TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 33
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH tập II
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
 

XVIII. PAÑÑĀSANIPĀTO - NHÓM NĂM MƯƠI KỆ NGÔN

 

1. BỔN SANH CÔNG CHÚA NALINIKĀ

 

3326. “Xứ sở bị đốt cháy, và đất nước cũng tiêu hoại. Này Nalinikā, con hãy đến. Con hãy đi và quyến dụ vị Bà-la-môn ấy cho trẫm.”

 

3327. “Thưa phụ vương, con không thể chịu đựng khổ, con không rành rẽ đường xa, làm thế nào con sẽ đi đến khu rừng được loài voi thân cận?”

 

3328. “Sau khi đi đến đi đến đất nước thịnh vượng bằng voi và bằng cỗ xe, bằng phương tiện bè gỗ, này Nalinikā, con hãy ra đi như vậy.

 

3329. Con hãy ra đi mang theo tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, và các vị Sát-đế-lỵ. Con sẽ quyến dụ vị ấy vào tầm ảnh hưởng bằng sắc đẹp và vóc dáng của chính con.”

 

3330. “Khu ẩn cư đáng yêu ấy của Isisiṅga được nhìn thấy với dấu hiệu của những tàu lá chuối, được bao quanh bởi giống cây ābhujī.

 

3331. Làn khói này được nhìn thấy, cái này có thể được xem là ngọn lửa. Tôi nghĩ rằng vị Isisiṅga có đại thần lực hiến tặng ngọn lửa cho chúng ta.”

 

3332. Và sau khi nhìn thấy nàng (công chúa) ấy đang đi đến, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, vị Isisiṅga, bị kinh hãi, đã đi vào nơi ẩn cư có mái che bằng lá cây.

 

3333. Và nàng ấy đùa giỡn với quả cầu ở cửa ra vào của nơi ẩn cư, trong khi phô bày ra các phần thân thể, vật kín và các phần lộ liễu.

 

3334. Và sau khi nhìn thấy nàng ấy đang đùa giỡn, vị ẩn sĩ tóc bện, ở trong gian nhà mái lá, đã đi ra khỏi nơi ẩn cư và đã nói lời nói này:

 

3335. “Cậu[1] ơi, cây ấy tên là gì, mà trái của cây ấy di chuyển đến cậu như vậy, dầu được ném ra xa, nó cũng trở về, không lìa bỏ cậu đi luôn?”

 

3336. “Thưa vị Bà-la-môn, có những cây như thế ấy ở núi Gandhamādana tại khu vực lân cận của nơi ẩn cư thuộc về thiếp, trái của nó di chuyển đến thiếp như vậy, dầu được ném ra xa, nó cũng trở về, không lìa bỏ thiếp đi luôn.”

 

3337. “Này cậu, hãy đi đến nơi ẩn cư này. Hãy dùng (thức ăn có sẵn). Hãy nhận lấy dầu bôi chân và vật nhai, tớ mời. Cậu hãy ngồi xuống chỗ ngồi này ở đây. Này cậu, hãy ăn các loại củ và trái cây từ nơi này.

 

3338. Cái này của cậu là cái gì, ở giữa hai bắp vế, được xúc chạm nhẹ nhàng, được nhìn thấy như là có màu đen? Được hỏi, xin cậu hãy giải thích cái ấy cho tớ. Có phải cái bửu bối của cậu đã đi vào trong cái vỏ bọc?”

 

3339. “Trong khi thiếp đang đi tìm kiếm rễ củ và trái cây ở trong rừng, thiếp đã chọc tức con gấu có dáng vóc vô cùng ghê rợn. Con gấu đã rượt đuổi thiếp và đã bắt được thiếp bằng sức mạnh. Nó đã đánh đập thiếp và nhổ lên cái bửu bối (của thiếp).

 

3340. Vết thương này đây bị khoét sâu vào và gây ngứa.

Thiếp không đạt được sự khoái lạc vào mọi lúc.

Chàng ơi, chàng có khả năng diệt trừ chứng ngứa này.

Chàng ơi, được yêu cầu, chàng hãy thực hiện mục đích của Bà-la-môn.”

 

3341. “Vết thương của cậu có vẻ sâu thẳm, có màu đỏ, không có thịt thối, và nặng mùi trái cây chín. Tớ sẽ thực hiện cho cậu việc áp dụng một loại thuốc cao nào đó, này cậu, như thế cậu có thể có được sự thoải mái tối đa.”

 

3342. “Thưa vị có Phạm hạnh, các việc áp dụng về chú thuật, các việc áp dụng về thuốc cao, các loại dược thảo không đi vào được. Chàng hãy diệt trừ chứng ngứa bằng cái vật mềm mại của chàng, như thế thiếp có thể có được sự thoải mái tối đa.”

 

3343. “Từ nơi này, khu ẩn cư của cậu là ở về hướng nào?

Này cậu, cậu có thích thú ở trong rừng không?

Vậy có phải cậu có nhiều củ và trái cây không?

Có phải các loài thú dữ không hãm hại cậu không?”

 

3344. “Từ nơi này, đi thẳng về hướng Bắc,

có dòng sông Khemā phát xuất từ dãy núi Hi-mã-lạp.

Khu ẩn cư đáng yêu của thiếp ở bên bờ sông ấy.

Ôi, chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp.

 

3345. Có các cây xoài, các cây sāla, các cây họ mè, các cây mận đỏ, các cây uddālaka, và các cây hoa kèn được nở rộ, ở khắp nơi có các nhân điểu hát ca. Ôi chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp.

 

3346. Các cây tāla, các rễ củ, và các trái cây ở nơi ấy của thiếp, có vóc dáng được thành tựu với màu sắc và mùi thơm, nơi ấy có phong cảnh được hình thành với những vùng đất. Ôi chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp.

 

3347. Các trái cây và các rễ củ là dồi dào ở nơi ấy của thiếp,

được thành tựu với màu sắc, với mùi thơm, với hương vị.

Và các thợ săn thường đi đến khu vực ấy,

mong rằng họ chớ mang đi các rễ củ và trái cây của thiếp khỏi nơi ấy.”

 

3348. “Cha của tớ đã đi tìm kiếm rễ củ và trái cây,

giờ này, sẽ trở về vào lúc xế chiều.

Đến lúc cha trở về từ việc kiếm rễ củ và trái cây,

cả hai chúng ta có thể đi đến khu ẩn cư ấy.”

 

3349. “Có nhiều vị ẩn sĩ khác có vóc dáng tốt lành,

có các vị ẩn sĩ của hoàng gia sống dọc theo đường đi.

Chàng hãy hỏi thẳng họ về khu ẩn cư ấy của thiếp;

các vị ấy sẽ dẫn chàng đến chỗ ở của thiếp.”

 

3350. “Các thanh củi không được con chẻ, nước không được con xách về, thậm chí ngọn lửa cũng không được con đốt lên, vậy con trầm tư điều gì như là kẻ đần độn vậy?

 

3351. (Mọi hôm) các thanh củi đã được chẻ, và ngọn lửa đã được đốt lên, sự sưởi ấm đã được con chuẩn bị, này người có Phạm hạnh, ghế của cha (đã được sắp xếp), và nước (rửa chân đã được mang lại), trước đây, con thích thú là người có bản thể cao thượng.

 

3352. (Giờ đây) con có củi còn chưa chẻ, có nước chưa được xách về, có ngọn lửa chưa được đốt lên, có thức ăn chưa được hoàn tất. Hôm nay, con không nói chuyện với cha, này con của cha, có phải có cái gì bị mất mát và tâm tư bị đau khổ?”

 

3353. “Thưa bậc Phạm hạnh, có một đạo sĩ bện tóc đã đi đến đây,

cậu ấy không quá cao, vả lại cũng không quá mập,

vô cùng xinh xắn, có eo thon, và cuốn hút

nhờ vào đầu tóc đen tuyền và y phục màu đen của cậu ấy.

 

3354. Cậu ấy chưa mọc râu, có dáng vẻ xuất gia không lâu lắm.

Hơn nữa, ở cổ của người này có đeo cái vòng trang sức.

Người này còn có hai khối nhô lên khéo được sanh ra ở ngực,

có ánh sáng rực rỡ gần giống như là khối vàng tinh chất.

 

3355. Và khuôn mặt của người này đáng được ngắm nhìn vô cùng,

có vòng khuyên treo lủng lẳng ở hai tai,

chúng lấp lánh khi chàng trai trẻ bước đi.

Và có sợi chỉ để buộc chặt các búi tóc.

 

3356. Và cậu ấy còn có bốn vật trang điểm khác nữa,

màu xanh, màu vàng, màu đỏ, và màu trắng,

chúng phát ra âm thanh khi chàng trai trẻ bước đi,

tựa như bầy chim két kêu réo trong mùa mưa.

 

3357. Y nội (hạ y) của cậu này được làm không phải bằng cỏ muñja,

không phải bằng vỏ cây, lại càng không phải bằng lau sậy.

Được bó sát vào phía trong của phần mông, nó lấp lánh,

tựa như tia chớp Sateritā ở không trung.

 

3358. (Người này) có các vật không có gai và không có cuống,

được gắn vào ở bên hông, ở bên dưới lỗ rốn.

Không bị va chạm, chúng tạo ra tiếng kêu leng keng liên tục.

Này cha ơi, chúng là các trái cây của loại cây gì?

 

3359. Và búi tóc bện của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng,

có hơn một trăm lọn tóc, được cuộn tròn ở chóp, có mùi thơm dịu.

Đầu tóc có vẻ đã được phân chia thành hai phần khéo léo.

Ôi, ước gì các búi tóc bện của con là như thế.

 

3360. Và vào lúc cậu ấy xổ tung các búi tóc bện,

chúng có vẻ được thành tựu bằng màu sắc và mùi thơm,

tựa như đóa sen xanh phảng phất theo làn gió;

chốn ẩn cư nơi sơn lâm này thoang thoảng mùi hương giống y như thế.

 

3361. Và cáu đất của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng,

cáu đất ở cơ thể của con không được như thế ấy.

Cậu ấy tỏa ra mùi hương thoảng đưa theo chiều gió,

giống như khu rừng khéo nở rộ hoa vào đầu mùa hạ.

 

3362. Cậu ấy ném một loại trái cây xuống trên mặt đất,

vật ấy có màu sắc đẹp đẽ ở bề ngoài, xinh xắn, đáng được ngắm nhìn,

và vật đã được ném đi liền quay trở lại bàn tay của cậu ấy.

Này cha ơi, vật ấy là trái cây của loại cây gì?

 

3363. Và hàm răng của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng, chúng trong sạch, đều đặn, đạt được màu vỏ ốc cao quý, trong khi được bộc lộ, chúng gây được niềm tin ở tâm (người đối diện), có lẽ chàng trai trẻ ấy không nhai rau cải bằng các răng ấy.

 

3364. Lời nói của người này không thô lỗ, không nhát gừng, mau mắn, mềm mỏng, thẳng thắn, không khoa trương, không tráo trở, có âm điệu làm vừa lòng, có thanh âm ngọt ngào như của loài chim karavīka, đi vào trái tim, khiến tâm ý con bị quyến luyến.

 

3365. Với lời nói được thốt ra không quá lớn, có thanh âm tròn trịa, chắc chắn không sặc mùi kiến thức từ việc học tập. Con thật sự mong muốn gặp lại người ấy thêm lần nữa, chàng trai trẻ chắc hẳn đã là bạn bè của con trước đây.

 

3366. Vết thương này có sự liền lại khéo léo, mọi nơi đều trơn láng. Là vết thương lớn, khéo được tạo ra, tương tự cánh của đóa hoa sen. Sau khi chinh phục con bằng chính vết thương ấy, chàng trai trẻ đã dùng mông cọ sát vào bắp vế đã được mở rộng.

 

3367. Hai cánh tay mềm mại như là có lớp lông tơ bằng thuốc mỡ. Các ngón tay của người này tròn trịa, được tô nhiều màu sắc, lấp lánh. Chúng tỏa sáng, phát sáng, và chiếu sáng, tựa như tia chớp Sateritā ở không trung.

 

3368. Tay chân của người này không chai cứng và không có lông dài. Các móng tay chân của người này dài và đầu ngón được tô đỏ. Trong lúc ôm chặt bằng hai cánh tay mềm mại, con người có vóc dáng yêu kiều đã hầu cận con, làm con vui thích.

 

3369. Hai tay mềm mại của cậu ấy có ánh sáng rực rỡ, gần giống như bông gòn ở trên cây, có làn da tròn trịa và xinh đẹp như bề mặt của tấm gương bằng vàng. Sau khi xúc chạm với con bằng hai tay, cậu ấy đã ra đi khỏi nơi này, thưa cha, các cảm giác ấy vẫn còn thiêu đốt con.

 

3370. Đương nhiên, cậu ấy chắc chắn đã không lấy đi gùi đồ vật nào, chắc chắn đã không tự mình chẻ các thanh củi, cậu ấy chắc chắn đã không đốn ngã các cây bằng chiếc rìu, và cũng không có các cọc nhọn ở hai tay của người này.

 

3371. Và con gấu, quả thật, đã gây ra vết thương cho cậu ấy. Cậu ấy đã nói với con rằng: ‘Cậu hãy làm cho tớ được thoải mái.’ Con đã làm cho cậu ấy. Với việc ấy, đã có sự thoải mái cho con. Cậu ấy đã nói với con rằng: ‘Này vị Phạm hạnh, tớ được thoải mái.’

 

3372. Và tấm thảm trải bằng lá dây leo māluva của cha

có tình trạng bị vung vãi bởi con và bởi cậu ấy.

Đến khi bị kiệt sức, chúng con đã vui đùa ở hồ nước,

rồi chúng con trở về lại căn chòi lá.

 

3373. Thưa cha, hôm nay, với con các chú thuật không còn ứng nghiệm,

không có cúng tế thần lửa, cũng không có nghi thức hiến dâng,

và con cũng không thể thọ dụng các rễ củ và trái cây của cha nữa,

chừng nào con còn chưa nhìn thấy vị Phạm hạnh ấy.

 

3374. Thưa cha, chắc chắn rằng cha cũng nhận biết được

vị Phạm hạnh cư ngụ ở vùng đất nào.

Thưa cha, cha hãy mau giúp cho con đến được vùng đất ấy.

Chớ để con chết ở khu ẩn cư của cha.

 

3375. Bởi vì con đã được nghe nói về khu rừng có hoa muôn sắc,

được rộn rịp tiếng hót của loài chim, được lai vãng bởi các bầy chim.

Thưa cha, cha hãy mau giúp cho con đến được khu rừng ấy.

trước khi con lìa bỏ mạng sống ở khu ẩn cư của cha.”

 

3376. “Ở khu rừng có viên ngọc như ý này,

nơi được lai vãng bởi hội chúng Càn- thát- bà, chư Thiên, và tiên nữ,

trú xứ của các bậc ẩn sĩ từ thời xa xưa,

không có đạt đến trạng thái bất an như thế này.

 

3377. Chúng sanh trở thành bạn bè, rồi không còn là bạn bè.

Chúng sanh thể hiện sự yêu mến ở thân quyến, ở bạn bè.

Và đứa trẻ tội nghiệp này tại sao lại bị vương vấn,

khi nó còn không biết mình từ đâu đã đi đến nơi này.

 

3378. Do sự cộng trú mà các bạn bè được gắn bó thêm lên. Chớ để chúng gặp gỡ nhau. Do không có sự cộng trú, chính cái tình bạn ấy sẽ lụi tàn.

 

3379. Nếu con còn gặp vị hành Phạm hạnh,

nếu con còn trò chuyện với vị hành Phạm hạnh,

tựa như mùa màng đã đạt được bị cuốn đi bởi cơn lũ lớn,

con sẽ mau chóng đánh mất công đức khổ hạnh này.

 

3380. Nếu con cũng còn gặp vị hành Phạm hạnh lần nữa,

nếu con cũng còn trò chuyện với vị hành Phạm hạnh lần nữa,

tựa như mùa màng đã đạt được bị cuốn đi bởi cơn lũ lớn,

con sẽ mau chóng đánh mất năng lực Sa-môn này.

 

3381. Này con, bởi vì các quỷ thần sinh sống

ở thế giới loài người với hình dáng biến dạng,

con người có trí tuệ không thân cận với chúng,

sau khi gần gũi kẻ ấy, người hành Phạm hạnh bị tiêu vong.”

 

Bổn Sanh Công Chúa Nalinikā. [526]

 

***

 

2. BỔN SANH MỸ NHÂN UMMĀDANTĪ

 

3382. “Này Sunanda, biệt thự này là của người nào

mà được bảo vệ bởi tường thành xây bằng gạch màu cam?

Cô nàng nào được nhìn thấy từ đàng xa tựa như ngọn lửa,

tựa như đống lửa trên đỉnh ngọn núi ở giữa không trung?

 

3383. Này Sunanda, cô này là con gái của ai?

Cô này là con dâu của ai, rồi là vợ của ai nữa?

Được hỏi, khanh hãy mau mau trả lời cho ta, ngay tại đây,

nàng còn chưa được cưới hỏi, hay là đã có chồng?”

 

3384. “Tâu vị chúa của loài người, thần quả có biết về cô này,

về bên mẹ và về bên cha, rồi luôn cả người chồng của cô ấy.

Tâu đấng hộ quốc, người đàn ông ấy là thuộc về chính bệ hạ,

ngày đêm không xao lãng đối với phúc lợi của bệ hạ.

 

3385. (Người ấy) giàu có, dư dả, vô cùng phát đạt.

và là một vị quan đại thần của bệ hạ, tâu vị chúa của loài người.

Nàng ấy là người vợ của vị Ahipāraka ấy,

với tên gọi là ‘Cô gái làm cho điên cuồng,’ tâu bệ hạ.”

 

3386. “Trời! Trời! Cái tên này dành cho nàng này

đã được mẹ và cha tạo ra thật khéo léo!

Bởi vì đối với trẫm là như thế ấy, trong khi nhìn trẫm,

nàng Ummadantī đã làm cho trẫm trở thành kẻ điên cuồng.

 

3387. Nàng ấy, vào đêm trăng tròn, có cặp mắt ngơ ngác của loài nai,

đã ngồi ở bên cửa sổ, có làn da và cơ thể màu hoa sen trắng.

Sau khi nhìn thấy nàng mặc y phục màu đỏ tựa như chân chim bồ câu,

trẫm nghĩ rằng đã có hai mặt trăng tròn.

 

3388. Vào lúc nàng ngước nhìn lên, nàng khiến cho trẫm say đắm bởi hàng lông mi dài, xinh đẹp, dễ thương. Trong lúc nghiêng người (ném bông hoa), nàng chiếm lấy tâm trí của trẫm, tựa như loài nhân điểu cái sanh ra ở trong khu rừng, ở nơi núi non (thu hút nhân điểu đực).

 

3389. Bởi vì vào lúc ấy, người phụ nữ quý phái, có màu da màu hoàng kim, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, có trang phục chỉ một tấm vải, tựa như con nai cái ngước nhìn lên trong lúc đang đi quanh quẩn.

 

3390. Vậy thì khi nào thì người phụ nữ xinh đẹp đến tận đỉnh đầu, có móng tay màu đồng đỏ, có mái tóc đẹp, có hai cánh tay mềm mại, được thoa tinh chất trầm hương, có các ngón tay tròn trịa, có các cử chỉ khôn khéo đã được tính toán, sẽ đoái hoài đến trẫm?

 

3391. Vậy thì khi nào thì người con gái có tấm lưới bằng vàng che ở ngực, có làn eo thon của (gia tộc) Tirīṭi, sẽ ôm chặt lấy trẫm bằng hai cánh tay mềm mại, tựa như loài dây leo māluvā quấn chặt lấy thân cây mọc lên ở khu rừng bao la?

 

3392. Vậy thì khi nào người phụ nữ có làn da đẹp hồng hào với màu cánh kiến, có bầu ngực tròn, có làn da và cơ thể màu hoa sen trắng, sẽ mặt đối mặt dâng lên chén rượu, tựa như kẻ say sưa đối với kẻ say sưa?

 

3393. Vào lúc trẫm nhìn thấy nàng ấy, với toàn bộ cơ thể làm thích ý, đang đứng, từ khi ấy, trẫm không còn nhận biết bất cứ người nào ở trong tâm của mình nữa.

 

3394. (Từ khi) trẫm nhìn thấy nàng Ummādantī có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, trẫm không ngủ ban ngày và ban đêm, tựa như kẻ đã bị đánh bại một ngàn lần.

 

3395. Nếu Thiên Chủ Sakka ban cho trẫm điều ước muốn, và điều ước muốn ấy có thể đạt được bởi trẫm. Trẫm (ước muốn) có thể trở thành Ahipāraka một đêm hoặc hai đêm, sau khi vui sướng cùng Ummādantī rồi lại trở thành vua xứ Sivi.”

 

3396. “Tâu vị chúa tể của muôn dân, lúc thần đang lễ bái các thần linh,

có vị Dạ-xoa đi đến và đã nói điều này như vầy:

‘Tâm trí của đức vua đã bị vương vấn với Ummadantī.’

Thần dâng nàng Ummadantī đến bệ hạ. Bệ hạ hãy bảo nàng ấy hầu hạ.”

 

3397. “Trẫm sẽ hủy hoại các phước báu, và trẫm không phải là người. Loài người có thể biết về điều xấu xa này của trẫm. Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

 

3398. “Tâu vị chúa của loài người, ngoại trừ bệ hạ và hạ thần, tất cả mọi người đều không thể nào biết về hành động đã được làm. Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”

 

3399. “Kẻ nào là người có làm hành động xấu xa, kẻ ấy nghĩ rằng: ‘Mong rằng những người khác đừng biết về việc này của ta.’ Các thần linh và những hạng người nào ở trái đất được gắn bó với thần thông thì nhìn thấy kẻ làm việc ấy.”

 

3400. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

 

3401. “Nàng ấy quả thật là người yêu quý của thần, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy không phải là không được thần yêu quý, tâu đấng hộ quốc. Bệ hạ hãy đi đến với Ummadantī, thưa bậc đáng tôn kính, tựa như con sư tử đực đi đến hang của con sư tử cái.”

 

3402. “Không vì bị hành hạ bởi sự khổ đau của bản thân,

mà các bậc sáng trí buông bỏ việc làm có quả báo an lạc.

Dầu cho bị hoàn toàn mê muội, hoặc bị đắm say hạnh phúc,

các vị vẫn không thực hiện hành động xấu xa.”

 

3403. “Bởi vì bệ hạ là người mẹ và là người cha của hạ thần,

là người chồng, là chủ nhân, là người nuôi dưỡng, và là vị Thiên thần.

Hạ thần cùng với vợ con đều là tôi tớ của bệ hạ.

Tâu Sibba, xin bệ hạ hãy hưởng dụng dục lạc một cách thoải mái.”

 

3404. “Kẻ nào (nghĩ rằng): ‘Ta là chúa tể’ rồi làm việc ác,

và sau khi làm xong, kẻ ấy không tỏ ra hối lỗi đối với những người khác.

Do điều ấy, kẻ ấy không sống cuộc sống dài lâu.

Ngay cả chư Thiên cũng nhìn kẻ ấy với ánh mắt xấu xa.”

 

3405. “Khi các chủ nhân biếu tặng vật ngoại thân

và những người đã trú vào thiện pháp tiếp nhận vật thí,

trong trường hợp ấy, người nhận lãnh và luôn cả người bố thí

đều thực hiện việc làm có quả báo an lạc.”

 

3406. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

 

3407. “Nàng ấy quả thật là người yêu quý của thần, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy không phải là không được thần yêu quý, tâu đấng hộ quốc. Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”

 

3408. “Kẻ nào tạo ra khổ đau cho người khác bằng khổ đau của mình, hoặc tạo ra hạnh phúc cho mình bằng hạnh phúc của người khác, (nghĩ rằng): ‘Việc này đối với ta y như thế nào thì đối với những người khác là như vậy;’ người nào biết như vậy, người ấy hiểu biết về đạo đức.”

 

3409. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

 

3410. “Tâu vị chúa của loài người, bệ hạ biết rằng nàng ấy là người yêu quý của thần. Tâu đấng hộ quốc, nàng ấy không phải là không được thần yêu quý. Tâu vị chúa của loài người, thần dâng hiến vật yêu quý đến bệ hạ vì lòng yêu quý. Tâu bệ hạ, những người bố thí vật yêu quý đạt được vật yêu quý.”

 

3411. “Không lẽ trẫm đây sẽ hủy hoại bản thân vì nguyên nhân dục vọng! Trẫm không bao giờ ra sức để hủy hoại đạo đức bởi điều phi đạo đức.”

 

3412. “Tâu vị chúa của loài người, nếu bệ hạ nghĩ rằng nàng đang thuộc về hạ thần, tâu vị dũng sĩ hạng nhất ở loài người, nên bệ hạ không ham muốn nàng. Tâu Sibba, hãy để thần xả bỏ nàng ấy đến tất cả mọi người. Khi nàng đã được thần trả tự do, sau đó, bệ hạ hãy đưa nàng đi.”

 

3413. “Này Ahipāraka, nếu nàng không có lỗi lầm mà khanh

bỏ rơi nàng khi không còn lợi ích đối với khanh, này người có công lao,

có thể có sự chỉ trích lớn đối với khanh,

và thậm chí dư luận ở thành phố có thể không thuộc về khanh.”

 

3414. “Thần sẽ chịu đựng sự chỉ trích ấy,

sự chê bai, sự khen ngợi, và mọi sự khiển trách.

Tâu đấng hộ quốc, hãy để việc ấy xảy đến với thần.

Tâu Sibba, xin bệ hạ hãy hưởng dụng dục lạc một cách thoải mái.”

 

3415. “Kẻ nào không quan tâm đến sự chê bai, rồi sự khen ngợi, và sự khiển trách, luôn cả sự dâng cúng, thì vinh quang và sự may mắn rời xa kẻ ấy, giống như nước từ cơn mưa lớn rời khỏi mặt đất.”

 

3416. “Bất cứ khổ đau hay hạnh phúc nào từ việc này,

và sự vượt qua lề thói đạo đức có sự khó chịu ở tâm trí,

thần sẽ ưỡn ngực đón nhận tất cả,

giống như trái đất đối với mọi thứ, bất động và cử động.”

 

3417. “Sự vượt qua lề thói đạo đức có sự khó chịu ở tâm trí,

và trẫm không muốn những người khác có sự khổ đau.

Một mình trẫm sẽ vượt qua gánh nặng này,

người đã trú vào thiện pháp không bỏ quên bất cứ một ai.”

 

3418. “Tâu vị chúa của loài người, việc làm phước đưa đến cõi Trời.

Xin bệ hạ chớ gây chướng ngại cho thần.

Được tịnh tín, thần dâng nàng Ummadantī đến bệ hạ,

tựa như vị vua dâng vật hiến cúng là tài sản đến các vị Bà-la-môn.”

 

3419. “Này quan đại thần, quả thật khanh là người có lợi ích cho trẫm.

Nàng Ummadantī và khanh là bằng hữu của trẫm.

Chư Thiên, các vị Phạm Thiên, và tất cả cư dân sẽ chê bai,

trong khi nhìn thấy sự xấu xa trong ngày vị lai.”

 

3420. “Tâu đức vua Sivi, tất cả dân chúng có cả các thị dân không có thể nói rằng: ‘Việc ấy không phải là phi đạo đức.’ Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”

 

3421. “Này người có công lao, quả thật khanh là người có lợi ích cho trẫm.

Nàng Ummadantī và khanh là bằng hữu của trẫm.

Các lời giáo huấn của các bậc thiện nhân đã khéo được thuyết giảng

là không thể vi phạm, tựa như bờ biển là không thể được qua.”

 

3422. “Bệ hạ có sự quan tâm đến điều tốt đẹp, là xứng đáng với sự hiến cúng của thần. Bệ hạ là người nâng đỡ, là người bảo quản, và là người ngự trị các dục. Tâu bệ hạ, các vật đã được dâng hiến đến bệ hạ chắc chắn có quả báo lớn lao. Xin bệ hạ hãy tiếp nhận nàng Ummadantī theo ước muốn của thần.”

 

3423. “Này Ahipāraka, quả thật khanh đã thực hành mọi phận sự đối với trẫm. Này người con trai của vị quan đại thần, vậy ngoài khanh ra, có con người hai chân nào khác là người tạo ra sự bình yên ở nơi này, ở thế gian của cuộc sống, từ lúc rạng đông?”

 

3424. “Bệ hạ là hạng nhất, bệ hạ là vô thượng.

Bệ hạ là người bảo vệ đạo lý, là người thông hiểu đạo lý, là bậc thiện trí.

Cầu cho người bảo vệ đạo lý ấy sống thật dài lâu.

Tâu vị hộ trì đạo lý, xin bệ hạ hãy giảng giải đạo lý cho thần.”

 

3425. “Này Ahipāraka, giờ khanh hãy lắng nghe lời nói của trẫm. Trẫm sẽ giảng giải cho khanh về đạo lý đã được các bậc thiện nhân thực hành.

 

3426. Tốt đẹp thay vị vua vui thích ở thiện pháp! Tốt đẹp thay con người có trí tuệ! Tốt đẹp thay kẻ không phản bội bạn bè! Không làm điều ác là hạnh phúc.

 

3427. Ở lãnh địa của vị vua không có sự giận dữ, có công lý đã được thiết lập, loài người có thể sinh sống hạnh phúc trong bóng mát (của thân quyến) ở căn nhà của mình.

 

3428. Không xem xét mà đã thực hiện hành động là không tốt đẹp.

Và trẫm không hứng thú về việc ấy.

Chỉ những người nào sau khi đã biết thì tự mình hành động.

Khanh hãy lắng nghe ví dụ này của trẫm.

 

3429. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi quanh co, tất cả các con bò cái sẽ đi quanh co khi con bò dẫn đường đi quanh co.

 

3430. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành không đúng pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ đất nước sẽ bị lầm than nếu đức vua là kẻ không công minh.

 

3431. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi ngay thẳng, tất cả các con bò cái sẽ đi ngay thẳng khi con bò dẫn đường đi ngay thẳng.

 

3432. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành đúng pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ đất nước sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công minh.

 

3433. Và trẫm cũng không ước nguyện bản thể Thiên nhân một cách phi pháp, hay là để chiến thắng toàn bộ trái đất này, này Ahipāraka.

 

3434. Bởi vì bất cứ vật gì quý báu ở giữa loài người được tìm thấy ở nơi này: như là trâu bò, nô lệ, vàng, vải vóc, trầm hương màu vàng,–

 

3435. –ngựa, phụ nữ, bảo vật, vòng ngọc, và luôn cả nơi nào mà mặt trời và mặt trăng (chiếu sáng) bảo hộ cho trẫm, nhưng không vì nguyên nhân của việc ấy mà trẫm hành xử không công bằng, bởi vì trẫm là quý tộc, được sanh ra ở trong dòng tộc Sivi.

 

3436. Là bậc lãnh đạo, người cha, người nổi bật, đấng hộ trì đất nước,

trong lúc tôn kính truyền thống của người dân Sivi,

trong lúc suy xét về chính truyền thống ấy, trẫm đây.

do đó, không thể hành động theo sự tác động của tâm mình.”

 

3437. “Tâu đại vương, đúng vậy, bệ hạ sẽ cai trị vương quốc lâu dài, vĩnh viễn, không bị suy sụp, an toàn, bởi vì trí tuệ của bệ hạ là như thế ấy.

 

3438. Thần tùy hỷ với điều ấy của bệ hạ, về việc bệ hạ không xao lãng truyền thống. Sau khi xao lãng truyền thống, vị Sát-đế-lỵ, vị chúa tể đánh mất ngôi vị.

 

3439. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với mẹ cha, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3440. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với vợ con, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3441. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với bạn bè và đồng nghiệp, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3442. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các đội xe và các đoàn quân, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3443. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các làng mạc và các thị trấn, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3444. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các quốc độ và các xứ sở, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3445. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các vị Sa-môn và Bà-la-môn, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3446. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các loài thú và chim chóc, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3447. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp. Thiện pháp được thực hành là nguồn dem lại sự an lạc, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

 

3448. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp. Chư Thiên, với Thiên chủ Đế Thích, với các Phạm Thiên, đã đạt được Thiên cung do đã khéo thực thành. Tâu bệ hạ, chớ có sự xao lãng thiện pháp.”

 

Bổn Sanh Mỹ Nhân Ummādantī. [527]

 

***

 

3. BỔN SANH BẬC ĐẠI NHÂN MAHĀBODHI

 

3449. “Tại sao ngài có vẻ vội vã cầm lấy cây gậy chống, mảnh y phục da dê, cái dù che, đôi đép, cái móc câu, cái bình bát, và luôn cả tấm y khoác ngoài? Thưa vị Bà-la-môn, ngài mong muốn đi về hướng nào?”

 

3450. “Mười hai năm này được sống gần bệ hạ, bần đạo không biết gì về tiếng sủa của con chó hung.

 

3451. Sau khi nghe được bệ hạ và hoàng hậu không còn niềm tin đối với bần đạo, con chó này đây gầm gừ tựa như kiêu ngạo, còn nhe răng trắng hếu.”

 

3452. “Thưa vị Bà-la-môn, lỗi lầm ấy đã được tạo ra giống như ngài nói. Trẫm đây tin tưởng vào ngài nhiều hơn nữa. Thưa vị Bà-la-môn, ngài hãy ở lại, xin chớ ra đi.”

 

3453. “Trước đây, đã là cơm trắng toàn bộ. Sau đó, đã có lấm tấm (trộn lẫn gạo đỏ). Bây giờ, toàn bộ gạo đỏ. Là thời điểm ra đi của bần đạo.

 

3454. Trước đây, (chỗ ngồi) là ở phòng trong, sau đó là phòng giữa, kế đến là ở bên ngoài. Bần đạo hãy tự mình ra đi trước khi có việc tống khứ.

 

3455. Không nên thân cận người đã không còn niềm tin (đối với mình), tựa như cái giếng không còn nước, thậm chí nếu có thể đào sâu thêm thì cũng chỉ là nước bùn có mùi hôi.

 

3456. Nên thân cận người thật sự tin tưởng (mình), nên xa lánh kẻ không tin tưởng, nên gần gũi người tin tưởng (mình), tựa như người cần nước gần gũi cái hồ.

 

3457. Nên cộng sự với người cộng sự (với mình), không nên cộng sự với kẻ không cộng sự (với mình). Kẻ nào không cộng sự với người cộng sự (có thiện tâm), kẻ ấy có bản chất của kẻ phi chân nhân.

 

3458. Kẻ nào không cộng sự với người đang cộng sự, không thân cận người đang thân cận, chính kẻ ấy là tồi tệ nhất ở loài người, giống như loài thú, loài khỉ.

 

3459. Do gặp gỡ thường xuyên quá nhiều, d0 không hội họp chung, và do yêu cầu không đúng thời, do việc ấy các thân hữu bị suy giảm.

 

3460. Vì thế, không nên qua lại thường xuyên, và quá lâu không qua lại, nên bày tỏ yêu cầu lúc hợp thời, như vậy thì các thân hữu không bị suy giảm.

 

3461. Do việc cư ngụ quá lâu mà người yêu quý không còn được yêu quý. Thật vậy, hãy để chúng tôi chào bệ hạ và ra đi, trước khi chúng tôi đây không còn được yêu quý.”

 

3462. “Nếu như ngài không để tâm đến việc chắp tay của những người đang thỉnh cầu, nếu ngài không nói lời nào với chúng tôi, những người hộ độ ngài, thì chúng tôi thỉnh cầu ngài như vầy: Mong rằng ngài có thể thực hiện việc quay trở lại lần nữa.”

 

3463. “Tâu đại vương, nếu như sẽ không có nguy biến xảy ra cho chúng tôi trong khi sinh sống, và đối với bệ hạ nữa, hoặc đối với (cả hai) chúng ta, tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, có lẽ chúng ta sẽ gặp lại (sau một thời gian) khi những ngày đêm đã qua đi.”

 

3464. “Nếu nói rằng: Thế gian này diễn tiến d0 điều kiện tự nhiên của sự hội tụ, con người tạo tác việc không nên làm (việc ác) hay việc nên làm (việc thiện) không do ước muốn; trong trường hợp việc được làm không do ước muốn, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?

 

3465. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

 

3466. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

 

3467. Nếu vị chúa tể của toàn bộ thế gian xếp đặt cuộc sống, sự thành tựu, sự được mất, và việc làm tốt xấu, con người là công cụ làm theo sự chỉ định, thì vị chúa tể bị lấm nhơ bởi điều ấy.

 

3468. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

 

3469. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

 

3470. Nếu con người đi đến sướng hay khổ do nhân đã làm kiếp trước, và người ấy thoát khỏi món nợ là việc ác đã làm thời xưa ấy, với việc thoát khỏi món nợ thời xưa ấy, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?

 

3471. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

 

3472. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

 

3473. Sắc liên quan đến bốn thành phần (đất, nước, lửa, gió) tạo nên sinh vật. Và sắc hình thành từ nơi nào thì sẽ tiến đến chính nơi ấy.

 

3474. Mạng sống sinh sống ở ngay tại nơi này và tiêu hoại sau khi chết đi, lần này đến lần khác. Thế gian này bị đứt đoạn, những ai là kẻ ngu hay những ai là người trí (đều như nhau). Trong lúc thế gian này bị đứt đoạn, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?

 

3475. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

3476. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

 

3477. Hạng người theo thuyết vua chúa ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt, đã bảo rằng có thể giết chết mẹ, cha, rồi anh trai và luôn cả em trai, có thể giết chết vợ và con, nếu mục đích như thế ấy là cần thiết.

 

3478. Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ phản bội bạn bè là kẻ ác xấu.

 

3479. Rồi khi có nhu cầu sanh khởi thì có thể nhổ lên thậm chí luôn cả gốc rễ. Tôi đã có nhu cầu về vật dự phòng, và nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

 

3480. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

 

3481. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

 

3482. Có người với học thuyết không nguyên nhân, và có người tin vào sự sáng tạo của vị chúa tể, người thì quan niệm do việc đã làm kiếp trước, người thì cho rằng có sự đứt đoạn, và người theo thuyết vua chúa,–

 

3483. –những người này là các kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.

 

3484. Vào thời quá khứ, có con sói giả dạng con cừu

rồi đi đến gần bầy dê, và đã không bị nghi ngờ.

Sau khi giết hại cừu, dê cái, và dê đực,

sau khi làm cho khiếp sợ, nó tẩu thoát theo như ý muốn.

 

3485. Tương tự như thế, có một số hạng Sa-môn và Bà-la-môn

thực hiện việc che đậy rồi lừa gạt nhiều người.

Họ không ăn, và nằm ở trên mặt đất,

có bụi bặm và cáu ghét, ra sức ngồi chồm hổm,

có bữa ăn theo định kỳ, và thực hiện việc không uống nước,

có hành vi xấu xa, có sự khoe khoang là A-la-hán.

 

3486. Những người này là những kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.

 

3487. Những người nào đã nói là không có sự nỗ lực, những người nào không tuyên thuyết về nhân, và những người nào đã ca ngợi việc làm của bản thân và hành động của người khác là rỗng không,–

 

3488. –những người này là những kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.

 

3489. Bởi vì nếu không có sự nỗ lực, không có nghiệp thiện và ác, đức vua không cấp dưỡng người thợ mộc thì cũng không thể cho thực hiện các công trình xây dựng.

 

3490. Và bởi vì có sự nỗ lực, có nghiệp thiện và ác, cho nên đức vua cấp dưỡng người thợ mộc và cho thực hiện các công trình xây dựng.

 

3491. Nếu một trăm năm trời không đổ mưa, cũng không rơi tuyết, thế gian này có thể bị gián đoạn, loài người này có thể bị diệt vong.

 

3492. Và nhờ vào trời đổ mưa và còn rơi tuyết xuống nữa, nhờ thế các mùa màng được chín rộ và đất nước được hộ trì lâu dài.

 

3493. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi quanh co, tất cả các con bò cái sẽ đi quanh co khi con bò dẫn đường đi quanh co.

 

3494. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành không đúng pháp, nói gì thêm những người khác, toàn bộ đất nước sẽ bị lầm than nếu đức vua là kẻ không công minh.

 

3495. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi ngay thẳng, tất cả các con bò cái sẽ đi ngay thẳng khi con bò dẫn đường đi ngay thẳng.

 

3496. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành đúng pháp, nói gì thêm những người khác, toàn bộ đất nước sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công minh.

 

3497. Kẻ nào hái trái cây còn non của cội cây lớn đang kết trái, kẻ ấy không biết được vị ngon của trái cây này và hủy hoại hạt giống của nó.

 

3498. Đất nước được ví như cội cây lớn, kẻ nào cai trị đất nước không công minh, kẻ ấy không biết rõ tiềm lực của nó và hủy hoại đất nước của mình.

 

3499. Người nào hái trái cây đã chín của cội cây lớn đang kết trái, người ấy biết được vị ngon của trái cây này và không hủy hoại hạt giống của nó.

 

3500. Đất nước được ví như cội cây lớn, người nào cai trị đất nước công minh, người ấy biết rõ tiềm lực của nó và không hủy hoại đất nước của mình.

 

3501. Và vị vua nào cai trị xứ sở không công minh, vị vua ấy là Sát- đế- lỵ bị thất bại với mọi giải pháp cứu chữa.

 

3502. Tương tự y như thế, trong khi hãm hại các thị dân, là những người gắn bó với việc buôn bán, thông qua việc quy định thuế má vào việc vận chuyển hàng hóa, vị vua ấy bị thất bại với ngân sách tồn trữ.

 

3503. Trong khi hãm hại những người tài giỏi về lãnh vực chiến đấu đã thể hiện sự ra sức ở chiến trường, đã được nổi bật, vị vua ấy bị thất bại với quân đội của chính mình.

 

3504. Tương tự y như thế, trong khi hãm hại các vị ẩn sĩ có sự tự kiềm chế, có sự thực hành Phạm hạnh, bằng sự hành xử không công minh, vị Sát-đế-lỵ ấy bị thất bại với cõi Trời.

 

3505. Và vị vua nào duy trì phi pháp, giết chết người vợ không phải là kẻ lăng loàn, và gây ra tội ác tàn bạo, (vị vua ấy) bị thất bại với các con.

 

3506. Nên hành xử công minh đối với dân chúng, đối với các thị dân, và đối với các đội quân binh. Và không nên hãm hại các vị ẩn sĩ, nên hành xử bình đẳng với vợ con.

 

3507. Vị như thế ấy là chúa tể của trái đất, đấng hộ trì đất nước, có sự khoan dung, làm cho các lân bang phải khiếp sợ, tựa như vị thần Inda, chúa tể của loài A-tu-la.

 

Bổn Sanh Bậc Đại Nhân Mahābodhi. [528]

 

***

 

TÓM LƯỢC NHÓM NÀY

 

Câu chuyện thứ nhất có tên là Công Chúa Nalinikā,

rồi thứ nhì là chuyện Mỹ Nữ Ummadantī,

thêm chuyện thứ ba có tên gọi cao quý là Bậc Đại Nhân Mahābodhi,

ba câu chuyện hay đã được thuyết giảng bởi đấng Chiến Thắng.

 

Nhóm Năm Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.

 

--ooOoo--

 



[1] Vị ẩn sĩ Isisiṅga được sanh ra và lớn lên ở trong rừng cùng với cha, chưa có cơ hội tiếp xúc với người nữ nên không biết về sự khác biệt về cơ thể của người nam và người nữ, cũng như cách xưng hô phù hợp theo giới tính. Trong câu chuyện này, vị ẩn sĩ gọi nàng công chúa là “bhavaṃ,” với ý nghĩa thông dụng là “ngài, ông” để tỏ sự tôn trọng và chỉ dùng để gọi phái nam. Ở bản dịch này, nàng công chúa sẽ xưng hô là “thiếp và chàng,” còn vị ẩy sĩ sẽ là “tớ và cậu” để nhấn mạnh sự ngây thơ về giới tính của vị này (ND).


[Mục lục][15][16][17][18][19][20][21]


[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]