NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN V

PHƯỚC THIỆN
(PUÑÑA-KUSALA)


VIII- PHƯỚC-THIỆN NGHE-PHÁP (Dhammassavana)

Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe-pháp

-Định nghĩa Dhammassavana:

“Dhammaṃ suṇanti etenā’ti dhammassavanaṃ.” Những người nghe chánh-pháp gọi là dhammassavana,

đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm có yonisomanasikāra sự hiểu biết trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.

Nghe chánh-pháp

Nghe chánh-pháp có 2 hạng người:

1- Hạng người nào nghe chánh-pháp với ý nghĩ rằng:

“Nếu ta thường nghe chánh-pháp, hiểu được chánh-pháp, rồi thuyết giảng được chánh-pháp thì nhiều người tán dương ca tụng ta là người hiểu biết chánh-pháp.”

Như vậy, hạng người ấy nghe chánh-pháp có phước-thiện nghe-pháp không nhiều, có quả báu không nhiều.

2- Hạng người nào nghe chánh-pháp với ý nghĩ rằng:

“Ta thường nghe chánh-pháp, học hỏi hiểu biết rõ chánh-pháp, biết phân biệt phước-thiện với tội-lỗi, thiện-pháp với ác-pháp, thiện-nghiệp với ác-nghiệp, tà-kiến với chánh-kiến, pháp nên thực-hành với pháp không nên thực-hành, v.v… nên từ bỏ tà-pháp, rồi thực-hành theo chánh-pháp, để được sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.”

Như vậy, hạng người ấy nghe chánh-pháp được nhiều phước-thiện nghe-pháp (dhammassavanakusala), có nhiều quả báu của phước-thiện nghe chánh-pháp.

Nghe chánh-pháp là 1 trong 5 điều khó có được , nên Đức-Phật hằng ngày thường nhắc nhở, khuyên nhủ các hàng thanh-văn đệ-tử rằng:

“Appamādena bhikkhave sampādetha, Buddhuppādo dullabho lokasmiṃ, Manussattabhāvo dullabho,

Dullabhā saddhāsampatti, Pabbajitabhāvo dullabho, Saddhammassavanaṃ dullabhaṃ. Evaṃ divase divase ovadati.”

Đức-Thế-Tôn hằng ngày thường khuyên nhủ, nhắc nhở chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ rằng:

-Này chư tỳ-khưu (tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ)! Các con nên cố gắng tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không dể duôi, thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ.

* Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian là một điều khó được.

* Sinh làm người là một điều khó được.

* Có đức-tin đầy đủ là một điều khó được.

* Xuất-gia trở thành tỳ-khưu là một điều khó được.

* Nghe chánh-pháp là điều khó được.

Đó là 5 điều khó được mà người nào đã có được điều nào thì thật là hy hữu, nên trân trọng.

Thật vậy, khi nào Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, khi ấy Đức-Phật thuyết pháp giảng dạy chánh-pháp, các chúng-sinh mới có cơ hội tốt, có duyên lành được nghe chánh-pháp.

* Trong 6 ân-đức Pháp-bảo, chánh-pháp mà Đức-Phật thuyết giảng chánh-pháp có 10 pháp là:

-Pháp-học chánh-pháp (pariyatti saddhamma).

-9 pháp siêu-tam-giới (navalokuttaradhamma) đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

* Trong kinh Mahāparinibbānasutta [1] (kinh Đại-Niết-Bàn), phần Ānandayācanakathā, Đức-Phật truyền dạy bodhipakkhiyadhamma gồm có 37 pháp giúp duy trì chánh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Bodhipakkhiyadhamma gồm có 37 pháp là:

* 4 pháp niệm-xứ (Satipaṭṭhāna):

1) Thân niệm-xứ.

2) Thọ niệm-xứ.

3) Tâm niệm-xứ.

4) Pháp niệm-xứ.

* 4 pháp-tinh-tấn (Samappadhāna):

1) Tinh-tấn ngăn các ác-pháp chưa phát sinh, không cho phát sinh.

2) Tinh-tấn diệt ác-pháp đã phát sinh.

3) Tinh-tấn làm cho thiện-pháp phát sinh.

4) Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện-pháp đã phát sinh.

* 4 pháp thành-tựu (Idhipāda):

1) Thành-tựu do hài lòng.

2) Thành-tựu do tinh-tấn.

3) Thành-tựu do quyết-tâm.

4) Thành-tựu do trí-tuệ.

* 5 pháp-chủ (Indriya):

1) Tín-pháp-chủ.

2) Tấn-pháp-chủ.

3) Niệm-pháp-chủ.

4) Định-pháp-chủ.

5) Tuệ-pháp-chủ.

* 5 pháp-lực (Bala):

1) Tín-pháp-lực.

2) Tấn-pháp-lực.

3) Niệm-pháp-lực.

4) Định-pháp-lực.

5) Tuệ-pháp-lực.

* 7 pháp giác-chi (Bojjhaṅga):

1) Niệm-giác-chi.

2) Phân-tích giác-chi.

3) Tinh-tấn giác-chi.

4) Hỷ-giác-chi.

5) Tịnh-giác-chi.

6) Định-giác-chi.

7) Xả-giác-chi.

* 8 pháp chánh-đạo (Magga):

1) Chánh-kiến.

2) Chánh-tư-duy.

3) Chánh-ngữ.

4) Chánh-nghiệp.

5) Chánh-mạng.

6) Chánh-tinh-tấn.

7) Chánh-niệm.

8) Chánh-định.

Đó là 37 pháp dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Chư Bồ-tát thanh-văn-giác nghe chánh-pháp

Chư Bồ-tát thanh-văn-giác (sāvakabodhisatta) gồm có 2 vị Bồ-tát Tối-Thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka-bodhisatta), chư vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác (Mahā-sāvakabodhisatta), chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác bậc thường (pakatisāvakabodhisatta) nếu không có cơ hội nghe chánh-pháp thì chắc chắn không thể tự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn được.

Thật vậy, tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đã từng phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất, và đã được Đức-Phật Anomadassī thọ ký tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão sẽ trở thành bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sāriputta vị-Bồ-tát Tối-Thượng Thanh-văn-giác đã tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ từ thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian có khoảng cách thời gian suốt 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, trải qua 19 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian, đó là Đức-Phật Anomadassī, Đức-Phật Paduma, Đức-Phật Nārada, Đức-Phật Padumuttara, Đức-Phật Sumedha, Đức Phật Sujāta, Đức-Phật Piyadassī, Đức-Phật Atthadassī, Đức-Phật Dhammadassī, Đức-Phật Siddhattha, Đức-Phật Tissa, Đức-Phật Phussa, Đức-Phật Vipassī, Đức-Phật Sikhī, Đức-Phật Vessabhū, Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức-Phật Kassapa và Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sāriputta vị-Bồ-tát Tối-Thượng Thanh-văn-giác đã tạo đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, để trở thành bậc Thánh Tối-Thượng Thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy, kiếp chót của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là vị Bồ-tát Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất, sinh làm con của bà Sārī (con gái của ông trưởng-giả) trong xóm nhà Upatissa gần kinh-thành Rājagaha. Bà Sārī đặt tên con là Upatissa.

Công-tử Upatissa có người bạn thân là công-tử Kolita cùng nhau đi chơi hội mà không cảm thấy vui, phát sinh động tâm về cuộc đời là khổ, nên hai người bạn bàn bạc cùng nhau xuất gia tìm con đường giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Thời ấy, trong kinh-thành Rājagaha, vị đạo-sư nổi tiếng Sañcaya là đạo trưởng phái ngoại đạo lớn có nhiều đệ-tử, công-tử Upatissa và công-tử Kolita cùng nhóm thuộc hạ đến xin xuất gia trở thành đệ-tử của vị đạo-sư Sañcaya.

Sau khi xuất gia được 2 -3 ngày, hai vị tu-sĩ Upatissa và tu-sĩ Kolita đã học thông hiểu phần lý thuyết của vị đạo-sư Sañcaya và không còn gì để học nữa.

Hai vị tu-sĩ Upatissa và Kolita bàn luận với nhau về phần lý thuyết của vị đạo-sư Sañcaya chỉ là rỗng tuếch mà thôi, chắc chắn không phải là con đường giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Hai vị tu-sĩ nhận thức đúng đắn rằng: “Lời dạy của vị đạo-sư Sañcaya không phải là pháp dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân-hồi”.

Còn pháp thực-hành dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân-hồi thì 2 vị tu-sĩ hoàn toàn không biết, nên 2 vị tu-sĩ giao ước với nhau rằng:

“Hai chúng ta nếu người nào tìm được vị thầy chỉ dạy pháp-hành chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trước tiên, thì người ấy cho người kia biết.”

Sau khi giao ước xong, mỗi người chọn một con đường đi tìm Thầy.

Khi ấy, Đức-Phật ngự đến kinh-thành Rājagaha cùng nhóm chư Thánh thanh-văn đệ-tử vào ngày mồng một tháng giêng. Tu-sĩ Upatissa đi vào kinh-thành Rājagaha, nhìn thấy Ngài Trưởng-lão Assaji là bậc Thánh A-ra-hán còn trẻ đang đi khất thực với cử chỉ cẩn trọng trong các giác quan thanh-tịnh, tu-sĩ Upatissa phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài Trưởng-lão Assaji, nên đi theo hộ độ Ngài Trưởng-lão.

Sau khi Ngài Trưởng-lão độ vật thực xong, tu-sĩ Upatissa cung-kính đảnh lễ, chắp tay bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Ngài có cử chỉ cẩn trọng trong các giác quan thanh-tịnh, có gương mặt trong sáng thật đáng tôn kính.

- Kính bạch Ngài, Ngài xuất gia với Đức Tôn-Sư nào? Đức Tôn-Sư của Ngài là Bậc nào?

Ngài đã thực-hành theo chánh-pháp của Đức Tôn-Sư như thế nào?

Ngài Trưởng-lão Assaji đáp rằng:

- Này hiền giả! Tôi xuất gia với Đức-Phật Gotama, xuất thân từ dòng dõi Sakya. Vị Tôn-Sư của tôi là Đức-Phật Gotama. Tôi đã thực-hành theo chánh-pháp của Đức-Phật Gotama ấy.

Tu-sĩ Upatissa bạch hỏi tiếp rằng:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, giáo-pháp của Đức-Phật Gotama là Đức Tôn-Sư của Ngài thuyết dạy như thế nào?

- Kính xin Ngài Trưởng-lão thuyết dạy cho con nghe chánh-pháp ấy.

Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết dạy rằng:

- Này hiền giả! Giáo-pháp của Đức-Phật Gotama rộng lớn mênh mông, vô cùng sâu sắc và vi-tế, tôi là vị tỳ-khưu trẻ mới xuất gia chưa hiểu biết nhiều, tôi chỉ có thể chỉ dạy tóm tắt ngắn gọn mà thôi.

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con là tu-sĩ Upatissa, kính xin Ngài thuyết-pháp chỉ dạy dù nhiều dù ít cũng tốt đối với con.

Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết bài kệ rằng:

“Ye dhammā hetuppabhavā, tesaṃ hetuṃ Tathāgato āha.

Tesañca yo nirodho, evaṃ vādī mahāsamaṇo.” [2]

-Này hiền giả! Những pháp ngũ-uẩn nào là pháp khổ-đế đều sinh từ tham-ái, nhân sinh khổ-đế ấy.

Đức-Phật thuyết dạy tham-ái, và thuyết dạy Niết-bàn diệt tham-ái.

Đức-Phật Gotama bậc Đại Sa-môn thường thuyết dạy chân-lý tứ Thánh-đế như vậy.

Trong khi lắng nghe Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết bài kệ tóm tắt về chân-lý tứ Thánh-đế gồm có 4 câu, tu-sĩ Upatissa vốn là vị Bồ-tát Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất, nên vừa nghe hai câu đầu của bài kệ, tu-sĩ Upatissa liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama ngay tại nơi ấy.

Sau khi trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, tu-sĩ Upatissa cung-kính đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Assaji, rồi xin phép trở về tìm bạn thân là tu-sĩ Kolita.

Tu-sĩ Upatissa thuyết lại bài kệ này cho tu-sĩ Kolita nghe, sau khi nghe xong, tu-sĩ Kolita liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Khi ấy, tu-sĩ Upatissa và tu-sĩ Kolita dẫn nhóm học trò 250 vị tu-sĩ của vị đạo-sư Sañcaya đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Đức-Phật cho phép xuất gia bằng cách gọi “Etha bhikkhavo!”…

Tu-sĩ Upatissa tu-sĩ Kolita cùng nhóm học trò đều trở thành tỳ-khưu. Từ đó, tỳ-khưu Upatissa được gọi là vị Đại-Trưởng-lão Sāriputta và tỳ-khưu Kolita được gọi là vị Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

Đức-Phật thuyết-pháp tế độ nhóm tỳ-khưu ấy, tất cả

250 vị tỳ-khưu đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, chỉ trừ 2 vị Đại-Trưởng-lão Sāriputta và vị Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna chưa chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.

Sau khi trở thành tỳ-khưu được 7 ngày, vị Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cùng các phép thần thông xuất sắc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Và sau khi trở thành tỳ-khưu được 15 ngày, vị Đại-Trưởng-lão Sāriputta chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán có trí-tuệ sâu sắc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Tuyên dương ngôi vị Tối-thượng thanh-văn

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi, khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự giữa chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, truyền dạy rằng:

“Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ mahāpaññānaṃ yadidaṃ Sāriputto.”

- Này chư tỳ-khưu! Sāriputta là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử bên phải có đại-trí-tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.

“Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ iddhimantānaṃ yadidaṃ Mahāmoggallāno.”

- Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn đệ-tử bên trái có các phép thần thông xuất sắc bậc nhất, trong hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.

Hai Ngài Đại-Trưởng-lão đã thành tựu được ý nguyện của mình, đúng như Đức-Phật Anomadassī quá khứ đã thọ ký.

Đối với các hàng Bồ-tát Thanh-văn-giác, dù là bậc nào cũng cần phải lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mới có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn-giác được.

Cho nên, đối với tất cả các hàng bồ-tát thanh-văn-giác đều cần phải nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mới có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn trở thành bậc Thánh-nhân trong giáo-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Nếu vị bồ-tát thanh-văn-giác nào không có cơ hội, không có duyên lành nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì chắc chắn vị bồ-tát thanh-văn-giác ấy không thể tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, không thể trở thành bậc Thánh-nhân được.

Đức-Bồ-tát kiếp chót không nghe chánh-pháp

Đức-Bồ-tát không cần nghe chánh-pháp mà có khả năng tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì chỉ có 2 Đức-Bồ-tát kiếp chót mà thôi, đó là:

*Kiếp chót của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác không có thầy chỉ dạy, tự mình thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) đã tích-luỹ từ vô số kiếp quá-khứ, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị trên toàn cõi giới chúng-sinh.

* Và chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót, mỗi Vị cũng đều không có thầy chỉ dạy, tự mình thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức-Phật Độc-Giác, bởi vì Đức-Phật Độc-Giác không thuyết-pháp chỉ dạy chúng-sinh khác chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y như Ngài đã chứng ngộ.

Đức-Phật Độc-Giác có nhiều Vị trong cùng thời-kỳ. Tuy nhiên chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác nếu chưa phải là kiếp chót thì vẫn còn phải nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác để bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn.

Cho nên, phước-thiện nghe chánh-pháp là phước-thiện tối ư thiết yếu không chỉ đối với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, mà còn loài súc-sinh cũng có thể đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai. Ví dụ:

Như tích Maṇḍūkadevaputta[3] (Chư-thiên ếch), được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự đến bờ hồ Gaggarā thuyết-pháp tế độ dân chúng Campā. Một con ếch nhảy lên bờ hồ, nằm nghe giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn với đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật. Khi ấy, một người chăn bò đứng đằng sau, lắng nghe-pháp, tay cầm cây nhọn, vô ý cắm xuống đất đụng phải đầu con ếch đang nằm lắng nghe giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn với đức-tin trong sạch, con ếch chết ngay khi ấy.

Con ếch sau khi chết, đại-thiện-nghiệp lắng nghe giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn ấy cho quả tái-sinh kiếp sau liền hóa sinh làm vị thiên-nam Maṇḍūka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trong một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có các thiên-nữ hầu hạ.

Vị thiên-nam Maṇḍūka suy xét rằng: Ta từ đâu đến hóa-sinh làm vị thiên-nam tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên này?

Vị thiên-nam Maṇḍūka nhớ lại tiền-kiếp mình là loài ếch, sống dưới hồ Gaggarā, nhảy lên bờ nằm lắng nghe giọng phạm âm thuyết-pháp của Đức-Phật với đại-thiện-tâm có đức-tin trong sạch.

Sau khi kiếp con ếch ấy chết, nhờ đại-thiện-nghiệp nghe-pháp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam Maṇḍūka tại cõi trời này.

Thấy rõ Đức-Thế-Tôn đang còn thuyết-pháp tại gần bờ hồ Gaggarā, vị thiên-nam Maṇḍūka quyết định hiện xuống hầu đảnh lễ Đức-Phật, còn đem theo lâu đài bằng vàng cùng các vị thiên-nữ, có hào quang sáng ngời, đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn.

Đức-Thế-Tôn biết rõ, nhưng muốn cho các hàng thanh-văn đệ-tử thấy rõ phước-thiện nghe chánh-pháp và quả báu của phước-thiện nghe chánh-pháp, nên Đức-Phật hỏi vị chư-thiên Maṇḍūka rằng:

“Ko me vandāti padāni, iddhiyā yasasā jalaṃ. Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā…”

-Này thiên-nam! Ngươi là ai đến đây? Có thân hình đẹp hào quang sáng ngời, Tỏa ra mọi hướng, có nhiều oai lực, Các thiên-nữ xinh đẹp theo hầu hạ, Đảnh lễ dưới bàn chân của Như-Lai.

Vị chư-thiên ếch Maṇḍūka bạch rằng:

“Maṇḍūko’ haṃ pure asiṃ, udake vārigocaro.

Tava dhammaṃ suṇantassa, avadhi vacchapālako…”

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,

- Con tên là thiên-nam Măn-đu-ká,

Mới kiếp trước đây là con ếch nhỏ,

Sinh ra và sống ở tại hồ này,

Con nhảy lên đang nghe-pháp của Ngài,

Người chăn bò đứng nghe-pháp vô ý,

Cắm cây gậy đụng đầu, làm con chết.

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,

- Trong khoảnh khắc nghe-pháp với đức-tin,

- Nơi giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn.

Sau khi con chết, nhờ đại-thiện-nghiệp ấy,

Cho quả hóa-sinh được làm thiên-nam.

Như Ngài nhìn thấy thân hình con đẹp,

Có hào quang sáng ngời tỏa muôn phương,

Có nhiều oai lực, hưởng mọi an-lạc,

Các thiên-nữ ngày đêm hầu hạ con.

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,

Chúng-sinh nào có duyên lành nghe-pháp,

Chúng-sinh ấy được chứng ngộ chân-lý,

Chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,

Được giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Khi ấy, Đức-Phật xem xét các hàng thanh-văn đệ-tử có đức-tin trong sạch, nên Đức-Phật thuyết-pháp tế độ vị thiên-nam Maṇḍūka cùng với các chúng-sinh.

Vị thiên-nam Maṇḍūka cùng với chư vị thiên-nữ, các hàng thanh-văn đệ-tử khác lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp, sau khi nghe chánh-pháp của Đức-Phật, có số đông gồm có 84.000 chúng-sinh chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Sau khi vị thiên-nam Maṇḍūka cùng với chư vị thiên-nữ trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vô cùng hoan-hỷ cung-kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rồi xin phép trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

* Tích 500 con dơi đeo trong động

Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, có 2 Ngài Trưởng-lão vừa đi kinh hành vừa tụng ôn Abhidhammapiṭaka-pāḷi: Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ lớn trong một cái động, tại nơi ấy có 500 con dơi đeo trong động ấy, mỗi ngày chúng nó lắng nghe 2 Ngài Trưởng-lão rằng:

“Kusalā dhammā (các thiện-pháp), akusalā dhammā (các bất-thiện-pháp), abyākatā dhammā (các pháp không thiện không bất-thiện), v.v…”, nhóm 500 con dơi chỉ nghe âm thanh Pāḷi mà thôi, chúng nó hoàn toàn không hiểu biết ý nghĩa gì cả.

Sau khi nhóm 500 con dơi ấy chết, đại-thiện-nghiệp nghe âm thanh Pāḷi ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm 500 vị thiên-nam trên cõi trời, hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy trên các cõi trời suốt thời gian từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

Nhóm 500 vị thiên-nam ấy cùng chuyển kiếp (cuti: chết) từ cõi trời, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm người đều trở thành cận-sự-nam (upāsaka) trong kinh-thành Sāvatthī.

Vào ngày rằm tháng 6 âm lịch, Đức-Phật Gotama biểu diễn phép thần-thông yamakapāṭihāriya tại cây xoài gần kinh-thành Sāvatthī, nhóm 500 người cận-sự-nam (upāsaka) ấy cùng nhau đến xem Đức-Phật biểu diễn phép thần-thông yamakapāṭihāriya, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, rồi cùng dẫn nhau đến xuất gia trở thành 500 vị tỳ-khưu nơi Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi tại cõi người

Đức-Phật Gotama sau khi biểu diễn phép thần-thông yamakapāṭihāriya xong tại cõi người, Đức-Phật ngự lên nhập hạ thứ 7 tại cung trời Tam-thập-tam-thiên, thuyết giảng Abhidhammapiṭakapāḷi: Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ lớn để tế độ Phật-mẫu (kiếp hiện-tại là vị thiên-nam Santussita tại cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên) hiện xuống nghe Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi) suốt 3

tháng mùa mưa [4].

Đức-Phật Gotama thuyết giảng Abhidhammapiṭaka-pāḷi: Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi. Mỗi ngày đến giờ khất thực, Đức-Phật hóa ra Nimmitabuddha tiếp tục thuyết giảng, Đức-Phật thật ngự đi khất thực ở Bắc-cưu-lưu-châu, đem vật thực ngự trở về đến rừng trầm gần hồ nước Anotatta ven rừng Himavanta, ngồi độ vật thực.

Mỗi ngày, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến hầu phục vụ Đức-Phật. Sau khi thọ thực xong, Đức-Phật thuyết giảng lại cho Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta theo cách saṅkhepa (cách tóm tắt) các vi-diệu-pháp Đức-Phật đã thuyết giảng ngày hôm ấy tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Đức-Phật truyền dạy Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở về dạy lại nhóm 500 tỳ-khưu đệ-tử, bằng cách khai triển đầy đủ các vi-diệu-pháp ấy.

Còn Đức-Phật trở lại cung trời Tam-thập-tam-thiên, thay thế Đức-Phật Nimmitabuddha tiếp tục thuyết giảng.

Vâng theo lời dạy của Đức-Phật, mỗi ngày sau khi trở về, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dạy lại cho nhóm 500 tỳ-khưu đệ-tử các vi-diệu-pháp ấy, bằng cách khai triển đầy đủ.

Cho nên, mãn mùa hạ suốt 3 tháng mùa mưa ấy, nhóm 500 đệ-tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thông thuộc thấu suốt Abhidhammapiṭakapāḷi: Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ lớn là Dhammasaṅganīpāḷi, Vibhaṅga-pāḷi, Dhātukathāpāḷi, Puggalapaññattipāḷi, Kathāvatthu-pāḷi, Yamakapāḷi, Paṭṭhānapāḷi trước mọi tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama tại cõi người.

Đến ngày rằm tháng 9 (âm-lịch), Đức-Phật ngự từ cõi trời Tam-thập-tam-thiên có các đoàn chư-thiên, chư phạm-thiên tiễn đưa, Đức-Phật dừng lại tại cửa kinh-thành Saṅkassa.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp tế độ tứ chúng thanh-văn đệ-tử. Sau khi lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp, chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni, các cận-sự-nam, các cận-sự-nữ phát sinh đức-tin vô cùng hoan-hỷ theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.

Nhóm 500 tỳ-khưu đệ-tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, đều chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cùng với 300 triệu chúng-sinh khác cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân thấp hoặc cao tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.

Qua tích Maṇḍūkadevaputta tích 500 con dơi lắng nghe âm thanh Pāḷi, con ếch và 500 con dơi thuộc về loài súc-sinh, con ếch nghe âm thanh Pāḷi của Đức-Phật thuyết-pháp, và 500 con dơi lắng nghe âm thanh Pāḷi của Ngài Trưởng-lão tụng đọc ôn tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭaka) nên phát sinh đại-thiện-tâm có đức-tin trong sạch nơi âm thanh Pāḷi, mà có quả báu lớn lao vô lượng như vậy.

Pháp trở thành bậc Thánh Nhập-lưu

Những hạng phàm nhân thuộc về người tam-nhân có đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, có khả năng trở thành bậc Thánh-nhân trong kiếp hiện-tại, hạng người tam-nhân ấy cần phải hội đủ 4 nhân-duyên thiết yếu.

Trong bài kinh Sotāpattiphalasutta:[5] Kinh Nhập-lưu Thánh-quả, Đức-Phật thuyết dạy rằng:

-Này chư tỳ-khưu! Có 4 pháp mà hành-giả thực-hành để chứng đắc Nhập-lưu Thánh-quả. 4 pháp này là:

1- Sappurisasaṃseva: Gần gũi thân cận với bậc thiện-trí.

2- Saddhammassavana: Nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí.

3- Yonisomanasikāra: Hiểu biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.

4- Dhammānudhammappaṭipatti: Thực-hành theo pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn.

-Này chư tỳ-khưu! Đó là 4 pháp mà hành-giả thực-hành để chứng đắc Nhập-lưu Thánh-quả.

Đối với chư vị Bồ-tát Thanh-văn-giác mong trở thành bậc Thánh Thanh-văn-giác đều cần phải lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Cho nên, dhammassavanakusala: phước-thiện nghe chánh-pháp là phước-thiện tối ư thiết yếu đối với tất cả mọi chúng-sinh, nếu người nào có đủ nhân-duyên thì người ấy có cơ hội thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân, nếu người nào chưa có đủ nhân-duyên thì người ấy có được cơ hội tốt rất hy hữu, để bồi bổ thêm các pháp-hạnh ba-la-mật, để mong trở thành bậc Thánh-nhân trong thời vị-lai.

Quả báu của sự nghe-pháp

Người nghe chánh-pháp có được 5 quả báu, như trong kinh Dhammassavanasutta [6] Kinh Nghe chánh-pháp được tóm lược như sau:

-Này chư tỳ-khưu! Người nghe chánh-pháp có được 5 quả báu là:

- Nghe chánh-pháp mà chưa từng nghe.

- Làm cho hiểu biết rõ chánh-pháp đã từng nghe.

- Thoát ra khỏi sự hoài-nghi trong chánh-pháp.

- Làm cho hiểu biết đúng đắn trong chánh-pháp.

- Người nghe phát sinh đại-thiện-tâm có đức-tin trong sạch trong chánh-pháp.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là 5 quả báu của sự nghe chánh-pháp.

Nghe Chánh-pháp (Saddhammassavana)

Nghe chánh-pháp là phước-thiện tối ư thiết yếu đối với các hàng chúng-sinh nhất là chư vị bồ-tát, nhân loại, chư-thiên các cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (không có chư phạm-thiên tầng trời Vô-tưởng-thiên, bởi vì chư phạm-thiên này chỉ có thân mà không có tâm, và chư phạm-thiên trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, bởi vì chư phạm-thiên này có tâm mà không có thân nên không nghe được).

phước-thiện nghe chánh-pháp cũng cần thiết đối với các bậc Thánh hữu-học bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, bởi vì 3 bậc Thánh-nhân này vẫn còn phải nghe chánh-pháp, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc đến bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Chư thánh A-ra-hán nghe chánh-pháp

Chư Thánh A-ra-hán nghe chánh-pháp không phải để thực-hành theo chánh-pháp, mà chư bậc Thánh A-ra-hán nghe chánh-pháp để ghi nhớ chánh-pháp, duy trì, bảo tồn chánh-pháp, nên chư bậc Thánh A-ra-hán thường nghe Đức-Phật thuyết-pháp, và đôi khi cũng nghe chánh-pháp từ vị Thánh A-ra-hán khác thuyết-pháp:

Như Ngài Trưởng-lão Sāriputta, bậc Thống-Pháp (Dhammasenāpati), bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn bên phải có đại-trí-tuệ bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật cũng đến nghe chánh-pháp do Ngài Trưởng-lão Puṇṇamantāṇiputta thuyết bài kinh Rathavinītasutta [7].

Sau khi nghe và đàm đạo với Ngài Trưởng-lão Puṇṇa về 7 pháp-thanh-tịnh (visuddhi), Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta vô cùng hoan-hỷ nói lời Sādhu! Lành thay! Tán dương ca tụng Ngài Trưởng-lão Puṇṇa có tài thuyết giảng chánh-pháp rõ ràng và Ngài Trưởng-lão Puṇṇa cũng tán dương ca tụng Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta có trí-tuệ siêu việt.

Đức-Phật cung-kính chánh-pháp

Một đêm nọ, Ngài Trưởng-lão Nanda ngồi thuyết-pháp tại giảng đường từ đầu hôm cho đến sáng trọn đêm suốt 3 canh, Đức-Thế-Tôn ngự đến đứng một nơi nghe chánh-pháp trọn đêm suốt 3 canh. Đến khi mãn thời pháp, Đức-Thế-Tôn thốt lên lời hoan-hỷ rằng:

“Sādhu! Sādhu!” “Lành thay! Lành thay!”

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Nanda đến đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch rằng:

- Kāya velāya Bhante, āgatattha?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài ngự đến đây từ khi nào? Bạch Ngài.

- Tayā suttante āraddhamatte.

- Này Nanda! Như-Lai ngự đến đứng nơi đây từ khi con bắt đầu thuyết-pháp.

- Dukkaraṃ karittha Bhante, Buddhasukhumālā tumhe.

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài là Đức-Phật tối-thượng đã làm điều thật khó làm.

Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

- Sace tvaṃ Nanda, kappaṃ desetuṃ sakkuṇeyyāsi, kappamattampā’haṃ ṭhitakova suṇeyyaṃ [8].

- Này Nanda! Nếu con có thể thuyết-pháp suốt kiếp thì Như-Lai cũng đứng nghe chánh-pháp suốt kiếp được.

Evaṃ dhammagaruno Tathāgatā.

Chư Đức-Thế-Tôn đều cung-kính chánh-pháp như vậy.

Tích Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa

Tích Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa [9] được tóm lược một phần như sau:

Trong quá khứ, thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, nghe chánh-pháp. Khi ấy, thấy Đức-Phật Padumuttara tuyên dương vị tỳ-khưu có đức hạnh thuyết-pháp với giọng hay nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, nên tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão nghĩ rằng: “Ta cũng nên trở thành vị tỳ-khưu có đức hạnh thuyết-pháp với giọng hay nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong thời vị-lai”.

Cho nên, tiền-kiếp Ngài Trưởng-lão kính thỉnh Đức-Phật Padumuttara ngự đến tư gia cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để tạo phước-thiện bố-thí cúng dường suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7, tiền-kiếp Ngài Trưởng-lão kính bạch với Đức-Phật Padumuttara rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài đã tuyên dương vị tỳ-khưu có đức hạnh thuyết-pháp với giọng hay nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Ngài. Nay con cũng có ý nguyện muốn trở thành ngôi vị như vị tỳ-khưu ấy, trong giáo pháp của Đức-Phật trong thời vị-lai.

Nghe tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão bạch như vậy, Đức-Phật Padumuttara xem xét thấy sẽ được thành-tựu, nên thọ ký xác định thời gian rằng:

- Này thí-chủ! Trong thời vị-lai, còn 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, con sẽ là vị tỳ-khưu có đức hạnh thuyết-pháp với giọng hay nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Sau khi nghe Đức-Phật Padumuttara[10] thọ ký như vậy, tiền-kiếp Ngài Trưởng-lão vô cùng hoan-hỷ biết ý nguyện của mình sẽ được thành tựu.

Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão tử sinh luân-hồi trong các cõi trời và cõi người, để tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc hạ cho được đầy đủ suốt thời gian 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Trước khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, sau khi tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão chết từ cõi trời, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp chót đầu thai vào lòng cận-sự-nữ Kāḷī tại tỉnh Kuraraghara. Mang thai đủ tháng, cận-sự-nữ Kāḷī trở về nhà cha mẹ tại kinh-thành Rājagaha để sinh con.

Khi ấy, nghe 2 dạ-xoa đàm thoại với nhau, cận-sự-nữ Kāḷī ngồi dậy lắng nghe rõ Dạ-xoa Sātāgira và Dạ-xoa Hemavata tán dương ca tụng chánh-pháp của Đức-Phật Gotama. Cận-sự-nữ Kāḷī chưa từng thấy Đức-Phật, chỉ nghe chánh-pháp, rồi phát sinh đại-thiện-tâm có đức-tin trong sạch thực-hành theo chánh-pháp dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên (paṭhamakasotāpannā) trong các cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Trong đêm ấy, cận-sự-nữ Kāḷī sinh hạ đứa con trai, đặt tên là Soṇa. Cận-sự-nữ Kāḷī ở nhà cha mẹ một thời gian, rồi trở lại nhà của mình.

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana trú tại núi Upavatta, tỉnh Kuraraghara. Hằng ngày, Ngài Trưởng-lão đến khất thực tại nhà cận-sự-nữ Kāḷī, công-tử Soṇa kính yêu Ngài Trưởng-lão.

Về sau, công-tử Soṇa được Ngài Trưởng-lão Mahā-kaccayana cho phép xuất gia trở thành sa-di, chờ đợi suốt 3 năm mới có đủ chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để làm lễ nâng đỡ sa-di Soṇa lên trở thành tỳ-khưu Soṇa.

Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana thuyết dạy pháp-hành thiền-tuệ cho tỳ-khưu Soṇa. Sau khi học xong, tỳ-khưu Soṇa thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứThánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Tỳ-khưu Soṇa an cư nhập hạ 3 tháng mùa mưa với Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana, theo học Suttanipāta-pāli với vị thầy tế độ.

Sau khi ra hạ, hành lễ Pavāraṇā xong, tỳ-khưu Soṇa có ý nguyện muốn đến hầu Đức-Thế-Tôn, nên tỳ-khưu Soṇa đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana là vị thầy tế độ, xin phép đi đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn.

Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana hoan-hỷ cho phép, rồi căn dặn rằng:

-Này Soṇa! Khi con đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, con sẽ được phép ở chung trong gandhakuṭi cùng với Đức-Thế-Tôn, Ngài sẽ truyền dạy con tụng đọc bài pháp.

Sau khi nghe con tụng đọc bài pháp xong, Đức-Thế-Tôn sẽ phát sinh đại-duy-tác-tâm hoan-hỷ, rồi Đức-Thế-Tôn sẽ ban cho con ân huệ, con nên nhận ân huệ ấy.

Con đảnh lễ dưới đôi chân của Đức-Thế-Tôn, rồi con nên bạch với Đức-Thế-Tôn 5 điều đúng theo lời căn dặn của thầy.

Sau khi nhận lời dạy bảo của vị thầy tế độ xong, Ngài Trưởng-lão Soṇa đảnh lễ thầy tế độ, xin phép từ giã thầy. Ngài Trưởng-lão đi đến thăm thân mẫu báo cho bà biết, Ngài được phép đi đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh-thành Sāvatthi.

Thân mẫu của Ngài vô cùng hoan-hỷ bạch với Ngài Trưởng-lão Soṇa rằng:

-Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Con xin kính dâng Ngài Trưởng-lão tấm vải len lớn (kambala) này, để Ngài đem cúng dường đến Đức-Thế-Tôn làm tấm lót nền trong cốc gandhakuṭi của Đức-Thế-Tôn.

Sau khi nhận tấm vải len ấy, Ngài Trưởng-lão Soṇa xin từ giã thân mẫu, trở về chỗ ở dọn dẹp các thứ vật dụng gọn gàng, rồi mới lên đường đi tuần tự đến kinh-thành Sāvatthi, vào ngôi chùa Jetavana, đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi đứng một nơi hợp lẽ.

Đức-Thế-Tôn hỏi theo lệ thường của chư Phật xong, Đức-Thế-Tôn truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

-Này Ānanda! Con nên sắp đặt chỗ nghỉ cho vị tỳ-khưu này.

Ngài Trưởng-lão Ānanda hiểu biết ý của Đức-Thế-Tôn, nên trải chỗ nằm nghỉ cho Ngài Trưởng-lão Soṇa trong cốc gandhakuṭi cùng với Đức-Thế-Tôn.

Đức-Thế-Tôn thực-hành phận sự như mỗi ngày, Đức-Thế-Tôn vào nằm nghiêng bên phải có chánh-niệm và trí-tuệ tỉnh-giác vào thời gian giữa của canh chót đêm, định giờ tỉnh dậy vào cuối canh chót. Đức-Thế-Tôn thức dậy biết tỳ-khưu Soṇa nghỉ ngơi lại sức rồi, nên Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

-Paṭibhātu taṃ bhikkhu, dhammo bhāsituṃ.

- Này tỳ-khưu! Con hãy nên tụng đọc chánh-pháp.

Vâng lời Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Soṇa tụng tạng Kinh phần aṭṭhakavagga từng chữ từng câu đúng đắn rõ ràng với giọng rất hay. Khi Ngài Trưởng-lão Soṇa tụng xong, Đức-Thế-Tôn hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Đức-Thế-Tôn khen ngợi rằng:

- Suggahito te bhikkhu, dhammo, mayā desitakāle ca ajja ca ekasadisāva desanā, kiñci ūnaṃ vā adhikaṃ vā natthi [11].

- Này tỳ-khưu! Chánh-pháp mà con đã học, ghi nhớ đúng đắn, Như-Lai đã thuyết dạy trong thời gian trước đây và ngày nay giống như một, không thiếu không dư.

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Soṇa nghĩ rằng: “Đây là cơ hội tốt”, nên Ngài Trưởng-lão đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Mahā-kaccayana, vị thầy tế độ của con kính xin đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn, Ngài dạy con bạch với Đức-Thế-Tôn, có 5 điều rằng:

1- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vùng Avantidakkhiṇā-patha có ít tỳ-khưu, con cố gắng tìm đủ 10 vị tỳ-khưu để hành-tăng-sự suốt 3 năm mới được làm lễ thọ tỳ-khưu (upasampada).

Nếu được thì kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép làm lễ thọ tỳ-khưu (upasampadā) tại vùng Avantidakkhiṇā-patha với nhóm tỳ-khưu-Tăng hội ít hơn.

2- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vùng Avantidakkhiṇā-patha đường sá xấu gồ ghề khó đi lại.

Nếu được thì kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép tỳ-khưu trong vùng Avantidakkhiṇāpatha được phép mang dép.

3- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, dân chúng trong vùng Avantidakkhiṇāpatha có thói quen thường hay tắm, họ cho rằng:“Nước làm cho sạch sẽ, trong sạch”.

Nếu được thì kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép tỳ-khưu trong vùng Avantidakkhiṇāpatha được phép tắm hằng ngày.

4- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trong vùng Avanti-dakkhinapatha có da lót nằm như da cừu, da dê, da nai, cũng như Majjhimajanapada có lót nằm như cỏ tranh, cỏ lác.

Nếu được thì kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép tỳ-khưu trong vùng Avantidakkhiṇāpatha được phép dùng da cừu, da dê, da nai lót nằm.

5- Kính bạch Đức Thế Tôn, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ gửi y dâng cúng dường đến vị tỳ-khưu với lời bạch rằng:

“Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin gửi bộ y này, nhờ Ngài dâng hộ đến vị tỳ-khưu có pháp danh ấy ở nơi ấy.”

Vị tỳ-khưu không dám nhận bộ y của thí-chủ, bởi vì cất giữ bộ y ấy quá ngày sẽ phạm giới “nissaggiya-pācittiya”.

Nếu được thì kính xin Đức-Thế-Tôn truyền dạy, cho phép về vấn đề y này.

Đức-Thế-Tôn cho phép đặc biệt

Do nguyên nhân đầu tiên phát sinh, nên Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ-khưu-Tăng rằng:

1-Này chư tỳ-khưu! Vùng Avantidakkhiṇāpatha có tỳ-khưu ít, nên Như-Lai cho phép làm lễ thọ tỳ-khưu (upasampadā) với nhóm tỳ-khưu-Tăng tối thiểu 5 vị tỳ-khưu thông luật (vinayadhara) và tại tất cả mọi vùng paccantajanapada.

(Trung xứ majjhimajanapada làm lễ thọ tỳ-khưu (upasampadā) phải có nhóm tỳ-khưu-Tăng tối thiểu 10 vị tỳ-khưu thông luật: vinayadhara.)

Ngoài majjhimajanapada ra, còn tất cả các nơi khác làm lễ thọ tỳ-khưu (upasampadā) phải có nhóm tỳ-khưu-Tăng hội tối thiểu 5 vị tỳ-khưu thông luật (vinayadhara)).

2-Này chư tỳ-khưu! Vùng Avantidakkhiṇāpatha có đường sá xấu gồ ghề khó đi lại, nên Như-Lai cho phép tỳ-khưu trong tất cả mọi vùng paccantajanapada được phép mang dép.

3- Này chư tỳ-khưu! Dân chúng trong vùng Avanti-dakkhiṇāpatha có thói quen thường hay tắm, họ cho rằng: “Nước làm cho sạch sẽ, trong sạch”.

Vì vậy, Như-Lai cho phép tỳ-khưu trong tất cả mọi vùng paccantajanapada được phép tắm hằng ngày.

4- Này chư tỳ-khưu! Trong vùng Avantidakkhiṇā-patha có da lót nằm như da cừu, da dê, da nai; cũng như Majjhimajanapada có cỏ lót nằm như cỏ tranh, cỏ lác; nên Như-Lai cho phép tỳ-khưu trong tất cả mọi vùng paccantajanapada được phép dùng da cừu, da dê, da nai lót nằm.

5- Này chư tỳ-khưu! Tất cả thí-chủ gửi tấm y để dâng cúng dường đến các vị tỳ-khưu ở nơi khác, với lời bạch rằng: “Các con gửi tấm y này, xin kính dâng cúng dường đến vị tỳ-khưu có pháp danh ấy”.

- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép các con nhận tấm y ấy không quá 10 đêm.

Sau khi Đức-Thế-Tôn cho phép 5 điều của Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana, vị thầy tế độ xong, tỳ-khưu Soṇa đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch lời của thân mẫu rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, cận-sự-nữ Kāḷī thân mẫu của con gửi tấm vải len lớn này kính dâng lên Đức-Thế-Tôn, để lót nền cốc gandhakuṭi của Đức-Thế-Tôn.

Sau khi bạch xong, Ngài Trưởng-lão Soṇa kính dâng tấm vải len lớn (kambala) lên Đức-Thế-Tôn, rồi đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép trở về chùa.

Ngài Trưởng-lão Soṇa đã đến hầu Đức-Thế-Tôn như ý nguyện và đã hoàn thành xong phận sự mà vị thầy tế độ là Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana đã giao phó.

Trên đường trở về núi Upavatta, tỉnh Kuraraghara. Ngài Trưởng-lão Soṇa về đến nơi, vào đảnh lễ vị thầy tế độ là Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana, rồi xin thuật lại mọi sự việc của mình cho vị thầy tế độ nghe.

Nghe tỳ-khưu Soṇa đệ-tử thuật lại như vậy, Ngài Trưởng-lão Mahākaccayana biết 5 điều thỉnh cầu của mình đã được Đức-Phật cho phép, nên Ngài Trưởng-lão vô cùng hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Ngày hôm sau, Ngài Trưởng-lão Soṇa đi khất thực đến đứng trước cổng nhà thân mẫu. Nhìn thấy Ngài Trưởng-lão, thân mẫu ra tận cổng đón rước Ngài Trưởng-lão vào nhà, tự tay bà dâng vật thực để bát cúng dường đến Ngài Trưởng-lão.

Sau khi Ngài Trưởng-lão độ vật thực xong, thân mẫu bạch với Ngài Trưởng-lão rằng:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Ngài đã đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, mọi việc đều tốt lành phải không?

- Thưa thân mẫu, mọi việc đều tốt lành.

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Ngài đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch lời của thân mẫu hay không?

- Thưa thân mẫu, sư đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch lời của thân mẫu và kính dâng cúng dường tấm vải len lớn, lót nền cốc gandhakuṭi của Đức-Thế-Tôn.

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, nghe rằng:

“Ngài Trưởng-lão đã nghỉ trong cốc gandhakuṭi cùng với Đức-Thế-Tôn, rồi Đức-Thế-Tôn truyền bảo Ngài tụng đọc chánh-pháp xong, Đức-Thế-Tôn hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Đúng vậy phải không?

- Thưa thân mẫu, thân mẫu biết bằng cách nào vậy?

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chư thiên trú trong nhà báo cho thân mẫu biết rằng:

“Khi nghe Đức-Thế-Tôn hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Thì toàn thể chư thiên mười ngàn thế giới đồng nói lời hoan-hỷ Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

-Kính bạch Ngài Trưởng-lão, thân mẫu kính thỉnh

Ngài tụng chánh-pháp giống như Ngài đã từng tụng tại cốc gandhakuṭi của Đức-Thế-Tôn, có được hay không?

Nghe thân mẫu kính thỉnh như vậy, Ngài Trưởng-lão Soṇa nhận lời. Biết Ngài Trưởng-lão đã chấp thuận, nên thân mẫu của Ngài Trưởng-lão cho người trang hoàng một hội trường trước cổng nhà, có pháp tòa trang nghiêm, dân chúng tụ hội đông đủ, rồi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão Soṇa lên ngồi trên pháp tòa tụng chánh-pháp mà Ngài Trưởng-lão đã từng tụng tại cốc gandhakuṭi của Đức-Thế-Tôn.

Về sau, Đức-Thế-Tôn chủ trì giữa chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, tuyên dương Ngài Trưởng-lão Soṇa là vị Thánh thanh-văn đệ-tử tụng chánh-pháp với giọng hay đặc biệt nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Nghe 7 pháp-giác-chi

Bảy pháp-giác-chi (Bojjhaṅga) là một trong 5 đối-tượng trong phần pháp niệm-xứ, hành-giả thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ trong phần pháp niệm-xứ, có đối tượng 7 pháp-giác-chi dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

Bảy pháp-giác-chi còn là một linh-dược mầu-nhiệm (osadhañca imaṃ mantaṃ) chữa trị khỏi được căn bệnh nặng của bệnh nhân một cách huyền-diệu ngay tức thì, như 3 trường hợp sau:

Đức-Phật thuyết 7 pháp-giác-chi

* Trường hợp Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa lâm bệnh nặng trầm trọng tại động Pippaliguhā. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự đến thăm viếng Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa, rồi thuyết giảng bài kinh Paṭhama-gilānasutta có 7 pháp-giác-chi như sau:

Kinh Paṭhamagilānasutta [12]

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Rājagahe viharati Veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena āyasmā Mahākassapo Pippaliguhāyaṃ viharati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno.

Atha kho Bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā Mahākassapo tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi, nisajja kho Bhagavā āyasmantaṃ Mahākassapaṃ etadavoca.

- Kacci te Kassapa, khamanīyaṃ? Kacci yāpanīyaṃ? Kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti, no abhikkamanti, paṭikkamosānaṃ paññāyati, no abhikkamo’ti?

- Na me Bhante, khamanīyaṃ, na yāpanīyaṃ, bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti, abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo’ti

Sattime Kassapa, bojjhaṅgā mayā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattanti. Katame satta?

* Satisambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Dhammavicayasambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Vīriyasambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Pītisambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Passaddhisambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Samādhisambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Upekkhāsambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

Ime kho Kassapa, satta bojjhaṅgā mayā samma-dakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattantī’ti.

Taggha Bhagavā bojjhaṅgā. Taggha Sugata bojjhaṅgā’ti.

Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā Mahākassapo Bhagavato bhāsitaṃ abhinandi Vuṭṭhahi cāyasmā Mahākassapo tamhā ābādhā, tathāpahīno cāyasmato Mahākassapassa so ābādho ahosī’ti.

(Paṭhamagilānasuttaṃ niṭṭhitaṃ.)

Ý nghĩa bài kinh bệnh thứ nhất

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các loài sóc, gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Kassapa lâm bệnh nặng khổ thân hành hạ, bệnh tình trầm trọng tại động Pippali.

Vào buổi chiều, sau khi rời khỏi nơi thanh vắng, Đức-Thế-Tôn ngự đến thăm viếng Ngài Đại-Trưởng-lão Kassapa, ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn, Đức-Thế-Tôn hỏi thăm Ngài Đại-Trưởng-lão Kassapa rằng:

- Này Kassapa!Con có kham nhẫn nổi thọ khổ không?

- Tứ đại của con có được điều hòa không?

- Thọ khổ của con thuyên giảm, chứ không tăng thêm phải không?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con không thể kham nhẫn nổi thọ khổ.

- Con không thể điều hòa tứ đại này được.

-Thọ khổ của con không thuyên giảm mà lại tăng thêm.

- Bệnh tình tăng thêm rõ ràng, chứ không thuyên giảm chút nào. Bạch Ngài.

- Này Kassapa! 7 pháp-giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

7 pháp giác chi ấy là thế nào?

1- Này Kassapa! Pháp niệm giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

2- Này Kassapa! Pháp phân-tích giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

3- Này Kassapa! Pháp tinh-tấn giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

4- Này Kassapa! Pháp hỷ giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

5- Này Kassapa! Pháp an-tịnh giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

6- Này Kassapa! Pháp định giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

7- Này Kassapa! Pháp xả giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

- Này Kassapa! 7 pháp-giác-chi này Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, 7 pháp-giác-chi thật là huyền diệu!

- Kính bạch Đức-Thiện-Ngôn, 7 pháp-giác-chi thật là huyền diệu!

Đức-Thế-Tôn thuyết giảng 7 pháp-giác-chi xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa phát sinh duy-tác-tâm vô cùng hoan-hỷ với lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đã khỏi hẳn bệnh ngay tức khắc, căn bệnh của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa khỏi hẳn, không còn tái phát lại nữa.

(Xong bài kinh bệnh thứ nhất).

* Trường hợp Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna lâm bệnh nặng trầm trọng tại núi Gijjhakūṭa. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự đến thăm viếng Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, rồi thuyết giảng bài kinh Dutiya-gilānasutta có 7 pháp-giác-chi như sau:

Kinh Dutiyagilānasutta [13]

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Rājagahe viharati Veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena āyasmā Mahāmoggallāno Gijjhakūṭe pabbate viharati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno.

Atha kho Bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā Mahāmoggallāno tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi, nisajja kho Bhagavā āyasmantaṃ Mahāmoggallānaṃ etadavoca.

Atha kho Bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā Mahāmoggallāno tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi, nisajja kho Bhagavā āyasmantaṃ Mahāmoggallānaṃ etadavoca.

-Kacci te Moggallāna, khamanīyaṃ?Kacci yāpanīyaṃ? Kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti, no abhikkamanti,

paṭikkamosānaṃ paññāyati, no abhikkamo’ti ?

-Na me Bhante, khamanīyaṃ, na yāpanīyaṃ, bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti, abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo’ti

Sattime Moggallāna, bojjhaṅgā mayā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattanti. Katame satta?

* Satisambojjhaṅgo kho Moggallāna, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Dhammavicayasambojjhaṅgo kho Moggallāna, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Vīriyasambojjhaṅgo kho Moggallāna, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Pītisambojjhaṅgo kho Moggallāna, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Passaddhisambojjhaṅgo kho Moggallāna, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Samādhisambojjhaṅgo kho Moggallāna, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Upekkhāsambojjhaṅgo kho Moggallāna, mayā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

Ime kho Moggallāna, satta bojjhaṅgā mayā samma-dakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattantī’ti

Taggha Bhagavā bojjhaṅgā. Taggha Sugata bojjhaṅgā’ti.

Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā Mahā-moggallāno Bhagavato bhāsitaṃ abhinandi. Vuṭṭhahi cāyasmā Mahāmoggallāno tamhā ābādhā, tathāpahīno cāyasmato Mahāmoggallānassa so ābādho ahosī’ti.

(Dutiyagilānasuttaṃ niṭṭhitaṃ.)

Ý nghĩa bài Kinh bệnh thứ nhì

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các loài sóc, gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna lâm bệnh nặng khổ thân hành hạ, bệnh tình trầm trọng tại núi Gijjhakūṭa.

Vào buổi chiều, sau khi rời khỏi nơi thanh vắng, Đức-Thế-Tôn ngự đến thăm viếng Ngài Mahāmoggallāna, ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn, Đức-Thế-Tôn hỏi thăm vị Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:

- Này Mahāmoggallāna! Con có kham nhẫn nổi thọ khổ không?

- Tứ đại của con có được điều hòa không?

- Thọ khổ của con thuyên giảm, chứ không tăng thêm phải không?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con không thể kham nhẫn nổi thọ khổ.

- Con không thể điều hòa tứ đại này được.

- Thọ khổ của con không thuyên giảm mà lại tăng thêm.

- Bệnh tình tăng thêm rõ ràng, chứ không thuyên giảm chút nào. Bạch Ngài.

- Này Mahāmoggallāna! 7 pháp-giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

7 pháp giác chi ấy là thế nào?

1- Này Mahāmoggallāna! Pháp niệm giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

2- Này Mahāmoggallāna! Pháp phân-tích giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

3- Này Mahāmoggallāna! Pháp tinh-tấn giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

4- Này Mahāmoggallāna! Pháp hỷ giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

5- Này Mahāmoggallāna! Pháp an-tịnh giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

6- Này Mahāmoggallāna! Pháp định giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

7- Này Mahāmoggallāna! Pháp xả giác-chi mà Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

- Này Mahāmoggallāna! 7 pháp-giác-chi này Như-Lai đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, 7 pháp-giác-chi thật là huyền diệu!

- Kính bạch Đức-Thiện-Ngôn, 7 pháp-giác-chi thật là huyền diệu!

Đức-Thế-Tôn thuyết giảng 7 pháp-giác-chi xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna phát sinh duy-tác-tâm vô cùng hoan-hỷ với lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đã khỏi hẳn bệnh ngay tức khắc, căn bệnh của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna khỏi hẳn, không còn tái phát lại nữa.

(Xong bài kinh bệnh thứ nhì).

Đức-Phật nghe 7 Pháp Giác-chi

* Trường hợp Đức-Thế-Tôn lâm bệnh nặng tại ngôi chùa Veḷuvana. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Mahācunda đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức-Thế-Tôn truyền bảo Ngài Trưởng-lão Mahācunda tụng 7 pháp-giác-chi.

Ngài Trưởng-lão Mahācunda tụng bài kinh Tatiya-gilānasutta có 7 pháp-giác-chi như sau:

Kinh Tatiyagilānasutta [14]

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Rājagahe viharati Veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena Bhagavā ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno. Atha kho āyasmā Mahācundo yena Bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅ-kamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi, ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ Mahācundaṃ Bhagavā etadavoca.

“Paṭibhantu taṃ Cunda, bojjhaṅgā”ti.

Sattime Bhante, bojjhaṅgā Bhagavatā samma-dakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattanti. Katame satta?

* Satisambojjhaṅgo kho Bhante, Bhagavatā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Dhammavicayasambojjhaṅgo kho Bhante, bhagavatā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Vīriyasambojjhaṅgo kho Bhante, Bhagavatā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Pītisambojjhaṅgo kho Bhante, Bhagavatā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Passaddhisambojjhaṅgo kho Bhante, Bhagavatā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Samādhisambojjhaṅgo kho Bhante, Bhagavatā samma-dakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

* Upekkhāsambojjhaṅgo kho Bhante, Bhagavatā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

Ime kho Bhante, satta bojjhaṅgā Bhagavatā samma-dakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattantī’ti

Taggha Cunda bojjhaṅgā. Taggha Cunda bojjhaṅgā’ti

Idamavocāyasmā Cundo. Samanuñño Satthā ahosi. Vuṭṭhahi ca Bhagavā tamhā ābādhā, tathāpahīno ca Bhagavato so ābādho ahosī’ti.

(Tatiyagilānasuttaṃ niṭṭhitaṃ.)

Ý nghĩa bài kinh bệnh thứ ba

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các loài sóc, gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn lâm bệnh nặng khổ thân hành hạ.

Ngài Trưởng-lão Mahācunda đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, sau khi Ngài Trưởng-lão Mahācunda ngồi một nơi, Đức-Thế-Tôn truyền bảo rằng:

-“Này Cunda! Con hãy nên tụng 7 pháp-giác-chi.”

Ngài Trưởng-lão Mahācunda tụng 7 pháp-giác-chi

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, 7 pháp-giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

7 pháp giác chi ấy là thế nào?

1- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp niệm giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

2- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp phân-tích giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

3- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp tinh-tấn giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

4- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp hỷ giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

5- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp an-tịnh giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

6- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp định giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

7- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp xả giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, 7 pháp-giác-chi mà Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng chân chính, được thực-hành, được thực-hành nhiều, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn diệt khổ.

Đức-Thế-Tôn truyền bảo rằng:

- Này Cunda! 7 pháp giác chi thật là huyền diệu!

- Này Cunda! 7 pháp giác chi thật là huyền diệu!

Ngài Trưởng-lão Mahācunda tụng 7 pháp-giác-chi xong, Đức-Thế-Tôn phát sinh duy-tác-tâm vô cùng hoan-hỷ trong 7 pháp-giác-chi ấy, Đức-Thế-Tôn đã khỏi hẳn bệnh ngay tức khắc, căn bệnh của Đức-Thế-Tôn khỏi hẳn, không còn tái phát lại nữa.

(Xong bài kinh bệnh thứ ba)

Lợi ích của sự nghe tụng kinh Pāḷi

Người bệnh nghe tụng kinh Pāḷi là một trong những truyền thống trong Phật-giáo. Bệnh có 2 loại: bệnh-thân bệnh-tâm.

Bệnh-thân do có thân. Thân có tứ đại: đất, nước, lửa, gió. Tứ đại không điều hòa nên phát sinh bệnh-thân. Tất cả chúng-sinh nói chung, con người nói riêng, hễ có thân là có bệnh-thân, chỉ có khác nhau bệnh nhẹ hoặc bệnh nặng mà thôi. Cho nên, chư Thánh A-ra-hán và Đức-Phật cũng không tránh khỏi bệnh-thân.

Bệnh-tâm phát sinh do mọi phiền-não, mà mọi phiền-não phát sinh do nương nhờ nơi bất-thiện-tâm (ác-tâm). Nếu khi bất-thiện-tâm (ác-tâm) nào phát sinh thì ắt có số phiền-não đồng sinh với bất-thiện-tâm (ác-tâm) ấy.

Bệnh-thân thuộc về quả của nghiệp, còn bệnh-tâm là do phiền-não mà mọi phiền-não phát sinh do nương nhờ nơi bất-thiện-tâm (ác-tâm), làm cho tâm bị ô nhiễm nóng nảy khổ-tâm gọi là bệnh-tâm.

Thật ra, bệnh-thân bệnh-tâm là 2 bệnh riêng biệt, sở dĩ có sự liên quan với nhau là vì phiền-não tham muốn mau khỏi bệnh-thân, nhưng không khỏi bệnh thân, nên phiền-não sân phát sinh làm cho khổ-tâm gọi là bệnh-tâm.

Đức-Phật chư Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi phiền-não không còn dư sót nên không còn khổ-tâm nghĩa là không còn bệnh-tâm, chỉ còn có bệnh-thân mà thôi.

Cho nên, khi nghe 7 pháp-giác-chi chánh-pháp mà Đức-Phật chư Thánh A-ra-hán đã từng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, nên phát sinh đại-duy-tác-tâm vô cùng hoan-hỷ trong 7 pháp-giác-chi ấy như là một linh-dược mầu-nhiệm (osadhañca imaṃ mantaṃ) chữa trị khỏi căn bệnh nặng của Ngài đại-trưởng-lão Mahā-kassapa, Ngài đại-trưởng-lão Mahāmoggallāna và Đức-Phật khỏi bệnh ngay tức thì một cách huyền-diệu.

Đối với bệnh nhân là hạng phàm-nhân vẫn còn đầy đủ 1500 loại phiền-não, nếu được nghe 7 pháp-giác-chi mà hiểu biết rõ ý nghĩa mỗi pháp-giác-chi thì bệnh nhân phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan-hỷ trong 7 pháp-giác-chi ấy, do năng lực của đại-thiện-tâm này làm cho thân có sắc-pháp nhẹ nhàng (lahutā), mềm mại (mudutā) uyển chuyển (kamaññatā), giúp cho bệnh-thân giảm bớt khổ-thân[15].

* Tích Dhammika upāsakavatthu[16] được tóm lược điểm chính như sau:

Trường-hợp cận-sự-nam Dhammika lâm bệnh trầm trọng, sắp lâm chung, nên truyền bảo người thân trong gia đình đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, cầu xin Đức-Thế-Tôn cho phép số Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến tư gia, cận-sự-nam Dhammika muốn nghe pháp lúc lâm chung.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy một số Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến tụng kinh tại tư gia của cận-sự-nam Dhammika.

Chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến tư gia, cận-sự-nam Dhammika nằm trên giường chắp tay thỉnh cầu chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tụng bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta: Kinh Đại-niệm-xứ đó là 1 trong những bài kinh chính yếu trong Phật-giáo.

Khi chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đang tụng bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta: Kinh Đại-niệm-xứ cho cận-sự-nam Dhammika nằm lắng tai nghe, khi ấy, 6 chiếc xe trời có 1.000 con ngựa báu từ 6 cõi trời dục-giới hiện xuống chờ đón rước cận-sự-nam Dhammika (Đó là trường-hợp gatinimitta của người sắp chết).

Cận-sự-nam Dhammika chọn cõi trời Tusita (Đâu-suất đà-thiên), nên sau khi cận-sự-nam Dhammika chết, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có hào quang sáng ngời toả khắp mọi nơi trên cõi trời Tusita (Đâu-suất đà-thiên) mà đã chọn trước khi chết, hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời ấy.

Vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời Tusita (Đâu-suất đà-thiên) có tuổi thọ 4000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 576 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm bằng 400 năm cõi người.

* Trường-hợp ông phú hộ Anāthapiṇḍika lâm bệnh trầm trọng, bệnh phong hành hạ kinh khủng, trong bài kinh Anāthapiṇḍikovādasutta [17] được tóm lược điểm chính như sau:

Ông phú hộ Anāthapiṇḍika lâm bệnh trầm trọng, bệnh phong hành hạ kinh khủng, nên ông phú hộ truyền bảo người thân trong gia đình đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi kính bạch với Đức-Thế-Tôn về bệnh tình trầm trọng của ông.

Ông phú hộ truyền bảo người thân trong gia đình đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, rồi kính bạch với Ngài Đại-Trưởng-lão về bệnh tình trầm trọng của ông, kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ đến tư gia của ông.

Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta và Ngài Trưởng-lão Ānanda cùng nhau đến tư gia thăm ông phú hộ Anāthapiṇḍika.

* Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta giảng giải cho ông phú hộ hiểu biết về 6 đối-tượng bên ngoài tiếp xúc với 6 tịnh-sắc-pháp bên trong, phát sinh 6 thức-tâm, 6 xúc, 6 thọ, v.v…

* Ngài Trưởng-lão Ānanda cũng khuyên dạy, ông phú hộ Anāthapiṇḍika phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ trong lời giảng dạy của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta và Ngài Trưởng-lão Ānanda.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta và Ngài Trưởng-lão Ānanda trở về ngôi chùa Jetavana một lát sau, ông phú hộ Anāthapiṇḍika chết, sau khi ông phú hộ chết, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam Anāthapiṇḍika trên cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên) trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có hào quang sáng ngời toả khắp mọi nơi.

Ngay đêm hôm ấy, vị thiên-nam Anāthapiṇḍika từ cõi trời Tusita xuất hiện xuống ngôi chùa Jetavana làm cho ngôi chùa sáng choang, vị thiên-nam Anāthapiṇḍika đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, tán dương ca tụng ân-đức Phật, ân-đức Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, rồi đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xin phép trở về cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên).

Cho nên, phước-thiện nghe chánh-pháp lúc nào cũng đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, nhất là đối với bệnh nhân nghe chánh-pháp, phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ làm cho bệnh giảm bớt, hoặc bớt hẳn, nếu bệnh nhân không sống được, thì sau khi bệnh nhân chết, đại-thiện-nghiệp nghe chánh-pháp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau 1 trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới.

(Xong phần phước-thiện nghe pháp)

IX- PHƯỚC-THIỆN THUYẾT-PHÁP (Dhammadesanā)

Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết-pháp

- Định nghĩa Dhammadesanā

“Dhammaṃ desenti etāyā’ti dhammadesanā.”

Những người có khả năng thuyết dạy, giảng dạy chánh-pháp tế độ chúng-sinh gọi là dhammadesanā: phước-thiện thuyết-pháp, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm có yonisomanasikāra: sự hiểu biết trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.

Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết-pháp

* Vị nào có khả năng thuyết dạy, giảng dạy chánh-pháp với đại-thiện-tâm trong sạch, không cho tham-tâm phát sinh mong muốn mình là một pháp sư nổi tiếng, cũng không mong muốn được những phẩm vật cúng dường, cũng không muốn nhiều người đến lễ bái, cũng không muốn được nhiều thuộc hạ tùy tùng đông đảo, cũng không muốn danh thơm tiếng tốt, …mà chỉ có đại-thiện-tâm trong sạch tế độ người nghe, hy vọng mọi người cung-kính nghe chánh-pháp, hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật mà thôi, thì phước-thiện thuyết-pháp trong sạch, chắc chắn có nhiều quả báu cao thượng.

* Người nào có khả năng thuyết, giảng dạy chánh-pháp với đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì tham-tâm phát sinh mong muốn mình trở thành một pháp sư nổi tiếng, cũng mong muốn được những phẩm vật cúng dường, mong được nhiều người đến lễ bái, cúng dường, có được nhiều thuộc hạ tùy tùng đông đảo, được danh thơm tiếng tốt, có nhiều lợi lộc, v.v… thì phước-thiện thuyết-pháp không trong sạch, không có nhiều quả báu.

Thuyết-pháp với tâm không trong sạch

Vị tỳ-khưu thuyết-pháp với tâm không trong sạch, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm (ác-tâm) nói trái với chánh-pháp, để mong đem lại sự lợi ích cho mình. Ví dụ:

Tích Kapilamacchavatthu

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn đề cập đến con cá màu vàng tên Kapila, nên thuyết tích Kapilamacchavatthu [18] này, được tóm lược như sau:

Trong quá khứ, thời-kỳ Đức-Phật Kassapa[19] đã tịch diệt Niết-bàn. Khi ấy, một gia đình có 2 anh em đều đi xuất gia trở thành tỳ-khưu ở tại một ngôi chùa của vị

thầy tế độ. Người mẹ và em gái cũng đi xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni ở tại một ngôi chùa tỳ-khưu-ni.

Toàn gia đình gồm có 4 người: người anh tên là tỳ-khưu Sāgata, người em trai tên là tỳ-khưu Kapila, người mẹ tên là tỳ-khưu-ni Sādhinī và người em gái tên là tỳ-khưu ni Tāpanā.

Sau khi trở thành tỳ-khưu, hằng ngày, hai tỳ-khưu huynh đệ thực-hành bổn phận đối với Ngài Trưởng-lão thầy tế-độ và Ngài Trưởng-lão thầy tế độ hướng dẫn dạy dỗ một cách chu đáo.

Một hôm, hai vị tỳ-khưu bạch hỏi vị thầy tế độ rằng:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão thầy tế độ, phận sự chính trong Phật-giáo là gì?

Ngài Trưởng-lão thầy tế độ truyền dạy rằng:

- Này hai con! Trong Phật-giáo có 2 phận sự chính: 1-Ganthadhura: phận sự học pháp-học Phật-giáo.

2- Vipassanādhura: phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thuộc về pháp-hành Phật-giáo.

Nghe Ngài Trưởng-lão thầy tế độ dạy như vậy, vị tỳ-khưu Sāgata (huynh) lớn tuổi nghĩ rằng:

“Ta nên theo phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thuộc về pháp-hành Phật-giáo.”

Vị tỳ-khưu Sāgata ở trong chùa, hằng ngày thực-hành pháp-hành phận sự người đệ tử đối với Ngài Trưởng-lão thầy tế-độ, và Ngài Trưởng-lão thầy tế độ dạy dỗ về giới luật rành rẽ và hiểu rõ phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-tuệ (vipassanādhura) cho vị tỳ-khưu Sāgata suốt 5 năm.

Sau 5 năm, tỳ-khưu Sāgata đảnh lễ thầy tế độ, xin phép vào rừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

* Vị tỳ-khưu Kapila (đệ) nhỏ tuổi nghĩ rằng:

“Ta còn trẻ nên theo phận sự học pháp-học Phật-giáo trước, đến khi lớn tuổi ta sẽ theo phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thuộc về pháp-hành Phật-giáo.”

Sau khi nghĩ như vậy, tỳ-khưu Kapila đảnh lễ Ngài Trưởng-lão thầy tế độ, xin theo phận sự học pháp-học Phật-giáo (ganthadhura) trước, nên tỳ-khưu Kapila cố gắng tinh-tấn theo học pháp-học Phật-giáo ghi nhớ thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi, trở thành vị pháp-sư thuyết-pháp hay nổi tiếng, nên được nhiều người ngưỡng mộ, theo hộ độ, cúng dường nhiều phẩm vật.

Tỳ-khưu Kapila say mê trong danh lợi, rồi phát sinh tự cao ngã mạn, tự cho mình hiểu biết hơn người, hành động sai trái, nói năng sai trái với luật, trái với chánh-pháp của Đức-Phật.

* Điều hợp với luật, hợp với pháp, thì tỳ-khưu Kapila dám nói không hợp với luật, không hợp với pháp; và điều không hợp với luật, không hợp với pháp, thì tỳ-khưu Kapila dám nói hợp với luật, hợp với pháp.

* Điều có tội, thì tỳ-khưu Kapila dám nói vô tội; và điều vô tội, thì tỳ-khưu Kapila dám nói có tội, v.v ...

Tỳ-khưu Kapila nương nhờ sự hiểu biết Tam-tạng Pāḷi, rồi trổ tài ngụy biện cho hành vi sai trái của mình, tỳ-khưu Kapila đã hành động và nói lời trái với chánh-pháp của Đức-Phật .

Nghe thấy hành động sai trái và lời nói sai trái của tỳ-khưu Kapila, các Ngài Trưởng-lão thiện-trí có giới-đức trong sạch đến khuyên bảo tỳ-khưu Kapila rằng:

- Này pháp-hữu Kapila! Pháp-hữu không nên hành động và nói năng trái với chánh-pháp của Đức-Phật như vậy nữa, đó là điều không hợp với luật, không hợp với chánh-pháp.

Nghe các Ngài Trưởng-lão thiện-trí khuyên bảo như vậy, nhưng tỳ-khưu Kapila không những không biết phục thiện, mà còn chê trách các bậc thiện-trí rằng:

- Này các Ngài Trưởng-lão! Các Ngài biết được những gì! Các Ngài chỉ là các người rỗng tuếch mà thôi! Tỳ-khưu Kapila càng ngày càng tự cao ngã mạn thường chê trách các Ngài Trưởng-lão có giới-đức trong sạch, và hăm dọa các tỳ-khưu nhỏ khác mà không chịu nghe theo lời của y.

Sư đệ không vâng lời sư huynh

Các Ngài Trưởng-lão thiện-trí không thể khuyên bảo tỳ-khưu Kapila được, nên quý Ngài Trưởng-lão đến bạch sự việc này cho Ngài Trưởng-lão Sāgata bậc Thánh A-ra-hán cũng là sư huynh của tỳ-khưu Kapila.

Ngài Trưởng-lão Sāgata đến khuyên bảo rằng:

-Này sư đệ Kapila! Các Ngài Trưởng-lão thiện-trí khuyên bảo đúng đắn, để bảo vệ, duy trì chánh-pháp của Đức-Phật.

Vậy, sư đệ nên vâng lời các Ngài Trưởng-lão thiện-trí ấy. Sư đệ không nên hành động và nói lời vô lễ đối với các Ngài Trưởng-lão ấy.

Sư đệ không nên hành động và nói năng trái với chánh-pháp của Đức-Phật như vậy nữa.

Tuy Ngài Trưởng-lão Sāgata đã khuyên bảo đôi ba lần, nhưng tỳ-khưu Kapila ngoan cố không chịu từ bỏ những hành động sai lầm, nói lời sai trái với chánh-pháp của Đức-Phật.

Biết tỳ-khưu Kapila không chịu nghe lời khuyên dạy của mình, nên Ngài Trưởng-lão Sāgata bảo rằng:

-Này sư đệ Kapila! Nếu sư đệ không từ bỏ những điều sai trái của mình thì sư đệ sẽ chịu những quả khổ của ác-nghiệp của mình.

Sau khi nhắc nhở khuyên dạy sư đệ Kapila như vậy, rồi Ngài Trưởng-lão Sāgata trở về chỗ ở của mình.

Từ đó, các tỳ-khưu có giới-đức trong sạch đều xa lánh, không gần gũi với tỳ-khưu Kapila nữa. Tỳ-khưu Kapila vẫn hành động sai trái, nói lời sai trái cùng với nhóm thuộc hạ tùy tùng của y, sống chung với nhau.

Một hôm, tỳ-khưu Kapila nghĩ rằng:

“Hôm nay là ngày uposatha hằng tháng, ta nên đến làm lễ uposathakamma tại sīmā.”

Tỳ-khưu Kapila đến ngồi trên pháp tòa hỏi các tỳ-khưu rằng:

-Này các Ngài! Chư tỳ-khưu hành Tăng-sự tụng Bhikkhupātimokkha tại nơi đây phải không?

Nghe tỳ-khưu Kapila hỏi như vậy, các vị tỳ-khưu đều làm thinh, bởi vì nghĩ rằng:

“Không có lợi ích gì đối đáp với tỳ-khưu Kapila này.”

Thấy vậy, tỳ-khưu Kapila nói rằng:

“Āvuso, dhammo vā vinayo vā natthi, pātimokkhena sutena vā asutena vā ko attho.”

-Này các Ngài! Chánh-pháp hoặc chánh luật không có, nghe bhikkhupātimokkha hoặc không nghe bhikkhu-pātimokkha có lợi ích gì!

Sau khi nói như vậy, tỳ-khưu Kapila đứng dậy trở về chỗ ở của mình.

Tỳ-khưu Kapila vẫn chấp-thủ theo sự sai của mình, hành động, nói năng sai trái với chánh-pháp của Đức-Phật Kassapa, không biết phục thiện cho đến suốt đời.

* Ngài Trưởng-lão Sāgata là bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Sau khi tỳ-khưu Kapila chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy của mình suốt thời gian lâu dài.

* Tỳ-khưu-ni Sādhinī là thân-mẫu của tỳ-khưu Kapila, và tỳ-khưu-ni Tāpanā là em gái của tỳ-khưu Kapila thường bênh vực tỳ-khưu Kapila, chê trách, quở mắng các tỳ-khưu có giới-đức trong sạch, nên sau khi tỳ-khưu-ni Sādhinī và tỳ-khưu-ni Tāpanā chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy của mình suốt thời gian lâu dài.

Tái-sinh lên cõi trời nhờ phước-thiện giữ-giới

Trong thời-kỳ ấy, có nhóm trộm cướp 500 người vào xóm làng trộm cướp, bị số đông dân làng cầm khí giới vây bắt, họ hoảng sợ, chạy vào rừng trốn thoát, nhưng không tìm được nơi nương nhờ an toàn nào trong rừng, nhìn thấy vị tỳ-khưu sống trong rừng, nên họ cùng nhau đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão ấy, rồi bạch rằng:

-Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài Trưởng-lão là nơi nương nhờ an toàn của chúng con.

Ngài Trưởng-lão dạy bảo rằng:

-Này các con! Ngoài giới ra, không có nơi nương nhờ an toàn đối với các con. Vậy, các con nên thọ trì ngũ-giới.

Nghe Ngài Trưởng-lão dạy bảo như vậy, tất cả nhóm trộm cướp đều vâng lời dạy của Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài Trưởng-lão hướng dẫn cho thọ trì ngũ-giới.

Sau khi thọ trì ngũ-giới xong, Ngài Trưởng-lão khuyên dạy rằng:

-Này các con! Bây giờ các con là người có giới, mỗi người hãy cố gắng giữ gìn ngũ-giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, thà phải hy sinh sinh-mạng, chứ không để phạm điều-giới nào.

Tất cả nhóm trộm cướp đều cung-kính vâng lời của Ngài Trưởng-lão. Khi ấy, số đông dân làng cầm khí giới chạy đuổi theo đến khu rừng, tìm thấy nhóm trộm cướp gồm có 500 người, họ giết chết tất cả nhóm trộm cướp, không còn ai sống sót.

Sau khi nhóm trộm cướp 500 người ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ-giới cho quả tái-sinh lên cõi trời. Người cầm đầu nhóm trộm cướp trong tiền-kiếp, lại trở thành vị thiên-nam đứng đầu nhóm chư-thiên 500 vị. Nhóm chư thiên 500 vị hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi trời ấy.

Tái-sinh trong nhóm dân chài

Nhóm chư-thiên 500 vị ấy tử sinh luân-hồi trên cõi trời từ thời-kỳ trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, trải qua thời gian lâu dài trong cùng kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa này.

Sau khi nhóm chư-thiên 500 vị chết tại cõi trời, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh xuống cõi người trong làng

500 gia đình dân chài. Sau khi vị thiên-nam trưởng nhóm chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm con của ông trưởng làng dân chài, nhóm chư-thiên còn lại, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm con của các gia đình dân chài.

Khi 500 đứa trẻ sinh ra đời, lúc trưởng thành, 500 đứa trẻ là bạn thân với nhau, con của ông trưởng làng dân chài là trưởng nhóm.

Kapila sinh làm con cá lớn da màu vàng

Hậu kiếp của tỳ-khưu Kapila bị thiêu đốt trong cõi đại-địa-ngục Avīci trải qua thời gian lâu dài từ thời-kỳ giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thời gian, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục, ác-nghiệp ấy lại cho quả tái-sinh làm con cá lớn da màu như vàng, nhưng miệng có mùi hôi ghê tởm, trong con sông Aciravatī.

Một hôm, nhóm trẻ 500 bạn thân bàn bạc với nhau rằng:

“Chúng ta nên đi bắt cá”. Chúng nó đem lưới chở trên ghe ra con sông Aciravatī, giăng lưới xuống nước bắt cá. Con cá lớn da màu vàng ấy bị mắc vào lưới của nhóm trẻ ấy, cha mẹ của chúng vui mừng reo hò lên rằng:

“Các con của chúng ta bắt được con cá lớn da màu vàng đẹp quá! Chúng ta nên đem con cá này dâng lên Đức-vua Pasenadi Kosala để lãnh thưởng.”

Nhóm trẻ bạn thân đặt con cá da màu vàng trên chiếc ghe, rồi cùng nhau khiêng đến cung điện của Đức-vua.

Nhìn thấy con cá lớn chưa tùng thấy, nên Đức-vua Pasenadi Kosala truyền hỏi rằng:

-Này các ngươi! Các ngươi bắt con cá này ở đâu vậy?

Nhóm bạn trẻ tâu rằng:

-Muôn tâu Đại-vương, chúng tiện dân bắt con cá này tại con sông Aciravatī.

Đức-vua nhìn thấy con cá lớn da màu vàng rất xinh đẹp, nên nghĩ rằng:

“Đức-Thế-Tôn biết rõ nguyên nhân nào con cá lớn này có da màu vàng như thế này.”

Truyền bảo nhóm trẻ khiêng con cá lớn ấy đến ngôi chùa Jetavana, Đức-vua cùng ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn.

Con cá lớn có màu da màu vàng ấy hả miệng ra, thì mùi hôi ghê tởm từ miệng con cá ấy tỏa ra khắp ngôi chùa Jetavana.

Khi ấy, Đức-vua Pasenadi Kosala bạch hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nguyên nhân nào con cá lớn này có màu da màu vàng xinh đẹp như vậy?

Do nguyên nhân nào miệng của nó có mùi hôi ghê tởm như vậy? Bạch Ngài.

Nghe Đức-vua Pasenadi Kosala bạch hỏi như vậy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

- Này Đại Vương! Tiền-kiếp của con cá lớn này là vị tỳ-khưu tên Kapila trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa. Vị tỳ-khưu Kapila cố gắng tinh-tấn học ghi nhớ nhiều trong Tam-tạng Pāḷi, trở thành vị pháp-sư thuyết-pháp hay, nên được nhiều người ngưỡng mộ, vì có nhiều người theo hộ độ, cúng dường nhiều phẩm vật, tỳ-khưu Kapila say mê trong danh lợi, rồi phát sinh tự cao ngã mạn, tự cho mình hiểu biết hơn người.

Tỳ-khưu Kapila hành động sai trái với giới luật, nói năng sai trái với chánh-pháp của Đức-Phật Kassapa, thường chê trách các Ngài Trưởng-lão thiện-trí có giới-đức trong sạch, hăm doạ các tỳ-khưu nhỏ không nghe theo mình. Tỳ-khưu Kapila vẫn chấp-thủ những điều sai trái ấy cho đến chết.

Sau khi tỳ-khưu Kapila chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài.

Nay kiếp hiện-tại, cũng do ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm con cá lớn này:

* Con cá lớn có màu da vàng, đó là quả của đại-thiện-nghiệp học Tam-tạng Pāḷi, tán dương ân-đức Phật-bảo trong kiếp quá-khứ.

* Cái miệng của con cá lớn có mùi hôi hám đáng ghê tởm, đó là quả của ác-nghiệp nói điều sai trái với chánh-pháp của Đức-Phật Kassapa, thường chê trách các Ngài Trưởng-lão thiện-trí có giới-đức trong sạch, hăm dọa các tỳ-khưu nhỏ có giới-đức trong sạch.

- Này Đại-vương! Như-Lai truyền bảo con cá này trả lời những câu hỏi cho Đại-vương nghe.

Đức-vua Pasenadi Kosala bạch rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn truyền bảo con cá trả lời những câu hỏi. Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền hỏi con cá ấy rằng:

- Này cá! Con tên là Kapila đúng không?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đúng, tên con là Kapila.

- Này cá! Tiền-kiếp của con từ đâu đến?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tiền-kiếp của con từ đại-địa-ngục Avīci đến.

- Này cá! Sư huynh Sāgata của con sinh ở đâu?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sư huynh Sāgata của con đã tịch diệt Niết-bàn.

- Này cá! Tỳ-khưu-ni Sādhanī là mẹ của con sinh ở cõi nào?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tỳ-khưu-ni Sādhanī là mẹ của con sinh trong cõi đại-địa-ngục.

- Này cá! Tỳ-khưu-ni Tāpanā là em của con sinh ở cõi nào?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Tỳ-khưu-ni Tāpanā là em của con cũng sinh trong cõi đại-địa-ngục.

- Này cá! Bây giờ, con sẽ sinh cõi nào?

Con cá tên Kapila bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sau khi con chết, ác-nghiệp cho quả sẽ tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci.

Sau khi bạch với Đức-Thế-Tôn như vậy, con cá Kapila phát sinh nóng nảy, nên đập đầu vào be thuyền vỡ đầu chết ngay tại chỗ, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci.

Nghe và thấy cảnh tượng như vậy, mọi người hết sức kinh ngạc.

Qua tích Kapilamacchavatthu này, tỳ-khưu Kapila vốn là vị học ghi nhớ nhiều trong Tam-tạng Pāḷi trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa. Tỳ-khưu Kapila thuyết-pháp hay nổi tiếng, nên được nhiều người ngưỡng mộ, cúng dường nhiều phẩm vật.

Về sau, tỳ-khưu Kapila say mê trong danh lợi, phát sinh tâm ngã mạn, tự cho mình hơn người, nên nói điều nào có lợi cho mình, dù cho điều ấy không hợp với luật mà Đức-Phật đã chế định, không hợp với chánh-pháp mà Đức-Phật đã thuyết giảng.

Mỗi khi, nếu có Ngài Trưởng-Lão đến khuyên dạy, nhắc nhở thì tỳ-khưu Kapila không biết phục thiện, cố chấp-thủ, nhờ dựa vào vốn hiểu biết về pháp-học Phật-giáo, rồi ngụy biện bào chữa cho hành vi sai trái, lời nói sai trái của mình.

Học pháp-học Phật-giáo như tỳ-khưu Kapila ví như người bắt rắn độc phần đuôi, không chỉ có hại cho mình, mà còn đem lại sự tai hại cho những người gần gũi thân cận tin tưởng khác nữa.

Đức-Phật dạy có 3 hạng người học pháp-học Phật-giáo như sau:

1- Alagadda pariyatti: Hạng người học pháp-học Phật-giáo ví như người bắt rắn độc phần đuôi có hại cho sinh-mạng của mình.

2- Nissaraṇa pariyatti: Hạng người học pháp-học Phật-giáo để thực-hành mong giải thoát khỏi khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

3- Bhaṇḍāgārika pariyatti: Bậc Thánh A-ra-hán học pháp-học Phật-giáo cốt để giữ gìn, duy trì kho tàng Pháp-bảo của Đức-Phật.

Hai nhóm tỳ-khưu xứ Kosambī cãi cọ nhau

Vào khoảng thời gian cuối hạ thứ 9, chưa đến hạ thứ 10 của Đức-Phật Gotama, một sự kiện xảy ra tại ngôi chùa Ghositārāma, xứ Kosambī như sau:

Một nhóm tỳ-khưu thông-thuộc-luật (vinayadhara) với một nhóm tỳ-khưu thông-thuộc-kinh (suttantadhara) cãi cọ, tranh luận với nhau, do nguyên nhân bắt nguồn từ một việc nhỏ:

* Một vị tỳ-khưu thông-thuộc-kinh đi ra khỏi nhà vệ sinh, để nước rửa còn dư trong ca.

* Một vị tỳ-khưu thông-thuộc-luật đi vào nhà vệ sinh, nhìn thấy nước rửa còn dư trong ca,…

Với một chuyện nhỏ hiểu lầm nhau, dẫn đến chia ra thành 2 nhóm tỳ-khưu, không chịu hành Tăng-sự chung với nhau.

Hay biết sự việc xảy ra như vậy, nên Đức-Phật ngự đến khuyên dạy mỗi nhóm tỳ-khưu ấy không nên cãi cọ, tranh luận với nhau nữa, hãy nên sám hối, rồi cùng nhau hòa hợp, cùng nhau hành Tăng-sự, nhưng không nhóm nào chịu vâng theo lời giáo huấn của Đức-Phật.

Một hôm, Đức-Thế-Tôn ngự đi khất thực trong thành Kosambī, sau khi độ ngọ xong, Đức-Thế-Tôn một mình rời khỏi thành Kosambī, ngự đi vào khu rừng Pālileyyaka. Một mình ngự tại khu rừng thanh vắng này Đức-Thế-Tôn nghĩ rằng:

“Trước đây, hai nhóm tỳ-khưu xứ Kosambī cãi cọ với nhau, tranh luận với nhau. Bây giờ, Như-Lai ở một mình, không có người nào bên cạnh, vắng vẻ, yên tịnh biết dường nào!”

Đức-Thế-Tôn an cư nhập hạ thứ mười tại khu rừng Pālileyyaka này. Voi chúa Pālileyyaka chán ngán với cảnh sống chung chạ với đàn voi con nhỏ, nên nó lẩn tránh vào khu rừng này, gặp Đức-Thế-Tôn, nó cảm thấy vô cùng hoan-hỷ làm bổn phận phục vụ hộ độ Đức-Thế-Tôn, như người đệ-tử biết phận sự lo hầu hạ thầy.

Thấy voi chúa Pālileyyaka hộ độ Đức-Thế-Tôn, con khỉ phát sinh đức-tin trong sạch cũng bắt chước hộ độ Đức-Thế-Tôn.

Hằng ngày, con khỉ vào rừng tìm các loại trái cây chín ngon, đem về cúng dường đến Đức-Thế-Tôn.

Một hôm, con khỉ gặp tổ ong mật không còn con ong, nó đem về cúng dường lên Đức-Thế-Tôn.

Nhìn thấy Đức-Thế-Tôn dùng mật ong ấy, nó vô cùng hoan-hỷ nhảy nhót, vì sơ ý rơi xuống đất chết.

* Sau khi con khỉ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí cúng dường mật ong ấy cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam có tên là Makkaṭa devaputta trong lâu đài nguy nga tráng lệ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Dân chúng thành Kosambī hay biết tin Đức-Thế-Tôn một mình ngự vào khu rừng Pālileyyaka an cư nhập hạ, bởi vì hai nhóm tỳ-khưu cãi cọ với nhau, tranh luận với nhau, dù Đức-Thế-Tôn ngự đến khuyên dạy hai nhóm tỳ-khưu không nên cãi cọ với nhau nữa, nhưng hai nhóm tỳ-khưu vẫn không vâng lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.

Toàn thể dân chúng thành Kosambī đều nhất trí với nhau rằng:

“Chúng ta không đón tiếp, không đảnh lễ, không tạo phước-thiện bố-thí cúng dường vật thực đến hai nhóm tỳ-khưu ấy.”

Khi hai nhóm tỳ-khưu ấy đi khất thực trong thành Kosambī, không có ai cúng dường vật thực suốt 2-3 ngày liền chịu đói, cho nên, hai nhóm tỳ-khưu ấy không còn thái độ cứng rắn như trước. Họ chịu sám hối với nhau, hòa hợp với nhau như trước.

Hai nhóm tỳ-khưu cùng nhau đi đến gặp dân chúng trong thành Kosambī, báo cho dân chúng biết, tất cả họ đã hòa hợp với nhau rồi.

Sau 3 tháng mùa mưa an cư nhập hạ xong, Ngài Trưởng-lão Ānanda cùng nhóm 500 tỳ-khưu rời khỏi kinh-thành Sāvatthi, đi đến khu rừng Pālileyyaka, để hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp tế độ 500 tỳ-khưu đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại nơi ấy.

Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch với Đức-Thế-Tôn theo lời thỉnh mời của ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, …kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến kinh-thành Sāvatthi.

Đức-Thế-Tôn im lặng nhận lời. Đức-Thế-Tôn rời khỏi khu rừng Pālileyyaka ngự đi đến kinh-thành Sāvatthi cùng với chư tỳ-khưu-Tăng.

* Voi chúa Pālileyyaka tiễn đưa Đức-Thế-Tôn ra đến bìa rừng, Đức-Thế-Tôn dạy voi chúa Pālileyyaka rằng:

-Này Pālileyyaka! Con nên trở lại khu rừng, từ đây trở ra thuộc địa phận loài người, có thể có hại đến con!

Nghe giọng phạm âm phát sinh từ tâm-từ của Đức-Thế-Tôn, Voi chúa Pālileyyaka đứng lại nhìn theo với tâm kính yêu vô hạn.

Khi Đức-Thế-Tôn vừa khuất, voi chúa Pālileyyaka đứng chết tại nơi ấy, sau khi chết, đại-thiện-nghiệp phục vụ Đức-Thế-Tôn ấy cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam tên là Pālileyyaka devaputta trong lâu đài nguy nga tráng lệ tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Đúng pháp và sai pháp (dhamma-adhamma)

Khi đến kinh-thành Sāvatthi, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana. Nghe tin tất cả hai nhóm tỳ-khưu xứ Kosambī đang trên đường đến kinh-thành Sāvatthi, để hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tất cả hai nhóm tỳ-khưu xứ Kosambī sẽ đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, để xin sám hối. Vậy, con nên đối xử với họ như thế nào? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn      khuyên     dạy    Ngài    Đại-Trưởng-lão Sāriputta rằng:

-Này Sāriputta! Con nên đối xử với tất cả tỳ-khưu ấy theo chánh-pháp.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bạch rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con nên biết phân biệt thế nào gọi là tỳ-khưu nói tà-pháp (adhammavādī) và thế nào gọi là tỳ-khưu nói chánh-pháp (dhammavādī)?

Đức-Thế-Tôn khuyên dạy rằng:

- Này Sāriputta! Con nên biết phân biệt tỳ-khưu nói tà-pháp có 18 điều như sau:

18 điều tà-pháp [20]

Tỳ-khưu trong Phật-giáo này là người:

1-Thuyết giảng điều tà-pháp, nói là điều chánh-pháp. 2-Thuyết giảng điều chánh-pháp, nói là điều tà-pháp. 3-Thuyết giảng điều sai luật, nói là điều đúng luật.

4- Thuyết giảng điều đúng luật, nói là điều sai luật.

5- Thuyết giảng điều Như-Lai không thuyết giảng, nói là điều Như-Lai thuyết giảng.

6- Thuyết giảng điều Như-Lai thuyết giảng, nói là điều Như-Lai không thuyết giảng.

7- Thuyết giảng điều Như-Lai không thường hành, nói là điều Như-Lai thường hành.

8- Thuyết giảng điều Như-Lai thường hành, nói là điều Như-Lai không thường hành

9- Thuyết giảng điều Như-Lai không chế định, nói là điều Như-Lai chế định.

10- Thuyết giảng điều Như-Lai chế định, nói là điều Như-Lai không chế định.

11- Thuyết giảng điều phạm giới, nói là điều không phạm giới.

12- Thuyết giảng điều không phạm giới, nói là điều phạm giới.

13- Thuyết giảng điều phạm giới nhẹ, nói là điều phạm giới nặng.

14- Thuyết giảng điều phạm giới nặng, nói là điều phạm giới nhẹ.

15- Thuyết giảng điều phạm giới rồi còn phạm giới nữa, nói là điều phạm giới, rồi không còn phạm giới nữa.

16- Thuyết giảng điều phạm giới rồi không còn phạm giới nữa, nói là điều phạm giới rồi còn phạm giới nữa.

17- Thuyết giảng điều phạm giới trầm trọng, nói là điều phạm giới không trầm trọng.

18- Thuyết giảng điều phạm giới không trầm trọng, nói là điều phạm giới trầm trọng.

- Này Sāriputta! Con nên biết phân biệt tỳ-khưu nói tà-pháp có 18 điều như vậy.

18 điều chánh-pháp

- Này Sāriputta! Con nên biết phân biệt tỳ-khưu nói chánh-pháp có 18 điều như sau:

Tỳ-khưu trong Phật giáo này là người:

1- Thuyết giảng điều tà-pháp, nói là điều tà-pháp.

2- Thuyết giảng điều chánh-pháp, nói là điều chánh-pháp.

3- Thuyết giảng điều sai luật, nói là điều sai luật.

4-Thuyết giảng điều đúng luật, nói là điều đúng luật.

5-Thuyết giảng điều Như-Lai không thuyết giảng, nói là điều Như-Lai không thuyết giảng.

6- Thuyết giảng điều Như-Lai thuyết giảng, nói là điều Như-Lai thuyết giảng.

7- Thuyết giảng điều Như-Lai không thường hành, nói là điều Như-Lai không thường hành.

8- Thuyết giảng điều Như-Lai thường hành, nói là điều Như-Lai thường hành.

9- Thuyết giảng điều Như-Lai không chế định, nói là điều Như-Lai không chế định.

10- Thuyết giảng điều Như-Lai chế định, nói là điều Như-Lai chế định.

11- Thuyết giảng điều phạm giới, nói là điều phạm giới. 12-Thuyết giảng điều không phạm giới, nói là điều không phạm giới.

13- Thuyết giảng điều phạm giới nhẹ, nói là điều phạm giới nhẹ.

14- Thuyết giảng điều phạm giới nặng, nói là điều phạm giới nặng.

15- Thuyết giảng điều phạm giới rồi còn phạm giới nữa, nói là điều phạm giới, rồi còn phạm giới nữa.

16- Thuyết giảng điều phạm giới rồi không còn phạm giới nữa, nói là điều phạm giới rồi không còn phạm giới nữa.

17- Thuyết giảng điều phạm giới trầm trọng, nói là điều phạm giới trầm trọng.

18- Thuyết giảng điều phạm giới không trầm trọng, nói là điều phạm giới không trầm trọng.

- Này Sāriputta! Con nên biết phân biệt tỳ-khưu nói chánh-pháp có 18 điều như vậy.

Tà pháp (Adhamma) đó là:

- 10 bất-thiện-nghiệp hoặc 10 ác-nghiệp.

- 4 pháp-chấp-thủ: Tham-dục chấp-thủ, tà-kiến chấp-thủ, pháp thường-hành chấp-thủ, ngã-kiến chấp-thủ.

- 8 tà-đạo (micchāmagga): Tà-kiến, tà-tư-duy, tà-ngữ, tà-nghiệp, tà-mạng, tà-tinh-tấn, tà-niệm, tà-định.

Tóm lại các ác-pháp đều gọi là tà-pháp (adhamma).

Chánh-pháp (Dhamma) đó là:

- 10 đại-thiện-nghiệp.

- 37 Pháp chứng đắc Thánh-đạo (Bodhipakkhiya-dhamma): 4 pháp-niệm-xứ, 4 pháp-tinh-tấn, 4 pháp-thành-tựu, 5 pháp-chủ, 5 pháp-lực, 7 pháp-giác-chi, 8 pháp-chánh-đạo.

Tóm lại các thiện-pháp đều gọi là chánh-pháp (dhamma).

Tà-pháp hoặc chánh-pháp có tầm quan trọng như thế nào trong Phật-giáo?

* Người nào thuyết tà-pháp, giảng tà-pháp đem lại sự tai hại, sự thoái hóa, sự khổ não lâu dài không chỉ riêng cho người ấy, mà còn cho nhiều người liên quan khác nữa, nhất là làm cho Phật-giáo suy thoái.

* Người nào thuyết chánh-pháp, giảng chánh-pháp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài không chỉ riêng cho người ấy, mà còn cho nhiều người liên quan khác nữa, nhất là làm cho Phật-giáo phát triển.

Như trong Chi-bộ-kinh, phần 1 chi có 2 phần:

-Thuyết-pháp làm cho chánh-pháp suy thoái.

- Thuyết-pháp làm cho chánh-pháp phát triển.

* Thuyết-pháp làm cho chánh-pháp suy thoái như thế nào?

Đức-Phật thuyết dạy rằng:

1-“Ye te bhikkhave, bhikkhū adhammaṃ ‘dhammo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujana-ahitāya paṭi-pannā bahujana asukhāya bahuno janassa anatthāya ahitāya dukkhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū apuññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ antaradhāpentī’ti.”

2-“Ye te bhikkhave, bhikkhū dhammaṃ ‘adhammo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujana ahitāya paṭi-pannā bahujana asukhāya bahuno janassa anatthāya ahitāya dukkhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū apuññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ antaradhāpentī’ti.”

3-“Ye te bhikkhave, bhikkhū avinayaṃ ‘vinayo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujana ahitāya paṭi-pannā bahujana asukhāya bahuno janassa anatthāya ahitāya dukkhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū apuññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ antaradhāpentī’ti.”

4-“Ye te bhikkhave, bhikkhū vinayaṃ ‘avinayo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujana ahitāya paṭi-pannā bahujana asukhāya bahuno janassa anatthāya ahitāya dukkhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū apuññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ antaradhāpentī’ti…”

* Thuyết-pháp làm cho chánh-pháp phát triển như thế nào?

Đức-Phật thuyết dạy rằng:

1-“Ye te bhikkhave, bhikkhū adhammaṃ ‘adhammo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujanahitāya paṭi-pannā bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū puññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ ṭhāpentī’ti.”

2-“Ye te bhikkhave, bhikkhū dhammaṃ ‘dhammo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujanahitāya paṭipannā bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū puññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ ṭhāpentī’ti”.

3-“Ye te bhikkhave, bhikkhū avinayaṃ ‘avinayo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujanahitāya paṭi-pannā bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū puññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ ṭhāpentī’ti.”

4-“Ye te bhikkhave, bhikkhū vinayaṃ ‘vinayo’ti dīpenti, Te bhikkhave, bhikkhū bahujanahitāya paṭi-pannā bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.

Bahuñca te bhikkhave, bhikkhū puññaṃ pasavanti, te cimaṃ saddhammaṃ ṭhāpentī’ti…” [21]

Ý nghĩa

* Thuyết-pháp làm cho chánh-pháp suy thoái như thế nào?

1- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng

điều tà-pháp (adhamma) mà nói là ‘chánh-pháp’(dhamma).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều không đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, không đem lại sự an-lạc cho nhiều người, mà đem lại sự tai hại, sự thoái hóa, sự khổ não đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều tội-lỗi, nhiều ác-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp suy thoái nữa.

2- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều chánh-pháp (dhamma) mà nói là ‘tà-pháp’(adhamma).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều không đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, không đem lại sự an-lạc cho nhiều người, mà đem lại sự tai hại, sự thoái hóa, sự khổ não đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều tội-lỗi, nhiều ác-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp suy thoái nữa.

3- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều sai luật (avinaya) mà nói là ‘đúng luật’ (vinaya).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều không đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, không đem lại sự an-lạc cho nhiều người, mà đem lại sự tai hại, sự thoái hóa, sự khổ não đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều tội-lỗi, nhiều ác-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp suy thoái nữa.

4- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều đúng luật (vinaya) mà nói là ‘sai luật’ (avinaya).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều không đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, không đem lại sự an-lạc cho nhiều người, mà đem lại sự tai hại, sự thoái hóa, sự khổ não đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều tội-lỗi, nhiều ác-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp suy thoái nữa.

Tương tự như trên Đức-Phật thuyết dạy:

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai không thuyết giảng (abhāsitaṃ alapitaṃ Tathāgatena) mà nói là Như-Lai thuyết giảng (bhāsitaṃ lapitaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai thuyết giảng (bhāsitaṃ lapitaṃ Tathāgatena) mà nói là Như-Lai không thuyết giảng (abhāsitaṃ alapitaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai không thường hành (anāciṇṇaṃ Tathā-gatena) mà nói là Như-Lai thường hành (āciṇṇaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai thường hành (āciṇṇaṃ Tathāgatena) mà nói là Như-Lai không thường hành (anāciṇṇaṃ Tathā-gatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai không chế định (apaññattaṃ Tathāgatena) mà nói là Như-Lai chế định (paññattaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai chế định (paññattaṃ Tathāgatena) mà nói là Như-Lai không chế định (apaññattaṃ Tathāgatena)…

-Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều không đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, không đem lại sự an-lạc cho nhiều người, mà đem lại sự tai hại, sự thoái hóa, sự khổ não đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều tội-lỗi, nhiều ác-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp suy thoái nữa.

* Thuyết-pháp làm cho chánh-pháp phát triển như thế nào?

1- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều tà-pháp (adhamma) nói là ‘tà-pháp’ (adhamma).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, đem lại sự an- lạc cho nhiều người, chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều phước-thiện, nhiều thiện-nghiệp, và còn làm cho chánh-pháp được phát triển nữa.

2- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều chánh-pháp (dhamma) nói là ‘chánh-pháp’(dhamma).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, đem lại sự an-lạc cho nhiều người, chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều phước-thiện, nhiều thiện-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp được phát triển nữa.

3- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều sai luật (avinaya) nói là ‘sai luật’ (avinaya).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, đem lại sự an-lạc cho nhiều người, chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến chư-thiên và nhân loại.

-Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều phước-thiện, nhiều thiện-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp được phát triển nữa.

4- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều đúng luật (vinaya) nói là ‘đúng luật’ (vinaya).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, đem lại sự an-lạc cho nhiều người, chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều phước-thiện, nhiều thiện-nghiệp, và còn làm cho chánh-pháp được phát triển nữa.

Tương tự như trên Đức-Phật thuyết dạy:

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai không thuyết giảng (abhāsitaṃ alapitaṃ Tathāgatena) nói là Như-Lai không thuyết giảng (abhāsitaṃ alapitaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai thuyết giảng (bhāsitaṃ lapitaṃ Tathā-gatena) nói là Như-Lai thuyết giảng (bhāsitaṃ lapitaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai không thường hành (anāciṇṇaṃ Tathā-gatena) nói là Như-Lai không thường hành (anāciṇṇaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai thường hành (āciṇṇaṃ Tathāgatena) nói là Như-Lai thường hành (āciṇṇaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai không chế định (apaññattaṃ Tathāgatena) nói là Như-Lai không chế định (apaññattaṃ Tathāgatena).

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu nào thuyết giảng điều Như-Lai chế định (paññattaṃ Tathāgatena) nói là Như-Lai chế định (paññattaṃ Tathāgatena)…

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy đã thuyết những điều đem lại sự tiến hóa cho nhiều người, đem lại sự an-lạc cho nhiều người, chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến chư-thiên và nhân loại.

- Này chư tỳ-khưu! Những tỳ-khưu ấy tích lũy nhiều phước-thiện, nhiều thiện-nghiệp và còn làm cho chánh-pháp được phát triển nữa …

Pháp luật là lời giáo huấn của Đức-Phật

Trong Tạng Luật, bộ Cūḷavagga, Đức-Phật thuyết dạy Đại-đức Tỳ-khưu-ni Mahāpajāpati Gotamī biết phân biệt rõ điều không đúng pháp, điều không đúng luật, điều không đúng lời giáo huấn của Đức-Phật và biết rõ điều đúng pháp, điều đúng luật, điều đúng lời giáo huấn của Đức-Phật.

Không đúng pháp, luật, lời giáo huấn của Đức-Phật

- Này Gotamī! Con nên biết phân biệt pháp nào

* là pháp làm phát sinh tham-ái, không phải diệt tham-ái,

* là pháp ràng buộc trong cảnh khổ, không phải giải thoát khỏi cảnh khổ,

* là pháp chấp-thủ trong tử sinh luân-hồi, không phải giải thoát khổ tử sinh luân-hồi,

* là pháp tham muốn nhiều, không phải tham muốn ít,

* là pháp không biết tri túc, không phải biết tri túc,

* là pháp thích sống chung nhiều người, không phải sống một mình nơi thanh vắng,

* là pháp làm biếng nhác, không phải cố gắng tinh-tấn,

* là pháp sống khó nuôi, không phải sống dễ nuôi.

Như vậy, con nên biết rõ chắc chắn rằng: Những pháp ấy là không đúng pháp, không đúng luật, không đúng lời giáo huấn của Đức-Tôn-sư.

Đúng pháp, luật, lời giáo huấn của Đức-Phật

- Này Gotamī! Con nên biết phân biệt pháp nào

* là pháp diệt tham-ái, không phải làm phát sinh tham-ái.

* là pháp giải thoát khỏi cảnh khổ, không phải ràng buộc trong cảnh khổ.

* là pháp giải thoát khổ tử sinh luân-hồi, không phải chấp-thủ trong tử sinh luân-hồi.

* là pháp tham muốn ít, không phải tham muốn nhiều.

* là pháp biết tri túc, không phải không biết tri túc.

* là pháp sống một mình nơi thanh vắng, không phải thích sống chung nhiều người.

* là pháp cố gắng tinh-tấn, không phải làm biếng nhác.

* là pháp sống dễ nuôi, không phải sống khó nuôi.

Như vậy, con nên biết rõ chắc chắn rằng: Những pháp ấy là đúng pháp, đúng luật, đúng lời giáo huấn của Đức-Tôn-sư [22].

Ngài Trưởng-lão Pháp sư (Dhammakathika)

Ngài Trưởng-lão Pháp-sư không chỉ là Bậc đa-văn túc-trí (bahussuta) học nhiều hiểu rộng, uyên thâm sâu sắc, thông thuộc, thấu suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi thuộc về pháp-học Phật-giáo, mà còn giảng giải rành rẽ về pháp-hành Phật-giáo nữa.

Kinh Dhammakathikasutta [23]

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, một vị tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tỳ-khưu như thế nào được gọi là ‘Dhammakathika, Dhammakathika’ Ngài Trưởng-lão Pháp-sư, Ngài Trưởng-lão Pháp-sư? Bạch Ngài.

Tỳ-khưu như thế nào được gọi là ‘dhammānudham-mappaṭipanno bhikkhu’ tỳ-khưu thực-hành chánh-pháp chứng đắc siêu-tam-giới-pháp? Bạch Ngài.

Tỳ-khưu như thế nào được gọi là ‘diṭṭhadhamma-nibbānappatto bhikkhu’ tỳ-khưu đạt đến Niết-bàn kiếp hiện-tại? Bạch Ngài.

Đức-Phật thuyết dạy rằng:

-Này tỳ-khưu! Nếu tỳ-khưu nào thuyết giảng chánh-pháp để phát sinh tâm nhàm chán, để xa lìa tham-ái, để diệt sắc-uẩn thì nên gọi tỳ-khưu ấy là vị pháp-sư (dhammakathika bhikkhu).

* Nếu tỳ-khưu nào là hành-giả thực-hành chánh-pháp, để phát sinh tâm nhàm chán, để xa lìa tham-ái, để diệt sắc-uẩn thì nên gọi tỳ-khưu ấy là hành-giả thực-hành chánh-pháp chứng đắc siêu-tam-giới-pháp (dham-mānudhammappaṭipanno bhikkhu).

* Nếu tỳ-khưu nào là hành-giả thực-hành chánh-pháp đã hoàn toàn giải thoát, không còn chấp-thủ, bởi vì đã nhàm chán, đã xa lìa tham-ái, đã diệt được sắc-uẩn thì gọi tỳ-khưu ấy là hành-giả đã đạt đến Niết-bàn kiếp hiện-tại (diṭṭhadhammanibbānappatto bhikkhu).

Tương tự như trên,

Nếu tỳ-khưu nào thuyết giảng chánh-pháp để phát sinh tâm nhàm chán, để xa lìa tham ái, để diệt thọ-uẩn, … tưởng-uẩn,… hành-uẩn,… thức-uẩn thì gọi tỳ-khưu ấy là vị pháp-sư (dhammakathika bhikkhu).

* Nếu tỳ-khưu nào là hành-giả thực-hành chánh-pháp, để phát sinh tâm nhàm chán, để xa lìa tham-ái, để diệt thọ-uẩn,… diệt tưởng-uẩn,… diệt hành-uẩn,… diệt thức-uẩn thì gọi tỳ-khưu ấy là hành-giả thực-hành chánh-pháp chứng đắc siêu-tam-giới-pháp (dham-mānudhammappaṭipanno bhikkhu).

* Nếu tỳ-khưu nào là hành-giả thực-hành chánh-pháp, đã hoàn toàn giải thoát, không còn chấp-thủ, bởi vì đã nhàm chán, đã xa lìa tham-ái, đã diệt được thọ-uẩn,… diệt tưởng-uẩn,… diệt hành-uẩn,… diệt thức-uẩn thì gọi tỳ-khưu ấy là hành-giả đã đạt đến Niết-bàn kiếp hiện-tại (diṭṭhadhammanibbānappatto bhikkhu).

Vấn: Nếu có cùng câu hỏi thì bậc Thánh Thanh-văn giải đáp với Đức-Phật giải đáp có khác nhau hay không?

Đáp: Nếu có cùng câu hỏi thì bậc Thánh Thanh-văn giải đáp với Đức-Phật giải đáp về nội dung ý nghĩa hoàn toàn giống nhau từng chữ, từng câu, nhưng chỉ có khác nhau về cách xưng hô mà thôi.

Một Đêm Tốt Lành (Bhaddekaratta)

Thật vậy, một thuở nọ Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Tapodārāma gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Samiddhi đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, ngồi một nơi hợp lẽ, rồi kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài kệ “Bhaddekaratta: Một đêm tốt lành”.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết dạy rằng:

“Atītaṃ nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.

Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ.

Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.

Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vivdā manubrūhaye….

Taṃ ve ‘bhaddekaratto’ti, santo acikkhate mini.” [24]

-Này tỳ-khưu! Hành-giả không nên hồi tưởng đến ngũ-uẩn quá-khứ. Không nên mong ước ngũ-uẩn trong vị-lai.

Ngũ-uẩn nào quá-khứ, ngũ-uẩn ấy đã diệt rồi. Ngũ-uẩn nào vị-lai, ngũ-uẩn ấy chưa sinh.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ thiền-tuệ chỉ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ-uẩn đang sinh hiện-tại là pháp-vô-ngã. Hành-giả tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ chứng ngộ Niết-bàn bất thoái, bất diệt.

Hãy nên cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện-pháp ngay trong ngày hôm nay!

Ai có thể biết được sự chết trong ngày mai? Sự khất với tử thần có đoàn binh hùng hậu không bao giờ được đối với chúng ta.

Tỳ-khưu nên cố gắng tinh-tấn ngày đêm không ngừng, như vậy, gọi là “tỳ-khưu có một đêm tốt lành”.

Sau khi thuyết dạy bài kệ “Một đêm tốt lành, Bhaddekaratta” như vậy, Đức-Thế-Tôn đứng dậy rời chỗ ngồi ngự vào cốc gandhakuṭi.

Chư tỳ-khưu bàn thảo

Sau khi Đức-Thế-Tôn ngự vào cốc gandhakuṭi, chư tỳ-khưu bàn thảo với nhau rằng:

-Này chư pháp-hữu! Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài kệ “Bhaddekaratta: Một đêm tốt lành” các đầu đề tóm tắt với chúng ta, mà chưa khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc các đầu đề của bài kệ ấy, rồi Đức-Thế-Tôn đứng dậy ngự vào cốc gandhakuṭi.

Vậy, Ngài Trưởng-lão nào có khả năng khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ này.

Khi ấy, chư tỳ-khưu có ý kiến rằng: “Ngài Trưởng-lão Mahākaccāna mà Đức-Thế-Tôn cùng chư pháp-hữu đồng phạm hạnh thiện-trí đều tán dương ca tụng tài đức của Ngài Trưởng-lão.

Chắc chắn, Ngài Trưởng-lão Mahākaccāna có khả năng khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ này.

Vậy, chúng ta cùng nhau đi đến tìm Ngài Trưởng-lão Mahākaccāna.”

Chư tỳ-khưu cùng nhau dẫn đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Mahākaccāna, rồi bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài kệ “Bhaddekaratta: Một đêm tốt lành” rằng:

“Atītaṃ nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ. Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ…”

Sau khi thuyết dạy xong bài kệ mà chưa khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc các đầu đề của bài kệ ấy, Đức-Thế-Tôn đứng dậy ngự vào cốc gandhakuṭi.

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng tôi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ ấy.

Nghe chư tỳ-khưu bạch như vậy, Ngài Trưởng-lão Mahākaccāna thưa rằng:

- Thưa quý vị! Ví như người đi tìm lõi cây, tìm gặp cây lớn có lõi, người ấy bỏ qua thân cây và rễ, mà tìm lõi cây ở nơi cành cây và lá, như thế nào.

Quý vị cũng như thế ấy, khi Đức-Thế-Tôn đang hiện hữu thì quý vị không kính thỉnh Đức-Thế-Tôn khai triển giảng giải, mà lại đến hỏi tôi.

Chư tỳ-khưu tha thiết khẩn khoản, Ngài Trưởng-lão Mahākaccāna hoan-hỷ khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ ấy.

Sau khi nghe Ngài Trưởng-lão Mahākaccāna giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ ấy xong, chư tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi kính bạch Đức-Thế-Tôn rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Trưởng-lão Mahākaccāna giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ “Bhaddekaratta: Một đêm tốt lành” cho các con nghe với lời lẽ như vậy, với chữ như vậy, với câu như vậy.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

“Paṇḍito bhikkhave, Mahākaccāno, mahāpañño bhikkhave, Mahākaccāno, maṃ cepi tumhe bhikkhave, etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ. Yathā taṃ Mahākaccānena byākataṃ, eso cevetassa attho, evañca naṃ dhāretha.”[25]

“-Này chư tỳ-khưu! Mahākaccāna là bậc thiện-trí.

- Này chư tỳ-khưu! Mahākaccāna là bậc đại-trí-tuệ.

- Này chư tỳ-khưu! Nếu các con bạch hỏi, thỉnh cầu Như-Lai giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ ấy, thì Như-Lai cũng giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài kệ ấy giống như Mahākaccāna vậy.

Mahākaccāna giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề ấy, đó là ý nghĩa của các đầu đề ấy. Các con nên ghi nhớ rõ như vậy.”

Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, chư tỳ-khưu vô cùng hoan-hỷ nghe theo lời dạy của Đức-Thế-Tôn.

Tận cùng pháp-hành cấu tạo

Đức-Thế-Tôn thuyết dạy chư tỳ-khưu rằng:

“Nāhaṃ bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ daṭṭheyyaṃ pattheyyan’ti vadāmi.

Na ca bhikkhave appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmi…” [26]

“-Này chư tỳ-khưu! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Chúng-sinh có khả năng biết, thấy, đạt đến tận cùng toàn pháp-hành saṅkhāraloka (tất cả các pháp đều do nhân-duyên cấu tạo) bằng sự đi tìm.”

-Này chư tỳ-khưu! Như-lai chưa đạt đến tận cùng của toàn pháp-hành saṅkhāraloka, Như-lai không thuyết dạy các con thực-hành pháp-hành dẫn đến, đạt đến tận cùng sự khổ-đế trong tam-giới.”

Sau khi truyền dạy như vậy, Đức-Thế-Tôn đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi, ngự vào cốc gandhakuṭi.

Sau khi Đức-Thế-Tôn ngự vào cốc gandhakuṭi, chư tỳ-khưu bàn thảo với nhau rằng:

-Này chư pháp-hữu! Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài pháp đầu đề tóm tắt cho chúng ta, mà chưa khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc các đầu đề của bài pháp ấy, rồi Đức-Thế-Tôn đứng dậy ngự vào cốc gandhakuṭi.

Vậy, Ngài Trưởng-lão nào có khả năng giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy.

Khi ấy, nhóm tỳ-khưu có ý kiến rằng: “Ngài Trưởng-lão Ānanda mà Đức-Thế-Tôn cùng chư pháp-hữu đồng phạm hạnh thiện-trí đều tán dương ca tụng tài đức Ngài Trưởng-lão.

Chắc chắn, Ngài Trưởng-lão Ānanda có khả năng giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy.

Vậy, chúng ta cùng nhau đi đến tìm Ngài Trưởng-lão Ānanda.”

Nhóm tỳ-khưu đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Ānanda, rồi bạch với Ngài rằng:

-Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài pháp rằng:

“Nāhaṃ bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ daṭṭheyyaṃ pattheyyan’ti vadāmi.

Na ca bhikkhave appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmi…”

“-Này chư tỳ-khưu! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Chúng-sinh có khả năng biết, thấy, đạt đến tận cùng toàn pháp-hành saṅkhāraloka: do nhân-duyên cấu tạo bằng sự đi tìm.”

- Này chư tỳ-khưu! Như-lai chưa đạt đến tận cùng của toàn pháp-hành saṅkhāraloka, Như-lai không thuyết dạy các con thực-hành pháp-hành dẫn đến, đạt đến tận cùng sự khổ-đế trong tam-giới.”

Sau khi truyền dạy như vậy, Đức-Thế-Tôn đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi, ngự vào cốc gandhakuṭi.

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng tôi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy.

Nghe nhóm tỳ-khưu bạch như vậy, Ngài Trưởng-lão Ānanda thưa rằng:

- Thưa quý vị! Ví như người đi tìm lõi cây, tìm gặp cây lớn có lõi, người ấy bỏ qua thân cây và rễ, mà tìm lõi cây ở nơi cành cây và lá, như thế nào.

Quý vị cũng như thế ấy, khi Đức-Thế-Tôn đang hiện hữu thì quý vị không kính thỉnh Ngài giảng giải khai triển giảng giải, mà lại đến hỏi tôi.

Nhóm tỳ-khưu tha thiết khẩn khoản, Ngài Trưởng-lão Ānanda hoan-hỷ giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy.

Sau khi nghe Ngài Trưởng-lão Ānanda giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy xong, Ngài Trưởng-lão Ānanda khuyên nhóm tỳ-khưu ấy rằng:

-Thưa quý vị! Muốn hiểu rõ ràng hơn, xin quý vị nên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch hỏi lại câu hỏi ấy, Đức-Thế-Tôn giảng giải như thế nào, xin quý vị ghi nhớ như thế ấy.

Theo sự hướng dẫn của Ngài Trưởng-lão Ānanda, nhóm tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi kính bạch Đức-Thế-Tôn rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Đức-Thế-Tôn đã thuyết dạy bài pháp ấy rằng:

“Nāhaṃ bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ daṭṭheyyaṃ pattheyyan’ti vadāmi.

Na ca bhikkhave appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmi…”

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sau khi truyền dạy như vậy, Đức-Thế-Tôn đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi, ngự vào cốc gandhakuṭi.

Chúng con không hiểu rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy, nên chúng con cùng nhau đi đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Ānanda, kính xin Ngài Trưởng-lão giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của các đầu đề tóm tắt của bài pháp cho các con nghe với lời lẽ như vậy, với chữ như vậy, với câu như vậy.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

“Paṇḍito bhikkhave! Ānando, mahāpañño bhikkhave, Ānando, maṃ cepi tumhe bhikkhave, etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ.

Yathā taṃ Ānandena byākataṃ, eso cevetassa attho, evañca naṃ dhāreyyātha.” [27]

“-Này chư tỳ-khưu! Ānanda là bậc thiện-trí.

- Này chư tỳ-khưu! Ānanda là bậc đại-trí-tuệ.

- Này chư tỳ-khưu! Nếu các con bạch hỏi, thỉnh cầu Như-Lai giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy, thì Như-Lai cũng giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của đầu đề tóm tắt của bài pháp ấy giống như Ānanda vậy.

Như Ānanda giảng giải khai triển rõ ý nghĩa sâu sắc của vấn đề ấy, đó là ý nghĩa của vấn đề ấy. Các con nên ghi nhớ rõ như vậy.”

Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, chư tỳ-khưu vô cùng hoan-hỷ nghe theo lời dạy của Đức-Thế-Tôn.

Vấn đáp chánh-pháp

Cuộc vấn đáp chánh-pháp giữa cận-sự-nam Visakha bậc Thánh Bất-lai với Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhammadinnā bậc Thánh A-ra-hán [28] trong bài kinh Cūḷavedallasutta [29] được tóm lược phần chính như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy, cận-sự-nam Visakha đến đảnh lễ Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhamma-dinnā, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.

Cận-sự-nam Visakha hỏi Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhammadinnā những câu hỏi sâu sắc về các pháp, thì Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni đều giải đáp rõ ràng làm cho cận-sự-nam Visakha vô cùng hoan-hỷ theo lời giải đáp của Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni.

Khi ấy, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhammadinnā tác động, khuyến khích cận-sự-nam Visakha rằng:

-Này cận-sự-nam Visakha! Ông nên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch hỏi lại những câu hỏi ấy.

Khi Đức-Thế-Tôn truyền dạy như thế nào, thì ông nên ghi nhớ như thế ấy.

Cận-sự-nam Visakha đảnh lễ Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhammadinnā, xin phép đi đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.

Cận-sự-nam Visakha kính bạch lại Đức-Thế-Tôn toàn cuộc vấn đáp giữa ông với Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhammadinnā từ đầu đến cuối.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

“-Paṇḍitā Visakha, Dhammadinnā bhikkhunī, mahā-paññā Visakha, Dhammadinnā bhikkhunī. Maṃ cepi tvaṃ Visakha, etamatthaṃ puccheyyāsi, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ, yathā taṃ Dhammadinnāya bhikkhuniyā byākataṃ, eso cevetassa attho, evañca naṃ dhārehi.”

“-Này Visakha! Dhammadinnā bhikkhunī là bậc thiện-trí.

-Này Visakha! Dhammadinnā bhikkhunī là bậc đại-trí-tuệ.

-Này Visakha! nếu con bạch hỏi Như-Lai những câu hỏi ấy thì Như-Lai cũng giải đáp giống như tỳ-khưu-ni Dhammadinnā vậy.

Tỳ-khưu-ni Dhammadinnā giải đáp những câu hỏi ấy, đó là ý nghĩa của câu hỏi. Con nên ghi nhớ như vậy.”

Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, cận-sự-nam Visakha vô cùng hoan-hỷ nghe theo lời dạy của Đức-Thế-Tôn.

Phước-thiện thuyết-pháp là thuyết giảng những pháp mà Đức-Phật đã thuyết giảng, những luật mà Đức-Phật đã chế định, rồi ban hành.

* Như Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa tụng đọc tạng Kinh, phần aṭṭhakavagga từng chữ từng câu đúng đắn rõ ràng với giọng rất hay.

Khi Ngài Trưởng-lão Soṇa tụng xong, Đức-Thế-Tôn hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay!Lành thay!

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

“Suggahito te bhikkhu, dhammo, mayā desitakāle ca ajja ca ekasadisāva desanā, kiñci ūnaṃ vā adhikaṃ vā natthi.” (Aṅg. Soṇakuṭikaṇṇattheravatthu)

-Này tỳ-khưu! Chánh-pháp mà con đã học, ghi nhớ đúng đắn, Như-Lai đã thuyết dạy trong thời gian trước đây và ngày nay giống như một, không thiếu không dư.

* Bậc Thánh Thanh-văn, hoặc cận-sự-nam, cận-sự-nữ, hoặc chư-thiên,… có khả năng thuyết giảng những pháp nào, những pháp ấy chỉ khi nào được Đức-Phật xác nhận, thì những pháp ấy mới được xem là chánh-pháp đáng ghi nhớ mà thôi.

Những bài kinh trên được trích dẫn làm ví dụ, nên tìm đọc đầy đủ trong các bộ kinh như sau:

* Kinh Mahākaccānabhaddekarattasutta trong Trung-bộ-kinh, phần Uparipaṇṇāsapāḷi.

* Kinh Lokantagamanasutta trong Đồng-loại-bộ-kinh, phần Saḷāyatanavaggasaṃyuttapāḷi.

* Kinh Cūḷavedallasutta trong Trung-bộ-kinh, phần Mūlapaṇṇāsapāḷi.

Phước-thiện thuyết-pháp là phước-thiện được phát sinh do thuyết giảng những chánh-pháp của Đức-Phật được trích dẫn từ trong Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Bậc thiện-trí có khả năng thông thuộc những bài kinh, những chánh-pháp của Đức-Phật, hiểu biết rõ ý nghĩa những chánh-pháp ấy rồi đem ra thuyết giảng cho nhiều người nghe chánh-pháp ấy.

Sau khi hiểu biết rõ đúng theo chánh-pháp, người nghe mới có thể thực-hành đúng theo chánh-pháp của Đức-Phật, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi hạng thanh-văn đệ-tử.

(Xong phần phước-thiện thuyết-pháp)



[1] Dī. Mahāvaggapāḷi, kinh Mahāparinibbānasuttapāḷi.

[2] Vinayapiṭaka, bộ Mahāvagga, phần Sāriputtamoggallāna pabhajjākathā.

[3] Khuddkanikāya, Vimānavatthu, tích Maṇḍūkadevaputtavimānavatthu.

[4] 3 tháng ở cõi người, thời gian trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên khoảng 3 phút 36 giây, bởi vì 1 ngày 1 đêm cõi trời này, bằng 100 năm ở cõi người.

[5] Saṃ. Mahāvaggasaṃyuttapāḷi, Sotāpattiphalasutta.

[6] Bộ Aṅg. Phần Pañcakanipāta, Dhammassavanasutta.

[7] Maj. Mūlapaṇṇāsapāḷi, Rathavinītasutta.

[8] M. Mūlapaṇṇāsaṭṭhakathā, Rathavinītasuttavaṇṇanā.

[9] Aṅguttaranikāya, Ekakanipātaṭṭhakathā, Soṇakuṭikaṇṇatthera.

[10] Từ thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara đến Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian thời gian khoảng cách 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

[11] Aṅguttaranikāya Ekakanipātaṭṭhakathā, Soṇakuṭikaṇṇattheravatthu.

[12] Saṃyuttanikāya, phần Mahāvaggapāḷi, Paṭhamagilānasutta.

[13] Saṃyuttanikāya, Phần Mahāvaggapāḷi, Paṭhamagilānasutta.

[14] Saṃyuttanikāya, phần Mahāvaggapāḷi, Tatiyagilānasutta.

[15] Xem quyển “Bài Kinh Cho Người Bệnh” phần giảng giải 7 pháp giác-chi, cùng soạn giả.

[16] Dhammapadaṭṭhakathā, tích Dhammika upāsakavatthu.

[17] Maj. Uparipaṇṇāsapāḷi, kinh Anāthapiṇḍikovādasutta.

[18] Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kapilamacchavatthu.

[19] Thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 20 ngàn năm, trong cùng Bhaddakappa kiếp trái đất này.

[20] Vinayapiṭaka. Bộ Mahāvaggapāḷi, xem quyển “Giáo Pháp”, cùng soạn giả.

[21] Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta, Dutiyapamādādivagga.

[22] Vinayapiṭka, Cūḷavaggapāli, Paṭhamabhāṇavāra.

[23] Saṃyuttanikāya, phần Khandhavagga, Dhammakathikasutta.

[24] M. Uparipaṇṇāsapāḷi, Mahākaccānabhaddekarattasutta.

[25] M. Uparipaṇnāsapāḷi, Mahākaccānabhaddekarattasutta.

[26] Saṃ. Saḷāyatanavaggasaṃyuttapāḷi, Lokantagamanasutta.

[27] Saṃ. Saḷāyatanavaggasaṃyuttapāḷi, Lokantagamanasutta.

[28] Trước khi trở thành Đại-đức Tỳ-khưu-ni, bà Dhammadinnā vốn là phu nhân của cận-sự-nam Visakha.

[29] M. Mūlapaṇṇāsapāḷi, Cūḷavedallasutta.


Mục lục quyển 5 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07


Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10


[Đầu trang][Mục lục tổng quát]