TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 33
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH tập II
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
 

XX. SATTATINIPĀTO - NHÓM BẢY MƯƠI KỆ NGÔN

 

1. BỔN SANH ĐỨC VUA KUSA

 

3641. “Đất nước này là thuộc về mẹ, có tài sản, có cỗ xe,

có biểu hiệu (của đức vua), được đầy đủ tất cả các dục.

Thưa mẹ, xin mẹ hãy lãnh đạo vương quốc này của mẹ.

Con đi đến nơi nào mà nàng Pabhāvatī đáng yêu (đang ở).”

 

3642. “Trong khi mang vác nặng nề một cách không chính đáng,

vào ban ngày, vào ban đêm, và vào lúc nửa đêm,

hỡi chàng Kusa, chàng hãy mau trở về thành Kusāvatī.

Thiếp không muốn kẻ có bộ dạng xấu xa sống (ở nơi này).

 

3643. “Này Pabhāvatī, bị tham đắm sắc đẹp của nàng,

ta sẽ không từ nơi này đi về lại thành Kusāvatī.

Ta vui thích chỗ ở đáng yêu thuộc xứ sở Madda.

Sau khi từ bỏ đất nước, ta được vui thích trong việc nhìn thấy nàng.

 

3644. Này Pabhāvatī, bị tham đắm sắc đẹp của nàng,

ta lang thang ở trái đất, với dáng vẻ ngây dại.

Ta không nhận biết phương hướng. Từ nơi nào ta đã đi đến?

Ta say mê nàng ở cặp mắt ngơ ngác của loài nai.

 

3645. Hỡi cô nàng khoác y phục dệt sợi vàng, hỡi cô nàng có thắt lưng xinh đẹp bằng vàng, hỡi cô nàng có eo thon, bởi vì lòng ham muốn đối với nàng, ta không còn hứng thú với đất nước.”

 

3646. “Thật không thực tế đối với ngài đây, là kẻ mong muốn một người không mong muốn (mình). Tâu bệ hạ, bệ hạ ham muốn một người không ham muốn (bệ hạ); là kẻ không được yêu, bệ hạ lại muốn trở thành người được yêu.”

 

3647. “Người nào đạt được người mình yêu, cho dầu người kia không tự nguyện hay là có sự tự nguyện, ta ca ngợi việc đạt được trong trường hợp này, việc không đạt được trong trường hợp ấy là tệ hại.”

 

3648. “Bệ hạ đào đá rắn bằng thanh gỗ của cây kaṇikāra, bệ hạ ngăn cản gió bằng tấm lưới, là kẻ mong muốn một người không mong muốn (mình).”

 

3649. “Hỡi cô nàng có đặc điểm dịu dàng, ta đây đã đi đến, băng ngang qua các xứ sở, mà ta không tìm thấy sự hứng thú ở nơi nàng. Có lẽ tảng đá đã đè nặng ở trái tim của nàng.

 

3650. Hỡi nàng công chúa, khi nào nàng cau mày nhìn ta, khi ấy ta là người đầu bếp ở hậu cung của đức vua xứ Madda.

 

3651. Hỡi nàng công chúa, khi nào nàng nhìn ta mỉm cười, khi ấy ta không phải là người đầu bếp, khi ấy ta là đức vua Kusa.”

 

3652. “Bởi vì, nếu lời nói của các thầy bói tướng sẽ là sự thật, thì hãy để cho họ chặt thiếp thành bảy mảnh theo như ý muốn, chứ ngài không bao giờ có thể trở thành chồng của thiếp.”

 

3653. “Bởi vì, nếu lời nói của những người khác hay của ta là sự thật, thì không có người nào khác là chồng của nàng, ngoại trừ đức vua Kusa có giọng nói sư tử.”

 

3654. “Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi nhìn ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.

 

3655. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi nói chuyện với ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.

 

3656. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi mỉm cười với ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.

 

3657. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi cười đùa với ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.

 

3658. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi chạm các bàn tay vào ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.”

 

3659. “Chẳng lẽ cô công chúa này không tìm thấy sự hứng thú ở nơi vua Kusa, khi ông ta là người đầu bếp phục dịch không vì mục đích lương bổng.”

 

3660. “Chẳng lẽ trong khi nói lời nói tệ hại như vậy, cái bà gù này không đáng được việc cắt đứt cái lưỡi bằng con dao bén ngót.”

 

3661. “Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có danh tiếng lẫy lừng.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3662. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có tài sản kếch sù.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3663. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có binh lực vĩ đại.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3664. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có đất nước rộng lớn.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3665. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này là đại vương.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3666. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói sư tử.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3667. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói êm dịu.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3668. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói tròn trịa.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3669. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói dịu dàng.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3670. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói ngọt ngào.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3671. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này biết trăm ngành nghề.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3672. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này là Sát-đế-lỵ.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.

 

3673. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này là đức vua Kusa.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.”

 

3674. “Những con voi này là hung hãn, tất cả đã được mang giáp đứng dàn trận. Hãy để cho chúng đưa công chúa Pabhāvatī này đi trước khi chúng dẫm nát tường thành.”

 

3675. “Trẫm sẽ phanh thây công chúa Pabhāvatī này thành bảy phần và sẽ ban cho các vị Sát-đế-lỵ đã đi đến đây để giết chết trẫm.”

 

3676. Nàng công chúa đã đứng dậy, xuống sắc, choàng tấm lụa dệt sợi vàng, với đôi mắt đẫm lệ, được hầu cận bởi đám nữ tì.

 

3677. “Có lẽ khuôn mặt mỹ miều, với đôi mắt xinh đẹp, không lấm bụi, không vết nhơ, được thoa son phấn, được ngắm nhìn ở tấm gương có cán ngà ấy sẽ bị quăng bỏ và tồn tại ở trong rừng bởi các vị Sát-đế-lỵ.

 

3678. Có lẽ những sợi tóc đen tuyền, có phần ngọn đã được uốn cong, mềm mại, đã được xức tinh dầu trầm hương ấy của con sẽ vương vãi ở giữa bãi tha ma, và các con kên kên sẽ lôi đi bằng những bàn chân.

 

3679. Có lẽ hai cánh tay có móng màu đồng đỏ, có lông đẹp, mềm mại, đã được xức tinh dầu trầm hương ấy của con sẽ bị các vị Sát-đế-lỵ chặt đứt, rồi thảy bỏ ở trong rừng, và chim quạ sẽ gắp lấy rồi ra đi theo như ý muốn.

 

3680. Có lẽ con chó rừng sẽ đeo bám hai bầu vú không bị thõng xuống tương tự trái thốt nốt, được tẩm với trầm hương xứ Kāsi của con, tựa như đứa con trai, còn nhỏ dại, bé bỏng, bám vào vú mẹ.

 

3681. Có lẽ cặp mông đầy đặn, khéo được vỗ về, được quen thuộc với những dây nịt bằng vàng ấy sẽ bị các vị Sát-đế-lỵ chặt đứt, rồi ném bỏ ở trong rừng, và bầy chó rừng sẽ tranh giành.

 

3682. Những con chó, những con quạ, những con chó rừng, và những loài thú khác có răng nanh, sau khi ăn thịt Pabhāvatī, có lẽ sẽ không bị già.

 

3683. Thưa mẹ, nếu các vị Sát-đế-lỵ đến từ phương xa ra lệnh mang đi các phần thịt, thì mẹ hãy xin lại các mẩu xương rồi thiêu nó ở dọc đường lộ.

 

3684. Thưa mẹ, mẹ hãy cho thực hiện các thửa ruộng rồi trồng cây kaṇikāra ở nơi này. Vào lúc các cây ấy trổ bông vào cuối mùa tuyết rơi của những tháng mùa đông, thưa mẹ, mẹ có thể nhớ đến con rằng: ‘Pabhāvatī có màu da như vầy.’”

 

3685. Sau khi nhìn thấy thanh gươm và thớt gỗ ở hậu cung của đức vua xứ Madda, vị nữ Sát-đế-lỵ có vóc dáng Thiên thần, mẹ của nàng công chúa, đã đứng lên.

 

3686. “Có lẽ với thanh gươm này, bệ hạ sẽ giết chết cô con gái vô cùng giỏi giang, có vòng eo thon, của thiếp rồi ban cho các vị Sát-đế-lỵ.”

 

3687. “Này con gái, con đã không làm theo lời nói nhằm mong muốn điều lợi ích của mẹ. Hôm nay, con đây, (toàn thân) bị bao trùm bởi máu, đi đến lãnh địa của Diêm Vương.

 

3688. Thật vậy, người nào không làm theo lời nói chỉ rõ sự lợi ích của các bậc hữu ân, người vi phạm như vậy thì đọa vào điều tệ hại hơn.

 

3689. Này con, nếu con chấp nhận vị hoàng tử có vẻ đáng mến, vị Sát-đế-lỵ được sanh ra bởi dòng họ Kusa, có thắt lưng bằng vàng và ngọc ma-ni, được tôn vinh bởi tập thể thân quyến, con sẽ không đi đến trú xứ của Diêm Vương.

 

3690. Ở gia tộc của các vị Sát-đế-lỵ, là nơi có trống đánh vang, có voi gầm rống, này con gái ngoan, cái gì là hạnh phúc hơn điều ấy?

 

3691. Ở gia tộc của các vị Sát-đế-lỵ, có ngựa hí vang ở ngoài cửa, có nhạc công ca hát, này con gái ngoan, cái gì là hạnh phúc hơn điều ấy?

 

3692. Ở gia tộc của các vị Sát-đế-lỵ, có tiếng kêu của chim công, chim cò, được vang dội với tiếng kêu của chim cu cu, này con gái ngoan, cái gì là hạnh phúc hơn điều ấy?

 

3693. Vậy vị đánh bại kẻ thù, vị phá tan đất nước của kẻ khác, vị Kusa có trí tuệ cao cả ở đâu? Vị ấy có thể giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau.”

 

3694. “Vị đánh bại kẻ thù, vị phá tan đất nước của kẻ khác, vị Kusa có trí tuệ cao cả ấy ở ngay tại nơi này, là vị có thể giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau.”

 

3695. “Con điên rồ nên mới nói vậy, hoặc con phát ngôn như là kẻ ngu si. Nếu vị Kusa đã đến, tại sao chúng ta không hay biết điều ấy?”

 

3696. “Người này là gã đàn ông đầu bếp ở trong cung của các công nương, là kẻ đã vấn chặt y phục và đang cuối xuống rửa cái chảo.”

 

3697. “Có phải con là cô gái thấp hèn, là nữ nhân dòng hạ tiện? Hay con là kẻ bôi nhọ gia đình? Sanh ra ở dòng tộc Madda, tại sao con có thể bày tỏ dục vọng với kẻ nô lệ?”

 

3698. “Con không phải là cô gái thấp hèn, không phải là nữ nhân dòng hạ tiện, và không phải là kẻ bôi nhọ gia đình. Gã ấy là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!

 

3699. Người này luôn luôn dâng vật thực đến hai mươi ngàn vị Bà-la-môn, là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!

 

3700. Người ta luôn luôn cung cấp thức ăn cho hai mươi ngàn con voi của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!

 

3701. Người ta luôn luôn cung cấp thức ăn cho hai mươi ngàn con ngựa của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!

 

3702. Người ta luôn luôn thắng ngựa vào hai mươi ngàn cỗ xe của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!

 

3703. Người ta luôn luôn nai nịt cho hai mươi ngàn bò mộng của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!

 

3704. Người ta luôn luôn vắt sữa hai mươi ngàn bò cái của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!”

 

3705. “Này cô con gái khờ dại, quả thật con đã có điều sái quấy! Con không nói (với trẫm) về việc vị Sát-đế-lỵ có binh lực vĩ đại, bậc long tượng ấy đã đi đến với bộ dạng của con ếch.”

 

3706. “Ôi đại vương, xin con rể hãy tha thứ cho lỗi lầm của chúng tôi, ôi đấng thủ lãnh xa binh, vì chúng tôi đã không biết việc đi đến nơi này với bề ngoài đã được cải

 

3707. “Việc con trở thành gã đầu bếp là không thích hợp đối với kẻ như là con. Xin cha hãy tin tưởng ở con. Tâu bệ hạ, bệ hạ không có điều gì sái quấy.”

 

3708. “Này cô con gái khờ dại, hãy đi đến. Con hãy xin đức vua Kusa, vị có binh lực vĩ đại, thứ lỗi. Khi đã được đức vua Kusa thứ lỗi, vị ấy sẽ ban cho con mạng sống.”

 

3709. Nghe theo lời nói của vua cha, nàng Pabhāvatī, với vóc dáng Thiên thần, đã cúi đầu nắm lấy bàn chân của đức vua Kusa, vị có binh lực vĩ đại.

 

3710. “Tâu bệ hạ, những đêm thiếu vắng chàng đã trôi qua. Thiếp xin đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của chàng. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin chàng chớ giận dữ với thiếp.

 

3711. Thiếp xin bày tỏ sự thật với chàng, tâu đại vương, xin chàng hãy lắng nghe thiếp. Không còn có việc thiếp có thể tỏ ra không yêu quý chàng.

 

3712. Nếu trong lúc thiếp cầu xin như vậy, mà chàng sẽ không thực hiện lời nói của thiếp. Lúc này đây, cha sẽ giết chết thiếp rồi ban cho các vị Sát-đế-lỵ.”

 

3713. “Trong lúc nàng cầu xin như vậy, tại sao ta sẽ không thực hiện lời nói của nàng? Này mỹ nữ, ta không có giận nàng. Này Pabhāvatī, nàng chớ sợ hãi.

 

3714. Ta xin bày tỏ sự thật với nàng, hỡi nàng công chúa, xin nàng hãy lắng nghe ta. Không còn có việc ta có thể tỏ ra không yêu quý nàng.

 

3715. Bởi vì dục vọng đối với nàng, hỡi cô nàng có eo thon, ta chịu đựng nhiều khổ sở. Này Pabhāvatī, ta đã nhiều lần đi đến gia tộc Madda để rước nàng đi.”

 

3716. “Hãy thắng những con ngựa đã được thuần thục vào cỗ xe có nhiều màu sắc. Rồi các người hãy nhìn xem năng lực của ta trong khi ta tiêu diệt các kẻ thù.”

 

3717. Và tại nơi ấy, các nữ nhân ở hậu cung của đức vua xứ Madda đã quan sát vị ấy đang vỗ vào hai cánh tay, tựa như con sư tử đang vươn dậy.

 

3718. Sau khi cỡi lên mình voi, và đã đưa nàng Pabhāvatī lên (ngồi ở phía sau), đức vua Kusa đã lao vào trận chiến và đã rống lên tiếng rống sư tử.

 

3719. Sau khi nghe tiếng rống của vị ấy trong lúc vị ấy rống lên, các vị Sát-đế-lỵ, bị hành hạ do sự sợ hãi tiếng rống của đức vua Kusa, đã tẩu tán, tựa như các loài thú khác đã chạy trốn sau khi nghe tiếng rống của con sư tử.

 

3720. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, bị hành hạ do sự sợ hãi tiếng rống của đức vua Kusa, đã dẫm đạp lẫn nhau.

 

3721. Sau khi nhìn thấy trận chiến đấu ấy, vị Chúa của chư Thiên, với tâm ý hoan hỷ, đã ban cho đức vua Kusa viên ngọc ma-ni tên Veracana.

 

3722. Sau khi chiến thắng trận chiến ấy và đã nhận được viên ngọc Verocana, vị vua ấy, ngồi ở mình voi, đã đi vào thành phố Nagara.

 

3723. Sau khi đã bắt sống và trói lại bảy vị Sát-đế-lỵ, đức vua Kusa đã trình họ lên cha vợ (nói rằng): “Tâu bệ hạ, những người này là những kẻ đối địch với bệ hạ.

 

3724. Tất cả bọn họ đều ở trong quyền hạn của bệ hạ. Những kẻ thù của bệ hạ đã được loại trừ. Bệ hạ hãy đối xử với chúng tùy theo ý thích của bệ hạ: Bệ hạ hãy trả tự do cho chúng hoặc hãy giết chết chúng.”

 

3725. “Những người này là những kẻ đối địch của chính con, họ không phải là những kẻ đối địch với trẫm. Này đại vương, chính con là chúa tể của chúng tôi. Con hãy trả tự do cho bọn họ hoặc hãy giết chết bọn họ.”

 

3726. “Bảy người con gái này của bệ hạ xinh đẹp tương tự như các tiên nữ. Bệ hạ hãy ban cho chúng mỗi người một cô. Hãy để chúng trở thành những người con rể của bệ hạ.”

 

3727. “Không những đối với chúng tôi mà còn đối với các nàng ấy nữa, con là chúa tể của tất cả chúng tôi. Này đại vương, chính con là chúa tể của chúng tôi. Con hãy ban cho bọn họ nếu con thích.”

 

3728. Khi ấy, đức vua Kusa có giọng nói sư tử đã ban từng cô con gái một của đức vua xứ Madda đến từng người một trong số các vị Sát-đế-lỵ ấy.

 

3729. Được hài lòng với việc đạt được ấy, được vui vẻ với đức vua Kusa có giọng nói sư tử, bảy vị Sát-đế-lỵ đã trở về đất nước của mình liền khi ấy.

 

3730. Sau khi mang theo nàng Pabhāvatī và viên ngọc ma-ni Verocana xinh đẹp, đức vua Kusa, vị có binh lực vĩ đại, đã đi đến thành Kusāvatī.

 

3731. Trong lúc đi chung một cỗ xe, trong lúc đi vào thành Kusāvatī, với sắc đẹp và dáng vóc tương đương nhau, hai người đã không vượt trội lẫn nhau.

 

3732. Người mẹ đã gặp lại đứa con trai. Và cả hai vợ chồng ấy, từ đó, đã trở nên hòa hợp, đã cư ngụ ở trái đất hưng thịnh.”

 

Bổn sanh Đức Vua Kusa. [531]

 

***

 

2. BỔN SANH SOṆANANDA

 

3733. “Phải chăng ngài là vị Thiên nhân, là vị Càn-thát-bà, hay là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây, hay là người có thần thông? Làm thế nào chúng tôi có thể biết về ngài?”

 

3734. “Ta không phải là Thiên nhân, không phải là Càn-thát-bà, cũng không phải là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây, ta là người có thần thông. Tâu vị cai quản đất nước, xin bệ hạ hãy biết như vậy.”

 

3735. “Công việc phục vụ với hình thức này đã được ngài làm không phải là ít. Trong khi trời đang mưa, ngài đã làm cho không có mưa.

 

3736. Sau đó, khi có làn gió nóng dữ dội, ngài đã tạo ra bóng râm mát mẻ. Kế đến, khi ở giữa quân thù, ngài đã làm ra sự che chắn các mũi tên.

 

3737. Tiếp đó, ngài đã làm cho các đất nước của vị quân vương chúng tôi trở nên phồn thịnh. Sau đó, ngài đã khiến cho một trăm vị Sát-đế-lỵ quy thuận.

 

3738. Chúng tôi thật sự hoan nghênh ngài. Ngài hãy chọn điều quý giá mà ngài thích. Hãy để chúng tôi ban cho ngài phương tiện di chuyển bằng voi, cỗ xe ngựa kéo, các nữ nhân đã được trang điểm, và các chỗ trú ngụ đáng yêu.

 

3739. Hay là chúng tôi sẽ ban tặng ngài xứ sở Aṅga hay Magadha. Hoặc là chúng tôi sẽ vui lòng ban tặng ngài xứ sở Assaka và Avanti.

 

3740. Thậm chí, hãy để chúng tôi ban tặng ngài luôn cả một nửa đất nước. Nếu ngài có nhu cầu với toàn thể vương quốc, xin ngài hãy lãnh đạo nếu ngài muốn.”

 

3741. “Ta không có nhu cầu với vương quốc, với thành phố, hay với của cải, thậm chí nhu cầu với xứ sở; nhu cầu của ta không có.

 

3742. Ở đất nước đã được thâu phục của chính bệ hạ, có một khu ẩn cư ở trong rừng. Người cha và người mẹ ruột của ta, cả hai trú ở khu ẩn cư (ấy).

 

3743. Ta không có được cơ hội để làm phước đến hai vị thầy đầu tiên ấy. Sau khi có bệ hạ làm người ủng hộ, chúng ta hãy yêu cầu Soṇa về việc ngăn cấm (làm phước) ấy.”

 

3744. “Thưa vị Bà-la-môn, điều mà ngài nói với trẫm, hãy để trẫm thực hiện lời nói ấy của ngài. Và ngài hãy giải thích cho chúng tôi điều này: ‘Phải có bao nhiêu người thỉnh cầu?’”

 

3745. “Hơn một trăm gia chủ, và các Bà-la-môn có đại sảnh, cùng tất cả các vị Sát-đế-lỵ đã được sanh ra cao quý, có danh tiếng này, và ngài là đức vua Manoja, thì sẽ đủ những người thỉnh cầu.”

 

3746. “Hãy chuẩn bị các con voi và các con ngựa. Này người đánh xe, hãy sẵn sàng cỗ xe. Các khanh hãy nắm lấy các dây cương, hãy giương lên các lá cờ ở những trụ cắm. Trẫm sẽ đi đến khu ẩn cư ấy, nơi vị Kosiya trú ngụ.”

 

3747. Và sau đó, đức vua đã khởi hành cùng với bốn đội quân binh. Đức vua đã đi đến khu ẩn cư đáng yêu, nơi vị Kosiya trú ngụ.

 

3748. “Cái giỏ làm bằng cây kadamba của người nào đang đi lấy nước mà di chuyển ở trên không với khoảng cách bốn ngón tay và không chạm vào vai của người ấy?”

 

3749. “Tâu đại vương, tôi là đạo sĩ khổ hạnh Soṇa đang hành trì phận sự. Tôi chăm sóc mẹ và cha, đêm ngày không biếng nhác.

 

3750. Tâu bậc chúa tể một phương, sau khi mang lại trái cây và rễ củ ở trong rừng, tôi phụng dưỡng mẹ và cha, trong khi tưởng nhớ đến ân đức đã làm trước đây (của họ).”

 

3751. “Chúng tôi muốn đi đến khu ẩn cư ấy, nơi vị Kosiya trú ngụ. Thưa ngài Soṇa, ngài hãy chỉ dẫn cho chúng tôi con đường, nhờ nó chúng tôi có thể đi đến khu ẩn cư.”

 

3752. “Tâu bệ hạ, đây là lối đi bộ độc nhất, theo đó (bệ hạ sẽ nhìn thấy) nơi ấy giống như đám mây, được bao phủ bởi những cây koviḷāra; vị Kosiya trú ngụ ở nơi này.”

 

3753. Sau khi nói điều này, sau khi đã chỉ bảo cho các vị Sát-đế-lỵ, vị đại ẩn sĩ đã vội vã ra đi bằng đường hư không ở trên bầu trời.

 

3754. Sau khi quét dọn khu ẩn cư và xếp đặt chỗ ngồi, vị ấy đã đi vào gian nhà lá thông báo cho người cha:

 

3755. “Các vị vua đã được sanh ra cao quý, có danh tiếng này đang đi đến, thưa bậc đại ẩn sĩ, cha hãy rời khỏi nơi ẩn cư và ngồi xuống (ở đây).”

 

3756. Sau khi lắng nghe lời nói ấy của vị ấy, bậc đại ẩn sĩ đã vội vã rời khỏi nơi ẩn cư và đã ngồi xuống ở phía trước cánh cửa ra vào.

 

3757. Và sau khi nhìn thấy vị vua ấy–tựa như đang chói sáng nhờ vào uy quyền–đang đi đến, được tháp tùng bởi tập thể các vị Sát- đế- lỵ, bậc ẩn sĩ Kosiya đã nói điều này:

 

3758. “Người nào có các trống lớn và các trống nhỏ, các tù và bằng vỏ ốc, các chập chõa và các trống con di chuyển ở phía trước, đang làm vui lòng đấng thủ lãnh xa binh?

 

3759. Người nào mang khăn quấn đầu bằng vàng rộng lớn có màu sắc của tia chớp? Người nào, trẻ tuổi, nai nịt với bó tên, đang đi đến, chói sáng với sự vinh quang?

 

3760. Người nào tỏa sáng gương mặt vui tươi, giống như than hừng của cây khadira cháy rực ở miệng ở bễ lò rèn, đang đi đến, chói sáng với sự vinh quang?

 

3761. Cây lọng che của vị ấy, với gọng sườn làm thích ý, được giương lên cản ngăn ánh nắng mặt trời. Người nào đang đi đến, chói sáng với sự vinh quang?

 

3762. Người nào với chiếc quạt đuôi bò tuyệt hảo che chở cơ thể trong khi đang di chuyển, có trí tuệ cao quý, ở trên mình voi đang tiến đến gần?

 

3763. Người nào có những chiếc lọng màu trắng và những con ngựa thuần chủng đã được vũ trang tản mác ở xung quanh, khắp mọi nơi? Người nào đang sáng ngời rực rỡ đi đến?

 

3764. Người nào được một trăm vị Sát-đế-lỵ có danh tiếng tháp tùng, di chuyển theo ở khắp mọi nơi? Người nào đang đi đến, chói sáng với sự vinh quang?

 

3765. Bốn đội quân binh: tượng binh, kỵ binh, xa binh, và bộ binh di chuyển theo ở khắp mọi nơi. Người nào đang đi đến, chói sáng với sự vinh quang?

 

3766. Người nào có đội quân vĩ đại ấy tiếp nối ở phía sau, không bị rối loạn, không ước lượng được, tựa như các làn sóng của biển cả là tuần tự, vô số?”

 

3767. “Dức vua Manoja, vua của các vị vua, tựa như vị Thần Inda chúa tể của cõi Trời Đạo Lợi, ủng hộ tôn giả Nanda, và đi đến khu ẩn cư gặp bậc Phạm hạnh.

 

3768. Vị ấy có đội quân vĩ đại ấy tiếp nối ở phía sau, không bị rối loạn, không ước lượng được, tựa như các làn sóng của biển cả là tuần tự, vô số.”

 

3769. Tất cả (đoàn người) đã được thoa trầm hương, với trang phục hạng nhất của xứ Kāsi, đã chắp tay lại và đi đến gần các vị ẩn sĩ.

 

3770. “Chắc hẳn các ngài được tốt lành? Chắc hẳn các ngài không bệnh hoạn? Chắc hẳn các ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Chắc hẳn có nhiều rễ củ và trái cây?

 

3771. Chắc hẳn có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Chắc hẳn không có sự hãm hại ở khu rừng có các loài thú dữ lai vãng?”

 

3772. “Tâu bệ hạ, chúng tôi có sự tốt lành. Và tâu bệ hạ, không có bệnh hoạn. Chúng tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

 

3773. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với chúng tôi ở khu rừng có các loài thú dữ lai vãng.

 

3774. Có nhiều cây cau lâu năm cho những người sống ở khu ẩn cư tại nơi này. Bần đạo không biết đến bệnh tật không thích ý đã được sanh khởi.

 

3775. Tâu đại vương, chào mừng bệ hạ đã đến và việc bệ hạ đã đi đến không gặp khó khăn. Bệ hạ là đấng chúa tể đã ngự đến; có việc gì ở nơi này xin bệ hạ hãy tuyên bố.

 

3776. Có các loại trái cây tinduka, piyāla, madhuka, kāsamārī ngọt như mật ong, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy thưởng lãm các trái ngon nhất.

 

3777. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi, tâu đại vương, xin bệ hạ hãy uống nước ấy nếu bệ hạ muốn.”

 

3778. “Vật giá trị mà các vị đã làm, đã bố thí cho tất cả chúng tôi, đã được thọ nhận. Xin các vị hãy lắng tai nghe lời nói của ngài Nanda sẽ phát biểu.

 

3779. Chúng tôi đã đi đến nơi này, là những người ủng hộ ngài Nanda. Thưa tôn đức, xin hãy lắng nghe lời nói của ngài Nanda và của hội chúng.”

 

3780. “Thưa các gia chủ hơn một trăm vị, và các Bà-la-môn có đại sảnh, cùng tất cả các vị Sát-đế-lỵ đã được sanh ra cao quý, có danh tiếng này, và ngài là đức vua Manoja, xin các vị hãy tán thành lời nói của bần đạo.

 

3781. Thưa các vị Dạ-xoa sống ở nơi này tại khu ẩn cư, các vị thần linh già trẻ ở khu rừng đã tụ hội lại, xin các vị hãy lắng nghe lời nói của tôi.

 

3782. Sau khi thực hiện việc kính lễ đến các bậc thần linh, tôi sẽ nói với vị ẩn sĩ có sự hành trì tốt đẹp. Thưa huynh Kosiya, đệ đây đã được huynh công nhận là cánh tay mặt của huynh.

 

3783. Trong khi đệ có ước muốn là người phụng dưỡng cha và mẹ ruột của đệ, thưa vị tinh tấn, việc làm này là phước thiện của đệ. Thưa huynh Kosiya, xin huynh chớ cấm cản đệ.

 

3784. Việc này đã được các bậc thiện nhân khích lệ. Huynh hãy trao lại việc này cho đệ. Về công việc đỡ đần và hầu hạ, huynh đã làm một thời gian dài. Các việc phước thiện ở cha và mẹ là thuộc về đệ, xin huynh hãy là người bố thí cõi Trời cho đệ.

 

3785. Tương tự y như vậy, có những người hiểu biết về pháp căn bản thuộc về đạo đức là đạo lộ đưa đến thế giới thuộc cõi Trời, giống như huynh biết vậy, thưa vị ẩn sĩ.

 

3786. Về việc đem lại sự an lạc cho mẹ và cha bằng công việc đỡ đần và hầu hạ, người cấm đoán đệ về việc phước thiện ấy là người ngăn cản đạo lộ cao thượng của đệ.”

 

3787. “Thưa các vị ủng hộ người em trai của tôi, xin các ngài hãy lắng nghe lời nói của tôi. Tâu đại vương, người huynh trưởng nào, trong khi bỏ bê truyền thống gia đình đã có trước đây, rồi có sự hành trì sai pháp, kẻ ấy sẽ tái sanh vào địa ngục.

 

3788. Tâu vị chúa tể một phương, những người nào thông thạo về đạo lý của tiền nhân, và được thành tựu về tánh hạnh, những người ấy không đi đến khổ cảnh.

 

3789. Mẹ, cha, anh em trai, chị em gái, thân bằng quyến thuộc, tất cả các trách nhiệm ấy là thuộc về huynh trưởng. Tâu vị cai quản đất nước, xin bệ hạ hãy biết như vậy.

 

3790. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, tôi là huynh trưởng. Sau khi nhận lãnh trách nhiệm nặng nề, ví như người thủy thủ có thể ra sức, tôi không xao lãng bổn phận.”

 

3791. “Chúng tôi đã đạt được sự hiểu biết, tựa như ngọn lửa đang cháy sáng trong bóng tối, tương tự y như vậy, ngài Kosiya đã cho chúng tôi thấy rõ đạo lý.

 

3792. Giống như mặt trời, vị Thần của cải, bậc tạo ra ánh sáng, đang mọc lên cho các chúng sanh thấy rõ hình thể tốt đẹp hay xấu xa, tương tự y như vậy, ngài Kosiya đã cho chúng tôi thấy rõ đạo lý.”

 

3793. “Trong khi đệ đang cầu xin như vậy, huynh chẳng nhận biết sự chắp tay của đệ. Đệ sẽ là người hầu hạ, là người phục vụ đắc lực của huynh.”

 

3794. “Này Nanda, đương nhiên đệ nhận biết chánh pháp đã được bậc thiện nhân thuyết giảng. Là người cao thượng, có sự hành xử cao thượng, đệ khiến huynh rất hài lòng.

 

3795. Con xin trình bày với cha và mẹ. Mẹ và cha hãy lắng nghe lời nói của con. Trách nhiệm này không phải là gánh nặng và đã thuộc về con vào mọi lúc.

 

3796. Trong khi con đang quan tâm phận sự ấy, là việc đem lại sự an lạc cho mẹ và cha, thì Nanda, sau khi tạo sự ủng hộ, thỉnh cầu con về việc hầu hạ (mẹ và cha).

 

3797. Thật sự vị nào trong hai vị hành Phạm hạnh có đức độ mong muốn một cách tự nguyện, thì một vị trong hai vị hãy chọn Nanda. Vậy hãy để cho Nanda hầu hạ người nào đây?”

 

3798. “Con yêu, mẹ đã được con đồng ý. Này Soṇa, mẹ và cha nương tựa vào con. Vậy mẹ có thể chạm vào Nanda, vị hành Phạm hạnh, ở đỉnh đầu.

 

3799. Giống như chồi non của cây assattha bị lay động bởi gió, trái tim của mẹ rung động khi nhìn thấy lại Nanda sau một thời gian dài.

 

3800. Thậm chí lúc đang ngủ, trong giấc mơ, mẹ nhìn thấy Nanda đi đến. Mẹ trở nên phấn khởi, thích ý, (nói rằng): ‘Nanda này đi đến với chúng ta.’

 

3801. Và đến khi thức giấc, mẹ nhìn thấy Nanda đã không đi đến. Nỗi sầu muộn xâm nhập nhiều hơn, và nỗi ưu phiền không phải là ít.

 

3802. Hôm nay, mẹ đây nhìn thấy Nanda đã đi đến sau một thời gian dài. Hãy để Nanda yêu mến của cha và mẹ đi vào nhà của chúng ta.

 

3803. Và đối với cha, Nanda là vô cùng đáng yêu. Này con, hãy để cho Nanda chọn lấy việc Nanda sẽ không sống xa nhà. Hãy để Nanda hầu hạ mẹ.”

 

3804. “Mẹ là người có lòng bi mẫn, là bến bờ nương tựa, là người ban cho chúng ta hương vị đầu tiên, là đạo lộ đưa đến thế giới thuộc cõi Trời. Này ẩn sĩ, mẹ chọn đệ.

 

3805. Mẹ là người ban cho hương vị đầu tiên, là người bảo bọc, được gắn liền với phước báu, là đạo lộ đưa đến thế giới thuộc cõi Trời. Này ẩn sĩ, mẹ chọn đệ.”

 

3806. “Trong lúc mong mỏi sự thành tựu đứa con trai, mẹ lễ bái Thần linh và tìm hiểu về các vì sao, về mùa tiết và năm tháng.

 

3807. Vào thời kỳ tắm rửa lúc có tháng của mẹ, là thời điểm có sự đậu thai. Do việc đó, mẹ có sự ốm nghén. Do việc đó, mẹ được gọi là thai phụ.

 

3808. Sau khi cưu mang một năm hoặc ít hơn thì lâm bồn. Do việc đó, mẹ là sản phụ. Do việc đó, mẹ được gọi là người mẹ.

 

3809. Với sữa ở bầu vú, với lời ca, với việc ấp ủ vào giữa ngực, mẹ dỗ dành đứa con trai đang khóc. Do việc đó, mẹ được gọi là người dỗ dành.

 

3810. Sau đó, khi có gió và nóng dữ dội, mẹ tận tụy trông nom đứa bé trai còn thơ dại. Do việc đó, mẹ được gọi là người nuôi dưỡng.

 

3811. Tài sản nào là thuộc về mẹ và tài sản nào là thuộc về cha, mẹ bảo vệ cả hai cho đứa con trai, cho dù tài sản ấy có thể không thuộc về cậu ấy. Người mẹ khổ tâm (nhắc nhở rằng): ‘Này con trai, hãy làm như vầy. Này con trai, chớ làm điều ấy.’

 

3812. Người mẹ khổ tâm về đứa con trai khi đạt đến tuổi thanh niên bị đắm say những người vợ của kẻ khác vào lúc nửa đêm, và không đi đến (thăm mẹ) vào lúc xế chiều.’

 

3813. Như vậy, kẻ nào phụng dưỡng mẹ một cách bực bội, không hầu hạ mẹ, sau khi hành xử sái quấy với mẹ, kẻ ấy sẽ sanh vào địa ngục.

 

3814. Như vậy, kẻ nào phụng dưỡng cha một cách bực bội, không hầu hạ cha, sau khi hành xử sái quấy với cha, kẻ ấy sẽ sanh vào địa ngục.

 

3815. Tôi đã được nghe rằng: ‘Sau khi không chăm sóc mẹ, tài sản của những kẻ ham muốn tài sản cũng bị mất đi, hoặc kẻ ấy lâm cảnh khó khăn.’

 

3816. Tôi đã được nghe rằng: ‘Sau khi không chăm sóc cha, tài sản của những kẻ ham muốn tài sản cũng bị mất đi, hoặc kẻ ấy lâm cảnh khó khăn.’

 

3817. Sau khi chăm sóc mẹ, điều này được thành tựu đến người có nhận thức: Sự vui vẻ, sự hân hoan, và luôn luôn được cười đùa, chơi giỡn.

 

3818. Sau khi chăm sóc cha, điều này được thành tựu đến người có nhận thức: Sự vui vẻ, sự hân hoan, và luôn luôn được cười đùa, chơi giỡn.

 

3819. Ở đây, việc biếu tặng, lời nói trìu mến, việc làm hữu ích, và tính chất bình đẳng trong các việc chăm sóc một cách xứng đáng ở nơi này (có người chứng kiến) hoặc nơi khác (không người chứng kiến).

 

3820. Các pháp đối xử này ở thế gian tựa như cái chốt đinh ở trục bánh xe của cỗ xe đang di chuyển. Và nếu các pháp đối xử này không tồn tại thì người mẹ hay là người cha sẽ không nhận được sự kính trọng hay cúng dường phát xuất từ người con.

 

3821. Bởi vì các bậc sáng suốt trân trọng các pháp đối xử này, vì thế các vị đạt đến bản thể cao thượng, và có được sự khen ngợi.

 

3822. Mẹ và cha được gọi là ‘Phạm Thiên,’ ‘các vị thầy đầu tiên,’ ‘những bậc xứng đáng sự cống hiến’ của các con, là những người có lòng thương tưởng đến hàng con cháu.

 

3823. Chính vì thế, đối với mẹ và cha, bậc sáng suốt nên kính lễ và tôn vinh với cơm ăn, nước uống, vải vóc, và giường nằm, với sự xoa bóp, với việc tắm, và với việc rửa sạch các bàn chân.

 

3824. Với việc phục vụ ấy đến mẹ và cha, ngay ở kiếp này các bậc sáng suốt ca ngợi người ấy, sau khi chết người ấy vui hưởng ở cõi Trời.”

 

Bổn sanh Soṇa và Nanda. [352]

 

*****

 

TÓM LƯỢC NHÓM NÀY

 

Giờ ở nhóm Bảy Mươi Kệ Ngôn này

là chuyện vị vua có phẩm chất ở Kusāvatī,

rồi lại thêm chuyện Soṇa và Nanda nữa

ở nhóm Bảy Mươi Kệ Ngôn đã được sắp xếp này.

 

Nhóm Bảy Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.

 

--ooOoo--


[Mục lục][15][16][17][18][19][20][21]


[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]