NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN II
QUY-Y TAM-BẢO
(TISARAṆA)


CHƯƠNG III
ÂN-ĐỨC TAM-BẢO
(RATANATTAYAGUṆA)

Quyển I: Tam-Bảo gồm có 2 chương: chương I và chương II đã trình bày xong, tiếp theo quyển II: Quy-Y Tam-Bảo gồm có 2 chương: chương III là Ân-Đức Tam-Bảo và chương IV Quy-Y Tam-Bảo sẽ được trình bày:
Chương III là Ân-đức Tam-bảo:
1- Ân-đức Phật-bảo (Buddhaguṇa).
2- Ân-đức Pháp-bảo (Dhammaguṇa).
3- Ân-đức Tăng-bảo (Saṃghaguṇa).


I- ÂN-ĐỨC PHẬT-BẢO (Buddhaguṇa)
Trong bài kinh Dhajaggasutta, Đức-Phật dạy chư tỳ-khưu niệm 9 ân-đức Phật-bảo như sau:
Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.” (1)
Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 9 ân-đức là Arahaṃ, Sammā- sambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.

9 Ân-đức Phật-bảo này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên.

Ý Nghĩa 9 Ân-Đức Phật-Bảo
1- Arahaṃ: Đức A-ra-hán là Bậc cao thượng có thân, khẩu, ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, chư-thiên và phạm-thiên.
2- Sammāsambuddho: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Do đó, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.
3- Vijjācaraṇasampanno: Đức Minh-Hạnh-Túc là Bậc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh và 15 Đức-hạnh cao thượng.
4- Sugato: Đức Thiện-Ngôn là Bậc thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh.
5- Lokavidū: Đức Thông-Suốt Tam-Tổng-Pháp là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh (sattaloka), tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka), tổng các pháp-hành (saṅkhāraloka).
6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô-Thượng Giáo-Hóa Chúng-Sinh là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.
7- Satthā devamanussānaṃ: Đức Thiên-Nhân-Sư là Bậc Thầy của nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên, ...
8- Buddho: Đức-Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, rồi Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, cũng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp- chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
9- Bhagavā: Đức-Thế-Tôn là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt do thành tựu đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh Ba-la- mật của Đức-Phật.


Giảng Giải Về 9 Ân-Đức Phật-Bảo
Trong bộ Chú-giải giảng giải 9 ân-đức Phật-bảo được tóm lược sau đây:

1- Ân-đức Phật-Bảo thứ nhất: Arahaṃ

Itipi so Bhagavā Arahaṃ.
(Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Á-rá-hăng)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc Thánh A-ra-hán cao thượng có thân, khẩu, ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, chư- thiên, phạm-thiên, ...
- Arahaṃ: Do đó Đức-Thế-Tôn có ân-đức A-ra-hán.
Arahaṃ có 5 ý nghĩa:
- Arahaṃ có nghĩa là xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường.
- Arahaṃ có nghĩa là đã xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não.
- Arahaṃ có nghĩa là đã diệt tận mọi kẻ thù là phiền-não.
- Arahaṃ có nghĩa là đã phá hủy vòng luân-hồi trong ba giới bốn loài.
- Arahaṃ có nghĩa là không bao giờ làm điều ác ở nơi kín đáo.


Giải thích:


1.1- Arahaṃ có ý nghĩa bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường như thế nào?
Đức-Thế-Tôn Bậc Tối-Thượng độc nhất vô nhị trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh. Thật vậy, trong toàn thể chúng-sinh không có một người nào, một Sa- môn, Bà-la-môn, chư-thiên, phạm-thiên, … nào có đầy đủ 5 đức: giới-đức, định-đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải-thoát-tri-kiến-đức như Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 5 đức:
- Giới-đức hoàn toàn trong sạch thanh-tịnh.
- Định-đức hoàn toàn thanh-tịnh.
- Tuệ-đức hoàn toàn thanh-tịnh.
- Giải-thoát-đức hoàn toàn thanh-tịnh.
- Giải-thoát-tri-kiến-đức hoàn toàn thanh-tịnh.
Chỉ có Đức-Thế-Tôn mới có đầy đủ 5 đức ấy mà thôi. Do đó, Đức-Thế-TônBậc Tối-Thượng nhất trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, là Bậc xứng đáng cho chúng-sinh lễ bái cúng dường. Chúng-sinh nào lễ bái cúng dường rồi, chúng-sinh ấy sẽ được quả báu lớn, sự lợi ích lớn, sự tiến hóa cao thượng, sự an-lạc cao thượng lâu dài. Như Đức-Phật dạy:
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Tối-Thượng độc nhất vô nhị khi xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, để tế độ chúng-sinh, nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên. Bậc Tối-Thượng độc nhất ấy là ai? Bậc Tối-Thượng độc nhất vô nhị ấy chính là Như-Lai, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai là Bậc Tối-Thượng độc nhất vô nhị, xuất hiện trên thế gian để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên.” (2)

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Arahaṃ với ý nghĩa bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của tất cả chúng-sinh.

1.2- Arahaṃ có ý nghĩa xa lìa vĩnh viễn mọi phiền- não như thế nào?
Phiền-não dịch từ tiếng Pāḷi: kilesa.
Kilesa: Phiền-não là những bất-thiện tâm-sở đồng sinh với những bất-thiện-tâm làm cho thân tâm nóng nảy, khó chịu, khổ thân, khổ tâm; phiền-não còn làm cho tâm, tâm-sở bị ô nhiễm, khiến tạo nghiệp do thân, khẩu, ý.
Phiền-não có 10 loại
1- Tham (lobha) tham tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm, có trạng thái tham muốn trong đối-tượng.
2- Sân (dosa) sân tâm-sở đồng sinh với 2 sân-tâm, có trạng thái hung dữ, tàn bạo, không tham muốn trong đối-tượng.
3- Si (moha) si tâm-sở đồng sinh với 12 bất- thiện-tâm, có trạng thái si-mê, không biết rõ thật-tánh của các pháp.
4- Tà-kiến (diṭṭhi) tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến có trạng thái thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng.
5- Ngã-mạn (māna) ngã-mạn tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, có trạng thái so sánh mình với người: hơn người, bằng người, kém thua người.
6- Hoài-nghi (vicikicchā)hoài-nghi tâm-sở đồng sinh với 1 si-tâm hợp với hoài-nghi, có trạng-thái hoài- nghi nơi đối-tượng.
7- Buồn-chán (thina) buồn-chán tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm1 sân-tâm gồm có 5 bất-thiện-tâm cần tác-động, có trạng-thái không hăng hái, buông bỏ đối-tượng.
8- Phóng-tâm (uddhacca) phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái không an trụ nơi đối-tượng.
9- Không biết hổ-thẹn (ahirika)không biết hổ-thẹn tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái tự mình không biết hổ-thẹn tội-lỗi khi hành ác.
10- Không biết ghê-sợ (anottappa) không biết ghê- sợ tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái không biết ghê-sợ tội-lỗi khi hành ác.
Đó là 10 loại phiền-não, mỗi khi có phiền-não nào phát sinh ở bất-thiện-tâm nào, thì không những làm cho tâm bị ô nhiễm, nóng nảy, mà còn làm cho thân cũng nóng nảy, khó chịu, mặt mày mất vẻ tự nhiên.
Tính chất của phiền-não có 3 loại
- Vītikkamakilesa là phiền-não loại thô, được biểu hiện ra ở thân hành-ác, khẩu nói-ác. Phiền-não loại thô này có thể diệt bằng pháp-hành giới. Hành-giả có tác-ý thiện-tâm (cetanā) tránh xa mọi hành-ác, giữ gìn giới làm cho thân và khẩu được trong sạch, thì diệt-từng-thời phiền-não loại thô này.
- Pariyuṭṭhānakilesa là phiền-não loại trung phát sinh ở trong tâm, đó là 5 pháp-chướng-ngại (3), làm cho tâm cảm thấy khó chịu, khổ tâm, ngăn cản mọi thiện-pháp. Phiền-não loại trung này có thể diệt bằng pháp-hành thiền-định. Khi hành-giả chứng đắc đệ-nhất-thiền sắc- giới, nhờ có 5 chi-thiền có thể diệt bằng cách chế ngự, đè nén được phiền-não loại trung này.
- Anusayakilesa là phiền-não cực kỳ vi-tế ẩn tàng ngấm ngầm ở trong tâm thức, đó là 7 pháp phiền-não ngủ ngầm trong tâm (4) không hiện rõ. Phiền-não loại cực kỳ vi-tế này có thể bị diệt bằng pháp-hành thiền-tuệ. Khi hành-giả chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ mới có thể diệt tận được phiền-não loại cực kỳ vi-tế này.
Phiền-não tính rộng có 1.500 loại
Khi 10 loại phiền-não kể trên liên quan đến đối-tượng làm nhân duyên để phát sinh phiền-não, tính rộng có 1.500 loại phiền-não.
Cách tính như sau:
75 pháp có thể làm đối-tượng của phiền-não:
- Tâm tính là 1 pháp (vì cùng có một trạng-thái biết đối-tượng).
- Tâm-sở tính 52 pháp (mỗi tâm-sở có mỗi trạng-thái riêng biệt).
- Sắc-pháp chỉ có 18 sắc-pháp hiện-hữu thật rõ ràng, 4 pháp-trạng-thái của sắc-pháp.
Như vậy, gồm có (1 + 52 + 18 + 4) = 75 pháp có thể làm đối-tượng của phiền-não.
- 75 pháp này là đối-tượng của phiền-não ở bên trong mình, là kẻ thù bên trong.
- 75 pháp này cũng là đối-tượng của phiền-não ở bên ngoài mình, là kẻ thù bên ngoài.
Đối-tượng của phiền-não bên trong mình có 75 pháp và bên ngoài mình có 75 pháp gồm cả thảy 150 pháp nhân với 10 loại phiền-não (tham, sân, si, tà-kiến, ngã- mạn, hoài-nghi, buồn-chán, phóng-tâm, không hổ-thẹn tội-lỗi, không ghê-sợ tội-lỗi) thành 1.500 loại phiền-não (150 x 10).
Thật ra, 10 loại phiền-não trong 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) mới làm cho tâm bị ô nhiễm, làm cho tâm nóng nảy, khó chịu, khổ tâm, khổ thân.
Phiền-não làm nhân duyên trực tiếp tạo mọi ác- nghiệp và làm nhân duyên gián tiếp tạo mọi thiện- nghiệp trong tam-giới (do vô-minh làm duyên nên tạo ác-nghiệp, thiện-nghiệp), để rồi cho quả của nghiệp, dẫn dắt trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới (5)bốn loài (6).
Nghiệp này được dẫn dắt do bởi tham-ái (taṇhā).
Tham-ái (taṇhā) đó là tham tâm-sở (lobhacetasika).
Tham-ái có tất cả 108 loại.
Tham-ái có 108 loại
Cách tính 108 loại tham-ái theo 3 tính chất, 6 đối- tương, 2 bên, 3 thời như sau:
Ba tính chất của tham-ái:
- Dục-ái (Kāmataṇhā): Tham-ái trong 6 đối-tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
- Hữu-ái (Bhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối-tượng hợp với thường-kiến và tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.
- Phi-hữu-ái (Vibhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối- tượng hợp với đoạn-kiến.

Sáu đối-tượng của tham-ái:
1- Sắc-ái (rūpataṇhā): Sắc là đối-tượng của tham-ái. 2- Thanh-ái (saddataṇhā): Âm thanh là đối-tượng của tham-ái.
3- Hương-ái (gandhataṇhā): Hương là đối-tượng của tham-ái.
4- Vị-ái (rasataṇhā): Vị là đối-tượng của tham-ái.
5- Xúc-ái (phoṭṭhabbataṇhā): Xúc là đối-tượng của tham-ái.
6- Pháp-ái (dhammataṇhā): Pháp là đối-tượng của tham-ái.

Hai bên:
1- Bên trong: Tham-ái phát sinh bên trong tâm của mình.
2- Bên ngoài: Tham-ái phát sinh bên ngoài mình.
Ba thời:
1- Thời quá-khứ: Tham-ái đã phát sinh trong thời quá-khứ.
2- Thời hiện-tại: Tham-ái đang phát sinh trong thời hiện-tại.
3- Thời vị-lai: Tham-ái sẽ phát sinh trong thời vị-lai. Như vậy, tham-ái có 3 tính chất nhân với 6 đối-tượng, nhân với 2 bên (trong và ngoài), nhân với 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai) thành 108 (3 x 6 x 2 x 3) loại tham- ái, là nhân sinh khổ-đế.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được tất cả 1.500 loại phiền-não, 108 loại tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) (7) do tích lũy từ vô lượng kiếp ở quá-khứ tại cội Đại-Bồ-đề, vào canh chót đêm rằm tháng tư, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn ân-đức Arahaṃ với ý nghĩa xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não tiền-khiên-tật không bao giờ phát sinh được nữa.

1.3- Arahaṃ có ý nghĩa diệt tận mọi kẻ thù là phiền-não như thế nào?

Đức-Phật dạy: “Kẻ thù nguy hiểm chính là 1.500 loại phiền-não của mình.”

Sở dĩ gọi phiền-nãokẻ thù kẻ thù ở trong đời này thường tìm cơ hội làm khổ mình, sát hại mình, không có một kẻ thù nào mong cho mình được an-lạc.
Cũng như vậy, phiền-não phát sinh trong bất-thiện- tâm làm cho mình khổ tâm, khổ thân, nóng nảy, khó chịu và còn khiến mình tạo mọi ác-nghiệp, làm khổ chúng- sinh khác, để rồi phải chịu quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai.
Sự thật, chỉ có phiền-não bên trong bất-thiện-tâm của mình mới trực tiếp làm khổ mình, còn phiền-não bên ngoài mình, của người khác, không trực tiếp làm khổ mình được, nếu mình không tiếp nhận.
Ví dụ: Người ta mắng chửi, đánh đập mình, nếu mình có tâm nhẫn-nại, không sân-hận, phiền-não không sinh thì mình không bị khổ tâm. Nếu tâm phiền-não sân-hận phát sinh thì chính phiền-não bên trong tâm mình làm cho mình khổ tâm, hoàn toàn không phải phiền-não bên ngoài mình, của người khác, làm cho mình khổ tâm.
Còn phần khổ thân thuộc về quả của nghiệp, không một ai tránh khỏi, dù là Đức-Phật hay chư bậc Thánh A- ra-hán. Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra-hán tuy đã diệt tận được tất cả 1.500 loại phiền-não rồi, hoàn toàn không còn khổ tâm nữa, nhưng còn có sắc thân, nên vẫn còn có khổ thân cho đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới. Khi ấy, mới thật sự giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ.
Đức-Bồ-Tát Siddhattha đã diệt tận tất cả mọi kẻ thù là 1.500 loại phiền-não, bằng 4 Thánh-đạo-tuệ tại dưới cội Đại-Bồ-đề vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị trong toàn cõi-giới chúng-sinh, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Cho nên, Đức-Thế-TônÂn-đức Arahaṃ với ý nghĩa diệt tận mọi kẻ thù là phiền-não không còn dư sót.

4- Arahaṃ có ý nghĩa phá hủy vòng tử sinh luân- hồi trong ba giới bốn loài như thế nào?
Vòng luân-hồi đó chính là pháp “Thập-nhị-duyên- sinh” (Paṭiccasamuppāda), có 12 chi pháp:
- Do vô-minh làm duyên, nên pháp-hành phát sinh, (Avijjāpaccayā saṅkhārā)
- Do pháp-hành làm duyên, nên tâm-thức phát sinh, (Saṅkhārāpaccayā viññāṇaṃ)
-Do tâm-thức làm duyên, nên danh-pháp sắc-pháp phát sinh, (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ)
- Do danh-sắc làm duyên, nên lục-xứ phát sinh, (Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ)
- Do lục-xứ làm duyên, nên lục-xúc phát sinh, (Saḷāyatanapaccayā phasso)
- Do lục-xúc làm duyên, nên lục-thọ phát sinh, (Phassapaccayā vedanā)
- Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái phát sinh, (Vedanāpaccayā taṇhā)
- Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ phát sinh, (Taṇhāpaccayā upādānaṃ)
- Do tứ-thủ làm duyên, nên nhị-hữu phát sinh, (Upādānapaccayā bhāvo)
- Do nhị-hữu làm duyên, nên tái-sinh phát sinh, (Bhāvapaccayā jāti)
- Do tái-sinh làm duyên, nên lão, tử, sầu-não, khóc than, khổ thân, khổ tâm, nỗi khổ cùng cực phát sinh, …
(Jātipaccayā jarā-maraṇa-soka-parideva-dukkha- domanassupāyāsā sambhavanti, … )



Giải Thích :

1- Vô-minh (Avijjā)
đó là si tâm-sở (mohacetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.
* Vô-minh không phải là không biết tất cả, mà sự-thật vô-minh chỉ không biết 8 pháp sau đây mà thôi.
1- Không biết sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là Khổ-Thánh-đế.
2- Không biết tham-ái là Nhân sinh khổ-Thánh-đế. 3- Không biết Niết-bàn là pháp Diệt khổ-Thánh-đế.
4- Không biết pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến Diệt khổ-Thánh-đế.
5- Không biết ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp trong quá-khứ.
6- Không biết ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp trong vị-lai.
7- Không biết ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp trong quá-khứ và vị-lai.
8- Không biết pháp thập-nhị-duyên-sinh.

Vô-minh chỉ không biết 8 pháp này mà thôi, ngoài ra, vô-minh có thể biết các pháp khác.
“Do vô-minh làm duyên, nên pháp-hành phát sinh.”

2- Pháp-hành (Saṅkhārā) đó là tác-ý tâm-sở (cetanā- cetasika) đồng sinh với 29 tâm, là quả của vô-minh:
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm.
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm.
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.

Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 29 tâm này là quả của vô- minh, được phát sinh do vô-minh làm duyên.
“ Do pháp-hành làm duyên, nên tâm-thức phát sinh.”

3- Tâm-thức (Viññāṇa) đó là tam-giới quả-tâm-thức gồm có 32 quả-tâm, là quả của pháp-hành:
- Dục-giới quả-tâm-thức có 23 tâm.
- Sắc-giới quả-tâm-thức có 5 tâm.
- Vô-sắc-giới quả-tâm-thức có 4 tâm.

32 tam-giới quả-tâm-thức
có 2 phận sự:

3.1- Paṭisandhiviññāṇa: Tam-giới tái-sinh-tâm
gồm có 19 quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong ba giới bốn loài:
- 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là bất-thiện-quả vô-nhân-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác- giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh.
- 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là thiện-quả vô- nhân-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi người hoặc chư-thiên bậc thấp thuộc về hạng đui mù, câm điếc, tật nguyền, … từ khi tái-sinh, hạng người hoặc chư-thiên này gọi là hạng vô-nhân cõi dục-giới.
- 8 dục-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc làm chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới.
- 5 sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm phạm-thiên trên 15 cõi trời sắc-giới.
- 4 vô-sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm phạm-thiên trên 4 cõi trời vô-sắc-giới.

3.2- Pavattiviññāṇa: Tam-giới quả-tâm
gồm có 32 tâm làm phận sự sau khi đã tái-sinh kiếp sau.
32 tam-giới quả-tâm này có phận sự thọ nhận quả xấu của bất-thiện-nghiệp hoặc quả tốt của thiện-nghiệp của chúng-sinh ấy.
32 tam-giới quả-tâm này là quả của pháp-hành, được phát sinh do pháp-hành làm duyên.
“Do tâm-thức làm duyên, nên danh-pháp, sắc-pháp phát sinh.”

4-1- Danh-pháp (Nāmadhamma) đó chỉ là 35 tâm-sở đồng sinh với 32 tam-giới quả-tâm mà thôi.
4.2- Sắc-pháp (Rūpadhamma) là sắc-pháp phát sinh do nghiệp và sắc-pháp phát sinh do tâm, sau khi đã tái-sinh.
Những danh-phápsắc-pháp này là quả của tâm- thức, được phát sinh do 32 tam-giới quả-tâm làm duyên.
“Do danh-pháp, sắc-pháp làm duyên, nên lục-xứ phát sinh.”
5- Lục-xứ (Sāḷāyatana) đó là nhãn-xứ, nhĩ-xứ, tỷ-xứ, thiệt-xứ, thân-xứ, ý-xứ, là nơi tiếp nhận 6 đối-tượng:
Lục-xứ này là quả của danh-pháp, sắc-pháp, được phát sinh do danh-pháp, sắc-pháp làm duyên.
“Do lục-xứ làm duyên, nên lục-xúc phát sinh.”
6- Lục-xúc (Phassa) đó là nhãn-xúc, nhĩ-xúc, tỷ-xúc, thiệt-xúc, thân-xúc, ý-xúc.
Lục-xúc này là quả của lục-xứ, được phát sinh do lục- xứ làm duyên.
“Do lục-xúc làm duyên, nên lục-thọ phát sinh.”
7- Lục-thọ (Vedanā) đó là nhãn-xúc-thọ, nhĩ-xúc-thọ, tỷ-xúc-thọ, thiệt-xúc-thọ, thân-xúc-thọ, ý-xúc-thọ.
Lục-thọ này là quả của lục-xúc, được phát sinh do lục- xúc làm duyên.
“Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái phát sinh.”
8- Lục-ái (Taṇhā) đó là sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái.
Lục-ái này là quả của lục-thọ, được phát sinh do lục- thọ làm duyên.
“Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ phát sinh.”
9- Tứ-thủ (Upādāna) đó là 4 pháp chấp-thủ: chấp- thủ trong ngũ-dục, chấp-thủ trong tà-kiến, chấp-thủ trong pháp-hành sai, chấp-thủ trong ngã-kiến.
4 pháp chấp-thủ này là quả của lục-ái, được phát sinh do lục-ái làm duyên.
“Do tứ-thủ làm duyên, nên nhị-hữu phát sinh.”
10- Nhị-hữu (Bhava) có 2 loại: nghiệp-hữu và cõi hữu. 10.1- Nghiệp-hữu (Kammabhava) đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika).
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm.
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm.
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.

Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 29 tam-giới tâm này gọi là nghiệp-hữu.
10.1- Cõi-hữu (Uppattibhava) đó là cõi sinh của tất cả chúng-sinh trong tam-giới, gồm có 31 cõi.
Nghiệp-hữu và cõi-hữu này là quả của tứ-thủ, được phát sinh do tứ-thủ làm duyên.
“Do nhị-hữu làm duyên, nên tái-sinh phát sinh.”
11- Tái-sinh (Jāti) đó là tái-sinh kiếp sau, sự sinh đầu tiên của tam-giới quả-tâm trong ba giới (8), bốn loài (9) thuộc ba loại chúng-sinh do năng lực quả của thiện- nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp của chúng-sinh ấy.
- Chúng-sinh có ngũ-uẩn trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới (trừ cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên).
- Chúng-sinh có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn, thức-uẩn)
trong 4 cõi trời vô-sắc-giới.
- Chúng-sinh có nhất-uẩn là sắc-uẩn
trong cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên.
Sự tái-sinh đầu tiên của tam-giới quả-tâm và sắc- pháp phát sinh do nghiệp,
quả của nghiệp-hữu, được phát sinh do nghiệp-hữu làm duyên.
“Do tái-sinh làm duyên, nên lão, tử,… phát sinh.”

12- Lão, tử, … (Jarā-maraṇa-…) đó là sự già, sự chết,…, là quả của sự tái-sinh.
- Sự già (Jarā) đó là thời gian trụ của tam-giới quả-tâm và sắc-pháp phát sinh do nghiệp, là quả của sự tái-sinh.
- Sự chết (Maraṇa) đó là thời gian diệt của tam-giới quả-tâm và sắc-pháp phát sinh do nghiệp gọi là “chết”, là quả của sự tái-sinh.
Sự già, sự chết quả của sự tái-sinh, được phát sinh do tái-sinh làm duyên.
Thập-nhị-duyên-sinh12 chi-pháp ví như vòng xích gồm có 12 mắt xích gắn bó lại với nhau.
Cũng như vậy, vòng luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh 12 chi pháp, từ vô-minh đến lão, tử… Mỗi chi-pháp không thuần là nhân, không thuần là quả, mà sự thật mỗi chi-pháp là quả của chi-pháp trước, rồi làm nhân của chi-pháp sau liên hoàn với nhau như vậy.
Do đó, nhân và quả trong thập-nhị-duyên-sinh liên quan đến chi-pháp trước với chi-pháp sau. Nếu chỉ riêng rẽ mỗi chi-pháp thì không thể gọi là nhân, cũng không thể gọi là quả.

(Ví dụ: Ông B là con của ông A, cũng là cha của ông C. Nếu chỉ riêng một mình ông B thì không thể gọi là con, cũng không thể gọi là cha.)

Cho nên, vòng luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh theo định luật nhân-quả liên-hoàn 12 chi-pháp nối dính vào nhau thành vòng không có điểm bắt đầu, cũng không có điểm cuối. 12 chi-pháp trong vòng luân-hồi thập-nhị-duyên- sinh phân tích nhân quả theo ba thời như sau:
* Vô-minh, hành nhân quá-khứ.
* Thức, danh-sắc, lục-xứ, lục-xúc, lục-thọ
quả hiện-tại.
* Tham-ái, thủ, hữu
nhân hiện-tại.
* Sinh, già, chết
quả vị-lai.
Đối với chúng-sinh còn có vô-minhtham-ái thì vô-minh không phải là điểm bắt đầu, và lão, tử… cũng không phải là điểm cuối cùng.
Thật vậy, vô-minh chỉ là nhân-duyên quá-khứ, không phải là nhân-duyên bắt đầu, vì vô-minh còn là quả của bốn pháp-trầm-luân. Như Đức-Phật dạy:
“Āsavasamudayā avijjāsamudayo …” (10)
- Do có sự sinh của bốn pháp trầm-luân, nên có sự sinh của vô minh ...
Và lão, tử, … chỉ là điểm cuối cùng của mỗi kiếp mà thôi. Chúng-sinh còn vô-minh và tham-ái sau khi chết, thì nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau. Kiếp sau như thế nào, chỉ hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi.

Vòng Tam-Luân
Vòng luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh12 chi-pháp này được phân chia thành Tam-luân, luân chuyển theo chiều hướng nhất định như sau:
1- Phiền-não-luân: Gồm có 3 chi-pháp: vô-minh, lục- ái, tứ-thủ.
2- Nghiệp-luân: Gồm có 2 chi-pháp: hành, nghiệp-hữu(11).
3- Quả-luân: Gồm có 8 chi-pháp: Cõi-hữu, thức, danh-sắc, lục-xứ, lục-xúc, lục-thọ, sinh, lão tử, ...
Vòng luân-hồi “Thập-nhị-duyên-sinh” luân chuyển theo ba luân: Phiền-não-luân → Nghiệp-luân → Quả- luân → Phiền-não-luân … từ kiếp này sang kiếp khác tiếp nối với nhau, từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại, và sẽ còn những kiếp vị-lai, đối với chúng- sinh còn phiền-não-luân.
* Đối với chư bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi phiền-não không còn dư sót nữa nên không có phiền-não-luân thì vòng luân-hồi cũng bị tan rã, không còn tiếp tục luân chuyển được nữa, nghĩa là chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

BIỂU TƯỢNG VÒNG LUÂN-HỒI VÀ VÒNG TAM-LUÂN

Giải Thích Vòng Tam-Luân
Chúng-sinh còn vô-minh, lục-ái, tứ-thủ làm nhân-duyên khiến tạo bất-thiện-nghiệp, thiện-nghiệp do thân, khẩu, ý.

1- Phiền-não-luân làm nhân-duyên tạo nghiệp-luân

* Phiền-não làm nhân-duyên tạo bất-thiện-nghiệp
Số chúng-sinh do vô minh, không biết rõ bất-thiện- nghiệp (ác-nghiệp) cho quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp trong vị-lai. Và cũng có số chúng-sinh, tuy có hiểu biết bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) cho quả khổ như vậy, nhưng vì vô-minh, tham-ái có nhiều năng lực, nên xui khiến tạo mọi bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) bằng thân, khẩu, ý như sau:
- Thân hành ác như: sát sinh, trộm cắp, tà dâm.
- Khẩu nói ác như: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.
- Ý nghĩ ác như: tham lam, thù hận, tà-kiến, …
* Phiền-não làm nhân duyên tạo thiện-nghiệp
Số chúng-sinh do vô-minh, không biết rõ chân-lý tứ Thánh-đế, không biết khổ của ngũ-uẩn, do đó, muốn hưởng sự an-lạc tạm thời, nên tạo mọi thiện-nghiệp:
- Dục-giới thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi dục-giới.
- Sắc-giới thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi sắc-giới.
- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi vô-sắc-giới.

Sự an-lạc trong tam-giới này không phải là chân-lý, mà chỉ có tính cách tạm thời tùy theo năng lực quả của thiện-nghiệp ấy mà thôi.
Như vậy, gọi là phiền-não-luân khiến tạo nghiệp-luân.

2- Nghiệp-luân cho quả-luân
Chúng-sinh còn phiền-não khiến đã tạo bất-thiện- nghiệp (ác-nghiệp), thiện-nghiệp, nếu khi nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả, chúng-sinh ấy thọ quả của nghiệp ấy.
* Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại, thì phải thừa hưởng quả xấu như sau:
- Nhãn-thức-tâm nhìn thấy những đối-tượng xấu.
- Nhĩ-thức-tâm nghe những đối-tượng thanh dở.
- Tỷ-thức-tâm ngửi những đối-tượng mùi hôi.
- Thiệt-thức-tâm nếm những đối-tượng vị dở.
- Thân-thức-tâm tiếp xúc những vật thô cứng.
- Ý-thức-tâm biết những điều xấu, điều ác.

* Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu bất-thiện-nghiệp (ác- nghiệp) có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp thì sinh 1 trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh tùy theo năng lực quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) ấy, chúng-sinh ấy phải chịu khổ trong cõi ác-giới, cho đến khi mãn quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) ấy.
* Nếu thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong kiếp hiện- tại thì được hưởng quả tốt như sau:
- Nhãn-thức-tâm nhìn thấy những đối-tượng tốt.
- Nhĩ-thức-tâm nghe những đối-tượng âm thanh hay.
- Tỷ-thức-tâm ngửi những đối-tượng mùi thơm.
- Thiệt-thức-tâm nếm những đối-tượng vị ngon.
- Thân-thức-tâm xúc giác đối-tượng xúc mềm mại.
- Ý-thức-tâm biết những điều tốt, điều thiện.

* Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp thì đầu-thai làm người trong cõi người, hoặc hóa-sinh làm chư-thiên 1 trong 6 cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc trong cõi trời dục- giới ấy cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.
* Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu có sắc-giới thiện- nghiệp thì sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa sinh làm phạm-thiên trên 1 trong 16 tầng trời sắc-giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của hành-giả. Vị phạm-thiên ấy hưởng quả an-lạc vi-tế hơn ở cõi dục- giới, sống lâu theo tuổi thọ của cõi trời sắc-giới ấy.
* Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu có vô-sắc-giới thiện-nghiệp thì vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa sinh làm phạm-thiên trên 1 trong 4 cõi trời vô-sắc-giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của hành-giả. Vị phạm-thiên ấy hưởng sự an-lạc vi-tế hơn ở cõi trời sắc- giới, sống lâu theo tuổi thọ của cõi trời vô-sắc-giới ấy.

3- Quả-luân sinh phiền-não-luân
Quả-luân là sự hiện hữu của chúng-sinh trong tam-giới:
- Chúng-sinh có ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) trong 11 cõi dục-giới, 15 cõi sắc-giới.
- Chúng-sinh có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn, thức-uẩn) (không có sắc-uẩn) trong 4 cõi vô-sắc-giới.
- Chúng-sinh có nhất-uẩn là sắc-uẩn (không có 4 danh-uẩn) trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên.
Nếu các chúng-sinh này chưa diệt tận được phiền-não, vô-minh, tham-ái, … khi có cơ hội thì phiền-não phát sinh làm nhân duyên khiến tạo nên thiện-nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), rồi trở lại vòng tam-luân chuyển biến không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Tam-luân này chuyển biến theo định luật nhân và quả như sau:
Phiền-não-luân là nhân, nghiệp-luân là quả; nghiệp- luân là nhân, quả-luân là quả; quả-luân là nhân, phiền- não-luân là quả và tiếp diễn như vậy thành vòng tam- luân trong vòng luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh.
Đức-Thế-Tôn đã diệt tận được tất cả 1.500 loại phiền-não rồi, nhổ tận gốc rễ của vô-minh và tham-ái bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi. Vòng-tam-luân bị tan rã, tách rời không còn luân chuyển được nữa, do diệt tận được phiền-não-luân.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Arahaṃ với ý nghĩa phá hủy vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

1.5- Arahaṃ có ý nghĩa không bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo như thế nào?

Nơi kín đáo là nơi không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không có một ai có thể nghi ngờ. Như vậy, đối với người có bất-thiện-tâm, nơi kín đáo ấy là nơi dễ hành-ác bằng thân, khẩu, ý, vì không sợ ai chê trách, nhưng đối với Đức-Thế-Tôn là Bậc đã diệt tận tất cả mọi phiền-não, mọi bất-thiện-tâm không còn nữa, nên thân, khẩu, ý của Đức-Phật lúc nào cũng hoàn toàn trong sạch thanh-tịnh.
Cho nên, dầu ở nơi kín đáo, không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không một ai có thể nghi ngờ, thì Đức-Thế-Tôn cũng không bao giờ hành-ác bằng thân, khẩu, ý nữa.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Arahaṃ với ý nghĩa không bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo.
Ân-đức Arahaṃ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn, vô lượng vô biên.

Qua 5 ý nghĩa tóm tắt trên chỉ để hiểu biết rõ phần ý nghĩa về Ân-đức Arahaṃ. Đặc biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa “Bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của tất cả chúng-sinh.”

Niệm ân-đức Arahaṃ

Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến Ân- đức Phật-bảo, niệm “ân-đức Arahaṃ” này, sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí-tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế- Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Arahaṃ như sau:
Câu ân-đức Arahaṃ rằng: “Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Itipi so Bhagavā Arahaṃ,
... Itipi so Bhagavā Arahaṃ,
...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ ân-đức Arahaṃ rằng: “A-ra-haṃ, … A- ra-haṃ, … A-ra-haṃ, …” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Arahaṃ này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm. Do năng lực dục-giới thiện-nghiệp thực hành niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Arahaṃ này sẽ cho quả như sau:
- Kiếp hiện-tại: Hành-giả là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, phước-thiện tăng trưởng, tránh được mọi tai họa, thân tâm thường an-lạc.
- Kiếp vị-lai: Sau khi hành-giả chết, nếu đại-thiện- nghiệp này cho quả tái-sinh làm người thì là người có đầy đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) cao quý, được nhiều người quý mến, kính trọng.
Nếu tái-sinh làm chư-thiên trong cõi trời nào trong 6 cõi trời dục-giới, thì vị chư-thiên ấy có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời, hưởng sự an-lạc cao quý đến hết tuổi thọ trong cõi trời ấy.
Dục-giới thiện-nghiệp niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Arahaṃ này có thể cho quả tốt lành suốt nhiều kiếp vị-lai, đặc biệt còn làm duyên lành dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn trong thời vị-lai.


2- Ân-đức Phật-Bảo thứ nhì: Sammāsambuddho

Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho.
(
Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Xăm-ma-xăm-bút-thô)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham- ái, mọi ác-pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.
- Sammāsambuddho: Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Chân-lý tứ Thánh-đế
- Khổ-Thánh-đế: Đó là ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc- pháp trong tam-giới, là pháp nên biết thì Đức-Phật đã biết rõ ngũ-uẩn, khổ-Thánh-đế xong rồi.
- Nhân sinh khổ-Thánh-đế: Đó là tham-ái là pháp nên diệt. Đức-Phật đã diệt tận tất cả mọi tham-ái, nhân sinh khổ-Thánh-đế xong rồi.
- Diệt khổ-Thánh-đế: Đó là Niết-bàn là pháp nên chứng ngộ thì Đức-Phật đã chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế xong rồi.
- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế: Đó là pháp- hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh (chánh-kiến, chánh- tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh- tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định), là pháp nên tiến hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế thì Đức- Phật đã tiến hành xong rồi.
Đức-Phật đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.
Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ quán xét pháp “Thập-nhị duyên-sinh” như:
“Avijjāpaccayā saṅkhārā”…
“Do vô-minh làm duyên, nên pháp-hành phát sinh”...
Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ khổ-Thánh-đế và nhân sinh khổ-Thánh-đế.
Và trí-tuệ quán xét “Thập-nhị nhân-diệt” như:
“Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāra- nirodho …”
- Do diệt tận vô-minh, tham-ái không còn dư sót, nên diệt pháp-hành …

Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ diệt khổ-Thánh-đế và pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân, mà Đức-Phật đã khẳng định với nhóm 5 tỳ- khưu trong bài kinh Chuyển-Pháp-Luân (12) rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí- tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí- tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh-tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.
- Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai khẳng định, truyền dạy rằng: Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, nhân-loại, vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên cả thảy.

Như vậy, Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, nên Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sammāsambuddho: Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác.
Ñeyyadhamma
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đặc biệt biết đầy đủ 5 pháp Ñeyyadhamma:
- Saṅkhāra: Tất cả pháp-hành cấu tạo.
- Vikāra: Sắc-pháp, danh-pháp biến đổi.
- Lakkhaṇa: Trạng-thái sinh, trụ, diệt của sắc-pháp, danh-pháp.
- Paññattidhamma (Chế-định-pháp): Chế định ngôn ngữ để thuyết giảng chánh-pháp.(13)
- Nibbāna: Niết-bàn, pháp diệt khổ-Thánh-đế.
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác biết đầy đủ 5 pháp ấy, nên Đức-Phật có khả năng chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sammāsambuddho: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Niệm Ân-đức Sammāsambuddho


Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo, niệm “ân-đức Sammāsambuddho” này, sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí- tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế-Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Sammāsambuddho như sau:
Câu ân-đức Sammāsambuddho rằng: “Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho, … Itipi so Bhagavā Sammā-sambuddho, ... Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ ân-đức Sammāsambuddho rằng: “Sammāsambuddho, … Sammāsambuddho, … Sammā- sambuddhho, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Sammāsambuddho này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối- tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm.
Do năng lực dục-giới thiện-nghiệp thực hành niệm ân-đức Phật-bảo này sẽ cho quả như sau:
- Kiếp hiện-tại: Hành-giả là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, phước-thiện tăng trưởng, tránh được mọi tai họa, thân tâm thường an-lạc.
- Kiếp vị-lai: Sau khi hành-giả chết, nếu đại-thiện- nghiệp này cho quả tái-sinh làm người thì sẽ là người có đầy đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) cao quý, được nhiều người quý mến, kính trọng.

(Phần còn lại giống như Ân-đức Arahaṃ)

3- Ân-đức Phật-Bảo thứ ba: Vijjācaraṇasampanno

Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇasampanno.
(Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Vít-chà-chá-rá-ná-xăm-păn-nô)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc có đầy đủ tam-minh, bát-minh và 15 đức-hạnh cao thượng.
- Vijjācaraṇasampanno: Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Minh-Hạnh-Túc.
Tam-Minh
1- Tiền-kiếp-minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa) là trí- tuệ thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ trở lại tiền-kiếp từ một kiếp, hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp. Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có khả năng ghi nhớ lại vô số kiếp không có giới hạn (còn tiền-kiếp-minh của Đức-Phật Độc-Giác, bậc Thánh thanh-văn-giác có giới hạn).
Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ biết rõ tiền-kiếp thuộc loại chúng-sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện- nghiệp, bất-thiện-nghiệp, thực hành pháp-hạnh ba-la- mật, … tuổi thọ, … đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.
2- Thiên-nhãn-minh (Dibbacakkhuñāṇa) là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh như mắt của chư-thiên, phạm-thiên. Thiên- nhãn-minh có 2 loại:
- Tử-sinh-minh (Cutūpapātañāṇa) là trí-tuệ biết rõ sự tử, sự tái-sinh của tất cả chúng-sinh. Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có tử-sinh-minh này biết rõ chúng-sinh sau khi chết rồi, nghiệp nào cho quả tái-sinh trong cảnh giới nào.
- Vị-lai-kiến-minh (Anāgataṃsañāṇa) là trí-tuệ thấy rõ những kiếp vị-lai của chúng-sinh. Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác dùng vị-lai-kiến-minh này để thọ ký chúng- sinh trong những kiếp vị-lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại-kiếp trái-đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật Độc-Giác, bậc Thánh thanh-văn-giác, …
3- Trầm-luân-tận-minh (Āsavakkhayañāṇa) là trí- tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ diệt tận được bốn pháp phiền-não trầm-luân (āsava) không còn dư sót, đồng thời Đức-Thế-Tôn tận diệt được tất cả mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) do tích lũy từ vô lượng kiếp trong quá-khứ.
Bát-Minh
1- Tiền-kiếp-minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa).
2- Thiên-nhãn-minh (Dibbacakkhuñāṇa).
3- Trầm-luân-tận-minh (Āsavakkhayañāṇa).
4- Thiền-tuệ-minh (Vipassanāñāṇa) là trí-tuệ-thiền- tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, và trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ, Niết-bàn.
5- Tha-tâm-minh (Cetopariyañāṇa) là trí-tuệ có khả năng biết được tâm của người khác, chúng-sinh khác đang nghĩ gì, thiện-tâm hoặc bất-thiện-tâm, ...
6- Hóa-tâm-minh (Manomayiddhiñāṇa) là trí-tuệ có khả năng hóa thân khác theo mong muốn của mình, do năng lực của thiền-định.
Như trường hợp Đức-Phật Gotama thuyết tạng Vi- Diệu-Pháp vào hạ thứ bảy tại cung trời Tam-thập-tam- thiên suốt ba tháng hạ. Mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Đức-Phật hóa thân khác như Đức-Phật tiếp tục thuyết pháp, còn chính Đức-Phật thật đi khất thực ở Bắc-câu- lưu-châu. Khi độ ngọ xong, Đức-Phật trở lại cung trời thay thế Đức-Phật hóa thân ấy.
7- Thiên-nhĩ-minh (Dibbasotañāṇa) là trí-tuệ có khả năng nghe được mọi thứ tiếng người, tiếng súc-sinh, tiếng chư-thiên gần xa, do năng lực thiền-định, như tai của chư-thiên, phạm-thiên.
8- Đa-dạng-minh (Iddhividhañāṇa) là trí-tuệ có khả năng biến hóa nhiều phép-thần-thông khác nhau, do năng lực thiền-định, như một người hóa thành nhiều người, tàng hình không ai thấy, hiện hình nơi khác, đi xuyên qua núi, đi trên hư không, …
15 Đức hạnh cao thượng
1- Giới đức: Hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh.
2- Giữ gìn lục-căn thanh-tịnh: Giữ gìn thận trọng khi mắt thấy, khi tai nghe, khi mũi ngửi, khi lưỡi nếm, khi thân tiếp xúc, khi tâm suy nghĩ hoàn toàn thanh-tịnh.
3- Biết tri-túc trong vật thực: Nhận vật thực vừa đủ, khi thọ thực đàng hoàng, còn 4 - 5 miếng nữa đủ no, biết ngừng lại để dành uống nước, không dùng quá no.
4- Tinh-tấn tỉnh-thức: Ngày, đêm tinh-tấn hành phận- sự, nghĩa là suốt ngày không ngủ, ban đêm nằm nghỉ ngủ trong tư thế nằm nghiêng bên phải, có trí-nhớ, trí- tuệ trước khi ngủ, sẽ thức dậy đúng theo thời gian ấn định, … gọi là tinh-tấn luôn luôn tỉnh thức.
5- Đức-tin: Có đức-tin không lay chuyển.
6- Trí nhớ: Thường có trí nhớ.
7- Hổ-thẹn: Biết hổ-thẹn tội-lỗi, không làm mọi ác-nghiệp.
8- Ghê-sợ: Biết ghê-sợ tội-lỗi, không làm mọi ác-nghiệp.
9- Đa-văn túc-trí: Học nhiều hiểu rộng tất cả các pháp.
10- Tinh-tấn: Có tâm tinh-tấn không ngừng nghỉ.
11- Trí-tuệ: Có trí-tuệ hiểu biết rõ tất cả các pháp.
12- Đệ-nhất-thiền: Có đệ-nhất-thiền sắc-giới và vô- sắc-giới.
13- Đệ-nhị-thiền: Có đệ-nhị-thiền sắc-giới và vô-sắc-giới.
14- Đệ-tam-thiền: Có đệ-tam-thiền sắc-giới và vô- sắc-giới.
15- Đệ-tứ-thiền: Có đệ-tứ-thiền sắc-giới và vô-sắc-giới.
Đó là 15 Đức hạnh cao thượng.
Đức-Thế-Tôn có đầy đủ trọn vẹn tam-minh, bát-minh và 15 đức-hạnh cao thượng hợp với đại-bi-tâm, tế độ chúng-sinh hữu duyên nên tế độ để chúng-sinh ấy giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Vijjācaraṇa- sampanno: Ân-đức Minh-Hạnh-Túc.
Niệm Ân-đức Vijjācaraṇasampanno
Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo, niệm“ân-đức Vijjācaraṇasampanno” này, sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí- tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế-Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Vijjācaraṇasampanno như sau:
Câu ân-đức Vijjācaraṇasampanno rằng: “Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇasampanno, ... Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇasampanno, … Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇa- sampanno, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ ân-đức Vijjācaraṇasampanno rằng: “Vijjācaraṇasampanno, ... Vijjācaraṇasampanno, ... Vijjācaraṇasampanno, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Vijjācaraṇasampanno này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định- tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm.
(Phần còn lại giống như ân-đức Arahaṃ.)

4- Ân-đức Phật-Bảo thứ tư: Sugato

Itipi so Bhagavā Sugato.
(Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Xú-gá-tô)

Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh.
- Sugato: Do đó, Đức-Thế-Tôn có Ân-đức Thiện Ngôn.

Sugato có 4 ý nghĩa
- Thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh.
- Ngự theo chánh-đạo.
- Ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.
- Ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí.

Giải thích:
1- Sugato có ý nghĩa thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh như thế nào?
Đức-Thế-Tôn tùy thời thuyết pháp chân-lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh, nếu không đem lại sự lợi ích thì Đức-Thế-Tôn không thuyết pháp. Đức-Thế- Tôn biết rõ 6 trường hợp, trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng như sau:
- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan-hỷ. Đức-Phật không thuyết giảng pháp ấy.
- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan- hỷ. Đức-Phật vẫn không thuyết giảng pháp ấy.
- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan- hỷ. Đức-Phật vẫn không thuyết giảng pháp ấy.
- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan- hỷ. Đức-Phật không thuyết giảng pháp ấy.
- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan-hỷ. Đức- Phật biết rõ tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.
- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan-hỷ. Đức-Phật biết rõ tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh.

2- Sugato có ý nghĩa ngự theo chánh-đạo như thế nào?
Đức-Thế-Tôn ngự (hành) theo chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là:
* Chánh-kiến: Trí-tuệ chân-chánh là trí-tuệ thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
* Chánh-tư-duy: Tư-duy chân-chánh là:
- Tư-duy thoát khỏi ngũ-dục.
- Tư-duy không thù oán.
- Tư-duy không hại chúng-sinh.

* Chánh-ngữ: Lời nói chân-chánh là:
- Không nói-dối.
- Không nói lời đâm thọc chia rẽ.
- Không nói lời thô tục.
- Không nói lời vô ích.

* Chánh-nghiệp: Hành nghiệp chân-chánh là:
- Không sát-sinh.
- Không trộm-cắp.
- Không tà-dâm.

* Chánh-mạng: Nuôi mạng chân-chánh là không sống theo tà-mạng do thân hành ác, khẩu nói ác.
* Chánh-tinh-tấn: Tinh-tấn chân-chánh đó là:
- Tinh-tấn ngăn ác-pháp chưa sinh, không cho sinh.
- Tinh-tấn diệt ác-pháp đã sinh.
- Tinh-tấn làm cho thiện-pháp chưa sinh, được sinh.
- Tinh-tấn làm cho tăng trưởng thiện-pháp đã sinh.

* Chánh-niệm: Niệm chân-chánh là:
- Niệm thân, thân là đối-tượng của chánh-niệm…
- Niệm thọ, thọ là đối-tượng của chánh-niệm…
- Niệm tâm, tâm là đối-tượng của chánh-niệm…
- Niệm pháp, pháp là đối-tượng của chánh-niệm…

* Chánh-định: Định chân-chánh là định-tâm trong các bậc thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn làm đối-tượng:
- Định trong đệ-nhất-thiền siêu-tam-giới.
- Định trong đệ-nhị-thiền siêu-tam-giới.
- Định trong đệ-tam-thiền siêu-tam-giới.
- Định trong đệ-tứ-thiền siêu-tam-giới.
- Định trong đệ-ngũ-thiền siêu-tam-giới.

Chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này đồng sinh trong Thánh-đạo-tâm, Thánh-quả-tâm, có Niết-bàn làm đối-tượng.
Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Sugato với ý nghĩa ngự theo chánh-đạo.

3- Sugato có ý nghĩa ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối như thế nào?


Đức-Thế-Tôn là Bậc đầu tiên chứng ngộ Niết-bàn bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đó là: 4 Thánh-đạo- tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ, nên Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.
Về sau, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ các hàng đệ- tử cũng chứng ngộ Niết-bàn cũng bằng Thánh-đạo-tuệ, Thánh-quả-tuệ, nhưng những bậc Thánh thanh-văn đệ- tử này không có ân-đức Sugato như Đức-Thế-Tôn, vì không phải bậc đầu tiên chứng ngộ Niết-bàn.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn mới có ân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối mà thôi.

4- Sugato có ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí như thế nào?

Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sumedha, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Lần đầu tiên, Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sumedha được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp nữa, sẽ trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.
Từ đó, Đức-Bồ-tát trở thành Đức-Bồ-tát cố-định tiếp tục thực hành cho đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, suốt khoảng thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất một cách bất thoái chí.
Đến kiếp chót, Đức-Bồ-tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng, đi xuất gia đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí.
Ân-đức Sugato có 4 ý nghĩa tóm tắt này, đặc biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa ân-đức Sugato là Đức-Thế-Tôn thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh

Niệm ân-đức Sugato

Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo, niệm “ân-đức Sugato” này, sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí-tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế- Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Sugato như sau:
Câu ân-đức Sugato rằng: “Itipi so Bhagavā Sugato, ... Itipi so Bhagavā Sugato, … Itipi so Bhagavā Sugato, ...” làm đối-tượng thiền-định.

Hoặc danh từ ân-đức Sugato rằng: “Sugato, ... Sugato, ... Sugato, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Sugato này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm.
(Phần còn lại giống như ân-đức Arahaṃ.)

5- Ân-đức Phật-Bảo thứ năm: Lokavidū

Itipi so Bhagavā Lokavidū.
(Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Lô-ká-ví-đu)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi-giới chúng-sinh, tổng các pháp-hành.
- Lokavidū: Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thông- Suốt Tam-Tổng-Pháp.
* Loka là các pháp có sự sinh, sự diệt, sự thành, sự hoại, … ngũ-uẩn của mình gọi là loka.
Tam-tổng-pháp có 3 loại
1- Tổng các loài chúng-sinh (sattaloka).
2- Tổng các cõi-giới chúng-sinh (okāsaloka).
3- Tổng các pháp-hành (saṅkhāraloka).
Đức-Thế-Tôn có 2 loại trí-tuệ đặc biệt mà Chư Phật Độc-Giác và bậc Thánh thanh-văn
không có là:
- Indriyaparopariyattañāṇa
: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ căn duyên cao thấp của mỗi chúng-sinh.
- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phiền-não ngấm ngầm, thiện-nghiệp, ác-nghiệp của mỗi chúng-sinh.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có khả năng đặc biệt thông suốt tam-tổng-pháp.

1- Thế nào gọi là tổng các loài chúng-sinh?

Chúng-sinh thế giới có nhiều loại.
Về nơi sinh có 4 loại
- Thai-sinh: Chúng-sinh sinh từ bụng mẹ như loài người, voi, ngựa, trâu, bò, …
- Noãn-sinh: Chúng-sinh sinh từ trứng như gà, vịt, chim,..
- Thấp-sinh: Chúng-sinh sinh từ nơi ẩm thấp như con dòi, con giun,…
- Hóa-sinh: Chúng-sinh sinh hiện hữu ngay tức thì như chư-thiên, phạm-thiên, loài ngạ-quỷ, a-su-ra, chúng-sinh địa-ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này.
Về uẩn có 3 loại
- Chúng-sinh có ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn) trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới.
- Chúng-sinh có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn, không có sắc-uẩn) trong 4 cõi vô-sắc-giới.
- Chúng-sinh có nhất-uẩn là sắc-uẩn (không có 4 danh-uẩn) trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên.

Đức-Thế-Tôn biết rõ tất cả mọi loài chúng-sinh có căn duyên cao hoặc thấp, có phiền-não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, có bản tánh riêng của mỗi chúng-sinh, có nguyện vọng cao quý hoặc thấp hèn, có 5 pháp-chủ (indriya) tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ già dặn hoặc còn non nớt.
Chúng-sinh có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong kiếp hiện-tại, hoặc kiếp vị-lai sẽ chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật Độc- Giác, hoặc bậc Thánh thanh-văn-giác, ...
Chúng-sinh không có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong kiếp hiện-tại bởi do nguyên nhân nào. Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ thông suốt tất cả các loài chúng-sinh không còn dư sót.

2- Thế nào gọi là tổng các cõi-giới chúng-sinh ?


Cõi-giới là nơi tạm trú của tất cả các loài chúng-sinh hiện-hữu, tùy theo thiện-nghiệp, ác-nghiệp cho quả và hỗ trợ chúng-sinh.
Tam-Giới
Tam-giới là 3 cõi-giới, nơi sinh của các loài chúng- sinh gồm có 31 cõi như sau: dục-giới có 11 cõi, sắc-giới có 16 cõi, vô-sắc-giới có 4 cõi.
11 Cõi Dục-giới
* 4 cõi ác-giới

- Cõi địa-ngục: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.
- Cõi a-su-ra: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.
- ngạ-quỷ: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.
- LLooààii súc-sinh: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

* 7 cõi thiện dục-giới
- Cõi người: Con người có tuổi thọ không nhất định.
- Cõi Tứ-đại-thiên-vương: Chư-thiên có tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm cõi người).
- Cõi Tam-thập-tam-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người).
- Cõi Dạ-ma-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi người).
- Cõi Đâu-suất-đà-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).
- Cõi Hóa-lạc-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng 2 tỷ 304 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm cõi người).
- Cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng 9 tỷ 216 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).
16 Cõi sắc-giới Phạm-thiên
Đối với hành-giả chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm
* Đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm có 3 cõi
- Cõi Phạm-chúng-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ kiếp trụ (14).
- Cõi Phạm-phụ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1/2 a- tăng-kỳ kiếp trụ.
- Cõi Đại-phạm-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1 a- tăng-kỳ kiếp trụ.

* Đệ nhị và đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm có 3 cõi
- Cõi Thiểu-quang-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 2 đại-kiếp (15).
- Cõi Vô-lượng-quang-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 4 đại-kiếp.
- Cõi Quang-âm-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 8 đại-kiếp.
* Đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm có 3 cõi
- Cõi Thiểu-tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 16 đại-kiếp.
- Cõi Vô-lượng-tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 32 đại-kiếp.
- Cõi Biến-tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 64 đại-kiếp.
* Đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm có 7 cõi
- Cõi Quảng-quả-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 500 đại-kiếp.
- Cõi Vô-tưởng-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 500 đại-kiếp.
- Cõi Tịnh-cư-thiên: Có 5 cõi dành riêng cho Phạm-thiên bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm tùy theo năng lực của 5 pháp-chủ:
1- Cõi Vô-phiền-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1.000 đại-kiếp (do năng lực của tín pháp-chủ).
2- Cõi Vô-nhiệt-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 2.000 đại-kiếp (do năng lực của tấn pháp-chủ).
3- Cõi Thiện-hiện-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 4.000 đại-kiếp (do năng lực của niệm pháp-chủ).
4- Cõi Thiện-kiến-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 8.000 đại-kiếp (do năng lực của định pháp-chủ).
5- Cõi Sắc-cứu-cánh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 16.000 đại-kiếp (do năng lực của tuệ pháp-chủ).
4 Cõi vô-sắc-giới Phạm-thiên
- Không-vô-biên-xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 20.000 đại-kiếp.
- Thức-vô-biên-xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 40.000 đại-kiếp.
- Vô-sở-hữu-xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 60.000 đại-kiếp.
- Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp.
- 1 tam-giới gồm có 31 cõi.
- 1 tiểu-thế-giới có 31.000 cõi.
- 1 trung-thế-giới gồm có 31 triệu cõi.
- 1 đại-thế-giới gồm có 31 triệu triệu cõi (31.000 tỷ cõi).
Đức-Thế-Tôn không những thông suốt 31.000 tỷ cõi- giới chúng-sinh mà còn thông suốt vô số cõi-giới (anantacakkavāḷa).

3- Thế nào gọi là tổng các pháp-hành?


Tổng các pháp-hành là ngũ-uẩn do nhân-duyên cấu tạo, nên có sự sinh, sự diệt. Tổng các loài chúng-sinh và tổng các cõi-giới chúng-sinh thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), còn tổng các pháp-hành thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Đức-Thế-Tôn thông suốt tổng các pháp-hành có nhiều loại như sau:
- Pháp-hành có 1 pháp: tất cả chúng-sinh được tồn tại do nhờ nhân (āhāra).
- Pháp-hành có 2 pháp: danh-pháp và sắc-pháp.
- Pháp-hành có 3 thọ: thọ khổ, thọ lạc, thọ xả.
- Pháp-hành có 4 pháp: vật thực, xúc, tác-ý, tâm.
- Pháp-hành có 5 uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn.
- Pháp-hành có 6 xứ bên trong: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; và có 6 xứ bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, v.v…
Đức-Thế-Tôn thông suốt vô số pháp-hành, bắt nguồn từ ngũ-uẩn của Đức-Thế-Tôn.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Lokavidū: Đức- Thông-Suốt Tam-Tổng-Pháp.

Niệm ân-đức Lokavidū

Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo, niệm“ân-đức Lokavidū” này, sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí-tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế- Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Lokavidū như sau:
Câu ân-đức Lokavidū rằng: “Itipi so Bhagavā Lokavidū, … Itipi so Bhagavā Lokavidū, … Itipi so Bhagavā Lokavidū, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ ân-đức Lokavidū rằng: “Lokavidū, … Lokavidū, ... Lokavidū, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Lokavidū này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm.
(Phần còn lại giống như ân-đức Arahaṃ.)

6- Ân-đức Phật-Bảo thứ sáu: Anuttaro purisadammasārathi

Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi.
(Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Á-nút-tá-rô pú-rí-xá-đăm-má- xa-rá-thí)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.
- Anuttaro purisadammasārathi: Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Vô-Thượng Giáo-Hóa chúng-sinh.
Giáo hóa người ác trở thành bậc Thánh-nhân
Kẻ cướp sát nhân cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ, có biệt danh Aṅgulimāla. Y có võ nghệ cao cường, sống một mình ở trong rừng, từng đoàn người 20 - 30 người đi qua khu rừng ấy, không một ai thoát chết.
Một hôm, Đức-Thế-Tôn một mình đi vào rừng, nơi ẩn náu của Aṅgulimāla, để giáo hóa y. Y thức tỉnh, từ bỏ sát nhân, xin xuất gia trở thành tỳ-khưu nơi Đức-Phật.
Về sau không lâu, tỳ-khưu Aṅgulimāla thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
Giáo hóa dạ xoa ác trở thành bậc Thánh-nhân
Tích Dạ-xoa Āḷavaka ăn thịt người rất hung ác, tàn bạo, có nhiều phép mầu cực kỳ nguy hiểm.
Một hôm, biết Dạ-xoa Āḷavaka đi vắng, Đức-Thế-Tôn ngự đến ngồi trên bảo tọa trong lâu đài của y. Nghe tin Đức-Thế-Tôn ngự trên bảo tọa của y, Dạ-xoa Āḷavaka nổi cơn giận dữ, vô cùng bực tức, liền trở về ngay. Y dùng mọi phép mầu cực kỳ nguy hiểm để xua đuổi Đức- Thế-Tôn bước xuống bảo tọa, rời khỏi cung điện của y ngay tức khắc, nhưng y hoàn toàn bất lực, không xua đuổi Đức-Thế-Tôn được.
Cuối cùng, có một bài kệ khó mà y quên câu giải đáp, y đã hỏi nhiều Sa-môn, Bà-la-môn mà không một ai có thể giải đáp đúng, để làm cho y hài lòng.
Nay, y đem bài kệ ấy đặt điều kiện, nếu Đức-Thế-Tôn không giải đáp đúng thì phải rời khỏi lâu đài của y ngay.
Đức-Thế-Tôn ngự đến cốt để giải đáp bài kệ ấy, và tế độ Dạ-xoa Āḷavaka. Cho nên, sau khi Dạ-xoa Āḷavaka hỏi câu kệ xong, Đức-Thế-Tôn giải đáp đúng ý nghĩa sâu sắc của câu kệ ấy làm cho Dạ-xoa Āḷavaka vô cùng hoan- hỷ, ngay khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, có đức-tin trong sạch và không lay chuyển trong Phật-giáo.
Giáo hóa phạm-thiên tà-kiến trở thành chánh-kiến
Phạm-thiên Baka ở tầng trời sắc-giới Quang-âm- thiên phát sinh thường-kiến mê lầm. Đức-Thế-Tôn từ ngôi chùa Jetavana xuất hiện lên cõi trời sắc-giới để tế độ phạm-thiên Baka từ bỏ tà kiến trở lại chánh-kiến, …
Giáo hóa loài súc-sinh
Đức-Thế-Tôn giáo hóa các loài súc-sinh như rồng chúa Apalāla, rồng chúa Cūḷodara, rồng chúa Mahodara, … trở thành rồng hiền lành.
Voi chúa Nālāgiri rất hung dữ, trong cơn say, nó chạy đến để hại Đức-Thế-Tôn, Ngài rải tâm từ đến voi chúa, ngay tức khắc voi chúa tỉnh lại, bò đến quỳ mọp xuống hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn, Ngài giáo hóa voi chúa hung dữ này trở thành voi hiền lành, biết quy-y Tam- bảo, thọ trì ngũ-giới.
Kể từ đó về sau, voi chúa rất hiền lành dễ thương,
Đức-Thế-Tôn đặt tên là voi chúa Dhanapāla (16), …
Đức-Thế-Tôn giáo hóa tế độ chúng-sinh hữu duyên nên tế độ, nghĩa là những chúng-sinh ấy tiền-kiếp có liên quan với Đức-Phật, hoặc tiền-kiếp đã từng gieo duyên lành nơi Chư Phật trong quá-khứ, hoặc đã từng tạo ba- la-mật, gieo phước duyên trong giáo-pháp của Chư Phật quá-khứ ấy.
Nay kiếp hiện-tại, có phước duyên được Đức-Thế-Tôn quan tâm đến, để giáo hóa tế độ chúng-sinh ấy.
Đức-Thế-Tôn giáo hóa những chúng-sinh mà không có một ai có thể giáo hóa tế độ được, không có một vị nào có thể sánh được với Đức-Phật.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Anuttaro purisa-dammasārathi: Đức-Vô-Thượng Giáo-Hóa chúng-sinh.
* Riêng ân-đức Phật-bảo Anuttaro purisadam- masārathi: Trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo, phần giảng dạy Ân-đức Phật-bảo, Ân-đức Anuttaro purisadammasārathi này phân chia làm 2 ân-đức riêng biệt.
- Anuttaro: Đức Vô-Thượng.
- Purisadammasārathi: Đức Giáo-Hóa chúng-sinh.


Giải thích:


1- Ân-đức Anuttaro: Đức Vô-Thượng như thế nào?
Đức-Thế-Tôn có giới-đức trong sạch thanh-tịnh, không một ai trong toàn tam-giới bằng Ngài. Cũng như vậy,
- Có định-đức trong sạch thanh-tịnh ...
- Có tuệ-đức trong sạch thanh-tịnh ...
- Có giải-thoát-đức trong sạch thanh-tịnh ...
- Có giải-thoát-tri-kiến-đức trong sạch thanh-tịnh không một ai trong toàn tam-giới bằng Đức-Phật.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Anuttaro: Đức Vô-Thượng.

2- Ân-đức Purisadammasārathi: Đức Giáo-Hóa chúng- sinh như thế nào?
Đức-Thế-Tôn giáo hóa các loài chúng-sinh có duyên lành, mà không có một ai trong toàn cõi-giới chúng-sinh có khả năng giáo hóa tế độ chúng-sinh như Đức-Phật.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Purisadammasārathi: Đức Giáo-Hóa chúng-sinh.
Niệm ân-đức Anuttaro Purisadammasārathi
Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo, niệm “ân-đức Anuttaro purisadamma- sārathi” này sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế- Tôn, có trí-tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế-Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Anuttaro purisadammasārathi như sau:
Câu ân-đức Anuttaro purisadammasārathi rằng: “Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ Ân-đức Anuttaro purisadammasārathi rằng: “Anuttaro purisadammasārathi, ...” làm đối-tượng- thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Anuttaro purisadammasārathi này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm.
(Phần còn lại giống như Ân-đức Arahaṃ.)

7- Ân-đức Phật-Bảo thứ bảy: Satthā devamanussānaṃ

Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ.
(Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Xặt-tha Đê-voá-má- nút-xa-năng)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc Thầy của nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên, …
- Satthā devamanussānaṃ: Do đó Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thiên-Nhân-Sư.

Sự lợi ích an-lạc kiếp hiện-tại
Đức-Thế-Tôn giáo huấn chúng-sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại(17).
4 pháp là:
- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, công việc.
- Biết giữ gìn của cải tài sản.
- Có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện-trí.
- Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình.

Giải thích:


1- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc như thế nào?
Trong cuộc sống mỗi người nên chọn cho mình một nghề nghiệp lương thiện (18), không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn cả người. Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp ấy, trong công việc ấy, có trí-tuệ hiểu biết chuyên môn trong nghề nghiệp để tạo ra nhiều của cải tài sản cho mình.

2- Biết giữ gìn của cải tài sản như thế nào?
Của cải tài sản được tạo ra do đức tính siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc một cách hợp pháp. Người ấy nghĩ rằng: “Ta nên giữ gìn cẩn thận những của cải tài sản này, tránh không để lửa cháy, nước ngập lụt cuốn trôi, bọn trộm cướp chiếm đoạt, … giữ gìn của cải tài sản không bị hư mất.”

3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện-trí như thế nào?
Muốn được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài, cần phải sống gần gũi, thân cận với bậc thiện-trí, làm bạn thân thiết, để học hỏi những thiện-pháp, ác-pháp, để biết thiện-pháp nên hành, ác-pháp nên tránh xa, để noi gương tốt của bậc thiện-trí.
Bậc thiện-trí là người có đức-tin chân-chánh, có giới- hạnh đầy đủ trọn vẹn, là bậc đa-văn túc-trí, học nhiều hiểu rộng, có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết các pháp, là bậc thường hoan-hỷ trong sự bố-thí.
Nhờ gần gũi, thân cận bạn lành bạn tốt là bậc thiện- trí, nên mình mới có cơ hội học hỏi, để có đức-tin trong sạch, có giới-hạnh, có trí-tuệ hiểu biết các pháp, hoan-hỷ trong sự bố-thí. Và học hỏi hiểu biết nhân làm cho phát triển của cải và nhân làm của cải tiêu hao (19).

4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình như thế nào?
Biết sử dụng của cải có chừng mực trong cuộc sống:
- Không nên phung phí của cải quá mức.
- Không nên hà tiện quá mức.
Nên nghĩ rằng: “Phần thu của ta hơn phần chi, hoặc phần chi của ta kém hơn phần thu.”
Trong cuộc sống, nếu phần thu tiền bạc của cải nhiều hơn mức phần chi thì tiền bạc của cải còn có phần dư dật, để dành lúc bệnh hoạn ốm đau, lúc tuổi già, sức yếu không thể tạo ra của cải được, nhờ có của cải tiền bạc dư dật thì cuộc sống mới được an-lạc.

Ngược lại, nếu phần chi tiền bạc, của cải nhiều hơn mức phần thu, thì tiền bạc, của cải bị thiếu thốn, nên cuộc sống lâm vào cảnh túng thiếu khổ cực. Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình là lúc nào cũng “phần thu hơn phần chi”.
Đó là 4 pháp thực hành đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại.
Sự lợi ích an-lạc những kiếp vị-lai
Đức-Thế-Tôn giáo huấn chúng-sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc những kiếp vị-lai.
4 pháp là:
- Có đức-tin trọn vẹn.
- Có giới-hạnh trong sạch và trọn vẹn.
- Có sự bố-thí trọn vẹn.
- Có trí-tuệ trọn vẹn.

Giải thích:

1- Có đức-tin trọn vẹn như thế nào?
Các hàng thanh-văn đệ-tử có đức-tin trong sạch nơi 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng- bảo; có đức-tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.
Có đức-tin trong sạch nơi 9 ân-đức Phật-bảo rằng:
“Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 9 ân-đức là:
- Đức A-ra-hán xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên.
- Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh.
- Đức Minh-hạnh-túc trọn đủ tam-minh, bát-minh và 15 đức-hạnh cao thượng,
- Đức Thiện-ngôn giáo huấn sự thật chân-lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh.
- Đức Thông-suốt Tam-tổng-pháp.
- Đức Vô-thượng Giáo-hóa chúng-sinh.
- Đức Thiên-nhân-sư.
- Đức-Phật tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên, rồi giáo huấn chúng-sinh có phước duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, …
- Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh, do thực hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật.”
Và có đức-tin trong sạch nơi 6 ân-đức Pháp-bảo, nơi 9 ân-đức Tăng-bảo.
Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử có đức-tin hoàn toàn nơi nghiệp và quả của nghiệp rằng: “Thiện-nghiệp cho quả an-lạc, ác-nghiệp cho quả khổ.”
Ngoài nghiệp ra, không tin một ai có khả năng cho quả an-lạc hoặc cho quả khổ cho mình.

2- Có giới trong sạch và trọn vẹn như thế nào?
Các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia hoặc hàng tại gia cư-sĩ, là người có giới-hạnh trong sạch và trọn vẹn theo phẩm hạnh của mình.
- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có ngũ-giới, hoặc bát- giới, … trong sạch và trọn vẹn.
- Bậc Sa-di có 10 Sa-di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp- hành phạt, 75 điều học, 14 pháp-hành, … trong sạch và trọn vẹn.
- Bậc Tỳ-khưu có 227 giới, 14 pháp-hành, giới kể đầy đủ có 91.805.036.000 điều-giới trong sạch.

3- Sự bố-thí trọn vẹn như thế nào?
Các hàng thanh-văn đệ-tử có tâm từ, tâm bi tế độ, hoan-hỷ trong sự bố-thí tùy theo khả năng của mình, có tác-ý thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ trước khi bố-thí, hoan-hỷ đang khi bố-thí, hoan-hỷ sau khi đã bố-thí xong.
Các hàng thanh-văn đệ-tử không nên có tâm bủn xỉn, keo kiệt trong của cải và sự hiểu biết của mình, có ít thì bố-thí ít, có nhiều thì bố-thí nhiều tùy theo khả năng, tùy theo người thọ-thí.
Người thí-chủ nên có sự suy tư đúng đắn rằng: “Được làm phước-thiện bố-thí là một cơ hội tốt cho mình, bởi vì của cải, tiền bạc là quả của phước-thiện bố-thí, không chắc là của riêng mình. Nếu ta biết sử dụng của cải ấy đem làm phước-thiện bố-thí thì chính phước-thiện ấy chắc chắn thuộc của riêng mình, sẽ cho quả báu an-lạc trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp vị-lai, có tính bền vững lâu dài.
Hơn nữa, cơ hội thuận lợi làm phước-thiện bố-thí chỉ có con người ở cõi Nam-thiện-bộ-châu (trái đất chúng ta đang sống) này mà thôi. Các chúng-sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước-thiện bố-thí. Vì vậy, chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội bố-thí.”

4- Có trí-tuệ trọn vẹn như thế nào?
Mỗi khi các hàng thanh-văn đệ-tử tạo mọi phước- thiện như bố-thí, giữ-giới, hành thiền với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ thì gọi là có trí-tuệ trọn vẹn.
Thật ra, có trí-tuệ trọn vẹn là có trí-tuệ-thiền-tuệ trong tam-giới thấy rõ, biết rõ, sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái- chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế và tiếp theo có trí-tuệ- thiền-tuệ siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ đồng sinh trong 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn làm đối-tượng. Hành-giả trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Đó là 4 pháp thực hành sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho kiếp hiện-tại, lẫn nhiều kiếp vị-lai.

Sự lợi ích an-lạc cao thượng Niết-bàn
Đức-Thế-Tôn có 2 loại trí-tuệ đặc biệt:
* Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ căn duyên cao thấp của mỗi chúng-sinh.
* Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phiền-não ngủ ngầm của mỗi chúng-sinh.
Hai loại trí-tuệ đặc biệt này chỉ có nơi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mà thôi, còn các bậc Thánh thanh- văn hoàn toàn không thể có 2 loại trí-tuệ này. Cho nên, mỗi khi Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ các chúng-sinh nào, Ngài suy xét căn duyên của các chúng-sinh ấy.
Chúng-sinh nào đã từng tạo ba-la-mật nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ, đã từng được Chư Phật ở quá- khứ thọ ký rồi.
Nay kiếp hiện-tại này đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết pháp giáo huấn hợp với căn duyên của các chúng-sinh ấy.
Sau khi lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết pháp xong, chắc chắn các chúng-sinh ấy liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi chứng đắc như sau:
- Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
- Có số chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
- Có số chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
- Có số chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Để trở thành mỗi bậc Thánh-nhân là hoàn toàn tùy thuộc vào sự đầy đủ của các pháp-hạnh ba-la-mật và nhất là 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi bậc Thánh-nhân đã tích lũy từ những kiếp quá-khứ và kiếp hiện-tại này.
Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ chúng-sinh không những nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài, mà còn có loài súc-sinh cũng được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài nữa.
Như tích Maṇḍūkadevaputta (20) (Chư-thiên ếch), được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự đến bờ hồ Gaggarā thuyết pháp tế độ dân chúng Campā. Một con ếch nhảy lên bờ hồ, nằm nghe giọng phạm-âm của
Đức-Thế-Tôn, với đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn.
Khi ấy, một người chăn bò đứng đằng sau đang lắng nghe pháp, tay cầm cây nhọn vô ý cắm xuống đất đụng phải đầu con ếch đang nằm lắng nghe giọng phạm-âm của Đức- Thế-Tôn với đức-tin trong sạch, con ếch chết ngay khi ấy.
Sau khi chết, do đại-thiện-nghiệp ấy cho quả liền hóa- sinh làm thiên-nam ở cõi Tam-thập-tam-thiên trong một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có chư-thiên-nữ hầu hạ. Vị thiên-nam suy xét: “Ta từ đâu đến hóa-sinh làm thiên-nam ở cõi Tam-thập-tam-thiên này?”
Vị thiên-nam nhớ lại tiền-kiếp mình là loài ếch, sống dưới hồ Gaggarā, lên bờ nằm lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp với đức-tin trong sạch, kiếp ếch ấy chết rồi, nhờ đại-thiện-nghiệp ấy cho quả được hóa-sinh làm thiên- nam ở cõi trời này.
Thấy rõ Đức-Thế-Tôn đang còn thuyết pháp tại gần bờ hồ Gaggarā, vị thiên-nam ếch quyết định hiện xuống hầu Đức-Phật, còn đem theo lâu đài bằng vàng cùng các thiên-nữ, có hào quang sáng ngời, đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn. Đức-Thế-Tôn biết rõ, nhưng muốn cho các hàng thanh-văn đệ-tử thấy rõ quả báu nghe pháp, nên Đức-Thế-Tôn hỏi:
“Ko me vandāti padāni, iddhiyā yasasā jalaṃ.
Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā.”
- Này thiên-nam! Ngươi là ai đến đây?
Có thân hình đẹp hào quang sáng ngời,
Tỏa ra mọi hướng, có nhiều oai lực,
Các thiên-nữ xinh đẹp theo hầu hạ,
Đảnh lễ dưới bàn chân của Như-Lai.
Chư-thiên ếch bạch rằng:
“Maṇḍūko’ haṃ pure asiṃ, udake vārigocaro.
Tava dhammaṃ suṇantassa, avadhi vacchapālako…”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,
Con tên là thiên-nam Măn-đu-ká,
Mới kiếp trước đây là con ếch nhỏ,
Sinh ra và sống ở tại hồ này,
Con nhảy lên đang nghe pháp của Ngài,
Người chăn bò đứng nghe pháp vô ý,
Cắm cây gậy đụng đầu, làm con chết.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,
Trong khoảnh khắc nghe pháp với đức-tin,
Nơi giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn.
Sau khi con chết, nhờ thiện-nghiệp ấy,
Cho quả hóa-sinh được làm thiên-nam.
Như Ngài nhìn thấy thân hình con đẹp,
Có hào quang sáng ngời tỏa muôn phương,
Có nhiều oai lực, hưởng mọi an-lạc,
Các thiên-nữ xinh đẹp hầu hạ con.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,
Chúng-sinh nào có duyên lành nghe pháp,
Chúng-sinh ấy được chứng ngộ chân-lý,
Chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Được giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Sau đó, Đức-Thế-Tôn xem xét thấy các hàng thanh- văn đệ-tử có đức-tin trong sạch, nên Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ vị thiên-nam Maṇḍuka cùng với 84.000 chúng-sinh gồm có nhân-loại và chư-thiên đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, …
Vị thiên-nam Maṇḍuka cùng chư-thiên-nữ cung kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức-Tăng xin phép trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Đức-Thế-Tôn không những dạy dỗ các bậc xuất-gia, các hàng tại gia những pháp-hành, để chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn an-lạc tuyệt đối, mà còn dạy dỗ những pháp-hành, để đem lại sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai, tùy theo căn duyên của mỗi chúng-sinh.
Đức-Phật truyền dạy hàng tại gia phải biết chọn cho mình nghề nghiệp lương thiện, biết cách sử dụng của cải, biết nuôi mạng chân-chánh để đem lại sự an-lạc trong kiếp sống hiện-tại.
Đức-Phật truyền dạy các bậc xuất-gia: Sa-di, Tỳ- khưu, chỉ dẫn từng li, từng tí, như là mặc y, đi khất thực, thọ dụng vật thực đàng hoàng, chỗ ở sạch sẽ, dùng thuốc khi bệnh hoạn ốm đau, thậm chí còn chỉ dạy khi tiểu tiện, đại tiện, ... Đức-Thế-Tôn dạy dỗ các hàng thanh- văn đệ-tử từ việc nhỏ cho đến việc lớn giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Satthā deva- manussānaṃ: Đức Thiên-nhân-sư.

Niệm ân-đức Satthā Devamanussānaṃ
Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo, niệm “ân-đức Satthā devamanussānaṃ” này sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí-tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế-Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Satthā devamanussānaṃ như sau:
Câu ân-đức Satthā devamanussānaṃ rằng: “Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ, ... Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ, ... Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ ân-đức Satthā devamanussānaṃ rằng: “Satthā devamanussānaṃ, ... Satthā devamanussānaṃ ... Satthā devamanussānaṃ, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Satthā devamanussānaṃ này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm.
(Phần còn lại giống như ân-đức Arahaṃ.)

8- Ân-đức Phật-Bảo thứ tám: Buddho

Itipi so Bhagavā Buddho.
(Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Bút-thô)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị; rồi Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có phước duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật; chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và nhất là 5 pháp-chủ (tín pháp- chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ) của mỗi chúng-sinh.
Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Buddho: Đức-Phật.


Ân-đức “Sammāsambuddho” và ân-đức “Buddho” khác nhau như thế nào?

1- Ân-đức Sammāsambuddho nghĩa là tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, nên Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sammāsambuddho.
* Ân-đức Sammāsambuddho có 2 loại trí-tuệ đặc biệt là:
- Trí-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên.
- Trí-tuệ-thành (paṭivedhañāṇa).
2- Ân-đức Buddho nghĩa là không chỉ tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, Đức-Phật còn thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức- Phật, rồi chứng đắc như sau:
- Có số chúng-sinh chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
- Có số chúng-sinh chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
- Có số chúng-sinh chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất- lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
- Có số chúng-sinh chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A- ra-hán.

Chúng-sinh trở thành Thánh-nhân bậc nào do năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật, và nhất là 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi chúng-sinh ấy.

* Ân-đức Buddho có 2 loại trí-tuệ đặc biệt là:
- Trí-tuệ của Bậc Toàn-Giác (Sabbaññutañāṇa).
- Trí-tuệ giáo hóa chúng-sinh (desanāñāṇa).
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các loại trí-tuệ:
- 4 loại trí-tuệ phân-tích (paṭisambhidāñāṇa).
- 6 loại trí-tuệ cá biệt (asādhāraṇañāṇa).
- 10 loại trí-tuệ lực (dasabalañāṇa), ...
Đức-Thế-Tôn có tất cả các loại trí-tuệ này cùng lúc với A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả.

Niệm ân-đức Buddho
Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo niệm “ân-đức Buddho” này sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí-tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế- Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai họa, phước-thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Phật- bảo, niệm ân-đức Buddho như sau:
Câu ân-đức Buddho rằng: “Itipi so Bhagavā Buddho, … Itipi so Bhagavā Buddho, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ ân-đức Buddho rằng: “Buddho, ... Buddho, ... Buddho, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Buddho này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm.
(Phần còn lại giống như ân-đức Arahaṃ.)

9- Ân-đức Phật-Bảo thứ chín: Bhagavā

Itipi so Bhagavā Bhagavā.
(
Cách đọc: Í-tí-pí xô Phá-gá-voa Phá-gá-voa)
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.
- Itipi: Do Ngài là Bậc có 6 Ân-đức đặc biệt do thực hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Ngài.
- Bhagavā: Do đó Ngài có Ân-đức Đức-Thế-Tôn.


Ân-đức Bhagavā:
Ân-đức Đức-Thế-Tôn thật vô cùng cao thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Ân-đức Bhagavā này không phải do Phụ-vương, Mẫu-hậu của Ngài tôn vinh, cũng không phải do chư-thiên, chư phạm- thiên nào suy tôn Ngài. Sự thật, Ân-đức Bhagavā này là kết quả của một quá trình tiến triển thực hành 30 pháp- hạnh ba-la-mật trải qua ba thời kỳ của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác.
Trường hợp Đức-Phật Gotama trong thời đại chúng ta thuộc về Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt. Cho nên, những tiền-kiếp của Đức-Phật GotamaĐức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, nghĩa là trí-tuệ có nhiều năng lực hơn đức-tin và tinh-tấn. Đức-Bồ-Tát, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đã thực hành và tích lũy đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật trải qua ba thời-kỳ.

1- Thời-kỳ đầu: Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt đã phát nguyện trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, để tế độ, cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân- hồi trong ba giới bốn loài, rồi Đức-Bồ-Tát có trí-tuệ siêu-việt thực hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt thời gian khoảng 7 a-tăng-kỳ (21).
2- Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt đã phát nguyện bằng lời nói để cho chúng-sinh nghe biết ý nguyện muốn trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai, để tế độ chúng- sinh, rồi Đức-Bồ-tát tiếp tục thực hành các pháp-hạnh ba-la-mật thêm suốt 9 a-tăng-kỳ nữa.
Qua hai thời-kỳ này vẫn còn là Đức-Bồ-Tát bất-định (aniyatabodhisatta), nghĩa là Đức-Bồ-Tát có thể thay đổi ý nguyện chỉ muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác hoặc bậc Thánh thanh-văn-giác.
Nếu Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt vẫn giữ nguyên ý nguyện rồi tiếp tục thực hành các pháp-hạnh Ba-la-mật dẫn đến thời-kỳ cuối.
3- Thời-kỳ cuối: Sau khi đã trải qua hai thời-kỳ (phát nguyện trong tâm và bằng lời), Đức-Bồ-Tát có trí-tuệ siêu-việt có đầy đủ năng lực mạnh, có thiện-tâm bất thoái chí, Đức-Bồ-Tát ấy có duyên lành đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Như trường hợp vị Đạo-sĩ Sumedha, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đến hầu Đức-Phật Dīpaṅkara. Với Phật-nhãn thấu suốt vị-lai, Đức-Phật Dīpaṅkara biết rõ ý nguyện của Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha sẽ được thành tựu như ý, nên Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký vị Đạo-sĩSumedha rằng:
Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất (22) nữa, Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”
Sau khi được Đức-Phật Dīpaṅkara đầu tiên thọ ký, xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất, Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, chính thức trở thành Đức-Bồ- Tát cố-định (niyatabodhisatta) bất thoái chí, tiếp tục thực hành, bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba- la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, trải qua vô số kiếp tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Từ đó về sau, mỗi khi có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, thì Đức-Bồ-Tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đều đến hầu đảnh lễ Đức-Phật ấy và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại.
Trong khoảng thời gian ấy, 24 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-Tát tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama đã được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký đầu tiên cho đến Đức-Phật Kassapa thứ 24 thọ ký cuối cùng.
* Đức-Bồ-Tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực hành và tích lũy đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật.
Đến kiếp chót, Đức-Bồ-tát sinh làm Thái-tử Siddhattha của Đức-vua Suddhodana.
* Năm 16 tuổi, Thái-tử Siddhattha lên ngôi làm vua.
* Năm 29 tuổi, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha bỏ ngôi vua, trốn ra khỏi kinh-thành Kapilavatthu, đi xuất gia.
* Năm 35 tuổi, Đức-Bồ-tát Siddhattha chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng sinh gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā, vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), tròn đúng 35 tuổi.
Cho nên, Đức-Phật Gotamaân-đức Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

Ân-đức Bhagavā: Đức-Thế-Tôn
có 6 ân-đức chính: Issariya, Dhamma, Yasa, Siri, Kāma, Payatta.

1- Thế nào gọi Issariya: Tự chủ?

Đức-Thế-Tôn có tâm tự chủ trong các pháp tam-giới và pháp siêu-tam-giới.
- Tâm tự chủ trong pháp tam-giới: Đức-Thế-Tôn hóa phép thần-thông song hành (yamakapaṭihāriya), có 2 luồng nước và lửa phát xuất từ kim thân của Đức-Phật: một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên trái, rồi thay đổi, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên trái; cũng như vậy đến 2 mắt, 2 lỗ tai, …
- Tâm tự chủ trong pháp siêu-tam-giới: Đức-Phật thuyết pháp xong, các hàng thanh-văn đệ-tử đồng thanh nói lên lời hoan-hỷ “Sādhu! Sādhu!”, trong thời gian khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Đức-Thế-Tôn có thể nhập A- ra-hán Thánh-quả để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.
Do đó, gọi là Issariya: Tự chủ.

2- Thế nào gọi là Dhamma: Chánh-pháp?

Đức-Thế-Tôn đã chứng đắc 9 pháp siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, diệt tận tất cả 1.500 loại phiền- não, 108 loại tham-ái, và tất cả mọi tiền-khiên-tật đã tích lũy từ vô lượng kiếp quá-khứ.
Do đó, gọi là Dhamma: Chánh-pháp.

3- Thế nào gọi là Yasa: Tiếng tốt lành?

Ân-đức của Đức-Thế-Tôn được lan truyền khắp tất cả mọi cõi chúng-sinh, khắp mọi nơi, từ cõi người cho đến cõi Long-Vương, đến chư-thiên ở 6 cõi trời dục-giới, đến chư phạm-thiên ở 15 cõi trời sắc-giới (trừ cõi Vô- tưởng-thiên). Và thậm chí ngay cả chư phạm-thiên ở cõi vô-sắc-giới cũng niệm tưởng đến ân-đức Phật-bảo.
Do đó, gọi là Yasa: Tiếng tốt lành.

4- Thế nào gọi là Siri: Hạnh phúc?
Kim thân của Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 32 tướng tốt
của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có hào quang mát mẻ phát ra từ kim thân của Đức-Thế-Tôn, nên nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên đến hầu đảnh lễ cúng dường đến Đức-Thế-Tôn, lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc an-lạc, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những chúng-sinh đến hầu Đức-Thế-Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa đủ.
Do đó, gọi là Siri: Hạnh phúc.

5- Thế nào gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu?
Đức-Thế-Tôn
khi còn là Đức-Bồ-Tát Sumedha có nguyện ước rằng:
“Buddho bodheyyaṃ”: Như-Lai tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi sẽ giáo hóa chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc thành bậc Thánh-nhân (tự giác - giác tha). Điều ước nguyện ấy đã thành tựu.
“Mutto moceyyaṃ”: Như-Lai tự mình giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, rồi sẽ giáo huấn chúng-sinh cũng được giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài (tự độ - độ tha). Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.
“Tinno tareyyaṃ”: Như-Lai tự mình vượt qua biển khổ luân-hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc, rồi sẽ dẫn dắt chúng-sinh cũng vượt qua biển khổ luân-hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc (tự đáo - đáo tha). Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.
Do đó, gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu.

6- Thế nào gọi là Payatta: Tinh-tấn không ngừng?
Hằng ngày Đức-Thế-Tôn có sự tinh-tấn không ngừng thực hành Buddhakicca (23): 5 phận sự của Đức-Phật.

5 phận sự của Đức-Phật
- Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ (purebhattakicca).
- Phận sự sau khi độ ngọ (pacchābhattakicca).
- Phận sự canh đầu đêm (paṭhamayāma).
- Phận sự canh giữa đêm (majjhimayāma).
- Phận sự canh chót đêm (pacchimayāma).

Giải thích

6.1- Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ như thế nào?
Mỗi buổi sáng đến giờ đi khất thực, khi thì Đức-Phật ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng-sinh nào đó, khi thì Đức-Phật ngự cùng với chư tỳ-khưu-Tăng đi vào xóm làng, kinh-thành để khất thực. Khi Đức-Phật thọ thực xong, số dân chúng thỉnh Đức-Phật thuyết pháp, số xin thọ phép quy-y Tam-bảo, số xin Đức-Phật cho phép xuất gia, rồi Đức-Phật ngự trở về chùa.

6.2- Phận sự sau khi độ ngọ như thế nào?
Khi ngự trở về chùa, Đức-Phật rửa chân xong, đứng trên tấm đá, khuyên dạy chư tỳ-khưu rằng:
“Bhikkhave appamādena sampādetha,
Dullabho Buddhuppādo lokasmiṃ,
Dullabho manussattapaṭilābho,
Dullabhā khaṇasampatti,
Dullabhā pabbajjā,
Dullabhaṃ saddhammassavanaṃ.”
- Này chư tỳ-khưu! Các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không dể duôi (không thất niệm), thực hành pháp-hành tứ niệm-xứ.
* Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó.
* Được sinh làm người là một điều khó.
* Có được cơ hội thực hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó.
* Được xuất gia trở thành tỳ-khưu là một điều khó.
* Được nghe chánh-pháp là một điều khó.”
Đó là những điều khó mà Đức-Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư tỳ-khưu chớ nên dể duôi (thất niệm).
Sau khi khuyên dạy xong, Đức-Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi, còn chư tỳ-khưu mỗi vị ở một nơi để thực hành pháp-hành thiền-định, hoặc thực hành pháp-hành thiền-tuệ.

6.3- Phận sự canh đầu đêm như thế nào?
Đức-Phật giáo huấn chư tỳ-khưu, có số tỳ-khưu hỏi pháp, luật; có số tỳ-khưu xin thọ pháp-hành thiền-định, xin thọ pháp-hành thiền-tuệ; có số tỳ-khưu nghe Đức- Phật thuyết pháp. Qua hết canh đầu, chư tỳ-khưu đảnh lễ Đức-Phật trở về chỗ ở của mình.

6.4- Phận sự canh giữa đêm như thế nào?
Đức-Phật cho phép chư-thiên, phạm-thiên trong 10.000 thế giới đến hầu Đức-Phật, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi pháp. Đức-Phật giảng giải những câu hỏi của chư-thiên, phạm-thiên xong, hết canh giữa, chư-thiên, phạm-thiên đảnh lễ Đức-Phật trở về cảnh giới của mình.

6.5- Phận sự canh chót đêm như thế nào?
Đức-Phật phân chia canh chót làm 3 thời:
- Thời gian đầu: Đức-Phật đi kinh hành.
- Thời gian giữa: Đức-Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác, định giờ tỉnh dậy.
- Thời gian chót: Đức-Phật nhập thiền đại-bi, khi xả thiền, Đức-Phật xem xét chúng-sinh trong 10.000 cõi giới bằng Phật-nhãn, xem xét chúng-sinh nào đã từng gieo duyên lành với Đức-Phật, hoặc đã từng thực hành các pháp-hành ba-la-mật từ Chư Phật quá khứ đến kiếp hiện-tại này, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, chúng- sinh ấy dù ở gần, dù ở xa, trong cõi người này hay cõi giới khác, Đức-Phật vẫn ngự đến nơi để tế độ chúng- sinh ấy.
Mỗi ngày, mỗi đêm Đức-Thế-Tôn thực hành đầy đủ 5 phận sự ròng rã suốt 45 năm, cho đến giây phút cuối cùng tịch diệt Niết-bàn.
Ân-đức Bhagavā còn có nhiều ý nghĩa khác. Đức-Thế- Tôn là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các pháp của bậc Tôn-Sư.
Cho nên, Đức-Phật Gotama ân-đức Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

Niệm ân-Đức Bhagavā

Các hàng thanh-văn đệ-tử thường niệm tưởng đến ân- đức Phật-bảo, niệm “ân-đức Bhagavā” này sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, có trí-tuệ sáng suốt phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức-Thế- Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi tai họa, phước- thiện được tăng trưởng.
Hành-giả thực hành niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Bhagavā như sau:
Câu ân-đức Bhagavā rằng: “Itipi so Bhagavā Bhagavā, ... Itipi so Bhagavā Bhagavā, ... Itipi so Bhagavā Bhagavā, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Hoặc danh từ ân-đức Bhagavā rằng: “Bhagavā, ...Bhagavā, ... Bhagavā, ...” làm đối-tượng thiền-định.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, niệm ân-đức Bhagavā này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không thể chứng đạt đến an- định (appanāsamādhi), do đó không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn trong dục-giới thiện-tâm, có dục-giới thiện-nghiệp.
Do năng lực dục-giới thiện-nghiệp thực hành niệm ân-đức Phật-bảo này sẽ cho quả như sau:
- Kiếp hiện-tại: Hành-giả là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, mọi phước-thiện được tăng trưởng, tránh được khỏi mọi tai họa, thân tâm thường được an-lạc.
- Kiếp vị-lai: Sau khi hành-giả chết, nếu đại-thiện- nghiệp này cho quả tái-sinh làm người, sẽ là người có đầy đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) cao quý, được nhiều người quý mến kính trọng.
Nếu tái-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời nào trong 6 cõi trời dục-giới, sẽ là một chư-thiên có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời, hưởng sự an- lạc cao quý đến hết tuổi thọ trong cõi trời ấy.
Dục-giới thiện-nghiệp này có thể cho quả tốt lành suốt nhiều kiếp, đặc biệt còn làm duyên lành dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn trong thời vị-lai nào đó.

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo (Buddhānussati)
9 ân-đức Phật-bảo là đối-tượng của đề-mục niệm- niệm ân-đức Phật-bảo. Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là 1 trong 10 đề-mục niệm-niệm (anussati) cũng là 1 trong 40 đề-mục thiền-định.
Muốn thực hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật- bảo, trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi cho hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo kỹ càng từng các chi-pháp về phần pháp-học.

Phần pháp-hành, trước khi thực hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-đức Phật-bảo, hành-giả nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo.
- Nếu là cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ thì nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo ngũ-giới hoặc bát giới, cửu giới, ...
- Nếu là vị Sa-di thì nên xin thọ phép quy-y Tam-bảoSa-di thập giới với vị Thầy tế độ hoặc với một vị Trưởng-lão.
- Nếu là vị tỳ-khưu thì nên xin sám hối āpatti với một vị tỳ-khưu khác.
Như vậy, hành-giả là người có giới thuộc về phần pháp-hành giới làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, thực hành pháp-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo.

Phương pháp niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo

9 ân-đức này chỉ có nơi Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác mà thôi. Ngoài Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác ra, không có Đức-Phật Độc-Giác, một Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, chư phạm-thiên nào có đầy đủ 9 ân-đức này. Vì vậy, gọi là 9 ân-đức Phật-bảo.
Chư Phật trong quá-khứ, Đức-Phật trong hiện-tại, Chư Phật trong vị-lai đều có đầy đủ 9 ân-đức này.
Để dễ liên tưởng đến 9 ân-đức Phật-bảo, hành-giả nên ngồi trước tượng Đức-Phật hoặc trước ngôi Bảo- tháp nơi tôn thờ Xá-lợi của Đức-Phật, hoặc tại cội Đại- Bồ-đề nơi Đức-Bồ-Tát chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc một nơi thanh vắng, để thuận lợi thực hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo. Niệm 9 ân-đức Phật-bảo có nhiều cách:

- Cách thứ nhất (phổ thông): Niệm trọn vẹn 9 ân-đức Phật-bảo.

Hành-giả thực hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo như sau:
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā” ...
Hành-giả thực hành tâm niệm đến ân-đức Phật-bảo nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi-pháp của ân-đức Phật- bảo ấy, định-tâm theo dõi mỗi ân-đức Phật-bảo như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo.

- Cách thứ nhì: Niệm một câu ân-đức Phật-bảo.

Hành-giả có thể chọn một câu ân-đức Phật-bảo nào trong 9 ân-đức Phật-bảo làm đối-tượng, để thực hành niệm-niệm ân-đức Phật-bảo ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi-pháp của ân-đức Phật-bảo ấy, luôn luôn định-tâm nơi ân-đức Phật-bảo ấy.
Ví dụ: Niệm ân-đức Phật-bảo thứ nhất Itipi so Bhagavā Arahaṃ, ... Itipi so Bhagavā Arahaṃ, ...
Hoặc: Niệm ân-đức Phật-bảo thứ tám Itipi so Bhagavā Buddho, ... Itipi so Bhagavā Buddho, ...
Hoặc: Niệm ân-đức Phật-bảo thứ chín Itipi so Bhagavā Bhagavā, ... Itipi so Bhagavā Bhagavā, ...
Hành-giả thực hành tâm niệm câu ân-đức Phật-bảo, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa chi-pháp của ân-đức Phật- bảo ấy, định-tâm theo dõi ân-đức Phật-bảo ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực hành niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo.

- Cách thứ ba: Niệm một danh từ ân-đức Phật-bảo.

Hành-giả có thể chọn một danh từ ân-đức Phật-bảo nào trong 9 ân-đức Phật-bảo làm đối-tượng, để thực hành niệm ân-đức Phật-bảo ấy. Nên hiểu rõ ý nghĩa và chi-pháp của danh từ ân-đức Phật-bảo ấy, luôn luôn định-tâm nơi ân-đức Phật-bảo ấy.
Ví dụ: Niệm-niệm Arahaṃ, ... Arahaṃ, ... Arahaṃ, ...
Hoặc: Niệm-niệm Buddho, ... Buddho, ... Buddho, ...
Hoặc: Niệm-niệm Bhagavā,… Bhagavā, ... Bhagavā,...
Hành-giả thực hành tâm niệm danh từ ân-đức Phật- bảo, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi-pháp của ân-đức Phật-bảo ấy, định-tâm theo dõi ân-đức Phật-bảo ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực hành niệm-niệm ân-đức Phật-bảo ấy, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo.
Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là một đề-mục thiền-định dễ làm cho phát sinh đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà đức- tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.
Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo đề-mục thiền- định vô cùng vi-tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được. Vì vậy, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo này chỉ có khả năng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanā- samādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.
Cho nên, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới thiện- tâm.

* Tuy nhiên, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo này không chỉ là đối-tượng của pháp-hành thiền-định có khả năng đạt đến cận-định (upacārasamādhi), mà tâm cận-định còn là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, diệt tận tham-ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn được nữa. Như Đức-Phật dạy:
- Này chư tỳ-khưu! Có một pháp-hành mà hành-giả đã thực hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh- pháp tam-giới; để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền-não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của sắc-pháp, danh- pháp tam-giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Pháp-hành ấy là pháp-hành nào?
- Pháp-hành ấy là Buddhānussati: Pháp-hành niệm- niệm 9 ân-đức Phật-bảo.
- Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo mà hành-giả đã thực hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền- não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của sắc-pháp, danh-pháp tam- giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn (24).

Qua lời giáo huấn trên của Đức-Phật, thì đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo không chỉ là đề-mục thiền-định, mà còn làm nền tảng để thực hành pháp- hành thiền-tuệ nữa. Cho nên, đề-mục niệm-niệm 9 ân- đức Phật-bảo có 2 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật- bảo thuộc về pháp-hành thiền-định mà hành-giả thực hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo có khả năng dẫn đến cận-định (upacārasamādhi) (phương-pháp đã trình bày).
- Giai đoạn sau: Sau khi hành-giả đã thực hành đề- mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo đã đạt đến cận-định, nếu hành-giả tiếp tục thực hành pháp-hành thiền-tuệ thì cần phải có ngũ-uẩn hoặc sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, làm đối-tượng thiền-tuệ.

Pháp-Hành Thiền-Tuệ

Hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ cần phải có đối-tượng thân, thọ, tâm, pháp trong pháp-hành tứ niệm-xứ (thân niệm-xứ, thọ niệm-xứ, tâm niệm-xứ, pháp niệm-xứ), hoặc sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, đều thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) làm đối-tượng thiền-tuệ.
Tâm cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo làm nền tảng, làm đối-tượng, để thực hành pháp-hành thiền-tuệ như thế nào?
Đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì không có hành-giả thực hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo mà chỉ có dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự thực hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo đạt đến cận- định mà thôi.

* Phân tích theo ngũ-uẩn
- Tâm cận-định này đó là dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ, thuộc về thức-uẩn.
- Thọ tâm-sở
đồng sinh với dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc về thọ-uẩn.
- Tưởng tâm-sở
đồng sinh với dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc về tưởng-uẩn.
- Các tâm-sở còn lại
đồng sinh với dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc về hành-uẩn.
- Hadayavatthurūpa: Sắc-pháp là nơi nương nhờ của dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc về sắc uẩn.
Ngũ-uẩn
này thuộc về phần pháp niệm-xứ trong pháp-hành tứ niệm-xứ.
Như vậy, ngũ-uẩn này là 1 trong 5 đối-tượng trong phần pháp niệm-xứ của pháp-hành tứ niệm-xứ, hoặc ngũ-uẩn, hoặc sắc-pháp, danh-pháp tam-giới này cũng là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.

* Phân tích theo danh-pháp, sắc-pháp
- Tâm cận-định này thuộc về phần tâm niệm-xứ trong pháp-hành tứ niệm-xứ, và tâm cận-định là 1 trong 16 loại tâm trong phần tâm niệm-xứ của pháp-hành tứ niệm-xứ.
Tâm cận-định này đó là đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ thuộc về danh-pháp cũng là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
- Tâm cận-định này nương nhờ nơi hadayavatthu- rūpa thuộc về sắc-pháp cũng là đối-tượng của pháp- hành thiền-tuệ.
Như vậy, tâm cận-định này là 1 trong 16 loại tâm trong phần tâm niệm-xứ, hoặc tâm cận-định này đó là dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ thuộc về danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
Hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh- niệm, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của danh-pháp tam-giới, sắc-pháp; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn hoặc danh-pháp tam-giới, sắc-pháp; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của ngũ-uẩn, hoặc danh-pháp tam-giới, sắc-pháp; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Cho nên, tâm cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân- đức Phật-bảo làm nền tảng, làm đối-tượng thiền-tuệ, để thực hành pháp-hành thiền-tuệ như Đức-Phật dạy:
- Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo mà hành-giả đã thực hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ- uẩn, sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền-não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô- ngã) của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.”

Quả báu đặc biệt niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo

Hành-giả thực hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, trong kiếp hiện-tại nếu chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, chưa trở thành bậc Thánh-nhân thì hành-giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp vị-lai như sau:
- Được phần đông chúng-sinh kính trọng.
- Có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội.
- Sau khi chết, đại-thiện-nghiệp này cho quả tái-sinh làm người cao quý hoặc chư-thiên cao quý.
- Tái-sinh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng-sinh cao quý.
- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
- Thân có mùi thơm tỏa ra.
- Miệng có mùi thơm tỏa ra.
- Có trí-tuệ nhiều.
- Có trí-tuệ sâu sắc.
- Có trí-tuệ sắc bén.
- Có trí-tuệ nhanh nhẹn.
- Có trí-tuệ phong phú.
- Có trí-tuệ phi thường.
- Nói lời hay có lợi ích, …
- Kiếp vị-lai có duyên lành gặp Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, ...

Đó là những quả báu phát sinh từ thực hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức-Phật.

Nhận xét về đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo


Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là một đề-mục thiền-định chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo. Hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo này dễ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo.
Đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo có tầm quan trọng làm nền tảng cho tất cả mọi thiện-pháp được phát triển từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến Siêu-tam-giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.

Ban đầu có đức-tin, sau càng vững chắc

Có số người, ban đầu nghe đến danh hiệu Buddho: Đức-Phật, liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức- Phật, phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ.

* Như trường hợp ông phú hộ Anāthapiṇḍika (25): Khi nghe ông phú hộ kinh-thành Rājagaha nói đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật”, ông phú hộ Anāthapiṇḍika liền phát sinh thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, muốn đến hầu đảnh lễ Đức-Phật ngay, nhưng ban đêm không phải thời, ông chờ đợi đến sáng.
Trong lúc nằm ông niệm tưởng đến “Buddho: Đức- Phật” nên đại-thiện-tâm phát sinh ánh sáng, ông tưởng gần sáng, liền thức dậy, ông đến hầu đảnh lễ Đức-Phật vào canh chót đêm ấy. Đức-Phật thuyết pháp tế độ ông phú hộ, ông lắng nghe chánh-pháp liền chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập- lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

* Trường hợp Đức-vua Mahākappina (26) cùng với 1.000 quan cận thần, khi gặp nhóm người lái buôn từ kinh-thành Sāvatthī, Đức-vua truyền hỏi nhóm lái buôn ấy ở kinh-thành Sāvatthī có tin lành gì không ?

Nhóm lái buôn tâu lên Đức-vua rằng:
- Buddho uppanno: Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian. Đức-vua lắng nghe danh hiệu “Buddho: Đức- Phật” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có.
- Dhammo uppanno: Đức-Pháp đã xuất hiện trên thế gian. Đức-vua lắng nghe danh hiệu “Dhammo: Đức- Pháp” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có.
- Saṃgho uppanno: Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian. Đức-vua lắng nghe danh hiệu “Saṃgho: Đức- Tăng” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có.
Đức-vua Mahākappina ban thưởng cho nhóm lái buôn mỗi tin lành 100 ngàn kahāpaṇa, 3 tin lành gồm có 300 ngàn kahāpaṇa (một số tiền rất lớn của thời ấy), được ghi trên tấm thẻ, rồi trao cho nhóm lái buôn, truyền bảo rằng:
- Này các ngươi! Các ngươi hãy đem tấm thẻ này đến trình với Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā, để lĩnh thưởng 300 ngàn kahāpaṇa.
Đức-vua Mahākappina không chịu hồi cung, mà từ đó Đức-vua ngự đến hầu Đức-Phật cùng 1.000 quan cận thần.
Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, Đức-vua cùng 1.000 quan cận thần liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 quan cận thần kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu, rồi chứng đắc từ Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh- quả, Niết-bàn, cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng tứ tuệ-phân-tích, lục-thông tại nơi ấy, v.v…

Ban đầu không có đức-tin, sau phát sinh đức-tin

Có số người ban đầu nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh ác-tâm, muốn tìm đến tranh tài, đấu trí với Đức-Phật.

* Như trường hợp ông Bà-la-môn Bhāradvāja (27) đến tìm Đức-Phật để tranh tài đấu trí. Nhưng sau khi ông lắng nghe, hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật, mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, kính xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Tỳ-khưu Bhāradvāja tinh-tấn thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

* Trường hợp ông Bà-la-môn Akkosaka (28) nghe tin người anh là Bà-la-môn Bhāradvāja đã xuất gia theo Đức-Phật, ông Bà-la-môn Akkosaka nổi cơn giận dữ, tìm đến gặp Đức-Phật, chửi mắng, hăm dọa Đức-Phật. Nhưng sau khi ông lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật, mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, kính xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Tỳ-khưu Akkosaka tinh-tấn thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

* Trường hợp kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla (29) nhìn thấy Đức-Phật liền đuổi theo để giết Đức-Phật, đến khi kiệt sức đứng lại, y bảo Đức-Phật hãy dừng lại, nhưng Đức-Phật không dừng mà vẫn bước đi khoan thai, Đức- Phật đáp rằng:
- Này Aṅgulimāla! Như-lai đã dừng lâu rồi. Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.
Nghe Đức-Phật vừa đi vừa truyền dạy như vậy, Aṅgulimāla vô cùng ngạc nhiên, rồi suy nghĩ rằng:
Sa-môn dòng Sakya thường nói sự-thật, làm như thế nào, nói như thế ấy, nói như thế nào, làm như thế ấy…
Trong khi Sa-môn đang bước đi mà nói rằng: “Như- lai đã dừng lâu rồi.” Còn ta đã dừng lại rồi thì ông nói rằng: “Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.” Như thế nghĩa là sao!

Aṅgulimāla bèn hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:
- Này ông Sa-môn, sự-thật rõ ràng ông đang bước đi mà lại nói: “Như-lai đã dừng lâu rồi.” Còn tôi đã dừng chân lại rồi nhưng ông lại nói: “Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.” Như vậy, nghĩa là sao?
Đức-Thế-Tôn thuyết giảng Aṅgulimāla rằng:
- Này Aṅgulimāla! Thật vậy, Như-lai đã dừng từ lâu rồi, nghĩa là Như-lai đã từ bỏ sự sát hại chúng-sinh từ lâu rồi. Còn con chưa chịu từ bỏ sự sát hại chúng-sinh. Vì vậy, Như-lai mới nói rằng: “Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.”
Khi lắng nghe Đức-Phật trả lời câu hỏi, y liền thức tỉnh, ném bỏ khí giới, đến hầu đảnh lễ dưới bàn chân của Đức-Phật, rồi xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Về sau, tỳ-khưu Aṅgulimāla thực hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

* Trường hợp Đức-Phật ngự đến lâu đài của Dạ-xoa Āḷavaka (30), ngự trên bảo tọa của y. Nghe tin như vậy, Dạ-xoa Āḷavaka liền nổi cơn giận dữ, trở về dùng mọi phép mầu nguy hiểm để xua đuổi Đức-Phật, nhưng y hoàn toàn bất lực. Cuối cùng y có một câu kệ khó mà từ lâu y quên hẳn câu trả lời, y đem câu kệ ấy đặt điều kiện hỏi Đức-Phật.
Nếu Đức-Phật không giải đáp được thì Đức-Phật phải rời khỏi bảo tọa của y. Đức-Phật đã giải đáp đúng ý nghĩa sâu sắc của câu kệ, làm cho Dạ-xoa Āḷavaka vô cùng hoan-hỷ. Ngay khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Đức- Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, ...

Vậy, do nguyên nhân nào, ban đầu có một số người vừa nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, nghe chánh-pháp trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Ngài?
Và có số người ban đầu vừa nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh tâm sân, bực tức, nhưng sau đó, họ lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật, mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật và trở thành bậc Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật?

Nhận xét thấy rằng:
* Nhóm người thứ nhất đặt trọng tâm nơi Đức-Phật, cho nên, khi họ lắng nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức- Phật” liền phát sinh thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, đến hầu đảnh lễ Ngài, lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp tế độ, rồi họ thực hành pháp-hành thiền-tuệ, liền dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Ngài.
* Nhóm người thứ nhì đặt trọng tâm nơi Đức-Pháp, cho nên khi họ lắng nghe hiểu rõ chánh-pháp của Đức- Phật mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Như vậy, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là một đề-mục thiền-định dễ phát sinh đức-tin nơi Đức- Phật. Nếu hành-giả thực hành đề-mục niệm-niệm 9 ân- đức Phật-bảo trở thành thói quen, được tích lũy trong tâm trải qua thời gian lâu dài từ những kiếp quá-khứ, thì nay kiếp hiện-tại này, khi nghe danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh thiện-tâm hỷ lạc, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật.
Nếu kiếp hiện-tại, hành-giả thường tinh-tấn thực- hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo thì cũng dễ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ có đức-tin nơi Đức-Phật, mọi thiện-pháp được phát triển và tăng trưởng tốt, đem lại sự an-lạc cả trong kiếp hiện-tại, lẫn nhiều kiếp trong vị-lai.

Phân tích niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo

Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác có 9 ân-đức, được phân tích ra từng mỗi ân-đức Phật-bảo như sau:
1- Itipi so Bhagavā Arahaṃ.
2- Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho.
3- Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇasampanno.
4- Itipi so Bhagavā Sugato.
5- Itipi so Bhagavā Lokavidū.
6- Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi.
7- Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ.
8- Itipi so Bhagavā Buddho.
9- Itipi so Bhagavā Bhagavā.

Hành-giả niệm chữ nào, hiểu rõ ý nghĩa của mỗi chữ ấy; niệm câu nào, hiểu rõ chi-pháp của câu ấy; và niệm ân-đức Phật-bảo nào, hiểu rõ ý nghĩa và chi-pháp của ân-đức Phật-bảo ấy. Hành-giả chắc chắn sẽ phát sinh đức-tin trong sạch và sâu sắc nơi Tam-bảo.
Đề-mục thiền-định niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo có ý nghĩa vô cùng vi-tế, sâu sắc rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được. Cho nên, đề-mục niệm- niệm 9 ân-đức Phật-bảo này chỉ có khả năng dẫn đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không thể chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), do đó không chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới thiện- tâm, song có một tầm quan trọng rất lớn trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Thật vậy, trong tất cả 40 đề-mục thiền-định đều đạt đến cận-định (upacārasamādhi) cả thảy, chỉ có một số đề-mục thiền-định có khả năng dẫn đạt đến an-định (appanāsamādhi), để chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới mà thôi.
Trong tất cả 40 đề-mục thiền-định ấy, có những đề-mục thiền-định trong Phật-giáo và ngoài Phật-giáo. Song đề- mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, đề-mục niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo, đề-mục niệm tưởng ân-đức Niết-bàn chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.

(Xong phần 9 Ân-đức Phật-bảo.)


(1) Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Dhajaggasutta.
(2) Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta.
(3) 5 pháp-chướng-ngại: Tham-dục, thù-hận, buồn-chán - buồn-ngủ, phóng- tâm - hối-hận, hoài-nghi.
(4) 7 pháp phiền-não ngủ-ngầm trong tâm: Ái-dục ngủ-ngầm, kiếp- ái ngủ-ngầm, sân-hận ngủ-ngầm, ngã-mạn ngủ-ngầm, tà-kiến ngủ- ngầm, hoài- nghi ngủ-ngầm và vô-minh ngủ-ngầm.
(5) Ba giới: Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới.
(6) Bốn loài: Thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh.
(7) Vāsanā: Tiền-khiên-tật này, bậc Thánh Thanh-văn không thể diệt được, Bậc Thánh A-ra-hán chỉ có khả năng diệt tận được 1.500 loại phiền-não và 108 loại tham-ái mà thôi, nhưng không thể diệt được mọi tiền-khiên- tật đã tích lũy từ vô lượng kiếp ở quá-khứ.
(8) Ba giới: Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới.
(9) Bốn loài: Thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh.
(10) Abhidhammapiṭaka, bộ Vibhaṅgapāḷi.
(11) Bhavo: Hữu là sự sinh có 2 loại: Nghiệp-hữu là sự sinh của nghiệp và Cõi- hữu là sự sinh quả của nghiệp đó là sự tái-sinh kiếp sau.
(12) Saṃyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta.
(13) Chư Phật Độc-Giác đã tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán gọi là Đức-Phật Độc-Giác, mà Ngài không thuyết pháp tế độ chúng-sinh khác cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài. Bởi vì, Ngài không chế định được ngôn ngữ để thuyết pháp như Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Còn bậc Thánh thanh-văn, sở dĩ thuyết pháp tế độ chúng-sinh được là do nhờ nghe, học hỏi theo lời giáo huấn của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
(14) Vivaṭṭathāyī asaṅkhyeyyakappa: A-tăng-kỳ kiếp trụ của trái đất.
(15) Đại-kiếp (Mahākappa): Trải qua 4 A-tăng-kỳ thành-trụ-hoại-không của kiếp trái đất.
(16) Tìm hiểu đầy đủ 3 tích: Aṅgulimāla, Āḷavaka, voi chúa Nālāgiri trong quyển: 8 Sự Tích Phật Lực, cùng soạn-giả.
(17) Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipāta, kinh Dīghajāṇusutta.
(18) Tránh 5 nghề: nghề buôn bán vũ khí, nghề buôn bán người và súc vật, nghề buôn bán rượu và các chất say, nghề buôn bán các loại thuốc độc sát hại chúng-sinh, nghề giết gia súc, gia cầm để bán thịt.
(19) Nhân làm cho phát triển của cải: Kết bạn với bậc thiện-trí, không ăn chơi đàng điếm, không uống rượu, không chơi cờ bạc.
Nhân làm cho của cải tiêu hao: Kết bạn với người-ác, ăn chơi đàng điếm, uống rượu, chơi cờ bạc.
(20) Khuddakanikāya, Vimānavatthu, tích Maṇḍūkadevaputta.
(21) A-tăng-kỳ âm từ chữ Asaṅkhyeyya: nghĩa là vô số.
(22) Đại-kiếp trái đất dịch từ danh từ Mahākappa: nghĩa là thời gian kiếp trái đất trải qua 4 a tăng kỳ thành-trụ-hoại-không.
(23) Bộ Chú-giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta …
(24) Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi.
(25) Vinayapiṭaka, bộ Cūḷavagga, Anāthapiṇḍikavatthu.
(26) Dhammapadaṭṭhakathā, paṇḍitavagga, tích Mahākappinattheravatthu.
(27) Samyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhanañjānīsutta.
(28) Samyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Akkosakasutta.
(29) Chú-giải Majjhimapaṇṇāsa, Kinh Aṅgulimālasuttavaṇṇanā.
(30) Khu. Suttanipāta. Kinh Āḷavakasutta.


Mục lục quyển 2 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07


Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10


[Đầu trang][Mục lục tổng quát]