cá ở biển, cá sấu, cá đao, cá dữ, với những hành động tàn bạo, đã ăn thịt con chim đang run rẩy, không còn sức để vỗ cánh bay lên.
3539. Tâu bệ hạ, tương tự y như vậy, bệ hạ và những người khác có sự thọ hưởng các dục, rồi bị tham đắm, nếu những người ấy không ói ra, thì họ có sự hiểu biết tựa như trí tuệ của con quạ.
3540. Tâu bệ hạ, ví dụ này đã được tạo ra cho bệ hạ, có sự chỉ rõ ý nghĩa, và bệ hạ sẽ được hiểu rõ điều ấy, và tùy thuộc bệ hạ sẽ làm hay không làm.”
3541. Vị có lòng thương tưởng có thể thuyết một lời, hai lời, và không thể nói nhiều hơn thế, tựa như người tớ trai bên cạnh ông chủ.
3542. Sau khi nói điều này, sau khi đã chỉ dạy vị Sát-đế-lỵ, vị Soṇaka có trí giác ngộ vô lượng đã ra đi bằng đường không trung, trên bầu trời.
3543. “Các quan viên làm lễ phong vương, các xa phu, các vị đã đạt đến tài năng đâu rồi? Trẫm sẽ bàn giao vương quyền. Trẫm không còn ham muốn với vương quyền.
3544. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.”
3545. “Bệ hạ có người con trai trẻ tuổi Dīghāvu, là bậc làm hưng thịnh đất nước. Bệ hạ hãy tấn phong vị ấy vào vương vị; vị ấy sẽ trở thành đức vua của chúng thần.”
3546. “Hãy mau triệu vời hoàng tử Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước. Trẫm sẽ tấn phong vị ấy vào vương vị; vị ấy sẽ trở thành đức vua của các khanh.”
3547. Kế đó, họ đã triệu vời hoàng tử Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước. Sau khi nhìn thấy vị ấy, đức vua đã nói về điều làm cho thích ý với người con trai độc nhất:
3548. “Có sáu mươi ngàn ngôi làng hoàn toàn đầy đủ về mọi mặt. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.
3549. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.
3550. Có sáu mươi ngàn con voi đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, có dây đai bằng vàng, là những con voi có trang phục là yên cương bằng vàng.
3551. Chúng được cỡi lên bởi các viên quản tượng có cây thương móc câu ở bàn tay. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.
3552. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.
3553. Có sáu mươi ngàn con ngựa đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, là thuần chủng về dòng dõi, là giống ngựa Sindhu, có sức chuyển vận mau lẹ.
3554. Chúng được cỡi lên bởi các viên mã phu có mang gươm và cung. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.
3555. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.
3556. Có sáu mươi ngàn cỗ xe, đã được trang bị, có lá cờ đã được giương lên, có các tấm thảm da báo, da cọp, đã được tô điểm với mọi thứ
3557. Chúng được cỡi lên bởi các viên xa phu mặc áo giáp, có cây cung ở tay. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.
3558. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.
3559. Có sáu mươi ngàn bò cái màu hung đỏ, với các con bò đực đầu đàn. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.
3560. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.
3561. Có sáu mươi ngàn nữ nhân đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni. Này con trai, con hãy tiếp nhận các nàng ấy. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.
3562. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.”
3563. “Ngay từ khi con còn nhỏ, thưa cha, mẹ của con đã chết, con đã được nghe như thế. Thưa cha, không có cha, con không thể sống được.
3564. Giống như con voi con đi theo phía sau con voi lớn sống ở rừng, trong lúc dạo chơi ở những khe núi hiểm trở, ở những nơi bằng phẳng và lồi lõm.
3565. Tương tự như vậy, con sẽ cầm bình bát đi theo cha ở phía sau. Con sẽ là dễ nuôi đối với cha, con sẽ là không khó nuôi đối với cha.”
3566. “Giống như chiếc tàu biển của những người thương buôn đang tầm cầu tài sản có thể gặp xoáy nước ở biển khơi, người thương buôn có thể có sự rủi ro; tương tự y như vậy, này đứa con bất hạnh, đây là việc gây chướng ngại cho trẫm.
3567. Các khanh hãy tấn phong cho hoàng tử này tại lâu đài có sự hưng thịnh về lạc thú. Tại nơi ấy, các nữ nhân có cánh tay bằng vàng. Tại nơi ấy, các nàng ấy sẽ làm cho hoàng tử thích thú, và hoàng tử sẽ thích thú với các nàng ấy, giống như các nàng tiên nữ làm cho Thiên Chủ Sakka thích thú vậy.”
3568. Kế đó, họ đã tấn phong cho vị hoàng tử tại lâu đài có sự hưng thịnh về lạc thú. Sau khi nhìn thấy hoàng tử, các cô gái đã nói với hoàng tử Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước rằng:
3569. “Phải chăng ngài là vị Thiên nhân, là vị Càn-thát-bà, hay là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây? Chàng là ai, chàng là con của người nào? Làm thế nào bọn thiếp có thể biết về chàng?”
3570. “Ta không phải là Thiên nhân, không phải là Càn-thát-bà, cũng không phải là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây. Ta là con trai của đức vua xứ Kāsi, là Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước. Các nàng hãy chấp nhận ta; điều tốt lành sẽ đến với các nàng. Ta là chồng của các nàng.”
3571. Tại nơi ấy, các cô gái đã nói với vị Dīghāvu ấy, bậc làm hưng thịnh đất nước, rằng: “Hoàng thượng đã đến được nơi nào? Từ nơi này hoàng thượng đã đi đến nơi nào?”
3572. “Hoàng thượng đã vượt qua vũng lầy (ngũ dục). Hoàng thượng đã đứng vững ở đất bằng (xuất gia), đã thực hành đạo lộ lớn (đạo lộ giải thoát) không có gai nhọn (ô nhiễm), không có sự nắm giữ (các ô nhiễm).
3573. Còn ta đang thực hành đạo lộ đưa đến cảnh giới khổ đau, có gai nhọn, có sự nắm giữ, do đạo lộ đó chúng sanh đi đến cảnh giới khổ đau.”
3574. “Tâu bệ hạ, chào mừng bệ hạ đã ngự đến, tựa như việc đi đến hang núi của con sư tử. Tâu đại vương, xin đại vương hãy chỉ dạy. Đại vương là chúa tể của tất cả chúng thần.”
Bổn sanh Phật Độc Giác Soṇaka. [529]
***
3575. Sau khi nhìn thấy đức vua Brahmadatta, đấng thủ lãnh xa binh, khi ấy, (người giữ vườn) đã thông báo cho đức vua hay rằng: “Vị mà bệ hạ có lòng thương tưởng,–
3576. –và vị Saṅkicca này đã đến, vị đã được công nhận là tốt đẹp trong số các bậc ẩn sĩ. Xin bệ hạ hãy tức tốc ra đi, hãy mau chóng gặp gỡ vị đại ẩn sĩ.”
3577. Sau đó, đức vua đã vội vã bước lên cỗ xe đã được thắng ngựa. Được các thân hữu và các quan đại thần tháp tùng, đấng thủ lãnh xa binh đã ra đi.
3578. Bậc làm hưng thịnh đất nước Kāsi đã dẹp bỏ năm biểu hiệu (của nhà vua) là: quạt lông đuôi bò, vương miện, cây gươm, lọng che, và đôi hài.
3579. Sau khi bước xuống cỗ xe, đức vua đã để lại áo khoác ngoài, rồi đã đi đến gần vị Saṅkicca đang ngồi ở vườn thượng uyển Dāyapassa.
3580. Sau khi đi đến gần, vị vua ấy đã vui mừng chào hỏi với vị ẩn sĩ; sau khi trao đổi lời chào hỏi với vị ấy, đức vua đã bước đến ở một bên.
3581. Ngay lúc vừa ngồi xuống ở một bên, khi ấy, đức vua đã biết là thời điểm, sau đó đã tiến hành để hỏi về những hành động độc ác.
3582. “Trẫm xin hỏi ẩn sĩ Saṅkicca, vị đã được công nhận là tốt đẹp trong số các bậc ẩn sĩ, vị đang ngồi ở vườn thượng uyển Dāyapassa, phía trước tập thể các bậc ẩn sĩ.
3583. Những người đã vượt qua luân lý sẽ đi đến cảnh giới nào sau khi chết? Luân lý đã bị trẫm vượt qua. Được hỏi, xin ngài hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”
3584. Vị ẩn sĩ Saṅkicca đã nói với bậc làm hưng thịnh đất nước Kāsi đang ngồi ở vườn thượng uyển Dāyapassa rằng: “Tâu đại vương, xin hãy lắng nghe bần đạo.
3585. Khi có vị nào chỉ dạy con đường an toàn cho người đang đi theo lối đi sai trái, nếu người này có thể thực hành lời nói của vị ấy, thì chông gai (kẻ bất lương) không thể ngăn trở con đường đi của người này.
3586. Khi có vị nào chỉ dạy thiện pháp cho người đang thực hành phi pháp, nếu người này có thể thực hành lời nói của vị ấy, người ấy không thể nào đi đến khổ cảnh.
3587. Tâu đại vương, thiện pháp là lối đi; hơn nữa, phi pháp là lối đi sai trái. Phi pháp dẫn đến địa ngục, thiện pháp giúp cho đạt được nhàn cảnh.
3588. Tâu bệ hạ, những kẻ thực hành phi pháp là những kẻ có cuộc sống bất chánh. Cảnh giới mà những kẻ ấy đi đến sau khi chết là các địa ngục, xin bệ hạ hãy lắng nghe bần đạo.
3589. Địa ngục Sañjīva, địa ngục Kāḷasutta, địa ngục Saṅghāta, và hai địa ngục Roruva, rồi địa ngục khác nữa là địa ngục Mahāvīci, địa ngục Tapana, và địa ngục Patāpana.
3590. Tám địa ngục này được nói đến như thế, là rất khó thoát ra, đông đúc những người có hành động tàn bạo; mỗi một địa ngục này bằng mười sáu địa ngục Ussada.
3591. Các địa ngục có ngọn lửa ghê gớm thiêu đốt những kẻ bỏn xẻn, có sự sợ hãi lớn lao, có dáng vẻ khiến lông dựng đứng, khủng khiếp, gây ra sự sợ hãi, khổ đau.
3592. Bốn góc có bốn cửa ra vào, được phân chia, được đo đạc thành từng phần, được bao quanh bởi tường thành bằng sắt, được đậy lại bằng vòm sắt.
3593. Mặt đất của các địa ngục làm bằng sắt, được đốt nóng, được tràn ngập bởi sức nóng. Các địa ngục luôn luôn được lan tỏa và duy trì sức nóng ở xung quanh một trăm d0-tuần.
3594. Những kẻ nói lời xúc phạm với các vị ẩn sĩ, với các vị đạo sĩ khổ hạnh đã tự kiềm chế, những kẻ này rơi vào địa ngục với tư thế chân phía trên, đầu phía dưới.
3595. Những con người gây ra tội ác, những kẻ ấy bị nung nấu với sự hành hạ được gia tăng trong vô số năm không đếm được, giống như những con cá bị cắt thành từng khúc rồi nướng chín.
3596. Với thân thể thường xuyên bị đốt cháy bên trong lẫn bên ngoài, có những kẻ tìm kiếm lối thoát ra khỏi địa ngục nhưng không đến được cánh cửa.
3597. Chúng chạy về hướng đông, sau đó chạy về hướng tây, chúng còn chạy về hướng bắc, sau đó chạy về hướng nam.
3598. Bởi vì mỗi một cánh cửa nào mà chúng đi đến, chính cánh cửa ấy bị đóng lại. Những con người có sự đi đến địa ngục trong nhiều ngàn năm giơ các cánh tay lên khóc lóc, sau khi đã chịu sự khổ đau không phải là ít.
3599. Tựa như con rắn có nọc độc, bị nổi giận, có oai lực, khó chế ngự, không nên công kích các vị có bề ngoài tốt đẹp, các vị đạo sĩ khổ hạnh đã tự kiềm chế.
3600. Gã cung thủ vĩ đại có thân hình lực lưỡng Ajjuna, chúa tể xứ Kekaka, có ngàn cánh tay, đã bị tiêu diệt sau khi công kích vị ẩn sĩ Gotama.
3601. Vua Daṇḍakī, sau khi ném vật dơ vào bậc vô nhiễm Vaccha Kisa, vị vua ấy đã đi đến sự hủy diệt, tựa như cây thốt nốt bị chặt đứt tận gốc.
3602. Sau khi có tâm ý xấu xa với vị ẩn sĩ Mātaṅga có danh tiếng, vua xứ Mejjha cùng toàn bộ xứ sở đã bị tiêu diệt. Từ đó, đã có khu rừng Mejjha.
3603. Những người con trai của Andhakaveṇhu sau khi công kích vị ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana đã dùng chày giết hại lẫn nhau, rồi đã đi đến lãnh địa của Diêm Vương. 3604. Rồi vị vua Cetiya này, trước kia có sự di chuyển ở không trung, về sau bị nguyền rủa bởi vị ẩn sĩ, đã rơi vào trong trái đất, có bản thân bị tiêu hoại, đã đạt đến đoạn cuối của cuộc sống.
3605. Chính vì thế, các bậc sáng suốt không khen ngợi việc đi theo sự ham muốn. Người có tâm không xấu xa nên nói lời nói liên quan đến sự thật.
3606. Người nào với tâm ý xấu xa, nếu soi mói bậc hiền trí đã được thành tựu sự hiểu biết và đức hạnh, người ấy là kẻ đi đến địa ngục ở bên dưới.
3607. Những người nào có sự ra sức thô lỗ, mắng nhiếc các bậc trưởng thượng, những kẻ ấy trở thành không có con cái, không người thừa tự, tựa như cây thốt nốt bị trốc gốc.
3608. Kẻ nào giết hại bậc xuất gia, bậc đại ẩn sĩ đã hoàn thành phận sự, kẻ ấy bị nung nấu ở địa ngục Kāḷasutta trong thời gian lâu dài.
3609. Và vị vua nào duy trì sự bất công, có sự hủy hoại đất nước, bị tẩy chay, sau khi làm cho xứ sở bị điêu tàn, khi chết đi, bị nung nấu ở địa ngục Tāpana.
3610. Và kẻ ấy bị nung nấu một trăm ngàn năm theo cách tính của cõi Trời. Bị vây quanh bởi những đám lửa, kẻ ấy nhận chịu cảm thọ khổ đau.
3611. Từ thân thể của kẻ ấy, có những ngọn lửa phát ra chói sáng. Các bộ phận cơ thể cùng với các lông và các móng trở thành mồi của ngọn lửa.
3612. Với thân thể thường xuyên bị đốt cháy bên trong lẫn bên ngoài, kẻ bị khổ đau hành hạ gào thét, giống như con voi bị áp đảo bởi các móc câu.
3613. Kẻ nào giết cha vì tham lam, hay vì sân hận, là kẻ đốn mạt, kẻ ấy bị nung nấu ở địa ngục Kāḷasutta trong thời gian lâu dài.
3614. Kẻ như thế ấy bị nung nấu ở vạc đồng. Và họ (những người cai quản địa ngục) đâm kẻ đã bị nấu chín bằng những cây giáo đến khi không còn lớp da ngoài. Họ làm cho con người thuộc hạng như thế ấy bị mù, rồi cho ăn phân và nước tiểu, sau đó nhấn chìm trong nước muối.
3615. Các quỷ sứ đã cầm các lưỡi cày dài đã được đốt nóng nhiều ngày đêm, được nối với những sợi dây thừng, rồi banh miệng (và kéo cái lưỡi ra), sau đó nhét vào cục sắt đã được đốt nóng đến cháy đỏ ở cái miệng đã được mở rộng.
3616. Những con chó màu đen, những con chim kên kên có sức mạnh,
những bầy quạ, và những con chim có mỏ sắt
tụ tập lại ngấu nghiến kẻ đang giãy giụa,
sau khi đã xâu xé cái lưỡi thành những mẫu thịt đẫm máu.
3617. Các quỷ sứ vừa di chuyển theo sau kẻ ấy vừa đánh đập, và kẻ ấy có thân thể bị nát tan, tựa như cây thốt nốt bị thiêu đốt. Chính các quỷ sứ ấy có sự khoái lạc, còn những kẻ khác (chúng sanh ở địa ngục) thì có sự khổ đau. Những kẻ sống ở địa ngục giống như vầy là những kẻ đã giết chết cha ruột ở thế gian này.
3618. Và đứa con, sau khi giết chết người mẹ, thì từ thế gian này đi đến trú xứ của Diêm Vương và nhận lãnh nhiều sự khổ đau, là kẻ bị gánh chịu quả báo về hành động của bản thân.
3619. Các phi nhân có sức mạnh vượt trội hành hạ kẻ giết hại mẫu thân bằng những sợi dây roi làm bằng sắt lượt này đến lượt khác.
3620. Họ bắt kẻ giết mẹ uống máu của bản thân được rỉ ra từ chính cơ thể của mình, tựa như nước đồng đỏ đã được nung nóng tan chảy.
3621. Kẻ ấy đứng, chìm ngập trong hố nước, là vũng lầy của phân, nhờm gớm, có mùi hôi thối của thây chết đã bị hoại rửa, tựa như mủ máu.
3622. Tại nơi ấy, những con giòi có thân hình to lớn, có miệng bằng sắt, xuyên thủng thân xác kẻ ấy ở lớp da ngoài, rồi ngấu nghiến thịt và máu với vẻ thèm khát.
3623. Và kẻ ấy, khi đã đạt đến địa ngục Sataporisa ấy, bị chìm đắm (ngập đầu), và tỏa ra mùi thây chết hôi thối ở xung quanh đến một trăm do-tuần.
3624. Bởi vì, ngay cả kẻ sáng mắt cũng bị hư hoại đôi mắt bởi mùi hôi ấy. Tâu Brahmadatta, kẻ giết chết mẹ ruột nhận lãnh khổ đau như thế ấy.
3625. Sau khi vượt qua địa ngục Khuradhāra (Lưỡi Dao Cạo) sắc bén, khó có thể chịu đựng, các phụ nữ phá thai rơi vào dòng sông Vetaraṇī hiểm trở.
3626. Có những cây bông gòn làm bằng sắt có gai nhọn dài mười sáu ngón tay treo lòng thòng ở hai bên bờ của dòng sông Vetaraṇī hiểm trở.
3627. Các chúng sanh ấy đứng với thân rực lửa tựa như những khối lửa ở xa xa, bị cháy rực với ngọn lửa vươn cao một do-tuần ở bên trên.
3628. Những người này, các phụ nữ ngoại tình và các nam nhân đi đến với vợ người khác, tiến vào địa ngục bị đốt nóng, có gai nhọn sắc bén.
3629. Chúng rơi vào với thân chổng ngược; nhiều người bị quay tròn, bị đánh đập. Chúng nằm dài với các phần thân thể bị đâm thủng và không ngủ được suốt đêm dài.
3630. Sau đó, vào cuối đêm, chúng bị ném vào vạc đồng to lớn tương tự quả núi, có nước và lửa bằng nhau bị đốt nóng.
3631. Như vậy, ngày và đêm, những kẻ có bản chất xấu xa, bị bao phủ bởi si mê, chịu đựng nghiệp của mình đã làm trước đây của bản thân.
3632. Và cô vợ nào được mua về bằng tài sản mà khinh khi người chồng, hoặc mẹ chồng, hoặc cha chồng, hoặc anh chồng, hoặc em gái chồng,–
3633. –những người cai quản địa ngục kéo chót lưỡi của cô ấy ra bằng lưỡi câu, có sự cột lại (rồi lôi đi). Cô ấy nhìn thấy cái lưỡi (bị kéo ra) có kích thước dài một sải tay của mình đầy giòi, và không thể nào than vãn. Sau khi chết đi, cô ấy bị nung nấu ở địa ngục Tāpana.
3634. Những người giết mổ cừu, giết mổ heo, ngư phủ, bẫy thú, trộm cướp, giết mổ bò, những kẻ hung bạo, những kẻ ca ngợi điều xấu xa,–
3635. – (những kẻ ấy) bị đánh đập bằng các cây giáo, bằng những búa đồng, bằng những thanh gươm, và bằng những mũi tên, rồi rơi vào dòng sông nước mặn, có đầu chúc xuống.
3636. Những kẻ sáng chiều làm công việc lường gạt bị đánh bằng những cây búa sắt, sau đó luôn phải thọ dụng vật ói mửa ra của những kẻ tồi tệ khác.
3637. Những con quạ, những con chó rừng, những con chim kên kên, và những con quạ đen có mỏ sắt ngấu nghiến con người gây ra tội ác đang bị giãy giụa.
3638. Những kẻ nào giết hại thú vật bằng thú vật, hoặc là giết hại chim chóc bằng chim chóc (làm mồi nhử), những kẻ ấy không tốt lành, bị che lấp bởi bụi bặm; họ là những kẻ đi đến địa ngục Ussada.
3639. Và người tốt lành đi đến cõi Trời do nghiệp đã được thực hành tốt đẹp ở thế gian này. Bệ hạ hãy nhìn xem quả báo của người đã thực hành tốt đẹp: là chư Thiên, với Thiên Chủ Inda, và các vị Phạm Thiên.
3640. Tâu đại vương, bần đạo nói với bệ hạ về điều ấy. Tâu vị chúa của đất nước, bệ hạ hãy thực hành thiện pháp. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy thực hành thiện pháp như thế này, như thế này, giống như việc đã được thực hành tốt đẹp ấy thì sẽ không hối hận về sau này.”
Bổn sanh Ẩn Sĩ Saṅkicca. [530]
***
Giờ xin hãy lắng nghe lời thuyết giảng của tôi ở nhóm sáu mươi kệ ngôn,
vị Soṇaka cao quý có tên là Arindama (bậc thuần hóa kẻ thù),
tương tự, chuyện về phận sự của đấng thủ lãnh xa binh đã được nói đến.
Nhóm Sáu Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo--
[Mục lục][15][16][17][18][19][20][21]
[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]