TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 33
JĀTAKAPĀLI
- BỔN SANH tập II
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
XVII. CATTĀḶĪSANIPĀTO - NHÓM BỐN MƯƠI KỆ NGÔN
3081. “Này chim, chúc điều tốt lành đến chim. Trẫm hỏi chim Vessantara, với ý muốn trị vì vương quốc, phận sự nào được thực hiện là tốt nhất?”
3082. “Quả thật, cha Kaṃsa thân yêu, người cai trị thành Bārāṇasī, lâu nay bị xao lãng, đã quở trách con, đứa con trai không bị xao lãng.
3083. Tâu vị Sát-đế-lỵ, trước tiên nên ngăn chặn sự không chân thật, sự giận dữ, sự cười giỡn. Sau đó, nên làm các việc cần phải làm; người xưa đã nói việc ấy là bổn phận.
3084. Cha thân, hành động khổ hạnh nào đã được làm trước đây theo thông lệ, là việc mà cha có thể làm khi bị luyến ái và sân hận; từ đây, không nên làm việc ấy nữa.
3085. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, tất cả của cải ở đất nước của vị Sát-đế-lỵ đã bị xao lãng đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.
3086. Cha thân, nữ thần Sirī và nữ thần Lakkhī, khi được hỏi, đã nói điều này: ‘Ta ưa thích những người sốt sắng, tinh tấn, không đố kỵ.’
3087. Tâu đại vương, nữ thần Kālakaṇṇī, vị thần phá hoại vận may, ưa thích những kẻ đố kỵ, có tâm xấu xa, những kẻ phá hoại công việc.
3088. Tâu đại vương, cha đây hãy có tâm tốt lành đối với tất cả, hãy bảo vệ tất cả, hãy xua đuổi nữ thần Alakkhī, hãy là chỗ trú của nữ thần Lakkhī.
3089. Bởi vì, là người có sự may mắn, đầy đủ sự dũng cảm, đi đến sự lớn mạnh, vị chúa của xứ Kāsi chặt đứt cả gốc lẫn ngọn của các kẻ thù.
3090. Bởi vì, ngay cả Thiên Chủ Sakka, vị chúa của các sanh linh, không xao lãng trong việc sốt sắng, sau khi tạo ra sự dũng cảm trong việc phước thiện, ngài thực hiện sự sốt sắng ở tâm.
3091. Các vị Càn-thát-bà, các vị Phạm Thiên, chư Thiên có cuộc sống là như thế ấy. Chư Thiên ngự kế cận các vị sốt sắng, không xao lãng.
3092. Cha thân, cha đây hãy ra lệnh làm các việc cần phải làm, không được xao lãng, không nóng giận, và hãy nỗ lực trong các phận sự. Người biếng nhác không tìm thấy hạnh phúc.
3093. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy; chúng là vừa đủ để đem lại hạnh phúc cho các bạn bè và gây khó khăn cho các kẻ thù.”
3094. “Này chim Kuṇḍalinī, con là thân nhân. Này nữ thân quyến của dòng Sát-đế-lỵ, con nghĩ thế nào (về câu hỏi), với ý muốn trị vì vương quốc, phận sự nào được thực hiện là tốt nhất?”
3095. “Cha thân, có hai nguyên nhân chính, căn cứ vào đó, mọi thứ được thiết lập: Đạt được cái chưa đạt được, và bảo vệ cái đã đạt được.
3096. Cha thân, cha hãy nhận biết các quan đại thần (nào là) sáng trí và rành rẽ về mục đích, không cờ bạc, không gian lận, không nghiện ngập, không phung phí.
3097. Cha thân, người này có thể gìn giữ tài sản thuộc về cha, tựa như người đánh xe có thể chăm sóc cỗ xe, người ấy có thể thực hiện các việc cần phải làm của cha.
3098. Với nhân sự nội bộ khéo được chăm sóc, nên đích thân xem xét tài sản, của cải cất giấu, nợ nần, và vật biếu xén. Không nên làm các công việc đem lại thu nhập cho kẻ khác.
3099. Nên đích thân biết về thu thập và chi tiêu, nên đích thân biết về việc đã làm hay chưa làm, nên khiển trách kẻ đáng bị khiển trách, nên cất nhắc người đáng được cất nhắc.
3100. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, ngài nên tự mình chỉ dạy dân chúng về mục đích. Chớ để những viên chức phi pháp hủy hoại tài sản và đất nước của ngài.
3101. Và ngài chớ thực hiện hoặc cho người thực hiện các phận sự một cách vội vã, bởi vì đối với công việc được làm một cách vội vã, sau này kẻ đần độn sẽ hối hận.
3102. Chớ để tự do cho việc phạm tội của ngài, khi tâm bị nổi giận vô cùng mãnh liệt, bởi vì do giận dữ, nhiều gia đình đông đúc đã đi đến tình trạng (tan nát) không còn gia đình.
3103. Cha thân, (biết rằng): ‘Ta là vị chúa tể,’ chớ dẫn dắt dân chúng vào sự thối đọa. Chớ để hậu quả khổ đau đến với những người nữ và những người nam của ngài.
3104. Đối với vị vua đeo đuổi ngũ dục, không còn sợ hãi sự chê trách, tất cả của cải đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.
3105. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy. Giờ đây, bệ hạ hãy là người khôn ngoan, người làm việc phước thiện, không nghiện ngập, không phung phí. Tâu đại vương, ngài hãy là người có giới hạnh, (bởi vì) kẻ có giới hạnh tồi là kẻ sẽ bị đọa vào địa ngục.
3106. “Chúng ta đã hỏi chim thuộc dòng họ Kosiya (chim Vessantara) và chim Kuṇḍalinī y như vậy. Này chim Jambuka, giờ đây con hãy nói về sức mạnh tối cao trong số các sức mạnh.”
3107. “Có năm loại sức mạnh ở con người đã trở nên vĩ đại trên thế gian; trong số đó, cái gọi là sức mạnh của cánh tay được cho là sức mạnh sau cùng.
3108. Thưa tiền bối, sức mạnh về của cải được cho là sức mạnh thứ nhì.[1] Thưa tiền bối, sức mạnh của người cố vấn được cho là sức mạnh thứ ba.
3109. Và sức mạnh của dòng dõi, cái ấy là thứ tư, không có nghi ngờ. Bậc sáng suốt làm chủ tất cả các sức mạnh ấy.
3110. Trong số các sức mạnh, sức mạnh đứng đầu, cao cả, cao quý ấy là sức mạnh của trí tuệ. Được nâng đỡ bởi sức mạnh của trí tuệ, bậc sáng suốt tìm được sự tiến thân.
3111. Thậm chí, nếu kẻ đần độn đạt được trái đất quý báu, phồn thịnh, thì kẻ khác cũng sẽ dùng vũ lực đoạt lấy phần đất của kẻ không có mong muốn.
3112. Dầu cho vị Sát-đế-lỵ được sanh ra cao quý, sau khi đạt được vương quốc, chính vì có trí tuệ tồi, vị chúa của xứ Kāsi không thể sinh tồn với toàn thể vương quốc ấy.
3113. Trí tuệ có sự suy xét điều đã được nghe.
Trí tuệ có sự làm tăng trưởng danh thơm tiếng tốt.
Ở đây, người được đầy đủ trí tuệ
tìm thấy các sự an lạc, thậm chí ngay cả trong khổ đau.
3114. Thật vậy, người không mong muốn lắng nghe, không đến gần vị có kiến thức rộng (đa văn), không chia chẽ ý nghĩa của các pháp, không người nào đạt đến trí tuệ.
3115. Và người nào biết phân loại các pháp, có sự thức dậy sớm, không biếng nhác, tiến hành công việc theo thời biểu, kết quả của công việc được thành tựu đến vị ấy.
3116. Đối với kẻ có bản tánh không nỗ lực, thân cận với kẻ không nỗ lực, có hành động một cách chán nản, mục đích không được kết trái một cách đúng đắn (cho kẻ ấy).
3117. Và đối với người đã gắn bó với (sự tu tập của) bản thân, thân cận với người nỗ lực như thế ấy, có hành động không chán nản, mục đích được kết trái một cách đúng đắn (cho người ấy).
3118. Cha thân, cha hãy thực hành hai việc ấy: việc gọi là gắn bó và thực hành, việc bảo vệ tài sản đã được tích lũy. Chớ để tiêu hoại do không hoạt động, bởi vì kẻ ngu do không hoạt động tựa như căn nhà bằng sậy bị sụp đổ.
3119. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (phụng dưỡng) đối với cha mẹ. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3120. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (cấp dưỡng) đối với vợ con. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3121. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (thu phục) đối với bạn bè và đồng nghiệp. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3122. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (chu cấp) đối với các đội xa binh và bộ binh. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3123. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không sách nhiễu) ở các thôn làng và các phố thị. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3124. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không sách nhiễu) trong các đất nước và các xứ sở. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3125. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (bố thí) đến các Sa-môn và Bà-la-môn. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3126. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không hãm hại) đối với các loài thú và loài chim. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3127. Tâu đại vương, hãy thực hành (thiện) pháp. (Thiện) pháp được thực hành là nguồn đem lại niềm an lạc. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
3128. Tâu đại vương, hãy thực hành (thiện) pháp. Thiên Chủ Inda, chư Thiên, cùng với Phạm Thiên đã đạt được cung Trời nhờ đã thực hành tốt đẹp. Tâu bệ hạ, chớ xao lãng (thiện) pháp.
3129. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy. Bệ hạ hãy là người tốt lành, có sự thân cận các bậc trí tuệ, là người hiểu biết đầy đủ về bản thân.”
Bổn sanh Ba Con Chim. [521]
***
3130. “Các vị đã được trang điểm, có đeo bông tai, y phục tươm tất, đeo gươm có chuôi bằng ngọc bích và ngọc trai. Thưa các ngài thủ lãnh xa binh, xin các ngài dừng lại, và các ngài là ai? Người ta nhận biết các ngài như thế nào ở thế giới nhân loại?”
3131. “Trẫm là Aṭṭhaka, và vị này là Bhīmaratha, còn vị nổi bật này là vua Kāliṅga. Chúng tôi đi đến nơi này để yết kiến các vị ẩn sĩ đã khéo tự kiềm chế để hỏi các câu hỏi.”
3132. “Ngài đứng ở không trung, trên bầu trời, tựa như mặt trăng vào ngày rằm, ở lưng chừng trời. Thưa vị Dạ-xoa có đại thần lực, trẫm xin hỏi ngài, người ta nhận biết ngài như thế nào ở thế giới nhân loại?”
3133. “Ở giữa chư Thiên, người ta đã gọi vị ấy là ‘Chồng của nàng Sujā,’ và ở thế giới nhân loại đã gọi là ‘Maghavā.’ Hôm nay, vị Thiên Vương ấy đi đến nơi này để yết kiến các vị ẩn sĩ đã khéo tự kiềm chế.”
3134. “Các vị ẩn sĩ của chúng ta ở xa xôi đã được nghe danh. Các ngài đã tụ hội lại. Các ngài có đại thần lực, đã đạt được các loại thần thông. Thưa các ngài, với tâm tịnh tín, tôi xin đảnh lễ các ngài, những vị ưu tú của nhân loại ở thế gian của cuộc sống tại nơi này.”
3135. “Mùi hương phát ra từ cơ thể của các vị ẩn sĩ đã xuất gia lâu ngày đi theo chiều gió. Thưa vị Nghìn Mắt, ngài hãy bước lui khỏi nơi này. Thưa vị Thiên Vương, mùi hương của các vị ẩn sĩ là không trong sạch.”
3136. “Mùi hương phát ra từ cơ thể của các vị ẩn sĩ đã xuất gia lâu ngày hãy đi theo chiều gió, tựa như tràng hoa thơm ngát với bông hoa nhiều màu sắc. Bạch ngài, chúng tôi mong mỏi mùi hương này, bởi vì chư Thiên không có ý tưởng nhờm gớm về mùi hương này.”
3137. “Vị đã bố thí trước đây, vị chúa của các sanh linh, vị có danh tiếng, vị chúa của chư Thiên, vị Maghavā, chồng của nàng Sujā, vị Thiên Vương ấy, vị có sự đánh tan bè lũ A-tu-la, mong chờ cơ hội để hỏi câu hỏi.
3138. Vậy ở đây, ai trong số các bậc sáng suốt này, khi được hỏi, sẽ trả lời các câu hỏi vi tế của ba vị vua, là ba bậc chúa tể cai trị loài người, của đấng quyền năng, và của vị chúa của chư Thiên?”
3139. “Vị ẩn sĩ Sarabhaṅga này có danh tiếng,
đã lánh xa pháp đôi lứa từ lúc sanh ra,
là con trai của vị giáo thọ, đã khéo được huấn luyện,
vị ấy sẽ trả lời các câu hỏi của các bậc (vua chúa) ấy.”
3140. “Thưa ngài Koṇḍañña, xin ngài trả lời các câu hỏi.
Các vị ẩn sĩ đức độ thỉnh cầu điều ấy.
Thưa ngài Koṇḍañña, điều ấy là quy luật ở loài người,
trách nhiệm ấy dành cho vị trưởng thượng.”
3141. “Cơ hội đã được tạo ra. Hãy để quý ngài hỏi
bất cứ câu hỏi nào được mong mỏi ở trong tâm.
Bởi vì ta sẽ trả lời cho quý vị từng câu một
sau khi tự thân ta biết về đời này và đời sau.”
3142. Và sau đó, Thiên Chủ Maghavā, Sakka, vị mong mỏi điều lợi ích, vị đã bố thí trước đây, đã hỏi câu hỏi đầu tiên về điều đã được mong mỏi (ở trong tâm).
3143. “Sau khi tiêu diệt cái gì mà không bao giờ sầu muộn?
Các bậc ẩn sĩ khen ngợi việc dứt bỏ cái gì?
Nên nhẫn nhịn người nào về điều thô lỗ đã được họ nói ra ở nơi này?
Thưa ngài Koṇḍañña, hãy giải thích cho tôi về điều ấy.”
3144. “Sau khi tiêu diệt sự giận dữ thì không bao giờ sầu muộn.
Các bậc ẩn sĩ khen ngợi việc dứt bỏ sự gièm pha.
Nên nhẫn nhịn tất cả mọi người về điều thô lỗ đã được họ nói ra.
Các bậc thiện nhân đã nói sự nhẫn nại này là tối thượng.”
3145. “Có thể kham nhẫn lời nói của hai hạng người
ngang bằng mình hoặc ưu tú hơn mình,
làm thế nào nhẫn nhịn lời nói của người thấp kém?
Thưa ngài Koṇḍañña, hãy giải thích cho tôi về điều ấy.”
3146. “Có thể kham nhẫn lời nói của người ưu tú bởi vì sợ hãi,
và của người bằng mình vì nguyên nhân nguy hiểm đến sinh mạng.
Ở đây, người nào có thể tha thứ lời nói của người thấp kém,
các bậc thiện nhân đã nói sự nhẫn nại này là tối thượng.
3147. Làm thế nào có thể nhận biết được một người là ưu tú, tương đương, hoặc là thấp kém hơn với hình thức bên ngoài của bốn oai nghi? Các bậc thiện nhân du hành với hình thức ngụy trang (giả dạng người tồi tàn); chính vì thế, nên nhẫn nhịn lời nói của tất cả mọi người.
3148. Thật vậy, các đạo quân với cả đức vua dầu có vĩ đại, trong khi chiến đấu cũng không đạt được mục đích ấy, nhưng bậc chân nhân có lòng nhẫn nại lại đạt được điều ấy; đối với sức mạnh của lòng nhẫn nại, các sự hận thù được lặng yên.”
3149. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Ví như thời xưa đã có các vị Daṇḍakī, Nāḷikīra, rồi vị Ajjuna, và luôn cả vị vua Kalābu, xin ngài nói về cảnh giới của những kẻ có hành động vô cùng độc ác ấy, những kẻ quấy nhiễu các vị ẩn sĩ sẽ tái sanh ở đâu?”
3150. “Bởi vì vua Daṇḍakī đã ném vật dơ ở Kisavaccha,
với cả đất nước cùng với dân chúng đã bị bứng gốc,
và bị nung nấu ở địa ngục tên Kukkula;
các cục than hừng đổ lên thân hình của vị vua ấy.
3151. Nāḷikīra đã quấy nhiễu các vị xuất gia đã tự kiềm chế, các bậc Sa-môn không tội lỗi đang thuyết giảng thiện pháp. Các con chó ăn thịt kẻ Nāḷikīra đang run rẩy ấy khi gã tái sanh vào thế giới khác.
3152. Còn Ajjuna đã bị rơi vào địa ngục cọc nhọn, có chân phía trên đầu phía dưới, sau khi đã quấy nhiễu vị đạo sĩ khổ hạnh Aṅgīrasa Gotama có sự nhẫn nại, đã thực hành Phạm hạnh lâu dài.
3153. Kalābu đã chặt đứt vị xuất gia, bậc Sa-môn không tội lỗi đang thuyết giảng về sự nhẫn nại, thành từng khúc, và bị nung nấu sau khi tái sanh vào địa ngục Avīci có sự nóng bức dữ dội, đắng cay, chốn gây nên nỗi kinh hoàng.
3154. Sau khi nghe về những địa ngục ấy và những địa ngục khác còn tồi tệ hơn nữa ở nơi này, vị sáng suốt nên thực hành thiện pháp ở nơi các vị Sa-môn và Bà-la-môn; vị làm như vậy đi đến vị thế cõi trời.”
3155. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài,
tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy.
(Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là người có giới?
(Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là người có trí tuệ?
(Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là bậc thiện nhân?
Người như thế nào thì sự vinh quang không rời bỏ?”
3156. “Ở đây, người nào đã tự kiềm chế thân và khẩu,
và không làm bất cứ điều xấu xa nào bằng ý,
không nói việc không thật vì nguyên nhân bản thân,
(các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là người có giới.
3157. Người suy xét bằng tâm về câu hỏi thâm sâu,
không làm hành động hung dữ và không có lợi ích,
không bê trễ lời nói có lợi ích khi thời điểm đến, ,
(các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là người có trí tuệ.
3158. Người nào thật sự là người tri ân, biết trả ân, sáng trí,
là người bạn tốt lành, và có lòng nhiệt tình bền vững,
là người làm phận sự một cách nghiêm chỉnh đối với kẻ bị đau khổ,
(các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là bậc thiện nhân.
3159. Người được đầy đủ với tất cả các đức tính ấy,
có niềm tin, mềm mỏng, có sự chia sớt về tài sản, rộng lượng,
hào phóng, nói năng tử tế, có lời nói dịu dàng,
người như thế ấy thì sự vinh quang không rời bỏ.”
3160. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Về (các yếu tố) giới hạnh, cùng với sự vinh quang, và đức tính của những người tốt, và trí tuệ, (các bậc trí) nói yếu tố nào là ưu tú hơn?”
3161. “Các bậc thiện xảo nói chính trí tuệ là ưu tú,
tựa như vua của các vì tinh tú (mặt trăng) ở giữa các vì sao.
Giới hạnh, cùng với sự vinh quang, và đức tính của những người tốt
là những yếu tố đi theo sau trí tuệ.”
3162. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài,
tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy.
Người hành động như thế nào, làm việc gì, đang thực hành điều gì,
đang phụng sự điều gì thì đạt được trí tuệ ở thế gian này?
Giờ đây, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành để đạt được trí tuệ.
Người hành động như thế nào là người có trí tuệ?”
3163. “Hãy thân cận các bậc trưởng thượng, tinh tế, có kiến thức,
nên là người học tập, nên là người hỏi (điều thắc mắc),
nên cẩn thận lắng nghe các lời khéo nói;
người hành động như vậy là người có trí tuệ.
3164. Vị có trí tuệ ấy nhìn thấy các loại dục
là vô thường, là khổ não, là bệnh tật.
Người có sự minh sát như vậy dứt bỏ sự mong muốn
ở các sự khổ đau, ở các dục, ở các nỗi sợ hãi lớn lao.
3165. Vị ấy có luyến ái đã được xa lìa, có thể xua đi sân hận,
có thể phát triển tâm từ ái vô hạn lượng.
Sau khi đã buông bỏ sự hành hạ đối với tất cả chúng sanh,
không bị chê bai, vị ấy đạt đến vị thế Phạm Thiên.
3166. Đã có sự đạt đến quyền lực lớn lao cho bệ hạ, luôn cả đức vua Bhīmaratha, và đức vua Kāliṅga nổi bật; tâu (đức vua) Aṭṭhaka, sự luyến ái trong các dục của tất cả các vị đã được dứt bỏ.”
3167. “Điều ấy là như vậy, thưa bậc biết được tâm của người khác,
sự luyến ái trong các dục của tất cả chúng tôi đã được dứt bỏ.
Xin ngài hãy tạo cho cơ hội bằng sự nâng đỡ.
Mong rằng chúng tôi đạt được giống như sự thành tựu của ngài.”
3168. “Ta tạo cho cơ hội bằng sự nâng đỡ,
bởi vì sự luyến ái trong các dục của các vị đã được dứt bỏ như thế ấy.
Các vị hãy thấm nhuần toàn thân với tràn đầy hỷ lạc.
Các vị hãy đạt được giống như sự thành tựu của ta.”
3169. “Chúng tôi sẽ thực hành mọi điều chỉ dạy của ngài,
mỗi một điều ngài sẽ nói ra, thưa bậc có trí tuệ uyên bác,
Mong rằng chúng tôi thấm nhuần toàn thân với tràn đầy hỷ lạc.
Mong rằng chúng tôi đạt được giống như sự thành tựu của ngài.”
3170. “Việc tôn vinh đến vị Kisavaccha này đã được thực hiện.
Các ngài hãy ra đi, thưa chư tôn đức ẩn sĩ có hình dáng tốt lành,
chư vị hãy thích thú với việc tham thiền, luôn luôn định tĩnh;
việc ấy là sự lạc thú tối ưu của bậc xuất gia.”
3171. “Sau khi lắng nghe các kệ ngôn liên hệ đến mục đích tối thượng
đã được khéo nói bởi bậc ẩn sĩ sáng suốt,
các vị ấy tùy hỷ với niềm hân hoan sanh khởi,
chư Thiên có danh tiếng đã về lại Thiên giới.
3172. Những câu kệ ngôn này có ý nghĩa, có văn hay,
đã được khéo nói bởi bậc ẩn sĩ sáng suốt.
Bất cứ ai chăm chú lắng nghe những lời này
có thể đạt được sự chứng đạt thứ bậc đầu tiên.
Sau khi đạt được sự chứng đạt thứ bậc đầu tiên,
có thể vượt khỏi tầm nhìn của Thần Chết.
3173. (Thời bấy giờ) vị Sālissara nay là Sāriputta, vị tên Meṇḍissara nay là Kassapa, vị Pabbata nay là Anuruddha, còn vị Kaccāyana nay là Devala.
3174. Vị Anusissa nay là Ānanda, vị Kisavaccha nay là Kolita, vị Nārada nay là Puṇṇa Mantāniputta, hội chúng còn lại nay là hội chúng của đức Phật, vị Sarabhaṅga nay là đấng Đấng Bảo Hộ Thế Gian. Các ngươi hãy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh như vậy.”
Bổn sanh Đại Ẩn Sĩ Sarabhaṅga. [522]
***
3175. Khi ấy, Thiên chủ Inda vĩ đại, bậc đã khuất phục A-tu-la Vatra, người cha của các vị chiến thắng, đã chọn ra nàng tiên nữ Alambusā và đã nói với nàng ấy tại hội trường Sudhammā rằng:
3176. “Này Alambusā kiều diễm, chư Thiên cõi Đạo Lợi với Thiên Chủ Inda thỉnh cầu nàng. Này cô nàng quyến rũ ẩn sĩ, nàng hãy đi gặp Isisiṅga.
3177. Vị này đầy đủ về phận sự, có Phạm hạnh, thích thú Niết Bàn, tăng trưởng về đức độ, vượt trội chúng tôi ở Thiên cung. Nàng hãy ngăn chặn các đạo lộ của vị ấy.”
3178. “Tâu Thiên Vương, ngài làm điều gì vậy, khi ngài đây nhìn thấy chỉ mỗi thiếp, nói rằng: ‘Này cô nàng quyến rũ ẩn sĩ, nàng hãy đi’? Vẫn còn có các tiên nữ khác nữa.
3179. Có các cô tương đương thiếp và còn quý phái hơn, tại khu vườn Nandana không có sầu muộn. Hãy là cơ hội cho các cô ấy. Hãy để các cô nàng quyến rũ ấy đi vậy.”
3180. “Nàng nói quả đúng là sự thật. Vẫn còn có các tiên nữ khác nữa. Có các cô tương đương nàng và còn quý phái hơn, tại khu vườn Nandana không có sầu muộn.
3181. Này người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, các nàng ấy không biết cách phục vụ khi đến với người nam, còn người như nàng đây biết.
3182. Và nàng là quý phái trong giới phụ nữ. Này mỹ nữ, chính nàng hãy đi, bằng sắc đẹp và vóc dáng của chính nàng, nàng sẽ khiến vị ẩn sĩ ấy chiều theo quyền lực của nàng.”
3183. “Được vị chúa của chư Thiên sai phái, thiếp sẽ không thể không đi. Nhưng thiếp hãi sợ ở việc xúc phạm vị ấy, bởi vì vị Bà-la-môn có oai lực nổi bật.
3184. Không ít người đã rơi vào địa ngục sau khi xúc phạm bậc ẩn sĩ, đã gánh chịu sự luân hồi bởi vì si mê; (nghĩ đến) điều ấy, thiếp rởn hết cả lông.”
3185. Nói xong điều này, nàng tiên nữ Alambusā kiều diễm, có sắc đẹp theo như ý muốn, dời gót, trong khi đang mong mỏi được kết thân với vị Isisiṅga.
3186. Và nàng ấy đã đi sâu vào khu rừng nọ, nơi được hộ trì bởi vị Isisiṅga, được bao phủ bởi các chồi non của loài dây leo bimbi ở xung quanh đến nửa d0-tuần.
3187. Sáng sớm tinh mơ, vào bữa điểm tâm, lúc mặt trời mọc lên, nàng ấy đã đi đến gặp Isisiṅga đang quét dọn gian nhà thờ lửa.
3188. “Người nữ nào chiếu sáng tựa như tia chớp, tựa như ngôi sao osadhī? Nàng có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni,–
3189. –tương tự như màu sắc của mặt trời, có mùi thơm của trầm hương vàng, có cặp đùi tròn trịa, vô cùng kỳ diệu, là nàng thiếu nữ có vẻ đáng mến.
3190. Thon thả, mảnh mai, trong trắng, hai bàn chân của nàng khéo léo chạm đất. Các bước đi đáng yêu của nàng làm ngẩn ngơ tâm trí của ta.
3191. Và hai đùi của nàng thoai thoải tựa như vòi voi. Cặp mông đẹp của nàng trơn láng giống như tấm ván của trò chơi xúc xắc.
3192. Lỗ rún của nàng nằm ở vị trí khéo léo tựa như chùm nhụy của đóa sen xanh, được nhìn thấy từ đằng xa giống như được phủ đầy lớp thuốc bôi màu đen.
3193. Hai vú là hai bầu sữa được sanh ra từ ngực, đầy đặn, có sự nhô lên tốt đẹp, không bị chảy xệ, tựa như hai nửa trái bí ngô.
3194. Cổ dài tương tự mặt phẳng, có ba ngấn (tướng may mắn) giống như cổ loài sơn dương. Đôi môi xinh xắn (có màu đỏ thắm) tương tự như cái lưỡi.
3195. Hàm răng trên và hàm răng được chùi sạch bằng đầu nhọn của cây chà răng. Những cái răng được mọc lên không có khuyết điểm từ hai hàm là diện mạo xinh đẹp của nàng.
3196. Hai con mắt dài và rộng, có màu đen với đường viền màu đỏ, tương tự như trái dâu rừng, là diện mạo xinh đẹp của nàng.
3197. Mái tóc của nàng mọc ở đầu, không quá dài, khéo được chải chuốt, được gom lại bởi chiếc lược bằng vàng, có mùi thơm của trầm hương.
3198. Cho đến những người sống nhờ vào việc trồng trọt, việc chăn nuôi bò, và lợi nhuận của các việc buôn bán, cho đến vị đang nỗ lực trong số các bậc ẩn sĩ, các đạo sĩ khổ hạnh đã tự kiềm chế,–
3199. –ta không nhìn thấy ai sánh bằng nàng ở trên vòm trái đất này. Nàng là ai, là con của người nào? Làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”
3200. “Này Kassapa, không phải là lúc hỏi câu hỏi, khi vận may qua đi như vầy. Chàng ơi, chàng hãy đến. Cả hai chúng ta sẽ vui vầy ở khu ẩn cư của chúng ta. Chàng hãy đến. Khi thiếp ôm lấy chàng, chàng hãy tỏ ra khéo léo đối với các thú vui vầy.”
3201. Nói xong điều này, nàng tiên nữ Alambusā kiều diễm, có sắc đẹp theo như ý muốn, dời gót, trong khi đang mong mỏi được kết thân với vị Isisiṅga.
3202. Và vị ấy, đã tức tốc bước ra, đã làm đứt đoạn sự nỗ lực bị trì trệ. đã nắm được nàng ấy ở các phần trên đầu, ở các bím tóc, và đã sờ mó.
3203. Người mỹ nữ có sắc đẹp tuyệt vời đã xoay vị ấy lại và ôm chặt lấy. Phạm hạnh ở vị ấy đã tiêu hoại. Và như thế, tiên nữ Alambusā được hài lòng về điều ấy.
3204. Bằng tâm ý, nàng tiên đã đi đến với Thiên Chủ Inda đang ngự tại khu vườn Nandana. Sau khi nhận biết ý định của nàng ấy, Maghavā, vị đứng đầu chư Thiên–
3205. –đã tức tốc phái đi chiếc kiệu khiêng bằng vàng, có vật phụ tùng, có năm mươi mái che, có một ngàn tấm vải bao bọc.
3206. Trong chiếc kiệu, người con gái đẹp đã ôm choàng lấy vị ấy sau khi đã đặt vào ngực; nàng đã ôm chàng hầu như chỉ trong một chốc lát mà đã ba năm (trôi qua ở cõi nhân loại).
3207. Thức giấc sau ba năm, vị Bà-la-môn, hết bị mê đắm, đã nhìn thấy các cây xanh ở xung quanh gian nhà thờ lửa,–
3208. –khu rừng mới thay lá xum xuê, náo nhiệt bởi bầy chim cu cu. Và sau khi quan sát xung quanh, vị ấy đã tuôn những giọt nước mắt, than khóc rằng:
3209. “Ta không có thể cúng tế, ta không có thể trì tụng các chú thuật, lễ tế thần lửa đã bị bỏ bê. Vậy ai đã quyến rủ tâm trước đây của ta vào việc phục vụ (các chuyện ô nhiễm)?
3210. Người nào đã lấy đi pháp tích lũy được từ năng lực (Sa-môn) của ta trong khi ta sống ở trong rừng, tựa như đã lấy đi chiếc thuyền chứa đầy các loại châu báu ở ngoài biển khơi.”
3211. “Thiếp được vị chúa của chư Thiên sai phái đến để phục vụ cho chàng. Thiếp đã phá hoại tâm bằng tâm. Do xao lãng, chàng đã không cảnh giác.”
3212. “Người cha yêu dấu Kassapa quả thật có dạy bảo ta những lời này: ‘Này người trai trẻ, con hãy cảnh giác những phụ nữ như là đóa hoa sen ấy.
3213. Con hãy cảnh giác các nàng có hai khối nhô lên ở ngực. Này người trai trẻ, con hãy cảnh giác các cô ấy.’ Là người có lòng thương tưởng đến ta, người cha yêu dấu đã dạy bảo ta như thế.
3214. Ta đã không thực hiện lời nói của vị ấy, lời giảng dạy của người cha, của bậc trưởng thượng. Hôm nay, trong khu rừng vắng bóng người, ta đây chỉ một mình, ăn năn.
3215. Ta đây sẽ làm như thế nào! Thật xấu hổ thay cho mạng sống của ta! Ta sẽ trở lại là người tu tập như trước đây, hay là ta sẽ chọn lấy cái chết?”
3216. Sau khi biết được năng lực, sự tinh tấn, sự quả quyết đã được tăng trưởng tốt đẹp cho vị ấy, tiên nữ Alambusā đã đê đầu ở bàn chân của Isisiṅga, (nói rằng):
3217. “Thưa bậc đại hùng, xin ngài chớ giận thiếp. Thưa bậc đại ẩn sĩ, xin ngài chớ giận thiếp. Thiếp đã làm được lợi ích lớn lao cho chư Thiên cõi Tam Thập danh tiếng. Khi ấy, ngài đã làm cho toàn bộ Thiên giới bị rung chuyển.”
3218. “Chư Thiên cõi Đạo Lợi và Thiên Chủ Vāsava của chư Thiên cõi Tam Thập, và nàng, này người nữ hiền thục, mong rằng nàng được an lành. Này cô gái, nàng hãy ra đi thoải mái.”
3219. Sau khi nắm lấy hai bàn của vị ẩn sĩ, và đi nhiễu vòng quanh vị ấy, nàng tiên đã chắp tay lên và đã rời khỏi nơi ấy.
3220. Đã có chiếc kiệu khiêng bằng vàng, có vật phụ tùng, có năm mươi mái che, có một ngàn tấm vải bao bọc hiện ra cho nàng ấy. Nàng tiên đã bước lên chiếc kiệu ấy và đi về trú xứ của chư Thiên.
3221. Trong khi nàng ấy tiến đến tựa như cây đuốc đang cháy sáng giống như tia chớp, vị Chúa của chư Thiên hớn hở, thích ý, mừng rỡ, đã ban cho nàng ấy điều ước muốn.
3222. Tâu Sakka, nếu ngài ban cho thiếp điều ước muốn, tâu vị chúa tể của tất cả sanh linh, thiếp có thể không phải đi quyến rũ ẩn sĩ. Tâu Sakka, thiếp chọn điều ước muốn ấy.”
Alambusājātakaṃ. [523]
***
3223. “Với tướng hảo quang minh, đôi mắt trong sáng, trẫm nghĩ rằng đại đức đã xuất thân từ gia đình danh giá. Thưa bậc có trí tuệ, vì lý do gì đại đức đã dứt bỏ các tài sản của cải, đã lìa khỏi gia đình, và đã xuất gia?”
3224. “’Tâu vị chúa của con người, sau khi tự nhìn nhìn thấy cung điện của Chúa Rồng có đại năng lực, sau khi nhìn thấy quả thành tựu lớn lao của các việc phước thiện, vì đức tin tôi đã xuất gia, tâu bệ hạ.”
3225. “Không vì ham muốn dục vọng, không vì sợ hãi, không vì si mê mà các bậc xuất gia nói lời dối trá. Được hỏi, xin đại đức hãy giải thích điều ấy cho trẫm. Sau khi lắng nghe, niềm tịnh tín sẽ sanh lên cho trẫm.”
3226. “Tâu vị lãnh đạo đất nước, trong khi đi buôn bán, tôi đã nhìn thấy những đứa trẻ dã man đang vui mừng đi ở trên đường lộ, mang theo con vật bò sát to lớn có cơ thể đã phát triển.
3227. Tâu vị chúa của loài người, tôi đây bị kinh hãi, có lông dựng đứng, đã đi đến gặp chúng và đã nói với chúng rằng: ‘Con vật có cơ thể dễ sợ này bị đem đi đâu vậy? Này các trai làng, các người sẽ làm gì với con rắn này?’
3228. ‘Con rắn này bị đem đi vì mục đích thực phẩm. Nó là con vật bò sát to lớn có cơ thể đã phát triển. Và thịt (của nó) ngọt, béo, mềm. Này người con trai xứ Videha, ông không biết hương vị (của nó).’
3229. Từ nơi này, chúng tôi sẽ đi về chỗ ở của mình, sẽ cầm lấy các con dao, sẽ cắt ra, và sẽ vui mừng thưởng thức các miếng thịt. Bởi vì chúng tôi chính là những kẻ thù của các con rắn.’
3230. ‘Nếu con vật này bị đem đi vì mục đích thực phẩm. Nó là con vật bò sát to lớn có cơ thể đã phát triển. Tôi biếu các người mười sáu con bò đực. Các người hãy phóng thích con rắn này khỏi sự trói buộc.’
3231. ‘Quả thật, món ăn này mới hợp ý chúng tôi. Và những loài bò sát, đối với chúng tôi đã được ăn trước đây nhiều rồi. Này ông Aḷāra, chúng tôi làm theo lời nói ấy của ông. Này người con trai xứ Videha, ông hãy là bạn của chúng tôi.’
3232. Tất nhiên, bọn chúng đã phóng thích con rắn khỏi sự trói buộc,
là sự vướng mắc vào sợi dây đã được xuyên qua lỗ mũi của con rắn.
Và được tự do khỏi sự trói buộc, con rắn chúa ấy
đã mau chóng trườn đi, với mặt hướng về phía đông.
3233. Sau khi đã mau chóng trườn đi, với mặt hướng về phía đông,
con rắn đã ngước nhìn tôi với hai mắt đẫm lệ.
Khi ấy, tôi đã đi theo phía sau của con rắn,
sau khi đã đưa lên mười ngón tay được chắp lại, (nói rằng):
3234. ‘Ngươi hãy mau mau đi đi.
Chớ để các kẻ thù bắt lại ngươi lần nữa.
Bởi vì, việc gặp lại những kẻ hung bạo lần nữa thì khổ lắm.
Ngươi hãy đi khuất tầm nhìn của những gã trai làng.’
3235. Con rắn đã đi đến một hồ nước trong veo,
có màu nước xanh, đáng yêu, có bến tắm xinh,
được trải dài với những cây mận và những cây lau sậy.
Với nỗi sợ hãi đã qua đi, con rắn đã hớn hở trườn vào hồ nước.
3236. Sau khi trườn vào hồ nước không bao lâu, tâu vị chúa của loài người, con rắn ấy đã hiện ra trước mặt tôi với dáng vóc thiên thần. Con rắn đã phục vụ cho tôi, tựa như đứa con trai phục vụ người cha, trong lúc thốt ra lời nói thấm vào trái tim, thoải mái lỗ tai.
3237. ‘Này Aḷāra, ông là người mẹ, là người cha của ta,
là máu thịt, là người đã ban cho mạng sống, là người cộng sự của ta.
Và ta đã đạt lại thần lực của mình.
Này Aḷāra, ông hãy xem các chỗ trú ngụ của ta,
có vô số thức ăn, có nhiều cơm nước,
tựa như cung điện Masakkasāra của Thiên Chủ Vāsava.
3238. Nơi ấy có hình thức được cấu trúc với nhiều phần đất.
Các phần đất ấy không có sỏi, êm ái, và xinh đẹp,
có các loài cỏ thấp, và mặt đất không có bụi,
tạo ra sự dễ chịu; là nơi mọi người buông bỏ sầu muộn.
3239. Không bị lồi lõm, (có hồ nước) gần như màu xanh ngọc bích,
ở bốn hướng có rừng xoài vô cùng đáng yêu,
với những chùm trái chín có trái vô cùng xum xuê,
quanh năm thường xuyên trĩu nặng những trái cây.
3240. ’Tâu vị chúa của con người, ở giữa các khu rừng ấy là nơi trú ngụ có vẻ ngoài rực rỡ, cao quý làm bằng vàng, có chốt cửa bằng bạc, phát sáng tựa như tia chớp ở không trung.
3241. Tâu bệ hạ, (các gian phòng) được làm bằng ngọc ma-ni, được làm bằng vàng, cao quý, có nhiều tranh vẽ thường xuyên khéo được hóa hiện ra, được đông đúc với các thiếu nữ đã được trang điểm, có mang các vòng vàng ở cánh tay.
3242. Vị Saṅkhapāla ấy, có sắc đẹp hoàn hảo, đã vội vã bước lên tòa lâu đài có sự uy nghi không thể sánh bằng với một ngàn cột trụ, nơi ấy hoàng hậu, người vợ của vị ấy, cư ngụ.
3243. Và một nữ nhân, không được sai bảo, đã vội vã cầm lấy và mang lại chiếc ghế xinh đẹp, làm bằng ngọc bích, vô cùng giá trị, được gắn viên ngọc ma-ni nguyên chất.
3244. Kế đó, vị Long Vương đã cầm lấy tôi ở bàn tay
và đã mời tôi ngồi vào chiếc ghế cao nhất (nói rằng):
‘Thưa ngài, hãy ngồi ở chiếc ghế này tại đây,
bởi vì ngài là một trong những vị quan trọng đối với ta.’
3245. Và một nữ nhân khác đã vội vã
lấy nước mang đến gần
và đã rửa sạch hai bàn chân của tôi, tâu vị chúa của loài người,
tựa như người vợ rửa chân cho người chồng, người chủ nhân yêu quý.
3246. Và một nữ nhân khác nữa đã vội vã
trình lên chiếc đĩa làm bằng vàng,
và đã dâng bữa ăn có hình thức hấp dẫn,
với nhiều xúp, với nhiều loại thức ăn phụ.
3247. Tâu vị cai quản đất nước, khi tôi đã ăn xong bữa ăn, biết được tâm ý của chồng, các nàng đã phục vụ tôi bằng các loại nhạc cụ. Chúa rồng đã cung phụng tôi còn lớn lao hơn thế nữa bằng các dục của cõi Trời không phải là ít, (nói rằng):
3248. ‘Thưa Aḷāra, ba trăm nàng này là những người vợ của ta, tất cả đều có lưng ong, có sự rạng rỡ vượt trội hoa sen. Thưa Aḷāra, các nàng sẽ phục vụ dục lạc cho ngài. Ta ban tặng các nàng đến ngài. Ngài hãy để cho các nàng ấy hầu hạ.’
3249. Sau khi hưởng thụ hương vị (ngũ dục) ở cõi Trời một năm, khi ấy, tôi đã hỏi về sự vươn lên của vị này: ‘Việc này của Long Vương là như thế nào? Và đã đạt được như thế nào? Làm thế nào ngài đã có được cung điện tuyệt vời?
3250. Có phải đạt được do ngẫu nhiên, nó đã được sanh lên dành riêng cho ngài, nó đã được tự thân làm ra, hay là đã được chư Thiên ban tặng? Thưa Long Vương, tôi hỏi ngài về sự việc này. Làm thế nào ngài đã có được cung điện tuyệt vời?’
3251. ‘Nó không phải đạt được do ngẫu nhiên, nó không phải đã được sanh lên dành riêng cho tôi, không phải đã được tự thân tạo ra, cũng không phải đã được chư Thiên ban tặng. Tôi đã đạt được cung điện này nhờ vào các việc phước thiện, nhờ vào các hành động không xấu xa của bản thân.’
3252. ‘Phận sự của ngài là gì? Thêm nữa, Phạm hạnh của ngài là gì?
Quả thành tựu này là của việc nào đã khéo được thực hành?
Thưa Long Vương, tôi hỏi ngài về sự việc này.
Làm thế nào ngài đã có được cung điện tuyệt vời này?’
3253. ‘Tôi đã là vị vua, vị chúa tể của xứ Magadha,
tên là Duyyodhana có đại thần lực.
Tôi đây đã biết được mạng sống là ngắn ngủi,
không thường còn, có tính chất biến hoại.
3254. Có tâm tịnh tín, tôi đã bố thí rộng rãi vật thí, cơm ăn, và nước uống một cách trân trọng. Khi ấy, ngôi nhà của tôi đã có hình thức như là cái giếng nước, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn đã được toại ý.
3255. Tại nơi ấy, chúng tôi đã ban phát các vật thí một cách trân trọng, như là tràng hoa, hương thơm, và dầu thoa, đèn đuốc, xe thuyền, và chỗ trú ngụ, vải vóc che thân, giường nằm, rồi cơm nước.
3256. Việc ấy đã là phận sự của tôi. Việc ấy còn là Phạm hạnh của tôi.
Quả thành tựu này là của việc đã khéo được thực hành ấy.
Chính nhờ vào việc ấy, tôi đã có được cung điện tuyệt vời này,
có vô số thức ăn, có nhiều cơm nước,
và có hình thức được cung ứng với các điệu vũ lời ca;
việc này được tồn tại lâu dài, nhưng không vĩnh viễn.’
3257. ‘Tại vì sao mà những kẻ không có uy quyền, có năng lực ít ỏi lại có thể hành hạ ngài là người có uy quyền, có đại thần lực? Thưa vị có răng nanh là vũ khí, liên quan đến điều gì mà ngài đã phải chịu nằm yên ở trong tay của những kẻ khốn cùng?
3258. Phải chăng uy lực của ngài đã đi theo nỗi sợ hãi lớn lao? Tại vì sao mà uy lực của ngài không đi vào gốc rễ của chiếc răng? Thưa vị có răng nanh là vũ khí, liên quan đến điều gì mà ngài đã phải chịu sự quấy nhiễu của những kẻ khốn cùng?’
3259. ‘Uy lực của ta đã không đi theo nỗi sợ hãi lớn lao. Uy lực của ta không thể bị hủy hoại bởi bọn chúng. Các lời giáo huấn của các bậc thiện nhân đã khéo được thuyết giảng là không thể vi phạm, tựa như bờ biển là không thể được qua.
3260. Này Aḷāra, vào ngày mười bốn và ngày mười lăm,
ta thường xuyên thực hành ngày trai giới.
Khi ấy, mười sáu gã trai làng đã đi đến
mang theo dây thừng và lưới bẫy chắc chắn.
3261. Sau khi đâm thủng lỗ mũi và xuyên sợi dây qua,
những kẻ hung bạo đã nắm lấy ta và lôi ta đi.
Tôi đã chịu đựng sự khổ đau như thế ấy,
trong khi không làm hư hoại ngày trai giới.’
3262. ‘Bọn trai làng đã nhìn thấy ngài trên đường đi, ở lối đi bộ
với vóc dáng đầy đủ sức mạnh và sắc đẹp.
Ngài đã được thành tựu về quyền uy và trí tuệ,
thưa Long Vương, vì mục đích gì mà ngài thực hành khổ hạnh?
3263. ‘Không vì nguyên nhân con trai, không vì nguyên nhân tài sản,
và cũng không vì nguyên nhân tuổi thọ, này Aḷāra,
trong khi ước nguyện về bản thể loài người,
sau khi nỗ lực vì điều ấy, ta đã thực hành hạnh khắc khổ.’
3264. ‘Với mắt đỏ ngầu, với bờ vai rộng,
đã được trang điểm, có râu tóc đã được chăm sóc,
khéo được thoa trầm hương đỏ,
ngài tỏa sáng các phương tựa như vị vua của các Càn-thát-bà.
3265. Ngài đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực,
được phú cho tất cả các dục.
Thưa Long Vương, tôi hỏi ngài ý nghĩa này,
thế giới loài người tốt hơn nơi này bởi điều gì?’
3266. ‘Này Aḷāra, ngoại trừ thế giới loài người, không nơi nào khác
được tìm thấy sự trong sạch và sự tự kiềm chế.
Và ta sau khi đạt được bản thể loài người,
sẽ thực hiện việc chấm dứt sanh tử.’
3267. ‘Một năm qua tôi được sống bên cạnh ngài,
tôi được phục vụ cơm ăn nước uống.
Thưa Long Vương, sau khi thông báo thì tôi ra đi.
Tâu vị chúa của loài người, tôi sống xa nhà đã lâu.’
3268. ‘Vợ, các con, và những người sống phụ thuộc
thường xuyên được giáo huấn, có thể phục vụ ông.
Có lẽ không người nào đã mắng nhiếc ông?
Bởi vì, này Aḷāra, việc nhìn thấy ông là điều yêu thích của ta.’
3269. ‘Cũng giống như người mẹ và người cha ở gia đình,
người con trai sống, được yêu thương, được chăm sóc;
tuy nhiên, đối với tôi, chính nơi này là tốt hơn nơi ấy,
bởi vì, thưa Long Vương, tâm của ngài được tịnh tín ở nơi tôi.’
3270. ‘Viên ngọc ma-ni của ta được biết là viên hồng ngọc,
bảo vật ma-ni cao quý là vật mang lại tài sản.
Ông hãy cầm lấy nó và đi về chỗ ở của mình.
Sau khi đạt được tài sản, ông hãy trả lại viên ngọc ma-ni ấy.’
3271. Tôi nhìn thấy các dục thuộc về nhân loại
là không thường còn, có tính chất biến hoại.
Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các loại dục,
vì đức tin tôi đã xuất gia, tâu bệ hạ.
3272. Tựa như các trái ở trên cây rụng xuống, loài người,
ở tuổi non trẻ và già cả, khi có sự tan rã thân xác đều ngã xuống.
Tâu bệ hạ, sau khi nhìn thấy điều ấy, tôi đã xuất gia.
Chỉ có đời sống Sa-môn không có lỗi lầm là tốt hơn.”
3273. “Quả thật, đúng vậy, nên thân cận các bậc có trí tuệ,
các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực.
Này Aḷāra, sau khi lắng nghe vị Long Vương và đại đức,
trẫm sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.”
3274. “Quả thật, đúng vậy, nên thân cận các bậc có trí tuệ,
các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực.
Tâu bệ hạ, sau khi lắng nghe vị Long Vương và tôi,
bệ hạ hãy làm các việc phước thiện không phải là ít.”
Bổn Sanh Long Vương Saṅkhapāla. [524]
***
3275. “Trẫm thông báo cho cư dân ở phố thị,
các thân hữu và các quan đại thần ở cuộc họp,
ở trên đầu (của trẫm) có sợi tóc bạc đã xuất hiện,
giờ đây trẫm đã vui thích sự xuất gia.”
3276. “Theo thần là không có lợi! Bệ hạ nói thế nào?
Tâu bệ hạ, bệ hạ đã cắm mũi tên vào ngực của thần.
Bệ hạ có bảy trăm người vợ,
các nàng ấy của bệ hạ sẽ như thế nào?”
3277. “Các nàng ấy sẽ biết (việc của họ),
còn trẻ, các nàng sẽ đi theo người khác.
Là người đang ước nguyện cõi Trời,
vì thế, trẫm sẽ xuất gia.”
3278. “Điều đạt được xấu xa đã có cho ta! Này Sutasoma,
khi ta là mẹ của ngài đây,
là việc trong khi mẹ đang than khóc
mà con xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.
3279. Điều đạt được xấu xa đã có cho ta! Này Sutasoma,
là việc ta đã hạ sinh ra ngài đây,
là việc trong khi mẹ đang than khóc
mà con xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.”
3280. “Cái gì gọi là đạo lý ấy? Này Sutasoma,
và cái gì gọi là việc xuất gia?
Là việc mẹ cha đây thì già cả,
mà con xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.
3281. Con còn có nhiều người con trai,
còn trẻ, chưa đến tuổi thành niên.
Chúng là đáng yêu, trong lúc không nhìn thấy con,
cha nghĩ rằng, chúng rơi vào cảnh khổ đau.”
3282. “Và với những người con này của trẫm,
còn trẻ, chưa đến tuổi thành niên,
đáng yêu, thậm chí với tất cả, với cha mẹ,
sau khi sống chung đã lâu thì có sự chia lìa.”
3283. “Trái tim chàng có bị vỡ tan?
Hay là lòng thương xót của chàng không có cho chúng thiếp?
Là việc chúng thiếp đang khóc thét,
mà chàng xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.”
3284. “Trái tim của trẫm bị vỡ tan.
Lòng thương xót của trẫm cũng có cho các nàng.
Là người đang ước nguyện cõi Trời,
vì thế, trẫm sẽ xuất gia.”
3285. “Điều đạt được xấu xa đã có cho thiếp! Này Sutasoma,
khi thiếp là vợ của ngài đây,
là việc trong khi thiếp đang than khóc
mà chàng xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.
3286. Điều đạt được xấu xa đã có cho thiếp! Này Sutasoma,
khi thiếp là vợ của ngài đây,
là việc bụng mang dạ chửa của thiếp,
mà chàng xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.
3287. Bào thai, thai nhi của thiếp đã đủ ngày. Cho đến lúc thiếp hạ sanh ra hài nhi ấy, chớ để thiếp một mình, góa phụ, thiếp đã nhìn thấy các nỗi khổ sở sau này.”
3288. “Bào thai, thai nhi của nàng đã đủ ngày. Nào, nàng hãy sanh ra đứa con trai có sắc đẹp hoàn hảo. Sau khi lìa bỏ nó, trẫm sẽ xuất gia.
3289. Này hoàng hậu Candā, nàng chớ khóc lóc.
Hỡi nàng có cặp mắt đen tuyền (như bông hoa kaṇṇika) của núi rừng,
nàng hãy bước lên tòa lâu đài cao quý.
Trẫm sẽ ra đi, chẳng đoái hoài.”
3290. “Thưa mẹ, người nào đã làm cho mẹ giận?
Vì sao mẹ khóc lóc và nhìn con chăm chăm?
Trong số các thân quyến đang xem xét,
con sẽ giết chết kẻ nào, dầu kẻ ấy không thể bị giết?”
3291. “Bởi vì vị ấy không thể giết chết được,
này con yêu, vị vua chiến thắng đã làm mẹ giận.
Này con yêu, cha của con đã nói với mẹ rằng:
‘Trẫm sẽ ra đi, chẳng đoái hoài.’”
3292. “Trước đây, con đã được (vua cha) đưa đến
vườn hoa và chiến đấu với các con voi.
Khi (đức vua) Sutasoma đã xuất gia,
vậy giờ đây, con sẽ làm thế nào?”
3293. “Trong khi mẹ của con khóc lóc,
và anh của con không muốn,
con cũng có thể nắm cha ở cánh tay,
cha không sao đi được khi chúng con không muốn.”
3294. “Này nhũ mẫu, bà hãy đứng lên.
Hãy cho đứa trẻ trai này vui đùa ở nơi khác.
Chớ để nó tạo ra sự chướng ngại cho trẫm,
trong khi trẫm đang đang ước nguyện cõi Trời.”
3295. “Có lẽ tôi nên cho đi cái vật chiếu sáng này.
Lợi ích gì cho tôi với vật này?
Khi (đức vua) Sutasoma đã xuất gia,
không lẽ tôi sẽ sử dụng vật ấy cho tôi?”
3296. “Kho tàng của bệ hạ là bao la,
kho chứa đồ của bệ hạ đầy ắp,
trái đất đã được chiến thắng là thuộc về bệ hạ;
tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy vui sướng, chớ xuất gia.”
3297. “Kho tàng của trẫm là bao la,
kho chứa đồ của trẫm đầy ắp,
trái đất đã được chiến thắng là thuộc về trẫm;
sau khi lìa bỏ nó, trẫm sẽ xuất gia.”
3298. “Tài sản của thần cũng dồi dào,
tâu bệ hạ, thần cũng không thể tính đếm.
Tâu bệ hạ, thần hiến dâng mọi thứ của thần đến bệ hạ;
tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy vui sướng, chớ xuất gia.”
3299. “Trẫm biết rằng tài sản của khanh là dồi dào,
và trẫm đã được khanh hiến dâng, này Kulavaḍḍhana.
Là người đang ước nguyện cõi Trời,
vì thế, trẫm sẽ xuất gia.”
3300. “Trẫm chán ngán lắm rồi,
này (hoàng đệ) Somadatta, sự không vui sướng xâm chiếm trẫm,
bởi vì có nhiều sự tai hại.
Trẫm sẽ xuất gia ngay ngày hôm nay.”
3301. “Tâu (hoàng huynh) Sutasoma, việc này cũng được đệ vui thích,
giờ đây, huynh hãy xuất gia ngay ngày hôm nay.
Đệ cũng sẽ xuất gia.
Không có huynh, đệ không thể nỗ lực để duy trì.
3302. Đúng vậy, (huynh) không thể xuất gia,
bởi vì ở thành thị và ở thôn quê không ai cai quản.”
“Khi (đức vua) Sutasoma đã xuất gia,
thì (người dân) chúng tôi sẽ làm thế nào bây giờ đây?”
3303. “Trẫm nghĩ rằng mạng sống này được đưa đi,
tựa như chút ít nước ở trên tấm màng lọc,
tương tự như vậy, khi mạng sống là vô cùng ít ỏi,
không có thời gian để xao lãng.
3304. Trẫm nghĩ rằng mạng sống này được đưa đi,
tựa như chút ít nước ở tấm màng lọc,
tương tự như vậy, khi mạng sống là vô cùng ít ỏi,
chỉ những kẻ ngu mới xao lãng.
3305. Những kẻ ấy tăng thêm nhiều ở địa ngục,
ở thai bào của súc sanh, và ở cảnh giới ngạ quỷ.
Bị trói buộc bởi sự trói buộc của tham ái,
chúng tăng thêm nhiều ở tập thể A-tu-la.”
3306. “Có đám bụi mù được bốc lên ở không xa tòa lâu đài Pupphaka. Tôi nghĩ rằng tóc của vua công minh có danh tiếng của chúng ta đã được cắt lìa.
3307. Tòa lâu đài này là thuộc về vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3308. Tòa lâu đài này là thuộc về vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3309. Ngôi nhà mái nhọn này là thuộc về vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3310. Ngôi nhà mái nhọn này là thuộc về vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3311. Vùng đất rừng không sầu muộn này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3312. Vùng đất rừng không sầu muộn này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3313. Vườn thượng uyển này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3314. Vườn thượng uyển này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3315. Khu rừng cây kaṇikāra này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3316. Khu rừng cây kaṇikāra này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3317. Khu rừng cây hoa kèn này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3318. Khu rừng cây hoa kèn này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3319. Khu rừng xoài này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3320. Khu rừng xoài này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3321. Hồ sen này là thuộc về vị ấy,
được che phủ (bởi các giống cây), được lai vãng bởi các loài chim.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
3322. Hồ sen này là thuộc về vị ấy,
được che phủ (bởi các giống cây), được lai vãng bởi các loài chim.
Nơi đây, đức vua đã thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc.
3323. Quả thật, đức vua đã xuất gia.
Sutasoma đã dứt bỏ vương quốc này,
có y phục bằng vải màu ca-sa,
tựa như con voi sống chỉ đơn độc một mình.”
3324. “Thật vậy, quý vị chớ hồi tưởng về các lạc thú và các sự đùa giỡn, về những nụ cười trước đây. Chớ để các dục giết chết các ngươi, bởi vì thành phố tên Sudassana là đáng yêu.
3325. Và quý vị hãy tu tập tâm từ ái,
vô lượng, ban ngày và ban đêm.
Rồi hãy đi đến thành phố của chư Thiên,
là nơi cư ngụ của những người có hành động phước thiện.”
Tiểu Bổn Sanh Sutasoma [525]
***
Con chim két sáng suốt, chim Jambuka, và chim kuṇḍalinī,
bổn sanh đại ẩn sĩ Sarabhaṅga, và tiên nữ Alambusā,
Long vương cao quý tối thượng quyền uy tên Saṅkhapāla,
và chuyện đức vua Sutasoma thuần phục kẻ thù.
Nhóm Bốn Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo--
[1] Sự sắp xếp ở đây là theo thứ tự từ thấp lên cao, trí tuệ được xếp vào vị trí thứ năm, tức là vị trí cao nhất (ND).
[Mục lục][15][16][17][18][19][20][21]
[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]