NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN II
QUY-Y TAM-BẢO
(TISARAṆA)


CHƯƠNG IV
QUY-Y TAM BẢO
(TISARAṆA)

Chương III Ân-đức Tam-bảo đã trình bày xong, tiếp theo chương IV Quy-y Tam-bảo như sau:
Quy-y Tam-bảo là:
- Quy-y Đức-Phật-bảo (Buddhasaraṇa).
- Quy-y Đức-Pháp-bảo (Dhammasaraṇa).
- Quy-y Đức-Tăng-bảo (Saṃghasaraṇa).


Phàm là chúng-sinh nói chung, con người nói riêng, sinh ra trong đời, nếu không có nơi nương nhờ, thì đời sống phải chịu nhiều nỗi khổ, cả về phần vật chất lẫn tinh thần.
Nếu người nào có được nơi nương nhờ cao quý thì người ấy hưởng được nhiều sự hạnh phúc an-lạc.
Thật vậy, phần đông những đứa trẻ sinh ra đời được sung sướng, có đầy đủ tiện nghi là do nương nhờ cha mẹ, gia đình bà con thân quyến nuôi dưỡng. Nếu đứa trẻ muốn trở nên người tốt có ích cho mình và cho đời thì cần phải nương nhờ nơi vị thầy có đủ tài đức dạy bảo.
* Để trở thành con người cao thượng thì cần phải nương nhờ nơi cao thượng. Nơi gọi là cao thượng nhất trong tam-giới, trong muôn ngàn thế giới chúng-sinh, thì chỉ có Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà thôi.
Những người nào có phước duyên đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: quy-y nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nơi Đức-Tăng-bảo, những người ấy trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) là 1 trong 4 hàng thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật. Người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ có cơ hội gần gũi thân cận với Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng cao thượng, có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thực hành theo chánh-pháp của Đức-Phật, mới trở nên người cao thượng.
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có 4 hàng thanh-văn đệ- tử là:
1- Bhikkhu: Tỳ-khưu.
2- Bhikkhunī: Tỳ-khưu-ni.
3- Upāsaka: Cận-sự-nam.
4- Upāsikā: Cận-sự-nữ.

* Tỳ-khưu và tỳ-khưu-ni là bậc xuất-gia.
* Người cận-sự-nam và cận-sự-nữ là hàng tại gia.
Trong Phật-giáo này đặc biệt có đầy đủ 4 loại thiện- pháp là dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô- sắc-giới thiện-pháp và siêu-tam-giới thiện-pháp.
Nếu thanh-văn đệ-tử nào có đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, do đã tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ, thì nay kiếp hiện-tại này thanh-văn đệ-tử ấy có duyên may gặp được Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật, thực hành theo chánh-pháp, thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được tham-ái, phiền-não, trở thành Thánh- nhân bậc thấp hoặc bậc cao, tùy theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp- chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi vị thanh-văn đệ-tử ấy.

Người cúng dường đến Đức-Phật đầu tiên

Sau khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama, Ngài an hưởng sự an-lạc giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày, quanh cội Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā (Buddhagayā).
Đức-Phật đang ngự tại gốc cây gọi là Rājāyatana, cách xa cội Đại-Bồ-đề về phía nam khoảng 4 sải tay. Khi ấy, hai anh em lái buôn là Tapussa và Bhallika dẫn 500 cỗ xe bò, chở hàng hóa từ vùng Ukkalā đến buôn bán tại miền Majjhimapadesa (Trung-xứ).
Trên đường có vị thiên-nữ ở cội cây, đã từng là thân mẫu của hai anh em lái buôn trong tiền-kiếp, hiện ra báo tin lành cho hai anh em biết rằng:
- Này hai con! Ta báo tin lành cho hai con biết, Đức- Phật đã xuất hiện không lâu trên thế gian. Đức-Phật đã hưởng an-lạc giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần gồm 49 ngày qua, chưa độ vật thực. Hiện giờ, Đức-Phật đang ngự dưới cội cây gọi là Rājāyatana. Hai con nên đem vật thực đến cung kính cúng dường Đức-Phật. Sự cúng dường ấy sẽ đem lại cho hai con nhiều sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
Khi nghe vị thiên-nữ báo tin lành, hai anh em lái buôn phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ, sẵn có mang theo món vật thực ngon lành, hai anh em đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Ngài mở lòng đại-bi tế độ, thọ nhận món vật thực này của chúng con, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Đức-Phật đã thọ nhận món vật thực của hai anh em lái buôn, bằng cái bát do Tứ-Đại-thiên-vương kính dâng. Đức-Phật đã độ món vật thực của hai anh em lái buôn.
Như vậy, hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika là người đầu tiên dâng lễ cúng dường vật thực đến Đức- Phật Gotama.
* Bà Sujātā kính dâng cúng dường món cơm nấu bằng sữa đến Đức-Bồ-tát Siddhattha vào sáng ngày rằm tháng tư (âm lịch), trước khi Đức-Bồ-tát chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
* Hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika là 2 người đầu tiên dâng lễ cúng dường vật thực đến Đức- Phật Gotama (sau 7 tuần lễ hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn).

Quy-y nhị-bảo đầu tiên


Sau khi Đức-Phật thọ thực xong, Ngài thuyết pháp tế độ hai anh em lái buôn, họ phát sinh đức-tin trong sạch vô cùng hoan-hỷ. Khi ấy, chưa có chư tỳ-khưu-Tăng, nên hai anh em Tapussa và Bhallika kính xin thọ phép quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo và Đức-Pháp-bảo, bạch rằng:
“Ete mayaṃ Bhante, Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma, dhammañca upāsake no Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate.” (1)
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn và xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo.
Kính xin Ngài công nhận chúng con là người cận-sự- nam (upāsika) đã quy-y Nhị-Bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.

Như vậy, hai anh em Tapussa và Bhallika là hai người cận-sự-nam đã quy-y Nhị-bảo (chưa có Đức- Tăng-bảo) đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, gọi là Dvevācikasaraṇagamana.
Khi ấy, hai anh em lái buôn bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài mở lòng đại- bi thương xót chúng con, ban cho chúng con một báu vật, để chúng con hằng ngày luôn luôn tâm niệm, lễ bái cúng dường, làm cho mọi thiện-pháp được tăng trưởng.
Nghe hai anh em lái buôn kính xin như vậy, Đức-Phật Gotama đưa tay phải lên đầu nhổ 8 sợi tóc gọi là “Xá lợi tóc” ban cho hai anh em lái buôn.
Hai anh em vô cùng hoan-hỷ cung kính thỉnh Xá lợi tóc xong, hai anh em lái buôn đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép ra đi.
Sau khi buôn bán hàng hóa xong, hai anh em trở về vùng Ukkalā, đến kinh-thành Pokkharavati xây ngôi Bảo Tháp tôn thờ Xá lợi tóc của Đức-Phật.
Hiện nay, Xá lợi tóc ấy được tôn thờ tại ngôi Bảo Tháp Shwedagon, tại thủ đô Yangon, nước Myanmar.

Tuyên dương cận-sự-nam quy-y đầu tiên

Một thuở nọ, Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthī, tuyên dương hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika rằng:
“Etadaggaṃ Bhikkhave, mama sāvakānaṃ upā- sakānaṃ paṭhamaṃ saraṇaṃ gacchantānaṃ, yadidaṃ Tapussa - Bhallikā vaṇijā.” (2)
- Này chư tỳ-khưu! Trong hàng cận-sự-nam thanh- văn đệ-tử của Như-Lai, hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika là hai cận-sự-nam đã quy-y Nhị Bảo đầu tiên trong giáo-pháp của Như-Lai.


Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại kinh-thành Rājagaha, hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika mang hàng hóa trở lại bán trong kinh-thành Rājagaha. Hai anh em lái buôn đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, lắng nghe Ngài thuyết pháp, người anh Tapussa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. Còn người em Bhallika kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Về sau không lâu, tỳ-khưu Bhallika thực hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục-thông.

Công-tử Yasa xuất gia


Công tử Yasa, con của phú hộ trong thành Bārāṇasī, là một người vinh hoa phú quý, một năm ở trong ba cái lâu đài: bốn tháng mùa lạnh ở một lâu đài, bốn tháng mùa nóng ở một lâu đài, bốn tháng mùa mưa ở một lâu đài, được thụ hưởng đầy đủ 5 đối-tượng ngũ-dục (sắc- dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục) trong đời.
Hằng đêm, các đoàn ca hát, nhảy múa trình diễn cho
công tử Yasa xem vui mắt, vui tai.
Một hôm, khi đang xem trình diễn, công tử Yasa buồn ngủ, nằm ngủ say. Các đoàn ca hát nhìn thấy công tử ngủ say, tất cả họ đều ngưng lại, rồi nằm ngủ mê tại nơi sàn diễn. Khi ấy, những ngọn đèn còn đang cháy sáng, công tử thức dậy nhìn thấy trên sàn diễn, có số nàng nằm sóng sượt, có số nàng ngủ ngáy khò khò, có số nàng miệng chảy đầy nước bọt, v.v, … Công tử Yasa cảm thấy nơi đây như là một bãi tha ma, nghĩa địa đáng kinh hoàng, nên đã phát sinh động tâm (saṃvega), thấy rõ tội- lỗi của ngũ-dục trong đời, nhàm chán ngũ-dục, công tử Yasa tự thốt lên rằng:
“Upaddutaṃ vata Bho! Upassaṭṭhaṃ vata Bho!” (3)
- Chư thiện-trí! Phiền-não thật vô cùng khốn đốn!
- Chư thiện-trí! Phiền-não thật vô cùng nguy khốn!

Công tử Yasa từ bỏ nhà ra đi. Chư-thiên mở cửa để công tử đi ra một cách tự nhiên, không dám làm trở ngại sự xuất gia của công tử. Công tử Yasa đi theo hướng đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana. Khi ấy, Đức- Phật đang ngự tại nơi ấy. Vào canh chót đêm ấy, Đức- Phật ngự đi kinh hành bên ngoài chờ đợi, nhìn thấy công tử Yasa từ xa đi đến, Đức-Phật dừng lại trải tọa cụ ngồi xuống. Khi ấy, công tử Yasa vừa đi vừa thốt lên:
“Upaddutaṃ vata Bho! Upassaṭṭhaṃ vata Bho!”
- Chư thiện trí! Phiền-não thật vô cùng khốn đốn!
- Chư thiện trí! Phiền-não thật vô cùng nguy khốn!

Đức-Thế-Tôn gọi công tử Yasa, truyền dạy rằng:
“Idaṃ kho Yasa anupaddutaṃ, Idaṃ anupassaṭṭhaṃ.
Ehi Yasa nisīda! Dhammaṃ te desessāmi.”
- Này Yasa! Niết-bàn không có khốn đốn! Niết-bàn không có nguy khốn!
- Này Yasa! Con hãy đến ngồi xuống nơi đây, Như- Lai sẽ thuyết pháp tế độ con.
Công tử Yasa lắng nghe tiếng gọi của Đức-Thế-Tôn, và nghe rõ rằng:
“Idaṃ kira anupaddutam, Idaṃ anupassaṭṭham.”
- Niết-bàn này không có khốn đốn!
- Niết-bàn này không có nguy khốn!

Công tử Yasa cảm thấy an tâm, cởi bỏ đôi dép vàng, đi đôi chân trần đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, ngồi lắng nghe Ngài thuyết pháp. Sau khi nghe chánh-pháp, công tử Yasa phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật- tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của sắc-pháp, danh- pháp tam-giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu tại nơi ấy.

Buổi sáng hôm ấy, thân mẫu của công tử Yasa lên lâu đài không nhìn thấy công tử, liền xuống báo tin cho thân phụ của công tử. Ông phú hộ truyền cho mọi người gia nhân đi tìm mọi phương hướng. Riêng ông đi theo hướng đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần đến khu rừng, ông nhìn thấy đôi dép vàng của công tử Yasa cởi bỏ trên đường, nên ông lần đi theo con đường ấy.
Nhìn thấy ông phú hộ từ xa đi đến, Đức-Thế-Tôn sử dụng thần thông che khuất Yasa, chưa để cho ông nhìn thấy Yasa. Ông phú hộ đến hầu Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài có thấy Yasa, người con yêu quý của gia đình con hay không? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này phú hộ! Con hãy ngồi xuống, tại nơi đây con sẽ gặp được Yasa, người con yêu quý của gia đình.
Ông phú hộ nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, cảm thấy an tâm, đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi xuống một nơi hợp lẽ. Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ ông phú hộ bằng các pháp theo tuần tự: bố-thí, giữ giới, thiện-pháp sinh các cõi trời, tội-lỗi của ngũ-dục, quả báu của sự xa lánh ngũ-dục.
Khi biết rõ ông phú hộ có đại-thiện-tâm trong sạch, dễ dạy, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tứ đế: khổ-đế, nhân sinh khổ-đế, diệt khổ-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế. Ông phú hộ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Quy-y Tam-bảo đầu tiên

Ông phú hộ tán dương ca tụng Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo, cung kính bạch rằng:
“Esāhaṃ Bhante, Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.” (4)
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo. Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là cận-sự-nam đã quy-y Tam- bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Ông phú hộ, thân phụ của công tử Yasa, là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, gọi là Tevācikasaraṇagamana.
Khi ngồi lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ thân phụ của mình, công tử Yasa phát sinh trí-tuệ-thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh- pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, tuần tự chứng đắc Nhất-lai Thánh- đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; cho đến A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Đức-Thế-Tôn biết rõ công-tử Yasa không bao giờ trở lại cuộc sống tại gia nữa. Đức-Thế-Tôn xả phép thần thông, nên ông phú hộ nhìn thấy công-tử Yasa cũng đang ngồi tại nơi ấy, rồi bảo rằng:
- Này Yasa con yêu quý! Mẹ của con sầu não khóc than vì không thấy con. Vậy, con nên cứu sinh-mạng của mẹ con.
Khi nghe thân phụ của mình nói như vậy, công-tử Yasa ngẩng mặt lên nhìn Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn biết rõ ông phú hộ, thân phụ của công- tử Yasa, bây giờ là bậc Thánh Nhập-lưu đã quy-y Tam- bảo, đã có đức-tin hoàn toàn trong sạch nơi Tam-bảo, không hề lay chuyển, nên Đức-Thế-Tôn hỏi ông phú hộ với đại ý rằng:
- Này phú hộ! Con nhận thức về điều này như thế nào?
Người nào là bậc Thánh Nhập-lưu đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Niết-bàn giống như con. Bậc Thánh Nhập-lưu ấy đã tiếp tục thực hành pháp-hành thiền-tuệ, đã dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc theo tuần tự Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả, Niết-bàn; cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán.
- Này phú hộ! Vị Thánh A-ra-hán ấy có thể quay trở lại đời sống thấp hèn của người tại gia, thụ hưởng say mê trong ngũ-dục, như đời sống người tại gia trước kia được hay không?
Ông phú hộ bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, điều đó không thể có được.
Bạch Ngài.
- Này ông phú hộ! Yasa người con yêu quý của gia đình là bậc Thánh Nhập-lưu giống như con. Yasa đã tiếp tục thực hành pháp-hành thiền-tuệ, đã dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc theo tuần tự Nhất- lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; cho đến A-ra- hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
- Này phú hộ! Nay Yasa người con yêu quý của gia đình trở thành bậc Thánh A-ra-hán không thể quay trở lại đời sống thấp hèn của người tại gia, thụ hưởng say mê trong ngũ-dục như người tại gia trước kia nữa.
Khi Đức-Phật thuyết giảng cho ông phú hộ hiểu rõ tâm tính của công-tử Yasa bây giờ đã là bậc Thánh A-ra- hán cao thượng, hoàn toàn khác hẳn trước kia là hạng phàm-nhân bình thường.
Lắng nghe Đức-Phật thuyết giảng, ông phú hộ vô cùng hoan-hỷ bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Yasa, người con yêu quý của gia đình có được đại-duyên, đại-phước.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Yasa, người con yêu quý của gia đình có được lợi ích cao thượng. Yasa đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hoàn toàn giải thoát khỏi khổ trầm-luân.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính thỉnh Đức- Thế-Tôn cùng Yasa, ngày mai ngự đến thọ thực tại tư gia của chúng con.
Đức-Thế-Tôn nhận lời bằng cách làm thinh. Ông phú hộ biết Đức-Thế-Tôn đã nhận lời thỉnh mời, ông thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xin phép trở về nhà. Ông thông báo cho gia đình là ông đã gặp Yasa và thỉnh Đức- Phật cùng Yasa ngày hôm sau ngự đến thọ thực tại nhà.
Phụ thân của công-tử Yasa vừa rời khỏi nơi ấy, công- tử Yasa đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch rằng:
“Labheyyāhaṃ Bhante Bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadaṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài cho phép con được xuất gia trở thành sa-di, tỳ-khưu trong giáo- pháp của Ngài.
Xem xét biết rõ nguyện vọng, phước-thiện tiền-kiếp của công-tử Yasa, nên Đức-Thế-Tôn đưa cánh tay phải, chỉ bằng ngón trỏ truyền dạy rằng:
“Ehi bhikkhu! Svākkhato dhammo, cara brahma- cariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”
- Con hãy lại đây! Con trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện, chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, con hãy thực hành phạm-hạnh cao thượng, dẫn đến tận cùng của khổ-đế.
Khi Đức-Thế-Tôn truyền dạy vừa dứt lời, công-tử Yasa liền trở thành một vị tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, do năng lực của phước-thiện phát sinh như thần thông, trong tăng tướng trang nghiêm như một Ngài đại-trưởng-lão có 60 tuổi hạ.
Khi ấy, Đức-Phật có 6 vị Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử đã xuất hiện trên thế gian.

Buổi sáng, Đức-Thế-Tôn mặc y mang bát ngự đi khất thực cùng với Ngài Trưởng-lão Yasa theo sau, đến nhà ông bà phú hộ, là thân phụ thân mẫu của Ngài Trưởng- lãoYasa.
Đức-Thế-Tôn và Ngài Trưởng-lão Yasa ngồi trên chỗ sắp đặt sẵn, ông bà phú hộ và con dâu (bạn đời cũ của công-tử Yasa khi còn tại gia), đến hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ họ bằng các pháp theo tuần tự: bố-thí, giữ giới, pháp sinh các cõi trời, tội-lỗi của ngũ-dục, quả báu của sự xa lánh ngũ-dục. Khi biết hai người nữ có đại-thiện-tâm trong sạch, dễ dạy, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tứ đế: khổ-đế, nhân sinh khổ-đế, diệt khổ-đế, pháp- hành dẫn đến diệt khổ-đế.
Bà phú hộ và con dâu của bà phát sinh trí-tuệ-thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-phá;p tam-giới; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô- ngã) của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Người nữ quy-y Tam-bảo đầu tiên


Hai người nữ tán dương ca tụng Đức-Thế-Tôn, rồi kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng- bảo, cung kính bạch rằng:
“Etā mayaṃ Bhante, Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma, dhammañca bhikkhusaṃghañca upāsikāyo no Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetā saraṇaṃ gatā.”(5)
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy-y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Ngài công nhận chúng con là người cận-sự- nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.
Như vậy, bà phú hộ và con dâu của bà là 2 người cận- sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, gọi là Tevācikasaraṇagamana.
Sau đó, toàn gia đình của Ngài Trưởng-lão Yasa, gồm có ông bà phú hộ và con dâu, kính dâng lễ cúng dường những thứ vật thực ngon lành lên Đức-Thế-Tôn và Ngài Trưởng-lão Yasa.
Sau khi thọ thực xong, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ toàn gia quyến, toàn gia quyến phát sinh đại-thiện tâm trong sạch vô cùng hoan-hỷ trong lời giáo huấn của Đức-Phật.

Đức-Thế-Tôn ngự cùng Ngài Trưởng-lão Yasa trở về.

Thân mẫu của Ngài Trưởng-lão Yasa là ai?

Thân-mẫu của Ngài Trưởng-lão Yasa chính là bà Sujātā, người đã dâng lễ cúng dường món cơm nấu bằng sữa tươi rất công phu đến Đức-Bồ-Tát Siddhattha vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), trước khi Đức-Bồ-tát chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Bà Sujātā khi còn là con gái của ông phú hộ Seniya, vùng Senā, gần khu rừng Uruvelā. Cô Sujātā đã từng đến cội cây da trong khu rừng Uruvelā cầu nguyện với chư-thiên ở cội cây da rằng:
- Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, cùng giai cấp và sinh con trai đầu lòng. Nếu được toại nguyện, thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn chư-thiên.

Thật vậy, khi cô Sujātā trưởng thành được kết duyên với công-tử con ông phú hộ Bārāṇasī và sinh ra công-tử Yasa, đứa con trai đầu lòng, cô Sujātā đã thành tựu như ước nguyện. Cho nên, hằng năm vào buổi sáng ngày rằm tháng tư, cô Sujātā thường đem lễ vật cúng dường tạ ơn chư-thiên.
Vào buổi sáng ngày rằm tháng tư năm ấy, Đức-Bồ- Tát Siddhattha đến ngồi dưới gốc cây da trong khu rừng Uruvelā chờ đến giờ đi khất thực. Khi ấy, nàng Sujātā cùng với cô Puṇṇā đội món cơm nấu bằng sữa tươi rất công phu đến dâng lễ vật cúng dường lên Đức-Bồ-Tát Siddhattha, mà nàng tưởng rằng vị chư-thiên hiện ra thọ nhận lễ vật cúng dường của nàng, nên nàng Sujātā vô cùng hoan-hỷ.
Nay duyên-lành đã đến, công-tử Yasa, đứa con trai đầu lòng của bà Sujātā đã xuất gia trở thành tỳ-khưu, cũng là bậc Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật Gotama.
Đức-Phật ngự cùng với Ngài Trưởng-lão Yasa theo sau đến tư gia của bà Sujātā. Ngài thuyết pháp tế độ bà Sujātā và con dâu của bà đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Sau khi trở thành bậc Thánh Nhập-lưu xong, bà Sujātā và con dâu thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo.

Tuyên dương cận-sự-nữ quy-y Tam-bảo đầu tiên

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn tuyên dương nàng Sujātā là người cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đầu tiên rằng:
“Etadaggaṃ Bhikkhave, mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ paṭhamaṃ saraṇaṃ gacchantīnaṃ yadidaṃ Sujātā (6) Seniyadhitā.”
- Này chư tỳ-khưu! Trong hàng cận-sự-nữ thanh-văn đệ-tử của Như-Lai, Sujātā, con của phú hộ Seniya, là cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đầu tiên trong giáo-pháp của Như-Lai.

Bậc thiện-trí biết rõ Đức-Phật mới quy-y Tam-bảo

Nghe người ta tán dương ca tụng Đức-Phật Gotama, vị Bà-la-môn Brahmāyu truyền bảo người học trò giỏi đi đến hầu xem xét Ngài Sa-môn Gotama, nếu là Đức-Phật thật sự thì chắc chắn Ngài phải có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa) đúng như bộ sách xưa truyền lại.

Kinh Brahmāyusutta
(7) được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn du hành cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, đến một tỉnh lỵ Videha. Khi ấy, vị Bà-la-môn tên Brahmāyu ở nước Mithilā, là một học-giả uyên thâm các bộ sách xưa của giai cấp Bà-la-môn, đặc biệt bộ Lokāyata xem 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa), là vị thầy của các người trai trẻ thuộc về giai cấp Bà-la-môn.
Vị Bà-la-môn Brahmāyu là người tuổi cao tác lớn 120 tuổi, nghe dân chúng tán dương ca tụng rằng:
“Ngài Sa-môn Gotama thuộc dòng dõi Sakya du hành cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng đến tỉnh lỵ Videha, mà ân-đức của Ngài vang dậy khắp mọi nơi rằng:
“Đức-Thế-Tôn là
1- Arahaṃ: Đức A-ra-hán là Bậc cao thượng có thân, khẩu, ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, chư-thiên và phạm-thiên.
2- Sammāsambuddho: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác- pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền- khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Do đó, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.
3- Vijjācaraṇasampanno: Đức Minh-Hạnh-Túc là Bậc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh và 15 Đức-hạnh cao thượng.
4- Sugato: Đức Thiện-Ngôn là Bậc thuyết pháp chân- lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh.


5- Lokavidū: Đức Thông-Suốt Tam-Tổng-Pháp là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh (sattaloka), tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka), tổng các pháp- hành (saṅkhāraloka).
6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô-Thượng Giáo-Hóa Chúng-Sinh là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.
7- Satthā devamanussānaṃ: Đức Thiên-Nhân-Sư là Bậc Thầy của nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên, ...
8- Buddho: Đức-Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, rồi Đức- Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, cũng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
9- Bhagavā: Đức-Thế-Tôn là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt do thực hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh Ba-la- mật.
Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp hay ở đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, thuyết giảng pháp-hành phạm-hạnh cao thượng với văn chương trong sáng thanh-tịnh.”
Có duyên lành đến hầu Đức-Thế-Tôn, đó là điều hạnh phúc cao thượng.”


Khi ấy, vị Bà-la-môn Brahmāyu gọi người học trò giỏi tên Uttara đã học xong các bộ sách xưa của giai cấp Bà-la-môn, đặc biệt bộ Lokāyata xem 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa) mà dạy rằng:
- Này Uttara! Ngài Sa-môn Gotama thuộc dòng dõi Sakya du hành cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ- khưu-Tăng đến tỉnh lỵ Videha, mà ân-đức của Ngài vang dậy khắp mọi nơi rằng:
“Đức-Thế-Tôn là
- “Arahaṃ: Đức A-ra-hán là Bậc cao thượng có thân, khẩu, ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, chư- thiên và phạm-thiên. Đức A-ra-hán có thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh-tịnh, ...
Đức-Phật thuyết-pháp hay ở đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, thuyết giảng pháp-hành phạm-hạnh cao thượng với văn chương trong sáng thanh-tịnh.”
Có duyên lành đến hầu Đức-Thế-Tôn, đó là điều hạnh phúc cao thượng.”
- Này Uttara! Con hãy đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama ấy, con nên xem xét Đức-Phật Gotama có đúng ân-đức vang dậy khắp mọi nơi như vậy hay không? Thầy sẽ chờ đợi tin con.

Nghe lời truyền dạy của thầy, cậu Uttara thưa rằng:
- Kính bạch Thầy, con biết Đức-Phật Gotama ấy có đúng như danh tiếng lừng lẫy vang dậy khắp mọi nơi như vậy bằng cách nào? Bạch Thầy.
- Này Uttara! Thầy đã dạy cho con hiểu biết rõ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa). Nếu bậc nào có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân ấy thì cuộc đời chỉ có 2 con đường mà thôi, chắc chắn không thể khác:
- Nếu Bậc ấy sống tại gia thì chắc chắn sẽ trở thành Đức chuyển-luân-Thánh-vương hành thiện-pháp, có đầy đủ 7 báu: long xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc ma-ni báu, Chánh-cung hoàng-hậu báu, thừa-tướng báu, phú hộ báu. Đức chuyển-luân-Thánh-vương có trên 1.000 hoàng-tử anh hùng dũng cảm, chiến thắng mọi kẻ thù bằng thiện-pháp, không sử dụng khí giới, trị vì toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới, được thanh bình thịnh vượng, trong toàn đất nước không có điều xấu xảy ra, toàn thể dân chúng sống an-lạc.
- Nếu Bậc ấy từ bỏ nhà đi xuất gia thì chắc chắn sẽ trở thành Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, diệt tận được mọi tham-ái mọi phiền- não không còn dư sót, cao thượng nhất trong toàn cõi- giới chúng-sinh.
- Này Uttara! Thầy đã chỉ dạy con về 32 tướng tốt của bậc đại-nhân, nay con hãy đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama ấy, con nên xem xét Đức-Phật Gotama có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân hay không?


Vâng lời dạy của vị Thầy, cậu Uttara đảnh lễ vị Bà-la- môn Brahmāyu, rồi xin phép lên đường đi đến hầu Đức- Phật Gotama tại tỉnh lỵ Videha.
Cậu Uttara đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, chú ý xem xét 32 tướng tốt của bậc đại-nhân trong kim thân của Đức-Phật, cậu Uttara theo dõi Đức-Phật thấy rõ, biết rõ được 30 tướng tốt của bậc đại-nhân trong kim thân của Đức-Phật, chỉ còn 2 tướng tốt của bậc đại-nhân là ngọc-hành giấu kín trong bao da và cái lưỡi lớn và dài, mềm mại, lưỡi lớn có thể bao phủ toàn mặt lên đến chân tóc, lưỡi dài có thể le đến tận 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi. Cậu Uttara còn chút hoài-nghi, nên chưa hoàn toàn có đức-tin nơi Đức-Phật.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn biết rằng: “Cậu Uttara này đến đây để xem xét 32 tướng tốt của bậc đại-nhân trong kim thân của Như-lai, mới thấy rõ, biết rõ được 30 tướng tốt của bậc đại-nhân, còn lại 2 tướng tốt của bậc đại-nhân chưa thấy rõ là ngọc-hành giấu kín trong bao da và cái lưỡi lớn và dài của Như-lai, nên còn chút hoài-nghi, chưa hoàn toàn có đức-tin nơi Như-lai.”
Vì vậy, Đức-Thế-Tôn dùng phép thần-thông hóa ra cái bóng như thật để cho cậu Uttara thấy rõ, biết rõ ngọc- hành giấu kín trong bao da và Đức-Phật le lưỡi đến 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, rồi bao phủ toàn mặt lên đến tận chân tóc.
Sau khi đã thấy rõ, biết rõ Đức-Phật Gotama có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (8) như sau:
1- Hai bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất.
2- Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận.
3- Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân).
4- Ngón tay dài và tròn trịa, đều đặn, thon như hình búp măng.
5- Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại.
6- Năm ngón tay, trừ ngón tay cái ra, bốn ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.
7- Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay. 8- Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con sơn dương.
9- Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối.
10- Ngọc hành được giấu kín trong bao da.
11- Toàn thân có da màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng.
12- Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân hình.
13- Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông.
14- Lông có màu xanh và xoắn về bên phải, đầu lông hướng lên mặt.
15- Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm-thiên. 16- Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương).
17- Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa.
18- Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không thấy xương vai). 19- Chiều cao của thân bằng sải tay, và sải tay bằng chiều cao của thân (cũng như chiều cao của cây nigrodha có chiều ngang bằng nhánh của cây ấy).
20- Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ).
21- Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể.
22- Cái cằm giống cằm của sư tử chúa.
23- Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng.
24- Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp. 25- Hai hàm răng sắp đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở.
26- Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp.
27- Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp; lưỡi lớn có thể trùm được cả mặt lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ tai.
28- Giọng nói như giọng của phạm-thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng chim karavīka.
29- Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp. 30- Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh.
31- Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng dài mềm mại, xoắn bên phải, đầu lông hướng lên trên đầu rất đẹp.
32- Cái đầu tròn và có vầng trán cao rộng đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang vành tai bên trái.

Cậu Uttara phát sinh đức-tin nơi Đức-Phật, rồi suy nghĩ rằng: “Ta không chỉ biết rõ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân như vậy, mà ta nên theo dõi để biết rõ mọi cử chỉ hành động của Đức-Phật Gotama nữa.”
Từ đó, cậu Uttara theo dõi Đức-Phật suốt 7 tháng, chỉ thấy những cử chỉ hành động thật đáng kính mà thôi, không hề thấy điều sơ suất nào dù là nhỏ nhất.

Cậu Uttara trở về nước Mithilā đến hầu đảnh lễ vị thầy Bà-la-môn Brahmāyu rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy vị Bà-la-môn Brahmāyu hỏi rằng:
- Này Uttara! Danh tiếng lừng lẫy của Ngài Sa-môn Gotama ấy vang dậy khắp mọi nơi đúng sự thật như vậy, có phải hay không?
Nghe vị Thầy hỏi như vậy, cậu Uttara thưa rằng:
- Kính bạch Thầy khả kính, danh tiếng lừng lẫy của Ngài Sa-môn Gotama ấy vang dậy khắp mọi nơi đúng sự thật như vậy, không phải khác.
- Kính bạch Thầy khả kính, con xem xét thấy rõ, biết rõ Ngài Sa-môn Gotama ấy có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân. Sau đó, con theo dõi Ngài Sa-môn Gotama suốt 7 tháng chỉ thấy những cử chỉ hành động thật đáng kính mà thôi, không hề thấy điều sơ suất nào dù là nhỏ nhất.
Cậu Uttara tường thuật lại tất cả những gì đã thấy rõ, biết rõ nơi Đức-Phật Gotama có những ân-đức hơn cả những điều mà người ta tán dương ca tụng.

Sau khi nghe người học trò giỏi nhất tường thuật đầy đủ như vậy, vị Bà-la-môn Brahmāyu ngồi dậy, mặc tấm choàng một bên, chừa vai phải tỏ lòng tôn kính, chắp 2 tay hướng về nơi Đức-Phật Gotama đang ngự, cung kính đọc 3 lần rằng:
“Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.”
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Vị Bà-la-môn Brahmāyu tư duy rằng:
“Ta nên đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama, đó là điều diễm phúc biết dường nào!
Ta nên đi đến vấn an Đức-Phật Gotama, rồi vấn đạo, đó là điều diễm phúc biết dường nào!”

Đức-Thế-Tôn khởi hành từ tỉnh lỵ Videha du hành cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng đến ngự tại khu vườn xoài Maghadeva gần nước Mithilā.
Khi ấy, nghe tin rằng: Ngài Sa-môn Gotama du hành cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng đến ngự tại khu vườn xoài Maghadeva gần nước Mithilā, mà ân-đức của Ngài vang dậy khắp mọi nơi rằng:
“Đức-Thế-Tôn là
- Đức A-ra-hán có thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư-thiên và nhân-loại, …
Đức-Phật thuyết-pháp hay ở đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, thuyết giảng pháp-hành phạm-hạnh cao thượng với văn chương trong sáng thanh-tịnh.”
Các Bà-la-môn và dân chúng nước Mithilā dẫn nhau đi đến khu vườn xoài Maghadeva, hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, có số tự xưng dòng dõi của mình, có số vấn an Đức-Phật Gotama, có số chắp tay ngồi làm thinh.

Khi ấy, vị Bà-la-môn Brahmāyu dẫn đoàn học trò số đông gần đến khu vườn xoài Maghadeva rồi dừng lại, vị Bà-la-môn Brahmāyu nghĩ rằng: “Ta nên xin phép trước, rồi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama, đó là điều nên làm đối với ta.” Vì vậy, Bà-la-môn Brahmāyu gọi cậu học trò đến, rồi dạy bảo rằng:
- Này con! Con hãy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama, rồi bạch với Đức-Phật theo lời dạy của thầy rằng:
- “Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Bà-la-môn Brahmāyu xin vấn an Đức-Thế-Tôn, vị Bà-la-môn Brahmāyu có tuổi cao tác lớn 120 tuổi, là vị thầy nổi tiếng uyên thâm các bộ sách xưa của giai cấp Bà-la-môn, đặc biệt bộ Lokāyata xem 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa).
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Bà-la-môn Brahmāyu có ý nguyện muốn đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn.”
Cậu học trò vâng lời dạy của thầy, đảnh lễ thầy, xin phép đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch y theo lời dạy của thầy rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Bà-la-môn Brahmāyu xin vấn an Đức-Thế-Tôn, vị Bà-la-môn Brahmāyu có tuổi cao tác lớn 120 tuổi, …

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này con! Con nên thưa với vị Bà-la-môn Brahmāyu biết cơ hội hợp thời ngay bây giờ.
Cậu học trò đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép đi gặp vị Bà-la-môn Brahmāyu, bạch rằng:
- Kính bạch thầy, Đức-Thế-Tôn cho phép thầy có cơ hội hợp thời ngay bây giờ.
Được cơ hội tốt, vị Bà-la-môn Brahmāyu đi đến hầu Đức-Thế-Tôn. Nhìn từ xa thấy vị Bà-la-môn Brahmāyu đi đến, các Bà-la-môn và dân chúng Mithilā đứng dậy chắp 2 tay cung kính vị Bà-la-môn Brahmāyu.
Thấy các Bà-la-môn và dân chúng tỏ vẻ cung kính mình như vậy, nên vị Bà-la-môn Brahmāyu bảo rằng:
- Này quý vị! Xin quý vị ngồi tự nhiên trên chỗ của mình, còn tôi vào hầu đảnh lễ Đức Sa-môn Gotama.
Khi ấy, vị Bà-la-môn Brahmāyu vào gần đảnh lễ, vấn an Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, xem xét 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa) trong kim thân của Đức-Thế-Tôn, thấy rõ, biết rõ 30 tướng tốt của bậc đại-nhân, còn lại 2 tướng tốt là ngọc-hành giấu kín trong bao da và cái lưỡi lớn và dài, nên còn chút hoài-nghi, nên chưa hoàn toàn có đức-tin nơi Đức-Phật.
Vị Bà-la-môn Brahmāyu bạch với Đức-Thế-Tôn bằng câu kệ rằng:
- Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama,
Con đã học 32 tướng tốt của bậc đại-nhân,
Trong bộ sách xưa của giai cấp Bà-la-môn,
Con đã thấy rõ 30 tướng tốt, còn lại 2 tướng tốt,
Là ngọc-hành giấu kín trong bao da,
Và cái lưỡi lớn và dài trong kim thân của Ngài,
Con chưa thấy rõ, nên còn chút hoài-nghi,
Kính xin Ngài tế độ làm diệt hoài-nghi ấy.
- Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama,
Nếu Ngài ban cho con cơ hội tốt,
Con sẽ bạch hỏi câu hỏi mà con muốn,
Để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc,
Trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn biết vị Bà-la-môn Brahmāyu thấy rõ, biết rõ 30 tướng tốt của bậc đại-nhân, còn lại 2 tướng tốt là ngọc-hành giấu kín trong bao da và cái lưỡi lớn và dài, nên còn chút hoài-nghi, chưa hoàn toàn có đức-tin nơi Ngài, nên Đức-Thế-Tôn dùng phép thần- thông hóa ra cái bóng như thật để cho vị Bà-la-môn Brahmāyu thấy rõ, biết rõ ngọc-hành giấu kín trong bao da và Đức-Phật le lưỡi đến 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, rồi bao phủ toàn mặt lên đến tận chân tóc.
Sau khi đã thấy rõ, biết rõ Đức-Phật Gotama có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân, nên vị Bà-la-môn Brahmāyu phát sinh đức-tin hoàn toàn nơi Đức-Phật.
Đức-Thế-Tôn dạy vị Bà-la-môn Brahmāyu rằng:
- Này Bà-la-môn Brahmāyu!
Con đã học 32 tướng tốt của bậc đại-nhân,
Trong kim thân của Như-lai có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân, con không nên có hoài-nghi nữa.
- Này Bà-la-môn Brahmāyu!
* Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết thì Như-lai đã biết.
* Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt thì Như- lai đã diệt.
* Niết-bàn là pháp nên chứng ngộ thì Như-lai đã chứng ngộ.
* Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp- hành bát-chánh-đạo là pháp nên tiến hành thì Như- lai đã tiến hành xong.
Vì thế, Như-lai là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Nay, Như-lai cho cơ hội, con nên hỏi điều con muốn,
Để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc,
Trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai.
Khi ấy, vị Bà-la-môn Brahmāyu được Đức-Thế-Tôn cho cơ hội bạch hỏi câu hỏi, nên suy xét nên hỏi về sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại hay trong những kiếp vị-lai. Nếu hỏi về sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại thì người khác cũng hỏi như vậy, nên vị Bà-la-môn Brahmāyu hỏi về sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp vị-lai.
Vị Bà-la-môn Brahmāyu bạch hỏi những câu hỏi ấy.
Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn giải đáp những câu hỏi xong, vị Bà-la-môn Brahmāyu vô cùng hoan-hỷ trong lời dạy của Đức-Thế-Tôn, đứng dậy, mặc tấm choàng chừa bên vai phải tỏ lòng tôn kính, chắp 2 tay, đi vào gục đầu xuống đôi bàn chân của Đức-Thế-Tôn, hôn đôi bàn chân của Ngài, 2 bàn tay xoa bóp đôi bàn chân của Ngài, rồi chắp 2 tay để trên trán tự xưng rằng:
- Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama tôn kính, con là Bà-la-môn Brahmāyu,
- Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama tôn kính, con là Bà-la-môn Brahmāyu.
Khi ấy, toàn thể hội chúng nhìn thấy điều phi thường chưa từng có rằng:
“- Này quý vị! Thật là điều phi thường chưa từng có.
Ngài Sa-môn Gotama có ân-đức phi thường, có nhiều oai lực phi thường.
Vị Bà-la-môn Brahmāyu là học giả uyên thâm, có địa vị cao cả, là bậc trưởng lão mà mọi người trong nước đều tôn kính, mà nay lại có cử chỉ tỏ hết lòng tôn kính Ngài Sa-môn Gotama đến dường ấy.”


Đức-Thế-Tôn bảo vị Bà-la-môn Brahmāyu rằng:
- Này Bà-la-môn Brahmāyu! Con tỏ lòng tôn kính Như-lai như vậy là quý hóa lắm rồi. Con nên đứng dậy, ngồi lại chỗ ngồi của con.

Nghe lời dạy của Đức-Thế-Tôn, vị Bà-la-môn Brahmāyu đứng dậy, ngồi lại chỗ ngồi của mình.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp anupubbikathā tế độ vị Bà-la-môn Brahmāyu theo tuần tự là dānakathā: thuyết về phước-thiện bố-thí, sīlakathā: thuyết về giới, saggakathā: thuyết về các cõi trời, thuyết về tội lỗi của các đối-tượng ngũ-dục thấp hèn, làm cho tâm ô nhiễm, thuyết về quả báu cao quý của sự xa lánh ngũ-dục.
Khi Đức-Phật biết rõ vị Bà-la-môn Brahmāyu đã phát sinh thiện-tâm thanh-tịnh, thuần thục, chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại, thiện-tâm trong sáng, nên Đức-Phật thuyết về pháp tứ đế: khổ-đế, nhân sinh khổ-đế, diệt khổ-đế và pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế.
Ngay tại nơi ấy, pháp-nhãn (dhammmacakkhu) phát sinh đối với vị Bà-la-môn Brahmāyu, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ rằng: “Tất cả các pháp nào trong tam-giới có trạng-thái-sinh thì tất cả các pháp ấy đều có trạng-thái-diệt.” Cũng ví như tấm vải trắng sạch sẽ, không có màu đen, nên dễ nhuộm màu xinh đẹp.
Khi ấy, vị Bà-la-môn Brahmāyu đã phát sinh trí-tuệ- thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế; đã chứng đạt đến chân-lý tứ Thánh-đế; đã thấy rõ, biết rõ thật-tánh đúng theo chân-lý tứ Thánh-đế; đã thấu rõ, thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế; nên đã diệt tận hoàn toàn mọi điều hoài-nghi nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, với trí- tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của mình đã chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật, nên không còn tin nơi người khác nữa.

Vị Bà-la-môn Brahmāyu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:
“Abhikkantaṃ bho Gotama! Abhikkantaṃ bho Gotama! …”
- Kính bạch Đức-Phật Gotama, con vô cùng hoan-hỷ!
- Kính bạch Đức-Phật Gotama, con vô cùng hoan-hỷ!
Đức-Phật Gotama thuyết-pháp với nhiều phương-pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị úp xuống, hoặc mở ra vật bị gói kín, hoặc chỉ đường cho người đang đi lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tối tăm, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ mọi vật hiện hữu.
“Esāhaṃ Bhavantaṃ Gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ bhavaṃ Gotamo dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy y, nương nhờ nơi Đức-Phật Gotama, Đức-Pháp-bảo, chư tỳ-khưu- Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Phật Gotama công nhận con là người cận- sự-nam đã quy y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

Vị Bà-la-môn Brahmāyu kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con kính thỉnh Ngài cùng với chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng thọ nhận vật thực tại tư gia của con vào ngày mai. Bạch Ngài.
Đức-Phật chấp thuận lời thỉnh mời của vị Bà-la-môn Brahmāyu bằng cách làm thinh.

Khi ấy, vị Bà-la-môn Brahmāyu biết Đức-Phật đã chấp thuận sự thỉnh mời của mình, nên đứng dậy, đảnh lễ Đức-Phật một cách tôn kính, rồi xin phép trở về tư gia của mình.
Khi về đến tư gia, vị Bà-la-môn Brahmāyu truyền bảo các gia nhân sửa soạn những món vật thực ngon lành suốt đêm cho đến sáng. Sáng hôm sau, vị Bà-la-môn Brahmāyu truyền bảo người thân tín đi đến đảnh lễ Đức- Phật Gotama, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đã đến giờ, ông Bà-la-môn Brahmāyu truyền bảo con đến kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đi cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng đến tư thất của ông để thọ nhận vật thực. Bạch Ngài.
Sáng hôm ấy, Đức-Phật ngự đi cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng đến tư gia của vị Bà-la-môn Brahmāyu.
Vị Bà-la-môn Brahmāyu đón tiếp Đức-Phật cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, rồi tự tay ông cúng dường đến Đức-Phật cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng những món vật thực ngon lành suốt 7 ngày như vậy.

Sau ngày thứ 7, Đức-Phật du hành cùng với đoàn 500 chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng đến tỉnh lỵ Videha.
Đức-Phật đã rời khỏi nước Mithilā không lâu, vị Bà- la-môn Brahmāyu chuyển kiếp (chết). Khi ấy, nhóm tỳ- khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, ngồi một nơi hợp lẽ, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Bà-la-môn Brahmāyu đã chết rồi, cõi tái-sinh kiếp kế-tiếp của ông như thế nào? Kiếp tái-sinh kiếp kế-tiếp của ông như thế nào? Bạch Ngài.

Đức-Phật giải đáp rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Vị Bà-la-môn Brahmāyu là bậc thiện-trí đã chứng đắc theo tuần tự từ Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn; Nhất-lai Thánh- đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; đến Bất-lai Thánh- đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai, đã tái-sinh kiếp kế-tiếp trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên, rồi sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Vị Bà-la-môn Brahmāyu vốn là bậc thiện-trí, nên dù ông nghe người khác tán dương ca tụng Đức-Thế-Tôn như vậy, vẫn chưa tin, mà chính ông rất thận trọng xem xét kỹ có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc-đại-nhân như trong bộ sách xưa, rồi mới phát sinh đức-tin, xin đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

Nơi nương nhờ

Tất cả chúng-sinh nói chung, con người nói riêng, phần đông người ta hay sợ sệt những tai họa xảy đến, nên họ tìm nơi nương nhờ cây cổ thụ lâu năm, nơi vườn tháp v.v... để van vái, cầu khẩn, xin phù hộ cho họ tránh khỏi những điều tai họa, và cầu xin ban phước lành cho họ được sống bình an vô sự, hơn thế nữa, họ còn cầu cho họ được thành tựu mọi việc như ý.
Nơi nương nhờ có 2:
- Nương nhờ nơi không chân-chánh.
- Nương nhờ nơi chân-chánh.

Nương nhờ nơi không chân-chánh

Đức-Phật dạy, phần đông người ta tìm đến nơi núi cao, rừng sâu, cây cổ thụ, vườn (bụi cây) rậm, đền tháp... để nương nhờ. Đó là những nơi nương nhờ không chân- chánh, bởi vì, những nơi ấy không phải là nơi nương nhờ an lành, không phải là nơi nương nhờ cao thượng. Những người đến nương nhờ những nơi ấy không thể giải thoát mọi cảnh khổ.
Đức-Phật dạy bằng bài kệ rằng:
“Bahuṃ ve saraṇaṃ yanti,
pabbatāni vanāni ca.
Ārāmarukkhacetiyāni,
manussā bhayatajjitā.
Netaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ,
Netaṃ saraṇamuttamaṃ.
Netaṃ saraṇaṃāgamma,
Sabbadukkhā pamuccati.” (9)
Phần đông người ta thường hay sợ sệt, Tìm đến núi rừng, cổ thụ, vườn, tháp, Làm nơi nương nhờ van vái khẩn cầu, Tránh tai họa, mong vạn sự như ý.
Những nơi nương nhờ ấy không an lành, Những nơi nương nhờ ấy không cao thượng, Người đến xin nương nhờ những nơi ấy, Không thể giải thoát khỏi mọi cảnh khổ.
Nương nhờ nơi chân-chánh
Đức-Phật dạy những người tìm đến nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo: Tam-bảo là nơi nương nhờ chân-chánh, bởi vì, những người quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Đó chính là nơi nương nhờ an lành, nơi nương nhờ cao thượng. Những bậc Thánh-nhân đã đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo như vậy, mới giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đức-Phật dạy bằng bài kệ rằng:
“Yo ca Buddhañca Dhammañca,
Saṃghañca saraṇaṃ gato.
Cattāri ariyasaccāni,
Sammappaññāya passati.
Dukkhaṃ dukkhasamuppādaṃ,
Dukkhassa ca atikkamaṃ.
Ariyaṃ caṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ,
Dukkhūpasamagāminaṃ.
Etaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ,
Etaṃ saraṇamuttamaṃ.
Etaṃ saraṇaṃāgamma,
Sabbadukkhā pamuccati.” (10)

Người nào đến quy-y nơi Tam-bảo,
Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo,
Khi người ấy chứng ngộ tứ Thánh-đế,
Bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới.
Tứ Thánh-đế cao thượng đó chính là
Khổ-Thánh-đế, Nhân sinh khổ-Thánh-đế,
Niết-bàn diệt khổ-Thánh-đế cao thượng,
Thánh-đạo hợp đủ tám chánh cao thượng,
Pháp-hành chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.
Nên sự quy-y của chư Thánh-nhân,
Là sự quy-y chân-chánh an lành,
Là sự quy-y chân-chánh cao thượng,
Chư Thánh-nhân đã đến quy-y ấy,
Được giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ.


Nguyên nhân quy-y Tam-bảo

Những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có đại- thiện-tâm thành kính đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo, do 2 nguyên nhân:
- Nguyên nhân xa: Những tiền-kiếp đã từng gieo duyên lành nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức- Tăng-bảo, trong thời quá-khứ đã từng tạo mọi phước- thiện trong Phật-giáo, đã được tích lũy các pháp-hạnh ba-la-mật từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ, cho đến kiếp hiện-tại này.
- Nguyên nhân gần: Kiếp hiện-tại gặp thời-kỳ Đức- Phật xuất hiện trên thế gian, có thuận duyên, có được cơ hội tốt, có phước duyên đến hầu Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, được lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, nên phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.
* Số người chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-nhân, nên hết lòng thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo.
* Số người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hiểu biết rõ ân-đức Tam-bảo, nên hết lòng thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo.

Quy-y Tam-bảo có 2 phép chính

1- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana)
2- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (Lokiyasaraṇagamana)
Trong mỗi phép quy-y Tam-bảo có nhiều thứ bậc thấp cao khác nhau tùy theo khả năng hiểu biết của mỗi người. Cho nên, người có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo cần phải hiểu biết rõ phép quy-y Tam-bảo, bởi vì, phép quy-y Tam-bảo là bước đầu tiên trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) trong Phật-giáo.

1- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới như thế nào?

Những người đã có phước duyên trong Phật-giáo, đã từng tạo và bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua nhiều đời nhiều kiếp từ Chư Phật trong thời quá-khứ, hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong quá-khứ.
Nay kiếp hiện-tại này có phước duyên đến hầu Đức- Phật hoặc chư Thánh thanh-văn, được lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật, rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Khi sát-na Thánh-đạo-tâm (maggakkhaṇacitta) phát sinh, ngay khi ấy, bậc Thánh-nhân thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới.

Trong Chú-giải Pāḷi giải rằng:

“Tattha lokuttaraṃ diṭṭhasaccānaṃ maggakkhaṇa- saraṇagamanupakkilesasamucchedena ārammaṇato Nibbānārammaṇaṃ hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati.” (11)
Trong 2 phép quy-y Tam-bảo, phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc Thánh-đạo, khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận phiền-não ô nhiễm trong tâm. Khi ấy, bậc Thánh-nhân thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới, đồng thời mọi phận sự quy-y Tam-bảo cũng được thành-tựu trọn vẹn cùng một lúc, không trước không sau.
Như vậy, phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam- giới là:
* Theo tâm: Đó là sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh.
* Theo đối-tượng: Đó là đối-tượng Niết-bàn.
* Theo cách diệt phiền-não: Đó là cách diệt tận phiền-não.
* Theo phận sự: Khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, không phải là đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo. Song xét theo phận sự, khi Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối- tượng Niết-bàn, khi ấy, mọi phận sự quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới được thành tựu trọn vẹn.
Cho nên, bậc Thánh-nhân không nói bằng lời rằng:
“Buddham saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi…”


Thứ bậc của phép quy-y Tam-bảo

Thứ bậc của phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu- tam-giới được căn cứ theo 4 Thánh-đạo-tâm. Do đó, phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới có 4 bậc từ thấp đến cao như sau:
1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi, đồng thời thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.
2- Nhất-lai Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết- bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại thô, đồng thời thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tâm phát sinh, có đối-tượng Niết- bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế, đồng thời thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham, si, ngã-mạn, buồn-chán, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi; tất cả mọi tham-ái; mọi ác-pháp không còn dư sót, đồng thời thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.

Quả báu của phép quy-y Tam-bảo
Thánh-đạo-tâm liền cho thánh-quả-tâm

Phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới đó là khi 4 Thánh-đạo-tâm thuộc siêu-tam-giới thiện-tâm phát sinh rồi diệt liền cho quả là 4 Thánh-quả-tâm tương xứng phát sinh sau 1 sát-na-tâm, không có thời gian ngăn cách, nghĩa là Thánh-đạo-tâm nào sinh rồi diệt, liền sau đó Thánh-quả-tâm ấy phát sinh 2 hoặc 3 sát-na- tâm cũng trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm ấy, không có thời gian ngăn cách gọi là “Akālikadhamma”, đó là 4 Thánh-đạo-tâm tương xứng với 4 Thánh-quả-tâm trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm ấy.
* Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là Nhập- lưu Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.
* Nhất-lai Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là Nhất- lai Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.
* Bất-lai Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là Bất-lai Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.
* A-ra-hán Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là A-ra- hán Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.


Nhập Thánh-quả để hưởng an-lạc Niết-bàn

Nếu bậc Thánh-nhân có khả năng đặc biệt nhập Thánh-quả-tâm (Phalasamāpatti) theo sở đắc của mình(12), thì hưởng sự an-lạc Niết-bàn, suốt khoảng thời gian quy định một giờ, hai giờ... chỉ có Thánh-quả-tâm sinh rồi diệt liên tục không ngừng và có đối-tượng Niết-bàn mà thôi.
Đến khi xả Thánh-quả-tâm rồi, trở lại cuộc sống bình thường, tâm của bậc Thánh-nhân biết 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) tùy theo lộ-trình-tâm.
Bậc Thánh-quả nào, chỉ có khả năng đặc biệt nhập Thánh-quả-tâm ấy mà thôi. Bậc Thánh-quả-tâm bậc thấp không thể nhập Thánh-quả-tâm bậc cao. Bậc Thánh-quả- tâm bậc cao không thể nhập Thánh-quả-tâm bậc thấp.

Quả báu của Thánh-nhân trong kiếp kế-tiếp

- Bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn không còn tái- sinh kiếp kế-tiếp trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chỉ còn tái-sinh từ 1 kiếp, 2 kiếp, ... cho đến nhiều nhất 7 kiếp trong cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.
Đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A- ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh 1 kiếp nữa trong cõi người hoặc cõi trời dục-giới mà thôi, trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới, chỉ tái-sinh lên cõi sắc-giới (hoặc cõi vô-sắc giới) mà thôi, rồi sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Chư Thánh-nhân thọ phép quy-y Tam-bảo

Chư bậc Thánh-nhân đều chắc chắn thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới, ngay khi sát- na Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, cũng đã thành-tựu mọi phận sự của phép quy-y Tam-bảo trong tâm xong rồi, đã trở thành bậc Thánh-nhân.
Để được chính thức công nhận là người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ, bậc Thánh-nhân một lần nữa, trước sự hiện diện của Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh- văn của Đức-Phật, bậc Thánh-nhân ấy thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời nói.

* Nếu người ấy là nam Thánh-nhân, thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.

* Nếu người ấy là nữ Thánh-nhân, thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.

Trên đây là những gương quy-y Tam-bảo của bậc Thánh-nhân, dù chư bậc Thánh-nhân đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới xong rồi, mà còn phải tự nguyện bạch với Đức-Thế-Tôn kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới.
Kính xin Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh-văn chứng minh và công nhận là người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đến trọn đời, huống gì hạng phàm-nhân. Hạng phàm-nhân muốn chính thức trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ cần phải được thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới, đó là điều tất yếu.

Vấn: Người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ có khả năng chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh- quả được hay không? Nếu chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán rồi thì sẽ như thế nào?
Đáp: Người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ có khả năng chứng đắc được đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Sau khi đã chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán rồi sẽ có một trong hai điều sau đây xảy ra:
* Bậc Thánh A-ra-hán ấy chắc chắn sẽ tịch diệt Niết- bàn ngay trong ngày hôm ấy.
* Bậc Thánh A-ra-hán ấy phải xuất gia trở thành tỳ- khưu, hoặc tỳ-khưu ni, để duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ. (13)

Chứng đắc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn

Người cận-sự-nam chứng đắc thành bậc Thánh A-ra- hán rồi tịch diệt Niết-bàn ngay ngày hôm ấy. Trích dẫn:
* Trường hợp Đức-vua Suddhodana, Đức-Phụ-vương của Đức-Phật, ngự tại kinh-thành Kapilavatthu. Khi ấy, Đức-vua Suddhodana lâm bệnh, nên thỉnh Đức-Phật về thuyết pháp. Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, Đức-vua Suddhodana chứng đắc A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy.


* Trường hợp vị đại quan cận-thần Santati(14) của Đức- vua Pasenadi Kosala. Đức-vua Pasenadi Kosala ban ân huệ cho vị đại quan cận-thần Santati lên ngôi vua 7 ngày. Được lên ngôi vua, vị đại quan cận-thần Santati hưởng sự an-lạc trong ngũ-dục, uống rượu ngon, xem các vũ nữ múa hát. Đến ngày thứ 7, trong lúc vị đại quan cận-thần đang say đắm nhìn cô vũ nữ xinh đẹp múa hát thì cô bị bệnh phong chết ngay tại vũ trường. Cái chết đột ngột của cô vũ nữ trẻ đẹp tài ba, làm cho vị quan cận-thần vô cùng khổ não.
Vị đại quan cận-thần nghĩ: “Ngoài Đức-Phật ra, không có một ai có khả năng làm lắng dịu nỗi khổ tâm này của ta.”
Nghĩ vậy xong, ông đại quan cùng với các quan quân đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin Đức-Phật thuyết pháp tế độ, làm lắng dịu nỗi khổ tâm sầu não. Đức-Phật thuyết dạy bài kệ như sau:
“Yaṃ pubbe taṃ visosehi, pacchā te māhu kiñcanaṃ.
Majjhe ce no gahessasi, upasanto carissasi.”
(15)
“Này quan cận-thần San-ta-ti!
Từ trước sầu não nào đã phát sinh,
Con hãy nên diệt sạch sầu não ấy.
Về sau con không còn sầu não nữa,
Giữa thời hiện-tại không còn chấp thủ,
Vắng lặng sầu não rồi con sẽ đi.”


Sau khi lắng nghe xong bài kệ, vị đại quan cận-thần Santati chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền- não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, ông thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi quán xét về tuổi thọ của mình, biết rõ tuổi thọ sắp hết, nên bậc Thánh A-ra-hán Santati thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:
“Bhante parinibbānaṃ me anujānātha.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, cho phép con tịch diệt Niết-bàn.

Chứng đắc Thánh A-ra-hán rồi xin xuất gia

* Trích dẫn tích bà Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā của Đức-vua Bimbisāra. Chánh-cung Hoàng-hậu rất xinh đẹp và say mê sắc đẹp của mình.
Một hôm, Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā ngự đến viếng thăm ngôi chùa Veḷuvana do Đức-vua Bimbisāra xây cất, rồi dâng cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ- khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.
Biết có Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā đến, Đức- Phật gọi bà và dạy bài kệ rằng:
“Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ,
passa Kheme samussayaṃ.
Uggharantaṃ paggharantaṃ,
bālānaṃ abbipatthitaṃ.” (16)

- Này Khemā! Con hãy quán thân này,
Hay bệnh hoạn, bất tịnh, đầy ô trược,
Thường ói ra, khạc nhổ đồ dơ dáy,
Cửu khiếu thường chảy ra vật nhờm gớm,
Mà người si mê say đắm thân này.
Sau khi lắng nghe bài kệ, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Tiếp theo Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:
“Ye rāgarattā ūnupatanti sotaṃ,
Sayaṃ kataṃ makkaṭakova jālaṃ.
Etampi chetvāna vajanti dhīrā,
Anapekkhino sabbadukkhaṃ pahāya.” (17)


- Này Khemā! Con hãy nên quán xét,
Chúng-sinh nào dính mắc bởi tham-ái,
Họ bị rơi vào trong dòng tham-ái,
Cũng ví như một con nhện giăng tơ,
Nằm dính trong mạng nhện do mình làm.
Chư Thánh-nhân cắt đứt dòng tham-ái,
Diệt mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi,
Bỏ đi mà không hề lưu luyến nữa.”
Sau khi lắng nghe bài kệ xong, bà Chánh-cung Hoàng- hậu Khemā chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, theo tuần tự chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết- bàn; cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy Đức-vua Bimbisāra rằng:
“Mahārājā Khemāya pabbajituṃ vā parinibbāyituṃ vā vaṭṭati.”
- Này Đại-vương! Đại-vương nên cho phép Chánh- cung Hoàng-hậu Khemā xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni hay để cho Chánh-cung Hoàng-hậu tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm nay?


Đức-vua Bimbisāra bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài cho phép Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā xuất gia trở thành tỳ- khưu-ni, không nên để Chánh-cung Hoàng-hậu tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm nay. Bạch Ngài.
Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā được xuất gia thọ tỳ- khưu-ni. Về sau, Ngài Đại-đức Tỳ-khưu-ni Khemā trở thành bậc Thánh-nữ Tối-Thượng Thanh-văn-giác có trí-tuệ xuất sắc nhất trong nhóm chư tỳ-khưu-ni đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Tại sao người tại gia cư-sĩ không thể giữ được địa vị bậc Thánh A-ra-hán cao thượng?

Sở dĩ người tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ không thể duy trì được địa vị bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, là vì người tại gia cư-sĩ có đời sống thế-tục, ăn ở theo thế-tục, nên không xứng đáng với phạm-hạnh cao thượng của bậc Thánh A-ra-hán.
Bởi vậy, cho nên người tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán rồi, ngay hôm ấy, bậc Thánh A-ra-hán phải xuất gia trở thành tỳ-khưu, hoặc tỳ-khưu-ni, để duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ.
Nếu bậc Thánh A-ra-hán không xuất gia thì sẽ tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy, không chậm trễ sang ngày hôm sau.

Ba bậc Thánh-nhân tại gia

* Trong bộ Milindapañhā giảng giải:
Ngoài bậc Thánh A-ra-hán ra, người tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai và bậc Thánh Bất-lai và có thể duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ.
* Bậc Thánh Nhập-lưu và bậc Thánh Nhất-lai ở tại gia có thể lập gia đình, có vợ hoặc có chồng, có con.
Như Bà Visākhā đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu lúc 7 tuổi. Về sau trưởng thành, bà có chồng sinh được 20 người con (10 người con trai, 10 đứa con gái). Bà Visākhā có tuổi thọ 120 tuổi, ...
* Còn bậc Thánh Bất-lai ở tại gia cư-sĩ, chắc chắn không có vợ, không có chồng. Nếu bậc Thánh Bất-lai, trước kia đã có vợ hoặc đã có chồng, thì sau khi trở thành bậc Thánh Bất-lai chắc chắn không còn quan hệ vợ chồng như trước, bởi vì, bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tham-ái trong cõi dục-giới.
Thời Đức-Phật còn tại thế, có hai ông cận-sự-nam cùng tên là Ugga (18), một ông ở xứ Vesāli và một ông ở làng Hatthigāma vùng Vajjī, cả hai ông đều trở thành bậc Thánh Bất-lai.
Trước kia, ông có 4 người vợ, sau khi ông đã trở thành bậc Thánh Bất-lai, ông cho phép 4 bà vợ cũ được tự do, nếu muốn có chồng khác thì ông cho tiền bạc và của cải.
Ông cận-sự-nam Cittagahapati (19), bà cận-sự-nữ trong xóm nhà Mātikāgāma đều đã trở thành bậc Thánh Bất-lai, có tứ-tuệ-phân-tích, có thần-thông, ...
Trong bộ Milindapañhā giảng giải:
Dù người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là bậc Thánh-nhân cũng phải nên tỏ lòng tôn kính, đảnh lễ, đón rước chư tỳ-khưu còn là phàm-nhân. Bởi vì, chư tỳ-khưu là một trong tứ chúng cao thượng, có thể cho phép giới tử xuất gia thọ sa-di, thọ tỳ-khưu để duy trì Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian; mà điều này các hàng tại gia cư-sĩ không thể làm được.

2- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới như thế nào?

Những hạng thiện-trí phàm-nhân có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết rõ 9 ân- đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng, có ý nguyện đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo với đại- thiện-tâm của mình.
Muốn được thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới, thì người quy-y Tam-bảo cần phải hiểu biết rõ các pháp, như trong Chú-giải giảng giải:
“Lokiyaṃ puthujjanānaṃ saraṇagamanupakkilesa- vikkhambhanena ārammaṇato Buddhādiguṇāramma- ṇaṃ hutvā ijjhati.” (20)
- Đối với hạng thiện-trí phàm-nhân thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp- bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, diệt bằng cách đè nén, chế-ngự phiền-não không làm ô nhiễm phép quy-y Tam-bảo.
Như vậy, phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới là:
* Theo tâm: Đó là đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
* Theo đối-tượng: Đó là 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
* Theo cách diệt phiền-não: Đó là cách diệt đè nén, chế-ngự phiền-não không làm ô nhiễm phép quy-y Tam- bảo, khi đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.

Điều kiện thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới

Để thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam- giới, người ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, khi thành tâm thọ phép quy-y Tam-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng ân-đức Tam-bảo theo từng mỗi câu quy-y như sau:
* Câu quy-y Đức-Phật-bảo “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo.
* Câu quy-y Đức-Pháp-bảo “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.
* Câu quy-y Đức-Tăng-bảo “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo.
Như vậy, để thành tựu được phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới, điều trước tiên, người ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, học hỏi, ghi nhớ, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, bởi vì, những ân-đức Tam-bảo này là đối-tượng của đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ khi làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới để cho được thành tựu.

Thứ bậc của phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới

Thứ bậc của phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới được căn cứ theo dục-giới thiện-tâm, khi tâm này làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới.
Dục-giới thiện-tâm có 8 tâm: 4 tâm hợp với trí-tuệ và 4 tâm không hợp với trí-tuệ, do đó thứ bậc của phép quy- y Tam-bảo theo pháp tam-giới có 2 bậc cao thấp.
- Phép quy-y Tam-bảo hợp với trí-tuệ.
- Phép quy-y Tam-bảo không hợp với trí-tuệ.


1- Phép quy-y Tam-bảo hợp với trí-tuệ như thế nào?


Người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp- bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo. Khi dục-giới thiện-tâm này làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo từng mỗi câu quy- y như sau:
* Câu quy-y Đức-Phật-bảo: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo: “Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, … Bhagavā.”
* Câu quy-y Đức-Pháp-bảo: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo: “Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, ... Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”
* Câu quy-y Đức-Tăng-bảo: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 9 ân-đức Tăng-bảo: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ... Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”
Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo hợp với trí- tuệ (ñāṇasampayuttasaraṇagamana).

2- Phép quy-y Tam-bảo không hợp với trí-tuệ như thế nào?

Người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo nhưng không có trí-tuệ, không hiểu rõ sâu sắc 9 ân-đức Phật- bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo. Khi đại- thiện-tâm này làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo từng mỗi câu quy-y như sau:
* Câu quy-y Đức-Phật-bảo: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 9 ân-đức Phật-bảo ấy.
* Câu quy-y Đức-Pháp-bảo: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, tuy có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 6 ân-đức Pháp-bảo ấy.
* Câu quy-y Đức-Tăng-bảo: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, tuy có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 9 ân-đức Tăng-bảo ấy.
Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo không hợp với trí-tuệ (ñāṇavippayuttasaraṇagamana).

4 Hạng người quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới

Thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới có 4 hạng người:
- Attasanniyātanasaraṇagamana: Thọ phép quy-y Tam- bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình cho Tam-bảo.
- Tapparāyaṇasaraṇagamana: Thọ phép quy-y Tam- bảo bằng cách nương nhờ nơi Tam-bảo.
- Sissabhāvūpagamanasaraṇagamana: Thọ phép quy- y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng.
- Paṇipātasaraṇagamana: Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam-bảo.


1- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình cho Tam-bảo như thế nào?

Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.
Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình đến ngôi Tam-bảo cao- thượng bằng lời chân thật rằng:
“Ajja ādiṃ katvā ahaṃ attānaṃ Buddhassa niyyā- temi, Dhammassa niyyātemi, Saṃghassa niyyātemi.” (21)
- Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức-Phật cao thượng, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức- Pháp cao thượng, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức-Tăng cao thượng.”

Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.
Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình nơi Tam-bảo.

2- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo như thế nào?

Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.
Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách đến nương nhờ nơi Tam-bảo cao thượng bằng lời chân thật rằng:
“Ajja ādiṃ katvā ahaṃ Buddhaparāyaṇo, Dhamma- parāyaṇo, Saṃghaparāyaṇo iti maṃ dhāretha.” (22)
- Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật cao thượng, xin quy- y nương nhờ nơi Đức-Pháp cao thượng, xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng cao thượng.”
Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.
Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo.

3- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng như thế nào?

Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.
Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, của Đức-Pháp, của Đức-Tăng bằng lời chân thật rằng:
“Ajja ādiṃ katvā ahaṃ Buddhassa antevāsiko, Dhammassa antevāsiko, Saṃghassa antevāsiko iti maṃ dhāretha.”
- Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con là người đệ- tử của Đức-Phật cao thượng, con là người đệ-tử của Đức-Pháp cao thượng, con là người đệ-tử của Đức- Tăng cao thượng.”
Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.
Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, của Đức-Pháp, của Đức-Tăng.

4- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam-bảo như thế nào?

Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.
Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam-bảo bằng lời chân thật rằng:
“Ajja ādiṃ katvā ahaṃ abhivādāna-paccuṭṭhāna- añjalikamma-sāmīcikammaṃ Buddhādīnaṃ yevatiṇṇaṃ vatthūnaṃ karomi iti maṃ dhāretha.”
- Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con chỉ hết lòng tôn kính chắp tay, đón rước, lễ bái, đảnh lễ Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà thôi.”

Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.
Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường Tam-bảo.

Trong 4 cách thọ phép quy-y Tam-bảo này, cách nào cũng có thể trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo.

Quy-y Tam-bảo không thành tựu và thành tựu

Trong thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường đến Tam-bảo (Paṇipāta- saraṇagamana) có 4 trường hợp:

- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là thân quyến (ñātipaṇipātasaraṇagamana).
- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là vị Thầy cũ của mình (ācariyapaṇipātasaraṇagamana).
- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính bởi vì sợ (bhayapaṇipātasaraṇagamana).
- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính bởi trí-tuệ hiểu biết 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân- đức Tăng-bảo là nơi xứng đáng dâng lễ cúng dường (dakkhiṇeyyapaṇipātasaraṇagamana).

1- Thọ phép quy-y Tam-bảo bởi do lòng tôn kính cho là thân quyến như thế nào?

Những người nào trong dòng họ Sakya hoặc dòng họ Koliya có quan niệm rằng: “Đức-Phật Gotama cao thượng là Người thân quyến của chúng ta; chúng ta nên đến thành kính đảnh lễ, kính xin thọ phép quy-y Tam- bảo nơi Ngài.”
Trường hợp họ xin thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là người thân quyến, thì quy-y Tam-bảo ấy không được thành tựu.
Những người ấy không trở thành người cận-sự-nam
hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

2- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là vị Thầy cũ của mình như thế nào?

Người nào đã từng làm học trò của Đức-Bồ-Tát Siddhattha, nay Ngài đã là Đức-Phật Gotama. Trường hợp người ấy nhớ đến vị Thầy cũ của mình, đến thành kính đảnh lễ Đức-Phật, rồi xin thọ phép quy-y Tam-bảo, bởi do lòng tôn kính cho là vị Thầy cũ của mình, thì quy- y Tam-bảo ấy không được thành tựu.
Những người ấy không trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

3- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính bởi vì sợ như thế nào?

Người dân nào trong nước có quan niệm rằng: “Đức- Phật Gotama là bậc cao thượng mà Đức-vua, các quan của chúng ta đều đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo.
Nếu ta không chịu đến đảnh lễ Đức-Phật, xin thọ phép quy-y Tam-bảo thì ta có thể bị tội hoặc bị mất nhiều lợi lộc.”

Trường hợp những người ấy đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo bởi vì sợ, thì quy-y Tam-bảo ấy không được thành tựu.
Những người ấy không trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Ba cách thọ phép quy-y Tam-bảo này có quan niệm sai lầm, do phiền-não tham, sân, si, thiên vị, v.v... nên quy-y Tam-bảo không thành tựu.
Do đó, người ấy không chính thức được gọi là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.

4- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính, có trí- tuệ hiểu biết rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo là nơi xứng đáng dâng lễ cúng dường như thế nào?
Những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật-bảo cao thượng nhất, Đức-Pháp-bảo cao thượng nhất, Đức-Tăng-bảo cao thượng nhất, là nơi xứng đáng dâng lễ, cúng dường đối với tất cả chúng-sinh.
Trường hợp những người ấy đến hầu đảnh lễ Đức- Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, xin thọ phép quy-y Tam-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ có đối-tượng ân-đức Tam-bảo (9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo) thì quy-y Tam- bảo ấy được thành tựu và những người ấy trở thành người cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Như vậy, để thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới không phải dễ dàng, cho nên, người đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo không những bằng đức-tin, mà còn phải có trí-tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng ân-đức Tam-bảo và cần phải có sự hiện diện của bậc thiện-trí thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật hiểu biết Phật-giáo, để chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đến trọn đời.
Khi những người ấy đã trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ được gần gũi thân cận với Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thì họ sẽ có được nhiều cơ hội trở thành người cao thượng, có được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa trong mọi thiện- pháp cao thượng, từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện- pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp cao thượng; sự an-lạc cao thượng trong cõi người, cõi chư-thiên, cõi phạm-thiên, cuối cùng là sự an- lạc Niết-bàn cao thượng.

Cũng như những thí sinh đã trúng tuyển trong kỳ thi vào trường đại-học, thí sinh ấy trở thành sinh viên của trường đại-học ấy, họ có quyền theo học các ngành và thi tốt nghiệp ra trường, để có tương lai xán lạn hơn.
Đối với hạng phàm-nhân được thành tựu phép quy-y Tam-bảo là điều khó, mà giữ gìn, duy trì quy-y Tam-bảo cho được hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, không bị đứt, thật là một điều khó hơn nữa, bởi vì, trong cuộc sống ở đời có lắm điều phiền phức ràng buộc. Cho nên, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cần phải có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt mới có thể giữ gìn, duy trì quy-y Tam-bảo của mình được hoàn toàn trong sạch.

Quy-y Tam-bảo bị đứt - không bị đứt
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch, vững chắc, không lay chuyển nơi Tam-bảo, thì chỉ có chư bậc Thánh-nhân mà thôi. Còn các hàng cận-sự- nam, cận-sự-nữ là hạng phàm-nhân, tuy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo nhưng không vững chắc, dễ bị lay chuyển khi gặp những trường hợp khó xử.
Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ không giữ vững đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo thì quy-y Tam-bảo dễ bị đứt, như những trường hợp sau:

* Trường hợp cận-sự-nam, cận-sự-nữ lễ bái, dâng cúng đến người thân quyến của mình là tu-sĩ ngoại đạo, thì quy-y Tam-bảo bị đứt hay không?
- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.
Dù người ấy lễ bái, dâng cúng đến người thân quyến của mình là tu-sĩ ngoại đạo, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt. Thậm chí người cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn phải có bổn phận lễ bái, dâng cúng đến cha mẹ, ông bà, Thầy tổ, những bậc hữu ân, các bô lão trong dòng họ và trong đời nữa.
Mặc dù người cận-sự-nam, cận-sự-nữ kính trọng lễ bái dâng cúng đến các bậc ấy, mà vẫn có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức- Tăng-bảo, thì quy-y Tam-bảo không bị đứt.
- Nhưng trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy nghĩ rằng: “Người thân quyến là tu-sĩ ngoại đạo này thật cao thượng, ta nên đến nương nhờ nơi người ấy, đồng thời ta nên bỏ nương nhờ nơi Tam-bảo.”
Nếu người ấy lễ bái, dâng cúng đến người thân quyến là tu-sĩ ngoại đạo, rồi xin nương nhờ nơi vị tu-sĩ ngoại đạo ấy, không còn nương nhờ nơi Tam-bảo nữa thì chắc chắn quy-y Tam-bảo bị đứt, bởi vì, tâm của người ấy đã từ bỏ Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, để đi theo ngoại đạo.

* Trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ của mình là tu-sĩ ngoại đạo, thì quy-y Tam-bảo có bị đứt hay không?
- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.
Dù người ấy lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ của mình là tu-sĩ ngoại đạo, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt, bởi vì, người ấy lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ của mình do lòng biết ơn đối với vị thầy cũ. Vả lại, người ấy vẫn có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thì quy-y Tam-bảo không thể bị đứt.
- Nhưng trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy nghĩ rằng: “Vị thầy cũ của mình là ngoại đạo thật là cao thượng, ta nên đến xin nương nhờ nơi vị thầy cũ ấy, đồng thời ta nên bỏ nương nhờ nơi Tam-bảo.”
Nếu người ấy lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ là tu-sĩ ngoại đạo, rồi xin nương nhờ nơi vị thầy cũ tu-sĩ ngoại đạo ấy, không còn nương nhờ nơi Tam-bảo nữa, thì chắc chắn quy-y Tam-bảo bị đứt, bởi vì tâm người ấy từ bỏ Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, để đi theo ngoại đạo.

* Trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ lễ bái Đức-vua, thì quy-y Tam-bảo có bị đứt hay không?
- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn còn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.
Dù người ấy lễ bái Đức-vua, người có uy quyền trong một nước, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt, bởi vì, mỗi người dân đều nương nhờ nơi Đức-vua, phải kính trọng và biết ơn Đức-vua.

* Trường hợp cận-sự-nam, cận-sự-nữ cúng dường đến chư-thiên, cầu xin chư-thiên hộ trì cho mình, thì quy-y Tam-bảo có bị đứt hay không?
- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.
Dù người ấy kính dâng lễ vật cúng dường đến chư- thiên, cầu xin chư-thiên hộ trì cho mình, giúp công việc gì đó được thành tựu, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt, bởi vì, người ấy vẫn có đức-tin nơi Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

Trong Chi-bộ-kinh, Đức-Phật dạy pháp balī: cúng dường, dâng lễ, bố-thí, ... có 5 pháp như sau:
- Ñātibalī: Bố-thí, cúng dường đến người thân quyến.
- Atithibalī: Tiếp đãi khách quý.
- Pubbapetabalī: Bố-thí hồi hướng phước-thiện đến người thân quyến đã quá vãng.
- Rājabalī: Dâng lễ, đóng thuế cho Đức-vua.
- Devatābalī: Dâng phước-thiện đến chư-thiên, ...


Người nào kính yêu chư-thiên, thì chư-thiên cũng kính yêu, hộ trì lại người ấy. Như vậy, nếu những người nào có đức-tin nơi Tam-bảo, tạo mọi phước-thiện như bố-thí, giữ gìn giới trong sạch hoàn toàn, thuyết-pháp, nghe-pháp, thực hành pháp-hành thiền-định, thực hành pháp-hành thiền-tuệ, v.v … rồi dâng phần phước-thiện ấy đến chư-thiên. Tất cả chư-thiên rất hoan-hỷ phần phước-thiện mà người dâng, cúng dường đến chư-thiên, thì chư-thiên luôn luôn hộ trì cho những người ấy.
Nhưng trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào nghĩ rằng: “Ta nên nương nhờ chư-thiên, dâng lễ vật cúng dường đến chư-thiên, thì chư-thiên sẽ hộ trì giúp đỡ cho ta, hỗ trợ mọi công việc làm ăn được phát đạt, ta không nên nương nhờ nơi Tam-bảo nữa.”
Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy thực hành theo ý nghĩ của mình, từ bỏ quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật- bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, mà theo nương nhờ chư-thiên, hằng ngày dâng lễ cúng dường đến chư-thiên, thì chắc chắn quy-y Tam-bảo của người ấy bị đứt.

Quy-y Tam-bảo vững chắc và không vững chắc
* Quy-y tam-bảo vững chắc

Đối với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đã thành tựu quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana) trong kiếp hiện-tại, chư Thánh thanh-văn ấy là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo, không hề lay chuyển, chỉ có nhất tâm thành kính quy-y Tam-bảo cho đến trọn đời trọn kiếp mà thôi, không bao giờ từ bỏ Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, bởi vì trong tâm của chư Thánh-nhân không còn phiền-não nào hoài- nghi nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, nên quy-y Tam-bảo không bị ô nhiễm.
Vì vậy, kiếp hiện-tại quy-y Tam-bảo của chư bậc Thánh- nhân là cận-sự-nam, cận-sự-nữ không bao giờ bị đứt.

Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, sau khi chết chắc chắn không thể tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) mà chỉ có thiện- nghiệp cho quả tái-sinh làm người hoặc làm chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới hoặc làm phạm-thiên trong cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới, tùy theo năng lực của thiện-nghiệp của bậc Thánh-nhân ấy cho quả.
Những kiếp sau của bậc Thánh-nhân ấy vẫn còn nguyên vẹn quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới vững chắc, khắng khít ở trong tâm, trong mọi kiếp cho đến khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết- bàn, chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Quy-y Tam-bảo không vững chắc
Đối với các hạng-phàm nhân đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana), trong kiếp sống hiện-tại, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy có hai nhóm:

1- Số người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam- bảo rồi, chỉ có nhất tâm giữ gìn duy trì quy-y Tam-bảo trọn vẹn đến trọn đời, cho đến khi chết mà thôi, đồng thời cũng là lúc quy-y Tam-bảo bị đứt, bởi vì quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới chỉ có hiệu lực trong kiếp hiện-tại mà thôi.
Vì vậy, trường hợp quy-y Tam-bảo bị đứt này vô tội (anavajja). Sau khi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ chết, thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trong cõi thiện-giới (cõi người, cõi trời dục-giới, ...) nào, kiếp sau làm người hoặc chư-thiên, hoặc phạm-thiên có gặp được Phật-giáo hay không, điều đó không chắc chắn.
Cho nên, trong kiếp hiện-tại, người cận-sự-nam, cận- sự-nữ phải luôn phát nguyện rằng:
- Do nhờ năng lực phước-thiện quy-y Tam-bảo này, kiếp vị-lai gặp được Đức-Phật, hoặc các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, được nghe chánh-pháp của Đức- Phật, hết lòng thành kính xin quy-y Tam-bảo.

2- Số người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam- bảo rồi, trong kiếp sống hiện-tại, do năng lực phiền-não xui khiến họ từ bỏ Đức-Phật-bảo, từ bỏ Đức-Pháp-bảo, từ bỏ Đức-Tăng-bảo, để theo nương nhờ nơi đạo khác.
Như vậy, quy-y Tam-bảo bị đứt ngay khi đó, không phải chờ đến lúc chết. Đó là trường hợp quy-y Tam-bảo bị đứt mà có tội (sāvajja).
Như vậy, quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới đối với các cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là phàm-nhân, là quy-y Tam-bảo không vững chắc.

Nhân làm ô nhiễm quy-y Tam-bảo


Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là hạng phàm- nhân, có đức-tin nơi Tam-bảo không vững chắc, bởi vì họ vẫn còn có những phiền-não nặng nề trong tâm.
Những phiền-não là nhân làm ô nhiễm quy-y Tam- bảo như:
- Phiền-não si (moha): Tâm-si không hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
Đó là nhân làm ô nhiễm quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo.
- Phiền-não hoài-nghi (vicikicchā): Tâm hoài-nghi về Đức-Phật là hoài-nghi về 9 ân-đức Phật-bảo; hoài-nghi về Đức-Pháp là hoài-nghi về 6 ân-đức Pháp-bảo; hoài- nghi về Đức-Tăng là hoài-nghi về 9 ân-đức Tăng-bảo.
Đó là nhân làm ô nhiễm quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo.
- Phiền-não tà-kiến (michādiṭṭhi): Tâm tà-kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức-Phật, về 9 ân-đức Phật- bảo; tâm tà-kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức- Pháp, về 6 ân-đức Pháp-bảo; tâm tà-kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức-Tăng, về 9 ân-đức Tăng-bảo.
Đó là nhân làm ô nhiễm quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo, v.v…

Phiền-não phát sinh trong những trường hợp


Trong khi đang thọ phép quy-y Tam-bảo, nếu hạng phàm-nhân có những loại phiền-não si-mê, hoài-nghi, tà-kiến ấy phát sinh, thì người ấy không thành tựu phép quy-y Tam-bảo, cũng không chính thức trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.
Hạng phàm-nhân nào chỉ có đức-tin nơi Tam-bảo mà không có trí-tuệ hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, thì trong khi người ấy đang thọ phép quy-y Tam-bảo với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, tuy có đối-tượng ân-đức Tam-bảo, nhưng không hiểu rõ sâu sắc về 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, nên người ấy cũng thành tựu được phép quy-y Tam-bảo nhưng không hợp với trí-tuệ, cũng trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Tuy nhiên, về sau nếu người cận-sự-nam hoặc cận- sự-nữ này có những phiền-não phát sinh ở trong tâm sẽ là nhân làm ô nhiễm quy-y Tam-bảo của người ấy.

Nhân làm trong sạch lại quy-y Tam-bảo

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là hạng phàm-nhân đã thọ phép quy-y Tam-bảo xong rồi, về sau do phiền-não si-mê, hoài-nghi, tà-kiến làm ô nhiễm quy-y Tam-bảo của họ.
Nhờ có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện-trí khuyên nhủ, chỉ bảo, người ấy ý thức được rằng: “Phiền-não làm ô nhiễm quy-y Tam-bảo, đó là điều bất-lợi, thoái hóa trong mọi thiện-pháp, khổ não.”
Người ấy tìm đến bậc thiện-trí có giới-đức thanh-tịnh, tinh thông pháp-học Phật-giáo, giàu kinh nghiệm về pháp-hành Phật-giáo, ... thỉnh Ngài thuyết giảng ân-đức Tam-bảo, quả báu của quy-y Tam-bảo.
Người ấy lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, hiểu rõ về 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân- đức Tăng-bảo, …
Đó là những pháp làm cho dễ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ nhận thức đúng đắn rằng: “Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức- Tăng cao thượng”, được quy-y nương nhờ nơi Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo là nương nhờ nơi cao thượng, sẽ có được quả báu cao thượng, sẽ có được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa trong mọi thiện- pháp cao thượng, sự an-lạc Niết-bàn cao thượng.

Trước kia, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy đã quy- y Tam-bảo nhưng quy-y Tam-bảo của người ấy bị ô nhiễm do bởi phiền-não. Nay, người ấy đến gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, phát sinh trí-tuệ hiểu rõ ân-đức Tam-bảo, ... phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, rồi kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo lại một lần nữa, làm cho quy-y Tam-bảo của họ không còn bị ô nhiễm bởi phiền-não, quy-y Tam-bảo của họ trở nên xán lạn, càng tăng trưởng đức-tin nơi Tam-bảo.
Đó là cách làm trong sạch lại quy-y Tam-bảo.

Quy-y Tam-bảo với đức-tin trong sạch

Trong bài kinh Kāraṇapāḷisutta (23) được tóm lược như sau:
Ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi là vị quan trông coi công việc trong Hoàng tộc Licchavi xứ Vesāli và ông Bà-la- môn Piṅgiyāni là bậc Thánh Bất-lai thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật. Hai người gặp và đàm thoại với nhau, ông Bà-la-môn Piṅgiyāni tán dương ca tụng giáo-pháp của Đức-Phật.
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại tịnh xá trong khu rừng lớn gần thành Vesāli. Khi ấy, ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi đi trông coi công việc bên ngoài cửa thành, nhìn thấy ông Bà-la-môn Piṅgiyāni từ xa đến liền hỏi rằng:
(24): Thưa ông Piṅgiyāni, ông đi đâu trở về trưa vậy?
Piṅ(25): Thưa ông Kāraṇapāḷi, tôi đến hầu Đức-Phật Gotama trở về.
Kā: Thưa ông Piṅgiyāni, ông biết trí-tuệ của Sa-môn Gotama, Bậc đại-trí cao thượng có phải không?
Piṅ: Thưa ông Kāraṇapāḷi, tôi chỉ là người tầm thường làm sao biết được trí-tuệ của Đức-Phật Gotama, bậc nào biết được trí-tuệ của Đức-Phật Gotama, chắc chắn bậc ấy phải là Đức-Phật như Đức-Phật Gotama.
Kā: Thưa ông Piṅgiyāni, tôi nghe nói rằng: Ông thường tán dương ca tụng Sa-môn Gotama lắm phải không?
Piṅ: Thưa ông Kāraṇapāḷi, tôi chỉ là người tầm thường có biết gì về Đức-Phật Gotama mà dám tán dương ca tụng Ngài, chỉ có chư-thiên, chư phạm-thiên, các bậc thiện-trí thường tán dương ca tụng Đức-Phật Gotama là Bậc Tối- Thượng trong tất cả mọi chúng-sinh, nhân-loại, chư- thiên, chư phạm-thiên, chư Sa-môn, Bà-la-môn cả thảy.
Kā: Thưa ông Piṅgiyāni, ông đã nhận thấy sự lợi ích thế nào mà ông có đức-tin trong sạch nơi Sa-môn Gotama đến như thế ấy?
Piṅ: Thưa ông Kāraṇapāḷi, ví như một người đã ăn uống no đủ những món vật thực ngon lành có hương vị hảo hạng rồi, thì người ấy không còn thèm muốn những món vật thực dở như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy không còn muốn nghe lời dạy của Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng như thế ấy.
Cũng ví như người đang đói khát, mệt lả, gặp một tổ ong đầy mật, người ấy uống mật ong nguyên chất không pha trộn thứ khác, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi, hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy phát sinh tâm hỷ lạc, có đức- tin trong sạch nơi Đức-Phật Gotama, cũng như thế ấy.
Cũng ví như người đi tìm được cây trầm vàng hoặc cây trầm đỏ, người ấy ngửi rễ trầm, thân cây trầm, ngọn cây trầm cảm thấy mùi thơm tho, mát dịu, dễ chịu như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy cảm thấy hài lòng tâm vô cùng hoan-hỷ, cũng như thế ấy.
Cũng ví như người mắc phải bệnh trầm kha lâu năm đau khổ, nhưng diễm phúc gặp được vị lương y tài giỏi điều trị khỏi căn bệnh ấy, người ấy sống được an-lạc, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có từ trước rồi, người ấy diệt được sự sầu não, khóc than, khổ tâm, khổ thân, sự thống khổ cùng cực, cũng như thế ấy.
Cũng ví như một hồ nước trong trẻo, sạch sẽ, mát mẻ, bến nước lài thoai thoải, cảnh đẹp nên thơ, một người đi đường xa, trời nắng, mệt mỏi, khát nước, đi lần đến hồ nước ấy, xuống hồ uống nước, tắm rửa sạch sẽ, hết khát, hết mệt, diệt được sự nóng nảy như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có từ trước rồi, người ấy cảm thấy diệt được phiền-não nóng nảy trong tâm, tâm được thanh-tịnh vắng lặng cũng như thế ấy, ...
Sau khi lắng nghe ông Bà-la-môn Piṅgiyāni thuyết giảng sự lợi ích chánh-pháp của Đức-Phật Gotama, ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi liền đứng dậy mặc áo chừa vai bên phải, quỳ xuống đất chắp hai tay hướng về Đức- Thế-Tôn đang ngự, thốt lên lời tôn kính 3 lần:
“Namo Tassa Bhagavato Arahato Samāsambuddhassa.”
- Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, ...
Ông ca tụng ông Bà-la-môn Piṅgiyāni rằng:
- Thưa ông Piṅgiyāni, lời giảng giải của ông thật rõ ràng quá, làm tôi vô cùng hoan-hỷ. Ông đã giảng giải bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ mọi vật hiện hữu.
Tiếp theo ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời chân thật rằng:
“Esāhaṃ Bho Piṅgiyāni taṃ Bhagavantaṃ Gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakam maṃ bhavaṃ Piṅgiyāni dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính thưa ông Piṅgiyāni, xin ông chứng minh lời chân thật của tôi rằng: “Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn Gotama, xin quy-y Đức-Pháp- bảo, xin quy-y chư tỳ-khưu Tăng-bảo.”
Kính xin ông Piṅgiyāni công nhận tôi là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo cao thượng, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Sau khi ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi xin thọ phép quy- y Tam-bảo trước sự hiện diện chứng minh, công nhận của Ông Bà-la-môn Piṅgiyāni, như vậy, ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo, đã trở thành người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo ngay khi ấy.

Quả báu của quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới

Quả báu của quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới rất phi thường, thật vô cùng phong phú. Những người thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới trước khi lâm chung, sau khi chết, cận-tử thiện-nghiệp (āsannakusalakamma) cho quả tái-sinh lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Như tích Satullapakāyikā trong Chú-giải Devatā- saṃyutta (Chương chư-thiên), Kinh Sabbhisutta được tóm lược như sau:

Một chiếc thuyền buôn có số đông thương gia trên thuyền, chiếc thuyền ra biển khơi đến ngày thứ bảy thì gặp sóng to gió lớn, thuyền bị hư, nước tràn vào thuyền làm cho thuyền sắp chìm giữa biển khơi. Mọi người trên thuyền đều sợ hãi, cầu khẩn chư-thiên hộ trì, khóc than van vái.
Trong số người đó, một người cận-sự-nam thấy tai họa sự chết sắp đến, người cận-sự-nam ấy ngồi niệm tưởng đến pháp mà mình đã thọ trì, đó là quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới trong sạch của mình, rồi ngồi kiết già an nhiên tự tại như một hành-giả, không hề tỏ vẻ sợ hãi chút nào. Mọi người đến hỏi:
- Này ông, do nguyên nhân nào mà ông không sợ hãi?
Người cận-sự-nam ấy thưa rằng:
- Thưa quý ông, tôi không sợ hãi vì trước ngày đi xuống thuyền, tôi có đến hầu chư tỳ-khưu-Tăng, xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, đã làm phước-thiện bố-thí đến quý Ngài. Tôi có quy-y Tam-bảo và có ngũ-giới trong sạch, để làm nơi nương nhờ cho tôi.
Vì vậy, tôi không sợ hãi. Mọi người thưa rằng:
- Kính thưa Ngài, phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới ấy, bây giờ chúng tôi có thể thọ trì được hay không?
Người cận-sự-nam ấy thưa rằng:
- Sādhu! Tốt lành thay! Phép quy-y Tam-bảo và ngũ- giới này, mọi người đều nên thọ trì, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
Mọi người thưa:
- Kính thưa Ngài, như vậy, xin Ngài hướng dẫn chúng tôi thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Người cận-sự-nam thiện-trí ấy chia mọi người ra thành 7 nhóm, mỗi nhóm 100 người:
* Đầu tiên, người cận-sự-nam thiện-trí hướng dẫn nhóm thứ nhất thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ- giới. Khi nhóm thứ nhất thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, thì nước ngập đến mắt cá.
* Tiếp tục, nhóm thứ nhì thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, thì nước ngập đến đầu gối.
* Nhóm thứ ba thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, thì nước ngập đến mông.
* Nhóm thứ tư thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, thì nước ngập đến lỗ rún.
* Nhóm thứ năm thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, thì nước ngập đến ngực.
* Nhóm thứ sáu thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, thì nước ngập gần đến cổ.
* Nhóm thứ bảy thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, thì nước ngập gần đến miệng.
Sau khi hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho 7 nhóm gồm có 700 người xong rồi, người cận-sự-nam thiện trí khuyên dạy rằng:
- Này quý vị! Xin quý vị nương nhờ nơi Tam-bảo và ngũ-giới của mình. Ngoài ra, không còn nương nhờ nơi nào khác nữa.

Sau đó, chiếc thuyền bị chìm, tất cả mọi người trên thuyền đều bị chết cả thảy. Sau khi chết, nhờ phước- thiện thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới lúc sắp chết, chính cận-tử thiện-nghiệp (āsannakusalakamma) cho quả tái-sinh lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, làm chư-thiên-nam, mỗi vị có một lâu đài nguy nga tráng lệ. Trong số những lâu đài ấy, lâu đài của vị Thầy nằm ở trung tâm cao 100 do tuần, còn 700 lâu đài của 700 vị thiên-nam đệ-tử xung quanh, mỗi lâu đài cao 12 do tuần.
Nhóm chư-thiên ấy suy xét: “Do thiện-nghiệp nào của mình mà cho quả tái-sinh lên cõi trời này, có được quả báu tốt lành đáng hài lòng như thế này?” Họ thấy rõ, biết rõ rằng họ có được quả báu tốt lành đáng hài lòng này là do nương nhờ vị Thầy của họ, hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, nên bàn bạc với nhau rằng: “Chúng ta mời vị Thầy cùng hiện xuống cõi người đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, đồng thời tán dương ca tụng ân-đức Thầy trước sự hiện diện của Đức-Phật.”
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika, gần kinh-thành Sāvatthī. Vào canh giữa, nhóm chư-thiên hiện xuống, hào quang sáng ngời khắp cả ngôi chùa Jetavana. Họ đảnh lễ Đức- Thế-Tôn xong, đứng một nơi hợp lẽ.

* Một vị thiên nam tán dương ca tụng ân-đức Thầy:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện-trí,
Nên làm bạn thân với bậc thiện-trí,
Để nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí,
Sẽ là người cao thượng, không thấp hèn.


* Vị thiên nam khác tán dương ca tụng ân-đức Thầy:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện-trí,
Nên làm bạn thân với bậc thiện-trí,
Để nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí,
Có được trí-tuệ từ bậc thiện-trí.
Không phải có từ hạng người si-mê.

* Vị thiên nam khác tán dương ca tụng ân-đức Thầy:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện-trí,
Nên làm bạn thân với bậc thiện-trí,
Để nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí,
Không sầu não giữa đám người sầu-não.


* Vị thiên nam khác tán dương ca tụng ân-đức Thầy:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện-trí,
Nên làm bạn thân với bậc thiện-trí,
Để nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí,
Được vinh hiển giữa các hàng thân-quyến.


* Vị thiên nam khác tán dương ca tụng ân-đức Thầy:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện-trí,
Nên làm bạn thân với bậc thiện-trí,
Để nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí,
Những chúng-sinh ấy sẽ sinh cõi trời.


* Vị thiên nam khác tán dương ca tụng ân-đức Thầy:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện-trí,
Nên làm bạn thân với bậc thiện-trí,
Để nghe biết pháp của bậc thiện-trí,
Những chúng-sinh ấy thường được an-lạc.


* Một vị thiên nam bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, những lời lẽ ấy, lời vị thiên nam nào gọi là thiện ngôn.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này chư-thiên! Những lời của các con đều là thiện ngôn (subhāsita). Nay, các con nghe lời của Như-Lai.
- Này chư-thiên!
Người nên thân cận với bậc thiện-trí,
Nên làm bạn thân với bậc thiện-trí,
Để nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí,
Người ấy được giải thoát mọi cảnh khổ,
Tử sinh luân-hồi trong tam-giới này.

Nhóm chư-thiên phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ với lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, đảnh lễ Ngài rồi xin phép trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên, an hưởng mọi sự an-lạc nơi cõi ấy.

Điều nhận xét:


Sáu vị thiên nam, trong mỗi bài kệ tán dương ca tụng ân-đức Thầy của mình đều có câu: “Sataṃ saddhamma- maññāya: Để nghe chánh-pháp của bậc thiện trí.”
Danh từ Saddhamma: Chánh-pháp trong 6 bài kệ chỉ đề cập đến phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới mà thôi. Bởi vì, các vị thiên nam chỉ có trình độ hiểu biết được quả báu an-lạc mà quý vị chư-thiên đang thọ hưởng trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên, đó là quả báu của dục-giới thiện-nghiệp thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới từ vị Thầy.
* Trong bài kệ của Đức-Phật có câu:
“Sataṃ saddhammamaññāya: Để nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí.”

Danh từ Saddhamma: Chánh-pháp mà Đức-Phật truyền dạy trong bài kệ không chỉ là thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, mà còn có bát-giới, cửu- giới, thập-giới, 227 giới của tỳ-khưu; pháp-hành thiền- định, để chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô- sắc-giới; pháp-hành thiền-tuệ, 37 pháp (26) để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.

Cho nên, câu cuối của bài kệ Đức-Phật:
“Sabbadukkhā pamuccati: Người ấy được giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.”

Thọ phép quy-y Tam-bảo thời xưa và thời nay
1- Thọ phép quy-y Tam-bảo thời xưa

Thời xưa, số người đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền-não, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Ngay khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh, có đối- tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, diệt tận được phiền-não, bậc Thánh-nhân ấy đã thành tựu thọ phép quy-y Tam- bảo theo pháp siêu-tam-giới ở trong tâm.

* Đối với bậc Thánh-nhân để được chính thức công nhận là người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ, một lần nữa, trước sự hiện diện của Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn của Đức-Phật, bậc Thánh-nhân ấy thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời nói.

* Nếu người ấy là nam Thánh-nhân thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

* Nếu người ấy là nữ Thánh-nhân thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.

* Đối với các hạng phàm-nhân, muốn chính thức trở thành một người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, người đệ-tử ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có đại-thiện-tâm tôn kính Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức- Tăng cao thượng, có trí-tuệ sáng suốt, học hỏi, hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, nhất là hiểu rõ 9 Ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, trước sự hiện diện của Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật chứng minh, người ấy thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời nói.

* Nếu người đệ-tử ấy là người nam thì tự nguyện, xin thọ phép quy-y Tam-bảo rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn, xin quy-y Đức-Pháp-bảo, xin quy-y chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

* Nếu người đệ-tử ấy là người nữ thì tự nguyện, xin thọ phép quy-y Tam-bảo rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn, xin quy-y Đức-Pháp-bảo, xin quy-y chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nữ đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

* Nếu không có Đức-Phật thì có bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật chứng minh.
Như trường-hợp ông bà-la-môn Kāraṇapāḷi, kính mời ông bà-la-môn Piṅgiyāni chứng minh nghe lời chân thật của ông rằng:
“Esāhaṃ Bho Piṅgiyāni taṃ Bhagavantaṃ Gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakam maṃ bhavaṃ Piṅgiyāni dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.” (27)
- Kính thưa ông Piṅgiyāni, xin ông chứng minh lời chân thật của tôi rằng: “Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn Gotama, xin quy-y Đức-Pháp- bảo, xin quy-y chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.”
Kính xin ông Piṅgiyāni công nhận tôi là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo cao thượng kể từ hôm nay cho đến trọn đời.

Như vậy, ông bà-la-môn Kāraṇapāḷi đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo, đã chính thức trở thành người cận- sự-nam trong hàng tứ chúng của Đức-Phật Gotama trước sự hiện diện chứng minh công nhận của Ông Bà- la-môn Piṅgiyāni.

* Thời xưa, trong thời-kỳ Đức-Phật xuất hiện trên thế gian, tiếng Māgadha được xem như tiếng phổ thông mà Đức-Phật sử dụng để thuyết pháp tế độ chúng-sinh gọi là tiếng Pāḷi.
Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, các hàng thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật vẫn còn giữ nguyên truyền thống xưa.
Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có đại- thiện-tâm tôn kính Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng, có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, người ấy có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, nhất là hiểu biết rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp- bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, trước sự hiện diện của bậc Thánh thanh-văn là bậc Đại-Trưởng-lão, kính thỉnh Ngài chứng minh.

Người ấy thành kính tự nguyện nói lên lời chân thật xin thọ phép quy-y Tam-bảo, rồi kính xin Ngài chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.
Nếu không có bậc Đại-Trưởng-lão thì bậc Trưởng- lão, hoặc vị tỳ-khưu, hoặc vị sa-di, hoặc thậm chí người cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết lễ thọ phép quy-y Tam-bảo chứng minh.
Người ấy thành kính tự nguyện nói lên lời chân thật xin thọ phép quy-y Tam-bảo, rồi kính xin Ngài chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.

2- Thọ phép quy-y Tam-bảo thời nay


Thời nay, Phật-giáo đã được truyền bá đến nhiều nước trên thế giới, mà mỗi nước có tiếng nói riêng của nước mình.
Mặc dù như vậy, các nước theo truyền thống Phật- giáo Nguyên-thủy Theravāda vẫn căn cứ vào Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi làm căn bản chính. Do đó, tiếng Pāḷi trở thành một ngôn ngữ chung cho tất cả các hàng thanh-văn đệ-tử để học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, còn tiếng nói của xứ sở mình là ngôn ngữ riêng dùng để giảng giải ý nghĩa ngôn ngữ Pāḷi ra ngôn ngữ của mình, cho mọi người ở trong nước hiểu rõ giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.
Cho nên, các nước theo truyền thống Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda vẫn tôn trọng tiếng Pāḷi được ghi trong Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi là lời giáo huấn của Đức-Phật Gotama.

* Đối với bậc xuất gia sa-di, tỳ-khưu trong các nước Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda, có bổn phận học pháp-học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, để duy trì Phật-giáo cho được tồn tại trên thế gian.
Các nghi lễ thọ sa-di, thọ tỳ-khưu, hành Tăng-sự tụng Kammavācā, v.v… chắc chắn chỉ sử dụng tiếng Pāḷi đúng theo Tạng-luật Pāḷi mà thôi, không thể sử dụng tiếng xứ sở của mình.
Cho nên, các nước theo truyền thống Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda, những nghi lễ chính Phật-giáo, đều sử dụng tiếng Pāḷi hầu như giống hệt nhau.

* Đối với các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong các nghi thức xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoặc bát-giới, hoặc cửu-giới, ... nghi thức tụng kinh lễ bái Tam-bảo, tụng kinh Parittapāḷi, ... bằng tiếng Pāḷi là chính, có nơi đọc tiếng Pāḷi và dịch nghĩa bằng tiếng của xứ sở mình, để cho mọi người trong nước hiểu biết rõ ý nghĩa Pāḷi.
Thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông
Thời nay, các nước theo truyền thống Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda như Tích-lan, Miến-điện, Thái- lan, … Phật-giáo Nguyên-thủy tại Việt-Nam ... thường áp dụng thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông này được dựa theo cách xuất gia thọ sa-di mà Đức-Phật đã ban hành đến chư tỳ-khưu rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép xuất gia thọ sa-di bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là xuất gia thọ sa-di.
Vị Thầy tế-độ (upajjhāya) hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi trước, giới-tử thọ phép quy-y Tam-bảo lặp lại từng chữ từng câu đúng theo vị Thầy tế- độ. Khi giới-tử lặp lại câu:
“Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo: “Itipiso Bhagavā Arahaṃ, … Bhagavā.”
“Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo: “Svākkhāto Bhagavatā dhammo, … paccattaṃ veditabbo viññūhi.”
“Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, … Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.” cho đến câu cuối:
“Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”

Khi giới tử đã lặp lại đúng từng chữ từng câu Pāḷi theo vị Thầy tế-độ, đến câu cuối chấm dứt, đồng thời ngay khi ấy giới tử trở thành samāṇera (vị sa-di) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, có đầy đủ 10 giới sa- di, 10 pháp-hoại, 10 pháp hành-phạt, 75 giới-hành, 14 pháp-hành cùng một lúc khi trở thành vị sa-di không trước không sau.
Nhưng nếu trường-hợp vị Thầy tế-độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo mà giới-tử lặp lại từng chữ từng câu Pāḷi không đúng thì giới-tử không thành-tựu phép quy-y Tam-bảo, cũng không trở thành samāṇera (vị sa- di) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, bởi vì nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo trong lễ xuất gia trở thành samāṇera (vị sa-di) với điều kiện ubhato suddhi nghĩa là vị Thầy tế-độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo từng chữ từng câu Pāḷi đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi và giới-tử cũng phải lặp lại từng chữ, từng câu Pāḷi đúng theo vị Thầy tế-độ.

* Thời nay, lễ thọ phép quy-y Tam-bảo này được áp dụng cho các hàng tại gia cư-sĩ là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong các nước theo truyền thống Phật-giáo Theravāda. Bởi vậy, cho nên thọ phép quy-y Tam-bảo này gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông của thời nay.

Hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông

Thời nay, sở dĩ Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo như vậy, là vì những người đệ-tử không rành tiếng Pāḷi, vả lại, nếu để mỗi người nói bằng tiếng xứ sở của mình, thì mỗi người nói một cách khác nhau, không thể đồng thanh từng chữ, từng câu với nhau, làm cho nghi lễ thọ phép quy-y Tam-bảo kém phần trang nghiêm.
Do đó, Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo từng chữ, từng câu, để cho các người đệ- tử đồng thanh lặp lại đúng từng chữ, từng câu y theo Ngài Đại-Trưởng-lão.
Cho nên, nghi lễ thọ phép quy-y Tam-bảo tăng thêm phần tôn nghiêm long trọng.
Còn điều quan trọng nữa, người hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo là vị Thầy của mình, vị Thầy ấy, có vai trò rất quan trọng làm phận sự dạy dỗ, chỉ dạy các người đệ-tử hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, bởi vì, ân-đức Tam-bảo này là đối-tượng của đại-thiện-tâm làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo, giúp hỗ trợ cho người đệ-tử thành tựu được phép quy-y Tam-bảo.
Vị Thầy còn có bổn phận dạy dỗ các đệ-tử những pháp quan trọng khác như pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, v.v...
Cho nên, người đệ-tử phải có phận sự kính trọng và biết ơn Thầy.

Cách thành tựu phép quy-y Tam-bảo


Để thành-tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana), vai trò quan trọng của người đệ- tử là chính. Cho nên, người đệ-tử phải là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có thiện-tâm tôn kính Đức- Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, có trí-tuệ sáng suốt học hỏi các pháp, nhất là hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, bởi vì những ân- đức Tam-bảo này là đối-tượng của đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana).
Khi người đệ-tử đang thọ phép quy-y Tam-bảo, lặp lại từng chữ, từng câu quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, hiểu rõ ý nghĩa và có đối-tượng của từng câu quy-y ấy như sau:

* Khi lặp lại câu:
“Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
Nghĩa từng chữ:
Buddhaṃ : nơi 9 ân-đức Phật-bảo
Saraṇaṃ : quy-y nương nhờ
Gacchāmi : con xin đến, con hiểu biết rõ, ...
Nghĩa toàn câu:
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo: “Itipiso Bhagavā Arahaṃ … Bhagavā.”

* Khi lặp lại câu:
“Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
Nghĩa từng chữ:
Dhammaṃ : nơi 6 ân-đức Pháp-bảo
Saraṇaṃ : quy-y nương nhờ
Gacchāmi : con xin đến, con hiểu biết rõ, ...
Nghĩa toàn câu:
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo: “Svākkhāto Bhagavatā dhammo … paccattaṃ veditabbo viññūhi.”

* Khi lặp lại câu:
“Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
Nghĩa từng chữ:
Saṃghaṃ : nơi 9 ân-đức Tăng-bảo
Saraṇaṃ : quy-y nương nhờ
Gacchāmi : con xin đến, con hiểu biết rõ, ...
Nghĩa toàn câu:
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho … Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”

* Dutiyampi
: Lần thứ nhì, lặp lại từng câu quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng theo tuần tự 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.

* Tatiyampi: Lần thứ ba, cũng như lần thứ nhì.

Thọ phép quy-y Tam-bảo được lặp lại ba lần theo truyền thống. Đó cũng là phong tục của người xưa, để chứng tỏ lòng chân thành tôn kính, khẳng định chắc chắn đã quy-y Tam-bảo: quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo.
Như vậy, sự thành-tựu của phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới, vai trò của người đệ-tử là quan trọng nhất; còn vị Thầy hướng dẫn chỉ là nhân duyên hỗ trợ giúp cho người đệ-tử được thành-tựu thọ phép quy-y Tam-bảo mà thôi.
- Nếu không có vị Đại-Trưởng-lão hướng dẫn, thì vị Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Nếu không có vị Trưởng-lão hướng dẫn, thì vị Tỳ- khưu hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Nếu không có vị Tỳ-khưu hướng dẫn, thì vị Sa-di hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Nếu không có vị Sa-di hướng dẫn, thì thậm chí người cận-sự-nam, hoặc người cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, biết cách hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo cũng hợp-pháp, bởi vì sự thành-tựu của phép quy-y Tam-bảo là do người đệ-tử hiểu biết cách thọ phép quy-y Tam-bảo đúng đắn.

Cũng có thể ví dụ nôm-na như: thí sinh nào trúng tuyển vào trường đại-học, trở thành sinh viên, là do nhờ tài năng của thí sinh ấy, không phải do nhờ ban giám khảo. Còn ban giám khảo chỉ làm phận sự hợp thức hóa, và công nhận thí sinh ấy là một sinh viên thực sự của trường đại-học ấy mà thôi.
Cũng như vậy, vị Thầy hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo là giúp đỡ, dạy dỗ người đệ-tử hiểu biết rõ cách thọ phép quy-y Tam-bảo, để cho được thành-tựu. Còn việc thành tựu phép quy-y Tam-bảo là do tài năng hiểu biết của người đệ-tử.

* Khi người đệ-tử lặp lại câu quy-y Phật: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 9 ân-đức Phật-bảo như thế nào?
Khi lặp lại câu quy-y Phật: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật” bằng tiếng Pāḷi hoặc tiếng Việt, người đệ-tử cần phải hiểu rõ ý nghĩa từng chữ, từng câu, với đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo hiện rõ trong tâm, đồng thời cùng một lúc không trước không sau.
Cũng ví như khi nhắc đến tên “cha hoặc mẹ” thì ngay khi ấy, hình ảnh cha hoặc mẹ, ân-đức của cha mẹ, đồng thời hiện rõ trong tâm của người con có hiếu nghĩa. Bởi vì, hình ảnh và ân-đức của cha mẹ đã in sâu trong tâm tưởng của người con từ thuở nhỏ.
Cũng như vậy, để cho đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo hiện rõ trong tâm, thì trước đó, người đệ-tử đã học hỏi, ghi nhớ, hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo xong, nên khi lặp lại tiếng Buddhaṃ (Đức-Phật-bảo), đồng thời đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo hiện rõ trong tâm ngay lúc ấy, không trước không sau.

* Khi người đệ-tử lặp lại câu quy-y Pháp: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 6 ân-đức Pháp-bảo như thế nào?
Khi lặp lại câu quy-y Pháp: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp” bằng tiếng Pāḷi hoặc tiếng Việt, người đệ-tử cần phải hiểu rõ ý nghĩa từng chữ, từng câu, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo hiện rõ trong tâm, đồng thời cùng một lúc không trước không sau.
Cũng ví như một bài hát mà người ấy thích nhất, đã học thuộc lòng bài hát từ trước. Một khi nhắc đến tên bài hát ấy, đồng thời toàn bài hát ấy hiện rõ trong tâm trí của người ấy.
Cũng như vậy, để cho đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo hiện rõ trong tâm, thì trước đó, người đệ-tử đã học hỏi, ghi nhớ, hiểu rõ ý nghĩa 6 ân-đức Pháp-bảo xong, nên khi lặp lại tiếng Dhammaṃ (Đức-Pháp-bảo), đồng thời đối-tượng 6 Ân-đức Pháp-bảo hiện rõ trong tâm ngay lúc ấy, không trước không sau.

* Khi người đệ-tử lặp lại câu quy-y Tăng: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 9 ân-đức Tăng-bảo như thế nào?
Khi lặp lại câu quy-y Tăng: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng” bằng tiếng Pāḷi hoặc tiếng Việt, người đệ-tử cần phải hiểu rõ ý nghĩa từng chữ từng câu, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có 9 ân-đức Tăng-bảo hiện rõ trong tâm, đồng thời cùng một lúc không trước không sau.
Cũng ví như, một vị Thầy khả kính, khả ái đã từng dạy dỗ người học trò nên người hữu ích. Một khi nhắc đến tên vị Thầy ấy của mình, đồng thời lúc ấy hình ảnh và ân-đức của vị Thầy hiện rõ trong tâm tưởng của người học trò có tình có nghĩa với Thầy.
Cũng như vậy, để cho đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo hiện rõ trong tâm, thì trước đó, người đệ-tử đã học hỏi, ghi nhớ, hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Tăng-bảo xong, nên khi lặp lại tiếng Saṃghaṃ (Đức-Tăng-bảo), đồng thời đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo hiện rõ trong tâm ngay lúc ấy, không trước không sau.

Do đó, muốn thành tựu phép quy-y Tam-bảo, trước tiên người đệ-tử cần phải đến gần gũi, thân cận với vị Thầy là bậc thiện-trí trong Phật-giáo, để lắng nghe chánh-pháp, nhất là học hỏi, ghi nhớ hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng- bảo, bởi vì những ân-đức Tam-bảo này là đối-tượng của đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự thọ phép quy- y Tam-bảo cho được thành tựu.
Như vậy, sự thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo tam- giới là do sự hiểu biết của người đệ-tử, mà sự hiểu biết ấy là do nương nhờ vị Thầy, bậc thiện-trí biết phương pháp dạy dỗ người đệ-tử trở thành người cận-sự-nam, hoặc người cận-sự-nữ.
Vậy, người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ phải nên biết làm tròn bổn phận của người đệ-tử đối với vị Thầy của mình.

Thai nhi thọ phép quy-y Tam-bảo


* Trường-hợp Hoàng tử Bodhi còn là thai-nhi nằm trong bụng, mẫu-hậu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xin cho thai-nhi quy-y Tam-bảo. Hoàng tử Bodhi nghe mẫu hậu thuật lại, nên kể lại cho bạn Siñjikāputta biết rằng:
- Này bạn Siñjikāputta thân mến!
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Ghositārāma, xứ Kosambī. Khi ấy, tôi còn là thai-nhi nằm trong bụng, mẫu-hậu của tôi đến hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ rồi bạch rằng:
“Yo me ayaṃ Bhante kucchigato kumārako vā kumārikā vā, so Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchati Dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ taṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.” (28)
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thai nhi nào là hoàng-tử hoặc công-chúa đang nằm trong bụng của con, nó thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp- bảo và xin quy-y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận nó là người cận- sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.


Trẻ sơ sinh thọ phép quy-y Tam-bảo


* Trường hợp Hoàng-tử Bodhi còn thơ ấu, nhũ-mẫu ẵm đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xin cho Hoàng-tử Bodhi quy- y Tam-bảo, nên Hoàng-tử kể cho bạn Sañjikāputta rằng:
- Này bạn Sañjikāputta thân mến!
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại khu rừng Bhesakaḷāvana gần thành Susumaragira trong vùng Bhagga. Khi ấy, tôi còn thơ ấu, nhũ-mẫu ẵm tôi đến đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ rồi bạch rằng:
“Ayaṃ Bhante Bodhirājakumāro Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ taṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Hoàng-tử Bodhi thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp- bảo, và xin quy-y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận Hoàng-tử Bodhi là người cận-sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo kể từ hôm nay cho đến trọn đời.


* Trường hợp Hoàng-tử Bodhi đã trưởng thành tự mình đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin thọ phép quy-y Tam-bảo, sau đó kể lại cho bạn Siñjikāputta biết rằng:
- Esāhaṃ Samma Sañjikāputta, tatiyampi Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
- Này bạn Sañjikāputta thân mến!
Lần thứ ba này, tôi đến thọ phép quy-y Tam-bảo rằng: “Con thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn, xin quy- y nơi Đức-Pháp-bảo và xin quy-y nơi chư Trưởng-lão tỳ- khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.”


Nhận xét thai nhi và đứa trẻ thơ ấu

* Thai nhi còn đang nằm trong bụng mẹ và đứa trẻ còn thơ ấu chưa có sự hiểu biết, mà người thay mặt đứa trẻ thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo có được thành- tựu hay không? Và có được sự lợi ích như thế nào?
* Thai nhi còn trong bụng mẹ và đứa trẻ còn thơ ấu chưa có sự hiểu biết, mà người thay mặt đứa trẻ thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, tuy phép quy-y Tam- bảo ấy không thành tựu, nhưng sẽ có được sự lợi ích, khi đứa bé trưởng thành nghe người mẹ kể lại cho nó biết:

- Này hoàng-nhi yêu quý! Khi con còn là thai nhi trong bụng, mẫu-hậu đã đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng: “Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thai nhi nào là Hoàng-tử hoặc Công-chúa đang nằm trong bụng con, nó thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo và xin quy-y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận nó là người cận- sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.”
- Này hoàng-nhi yêu quý! Khi con sinh ra đời còn là một hoàng-tử thơ ấu, chưa có sự hiểu biết, nhũ-mẫu của con, ẵm con đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rồi bạch rằng: “Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Hoàng-tử Bodhi thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp- bảo và xin quy-y nơi chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận Hoàng-tử Bodhi là người cận-sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”


Khi hoàng-tử Bodhi nghe mẫu-hậu thuật lại đã hai lần thọ phép quy-y Tam-bảo cho mình, khiến hoàng-tử Bodhi có một ấn tượng sâu sắc rằng: “Ta là người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo”. Cho nên, khi hoàng-tử trưởng thành, đã tự mình đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo lần thứ ba.
Như vậy, mặc dù hai lần trước phép quy-y Tam-bảo không thành tựu, song cũng làm nhân duyên để hỗ trợ cho lần thứ ba này, chắc chắn được thành-tựu phép quy- y Tam-bảo, và được chính thức trở thành người cận-sự- nam trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Về sau, hoàng-tử Bodhi là người cận-sự-nam có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo, có lòng tôn kính Đức-Phật- bảo, tôn kính Đức-Pháp-bảo, tôn kính Đức-Tăng-bảo, để được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa cao thượng, sự an-lạc cao thượng.

Lợi ích của thọ phép quy-y Tam-bảo

Lợi-ích của thọ phép quy-y Tam-bảo có 2 phần:
- Sự lợi ích chung của phép quy-y Tam-bảo.
- Sự lợi ích riêng của mỗi phép quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng.

1- Sự lợi ích chung của thọ phép quy-y Tam-bảo

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thọ phép quy-y Tam-bảo rằng:
* Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
* Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
* Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi, v.v...

Người nào đã thành tựu thọ phép quy-y Tam-bảo xong rồi, người ấy trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ có được sự lợi ích chung của phép quy-y Tam-bảo vô cùng phong phú, vô lượng, vô biên.
Trong Chú-giải dạy rằng:
* Saraṇagatānaṃ teneva saraṇagamanena bhayaṃ santāsaṃ dukkhaṃ duggatiṃ parikilesaṃ hanati vināsetīti attho. (29)
- Đối với người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thành tựu thọ phép quy-y Tam-bảo, ... sẽ có được sự lợi ích như:
- Tránh khỏi khổ tái-sinh trong 4 cõi ác-giới.
- Giảm bớt được sự khổ thân.
- Tiêu diệt được sự kinh sợ, khổ tâm.
- Diệt được họa tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Đó là sự lợi ích chung của sự thành tựu thọ phép quy- y Tam-bảo.

Giải thích:
* Tránh khỏi khổ tái-sinh trong 4 cõi ác-giới
Đối với những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, sau khi chết, do năng lực phước-thiện quy-y Tam-bảo này, có khả năng tránh khỏi khổ tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh). Do năng lực của phước-thiện quy-y Tam-bảo này cho quả tái-sinh trong cõi thiện-giới, đó là cõi người hoặc cõi trời dục-giới hưởng mọi sự an-lạc trong cõi ấy cho đến hết tuổi thọ. Như Đức-Phật dạy:

“Yekeci Buddhaṃ saraṇaṃ gatāse,
Na te gamissanti apāyabhūmiṃ.
Pahāya mānussaṃ dehaṃ,
Devakāyaṃ paripūressanti.” (30)

- Những người nào đã quy-y Đức-Phật,
Những người ấy sau khi bỏ thân người,
Sẽ không tái-sinh trong cõi ác-giới,
Sẽ hóa-sinh lên cõi trời dục-giới.

* Giảm được sự khổ thân

Hễ có thân là có khổ, song người đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo rồi, họ là người có nhiều phước-thiện cho quả tốt lành, có đầy đủ mọi thứ cần thiết trong cuộc sống như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh và các thứ phương tiện khác, do đó, nên giảm được mọi sự khổ thân, đói khát, nóng lạnh, v.v...

* Tiêu diệt được sự kinh sợ, khổ tâm

Người đã quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo, tâm thường niệm tưởng đến 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo thì chắc chắn mọi kinh sợ sẽ không thể phát sinh được. Như Đức-Phật dạy:

“Evaṃ Buddhaṃ sarantānaṃ
Dhammañca Saṃghañca bhikkhavo
Bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā
Lomahaṃso na hessati.” (31)

- Này chư tỳ-khưu! Như-lai chỉ dạy,
Các con thường niệm ân-đức Phật-bảo,
Ân-đức Pháp-bảo, ân-đức Tăng-bảo,
Sự kinh hồn, run sợ, sởn tóc gáy,
Không phát sinh đối với các con vậy.

* Diệt được khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới

Sở dĩ, chúng-sinh luẩn quẩn trong vòng tử sinh luân- hồi trong ba giới bốn loài, là vì có ba pháp-luân:
- Phiền-não-luân (Kilesavaṭṭa).
- Nghiệp-luân (Kammavaṭṭa).
- Quả-luân (Vipākavaṭṭa).
Tam-luân này kết nối với nhau thành vòng tròn, không có chỗ bắt đầu cũng không có chỗ cuối cùng; nghĩa là: có phiền-não-luân khiến tạo nên nghiệp-luân, có nghiệp- luân cho quả-luân tái-sinh, có quả-luân tái-sinh thì còn phiền-não-luân, tạo nghiệp-luân, có nghiệp-luân cho quả-luân tái-sinh, ... Cứ như vậy, khiến chúng-sinh luẩn quẩn trong vòng tử sinh luân-hồi trong tam-giới từ vô- thủy đến vô-chung.
Người đã thọ phép quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thực hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc được 4 Thánh-đạo-tuệ diệt tận được tất cả mọi phiền-não-luân không còn dư sót; đồng thời cũng phá tan rã vòng tam-luân, diệt được khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, do nhờ thành-tựu được phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới.

2- Sự lợi ích thọ mỗi phép quy-y

Mỗi phép quy-y: Quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo có đối-tượng khác nhau, nên có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc khác nhau.

a) Sự lợi ích của thọ phép quy-y Đức-Phật-bảo

Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, thành kính xin quy-y Đức-Phật- bảo rằng: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, nên người ấy có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc như sau:
“Hite pavattanena ahite ca nivattanena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati Buddho.” (32)
- Người đã quy-y Đức-Phật-bảo, Đức-Phật dạy bảo những pháp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc, răn cấm những pháp đem lại sự bất lợi, thoái hóa, khổ não, giáo huấn pháp-hành để diệt họa tử sinh luân-hồi của chúng-sinh.”

Giải thích:

* Dạy bảo những pháp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa
Đức-Phật truyền dạy rằng:
“Sampannasīlā bhikkhave viharatha.”
- Này chư tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ! Các con sống nên giữ gìn giới hạnh cho được đầy đủ và trọn vẹn.”

Thật vậy, khi hành-giả có giới-hạnh trong sạch làm nền tảng thì pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển và tăng trưởng.
Đó là những pháp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

* Răn cấm những pháp đem lại sự bất lợi, …
Đức-Phật truyền dạy rằng:

“Sace bhāyatha dukkhassa, sace vo dukkhamappiyaṃ.
Mā kattha pāpakaṃ kammaṃ, avi vā yadi vā raho.”

- Nếu các con sợ khổ thân, khổ tâm,
Nếu các con không thích khổ thân, khổ tâm,
Thì các con chớ nên hành ác-nghiệp,
Cả nơi trống trải lẫn nơi kín đáo.”

* Giáo huấn pháp-hành để diệt khổ tử sinh, …
Đức-Phật thấy rõ, biết rõ căn duyên của chúng-sinh, cho nên Đức-Phật giáo huấn pháp-hành thiền-tuệ thích hợp với căn duyên của chúng-sinh ấy, khi thực hành pháp-hành thiền-tuệ người ấy chắc chắn chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt được họa tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

b) Sự lợi ích của thọ phép quy-y Đức-Pháp-bảo


Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Đức-Pháp-bảo, thành kính xin quy-y Đức-Pháp- bảo rằng: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo, nên người ấy có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc như sau:
“Bhavakantārato uttaraṇena assāsadāṇena ca dhammo:(33)
- Người đã quy-y Đức-Pháp-bảo, chánh-pháp có khả năng diệt được khổ tử sinh luân-hồi, giải thoát khỏi khổ kiếp trầm-luân, cho quả an-lạc.”

Giải thích:

* Giải thoát khỏi khổ kiếp trầm-luân
Chánh-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tuệ diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp không còn dư sót, có khả năng giải thoát khỏi khổ kiếp trầm-luân, đó là kiếp tử sinh luân-hồi trong cõi dục-giới, cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.

* Cho quả an-lạc
Chánh-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tâm cho quả là 4 Thánh quả-tâm, khi nhập Thánh-quả hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

* Diệt được khổ tử sinh luân-hồi
Chánh-pháp đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, diệt được khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

c) Sự lợi ích của thọ phép quy-y Đức-Tăng-bảo

Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Đức-Tăng-bảo, thành kính xin quy-y Đức-Tăng- bảo rằng: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo, nên người ấy có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc như sau:
“Appakānam pikārānaṃ vipulaphalapaṭilābha- karaṇena Saṃgho.” (34)
- Người đã quy-y Đức-Tăng-bảo, làm phước-thiện dù chút ít, song quả của phước-thiện lớn lao vô lượng, được chư Thánh-Tăng chỉ dạy pháp-hành thiền-tuệ, để diệt khổ tử sinh luân-hồi.”

Giải thích:

* Làm phước-thiện chút ít, song quả của phước- thiện vô-lượng, …
Chư Thánh-Tăng là phước điền cao thượng của chúng- sinh không nơi nào sánh được. Do đó, người cận-sự- nam, cận-sự-nữ là thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, thành kính dâng lễ cúng dường đến chư Thánh-Tăng và chư phàm-Tăng dù ít, họ vẫn được hưởng quả của phước-thiện lớn lao vô lượng cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô lượng kiếp trong vị-lai. Họ sẽ được thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti), được thành tựu quả báu trong cõi trời (devasampatti), và đặc biệt được thành tựu quả báu Niết-bàn cao thượng (Nibbānasampatti).

* Được chư thánh-tăng chỉ dạy pháp-hành thiền-tuệ
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ được gần gũi thân cận với chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, được lắng nghe chánh-pháp của chư Thánh-Tăng, rồi thực hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Địa vị cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong Phật-giáo
- Người cận-sự-nam dịch nghĩa từ danh từ upāsaka.
- Người cận-sự-nữ dịch nghĩa từ danh từ upāsikā.
Người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ là những người gần gũi thân cận với Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.
Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có 4 chúng: Bhikkhu (Tỳ-khưu), Bhikkhunī (Tỳ-khưu-ni), Upāsaka (cận-sự- nam), Upāsikā (cận-sự-nữ).

Như vậy, người cận-sự-nam (upāsaka), người cận-sự- nữ (upāsikā) thuộc trong hàng tứ chúng. Cho nên, địa vị người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cũng rất cao quý.
Một số người có quan niệm rằng: “Trong gia đình có tôn thờ tượng Đức-Phật, hằng ngày dâng lễ cúng dường lễ bái Đức-Phật, họ đi đến chùa dâng lễ cúng dường lễ bái Đức-Phật, làm phước bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu Tăng, v.v… Như vậy, họ đã là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ rồi.”
Nhưng thực ra, mọi việc phước-thiện ấy, chưa đủ tiêu chuẩn để được chính thức gọi là người cận-sự- nam, người cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, mà chỉ có thể gọi họ là người có đức-tin nơi Tam-bảo hoặc là người có đại-thiện-tâm tín ngưỡng Phật-giáo mà thôi.
Thật ra, một người nào có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam, hoặc người cận-sự-nữ trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama, người ấy cần phải có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo, đến gần gũi thân cận với bậc thiện-trí hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, nhất là phải học hỏi, ghi nhớ hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật-bảo cao thượng, Đức-Pháp-bảo cao thượng, Đức-Tăng-bảo cao thượng, rồi kính bạch với Ngài Đại-Trưởng-lão, kính thỉnh Ngài hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.
* Nếu không có Ngài Đại-Trưởng-lão thì Ngài Trưởng-lão.
* Nếu không có Ngài Trưởng-lão thì vị tỳ-khưu.
* Nếu không có vị tỳ-khưu thì vị sa-di.
* Nếu không có vị sa-di thì thậm chí người cận-sự- nam hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật, nhất là hiểu biết cách hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.
Sau khi đã thành tựu thọ phép quy-y Tam-bảo xong rồi, thì người ấy mới chính thức được gọi là người cận- sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời.

Thọ phép-quy-y Tam-bảo này không chỉ đối với các hạng phàm-nhân, mà còn đối với chư bậc Thánh-nhân cũng phải thọ phép-quy-y Tam-bảo nữa.
Mặc dù chư bậc Thánh-nhân đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới, ngay khi sát-na Thánh- đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận được phiền-não.
Thế mà, chư bậc Thánh-nhân còn phải xin thọ phép quy-y Tam-bảo, trước sự hiện diện chứng minh của Đức- Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật. Kính xin Ngài công nhận họ là người cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ đó cho đến trọn đời, huống hồ các hạng phàm-nhân.

Đối với các hạng phàm-nhân, người nào có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, người ấy cần phải học hỏi, ghi nhớ hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, rồi đến hầu Ngài Trưởng-lão, đảnh lễ kính xin Ngài hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, nếu không có Ngài Trưởng-lão thì vị tỳ-khưu hoặc vị sa-di hoặc thậm chí người cận-sự- nam hoặc cận-sự-nữ hiểu biết về Phật-giáo hướng dẫn.
Sau khi được thành-tựu phép quy-y Tam-bảo rồi, người ấy mới chính thức trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) trong hàng tứ- chúng của Đức-Phật Gotama.

Lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo (Tisaraṇagamana)

* Các hạng phàm-nhân
tại gia có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng- bảo, có đại-thiện-tâm tôn kính Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng, có nguyện vọng muốn trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Điều trước tiên, người đệ-tử cần phải đến gần gũi thân cận với các Ngài Trưởng-lão để học hỏi, hiểu biết rõ về giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, nhất là hiểu biết rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
Sau khi hiểu biết như vậy xong, người đệ-tử đi đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, kính thỉnh Ngài hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, người đệ-tử ấy đọc lặp lại đúng theo phép quy-y Đức-Phật-bảo, phép quy-y Đức-Pháp-bảo, phép quy-y Đức-Tăng-bảo đầy đủ 3 lần xong, thì người nam đệ-tử trở thành cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người nữ đệ-tử trở thành cận-sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
* Nếu không có Ngài Đại-Trưởng-Lão thì Ngài Trưởng- Lão hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, …
* Nếu không có Ngài Trưởng-Lão thì vị tỳ-khưu hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, …
* Nếu không có vị tỳ-khưu thì vị sa-di hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, …
* Nếu không có vị sa-di thì thậm chí người cận-sự- nam hoặc người cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết rõ về phép quy-y Tam-bảo cũng có khả năng hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.

Thật ra, để trở thành người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, điều trọng yếu là người đệ-tử có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, có trí-tuệ hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật, nhất là biết cách thọ phép quy-y Tam-bảo nghĩa là:

* Khi lặp lại câu:
“Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật”
với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo: “Itipiso Bhagavā Arahaṃ, … Bhagavā.”

* Khi lặp lại câu:
“Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp”
với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo: “Svākkhāto Bhagavatā dhammo, … paccattaṃ veditabbo viññūhi.”

* Khi lặp lại câu:
“Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng”
với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, … Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”

* Dutiyampi:
Lần thứ nhì, lặp lại từng câu quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng với đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ có đối-tượng theo tuần tự 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân- đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.

* Tatiyampi: Lần thứ ba, cũng như lần thứ nhì.
Phép quy-y Tam-bảo lặp lại đến lần thứ ba theo truyền thống, để chứng tỏ lòng chân thành tôn kính Tam- bảo, khẳng định chắc chắn đã quy-y Tam-bảo: quy-y Đức- Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo.

Như vậy, người đệ-tử thành-tựu thọ phép quy-y Tam- bảo. Nếu là người nam thì trở thành người cận-sự-nam (upāsaka), hoặc nếu là người nữ thì trở thành người cận- sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông

Thời nay, theo cách thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông, Ngài Đại-Trưởng-lão đọc trước từng câu, người đệ-tử lặp theo sau từng câu như sau:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.


* Thành kính xin quy-y Phật: Đức-Phật là Bậc không thầy chỉ dạy, tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama. Rồi Đức-Phật giáo huấn chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Các hàng thanh-văn đệ-tử chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn bậc nào hoàn toàn tùy theo năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ) của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử.

Cho nên, khi người ấy lặp lại từng chữ, từng câu: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, khi ấy, người phàm-nhân thanh-văn đệ-tử ấy thành tựu được phép quy-y Đức- Phật-bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana).
Các hạng phàm-nhân xin quy-y nương nhờ nơi Đức- Phật-bảo, thực hành theo lời giáo huấn của Đức-Phật, cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp, đó là 4 Thánh-đạo-tâm, để được thành tựu phép quy-y Đức-Phật-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana).

Quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo như thế nào?
Thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, Ngài Trưởng-lão Vakkali có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu, để có nhiều cơ hội được gần gũi chiêm ngưỡng kim thân của Đức-Phật, bởi vì Đức-Phật có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có hào quang mát mẻ, nên Ngài Trưởng-lão Vakkali thường chú tâm chiêm ngưỡng kim thân của Đức-Phật mà không bao giờ biết đủ. Ngài Trưởng-lão không quan tâm đến chánh-pháp mà Đức-Phật thuyết giảng, nên cũng không thực hành pháp-hành thiền-định, thực hành pháp-hành thiền-tuệ.

Một hôm, Đức-Phật quở Ngài Trưởng-lão Vakkali:
“Kim te Vakkali! Iminā pūtikāyena diṭṭhena!
Yo kho Vakkali! Dhammaṃ passati, so maṃ passati, yo maṃ passati, so Dhammaṃ passati.” (35)
- Này Vakkali! Ích lợi gì mà con chăm chú nhìn sắc thân ô trược này của Như-Lai.
- Này Vakkali! Người nào thấy (chứng ngộ) chánh- pháp, người ấy mới thấy Như-Lai, người nào thấy Như- Lai, người ấy thấy (chứng ngộ) chánh-pháp.
Hiểu được lời dạy của Đức-Phật, về sau, Ngài Trưởng- lão Vakkali thực hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

“Thấy chánh-pháp” “Thấy Như-Lai”:
không phải thấy bằng mắt thịt (maṃsacakkhu), mà phải thấy bằng “pháp- nhãn” (dhammacakkhu) hoặc “tuệ-nhãn” (paññācakkhu) bằng Thánh-đạo-tuệ, Thánh-quả-tuệ thuộc trí-tuệ-thiền- tuệ siêu-tam-giới (lokuttaravipassanā) y theo Đức-Phật.

Như vậy, thấy Đức-Phật không chỉ là thấy kim thân có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ của Đức-Phật, mà sự-thật còn phải chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn là pháp siêu-tam-giới nữa.

Một đoạn kinh trong bài kinh Mahāparinibbānasutta (kinh Đại-Niết-bàn), trước khi sắp tịch diệt Niết-bàn, Đức-Phật dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Trong số các con, nếu có người nghĩ rằng: Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi, chúng ta sẽ không còn vị Tôn sư nữa (natthi no satthā), thì các con chớ nên nghĩ vậy.
Đức-Phật dạy tiếp rằng:
“Yo vo Ānanda! Mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā.” (36)
- Này Ānanda! Chánh-pháp nào Như-Lai đã thuyết, Luật nào Như-Lai đã chế định ban hành, khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, Pháp và Luật ấy là vị Tôn sư của các con.
Trong Chú-giải bài kinh Đại-Niết-bàn này dạy rằng:
- Dhammo: Chánh-pháp gồm có Tạng Kinh Pāḷi và Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi.
- Vinayo: Luật đó là toàn Tạng Luật Pāḷi.

Phân tách theo pháp-môn
- Tạng Luật Pāḷi có 21.000 pháp-môn
- Tạng Kinh Pāḷi có 21.000 pháp-môn
- Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi có 42.000 pháp-môn Trọn bộ Tam-Tạng gồm có 84.000 pháp-môn.
Trong Chú-giải bài kinh Mahāparinibbānasutta (kinh Đại-Niết-bàn) này, Đức-Phật giải thích rằng:
“Iti imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbāyāmi. Ahañca kho panadāni ekakova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute, imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsisanti.” (37)
- Như vậy, 84.000 pháp môn này vẫn tồn tại, chỉ có một mình Như-Lai tịch diệt Niết-bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như-Lai giáo huấn, theo dạy dỗ các con; khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, 84.000 pháp môn này sẽ giáo huấn, theo dạy dỗ các con.

Căn cứ vào đoạn Kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi trên, hiện nay, dù Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn rồi, vẫn còn có Chánh-pháp và Luật hoặc 84.000 pháp-môn cũng là vị Tôn-Sư giáo huấn, theo dạy dỗ các hàng thanh-văn đệ-tử chúng ta.
Cho nên, ngày nay người cận-sự-nam, cận-sự-nữ khi đọc câu: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật” vẫn còn có ý nghĩa đầy đủ, có tầm quan trọng không kém thời xưa.

Quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo như thế nào?

* Thành kính xin quy-y Pháp: Đức-Pháp đó là 10 chánh-pháp:
1 pháp-học chánh-pháp và 9 pháp siêu- tam-giới là pháp dẫn dắt chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên, khi người ấy lặp lại từng chữ, từng câu: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo. Khi ấy, các hạng phàm-nhân thành tựu được phép quy-y Đức-Pháp- bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana).
Các hạng phàm-nhân xin quy-y nương nhờ nơi Đức- Pháp-bảo, là nương nhờ nơi pháp-học chánh-pháp, pháp-hành chánh-pháp, chưa nương nhờ được pháp- thành chánh-pháp.
Cho nên, các hạng phàm-nhân nên thực hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thuộc về pháp-thành chánh-pháp, để được thành tựu phép quy-y Đức-Pháp-bảo theo pháp siêu- tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana).

Quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo như thế nào?
* Thành kính xin quy-y Tăng: Đức-Tăng đó là chư Trưởng-lão tỳ-khưu Thánh-Tăng là bậc Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật có 4 đôi thành 8 bậc Thánh:

4 đôi: Thánh-Đạo - Thánh-quả tương xứng
1- Nhập-lưu Thánh-đạo --> Nhập-lưu Thánh-quả.
2- Nhất-lai Thánh-đạo --> Nhất-lai Thánh-quả.
3- Bất-lai Thánh-đạo --> Bất-lai Thánh-quả.
4- A-ra-hán Thánh-đạo --> A-ra-hán Thánh-quả.

8 bậc Thánh: 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả
1- Bậc Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
2- Bậc Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāmimagga).
3- Bậc Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
4- Bậc A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).
5- Bậc Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
6- Bậc Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāmiphala).
7- Bậc Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
8- Bậc A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).

Bậc Thánh-nhân có 4 hạng:
1- Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna).
2- Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī).
3- Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī).
4- Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).


Cho nên, khi người ấy lặp lại từng chữ, từng câu: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo. Khi ấy, các hạng phàm-nhân thành tựu được phép quy-y Đức-Tăng- bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana).
Các hạng phàm-nhân thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo là nương nhờ nơi chư Trưởng- lão tỳ-khưu Thánh-Tăng, chứ không phải chư tỳ-khưu phàm-Tăng, bởi vì chư tỳ-khưu phàm-Tăng không có đầy đủ 9 ân-đức Tăng-bảo.

Vậy, các hạng phàm-nhân xin nương nhờ nơi chư tỳ- khưu phàm-Tăng trong những trường hợp nào?


Các hạng phàm-nhân xin nương nhờ nơi chư tỳ-khưu phàm-Tăng trong những trường hợp như sau:

* Trong trường hợp làm phước-thiện bố-thí
: Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, khi làm phước-thiện bố-thí dâng lễ cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu Thánh-Tăng và chư Trưởng-lão tỳ-khưu phàm-Tăng, sự cúng dường đến chư Đức-Tăng-bảo gồm cả chư Trưởng-lão tỳ-khưu Thánh- Tăng và chư Trưởng-lão tỳ-khưu phàm-Tăng, chắc chắn họ có được nhiều phước-thiện thanh cao vô lượng, có quả báu thanh cao vô lượng ngay kiếp hiện-tại lẫn vô lượng kiếp vị-lai.

* Trong trường hợp nghe Chánh-pháp: Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, đến gần gũi thân cận với chư Trưởng- lão tỳ-khưu Thánh-Tăng hoặc chư Trưởng-lão tỳ-khưu phàm-Tăng, để lắng nghe quý Ngài thuyết giảng Chánh-pháp của Đức-Phật.

* Trong trường hợp kính xin làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, xin thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposatha- sīla, hoặc cửu giới uposathasīla, làm lễ xuất gia trở thành sa-di, trở thành tỳ-khưu, ... nương nhờ theo học pháp-học Phật-giáo, theo học pháp-hành Phật-giáo, nương nhờ theo học và thực hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô- sắc-giới, để hưởng sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai; nương nhờ theo học và thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân, để thành-tựu phép quy-y Đức-Tăng-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana).

Tóm lại:

* Thời xưa, các bậc Thánh-nhân quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh, có đối- tượng Niết-bàn, diệt tận được phiền-não. Khi ấy, bậc Thánh-nhân đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana) ở trong tâm.
Một lần nữa, bậc Thánh-nhân xin quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo bằng lời, trước sự hiện diện chứng minh của Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, kính bạch rằng:

* Nếu là nam Thánh-nhân thì kính bạch rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn, xin quy-y Đức-Pháp-bảo, xin quy-y chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.

* Nếu là nữ Thánh-nhân thì kính bạch rằng:
“Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn, xin quy-y Đức-Pháp-bảo, xin quy-y chư Trưởng-lão tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.

Khi ấy, bậc Thánh-nhân đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (Lokiyasaraṇagamana) bằng khẩu nói ra lời chân thật.

* Thời nay, các hạng phàm-nhân có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, phàm- nhân ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật- bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có trí-tuệ sáng suốt học hỏi hiểu biết rõ các pháp của Đức-Phật, nhất là 9 ân- đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
Người đệ-tử ấy đi đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng- lão, kính thỉnh Ngài hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.

Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông từng chữ, từng câu và người đệ-tử ấy lặp lại theo từng chữ, từng câu như sau:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.


Người đệ-tử lặp lại theo, hiểu rõ ý nghĩa từng chữ, từng câu và đối-tượng của mỗi câu như sau:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức- Phật-bảo.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, …
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân- đức Phật-bảo, …
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, …
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân- đức Phật-bảo, ...

Đến câu cuối lần thứ ba:
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
“Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân- đức Tăng-bảo chấm dứt.

Khi ấy, người đệ-tử đã thành tựu thọ phép quy-y Tam- bảo phổ thông theo pháp tam-giới (Lokiyasaraṇa- gamana) bằng khẩu nói ra lời chân thật.
* Người nam đệ-tử chính thức trở thành người cận- sự-nam (upāsaka) là một trong tứ chúng thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật Gotama.
* Người nữ đệ-tử chính thức trở thành người cận-sự- nữ (upāsikā) là một trong tứ chúng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Thọ phép quy-y Tam-bảo thành thói quen tốt

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là hạng phàm-nhân đã thành tựu thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới rồi.
- Nếu biết rõ quy-y Tam-bảo của mình không bị đứt, hoặc không bị ô nhiễm do bởi phiền-não, thì không cần phải xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở lại.
- Nếu biết rõ quy-y Tam-bảo của mình bị đứt, hoặc bị ô nhiễm do bởi phiền-não, thì cần phải xin thọ phép quy- y Tam-bảo trở lại, để có được nơi nương nhờ chân- chánh là nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo cao thượng, nơi Đức-Pháp-bảo cao thượng, nơi Đức-Tăng-bảo cao thượng, hầu mong đem lại sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa cao thượng, sự an-lạc Niết-bàn cao thượng.
Thật ra, đối với hạng phàm-nhân (puthujjana) vốn còn nhiều phiền-não nặng nề ở trong tâm mà chưa diệt được, có khi tâm bị ô nhiễm do bởi phiền-não. Vì vậy muốn giữ gìn duy trì quy-y Tam-bảo, và thọ trì ngũ-giới, bát giới, v.v… cho được hoàn toàn trong sạch thuần khiết và trọn vẹn không phải là việc dễ. Cho nên, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thường xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở lại là một việc không thừa, thậm chí còn rất cần thiết nữa.
Vả lại, thường xuyên xin thọ phép quy-y Tam-bảo, để trở thành một thói quen tốt, thật quý báu biết dường nào!
Tại các nước Phật-giáo Theravāda, trong các buổi lễ, dù lớn dù nhỏ, thường có phong tục tập quán, trước tiên lễ bái Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, tiếp đến nghi thức các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu- giới uposathasīla, ...
Một Ngài Trưởng-lão đại diện chư Tăng hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, hoặc bát- giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, theo nguyện vọng của các cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
Các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh cùng lặp lại theo lời của Ngài Trưởng-lão từng chữ, từng câu theo phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi và ý nghĩa bằng tiếng xứ sở.
Nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông này trở thành truyền thống của các nước Phật-giáo Theravāda trong thời nay.

Thật ra, điều quan trọng của sự thành tựu của phép quy-y Tam-bảo là do sự hiểu biết cách thọ phép quy-y Tam-bảo của người cận-sự-nam, cận-sự-nữ. Còn vị Thầy hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo chỉ hỗ trợ cho người cận-sự-nam, cận-sự-nữ, để được thành tựu phép quy-y Tam-bảo mà thôi. Cho nên, trường hợp:
- Nếu không có Ngài Đại-Trưởng-lão thì một vị Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Nếu không có vị Trưởng-lão thì vị tỳ-khưu hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Nếu không có vị tỳ-khưu, thì một vị sa-di hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Nếu không có vị sa-di, thì thậm chí người cận-sự- nam hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết cách làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông cũng có khả năng hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo.

Nếu người nào không hiểu biết rõ cách thọ phép quy-y Tam-bảo, dù cho Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo thì người ấy cũng không thành tựu phép quy-y Tam-bảo.
Nếu người nào hiểu biết rõ cách thức thọ phép quy-y Tam-bảo, dù vị thầy nào hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo thì người ấy vẫn thành tựu thọ phép quy-y Tam-bảo, trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ.
Để cho phép quy-y Tam-bảo của mình trở thành thói quen tốt lành, hằng ngày, trước khi tụng kinh lễ bái Tam-bảo, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc thọ phép quy-y Tam-bảo ba lần và thọ trì ngũ-giới hoặc bát- giới uposathasīla, ... tiếp theo tụng kinh lễ bái Tam-bảo, tụng kinh Parittapāḷi, ... để trở thành một thói quen tốt lành cho mình.

Như vậy, kiếp sống hiện-tại, tâm thường được an-lạc, mọi điều kinh sợ không xảy đến với mình, bởi vì do nhờ oai lực của Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng- bảo là nơi nương nhờ chân-chánh cao thượng của mình, nên tất cả mọi thiện-pháp có cơ hội phát triển, từ dục- giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện- pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.
Nếu chưa trở thành bậc Thánh-nhân thì cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ đến lúc lâm chung, từ bỏ cuộc đời, tâm không bị mê muội, có đại-thiện-tâm trong sáng, sau khi chết dục-giới thiện-nghiệp thường-hành (āciṇṇakusala- kamma) ấy có cơ hội cho quả tái-sinh trong cõi thiện- giới (cõi người, hoặc cõi trời dục-giới) hưởng mọi sự an-lạc đặc biệt trong cõi người hoặc cõi trời cho đến hết tuổi thọ. Đặc biệt đã tạo được duyên lành, dục-giới thiện- nghiệp sâu sắc trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Quả báu của thọ phép quy-y Tam-bảo
Phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới và quả báu

* Phép quy-y Tam-bảo
theo pháp siêu-tam-giới đó là sát-na 4 Thánh-đạo-thiện-tâm (Maggakusalacitta) có đối- tượng Niết-bàn.
* Quả báu của phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu- tam-giới có hai thời-kỳ:

1- Kiếp hiện-tại

* Cho quả không có thời gian ngăn cách: 4 Thánh-đạo-tâm thuộc siêu-tam-giới thiện-tâm cho quả không có thời gian ngăn cách (akālika) đó là 4 Thánh-quả-tâm cùng trong Thánh-đạo lộ-trình-tâm. Thánh-đạo với Thánh- quả tương xứng với nhau:
- Nhập-lưu Thánh-đạo liền cho quả là Nhập-lưu Thánh-quả không có thời gian ngăn cách (akālika).
- Nhất-lai Thánh-đạo liền cho quả là Nhất-lai Thánh- quả không có thời gian ngăn cách (akālika).
- Bất-lai Thánh-đạo liền cho quả là Bất-lai Thánh- quả không có thời gian ngăn cách (akālika).
- A-ra-hán Thánh-đạo liền cho quả là A-ra-hán Thánh-quả không có thời gian ngăn cách (akālika).

* Nhập-Thánh-quả-tâm:
Bậc Thánh-nhân có khả năng nhập-Thánh-quả-tâm (Phalasamāpatti) cuối cùng mà bậc Thánh-nhân đã chứng đắc, để an hưởng sự an-lạc tịch tịnh Niết-bàn (Santisukha).

2- Kiếp vị-lai

- Bậc Thánh Nhập-lưu chỉ còn tái-sinh kiếp sau nhiều nhất 7 kiếp nữa trong cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh một kiếp nữa trong cõi dục-giới mà thôi, trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới, mà chỉ còn tái-sing kiếp kế-tiếp trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn trong tầng trời sắc- giới phạm-thiên.
- Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Thọ Phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới và quả báu

* Thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới đó là đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
* Quả báu của thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới vô cùng phong phú, thật vô lượng không sao kể xiết được. Để có sự so sánh, xin trích một đoạn trong bài kinh Velāmasutta (38) giữa phước-thiện bố-thí với phước- thiện thọ phép quy-y Tam-bảo như sau:
- Này ông phú hộ Anāthapiṇḍika! Chuyện đã từng xảy ra, vị Bà-la-môn Velāma làm phước-thiện đại thí như:
* Bố-thí 84.000 mâm vàng đầy bạc (rūpiya).
* Bố-thí 84.000 mâm bạc đầy vàng.
* Bố-thí 84.000 mâm đồng đầy bạc.
* Bố-thí 84.000 con voi gồm đầy đủ đồ trang sức bằng vàng.
* Bố-thí 84.000 đồ trải bằng da sư tử, da cọp.
* Bố-thí 84.000 con bò sữa cùng với đồ đựng sữa.
* Bố-thí 84.000 cô gái trẻ đẹp cùng với đồ trang sức ngọc maṇi, …
* Bố-thí 84.000 chiếc ghế ngồi có trang trí đồ quý giá.
* Bố-thí 84.000 x 10.000.000 vải đủ loại đặc biệt. Ngoài ra, bố-thí đồ ăn, đồ uống, … không sao kể xiết.

Vị Bà-la-môn Velāma chính là tiền thân của Như-Lai, làm phước-thiện đại-thí vào thời đại ấy không có bậc xứng đáng cúng dường (thời đại không có Đức-Phật và chư Đại-đức-Tăng).
- Này ông phú hộ! Người nào làm phước-thiện bố-thí đến bậc Thánh Nhập-lưu có chánh-kiến đầy đủ, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn ông Bà-la-môn Velāma làm phước-thiện bố-thí trong thời ấy.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Nhập-lưu, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 1 bậc Thánh Nhập-lưu.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh Nhất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 100 bậc Thánh Nhập-lưu.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Nhất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 1 bậc Thánh Nhất-lai.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh Bất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh Nhất-lai.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Bất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 1 bậc Thánh Bất-lai.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh A-ra-hán, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 100 bậc Thánh Bất-lai.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh A-ra-hán, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 1 bậc Thánh A-ra-hán.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 Đức-Phật Độc-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 100 bậc Thánh A-ra-hán.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 Đức-Phật Độc-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố- thí đến 1 Đức-Phật Độc-Giác.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì người ấy có phước- thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước- thiện bố-thí đến 100 Đức-Phật Độc-Giác.
* Người nào làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
* Người nào xây cất ngôi chùa dâng cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ- khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.
* Người nào có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người xây dựng ngôi chùa dâng cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương.
* Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có tác-ý đại-thiện-tâm trong sạch thọ trì giữ gìn ngũ-giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo, ...
* Người nào thực hành pháp-hành thiền-định với đề- mục niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh, trong khoảng thời gian ngắn ngủi bằng thời gian ngửi mùi thơm, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có tác-ý đại- thiện-tâm trong sạch thọ trì giữ gìn ngũ-giới trong sạch.
* Người nào thực hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí- tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái- chung (trạng-thái vô-thườ;ng, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dù trong khoảng thời gian ngắn ngủi bằng búng đầu ngón tay, thì người ấy có phước-thiện, có quả báu nhiều hơn người thực hành pháp-hành thiền-định với đề-mục rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh, ...”

Qua đoạn kinh trên, so sánh được * phước-thiện bố-thí cúng dường cao nhất là cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì, thật là một cơ hội hiếm có.

* Phước-thiện xây cất một ngôi chùa dâng cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương,
thì phải có thời gian lâu mới có thể thành tựu được phước-thiện ấy.
* Còn phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo và phước-thiện thọ trì ngũ-giới có phước-thiện nhiều hơn, và có quả báu nhiều hơn phước-thiện xây cất ngôi chùa dâng cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương, và bố-thí cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ- khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.

* Vì sao phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo và phước-thiện thọ trì ngũ-giới cao quý như vậy?
Xét thấy rằng: Một người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có nhiều tiền của, thì người ấy có thể xây cất ngôi chùa lớn để dâng cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng. Còn để thành-tựu phép quy-y Tam-bảo thọ trì ngũ-giới một cách trọn vẹn, người ấy không chỉ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, mà còn phải có trí-tuệ hiểu biết rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp- bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, bởi vì, những ân-đức Tam-bảo này là đối-tượng của đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, khi đại-thiện-tâm này làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Do đó, thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới có phước-thiện vô lượng và có quả báu cũng vô lượng.


Tích quả báu của thọ phép quy-y Tam-bảo

Tích Ngài Trưởng-lão Saraṇagamaniyatthera (39) được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī (40) xuất hiện trên thế gian, vào thời đại tuổi thọ con người có khoảng 100 ngàn năm. Một người con trai (tiền-kiếp của Ngài Trưởng- lão Saraṇagamaniyatthera) là người con hiếu nghĩa phụng dưỡng cha mẹ mù lòa nghĩ rằng: “Ta có bổn phận phụng dưỡng chăm non cha mẹ mù lòa, không thể nào đi xuất gia trở thành tỳ-khưu được. Ta có phước duyên sinh ra làm người, gặp được Đức-Phật xuất hiện trên thế gian, Đức-Pháp và Đức-Tăng xuất hiện trên thế gian, ta nên đến kính xin thọ phép quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo.”
Người con trai ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tìm đến hầu Ngài Đại-Trưởng-lão Nisabha là bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Anomadassī, thành kính đảnh lễ Ngài và xin thọ phép quy-y Tam-bảo.
Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão công nhận là người cận-sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời.
Sau khi đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo xong, người cận-sự-nam giữ gìn duy trì quy-y Tam-bảo của mình hoàn toàn trong sạch cho đến trọn đời
Người cận-sự-nam ấy hết lòng tôn kính Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, cho đến hết tuổi thọ con người thời-kỳ ấy 100 ngàn năm.
Sau khi người cận-sự-nam ấy chết, dục-giới thiện-nghiệp của thọ phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn ấy cho quả tái-sinh lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên (41) làm vua trời Sakka trong cõi ấy liên tục suốt 80 kiếp.
Khi tái-sinh trong cõi người, có 75 kiếp được trở thành Đức-Chuyển-luân-Thánh-vương, còn làm Đức- vua trong nước lớn thì không sao kể xiết.
Đó là do quả báu của thọ phép quy-y Tam-bảo trong thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī.
Do năng-lực phước-thiện của thọ phép quy-y Tam-bảo này, đặc biệt suốt trong khoảng thời gian lâu dài tử sinh luân-hồi, không hề bị tái-sinh trong 4 cõi ác-giới: địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh kiếp nào cả, chỉ có tái- sinh làm thiên-nam ở cõi trời dục-giới, an hưởng mọi sự an-lạc cao quý nhất trong cõi trời ấy hoặc tái-sinh làm người nam trong cõi người, cũng hưởng mọi sự an-lạc cao quý nhất trong cõi người. Tái-sinh trong cõi nào cũng được 8 quả báu đặc biệt. Ngài Trưởng-lão dạy rằng:
- Tôi được mọi người, mọi chúng-sinh tôn kính trong khắp mọi nơi.
- Tôi là người có trí-tuệ sắc bén.
- Tất cả chư-thiên chiều theo ý của tôi.
- Tôi có nhiều của cải không ai sánh được.
- Tôi có được màu da như màu vàng ròng trong mọi kiếp.
- Tôi được mọi người, mọi chúng-sinh quý mến.
- Tôi có những người bạn thân thiết trung thành, không bao giờ phản bội.
- Danh thơm, tiếng tốt của tôi được vang khắp mọi nơi.

Đó là 8 quả báu của thọ phép quy-y Tam-bảo.

Ngài Trưởng-lão Saraṇagamaniya
kể lại rằng:
Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, do phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo trong thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī ấy, cho quả tái-sinh vào trong gia đình phú hộ trong kinh-thành Sāvatthī.
Khi cậu bé được 7 tuổi, một hôm, cậu bé dẫn đầu nhóm trẻ con ra khỏi thành, đi rong chơi ghé vào chùa, nhìn thấy chư Trưởng-lão-Tăng, cậu bé liền đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, do Ngài Trưởng-lão hướng dẫn:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Cậu bé lặp lại theo Ngài Trưởng-lão:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, ...
Ngài Trưởng-lão hướng dẫn quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng, cậu bé lặp lại theo Ngài Trưởng-lão xong, đồng thời cậu bé chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền- não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cùng tứ tuệ-phân-tích, lục-thông cùng một lúc, không trước không sau với thọ phép quy-y Tam-bảo.

Đức-Phật Gotama cho phép cậu bé xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật, có pháp danh là Ngài Trưởng-lão Saraṇagamaniyatthera. Bởi vì, tiền- kiếp của Ngài Trưởng-lão là cận-sự-nam đã có phép quy-y Tam-bảo trong thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī, giữ gìn duy trì phép quy-y Tam-bảo hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn, không hề bị ô nhiễm bởi phiền-não.
Như vậy, phước-thiện của phép quy-y Tam-bảo cho quả báu đầy đủ:
* Thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti).
* Thành tựu quả báu trong cõi trời (devasampatti).
* Thành tựu quả báu cao thượng Niết-bàn (Nibbāna- sampatti).

Kiếp chót của Ngài Trưởng-lão trở thành bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.
Quả báu của phép quy-y Tam-bảo thật là lớn lao vô lượng biết dường nào!

Năng lực phước-thiện của thọ phép quy-y Tam-bảo

Tích người ngư dân tên Damila (42) suốt cuộc đời làm nghề đánh cá nuôi mạng, đến 50 tuổi ông lâm bệnh nặng nằm trên giường, không thể ngồi dậy được, hằng ngày phải nhờ người vợ chăm nom săn sóc.
Một hôm, Ngài Trưởng-lão đi khất thực, đứng trước nhà, bà chủ nhà (vợ của ngư dân) thỉnh mời Ngài Trưởng-lão vào nhà, Ngài Trưởng-lão ngồi gần ông Damila.
Với giọng yếu ớt, ông Damila bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, suốt bao nhiêu năm qua, con chưa có một lần nào hầu gặp Ngài, cũng không dâng cúng dường Ngài một thứ gì cả, con có ân nghĩa gì đáng cho Ngài đến thăm con.
Với tâm-bi, mong bệnh nhân bớt khổ, Ngài Trưởng- lão bèn hỏi:
- Này ông Damila! Bệnh tình của ông như thế nào?
Người vợ thay ông bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, bệnh tình rất trầm trọng.
Ngài Trưởng-lão hỏi tiếp rằng:
- Này ông Damila! Ông có muốn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hay không?
Ông Damila với giọng yếu ớt bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con muốn được thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Bạch Ngài.
Ngài Trưởng-lão hướng dẫn ông Damila thọ phép quy-y Tam-bảo:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ông Damila lặp lại theo Ngài:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, ...
Ngài Trưởng-lão hướng dẫn, còn ông Damila lặp lại theo Ngài Trưởng-lão phép quy-y Tam-bảo vừa xong, thì ông Damila không còn hơi để lặp lại thêm được nữa, rồi tắt thở, mà chưa kịp thọ trì ngũ-giới.

Sau khi ông Damila chết, phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo lúc lâm chung cho quả tái-sinh làm vị thiên- nam trong cõi trời Tứ-đại-thiên-vương. Vị thiên-nam suy xét rằng:
“Nhờ phước-thiện nào, mà ta được hóa-sinh làm thiên-nam như thế này?”
Vị thiên-nam liền nhớ lại tiền-kiếp, biết rõ nhờ phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo vừa xong, mà chưa thọ trì ngũ-giới. Nhớ ơn Ngài Trưởng-lão đã có tâm-bi thương xót cứu khổ, nên vị Thiên-nam từ cõi trời liền hiện xuống đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kiếp này con là thiên- nam trong cõi trời Tứ-đại-thiên-vương. Sở dĩ, con được hóa- sinh làm thiên-nam, là nhờ Ngài Trưởng-lão có tâm bi thương xót tế độ cho con thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, nhưng con mới chỉ thọ phép quy-y Tam-bảo mà chưa kịp thọ trì ngũ-giới, thì con đã hết hơi, tắt thở chết ngay khi ấy.
Nhờ phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo ấy cho quả hóa-sinh làm kiếp thiên-nam như thế này. Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, với lòng biết ơn Ngài Trưởng-lão vô hạn của con.
Kính xin Ngài Trưởng-lão có tâm bi tế độ con, cho con thọ đầy đủ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong các tầng trời cao hơn.

Ngài Trưởng-lão có tâm bi tế độ hướng dẫn vị thiên- nam thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Vị thiên nam vô cùng hoan-hỷ biết ơn Ngài Trưởng- lão vô hạn, thành kính đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, xin phép trở về cõi trời, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời.
Qua tích người ngư dân Damila làm nghề đánh cá nuôi mạng, cả cuộc đời không làm phước-thiện nào đáng kể. Đến lúc gần lâm chung, người ngư dân Damila có phước duyên được Ngài Trưởng-lão đến thăm viếng, ông phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, được thọ phép quy-y Tam-bảo trước lúc lâm chung.
Nhờ cận-tử thiện-nghiệp (āsannakusalakamma) thọ phép quy-y Tam-bảo có năng lực phi thường có khả năng đặc biệt ngăn được mọi ác-nghiệp sát-sinh đã tạo cả cuộc đời, để cho phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo có cơ hội cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời Tứ- đại-thiên-vương, cõi thấp trong 6 cõi trời dục-giới, có tuổi thọ 500 năm tuổi trời, so với cõi người bằng 9 triệu năm, bởi vì, 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tứ-đại-thiên-vương bằng 50 năm ở cõi người.
Như vậy, năng lực của phước-thiện thọ phép quy-y Tam-bảo thật phi thường!

10 Quả báu của thọ phép quy-y Tam-bảo

Trong bài kinh Sakkasutta (43) được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-vua trời Sakka cùng 500 chư-thiên đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna xong, đứng một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna dạy Đức-vua trời Sakka rằng:
- Này Đức-vua trời Sakka! Phép quy-y Đức-Phật-bảo là pháp cao thượng. Số chúng-sinh trong đời này, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, đã thọ phép quy-y Đức-Phật-bảo, sau khi họ chết, đại-thiện-nghiệp thọ phép quy-y Đức-Phật-bảo cho quả tái-sinh làm vị thiên- nam, hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời.
Số chư-thiên ấy có được 10 quả báu đặc biệt là tuổi thọ cõi trời, sắc đẹp cõi trời, an-lạc cõi trời, danh thơm tiếng tốt cõi trời, địa vị cao quý cõi trời, sắc cõi trời, thanh cõi trời, hương cõi trời, vị cõi trời, xúc cõi trời tuyệt vời hơn cả các hàng chư-thiên khác trong cõi trời ấy.


Tương tự như trên:
- Này Đức-vua trời Sakka! Phép quy-y Đức-Pháp- bảo là pháp cao thượng. Số chúng-sinh trong đời này, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo đã thọ phép quy-y Đức- Pháp-bảo, sau khi họ chết, đại-thiện-nghiệp thọ phép quy-y Đức-Pháp-bảo cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời.
Số chư-thiên ấy có được 10 quả báu đặc biệt là tuổi thọ cõi trời, sắc đẹp cõi trời, an-lạc cõi trời, danh thơm tiếng tốt cõi trời, địa vị cao quý cõi trời, sắc cõi trời, thanh cõi trời, hương cõi trời, vị cõi trời, xúc cõi trời tuyệt vời hơn cả các hàng chư-thiên khác trong cõi trời ấy.
- Này Đức-vua trời Sakka! Phép quy-y Đức-Tăng- bảo là pháp cao thượng. Số chúng-sinh trong đời này, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo đã thọ phép quy-y Đức- Tăng-bảo, sau khi họ chết, đại-thiện-nghiệp thọ phép quy-y Đức-Tăng-bảo cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời.
Số chư-thiên ấy có được 10 quả báu đặc biệt là tuổi thọ cõi trời, sắc đẹp cõi trời, an-lạc cõi trời, danh thơm tiếng tốt cõi trời, địa vị cao quý cõi trời, sắc cõi trời, thanh cõi trời, hương cõi trời, vị cõi trời, xúc cõi trời tuyệt vời hơn cả các hàng chư-thiên khác trong cõi trời ấy.
Quả báu của phép quy-y Tam-bảo vô cùng lớn lao và phong phú, cũng rất phi thường, bởi vì đại-thiện-nghiệp phép quy-y Tam-bảo có năng lực thật là phi thường.

Tầm quan trọng của thọ phép quy-y Tam-bảo

Thọ phép quy-y Tam-bảo có một tầm quan trọng trong Phật-giáo như thế nào?
* Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành vị Tỳ-khưu.
* Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành vị Sa-di.
* Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành người cận-sự- nam, cận-sự-nữ.

1- Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành vị Tỳ-khưu như thế nào?
Trong thời-kỳ đầu Phật-giáo mới phát triển, chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng là bậc Thánh A-ra-hán số lượng rất ít, nên Đức-Phật truyền dạy mỗi vị tỳ-khưu Thánh A-ra-hán đi mỗi con đường để thuyết pháp tế độ chúng-sinh, truyền bá giáo-pháp của Đức-Phật, hai vị tỳ- khưu không nên đi cùng chung một con đường.
Mỗi vị tỳ-khưu bậc Thánh A-ra-hán đi thuyết pháp tế độ chúng-sinh, nếu có người nam nào phát sinh đức-tin trong sạch, muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu thì vị tỳ- khưu ấy dẫn giới tử về hầu Đức-Phật, kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Những miền xa xôi, vị tỳ-khưu bậc Thánh A-ra-hán vất vả dẫn giới tử về hầu Đức-Phật, kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.

Cho nên, Đức-Phật cho phép tỳ-khưu rằng:
“Anujanāmi Bhikkhave, imehi tīhi saraṇagamanehi pabbajjaṃ upasampadaṃ.” (44)
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu bằng cách cho thọ phép quy-y Tam-bảo.

Nghi thức thọ tỳ-khưu

* Giới tử có ý nguyện muốn xuất gia trở thành tỳ- khưu, trước tiên phải cạo tóc, râu, mặc y ka-sa màu lõi mít, để chừa vai bên phải vào đảnh lễ vị Thầy tế độ, ngồi chồm hổm chắp hai tay để trán, xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi.
* Vị Thầy tế độ (upajjhāya) hướng dẫn đọc phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi và giới-tử cũng lặp lại từng chữ, từng câu đúng theo vị Thầy tế-độ như sau:

Thọ phép quy-y Tam-bảo


Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Để trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, điều kiện đặc biệt cả 2 bên: bên Thầy tế độ và bên giới-tử đều phải đọc đúng gọi là ubhato suddhi, thì lễ xuất gia trở thành tỳ-khưu mới thành-tựu, giới-tử chính thức trở thành tỳ-khưu trong Phật-giáo.
Đó là cách thọ tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo (Saraṇagamanūpasampadā).

Trải qua một thời gian sau, Phật-giáo càng ngày càng phát triển, tỳ-khưu càng ngày càng đông. Cho nên, Đức-Phật truyền dạy chư tỳ-khưu bỏ cách xuất gia trở thành tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo từ đó.
Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu bằng cách tụng một lần tuyên-ngôn (ñatti) và tiếp theo tụng 3 lần thành-sự-ngôn (kammavācā) gọi là ñatticatuttha- kammavācā. Đức-Phật truyền dạy như sau:
“Yā sā bhikkhave, mayā tīhi saraṇagamanehi upasampadā anuññātā, taṃ ajjatagge paṭikkhipāmi.
Anujānāmi bhikkhave, ñatticatutthena kammena upasampādetuṃ.” (45)
- Này chư tỳ-khưu! Trước kia, Như-Lai cho phép làm lễ xuất gia trở thành tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo. Kể từ nay về sau, Như-Lai bỏ cách làm lễ xuất gia trở thành tỳ-khưu ấy.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép làm lễ xuất gia trở thành tỳ-khưu bằng cách tụng 1 lần ñattipāḷi: tuyên- ngôn Pāḷi và tiếp theo tụng 3 lần kammavācāpāḷi: thành-sự-ngôn Pāḷi.
Cách làm lễ xuất gia trở thành tỳ-khưu bằng cách tụng 1 lần tuyên-ngôn Pāḷi và tiếp theo tụng 3 lần thành-sự- ngôn Pāḷi gọi là Ñatticatutthakammūpasampadā.

Cách làm lễ xuất gia trở thành tỳ-khưu này bắt đầu từ Ngài Trưởng-lão Rādha và được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Hiện nay, các nước Phật-giáo theo truyền thống nguyên-thủy Theravāda như nước Srilanka, nước Myanmar, nước Thái-Lan, nước Lào, nước Campuchia, Phật-giáo Nguyên-thủy tại Việt Nam, v.v... nghi thức lễ xuất gia trở thành tỳ-khưu hầu hết giống nhau như sau:

Chư tỳ-khưu-Tăng từ 5 vị trở lên tụ hội tại Sīmā, cử 1 hoặc 2 hoặc 3 vị Trưởng-lão luật-sư ngồi chồm hổm (ukkuṭika) tụng 1 lần ñattipāḷi: tuyên-ngôn Pāḷi và tiếp theo tụng 3 lần kammavācāpāḷi: thành-sự-ngôn Pāḷi.
Sau khi tụng xong, giới-tử trở thành tỳ-khưu. Đó là cách xuất gia trở thành tỳ-khưu theo cách tụng Ñatti-catutthakammavācā.

2- Lễ thọ phép quy Tam-bảo trở thành vị sa-di như thế nào?

Đức-Phật chế định người giới-tử đủ 20 tuổi trở lên, được phép xuất gia trở thành tỳ-khưu (bhikkhu), người dưới 20 tuổi được phép xuất gia trở thành sa-di (sāmaṇera).
Đức-Phật cho phép xuất gia thọ Sa-di rằng:
“Anujānāmi bhikkhave, tīhi saraṇagamanehi sāmaṇera- pabbajjaṃ, evañca pana bhikkhave pabbajjetabbo.” (46)
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép xuất gia trở thành sa-di bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là lễ xuất gia trở thành sa-di.

Nghi thức lễ xuất gia trở thành sa-di

Giới-tử
có ý nguyện muốn làm lễ xuất gia trở thành sa-di, trước tiên cạo tóc, râu, mặc y ka-sa màu lõi mít, để chừa vai bên phải, vào đảnh lễ Thầy tế-độ, rồi ngồi chồm hổm (ukkuṭika) chắp hai tay để trên trán, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi.
Vị Thầy tế độ (upajjhāya) hướng dẫn đọc phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi và giới-tử cũng lặp lại từng chữ, từng câu đúng theo vị Thầy tế-độ như sau:
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Khi giới-tử đã lặp lại đúng từng chữ từng câu theo vị Thầy tế độ, giới tử thọ phép quy-y Tam-bảo đầy đủ 3 lần đến câu cuối “Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi” xong, giới tử ấy chính thức trở thành vị sa-di trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Khi ấy, vị sa-di có đầy đủ 10 giới sa-di, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt, 75 điều học tập, 14 pháp-hành của sa- di cùng một lúc trở thành sa-di không trước không sau.
Như vậy, để trở thành sa-di trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama, điều kiện đặc biệt cả 2 bên: bên vị Thầy tế độ và bên giới-tử đều phải đọc đúng gọi là ubhato suddhi thì lễ xuất gia trở thành sa-di mới thành-tựu, giới-tử chính thức trở thành sa-di trong Phật-giáo.
Đó là xuất gia trở thành sa-di bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo.

* Nếu trường-hợp vị Thầy tế độ (upajjhāya) hướng dẫn đọc phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi đúng, nhưng giới-tử lặp lại không đúng theo vị Thầy tế độ thì lễ xuất gia trở thành sa-di không thành tựu, giới-tử không trở thành sa-di trong Phật-giáo.

* Nếu trường-hợp vị Thầy tế-độ (upajjhāya) hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi không đúng, nhưng giới-tử lặp lại đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjana- buddhi thì lễ xuất gia trở thành sa-di cũng không thành tựu, giới-tử không trở thành sa-di trong Phật-giáo.

Trong 2 trường-hợp trên, bên vị Thầy tế-độ và bên giới-tử một bên đúng, một bên không đúng, nên lễ xuất gia trở thành sa-di không thành tựu, bởi vì, sự thành tựu lễ xuất-gia sa-di cần phải đọc đúng cả 2 bên ubhato suddhi, còn một bên đọc đúng, một bên đọc không đúng, hoặc cả 2 bên đều đọc không đúng thì lễ xuất gia trở thành sa-di không thành-tựu, giới-tử không trở thành vị sa-di trong Phật-giáo.

Hoàng Tử Rāhula khi ấy mới lên 7 tuổi, là vị sa-di đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Nghi thức lễ xuất-gia trở thành sa-di bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo này được lưu truyền từ thời-kỳ Đức-Phật mãi cho đến ngày nay trên các nước Phật-giáo nguyên-thủy Theravāda.

3- Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành người cận- sự-nam, cận-sự-nữ như thế nào?

Người nào có nguyện vọng muốn trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā), là 1 trong tứ chúng của Đức-Phật Gotama, được gần gũi thân cận với Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

Điều trước tiên, người ấy phải có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật, nhất là 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng, có nguyện vọng muốn trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) trong Phật-giáo.
Người ấy cần phải học hỏi, hiểu biết rõ cách thọ mỗi câu quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng.
Sau khi học hỏi hiểu biết cách thọ phép quy-y Tam- bảo xong, người ấy đi đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, kính bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con có nguyện vọng muốn trở thành người cận-sự-nam (hoặc cận-sự- nữ) được gần gũi thân cận Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.
- Kính xin Ngài có tâm từ tế độ con, kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn làm lễ thọ phép quy-y Tam- bảo cho con. Bạch Ngài.

Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam- bảo từng chữ, từng câu và người đệ-tử lặp lại từng chữ, từng câu theo Ngài Đại-Trưởng-lão.
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.


Người đệ-tử lặp lại theo Ngài Đại-Trưởng-lão từng chữ, từng câu:
* Khi lặp lại câu quy-y Phật: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 9 ân-đức Phật-bảo.
* Khi lặp lại câu quy-y Pháp: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.
* Khi lặp lại câu quy-y Tăng: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 9 ân-đức Tăng-bảo.
Lần thứ nhì và lần thứ ba cũng như lần thứ nhất.

Người đệ-tử lặp lại phép quy-y Tam-bảo theo Ngài Đại-Trưởng-lão đầy đủ 3 lần đúng như vậy, người đệ-tử ấy thành-tựu phép quy-y Tam-bảo. Ngay khi ấy, người đệ-tử được chính thức trở thành một người cận-sự-nam (upāsaka), hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời trọn kiếp.
Thật ra, địa vị người cận-sự-nam (upāsaka), cận-sự- nữ (upāsikā) là một trong tứ chúng của Đức-Phật thật là cao quý, bởi vì, Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó. Cũng như vậy, Đức-Pháp, Đức-Tăng xuất hiện trên thế gian cũng là điều khó. Cho nên, người được trở thành cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) cũng là điều rất khó.
Trong thời-kỳ Tam-bảo xuất hiện trên thế gian, và nơi nào có Phật-giáo đang tồn tại, thì nơi ấy, con người có phước duyên gặp được Phật-giáo, có cơ hội tốt đến xin thọ phép quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo:
* Quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo.
* Quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo.
* Quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.

Để được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa cao thượng, sự an-lạc cao thượng trong kiếp hiện-tại làm phước duyên cho những kiếp vị-lai.
Tam-bảo không phải lúc nào cũng hiện hữu trên thế gian này đâu! Khi nào có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, khi ấy mới có Tam-bảo, mà Đức- Phật xuất hiện trên thế gian này là một điều vô cùng hy hữu, rất hiếm có. Như Đức-Phật đã dạy:
“Buddhuppādo dullabho lokasmiṃ…”
- Đức-Phật xuất hiện trên thế gian này là điều khó được.
Thật vậy, có khi suốt thời gian lâu dài trải qua a-tăng- kỳ kiếp trái đất, mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, gọi là Suññakappa: Trái đất không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Thật hy hữu và vô cùng diễm phúc trong kiếp trái đất hiện-tại gọi là Bhaddakappa mà chúng ta đang sống, có 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tuần tự xuất hiện trên trái đất này.
Trong thời quá-khứ đã có ba Đức-Phật: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana Đức-Phật Kassapa đã xuất hiện trên trái đất này.
Thời hiện-tại, Đức-Phật Gotama của chúng ta đã xuất hiện và Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn cách đây 2.566 năm rồi, nhưng giáo-pháp của Đức-Phật còn lưu truyền lại trên thế gian cho đến ngày nay, nên chúng ta có phước- duyên, có cơ hội tốt đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo.
Trong thời vị-lai, Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện cùng trên trái đất này.

Những người nam, người nữ nào đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo xong rồi, những người ấy chính thức trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự- nữ (upāsikā), là một trong hàng tứ chúng của Đức-Phật Gotama.
Như vậy, cận-sự-nam, cận-sự-nữ cũng là một địa vị cao quý trong Phật-giáo.
Trong các bộ Chú-giải Pāḷi giảng giải rằng: Giáo-pháp của Đức-Phật Gotama chỉ tồn tại trên thế gian này khoảng 5.000 năm. Sau thời gian 5.000 năm giáo-pháp của Đức-Phật Gotama bị mai một, bị hoại diệt hoàn toàn, bởi vì không còn các hàng thanh-văn đệ-tử có khả năng giữ gìn duy trì Phật-giáo được nữa.
Trong thời hiện-tại này, giáo-pháp của Đức-Phật Gotama vẫn còn đang lưu truyền trên thế gian, ba ngôi Tam-bảo vẫn còn hiện hữu. Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có phước-duyên đã thọ phép quy-y Tam-bảo xong rồi, nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nhất tâm giữ gìn duy trì quy-y Tam-bảo cho được hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn.
Những người ấy, chắc chắn sẽ được quả báu lớn lao, vô cùng phong phú, được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa cao thượng, sự an-lạc cao thượng cả trong kiếp hiện- tại lẫn vô lượng kiếp vị-lai, cho đến khi chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Cho nên, phép quy-y Tam-bảo có một tầm quan trọng không chỉ đối với bậc xuất gia sa-di, tỳ-khưu, mà còn đối với các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ nữa.

Người cận-sự-nam - cận-sự-nữ trong Phật-giáo

Đối với người cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là hạng phàm-nhân, thọ phép quy-y Tam-bảo là bước đầu tiên vào ngưỡng cửa Phật-giáo. Phép quy-y Tam-bảo của mỗi chúng-sinh phải trải qua 3 giai đoạn:
* Giai đoạn đầu là giai đoạn thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana).
* Giai đoạn giữa là giai đoạn có cơ hội tốt theo học pháp-học Phật-giáo tùy theo khả năng hiểu biết của mình để làm nền tảng cơ bản cho pháp-hành Phật-giáo đó là pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
- Pháp-hành giới là pháp-hành mà hành-giả có tác-ý đồng sinh với đại-thiện-tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi ác-nghiệp do thân và khẩu, giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn để làm nền tảng cho pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ.
- Pháp-hành thiền-định là pháp-hành mà hành-giả thực hành dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, để hưởng sự an-lạc trong thiền-định trong kiếp hiện-tại, và trong kiếp vị-lai chắc chắn được hóa-sinh lên cõi sắc-giới phạm-thiên hoặc cõi vô-sắc- giới phạm-thiên, tùy theo bậc thiền sở đắc của hành-giả, để hưởng sự an-lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi trời ấy.
Các bậc thiền còn có thể làm nền tảng, làm đối-tượng để thực hành pháp-hành thiền-tuệ nữa.
- Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành mà hành-giả thực hành để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận phiền-não, tham-ái tùy theo mỗi bậc Thánh-đạo-tuệ đồng sinh với mỗi Thánh-đạo-tâm.

Thánh-đạo-tâm có 4 bậc:
1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm.
2- Nhất-lai Thánh-đạo-tâm.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tâm.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tâm.

Mỗi sát-na Thánh-đạo-tâm nào phát sinh, bậc Thánh- nhân ấy thành-tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu- tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana).
Đó là giai đoạn cuối của người cận-sự-nam hoặc cận- sự-nữ đã quy-y Tam-bảo.

Các pháp hỗ trợ phép quy-y Tam-bảo


Để phép quy-y Tam-bảo được hoàn hảo, người cận- sự-nam, cận-sự-nữ cần phải thực hành các pháp hỗ trợ cho phép quy-y Tam-bảo được hoàn hảo và cũng nhờ phép quy-y Tam-bảo để mọi thiện-pháp: dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp được phát triển.

Các pháp hỗ trợ

- Thực hành phước-thiện bố-thí.
- Giữ gìn ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, hoặc thập-giới, ... cho được trong sạch và đầy đủ trọn vẹn.
- Hành 10 thiện-nghiệp, tránh xa 10 ác-nghiệp.
- Sống theo chánh-mạng, tránh xa cách sống tà-mạng.
- Không nuôi mạng bằng 5 nghề buôn bán có hại như:
* Không làm nghề buôn bán vũ khí sát hại chúng-sinh.
* Không làm nghề buôn bán chúng-sinh, người, các loài thú vật.
* Không làm nghề giết các loài gia súc, gia cầm để bán thịt.
* Không làm nghề buôn bán các chất say như rượu, bia, thuốc phiện, ma túy, thuốc lá, ...
* Không làm nghề buôn bán các loại thuốc độc giết hại chúng-sinh nhỏ lớn, v.v…
Đó là các pháp hỗ trợ cho phép quy-y Tam-bảo được hoàn hảo.
- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong Phật-giáo như thế nào?

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên tìm hiểu bài kinh Mahānāmasutta (47) được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Nigrodhārāma, gần kinh thành Kapilavatthu. Khi ấy, Đức-vua Mahānāma dòng Sakya đến hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thế nào gọi là cận-sự-nam, cận-sự-nữ ? Bạch Ngài.
Đức-Phật dạy rằng:
- Này Mahānāma! Người có đức-tin nơi Tam-bảo, đến xin quy-y nơi Đức-Phật-bảo, xin quy-y nơi Đức-Pháp- bảo, xin quy-y nơi Đức-Tăng-bảo.
- Này Mahānāma! Người đã thọ phép quy-y Tam-bảo như vậy, gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thế nào gọi là người cận- sự-nam, cận-sự-nữ có giới? Bạch Ngài.
Đức-Phật dạy rằng:
- Này Mahānāma! Cận-sự-nam, cận-sự-nữ tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm).
- Này Mahānāma, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa 5 điều phạm giới như vậy, gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có giới.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thế nào gọi là người cận- sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin đầy đủ? Bạch Ngài.

Đức-Phật dạy rằng:
- Này Mahānāma! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong Phật-giáo này, là người có đức-tin trong sạch nơi Như-Lai là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác rằng:
“Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 9 ân-đức là:
1- Arahaṃ: Đức A-ra-hán là Bậc cao thượng có thân, khẩu, ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, chư-thiên và phạm-thiên.
2- Sammāsambuddho: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác- pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền- khiên-tật (vāsana), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Do đó, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.
3- Vijjācaraṇasampanno: Đức Minh-Hạnh-Túc là Bậc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh và 15 Đức-hạnh cao thượng.
4- Sugato: Đức Thiện-Ngôn là Bậc thuyết pháp chân- lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh.
5- Lokavidū: Đức Thông-Suốt Tam-Tổng-Pháp là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh (sattaloka), tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka), tổng các pháp- hành (saṅkhāraloka).
6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô-Thượng Giáo-Hóa Chúng-Sinh là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.
7- Satthā devamanussānaṃ: Đức Thiên-Nhân-Sư là Bậc Thầy của nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên, ...
8- Buddho: Đức-Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra- hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, rồi Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, cũng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp- chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
9- Bhagavā: Đức-Thế-Tôn là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt do thực hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh Ba-la- mật của Đức-Phật.

- Này Mahānāma! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Như-Lai là Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác như vậy, gọi là người cận-sự-nam, cận-sự- nữ có đức-tin đầy đủ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thế nào gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có phước-thiện bố-thí đầy đủ? Bạch Ngài.


Đức-Phật dạy rằng:
- Này Mahānāma! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong Phật-giáo này, là người không có tâm keo kiệt, bủn xỉn trong của cải của mình, biết đem của cải ra làm phước-thiện bố-thí với đại-thiện-tâm trong sạch, với đôi bàn tay dịu dàng của mình, có đại-thiện-tâm hoan-hỷ phước-thiện bố-thí đến những người đáng bố-thí, không có tâm thiên vị, hoan-hỷ phân phát của cải của mình đến cho người khác.
- Này Mahānāma! Làm phước bố-thí như vậy, gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có phước-thiện bố-thí đầy đủ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thế nào gọi là người cận- sự-nam, cận-sự-nữ có trí-tuệ đầy đủ? Bạch Ngài.

Đức-Phật dạy rằng:
- Này Mahānāma! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thực hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến phát sinh trí-tuệ- thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung (trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã) của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận phiền-não, tham-ái, trở thành bậc Thánh-nhân.
- Này Mahānāma! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới như vậy, gọi là người cận- sự-nam, cận-sự-nữ có trí-tuệ đầy đủ.”

Người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ là một trong tứ chúng: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, thuộc về hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo là người có đức-tin trong sạch nơi 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

Cận-sự-nam, cận-sự-nữ thấp hèn hoặc cao quý
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, nếu có tà-kiến dị đoan mê tín thì trở thành người cận-sự- nam hoặc cận-sự-nữ thấp hèn do 5 chi-pháp.
Nếu có chánh-kiến tin nơi nghiệp và quả của nghiệp thì trở thành người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cao quý, do có 5 chi-pháp.

Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Caṇḍālasutta: (48)
* 5 Chi-pháp thấp hèn
- Này chư tỳ-khưu! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có 5 chi-pháp này gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thấp hèn, do phiền-não làm ô-nhiễm và đáng bị chê trách.
5 chi-pháp thấp hèn như thế nào?
1- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người không có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, không tin nghiệp và quả của nghiệp.
2- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người phá giới, không có giới.
3- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người có tà-kiến, mê tín dị đoan, tin nhảm nhí vô căn cứ, không tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.
4- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người mong cầu phước-thiện bên ngoài Phật-giáo.
5- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ lo hộ độ, phục vụ, giúp truyền bá ngoại đạo tà-giáo.
- Này chư tỳ-khưu! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có 5 chi-pháp này gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thấp hèn, do phiền-não làm ô nhiễm và đáng bị chê trách.

* 5 Chi-pháp cao quý
- Này chư tỳ-khưu! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có 5 chi-pháp này gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cao quý; cận-sự-nam, cận-sự-nữ báu; cận-sự-nam, cận-sự- nữ như đóa sen hồng, đóa sen trắng.
5 chi-pháp cao quý như thế nào?
1- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp.
2- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người có giới, giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn.
3- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người có chánh- kiến, không tin nhảm nhí vô căn cứ, chỉ tin nghiệp và quả của nghiệp mà thôi.
4- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là người mong cầu phước-thiện trong Phật-giáo.
5- Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ lo hộ-độ, phụng-sự, giúp truyền bá duy trì Phật-giáo.
- Này chư tỳ-khưu, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có 5 chi-pháp này gọi là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cao- quý; cận-sự-nam, cận-sự-nữ báu; cận-sự-nam, cận-sự- nữ như đóa sen hồng, đóa sen trắng.


Như vậy, một người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, phải là người có chánh- kiến sở nghiệp (kammassakatā sammādiṭṭhi), không mê tín dị đoan, không tin nhảm nhí vô căn cứ, chỉ có tin nơi nghiệp và quả của nghiệp mà thôi. Tin nơi nghiệp và quả của nghiệp rằng:
- Nếu thiện-nghiệp có cơ hội thì cho quả tốt, quả an-lạc.
- Nếu ác-nghiệp có cơ hội thì cho quả xấu, quả khổ-não.

Ngoài thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp ra, không có ai có khả năng cho quả an-lạc hoặc quả khổ cả.

Thiện-pháp trong Phật-giáo

Trong Phật-giáo có đầy đủ 4 loại thiện-pháp:
1- Dục-giới thiện-pháp.
2- Sắc-giới thiện-pháp.
3- Vô-sắc-giới thiện-pháp.
4- Siêu-tam-giới thiện-pháp.

* Dục-giới thiện-pháp
đó là 8 dục-giới thiện-tâm tạo 10 phước-thiện (phước-thiện bố-thí, giữ-giới, hành- thiền, cung-kính, hỗ-trợ, hồi-hướng, hoan-hỷ, nghe pháp, thuyết-pháp, chánh-kiến) (49) và tạo 10 đại-thiện- nghiệp do thân, khẩu, ý. (50)

Dục-giới thiện-nghiệp
cho quả trong kiếp hiện-tại và những kiếp sau trong 7 cõi thiện-giới (cõi người, 6 cõi trời dục-giới).
* Sắc-giới thiện-pháp đó là 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 sắc-giới thiện-nghiệp chắc chắn cho quả kiếp kế-tiếp trong 16 cõi trời sắc-giới phạm-thiên.
* Vô-sắc-giới thiện-pháp đó là 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp chắc chắn cho quả kiếp kế tiếp trong 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Cả 3 loại thiện-pháp là dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp và vô-sắc-giới thiện-pháp có trong Phật-giáo và ngoài Phật-giáo.
* Siêu-tam-giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo thiện- tâm liền cho quả là 4 Thánh-quả-tâm trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm chỉ sau 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, không có thời gian chờ đợi (akālikadhamma).
Siêu-tam-giới thiện-pháp chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.
Siêu-tam-giới thiện-nghiệp không cho quả tái-sinh kiếp sau, mà có khả năng làm giảm kiếp tái-sinh tùy theo mỗi bậc Thánh-nhân như sau:

- Bậc Thánh Nhập-lưu
chỉ còn tái-sinh kiếp sau nhiều nhất 7 kiếp nữa trong cõi thiện-dục-giới, đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh 1 kiếp nữa trong cõi dục-giới mà thôi, trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới mà chỉ còn tái-sinh kiếp kế-tiếp trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn trong tầng trời sắc- giới phạm-thiên.
- Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Cho nên, các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, nếu có khả năng tiến triển trong mọi thiện-pháp thì không nên hài lòng dừng lại trong dục-giới thiện-pháp hoặc sắc-giới thiện-pháp hoặc vô-sắc-giới thiện-pháp, mà thật sự nên tiến triển đến siêu-tam-giới thiện-pháp cao thượng tột cùng đó là A-ra-hán Thánh-đạo-tâm, liền cho quả là A-ra-hán Thánh-quả-tâm trở thành bậc Thánh A-ra-hán, ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Nên tìm hiểu bài kinh Gavesīsutta (51) được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Phật du hành trong xứ Kosala cùng với nhóm đông chư tỳ-khưu. Khi đang đi trên đường, nhìn thấy một khu rừng sāla lớn, Đức-Phật ghé vào khu rừng sāla ấy, đứng mỉm cười.
Khi ấy Ngài Trưởng-lão Ānanda nghĩ rằng: “Có điều gì là nhân là duyên khiến Đức-Phật mỉm cười.”
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch hỏi Đức-Phật rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có điều gì là nhân là duyên khiến Đức-Thế-Tôn mỉm cười ? Bạch Ngài
Đức-Phật truyền dạy rằng:
- Này Ānanda! Chuyện đã từng xảy ra, nơi này là một nước rộng lớn giàu mạnh rất phồn thịnh, các tỉnh thành dân chúng đông đúc. Khi ấy Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Kassapa ngự đến tại kinh-thành này. Một cận-sự-nam tên là Gavesī, là thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Kassapa.
Cận-sự-nam Gavesī là người giữ gìn ngũ-giới không trong sạch và không trọn vẹn và là người trưởng nhóm của 500 cận-sự-nam cũng giữ gìn ngũ-giới không trong sạch, không trọn vẹn.
Khi ấy, cận-sự-nam Gavesī nghĩ rằng: “Ta là người trưởng nhóm dìu dắt dạy dỗ nhóm 500 cận-sự-nam này, mà ta giữ gìn ngũ-giới không trong sạch, không trọn vẹn, và nhóm 500 cận-sự-nam cũng giữ gìn ngũ-giới không trong sạch, không trọn vẹn. Như vậy, giữa ta và họ bằng nhau, không cao không thấp.
Vậy, ta nên thực hành pháp-hành giới cao hơn là giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.”
Khi ấy, người cận-sự-nam Gavesī gọi nhóm 500 cận-sự-nam hội họp đông đủ, rồi thông báo rằng:
- Này quý bạn hữu! Kể từ hôm nay về sau, xin quý bạn hãy nhận biết tôi là người thực hành pháp-hành giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.
Khi nghe cận-sự-nam Gavesī thông báo như vậy, nhóm 500 cận-sự-nam ấy đều nghĩ rằng: “Cận-sự-nam Gavesī là huynh trưởng, là người dìu dắt dạy dỗ chúng ta. Nay, cận-sự-nam Gavesī thực hành pháp-hành giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, chẳng lẽ chúng ta không thể thực hành pháp-hành giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn được hay sao?”
Khi ấy, nhóm 500 cận-sự-nam cùng nhau đến gặp cận-sự-nam Gavesī, rồi thưa rằng:
- Kính thưa huynh trưởng, kể từ hôm nay về sau, kính xin huynh trưởng nhận biết chúng tôi đều là những người thực hành pháp-hành giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.

Nghe nhóm 500 cận-sự-nam ấy thưa như vậy, cận-sự- nam Gavesī nghĩ rằng: “Ta là người trưởng nhóm dìu dắt dạy dỗ nhóm 500 cận-sự-nam này, mà ta giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, và nhóm 500 cận-sự-nam cũng giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.
Như vậy, giữa ta và họ bằng nhau, không cao không thấp. Vậy, ta nên thực hành pháp-hành giới cao hơn.”

Khi ấy, người cận-sự-nam Gavesī gọi nhóm 500 cận- sự-nam hội họp đông đủ, rồi thông báo rằng:
- Này quý bạn hữu! Kể từ hôm nay về sau, xin quý bạn hãy nhận biết tôi là người thực hành pháp-hạnh cao thượng (brahmacārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia.
Khi nghe cận-sự-nam Gavesī thông báo như vậy, nhóm 500 cận-sự-nam ấy đều nghĩ rằng: “Cận-sự-nam Gavesī là huynh trưởng, là người dìu dắt dạy dỗ chúng ta. Nay, cận-sự-nam Gavesī là người thực hành pháp- hạnh cao thượng (brahmacārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia, chẳng lẽ chúng ta không thể thực hành pháp-hạnh cao thượng (brahma- cārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia được hay sao?”
Khi ấy, nhóm 500 cận-sự-nam cùng nhau đến gặp cận-sự-nam Gavesī, rồi thưa rằng:
- Kính thưa huynh trưởng, kể từ hôm nay về sau, kính xin huynh trưởng nhận biết chúng tôi đều là những người thực hành pháp-hạnh cao thượng (brahmacārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia.

Nghe nhóm 500 cận-sự-nam ấy thưa như vậy, cận-sự- nam Gavesī nghĩ rằng: “Ta là người trưởng nhóm dìu dắt dạy dỗ nhóm 500 cận-sự-nam này, mà ta thực hành pháp-hạnh cao thượng (brahmacārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia, và nhóm 500 cận-sự-nam cũng thực hành pháp-hạnh cao thượng (brahmacārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia. Như vậy, giữa ta và họ bằng nhau, không cao không thấp.
Vậy, ta nên thực hành pháp-hành giới cao hơn.”

Khi ấy, người cận-sự-nam Gavesī gọi nhóm 500 cận-sự-nam hội họp đông đủ, rồi thông báo rằng:
- Này quý bạn hữu! Kể từ hôm nay về sau, xin quý bạn hãy nhận biết tôi là người thực hành dùng vật thực một bữa ngọ, tránh xa dùng vật thực sái giờ (quá 12 giờ trưa).
Khi nghe cận-sự-nam Gavesī thông báo như vậy, nhóm 500 cận-sự-nam ấy đều nghĩ rằng: “Cận-sự-nam Gavesī là huynh trưởng, là người dìu dắt dạy dỗ chúng ta. Nay, cận-sự-nam Gavesī là người thực hành dùng vật thực một bữa ngọ, tránh xa dùng vật thực sái giờ (quá 12 giờ trưa), chẳng lẽ chúng ta không thể thực hành dùng vật thực một bữa ngọ, tránh xa dùng vật thực sái giờ (quá 12 giờ trưa) được hay sao?”
Khi ấy, nhóm 500 cận-sự-nam cùng nhau đến gặp cận-sự-nam Gavesī, rồi thưa rằng:
- Kính thưa huynh trưởng, kể từ hôm nay về sau, kính xin huynh trưởng nhận biết chúng tôi đều là những người thực hành dùng vật thực một bữa ngọ, tránh xa dùng vật thực sái giờ (quá 12 giờ trưa).

Nghe nhóm 500 cận-sự-nam ấy thưa như vậy, cận-sự- nam Gavesī nghĩ rằng: “Ta là người trưởng nhóm dìu dắt dạy dỗ nhóm 500 cận-sự-nam này, mà ta giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, và nhóm 500 cận-sự- nam cũng giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn; ta thực hành pháp-hạnh cao thượng (brahmacārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia, và nhóm 500 cận-sự-nam cũng thực hành pháp-hạnh cao thượng (brahmacārī) là tránh xa hành dâm là pháp thấp hèn của người tại gia; ta là người thực hành dùng vật thực một bữa ngọ, tránh xa dùng vật thực sái giờ (quá 12 giờ trưa), và nhóm 500 cận-sự-nam cũng thực hành dùng vật thực một bữa ngọ, tránh xa dùng vật thực sái giờ (quá 12 giờ trưa).
Như vậy, giữa ta và họ bằng nhau, không cao không thấp. Vậy, ta nên thực hành pháp-hạnh cao hơn.”

Khi ấy, cận-sự-nam Gavesī đi đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Kassapa, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài có tâm từ tế độ cho phép con được xuất gia sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Ngài.
- Này Ānanda! Cận-sự-nam Gavesī được xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kasssapa.
Sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, tỳ-khưu Gavesī lánh xa khỏi nhóm, sống một mình nơi thanh vắng, tinh- tấn không ngừng thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hoàn thành phạm-hạnh cao thượng của bậc xuất-gia, trí-tuệ biết rõ kiếp này là kiếp chót, không còn tái-sinh kiếp nào nữa, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Này Ānanda! Khi ấy nhóm 500 cận-sự-nam biết rằng: “Cận-sự-nam Gavesī là huynh trưởng, là người dìu dắt dạy dỗ họ. Nay, cận-sự-nam Gavesī đã xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa, chẳng lẽ họ không thể xuất gia trở thành tỳ- khưu trong trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa được hay sao?”
Nhóm 500 cận-sự-nam đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa, rồi kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài có tâm từ tế độ cho phép chúng con được xuất gia sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Ngài.
- Này Ānanda! Nhóm 500 cận-sự-nam được xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kasssapa.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Gavesī nguyện rằng: “Tôi đã hoàn thành phạm-hạnh cao thượng của bậc xuất-gia như thế nào, xin cho 500 tỳ-khưu cũng hoàn thành phạm-hạnh cao thượng của bậc xuất-gia như thế ấy.”


Sau khi trở thành 500 tỳ-khưu không lâu, mỗi vị tỳ- khưu lánh xa khỏi nhóm, sống một mình nơi thanh vắng, tinh-tấn không ngừng thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hoàn thành phạm-hạnh cao thượng của bậc xuất-gia, trí- tuệ biết rõ kiếp này là kiếp chót, không còn tái-sinh kiếp nào nữa, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Qua bài kinh này, cận-sự-nam Gavesī là huynh trưởng làm gương mẫu cho nhóm 500 cận-sự-nam noi gương theo, nên nhóm 500 cận-sự-nam tiến triển từ thiện-pháp bậc thấp tiến dần lên thiện-pháp bậc cao.
Cuối cùng cận-sự-nam Gavesī xuất gia trở thành tỳ- khưu thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán; và nhóm 500 cận-sự-nam cũng noi gương theo xuất gia trở thành 500 tỳ-khưu, mỗi vị tỳ-khưu lánh xa khỏi nhóm, thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Cho nên, bậc Thầy làm gương mẫu trong mọi thiện- pháp để cho các hàng đệ-tử noi gương theo như mình.
Nếu vị thầy suy xét thấy người đệ-tử nào có khả năng tiến triển thiện-pháp cao hơn mình thì gửi người đệ-tử ấy đến cho Ngài Đại-Trưởng-lão cao quý đáng tôn kính, để người đệ-tử ấy có cơ-hội phát triển tài năng đúng mức, để không bỏ lỡ cơ hội tốt của người đệ-tử ấy.

Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo

Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo
là lễ tất yếu đầu tiên đối với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
* Để trở thành sa-di, giới-tử dưới 20 tuổi cần phải thành tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.
* Để trở thành tỳ-khưu, giới-tử trên 20 tuổi đã thành tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo xin xuất gia trở thành tỳ-khưu.
* Để trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, người ấy cần phải thành tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.
Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt vị tỳ-khưu được Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu!” thì không qua lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.

Nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới

* Thời xưa, theo kinh sách ghi lại, người ta đến lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp xong, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tự nguyện kính xin quy-y Tam- bảo, có Đức-Phật chứng minh và kính xin Đức-Phật công nhận:
- Nếu là người nam thì kính xin Đức-Phật công nhận là cận-sự-nam (upāsaka).
- Nếu là người nữ thì kính xin Đức-Phật công nhận là cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời, trọn kiếp. Còn ngũ-giới là thường giới của con người.
Còn bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, … thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ tự nguyện thọ trì giới trong những ngày giới hằng tháng riêng biệt.

* Thời nay,
lễ thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông thường theo sau là thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, tùy theo ý- nguyện số đông người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ.
Cho nên, lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát giới, v.v… cùng một lúc đã trở thành một nghi lễ phổ thông theo truyền thống trong các nước Phật-giáo Theravāda.

Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo có một tầm rất quan trọng * đối với người nào chưa từng thọ phép quy-y Tam-bảo, nay thành tựu phép quy-y Tam-bảo xong, ngay khi ấy, người ấy chính thức trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo, kể từ lúc đó cho đến trọn đời.
* Đối với người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự- nữ (upāsikā) đã từng thành tựu phép quy-y Tam-bảo, nay mỗi lần xin thọ phép quy-y Tam-bảo, thì lại làm cho phép quy-y Tam-bảo càng thêm vững chắc, làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo trong kiếp hiện- tại và để tạo phước duyên cho những kiếp vị-lai.
thọ trì ngũ-giới là thường-giới (niccasīla) của người tại gia nói chung, đối với người cận-sự-nam, cận- sự-nữ nói riêng. Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn hoàn toàn, giúp hỗ trợ phép quy-y Tam-bảo được hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm do bởi phiền-não.
Do đó, xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ- giới cùng một lúc là hai phước-thiện rất cao quý.

Lễ sám hối Tam-bảo

Lễ sám hối Tam-bảo là một điều rất cần thiết trước khi xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, v.v…
Trong đời sống hằng ngày, đối với hạng phàm-nhân còn có đầy đủ phiền-não, nên thân, khẩu, ý khó tránh khỏi phạm những sai lầm với Tam-bảo, do cố ý hoặc vô ý. Nếu đã phạm lỗi lầm rồi, thì thân, khẩu, ý không còn trong sạch, do bị ô nhiễm bởi phiền-não.
Muốn cho thân, khẩu, ý được trong sạch thanh-tịnh, thì chỉ có cách sám hối tội-lỗi của mình, rồi cố gắng giữ gìn, không để tái phạm nữa. Khi đại-thiện-tâm phát sinh có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, khi ấy nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, v.v…
Cũng như theo lẽ thường, người ta muốn mặc một bộ quần áo mới đẹp sang trọng, trang điểm những đồ trang sức quý giá như kim cương, hột xoàn, ngọc maṇi, … Điều trước tiên, người ta cần phải tắm rửa cho thân hình sạch sẽ, sau đó, mới mặc quần áo mới đẹp sang trọng, rồi trang điểm những đồ trang sức quý giá ấy.
Đó là thuộc về phần thân bên ngoài.
Còn về phần tâm bên trong, muốn thỉnh Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo ngự vào trong tâm của mình, điều trước tiên, phải nên làm cho tâm của mình trở nên trong sạch thanh-tịnh, bằng cách sám hối những lỗi lầm với Tam-bảo. Khi đại-thiện-tâm trở nên trong sạch thanh-tịnh, khi ấy mới nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, v.v...
Theo truyền thống của người Myanmar (Miến-Điện), từ khi còn nhỏ, cha mẹ đã dạy con học thuộc lòng bài sám hối Tam-bảo, cho nên trong những buổi lễ dù nhỏ, dù lớn thuộc về Phật-giáo, như lễ làm phước-thiện bố-thí, lễ nghe thuyết pháp, ngày giới “uposathasīla” hằng tháng, thậm chí kể cả hằng ngày, lễ bái Tam-bảo, …
Trước tiên, mọi người đều đồng thanh đọc bài sám hối Tam-bảo, tiếp theo mới xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, … trở thành một phong tục tập quán theo truyền thống từ xưa cho đến nay.
Nhận xét thấy truyền thống lễ sám hối Tam-bảo của người Myanmar (Miến-Điện) đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cả trong kiếp hiện-tại lẫn trong kiếp vị-lai. Do đó, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nên bắt chước để trở thành một truyền thống tốt lành trong Phật-giáo.

Bài sám hối Tam-bảo


Trong các buổi lễ dù nhỏ, dù lớn, có một người hoặc nhiều người hết lòng thành kính đảnh lễ Tam-bảo xong, trước sự hiện diện của chư tỳ-khưu-Tăng (hoặc một vị tỳ-khưu), tất cả mọi người đều đồng thanh đọc bài sám hối Tam-bảo.

Bài sám hối của người Myanmar đại ý như sau:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, xin phép Ngài, chúng con xin thành tâm sám hối những lỗi lầm do thân-hành- ác, khẩu-nói-ác, ý-nghĩ-ác của chúng con đã xúc phạm đến Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-
Tăng-bảo cao thượng, đến ông bà, cha mẹ, Thầy tổ, những bậc ân nhân tôn kính, từ trước đến hiện-tại này. Từ nay về sau, chúng con cố gắng hết sức mình, cẩn trọng giữ gìn không để tái phạm.
Kính xin Ngài Trưởng-lão chứng minh và nhận biết những lỗi lầm mà chúng con thành tâm sám hối, do nhờ tác-ý trong đại-thiện-tâm sám hối này hỗ trợ cho chúng con được thành-tựu:

* Mong được tránh khỏi tái-sinh bốn cõi ác-giới, không gặp phải ba nạn tai, không sinh trong tám cõi bất lợi, không gặp năm nạn bại-sản trong cả mọi thời, mọi kiếp tử sinh luân-hồi.
* Mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi tham- ái, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Nội dung bài sám hối Tam-bảo

Sự ích lợi của sự sám hối lỗi lầm, cốt để ngăn mọi ác- nghiệp không có cơ hội cho quả, để cho mọi thiện- nghiệp có cơ hội cho quả.
Mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.

Giải thích:

* Thân-hành-ác có 3 điều là sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm.
* Khẩu-nói-ác có 4 điều là nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.
* Ý-nghĩ-ác có 3 điều là tâm tham-lam, tâm thù-hận, tâm tà-kiến.
* 4 cõi ác-giới là địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.
* 3 nạn tai là nạn bom đạn chiến tranh, nạn dịch bệnh truyền nhiễm, nạn chết đói.
* 8 cõi bất lợi là chúng-sinh ở trong 8 nơi không thể thực hành phạm-hạnh cao thượng, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn đó là:
1- Chúng-sinh ở trong cõi địa-ngục.
2- Chúng-sinh là loài súc-sinh.
3- Chúng-sinh là loài ngạ-qủy.
4- Phạm-thiên ở trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên, và phạm-thiên phàm ở trong cõi vô-sắc-giới.
5- Dân chúng sống vùng hẻo lánh không có Phật-giáo.
6- Người sinh trưởng trong gia đình ngoại đạo tà-kiến.
7- Người khuyết tật câm-điếc.
8- Người có trí-tuệ ở nơi không gặp được Đức-Phật hoặc chư tỳ-khưu Tăng.

* 5 nạn bại-sản:

1- Nạn nước lụt phá hủy của cải tài sản.
2- Nạn lửa cháy thiêu hủy của cải tài sản.
3- Nạn kẻ trộm cướp chiếm đoạt của cải tài sản.
4- Nạn Vua tàn bạo chiếm đoạt của cải tài sản.
5- Nạn con cái hư đốn làm tiêu tan của cải tài sản, ...

Lời chúc lành


Sau khi mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ xin phép làm lễ sám hối Tam-bảo xong, Ngài Đại-Trưởng-lão thay mặt chư tỳ-khưuTăng chúc lành đến họ.
Lời chúc lành của mỗi Ngài Đại-Trưởng-lão (hoặc Ngài Trưởng-lão hoặc vị tỳ-khưu) về lời lẽ không giống nhau, song về ý thì đều giống nhau. Quý Ngài thường cầu chúc cho tất cả người cận-sự-nam, cận-sự-nữ được thành tựu như ý mong ước của mình.
Chư Phật Độc-Giác thường cầu chúc rằng:
Icchitaṃ patthitam tumhaṃ,
Khippameva samijjhatu.
Điều mong ước, ý nguyện của các con,
Chúc cho sớm được thành tựu như ý.

Mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều hoan-hỷ đồng thanh nói lên lời:
Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới

Tiếp theo người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đọc lời xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:
- Ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
- Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
- Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.


Nghĩa:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con.
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ nhì.
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ ba.

Trên đây là nghi thức lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới phổ thông trong nước Myanmar (Miến-Điện) đã trở thành truyền thống từ xưa cho đến nay.

Phật-giáo Nguyên-thủy tại Việt-nam

Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda tại Việt-Nam do Ngài Đại-Trưởng-lão Hộ-Tông Vị Sư Tổ có công lớn cùng với chư Đại-Trưởng-lão khác. Ngài Sư Tổ đã dịch và ấn hành nhiều sách, nhiều kinh tụng hằng ngày cho sa-di, tỳ-khưu, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

Trong những bài kệ lễ bái Tam-bảo, có 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và có 3 bài kệ khẳng định không quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà thôi.
Những bài kệ này có thể đem sử dụng vào trong trường hợp trước khi thọ phép quy-y Tam-bảo và sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát-giới uposatha- sīla, hoặc cửu-giới uposathasīla thì thật là hợp thời.

* Ba bài kệ sám hối Tam-bảo

Trước khi xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới (hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, …) các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo: sám hối Đức-Phật-bảo, sám hối Đức-Pháp-bảo, sám hối Đức-Tăng-bảo, để làm cho tâm của mình trở nên trong sạch thanh-tịnh, rồi xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới thì thật là hợp thời.

* Ba bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo

Và sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới,… xong rồi, các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, mà chỉ có quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng trưởng đức-tin càng thêm vững chắc, thì cũng thật là hợp thời.

Nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới

Trong các buổi lễ dù nhỏ, dù lớn, dù có một người hoặc nhiều người, trước sự hiện diện chứng minh của Ngài Đại-Trưởng-lão, hoặc Ngài Trưởng-lão, hoặc vị tỳ- khưu, sa-di, hoặc người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, hoặc trước cội Đại-Bồ-đề, hoặc trước ngôi Bảo-tháp, hoặc trước bàn thờ Đức-Phật, …
Trước tiên, thành kính đảnh lễ Tam-bảo xong, rồi các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc ba bài kệ sám hối Tam-bảo.(52)

1- Bài kệ sám hối đức-Phật-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
(Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)
Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
(Pa-đá-păng-xung vóa-rút-tá-măng)
Buddhe yo khalito doso,
(Bút-thê dô khá-lí-tô đô-xô)
Buddho khamatu taṃ mama.
(Bút-thô khá-má-tú tăng má-má)

Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo,
Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)


2- Bài kệ sám hối đức-Pháp-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
(Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)
Dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
(Thăm-măn-chá đú-ví-thăng vóa-răng)
Dhamme yo khalito doso,
(Thăm-mê dô khá-lí-tô đô-xô)
Dhammo khamatu taṃ mama.
(Thăm-mô khá-má-tú tăng má-má)

Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và pháp-hành,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,
Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

3- Bài kệ sám hối đức-Tăng-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
(Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)
Saṃghañca duvidhuttamaṃ.
(Xăng-khăng-chá đú-ví-thút-tá-măng)
Saṃghe yo khalito doso,
(Xăng-khê dô khá-lí-tô đô-xô)
Saṃgho khamatu taṃ mama.
(Xăng-khô khá-má-tú tăng má-má)

Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,
Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ nguyện cầu
Iminā puññakammena,
(Í-mí-na pun-nhá-kam-mê-ná)
Sabbe bhayā vinassantu.
(Xặp-bê phá-gia wí-nát-xăn-tú)
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,
(Níp-ba-năng á-thí-găn-tung hí)
Sabbadukkhā pamuccāmi.
(Xặp-bá-đúc-kha pá-múc-cha-mí)

Nghĩa:
Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này,
Mong cho mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Con mong sớm giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Lợi ích của sự sám hối và nguyện cầu
Năm điều tai họa (Antarāyikadhamma):
1- Kammantarāyika: Tai họa do ác-nghiệp trọng-tội.
2- Kilesantarāyika: Tai họa do phiền-não tà-kiến cố-định.
3- Vipākantarāyika: Tai họa do quả tái-sinh.
4- Ariyūpavādantarāyika: Tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh-nhân.
5- Aṇāvitikkamantarāyika: Tai họa do phạm giới.(53)

Trong 5 điều tai họa ấy, có 3 điều: tai họa do ác-nghiệp trọng-tội, tai họa do phiền-não tà-kiến cố-định và tai họa do quả tái-sinh, cả 3 điều tai họa này xảy ra trong kiếp hiện-tại, vô phương cứu chữa, đành phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy mà thôi.
Riêng 2 điều: tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh- nhân và tai họa do phạm giới, cả 2 điều tai họa này, ngay trong kiếp hiện-tại, có thể cứu chữa bằng cách làm lễ sám hối lỗi lầm của mình.
* Tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh-nhân: Nếu có những lỗi lầm nào xúc phạm đến Đức-Phật, Đức- Pháp, Đức-Tăng, các bậc Thầy tổ, ông bà, cha mẹ, các bậc Trưởng-lão, các bậc có giới-đức, các bậc ân-nhân, v.v... thì chỉ có phương cách làm lễ sám hối những lỗi lầm ấy của mình đối với các bậc ấy mà thôi. Sau khi làm lễ sám hối xong, người ấy phải luôn tâm niệm không để tái phạm.

Như vậy, người ấy tránh được mọi tai họa, sẽ thành tựu được sự lợi ích, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại lẫn vô lượng kiếp vị-lai.
Vì vậy, lễ sám hối Tam-bảo là điều lợi ích lớn lao.
* Tai họa do phạm giới: Đối với hạng phàm-nhân vốn có phiền-não còn nặng nề, trong cuộc sống hằng ngày khó tránh khỏi điều phạm giới.
Nếu đã phạm giới dù nặng dù nhẹ thì cũng có thể gây ra tai họa trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai.
Muốn tránh khỏi những điều tai họa sẽ xảy đến cho mình thì chỉ có phương cách làm lễ sám hối, rồi xin thọ trì giới trở lại, đó là phương cách duy nhất, để cho giới của mình trở nên trong sạch trở lại.
Lễ sám hối là phương cách chung cả cho sa-di, tỳ- khưu lẫn người cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

- Đối với chư tỳ-khưu, trước khi hành tăng-sự như lễ tụng bhikkhupātimokkha “Lễ tụng giới tỳ-khưu hằng tháng vào ngày rằm và ngày cuối tháng, chư tỳ-khưu, mỗi vị đều phải làm lễ sám hối āpatti 2-3 vị lẫn nhau trước, rồi sau đó mới hành-tăng-sự tụng bhikkhu- pātimokkha”. Hoặc mỗi khi vị tỳ-khưu nào biết mình bị phạm giới nào, vị tỳ-khưu ấy nên tìm đến vị tỳ-khưu khác xin làm lễ sám hối giới ấy.
Sau khi đã sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trở lại trong sạch.
- Đối với sa-di nên sám hối và chịu hành phạt xong, rồi xin thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Đối với hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên làm lễ sám hối Tam-bảo xong, rồi mới xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla hoặc cửu-giới uposathasīla, ... Đó là điều hợp pháp, để làm tăng thêm đức-tin và lòng tôn kính Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo.
* Bài kệ nguyện cầu đó là nguyện vọng tha thiết của mình, mong tránh khỏi tai họa và mong sớm chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
* Lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới theo truyền thống của người Myanmar thật rõ ràng:
- Người xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, … khẩn khoản thỉnh Ngài Trưởng-lão hướng dẫn phép quy- y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, …
Như vậy, đây là một nghi thức người xin khẩn khoản và thỉnh cầu Ngài Trưởng-lão hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, … Đó là cách nên bắt chước theo.

Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới


Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và bài kệ cầu nguyện xong, tất cả mọi người cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:
- Mayaṃ (54) Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no, Bhante.
(Má-giăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há păn-chá-xi-lăng thăm-măng gia-cha-má á-núc-ghá-hăng cát-toa xi-lăng đê-thá nô phăn-tê).
- Dutiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no, Bhante.
(Đú-tí-giăm-pí má-giăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há păn-chá-xi-lăng thăm-măng gia-cha-má á-núc-ghá-hăng cát-toa
xi-lăng đê-thá nô phăn-tê).
- Tatiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no, Bhante.
(Tá-tí-giăm-pí má-giăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há păn-chá-xi-lăng thăm-măng gia-cha-má á-núc-ghá-hăng cát-toa xi-lăng đê-thá nô phăn-tê).

Nghĩa:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫ n phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con, lần thứ nhì.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con, lần thứ ba.

Hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới

Hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát-giới uposathasīla hoặc cửu-giới uposathasīla, … là phận sự của Ngài Đại-Trưởng-lão, nếu không có Ngài Đại-Trưởng-lão thì Ngài Trưởng-lão, nếu không có Ngài Trưởng-lão thì vị tỳ-khưu, nếu không có vị tỳ-khưu thì vị sa-di, nếu không có vị sa-di thì thậm chí người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cũng nên, bởi vì thành tựu phép quy-y Tam-bảo phần chính là do người đệ-tử biết cách thọ phép quy-y Tam-bảo, còn vị Thầy hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo chỉ giúp đỡ hỗ trợ cho người đệ-tử được thành tựu phép quy-y Tam-bảo mà thôi.
Vị Thầy hướng dẫn người đệ-tử biết cách thọ phép quy-y Tam-bảo và các điều giới như sau:br /> ** Khi lặp lại câu quy-y Đức-Phật-bảo: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo.
* Khi lặp lại câu quy-y Đức-Pháp-bảo: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.
* Khi lặp lại câu quy-y Đức-Tăng-bảo: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo, …
* Khi lặp lại câu điều giới nào, thì có tác-ý đồng sinh với đại-thiện tâm tránh xa đối-tượng phạm điều-giới ấy, giữ gìn điều-giới ấy cho được trong sạch.br /> NNhư vậy, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ được thành tựu phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới là do nhờ vị Thầy dạy dỗ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới có 3 cách:
- Cách thứ nhất: Hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi.
- Cách thứ nhì: Tiếng Pāḷi và có nghĩa tiếng Việt.
- Cách thứ ba: Hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt.

1- Cách thứ nhất: Hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi

Sau khi tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ làm lễ sám hối Tam-bảo và xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong rồi, tiếp theo vị Thầy hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi. Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy rằng:
Ntl (55): Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha (vadehi). (56)
Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:
Csn(57): Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)

Đảnh lễ Đức-Phật
Ntl: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)
Csn: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)
(Ná-mô tắt-xá phá-gá-vóa-tô á-rá-há-tô xăm-ma-xăm-bút-thắt-xá)

Thọ phép quy-y Tam-bảo
Ntl: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)
Ntl: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí).


Ntl: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)
Ntl: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)
Ntl: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)
Ntl: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)
Ntl: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)
Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
Csn: Āma! Bhante.

Thọ trì ngũ-giới
Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ-giới:
Ntl: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi (Pa-na-tí-pa-ta vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)
Ntl: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. (Á-đin-na-đa-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)
Ntl: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ (Ca-mê-xú mít-cha-cha-ra vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng samādiyāmi. xá-ma-đí-gia-mí)
Ntl: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. (Mú-xa-voa-đa vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)
Ntl: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi-sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi-sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
(Xú-ra mê-rá-giá mắt-chắp pá-ma-đát-tha-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)
Ntl: Tisaranena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha, (sampādehi).
Csn: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)
Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā.
Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Csn: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới xong rồi, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức- Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức-tin như sau:

Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
(Nắt-thí mê xá-rá-năng an-nhăng)
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
(Bút-thô mê xá-rá-năng vóa-răng)
Etena saccavajjena,
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
(Hô-tú mê chá-giá-măn-ghá-lăng)
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
(Nắt-thí mê xá-rá-năng an-nhăng)
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
(Thăm-mô mê xá-rá-năng vóa-răng)
Etena saccavajjena,
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
(Hô-tú mê chá-giá-măn-ghá-lăng)
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
(Nắt-thí mê xá-rá-năng an-nhăng)
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
(Xăng-khô mê xá-rá-năng vóa-răng)
Etena saccavajjena,
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
(Hô-tú mê chá-giá-măn-ghá-lăng)


Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ- giới theo từng mỗi câu hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi.

Phép quy-y Tam-bảo 3 câu cùng một lúc hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi
Theo truyền thống nước Myanmar (Miến-Điện), Ngài Trưởng-lão thường hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo 3 câu Quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng cùng một lúc, và các cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh lặp lại cũng 3 câu cùng một lúc.
Sau khi tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đọc 3 bài sám hối và cầu nguyện xong, tiếp theo xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Ngài Trưởng-lão sẽ truyền dạy rằng:
Ntl: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha (vadehi).
Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:
Csn: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)



Đảnh lễ Đức-Phật

Ntl: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)
Csn: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

Thọ phép quy-y Tam-bảo
Ntl: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
Csn: Āma! Bhante.


Thọ trì ngũ-giới

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ-giới:
Ntl: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi-sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi- sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Tisaranena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha (sampādehi).
Csn: Āma! Bhante.
Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Csn: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới xong rồi, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức- Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức-tin như sau:

Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.


Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới 3 câu hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi.

2- Cách thứ nhì: Tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt
Sám hối Tam-bảo
Bài kệ sám hối Đức-Phật-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,
Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso,
Buddho khamatu taṃ mama.
Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo,
Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)


Bài kệ sám hối đức-Pháp-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, Dammañca duvidhaṃ varaṃ. Dhamme yo khalito doso, Dhammo khamatu taṃ mama.
Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và pháp-hành,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,
Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ sám hối đức-Tăng-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,
Saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso,
Saṃgho khamatu taṃ mama.
Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,
Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ nguyện cầu

Iminā puññakammena,
Sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,
Sabbadukkhā pamuccāmi.
Nghĩa:
Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này,
Mong cho mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Con mong giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tái-sinh.


Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới

Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và bài kệ cầu nguyện xong, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:
- Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no, Bhante.
- Dutiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no, Bhante.
- Tatiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no, Bhante.
Nghĩa:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho chúng con.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho chúng con, lần thứ nhì.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho chúng con, lần thứ ba.

Phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới
Hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt. Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy rằng:
Ntl: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha (vadehi).
Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, các con hãy nên lặp lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy.
Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:
Csn: Āma! Bhante.
Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

Đảnh lễ Đức-Phật

Ntl: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
Csn: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Thọ phép quy-y Tam-bảo

Ntl: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
Ntl: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
Ntl: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

Ntl: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
Ntl: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
Ntl: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.

Ntl: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
Ntl: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
Ntl: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Csn: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
Csn: Āma! Bhante. Dạ, xin vâng. Bạch Ngài.

Thọ trì ngũ-giới

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ-giới:
Ntl: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.
Ntl: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm-cắp.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm-cắp.
Ntl: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà-dâm.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà-dâm.
Ntl: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối.
Ntl: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Csn: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
Ntl: Tisaranena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha.
Phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.
Csn: Āma! Bhante.
Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.
Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!
Csn: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ- giới xong, tiếp theo nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức- Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm tăng đức-tin cho càng thêm vững chắc như sau:

Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt.

3- Cách thứ ba: Hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt

Hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt. Thật ra, điều quan trọng để thành tựu phép quy-y Tam-bảo là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.

- Khi đọc câu quy-y Phật, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo.
- Khi đọc câu quy-y Pháp, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.
- Khi đọc câu quy-y Tăng, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo.
Do đó, dù bằng tiếng Pāḷi hoặc nghĩa tiếng Việt cũng phải hiểu rõ đúng nghi lễ, biết cách thọ đúng phép quy-y Tam-bảo, thì cũng thành tựu được phép quy-y Tam-bảo.

Nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới bằng nghĩa tiếng Việt

Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đảnh lễ Tam- bảo xong đều đồng thanh đọc 3 bài sám hối Tam-bảo.

Bài kệ sám hối Đức-Phật-bảo
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo,
Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ sám hối Đức-Pháp-bảo
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và Pháp-hành,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,
Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ sám hối Đức-Tăng-bảo
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,
Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ nguyện cầu
Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này,
Mong cho mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Con mong giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tái-sinh.

Sau khi đọc 3 bài sám hối Tam-bảo xong, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:

Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho chúng con.
- Kính bạch Ngài Trưởng Lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho chúng con, lần thứ nhì.
- Kính bạch Ngài Trưởng Lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho chúng con, lần thứ ba.
Ngài Trưởng Lão hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt:

Ntl: Này các con, Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, thì các con hãy nên lặp lại đúng theo từng chữ từng câu như thế ấy.
Csn: Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

Đảnh lễ Đức-Phật

Ntl: Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
Csn: Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Thọ phép quy-y Tam-bảo
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật,lần thứ nhì
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp,lần thứ nhì
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp,lần thứ nhì
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng,lần thứ nhì
Csn:Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng,lần thứ nhì
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba
Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba
Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba
Ntl: Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!
Csn: Dạ, xin vâng, kính bạch Ngài Trưởng-lão.

Thọ trì ngũ-giới
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm-cắp.
Csn: Con xin thọ trì điều giới,có tác ý tránh xa sự trộm-cắp.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà-dâm.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà-dâm.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối.
Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
Ntl: Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi (thất niệm), để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.
Csn: Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài Trưởng-Lão.
Ntl: Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới. Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới. Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới. Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch.
Csn: Lành thay! Lành thay!
Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ- giới xong, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp- bảo, nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm tăng trưởng đức- tin cho thêm vững chắc như sau:

Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt.

Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt, thì chỉ dễ dàng và phổ thông đến cho người Việt-Nam mà thôi, nhưng không phổ thông đến cho những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ từ các nước Phật-giáo Theravāda có ngôn ngữ khác nhau, trong các buổi lễ thuần túy Phật-giáo.
Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới (hoặc bát- giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla) hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi, đó là một trong những truyền thống từ xưa cho đến nay, được phổ thông đến cho tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong các nước Phật-giáo Theravāda.br /> TThật vậy, trong một buổi lễ chung Phật-giáo gồm có các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ từ các nước Phật-giáo Theravāda không cùng ngôn ngữ đến tham dự. Khi Ngài Trưởng-lão hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới bằng tiếng Pāḷi, thì tất cả mọi người đều đồng thanh lặp lại theo Ngài Trưởng-lão đúng từng chữ từng câu, làm cho buổi lễ thật trang nghiêm, tạo nên bầu không khí hòa hợp thân mật giữa các cận-sự-nam, cận-sự-nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, không phân biệt dân tộc nữa, bởi vì, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có cùng chung một ngôn ngữ Pāḷi, ngôn ngữ của Đức-Phật, Đấng Tôn-Sư của mình.
Cho nên, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có khả năng nên học ngôn ngữ Pāḷi, để hiểu lời giáo huấn của Đức-Phật, để tăng trưởng đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, làm nền tảng vững chắc cho mọi thiện-pháp được phát triển từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp, cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp, đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Nếu không học được nhiều thì ít nhất cũng nên học những nghi lễ sau đây bằng tiếng Pāḷi:
* Cách thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, v.v …
* Bài lễ bái Tam-bảo, 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
* Những bài kinh Parittapāḷi tụng hằng ngày đêm, …
Để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại, và vô số kiếp vị-lai cho mình và cho phần đông chúng-sinh, đặc biệt làm phước duyên để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.

Người thiện-trí quy-y Tam-bảo

Người thiện-trí có đức-tin nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, đặc biệt hiểu biết rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: “Đức- Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng”, hiểu biết phép quy-y Tam-bảo.
Người thiện-trí có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, người thiện-trí ấy đến hầu Ngài Đại-Trưởng-lão hoặc Ngài Trưởng-lão hoặc vị tỳ-khưu, hoặc vị sa-di (hoặc thậm chí người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thiện-trí hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật), kính thỉnh quý Ngài chứng minh buổi lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới theo cách thời xưa và thời nay.
* Nếu người thiện-trí ấy có khả năng hiểu biết rõ cách thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới thì chỉ thỉnh Ngài Trưởng-lão chứng minh mà thôi (không thỉnh Ngài Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới).
Còn người thiện-trí ấy tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới (hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla) từ đầu đến cuối.br /> BBắt đầu đọc 3 bài sám hối Tam-bảo, rồi tuần tự bài kệ cầu nguyện, đảnh lễ Đức-Phật, thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, tiếp theo đọc 3 bài kệ khẳng định chỉ quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp- bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, ngoài ra, không nương nhờ nơi nào khác.

Cuối cùng người thiện trí ấy đọc câu kính xin Ngài Trưởng-lão có tâm từ công nhận mình là người cận-sự- nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời.br /> NNgười nam thiện-trí hoặc người nữ thiện-trí tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo, đó là cách quy-y Tam-bảo giống như thời xưa, mà tự mình sử dụng lời lẽ theo cách quy-y Tam-bảo phổ thông thời nay, nên không kính thỉnh Ngài Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, mà chỉ kính thỉnh Ngài Trưởng-lão chứng minh và công nhận buổi lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới của người thiện-trí ấy mà thôi.

Nghi thức tự thọ phép quy-y Tam-bảo


Người thiện-trí ấy tự làm đúng nghi thức theo tuần tự như sau:
* Bậc thiện-trí ấy đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài nhận biết những lời sám hối Tam-bảo chân thành của con và kính thỉnh Ngài chứng minh lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới của con.

1- Bài kệ sám hối Tam-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso,
Buddho khamatu taṃ mama. (đảnh lễ 1 lạy)

Uttamaṅgena vande’haṃ,
Dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso,
Dhammo khamatu taṃ mama. (đảnh lễ 1 lạy)

Uttamaṅgena vande’haṃ,
Saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso,
Saṃgho khamatu taṃ mama. (đảnh lễ 1 lạy)

2- Bài kệ nguyện cầu
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
(đảnh lễ 1 lạy)

3- Đảnh lễ Đức-Phật
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần) (đảnh lễ 1 lạy)

4- Tự thọ phép quy-y Tam-bảo
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

5- Tự thọ trì ngũ-giới
- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
- Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

6- Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.

7- Kính xin Ngài công nhận
* Nếu là người nam thì đọc câu chót:
“Esāhaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, Saṃghañca, upāsakaṃ maṃ mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận con là người cận-sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.
* Nếu là người nữ thì đọc câu chót:
“Esāhaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, Saṃghañca, upāsikaṃ maṃ mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.”
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận con là người cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam- bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.
* Nếu có 2 người nam trở lên thì câu chót là:
“Ete mayaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāma, Dhammañca, Saṃghañca, upāsake no mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate.”
- Kính bạch Ngài Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận chúng con là những người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.
* Nếu có 2 người nữ trở lên thì câu chót là:
“Etā mayaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāma, Dhammañca, Saṃghañca, upāsikāyo no mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupetā saraṇaṃ gatā.”
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận chúng con là những người cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.

Như vậy, sau khi đã tự làm lễ đúng theo nghi thức tự thọ phép quy-y Tam-bảo và tự thọ trì ngũ-giới, trước sự hiện diện chứng minh của Ngài Trưởng-lão, kính thỉnh Ngài Trưởng-lão chứng minh và công nhận xong, ngay khi ấy, người thiện-trí ấy chính thức trở thành người cận-sự-nam (upāsaka), hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới trọn đời trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama, đồng thời trở thành một vị thanh-văn đệ-tử trong tứ chúng: tỳ-khưu (bhikkhu), tỳ- khưu-ni (bhikkhuni), cận-sự-nam (upāsaka), cận-sự-nữ (upāsikā) của Đức-Phật Gotama.

Hương tam quy và ngũ-giới

Trong bài kinh Gandhasutta(58) được tóm lược như sau:

Một hôm, Ngài Trưởng-lão Ānanda, sau khi làm phận sự thị giả phục vụ Đức-Phật xong, trở về chỗ nghỉ của mình, Ngài Trưởng-lão tư duy rằng: “Trong đời này, hương thơm có 3 loại: hương thơm của rễ cây, hương thơm của lõi cây, hương thơm của các loài hoa, những hương thơm này tỏa ra bay thuận theo chiều gió, không thể bay ngược chiều gió. Vậy, có thứ hương thơm nào có thể tỏa ra bay ngược chiều gió hay không?”
Để giải đáp điều thắc mắc của mình, Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ, rồi bạch hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có loại hương thơm nào tỏa ra bay thuận chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được, loại hương thơm ấy có trong đời này hay không? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Trong đời này có loại hương thơm tỏa ra bay thuận theo chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được.

Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch tiếp rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, loại hương thơm nào mà có thể tỏa ra bay thuận theo chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Trong đời này, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào ở trong xóm, trong làng, trong tỉnh, ... nào, là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
Là người có tác-ý đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà- dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.
Là người có giới hạnh trong sạch và trọn vẹn, có thiện-pháp phát triển, không có tâm keo kiệt bủn xỉn trong của cải của mình, có đại-thiện-tâm hoan-hỷ trong việc làm phước-thiện bố-thí với đôi bàn tay dịu dàng, đáp ứng đúng với nhu cầu của những người thọ thí.
Đối với người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy được các sa- môn, bà-la-môn khắp mọi nơi, mọi phương hướng đều tán dương ca tụng giới đức của họ rằng:
“Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy ở trong xóm, trong làng ấy, … là người quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật- bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
Là người có tác-ý đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự thất niệm (dể duôi) trong mọi thiện-pháp.
Là người có giới hạnh trong sạch và trọn vẹn, có thiện-pháp phát triển, không có tâm keo kiệt bủn xỉn trong của cải của mình, có đại-thiện-tâm hoan-hỷ trong việc làm phước-thiện bố-thí với đôi bàn tay dịu dàng, đáp ứng đúng với nhu cầu của những người thọ thí.”
Chư-thiên khắp mọi nơi cũng đều tán dương ca tụng người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy, cũng như các sa-môn, bà-la-môn đã tán dương ca tụng như vậy.
- Này Ānanda! Đó là loại hương thơm có thể tỏa ra bay thuận theo chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được như vậy.

Đức-Phật thuyết dạy bài kệ Dhammapadagāthā rằng:

54-“Na pupphagandho paṭivātameti,
Na candanaṃ tagaramallikā vā.
Satañca gandho paṭivātameti,
Sabbā disā sappuriso pavāyati.
55- Candanaṃ tagaraṃ vāpi,
uppalaṃ atha vassikī.
Etesaṃ gandhajātānaṃ,
sīlagandho anuttaro.”

54- Hương thơm các loài hoa,
Tỏa ra thuận chiều gió,
Không ngược chiều bao giờ!
Hương trầm, hương lõi khác,
Cũng không bay ngược chiều.
Nhưng hương bậc thiện-trí,
Đức-Phật, chư Thánh-Tăng, Lan tỏa ra mọi nơi,
Thuận chiều lẫn ngược chiều,
Khắp bốn phương, tám hướng.
55- Hương trầm, hương lõi cây, Hương sen, hương hoa lài,
Tất cả mọi mùi hương,
Không sánh được hương-giới,
Hương của giới cao thượng,
Hơn tất cả mọi hương.
(Hương của giới có nghĩa là giới-đức của bậc thiện- trí được biểu hiện ra ở thân và khẩu, nên người khác có trí-tuệ nhận thức biết được. Còn các đức khác như định- đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải-thoát-tri-kiến-đức ở trong tâm, nên người khác khó biết được, chỉ có bậc Thánh-nhân mới có khả năng biết được mà thôi.)


Nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới

Người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) có ngũ-giới là thường-giới, còn có bát-giới uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng nữa.

Nếu người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ có khả năng thọ trì bát-giới uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng, theo nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và bát- giới uposathasīla, phần đầu hầu hết giống như nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, chỉ có khác phần xin thọ trì bát-giới uposathasīla mà thôi.

Trước tiên, cận-sự-nam, cận-sự-nữ làm lễ đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo:

Bài kệ sám hối Đức-Phật-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,
Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso,
Buddho khamatu taṃ mama.
Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo,
Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ sám hối đức-Pháp-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Dammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso,
Dhammo khamatu taṃ mama.

Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và pháp-hành,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,
Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)


Bài kệ sám hối đức-Tăng-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso,
Saṃgho khamatu taṃ mama.
Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,
Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ nguyện cầu
Iminā puññakammena,
sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,
sabbadukkhā pamuccāmi.
Nghĩa:
Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này,
Mong cho mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Con mong giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tái-sinh.

Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới
Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và bài kệ cầu nguyện xong, mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát- giới uposathasīla như sau:
- Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, aṭṭhaṅgasamannā- gataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no, Bhante.
- Dutiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no, Bhante.
- Tatiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no, Bhante.
Nghĩa:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla cho chúng con.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla cho chúng con, lần thứ nhì.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposatha- sīla cho chúng con, lần thứ ba.

Phép quy-y tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla

Hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát- giới uposathasīla bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt.
Ngài Trưởng-lão truyền dạy rằng:
Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha (vadehi).
Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, các con hãy nên lặp lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy.
Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:
Csn: Āma! Bhante.
Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

Đảnh lễ Đức-Phật
Ntl: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Thọ phép quy-y Tam-bảo
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.

Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
Csn: Āma! Bhante.
Dạ, xin vâng. Bạch Ngài.

Thọ trì bát-giới Uposathasīla
Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì bát-giới uposathasīla:
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3- Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới,có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5 - Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
6- Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác-ý tránh xa dùng vật thực phi thời.
7- Nacca gīta vādita visūkadassana mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác-ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái.
8- Uccāsayana mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác-ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Ntl: Tisaranena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha.
Phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch trọn vẹn bằng pháp không dể duôi (thất niệm), để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.
Csn: Āma! Bhante.
Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.
Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!
Csn: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!
Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla xong, tiếp theo nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng- bảo mà thôi, để làm tăng trưởng đức-tin vững chắc nơi Tam-bảo như sau:

Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo

* Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.


* Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.


* Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt. (59)

Ân-Đức Thầy (Ācariyaguṇa)

Người đệ-tử trở thành cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) là một trong bốn hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama là do nhờ vị Thầy dạy dỗ.
Mọi sự hiểu biết về pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo cũng do nhờ vị Thầy dạy dỗ, cho nên ân-đức Thầy là vô lượng đối với các người đệ-tử. Người đệ-tử muốn đền đáp ân-đức của Thầy một cách xứng đáng, không phải là việc dễ làm.
Thật vậy, nên tìm hiểu qua đoạn kinh Dakkhiṇāvi- bhaṅgasutta (60) và Chú-giải được tóm lược như sau:
Sau khi Đức-Bồ-Tát Thái-tử Siddhattha đản sinh được bảy ngày thì bà Mahāmāyādevī, là mẫu hậu của Đức-Bồ- Tát quy thiên; bà Mahāpajāpatigotamī (61) là dì ruột, là kế mẫu cũng là nhũ-mẫu của Thái-tử Siddhattha.
Bà Mahāpajāpatigotamī giao Hoàng-tử Nanda (sinh sau Thái tử Siddhattha 2-3 ngày) cho nhũ mẫu khác nuôi nấng dưỡng dục, còn làm bổn phận nhũ mẫu nuôi nấng dưỡng dục Thái-tử Siddhattha khôn lớn.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha sống tại cung điện đến năm 29 tuổi mới đi xuất gia, đến năm 35 tuổi Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.
Như vậy, bà Mahāpajāpatigotamī là Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana và là dì nhũ mẫu của Đức-Phật Gotama.
Một năm sau khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, theo lời thỉnh mời của Đức-Phụ-vương Suddhodana, lần đầu tiên Đức-Phật Gotama ngự trở về kinh-thành Kapilavatthu cùng với 20.000 chư Trưởng-lão tỳ-khưu- Tăng. Đức-Phật thuyết pháp tế độ Đức-Phụ-vương Suddhodana trở thành bậc Thánh Nhất-lai, và bà Mahāpajāpatigotamī chứng đắc thành bậc Thánh Nhập- lưu, cùng thân quyến trong dòng Sakya chứng đắc thành bậc Thánh-nhân rất đông.
Bà Mahāpajāpatigotamī chiêm ngưỡng kim thân Đức- Phật có 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, phát sinh đức-tin trong sạch và vô cùng hoan-hỷ, rồi suy nghĩ rằng: “Ta muốn dâng y đến Đức-Phật, trong cung điện, trong kinh-thành có rất nhiều thứ vải tốt mà ta không hài lòng, ta muốn tự tay mình kéo sợi dệt thành tấm vải, thì ta mới hài lòng hoan-hỷ hơn nhiều.”
Để thực hiện ý định của mình, bà Mahāpajāpatigotamī đã tự dệt xong được hai tấm vải, bà đến chầu Đức-vua Suddhodana, xin phép đem hai tấm vải đến kính dâng lên Đức-Phật. Khi ấy, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh-thành Kapilavatthu, bà Mahāpajāpatigotamī đội trên đầu một cái hộp đựng hai tấm vải quý giá đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hai tấm vải mới này, chính tự tay con đã kéo sợi dệt xong, con có tác-ý đại-thiện- tâm trong sạch kính dâng lên Đức-Thế-Tôn. Kính xin Ngài có tâm đại-bi tế độ, thọ nhận hai tấm vải y mới này của con. Bạch Ngài.
Nghe Bà Mahāpajāpatigotamī bạch như vậy, Đức- Thế-Tôn truyền dạy rằng:
“Saṃghe Gotami dehi, saṃghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṃgho ca.”
- Này Nhũ-mẫu Gotamī! Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, khi Nhũ-mẫu đã kính dâng đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là sự cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng.


Bà Mahāpajāpatigotamī
bạch lặp lại như lần trước, đến lần thứ ba và Đức-Thế-Tôn cũng truyền dạy bà đến lần thứ ba như trên.
Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Ānanda cung kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài thọ nhận hai tấm vải của bá mẫu Mahāpajāpatigotamī.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, bá mẫu Mahāpajāpati- gotamī là dì ruột, cũng là Nhũ-mẫu của Ngài. Bà có nhiều ân-đức đối với Ngài. Khi Ngài đản sinh được 7 ngày thì Phật-mẫu quy thiên, chính Nhũ-mẫu đã hiến dâng đôi bầu sữa ngon lành, để nuôi nấng dưỡng dục Ngài đến khi lớn khôn.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, và Ngài cũng có nhiều ân-đức đối với bá mẫu Mahāpajāpatigotamī nữa.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī đã quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī có tác-ý trong đại- thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm).
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Thế- Tôn, có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Pháp-bảo, có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Tăng- bảo, có đầy đủ trọn vẹn giới mà chư Thánh-nhân yêu quý.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī đã diệt tận được tà- kiến và hoài-nghi trong khổ-Thánh-đế, trong nhân sinh khổ-Thánh-đế, trong Niết-bàn diệt khổ-Thánh-đế, trong pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu.


Đức-Phật truyền dạy rằng:
- Này Ānanda! Sự thật đúng như vậy.
- Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị Thầy nào, rồi được quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, được quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, được quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
- Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.
- Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị”Thầy nào, rồi có được tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm).
- Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.
- Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị ”Thầy nào, rồi có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo không lay chuyển, có đầy đủ trọn vẹn giới mà chư Thánh-nhân yêu quý.
- Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.
- Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị ”Thầy nào, rồi đã diệt tận được tà-kiến và hoài-nghi trong khổ- Thánh-đế, trong nhân sinh khổ-Thánh-đế, trong Niết- bàn diệt khổ-Thánh-đế, trong pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
- Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.”

Qua đoạn kinh trên và phần Chú-giải được tóm lược:
Bà Mahāpajāpatigotamī chiêm ngưỡng Đức-Thế-Tôn có 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Bà vô cùng hoan-hỷ, phát sinh tác-ý trong đại-thiện-tâm muốn dâng y đến Đức-Phật. Tấm vải y không phải do người khác dệt, mà phải chính tự tay của bà dệt, bà mới thật sự hài lòng hoan-hỷ nhiều. Bà đã thực hiện đúng theo nguyện vọng của mình, bà đã dệt được hai tấm vải mới thật là tốt đẹp, vô giá, rồi bà đặt hai tấm vải ấy vào trong cái hộp báu, ướp nước hoa thơm xong, bà đến chầu Đức-vua Suddhodana và tâu rằng:
“Mayhaṃ puttassa cīvarasāṭakaṃ gahetvā gamissāmi.”
- Tâu Hoàng thượng, thần thiếp sẽ đem hai tấm vải y này, kính dâng đến Đức-Phật, vị Quý tử của chúng ta.


Đức-vua Suddhodana truyền lệnh sửa sang trang hoàng con đường từ cung điện đến ngôi chùa Nigrodhārāma rất đẹp đẽ, rồi cho một đoàn tùy tùng hộ giá bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāpajāpatigotamī ngự đến ngôi chùa Nigrodhārāma. Bà đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hai tấm vải mới này, chính tự tay con đã kéo sợi dệt xong, con có tác-ý trong đại- thiện-tâm kính dâng lên Đức-Thế-Tôn. Kính xin Ngài có tâm đại-bi tế độ thọ nhận hai tấm vải mới này của con. Bạch Ngài.

Nghe Bà Mahāpajāpatigotamī bạch như vậy, Đức- Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này Nhũ-mẫu Gotamī! Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, khi Nhũ-mẫu đã kính dâng đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là sự cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, …
Thật ra, bà Mahāpajāpatigotamī có tác-ý trong đại-thiện-tâm kính dâng hai tấm vải mới đến Đức-Phật, không chỉ tỏ lòng tôn kính tri ân Đức-Phật, mà còn ẩn chứa một tình mẫu tử thiêng liêng và sâu sắc nữa. Cho nên, bà khẩn khoản bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con sẽ lấy những tấm vải y từ trong kho, rồi kính dâng cúng dường đến hằng trăm chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, hằng ngàn chư Trưởng- lão tỳ-khưu-Tăng. Nhưng còn hai tấm vải y mới này, chính tự tay con đã kéo sợi dệt thành, con có tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch kính dâng lên Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài có tâm đại-bi tế độ thọ nhận hai tấm vải y này của con. Bạch Ngài.

Dù bà Mahāpajāpatigotamī tha thiết khẩn khoản thế nào, nhưng Đức-Thế-Tôn vẫn khuyên dạy bà nên kính dâng hai tấm vải y mới đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu- Tăng, bởi những lý do chính như sau:

* Đức-Phật muốn tế độ nhũ-mẫu tăng trưởng phước-thiện (Mātari Anukampāya)

Đức-Phật truyền dạy bà Mahāpajāpatigotamī:
“Saṃghe Gotami dehi, saṃghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṃgho ca.”
- Này Nhũ-mẫu Gotamī! Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, khi Nhũ-mẫu đã kính dâng đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là sự cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng.


Tác-ý trong đại-thiện-tâm bố-thí có 3 thời:
1- Pubbacetanā: Tác-ý trước khi cúng dường,
2- Muñcacetanā: Tác-ý đang khi cúng dường,
3- Aparacetanā: Tác-ý sau khi đã cúng dường.

Đức-Phật biết rõ bà Mahāpajāpatigotamī có tác-ý trong đại-thiện-tâm hướng tâm cúng dường 2 tấm y đến Đức-Phật rồi, nay Đức-Phật khuyên dạy bà Nhũ-mẫu phát sinh tác-ý trong đại-thiện-tâm hướng tâm cúng dường 2 tấm y ấy đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng nữa. Khi bà Nhũ-mẫu cúng dường 2 tấm y ấy đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì, thì cùng một lúc có 2 đối-tượng: Đức-Phật và chư Trưởng-lão tỳ- khưu-Tăng. Như vậy, Bà có tất cả 6 loại tác-ý trong đại- thiện-tâm, phước-thiện bố-thí của bà Nhũ-mẫu tăng trưởng gấp đôi, sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an- lạc lâu dài đến cho Nhũ-mẫu.
Thật ra, trong cõi-giới này, lẫn toàn cõi-giới khác, không có Bậc nào xứng đáng được cúng dường hơn Đức- Phật cả, bởi vì Đức-PhậtBậc Tối-Thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Người thí-chủ có đức-tin trong sạch cúng dường đến Đức-Phật, chắc chắn được phước- thiện cao thượng nhất, có quả báu cao thượng nhất.
Trong trường hợp bà Mahāpajāpatigotamī, Đức-Phật muốn cho phước-thiện của bà tăng trưởng gấp bội, nên truyền dạy bà dâng cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ- khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì. Đó là sự cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, như Đức- Phật dạy:
- Khi Nhũ-mẫu đã kính cúng dường đến chư Trưởng- lão tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng.
Như vậy phước-thiện của bà sẽ được tăng trưởng gấp bội, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

* Đức-Phật muốn tế độ chư tỳ-khưu-Tăng

Đức-Phật truyền dạy bà Mahāpajāpatigotamī rằng:
“Saṃghe Gotami dehi…
- Này Nhũ-mẫu Gotami! Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng…

Đức-Phật muốn tế độ chư tỳ-khưu-Tăng, Đức-Phật muốn cho tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mọi người thí-chủ nói riêng, cả trong thời hiện-tại lẫn trong thời vị- lai, đều có đức-tin trong sạch, có lòng tôn kính đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng.
Đức-Phật biết rõ: “Ngài sẽ tịch diệt Niết-bàn, Phật- giáo sẽ tồn tại và được giữ gìn duy trì do nhờ chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng, mà chư Trưởng-lão tỳ-khưu- Tăng được tồn tại lâu dài là nhờ những người cận-sự- nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch, có lòng tôn kính hộ độ, cúng dường các thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh,… đến chư Trưởng- lão tỳ-khưu-Tăng, để cho chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng được thuận lợi trong công việc học pháp-học Phật-giáo, thực hành pháp-hành Phật-giáo và duy trì pháp-thành Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến phần đông chúng-sinh, nhất là nhân-loại và chư-thiên.”
Do đó, Đức-Phật có tâm đại-bi tế độ chư tỳ-khưu- Tăng như vậy.
Ngài Trưởng-lão Ānanda nghĩ: “Đức-Phật là Bậc Tối-Thượng xứng đáng thọ nhận những lễ vật cúng dường của chúng-sinh không một ai sánh được.”
Cho nên, Ngài Trưởng-lão thỉnh cầu Đức-Phật thọ nhận hai tấm vải mới của bà Mahāpajāpatigotamī, để cho bà có được nhiều phước-thiện cao thượng, sẽ có được nhiều quả báu cao thượng, sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài sẽ phát sinh đến cho Bà.

Đức-Phật biết rõ bà Mahāpajāpatigotamī đã có tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch cúng dường đến Đức- Phật rồi, nay cộng thêm tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch cúng dường đến chư Trưởng-lão tỳ-khưu-Tăng nữa, thì phước-thiện bố-thí của bà càng tăng trưởng gấp bội phần, sẽ phát sinh sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho Bà.

Ân-đức thầy vô-lượng

Những người đệ-tử nương nhờ nơi vị Thầy nào rồi, được học hỏi hiểu biết về pháp-học Phật-giáo, về pháp- hành Phật-giáo, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, được thọ phép quy-y Tam-bảo, thọ trì ngũ-giới, (bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, …) có đức-tin trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, được chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, được chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân.

Như vậy, ân-đức Thầy vô-lượng mà những người đệ- tử không dễ đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy được!
Dù cho những người đệ-tử cúng dường, phục vụ tận tình đối với vị Thầy của mình như:
* Abhivādana: Khi gặp vị Thầy, người đệ-tử cung kính đảnh lễ Thầy, khi biết vị Thầy đang ở hướng nào, người đệ-tử quay mặt về hướng ấy cung kính đảnh lễ Thầy trước khi đi, đứng, ngồi, nằm, … Khi nằm luôn luôn quay đầu về hướng chỗ ở của vị Thầy của mình.
* Paccuṭṭhāna: Khi nhìn thấy vị Thầy từ xa đến, người đệ-tử đứng dậy, đi đến đón rước Thầy, nếu vị Thầy có đem theo vật gì nặng thì người đệ-tử mang hộ vật ấy cho Thầy, lấy nước rửa chân cho Thầy, lau chân xong thỉnh Thầy ngồi một nơi cao quý, rồi cung kính đảnh lễ Thầy, phục vụ Thầy một cách chu đáo.
* Añjalikamma: Khi gặp vị Thầy, người đệ-tử cung kính đưa hai tay chắp lên trán lễ bái Thầy, khi Thầy khuyên dạy, người đệ-tử chắp hai tay để ngang ngực, cung kính lắng nghe lời giáo huấn của Thầy. Khi biết vị Thầy đang ở hướng nào, người đệ-tử quay mặt về hướng ấy cung kính chắp hai tay lên trán lễ bái Thầy trước khi đi, đứng, ngồi, nằm,… Khi nằm, người đệ-tử luôn luôn quay đầu về hướng vị Thầy của mình.
* Sāmicikamma: Người đệ-tử hết lòng thành kính chắp tay lễ bái, cúng dường đến vị Thầy của mình một cách cung kính, v.v…
Thật ra, dù người đệ-tử tôn kính vị Thầy của mình như vậy, cúng dường những thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh quý giá đến đâu đi nữa, nhiều đến nỗi chất đầy khắp toàn cõi-giới này, chất chồng cao đến đỉnh núi Sineru (Tu-di-sơn), cũng vẫn chưa có thể gọi là đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy.
Tại sao?
Bởi vì, Ân-đức Thầy vô-lượng, nên người đệ-tử không thể nào đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy được.

Tám dòng phước-thiện

Phép quy-y Tam-bảo không chỉ là nơi quy-y nương nhờ cao thượng của chúng-sinh và ngũ-giới bảo vệ an toàn cho những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ, mà còn là tám dòng phước-thiện cao quý đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho mình và cho tất cả chúng-sinh. Tám
dòng phước-thiện ấy được Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Abhisandasutta (62) ý nghĩa như sau:

- Này chư tỳ-khưu! Tám dòng phước, dòng thiện này sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Tám dòng phước, tám dòng thiện ấy là thế nào?
1- Này chư tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã đến kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ nhất, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
2- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã đến kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ nhì, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
3- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã đến kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ ba, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
- Này chư tỳ-khưu, năm loại bố-thí gọi là đại thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện- tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa. Năm loại bố-thí gọi là đại-thí ấy là thế nào?
4- Này chư tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự sát-sinh, hoàn toàn tránh xa sự sát-sinh.
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự sát-sinh, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn sinh mạng của tất cả chúng-sinh, bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn sinh mạng, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ nhất gọi là đại-thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện- trí, trải qua từ ngàn xưa.
- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ tư, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
5- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự trộm-cắp, hoàn toàn tránh xa sự trộm-cắp.
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự trộm-cắp, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn tài sản của tất cả chúng-sinh, bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn tài sản, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ nhì gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Được biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.
- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ năm, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
6- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự tà-dâm, hoàn toàn tránh xa sự tà-dâm.
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự tà-dâm, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (vợ, chồng, con cái của người khác), bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ ba gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.
- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ sáu, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
7- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự nói-dối, hoàn toàn tránh xa sự nói-dối.
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự nói dối, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (không gây thiệt hại), bố-thí sự không oan trái, bố- thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ tư gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.
- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ bảy, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
8- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, hoàn toàn tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (không gây ra tai hại), bố- thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ năm gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện- trí, trải qua từ ngàn xưa.
- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ tám, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Này chư tỳ-khưu! Đó là tám dòng phước, dòng thiện sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc, đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.”


Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới gọi là tám dòng phước-thiện như sau:
“Aṭṭhime bhikkhave puññābhisandā kusalābhisandā …”
- Này chư tỳ-khưu, tám dòng phước, dòng thiện …
* Abhisanda:
Dòng là một danh từ cụ thể, diễn tả sự trôi chảy không ngừng. Trong bài kinh này, Đức-Phật đã cụ thể hóa phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới gọi là tám dòng phước (puññābhisandā), dòng thiện (kusalā- bhisandā) đó là đại-thiện-tâm sinh rồi diệt, trôi chảy thành dòng sinh diệt theo các lộ-trình-tâm.
Để tám dòng phước, dòng thiện này được phát triển mạnh là nhờ người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ hướng tâm quy-y nương nhờ Tam-bảo: quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo, và có tác-ý đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa những đối-tượng phạm giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch, trọn vẹn.
Như vậy 3 phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới (5 thường-giới) gồm có 8 điều gọi là tám dòng phước, dòng thiện này sẽ cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, đặc biệt làm phước duyên dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.

(Xong chương IV Quy-Y Tam-Bảo.)


(1) Vinayapiṭaka, bộ Mahāvagga, Rājāyatanakathā.
(2) Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga.
(3) Vinayapiṭaka, Mahāvagga, Pabbajjākathā.
(4) Vinayapiṭaka, bộ Mahāvagga, đoạn Pabbajjākathā.
(5) Vinayapiṭaka, bộ Mahāvagga, đoạn Pabbajjākathā.
(6) Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga.
(7) Maj. Majjhamapaṇṇāsa, Kinh Brahmāyusutta.
(8) Xem đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển I: Tam-Bảo.
((9) Dhammapadagāthā bài kệ 188, 189.
(10) Dhammapadagāthā bài kệ 190, 191, 192.
(11) Khuddakanikāya, bộ Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.
(12) Nếu bậc Thánh-nhân nào chứng đắc bậc thiền nào thì nhập Thánh-quả-tâm theo bậc thiền siêu-tam-giới ấy.
(13) Chú-giải Aṅguttaranikāya, trong tích Mahāpajāpatigotamītherīvatthu.
(14) Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Santatimahāmattavatthu.
(15) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Santatimahāmattavatthu.
(16) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Khemātherīvatthu.
(17) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Khemātherīvatthu.
(18) Aṅguttaranikāya phần Aṭṭhakanipāta Uggasutta.
(19) Dha. Aṭṭhakathā, tích Cittagahapativatthu, tích Aññatra bhikkhuvatthu.
(20) Khuddakanikāya, Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttvaṇṇanā.
(21) Khud: Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.
(22) Khud: Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.
(23) Aṅguttaranikāya, phần Pañcakanipāta, kinh Kāraṇapāḷisutta.
(24) Kā viết tắt tên ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi.
(25) Piṅ viết tắt tên ông Bà-la-môn Piṅgiyāni.
(26) 37 pháp: 4 pháp-niệm-xứ, 4 pháp-tinh-tấn, 4 pháp-thành-tựu, 5 pháp- chủ, 5 pháp-lực, 7 pháp-giác-chi, 8 pháp-chánh-đạo.
(27) Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, Kinh Karaṇapāḷisutta.
(28) Maj - Majjhimapaṇṇāsa, kinh Bodhirājakumārasutta.
(29) Bộ Chú-giải Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.
(30) Dī. Māhāvagga, kinh Mahāsamayasutta.
(31) Saṃyuttanikāya, kinh Dhajaggasutta.
(32) Chú-giải Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.
(33) Chú-giải Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇnanā.
(34) Chú-giải Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇnanā.
(35) Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Vakkalittheravatthu.
(36) Dīghanikāya, Mahāvagga, Kinh Mahāparinibbānasutta.
(37) Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, Kinh Mahāparinibbānasuttavaṇṇanā.
(38) Aṅguttaranikāya, phần Navakanipāta, kinh Velāmasutta.
(39) Bộ Apadāna aṭṭhakathā Saraṇagamaniyatthera apadāna.
(40) Từ thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama khoảng cách thời gian 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
(41) Cõi trời Tam-thập-tam-thiên có tuổi thọ trời 1.000 năm bằng 36 triệu năm ở cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người.
(42) Bộ Chú-giải: Aṅguttaranikāya.
(43) Samyuttanikāya, Sāḷāyatana samyutta, kinh Sakkasutta.
(44) Vinayapiṭaka, Mahāvagga, phần Pabbajjūpasampadākathā.
(45) Vinayapiṭaka, Mahāvagga, phần Paṇāmitakathā.
(46) Tìm hiểu rõ đầy đủ, xem quyển “Gương Bậc Xuất Gia” cùng soạn-giả.
(47) Samyuttanikāya, bộ Mahāvagga, kinh Mahānāmasutta.
(48) Aṅguttaranikāya. Phần Pañcakanipāta kinh Caṇḍālasutta.
(49) Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển V Phước-Thiện.
(50) Tìm hiểu đầy đủ trong quyển IV Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn- giả.
(51) Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, Upāsakavagga, Kinh Gavesīsutta.
(52) Ba bài kệ này trong quyển “Nhật Hành Cư-sĩ” của Sư Tổ Hộ-Tông.
(53) Tìm hiểu đầy đủ trong quyển “Tìm hiểu Pháp-hành Thiền-Tuệ” (trang 530).
(54) Nếu có một người thì thay chữ “mayaṃ” bằng chữ “ahaṃ”, chữ “yācāma” bằng “yācāmi”, chữ “no” bằng chữ “me”.
((55) Ntl là Ngài Trưởng-lão.
(56) Nếu có từ 2 người trở lên thì dùng chữ vadetha, nếu chỉ có một người thì dùng chữ vadehi.
(57) Csn là cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
(58) Aṅguttaranikāya Tikanipāta, Kinh Gandhasutta.
(59) Tìm hiểu rõ ngũ-giới, bát-giới uposathasīla trong bộ Nền-Tảng-Phật- Giáo quyển III, Pháp-Hành Giới, cùng soạn-giả.
(60) M. Uparīpaṇṇāsa, kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta và Chú-giải.
(61) 2 Bà Mahāpajāpatigotamī là hoàng-muội của Bà Mahāmāyādevī cũng là Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana.
(62) Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Abhisandasutta.


Mục lục quyển 2 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07


Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10


[Đầu trang][Mục lục tổng quát]