NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN V
PHƯỚC THIỆN
(PUÑÑA-KUSALA)
X- PHƯỚC-THIỆN CHÁNH-KIẾN (Diṭṭhijukamma)
“Diṭṭhiyā ujukaraṇaṃ: diṭṭhijukammaṃ.”
Trí-tuệ hiểu biết chính-trực bằng chánh-kiến gọi là diṭṭhijukamma.
Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến đó là kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp thấy đúng, biết đúng, tin chắc chắn mỗi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình với tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nên gọi là phước-thiện chánh-kiến sở-nghiệp.
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.” [1]
Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.
Như vậy, mỗi người nói riêng, tất cả mọi chúng-sinh nói chung chỉ có thiện-nghiệp và ác-nghiệp là của riêng thật sự của mình mà thôi.
Thật vậy, nếu người nào khi đại-thiện-nghiệp bố-thí nào có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy thì người ấy được giàu sang phú quý, v.v… cuộc sống đầy đủ sung túc hạnh phúc an-lạc, đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy, thì tất cả của cải tài sản, đất đai, sự nghiệp, v.v… không thể giữ gìn được nữa, bởi vì không phải là của riêng mình.
Tất cả 4 loài chúng-sinh dù lớn dù nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới này, đều bị chi phối do nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh mà thôi. Ngoài nghiệp và quả của nghiệp ra, mỗi chúng-sinh hoàn toàn không tuỳ thuộc vào quyền năng của một ai cả, cho nên không có định-mệnh an bài hoặc số-mệnh an bài của mỗi chúng-sinh.
Giả sử, nếu mỗi chúng-sinh trong 4 loài dù lớn, dù nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới, có mỗi định-mệnh hoặc mỗi số-mệnh của mỗi chúng-sinh, thì thử hỏi ai có khả năng định sẵn, an bài mỗi định-mệnh hoặc mỗi số-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn, hoặc nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới này được ???
Như vậy, chắc chắn không có định-mệnh an bài hoặc số-mệnh an bài của mỗi chúng-sinh, mà chỉ có nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh mà thôi.
Cho nên, người thiện-trí có trí-tuệ hiểu biết đúng như vậy gọi là kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp hiểu biết đúng, tin tưởng mỗi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình, gọi là diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Diṭṭhi: có nghĩa chánh-kiến (sammādiṭṭhi). Ujukamma: có nghĩa trí-tuệ hiểu biết đúng chính-trực.
Diṭṭhijukamma: Trí-tuệ hiểu biết chính-trực đúng đắn bằng chánh-kiến đó là kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp thấy đúng, biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình.
Trí-tuệ làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sam-mādiṭṭhi có 3 loại:
1- Sutamayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do nghe, học hỏi chánh-pháp, đọc sách nghiên cứu về chánh-pháp của Đức-Phật làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sammādiṭṭhi.
2- Cintāmayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do suy xét đúng đắn, tư duy đúng do nương nhờ nơi trí-tuệ nghe, học hỏi chánh-pháp, đọc sách nghiên cứu về chánh-pháp của Đức-Phật làm nền tảng, để có trí-tuệ suy xét đúng, tư duy sâu sắc về sự hiện hữu của mỗi chúng-sinh khác nhau trong đời đều do nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh khác nhau làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sammādiṭṭhi.
3- Bhāvanāmayapaññā: Trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh do pháp-hành do nương nhờ nơi sutamayapaññā và cintā-mayapaññā làm nền tảng, để hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, cho nên, trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sammādiṭṭhi.
Như vậy, 3 loại trí-tuệ này làm nhân phát sinh kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp thấy đúng, biết đúng sự thật, tin tưởng mỗi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình, nên có 10 điều chánh-kiến gọi là“sammādiṭṭhika dasavatthu” để có diṭṭhijukamma-kusala: phước-thiện chánh-kiến.
Sammādiṭṭhika dasavatthu: 10 điều chánh-kiến:
1- Atthi dinnaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: phước-thiện bố-thí sẽ có quả tốt, an-lạc.
2- Atthi yiṭṭhaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: phước-thiện cúng dường sẽ có quả tốt, an-lạc.
3- Atthi hutaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: phước-thiện cúng dường, đón rước, sẽ có quả tốt, an-lạc.
4- Atthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: đã tạo đại-thiện-nghiệp, ác-nghiệp, rồi có quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp, có quả khổ của ác-nghiệp.
5- Atthi ayaṃ loko: Chánh-kiến biết đúng rằng: có cõi-giới này, nghĩa là có chúng-sinh tái-sinh đến cõi đời này.
6- Atthi paro loko: Chánh-kiến biết đúng rằng: có cõi-giới khác, nghĩa là chúng-sinh sau khi chết, nghiệp của họ cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi khác.
7- Atthi mātā: Chánh-kiến biết đúng rằng: đối xử tốt, đối xử xấu với mẹ sẽ có quả tốt, quả xấu.
8- Atthi pitā: Chánh-kiến biết đúng rằng: đối xử tốt, đối xử xấu với cha sẽ có quả tốt, quả xấu.
9- Atthi sattā opapātikā: Chánh-kiến biết đúng rằng: có các loài chúng-sinh hóa-sinh to lớn ngay tức thì như chư-thiên cõi dục-giới, chư phạm-thiên cõi sắc-giới, chư phạm-thiên cõi vô-sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.
10- Atthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammā-paṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Chánh-kiến biết đúng rằng: trong đời này, có các Sa-môn, Bà-la-môn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, các bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần thông.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi-giới này, cõi-giới khác, rồi thuyết giảng là điều có thật.
Nếu trường hợp xem xét thấy mình chưa đầy đủ trọn vẹn 10 điều chánh-kiến này thì biết mình là người chưa có đủ diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Trong đời này, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, muốn tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường đến chư tỳ-khưu, nhưng không học hỏi hiểu biết nhiều chánh-pháp của Đức-Phật, nên người ấy tạo được phước-thiện bố-thí ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, bởi vì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy không có sutamayapaññā (trí-tuệ phát sinh do nghe chánh-pháp), cũng không có cintā-mayapaññā (trí-tuệ phát sinh do suy xét đúng đắn về chánh-pháp), bởi vì thiếu diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Người nào có được đầy đủ 10 điều chánh-kiến thì người ấy có được kammassakatāsammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, nên có diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Ví dụ như ươm hạt giống cây Bồ-đề nhỏ, lên thành cây Bồ-đề to lớn.
Nếu người nào không có được đầy đủ 10 điều chánh-kiến này thì người ấy cũng không có kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, nên không có diṭṭhiju-kammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Ví dụ như cây Bồ-đề to lớn có hạt Bồ-đề nhỏ.
Diṭṭhijukamma trong 3 thời-kỳ
- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā.
- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā.
- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā.
1- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā là tác-ý thiện-tâm trước khi có được diṭṭhijukamma như thế nào?
“Ta nên theo học pháp-học Phật-giáo và nên thực-hành pháp-hành Phật-giáo để có được kammassakatā sammādiṭṭhi chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, sẽ có được phước-thiện chánh-kiến thấy đúng chính trực trong giáo-pháp của Đức-Phật.”
Đó là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm.
2- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā là tác-ý thiện-tâm đang khi có được diṭṭhijukamma như thế nào?
Sau khi suy nghĩ như vậy, người ấy quyết tâm tinh-tấn theo học pháp-học Phật-giáo, hiểu biết đúng đắn phần pháp-học Phật-giáo, rồi tiếp theo thực-hành pháp-hành Phật-giáo, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp, nên có được phước-thiện chánh-kiến biết đúng chính trực trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Đó là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
3- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā là tác-ý thiện-tâm sau khi đã có được diṭṭhijukamma như thế nào?
“Trước đây, ta chưa hiểu biết rõ pháp-học Phật-giáo và chưa thực-hành pháp-hành Phật-giáo, nên thấy sai, biết sai giáo-pháp của Đức-Phật.
Nay, ta đã học pháp-học Phật-giáo và thực-hành pháp-hành Phật-giáo nên có được đầy đủ trọn vẹn 10 điều chánh-kiến biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình.”
Đó là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa giảng giải trong bộ Aṭṭhasālinī aṭṭhakathā phần puññakriyā-vatthādikathā rằng:
1- Diṭṭhiṃ ujukaṃ karissāmī’ti cintentopi tesaṃ yeva aṭṭhānaṃ aññatarena cinteti.
Người nào suy nghĩ rằng: Ta sẽ làm cho trí-tuệ phát sinh thấy đúng chính trực theo giáo-pháp của Đức-Phật, người ấy suy nghĩ với đại-thiện-tâm nào trong 8 dục-giới thiện-tâm như vậy, gọi là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā.
2- Diṭṭhiṃ ujukaṃ karonto pana catunnaṃ ñāṇa-sampayuttānaṃ aññatarena karoti.
Người nào đang thực-hành để cho trí-tuệ phát sinh thấy đúng chính trực theo giáo-pháp của Đức-Phật, bằng cách theo học pháp-học Phật-giáo và theo thực-hành pháp-hành Phật-giáo, người ấy đang thực-hành như vậy, với đại-thiện-tâm nào trong 4 dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ như vậy, gọi là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā.
3- Diṭṭhiṃ me ujukā katā’ti paccavekkhanto aṭṭhānaṃ aññatarena paccavekkhati”.
Người nào quán triệt trong phước-thiện chánh-kiến của mình rằng: Ta đã có trí-tuệ thấy đúng chính trực theo pháp-học Phật-giáo và pháp-hành Phật-giáo, người ấy đã quán triệt với đại-thiện-tâm nào trong 8 dục-giới thiện-tâm như vậy, gọi là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā.
Chánh-kiến có 5 loại:
1- Kammassakatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của riêng mình.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến thiền-tuệ.
3- Magga sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ.
4- Phala sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-quả-tuệ.
5-Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, phiền-não đã diệt tận, phiền-não chưa diệt tận.
Năm loại chánh-kiến này, trong Puññakriyāvatthu điều thứ 10 diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến chỉ đề cập đến kammassakatā sammādiṭṭhi mà thôi.
Micchādiṭṭhi: Tà-kiến
Thật ra, trong phần puññakriyāvatthu không có đề cập đến micchādiṭṭhi: tà-kiến.
Để biết tính chất khác biệt giữa chánh-kiến với tà-kiến, nên trình bày thêm phần micchādiṭṭhi: tà-kiến này.
Tà-kiến là gì?
Micchā passatī’ti micchādiṭṭhi.
Trạng-thái thấy sai sự thật gọi là tà-kiến, đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
Tà-kiến có nhiều loại, trong kinh Brahmajālasutta có 62 loại tà-kiến và kinh Sāmaññaphalasutta [2] có 3 loại tà-kiến cố-định. Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhikathā có 20 loại tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ.
Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 uẩn là:
1- Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp thuộc về sắc-pháp.
2 -Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm
3- Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
4- Hành-uẩn chấp-thủ gồm có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
5-Thức-uẩn chấp-thủ gồm có 81 tam-giới-tâm.
(Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-uẩn.)
Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhikathā trình bày tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn có 20 loại.
* Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta (ngã).
1-Tà-kiến chấp ngã trong sắc-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Sắc-uẩn là ta. -Ta có sắc-uẩn.
- Sắc-uẩn trong ta. -Ta trong sắc-uẩn.
2- Tà-kiến chấp ngã trong thọ-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Thọ-uẩn là ta. -Ta có thọ-uẩn.
- Thọ-uẩn trong ta. -Ta trong thọ-uẩn.
3- Tà-kiến chấp ngã trong tưởng-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Tưởng-uẩn là ta. -Ta có tưởng-uẩn.
- Tưởng-uẩn trong ta. -Ta trong tưởng-uẩn.
4- Tà-kiến chấp ngã trong hành-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Hành-uẩn là ta. -Ta có hành-uẩn.
- Hành-uẩn trong ta. -Ta trong hành-uẩn.
5- Tà-kiến chấp ngã trong thức-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Thức-uẩn là ta. -Ta có thức-uẩn.
- Thức-uẩn trong ta. -Ta trong thức-uẩn.
Đó là 20 loại tà-kiến chấp-ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ đối với tất cả các hàng chúng-sinh thuộc về hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) trong tam-giới.
- Tất cả chúng sinh có ngũ-uẩn trong 11 cõi dục-giới.
- Tất cả phạm-thiên có ngũ-uẩn trong 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên).
- Tất cả phạm-thiên có nhất-uẩn là sắc-uẩn trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên.
- Tất cả phạm-thiên có tứ-uẩn là thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta này có ảnh hưởng thế nào đối với mọi chúng-sinh?
Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
Cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta không cản trở dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới; không cản trở sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên; không cản trở vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn cản trở pháp-hành thiền-tuệ
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta, ngã này chỉ có cản trở đối với các hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà thôi, bởi vì đối-tượng thiền-tuệ có ngũ-uẩn chấp-thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp rõ ràng đều là pháp-vô-ngã, không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh,… nhưng tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, chúng-sinh, v.v… cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ làm cản trở đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
* Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ
1- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Sắc-uẩn chấp-thủ đó là thân gồm có 28 sắc-pháp:
-Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nam gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nữ-tính).
-Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nữ gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nam-tính).
Ví dụ: Khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, …Đúng theo sự-thật của chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca) thì chỉ có thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm mà thôi.
Thân thuộc về sắc-uẩn (sắc-pháp), nên gọi là sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm mà thôi.
-Nếu khi thân đi hoặc sắc đi thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.
Ta đi vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có sắc đi mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta đi là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã (ta) vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi thuộc về sắc-uẩn đó là sắc-pháp cho là ta đi.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 danh-uẩn) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
- Khi thân đứng hoặc sắc đứng, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đứng cho là ta đứng nữa.
- Khi thân ngồi hoặc sắc ngồi, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc ngồi cho là ta ngồi nữa.
- Khi thân nằm hoặc sắc nằm, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc nằm cho là ta nằm nữa…
2- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở (vedanācetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Thọ tâm-sở có trạng-thái cảm thọ trong đối-tượng, có 3 loại thọ:
- Dukkhavedanā: thọ khổ là cảm thọ khổ khó chịu trong đối-tượng xấu.
- Sukhavedanā: thọ lạc là cảm thọ lạc dễ chịu trong đối-tượng tốt.
- Adukkhamasukhavedanā: thọ không khổ không lạc là cảm thọ không khổ không lạc trong đối-tượng không xấu không tốt.
Ba loại thọ này là thọ-uẩn thuộc về danh-pháp.
- Nếu khi cảm thọ khổ (dukkhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ khổ cho là ta khổ.
- Nếu khi cảm thọ lạc (sukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ lạc cho là ta an-lạc.
- Nếu khi cảm thọ không khổ không lạc (adukkha-masukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ không khổ không lạc cho là ta không khổ không lạc.
Ta khổ, ta an-lạc,… vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có thọ-uẩn cảm thọ mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta khổ, ta an-lạc,… là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta khổ, ta an-lạc,…
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta khổ, ta an-lạc, …
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
3- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở (saññā-cetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
Tưởng tâm-sở có trạng-thái tưởng nhớ trong 6 đối-tượng đó là:
- Rūpasaññā: sắc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng sắc.
-Saddasaññā: tưởng thanh là tưởng nhớ đối-tượng âm-thanh.
-Gandhasaññā: hương tưởng là tưởng nhớ đối-tượng hương.
-Rasasaññā: vị tưởng là tưởng nhớ đối-tượng vị.
-Phoṭṭhabbasaññā: xúc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng xúc.
-Dhammasaññā: pháp tưởng là tưởng nhớ đối-tượng các pháp.
Sáu loại tưởng này là tưởng-uẩn thuộc về danh-pháp.
- Nếu khi tưởng nhớ đến đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc tưởng cho là ta tưởng sắc.
Ta tưởng sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có tưởng-uẩn mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tưởng là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta tưởng.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tưởng.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
4- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (cetasika) (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Trong 50 tâm-sở có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) dẫn đầu tạo thiện-nghiệp hoặc tạo ác-nghiệp.
- Nếu khi tạo thiện-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp.
- Nếu khi tạo ác-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo ác-nghiệp.
Ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,… vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) thì chỉ có hành-uẩn tạo thiện-nghiệp, tạo ác-nghiệp mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp… là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp, …
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp, mọi sắc-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,…
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
5- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm chia ra 6 loại thức-tâm:
- Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm có 2 tâm.
- Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm có 2 tâm.
- Ghānaviññāṇa: tỷ-thức-tâm có 2 tâm.
- Jivhāviññāṇa: thiệt-thức-tâm có 2 tâm.
- Kāyaviññāṇa: thân-thức-tâm có 2 tâm.
- Manoviññāṇa: ý-thức-tâm có 71 tâm.
Sáu loại tâm này gọi là thức-uẩn thuộc về danh-pháp.
-Nếu khi nhãn-thức-tâm có phận-sự thấy đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm cho là ta thấy sắc.
Ta thấy sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có nhãn-thức-tâm thấy sắc mà thôi, nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta thấy sắc là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn cho là ta thấy sắc.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta thấy sắc.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
- Nếu khi nhĩ-thức-tâm nghe âm-thanh, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhĩ-thức-tâm cho là ta nghe âm-thanh nữa.
- Nếu khi tỷ-thức-tâm ngửi mùi hương, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tỷ-thức-tâm cho là ta ngửi mùi hương nữa.
- Nếu khi thiệt-thức-tâm nếm vị, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thiệt-thức-tâm cho là ta nếm vị nữa.
- Nếu khi thân-thức-tâm xúc-giác cứng mềm,… thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thân-thức-tâm cho là ta xúc-giác cứng mềm nữa.
- Nếu khi ý-thức-tâm biết các pháp, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi ý-thức-tâm cho là ta biết các pháp nữa.
* Niyatamicchādiṭṭhi: tà-kiến cố-định là tà-kiến chấp-thủ cố-định, không thay đổi.
- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến.
- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến.
- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến.
1-Vô-quả tà-kiến như thế nào?
Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến cố-định là tà kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp”.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Người đã tạo ác-nghiệp hoặc đã tạo thiện-nghiệp rồi đều không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp.
Tất cả chúng-sinh chết rồi là hết, không có nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau.”
Vô-quả tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn-kiến
(ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta [3] vị Đạo-sư ngoại-đạo Ajitakesakambala có tà thuyết natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng:“không có quả của nghiệp” như sau:
1- Natthi dinnaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước thiện bố thí không có quả tốt, an-lạc.
2- Natthi yiṭṭhaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường không có quả tốt, an-lạc.
3- Natthi hutaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường, đón rước cũng không có quả tốt, an-lạc.
4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp, không có quả khổ của ác-nghiệp.
5- Natthi ayaṃ loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới này nghĩa là không có chúng-sinh tái-sinh đến cõi-giới này.
6- Natthi paro loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới khác nghĩa là chúng-sinh chết rồi là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.
7- Natthi mātā: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với mẹ của mình không có quả tốt, quả xấu.
8- Natthi pitā: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với cha của mình không có quả tốt, quả xấu.
9- Natthi sattā opapātikā: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa sinh to lớn ngay tức thì như chư-thiên cõi dục-giới, chư phạm-thiên cõi sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.
10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sam-māpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, các bậc thiền vô-sắc, chứng đắc các phép thần-thông; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi-giới này, các cõi-giới khác.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của ác-nghiệp, quả của thiện-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân là ác-nghiệp, thiện-nghiệp.
2- Vô-nhân tà-kiến như thế nào?
Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp”.
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc, không có ác-nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp”.
Như vậy, người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện-nghiệp, không do quả của ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời-kỳ được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta[4] vị Đạo-sư ngoại đạo Makkhaligosāla có tà thuyết Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có nhân là không có nghiệp” như sau:
- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm. Tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh. Tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
- Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng-sinh sống tùy thuộc vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.
- Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả an-lạc của thiện-nghiệp, quả khổ của ác-nghiệp.
3- Vô-hành tà-kiến như thế nào?
Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện”.
Người có vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện”.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta vị Đạo-sư ngoại đạo Puraṇakassapa có tà thuyết Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:
Tự mình hành ác, sai khiến người khác hành ác đều không có hành ác như:
- Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.
- Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp, v.v…
- Tự mình bố-thí, khuyên dạy người khác bố-thí đều không có hành thiện bố-thí.
- Tự mình cúng dường, khuyên dạy người khác cúng dường đều không có hành thiện cúng dường, v.v…
Người có vô-hành tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố-định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp của họ.
Tà-kiến -Chánh-kiến (Micchādiṭṭhi -Sammādiṭṭhi)
Tà-kiến và chánh-kiến phát sinh do nhân nào?
Trong Chi-bộ-kinh, phần pháp 2 chi, Đức-Phật thuyết dạy tà-kiến (micchādiṭṭhi) phát sinh do 2 nhân-duyên như sau:
“Dveme Bhikkhave, paccayā micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve?
Parato ca ghoso, ayoniso ca manasikāro.
Ime kho bhikkhve, dve paccayā micchādiṭṭhiyā uppādāya.”
- Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên làm phát sinh tà-kiến. Hai nhân-duyên ấy là gì?
1- Parato ca ghoso: Lắng nghe tà-pháp từ hạng người có tà-kiến.
2- Ayoniso ca manasikāro: biết trong tâm với si-tâm không biết đúng 4 trạng-thái của các pháp hữu vi.
- Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên ấy làm phát sinh tà-kiến.
Giải Thích
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng thường (nicca).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng lạc (sukha).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng ngã (attā).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái bất-tịnh (asubha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng tịnh (subha).
Ayonisomanasikāra: biết trong tâm với si-tâm biết đảo ngược 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh làm nhân-duyên phát sinh micchādiṭṭhi: tà-kiến, cũng làm nhân-duyên phát sinh vipallāsa: pháp-đảo-điên.
Vipallāsa: pháp-đảo-điên có 3 loại:
1- Diṭṭhivipallāsa: Tà-kiến đảo-điên thấy đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
2- Cittavipallāsa: Tâm đảo-điên biết đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
3- Saññāvipallāsa: Tưởng đảo-điên tưởng đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
Như vậy, pháp-đảo-điên có 3 loại, mà mỗi loại có 4 pháp, cho nên, gồm có 12 pháp-đảo-điên làm nhân-duyên phát sinh tà-kiến.
* Trong Chi-bộ-kinh, phần pháp 2 chi, Đức-Phật thuyết dạy chánh-kiến (sammādiṭṭhi) phát sinh do 2 nhân-duyên như sau:
“Dveme Bhikkhave, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve?
Parato ca ghoso, yoniso ca manasikāro.
Ime kho bhikkhave, dve paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya.”
-Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên làm phát sinh chánh-kiến. Hai nhân-duyên ấy là gì? [5]
1- Parato ca ghoso: Lắng nghe chánh-pháp từ các bậc thiện-trí có chánh-kiến.
2- Yoniso ca manasikāro: Hiểu biết trong tâm với trí-tuệ biết đúng 4 trạng-thái của các pháp hữu vi.
- Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên ấy làm phát sinh chánh-kiến.
Giải Thích
Yoniso ca manasikāro: Biết trong tâm với trí-tuệ biết đúng 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam-giới như sau:
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì trí-tuệ biết đúng là vô-thường (anicca).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha) thì trí-tuệ biết đúng là khổ (dukkha).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā) thì trí-tuệ biết đúng là vô-ngã (anattā)
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái bất-tịnh (asubha) thì trí-tuệ biết đúng là bất-tịnh (asubha).
Yonisomanasikāra: Hiểu biết trong tâm với trí-tuệ biết đúng 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam-giới đều có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh làm nhân-duyên phát sinh sammādiṭṭhi: chánh-kiến.
Chánh-kiến có 5 loại:
1-Kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến-sở-nghiệp nghĩa là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện-nghiệp và ác-nghiệp mà mình đã tạo rồi là của riêng mình.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-thiền-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là pháp vô-ngã, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.
3- Maggasammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
4- Phalasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-quả-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-quả-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
5- Paccavekkhaṇāsammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán-triệt nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn đã chứng đắc; quán-triệt phiền-não đã diệt tận và phiền-não chưa diệt tận được.
Thật ra, phước-thiện chánh-kiến trong 10 phước-thiện puññakriyāvatthu thì chỉ có kammassakatā sammā-diṭṭhi: chánh-kiến-sở-nghiệp mà thôi.
10 phước-thiện gom lại thành 3 nhóm phước-thiện
1-Dānakusala: Phước-thiện bố-thí.
2-Sīlakusala: Phước-thiện giữ-giới.
3- Bhāvanākusala: Phước-thiện hành-thiền.
4- Apacāyanakusala: Phước-thiện cung-kính.
5- Veyyāvaccakusala: Phước-thiện hỗ-trợ.
6- Pattidānakusala: Phước-thiện hồi-hướng.
7- Pattānumodanakusala: Phước-thiện hoan-hỷ.
8- Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe-pháp.
9- Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết-pháp.
10- Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến.
- Nhóm phước-thiện bố-thí.
- Nhóm phước-thiện giữ-giới.
- Nhóm phước-thiện hành-thiền.
1- Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 loại phước-thiện là dānakusala: phước-thiện bố-thí, pattidānakusala: phước-thiện hồi-hướng, pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ.
2- Nhóm phước-thiện giữ-giới gồm có 3 loại phước-thiện là sīlakusala: phước-thiện giữ-giới, apacāyana-kusala: phước-thiện cung-kính và veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ.
3- Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 loại phước-thiện là bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền, dhammassavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhamma-desanākusala: phước-thiện thuyết-pháp, diṭṭhijukamma-kusala: phước-thiện chánh-kiến.
Giải Thích
1- Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 loại phước-thiện là dānakusala: phước-thiện bố-thí, pattidāna-kusala: phước-thiện hồi-hướng và pattānumodanā-kusala: phước-thiện hoan-hỷ.
Trong nhóm phước-thiện bố-thí này có 2 phước-thiện là pattidānakusala và pattānumodanākusala đều có 2 pháp nghịch là macchariya: tâm keo kiệt bủn xỉn trong của cải tài sản của mình và issā: tâm ganh tị trong của cải tài sản hay tài đức của người khác giống như phước-thiện bố-thí.
Vì vậy, 3 loại phước-thiện là dānakusala: phước-thiện bố-thí, pattidānakusala: phước-thiện hồi-hướng và pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ này có điểm tương tự giống nhau, nên gom chung vào nhóm phước-thiện bố-thí (dānamayakusala).
2- Nhóm phước-thiện giữ-giới gồm có 3 phước-thiện là sīlakusala: phước-thiện giữ-giới, apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính và veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ. Trong nhóm này, sīlakusala: phước-thiện giữ-giới đó là cetanā: tác-ý tâm-sở trong đại-thiện-tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa 3 thân hành-ác, tránh xa 4 khẩu nói-ác, làm cho thân và khẩu đàng hoàng.
* Apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính đối với những bậc đáng tôn kính, cung-kính đối với tất cả mọi người đáng cung-kính. Người có pháp cung-kính biểu hiện bằng thân cung-kính lễ bái cúng dường, bằng khẩu cung-kính nói lời lễ độ, v.v…
* Veyyāvaccakusala: Phước-thiện hỗ-trợ trong mọi việc thiện của người khác. Người có pháp hỗ-trợ trong mọi việc phước-thiện của người khác, biểu hiện bằng thân tận tình giúp đỡ mọi người, bằng khẩu chân tình nói lời chỉ dẫn mọi người.
Apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính và veyyā-vaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ là 2 phước-thiện thuộc về carittasīla: giới nên hành của chư bậc xuất gia tỳ-khưu, sa-di và người tại-gia là cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
Vì vậy, 3 loại phước-thiện là sīlakusala: phước-thiện giữ-giới, apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính và veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ này có điểm tương tự giống nhau, nên gom chung vào nhóm phước-thiện giữ-giới (sīlamayakusala).
3- Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 phước-thiện là bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền, dham-massavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhamma-desanākusala: phước-thiện thuyết-pháp và diṭṭhiju-kammakusala: phước-thiện chánh-kiến. Trong nhóm này, dhammassavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết-pháp và diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến có trạng-thái làm cho thiện-pháp bậc cao phát sinh lên đầu tiên, rồi làm cho thiện-pháp ấy phát triển giống như bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền là thực-hành pháp-hành thiền-định và thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Vì vậy, 4 loại phước-thiện là bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền, dhammassavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết-pháp và diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến này có trạng-thái tương tự giống nhau, nên gom chung vào nhóm phước-thiện hành-thiền (bhāvanāmaya-kusala).
Tuy nhiên, dhammadesanākusala và diṭṭhijukamma-kusala được ghép theo Phật-ngôn và Chú-giải như sau:
“Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti.” [6]
Pháp-thí là cao thượng hơn tất cả mọi sự bố-thí.
Như vậy, dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết-pháp được ghép vào với dānakusala: phước-thiện bố-thí.
“Diṭṭhijukammaṃ sabbesaṃ niyāmalakkhaṇaṃ.” [7]
Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến có trạng-thái điều hòa và hỗ-trợ cho tất cả 10 phước-thiện puññakriyāvatthu.
Như vậy, diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến được ghép vào với nhóm phước-thiện bố-thí (dānamaya-kusala), nhóm phước-thiện giữ-giới (sīlamayakusala) và nhóm phước-thiện hành-thiền (bhāvanāmayakusala).
* Nếu thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí, hành-giả thực-hành pháp-hành giữ-giới, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ thì nhóm phước-thiện bố-thí, nhóm phước-thiện giữ-giới, nhóm phước-thiện hành-thiền, các phước-thiện ấy thuộc về đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).
Nếu đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala) có đủ 3 thiện-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).
Hoặc tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới, có nhiều oai lực, có hào quang rực rỡ, chói lọi khắp mọi nơi, …
* Nếu thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí, hành-giả thực-hành pháp-hành giới, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không có diṭṭhi-jukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ thì nhóm phước-thiện bố-thí, nhóm phước-thiện giữ-giới, nhóm phước-thiện hành-thiền, các phước-thiện ấy thuộc về đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, chỉ có 2 nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).
Nếu đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân (dvihetukapuggala) chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).
Hoặc tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới, có ít oai lực, có ít hào quang, …
Dānakusala, sīlakusala, bhāvanākusala
Để có được sự nhận thức so sánh về phước-thiện và quả của phước-thiện hoặc đại-thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp của 3 nhóm phước-thiện là nhóm phước-thiện bố-thí (dānamayakusala), nhóm phước-thiện giữ-giới (sīlamayakusala), nhóm phước-thiện hành-thiền (bhāvanāmayakusala), qua sự tìm hiểu bài kinh
Velāmasutta[8] được tóm lược như sau:
- Này ông phú hộ! Trong gia đình ông vẫn còn tạo phước-thiện bố-thí phải không?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trong gia đình con vẫn còn tạo phước-thiện bố-thí, nhưng sự bố-thí ấy của con hiện nay là quá tầm thường, chỉ có cơm nấu bằng gạo lép và nước cải ngâm mà thôi.
Quả của phước-thiện bố-thí không cung-kính
- Này ông phú hộ! Người thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí bằng những vật thí tầm thường hoặc cao quý, mà bố-thí với tâm không cung-kính, cúng dường không cung-kính, không tự tay mình cung-kính cúng dường, đem vật dư thừa bố-thí, không có đức-tin nơi đại-thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí.
Nếu đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người trong gia đình giàu có thì người ấy sẽ không hướng tâm dùng những món ăn ngon, sẽ không mặc những y phục bằng các thứ vải tốt, sẽ không sử dụng chiếc xe sang trọng, sẽ không hưởng những ngũ dục an-lạc.
Những người thuộc hạ của người ấy như vợ con, tôi tớ, người làm công, bạn bè, v.v… sẽ không vâng lời, sẽ không để tâm đến lời dạy bảo của người ấy.
Những điều ấy là do quả của nghiệp nào?
Những điều ấy là do quả của ác-nghiệp không cung-kính của người ấy.
Quả của phước-thiện bố-thí cung-kính
-Này ông phú hộ! Người thí-chủ tạo phước-thiện bố thí bằng những vật thí tầm thường hoặc cao quý, mà bố-thí với tâm cung-kính, cúng dường với tâm cung-kính, tự tay mình cung-kính cúng dường, không đem vật dư thừa bố-thí, có đức-tin nơi đại-thiện-nghiệp bố-thí và quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí.
Nếu đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người trong gia đình giàu có thì người ấy sẽ hướng tâm dùng những món ăn ngon, sẽ mặc những y phục bằng các thứ vải tốt, sẽ sử dụng chiếc xe sang trọng, sẽ hưởng những ngũ dục an-lạc.
Những người thuộc hạ của người ấy như vợ con, tôi tớ, người làm công, bạn bè, v.v… sẽ vâng lời, sẽ để tâm đến lời dạy bảo của người ấy.
Những điều ấy là do quả của nghiệp nào?
Những điều ấy là do quả của đại-thiện-nghiệp cung-kính của người ấy.
Tạo phước-thiện đại-thí ngoài Phật-giáo
- Này ông phú hộ! Chuyện đã từng có, một Bà-la-môn tên Velāma (tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama) tạo phước-thiện đại-thí như vầy:
- Bố-thí 84.000 mâm vàng đầy vàng bạc (rūpiya).
- Bố-thí 84.000 mâm vàng bạc (rūpiya) đầy vàng.
- Bố-thí 84.000 mâm đồng đầy bạc.
- Bố-thí 84.000 con voi gồm đầy đủ đồ trang sức làm bằng vàng.
- Bố-thí 84.000 chiếc xe được bao bọc bằng da sư tử, da cọp,…
- Bố-thí 84.000 con bò sữa cùng với đồ đựng sữa bằng bạc,…
- Bố-thí 84.000 cô gái trẻ đẹp cùng với đồ trang sức ngọc maṇī,…
- Bố-thí 84.000 chiếc ghế ngồi được trang hoàng bằng những thứ quý giá,…
- Bố-thí 84.000 x 10.000.000 vải đủ loại đặc biệt.
Ngoài ra, bố-thí đồ ăn, đồ uống, các đồ dùng khác nhiều như nước sông chảy không sao kể xiết.
- Này ông phú hộ! Trong thời quá khứ ấy, Như-Lai là vị Bà-la-môn Velāma tạo phước-thiện đại-thí, nhưng không có bậc xứng đáng cúng dường (thời đại không có Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng).
Tạo phước-thiện bố-thí trong Phật-giáo
- Này ông phú hộ! Người nào tạo phước-thiện bố-thí đến bậc Thánh Nhập-lưu có chánh-kiến đầy đủ, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn ông Bà-la-môn Velāma tạo phước-thiện bố-thí trong thời quá khứ ấy suốt 7 năm và 7 tháng.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Nhập-lưu, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh Nhập-lưu.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh Nhất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh Nhập-lưu.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Nhất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh Nhất-lai.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh Bất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh Nhất-lai.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Bất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh Bất-lai.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh A-ra-hán, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh Bất-lai.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh A-ra-hán, thì người ấy có phước-thiện nhiều có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh A-ra-hán.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 Đức-Phật Độc-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh A-ra-hán.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 Đức-Phật Độc-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 Đức-Phật Độc-Giác.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 Đức-Phật Độc-Giác.
* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Chánh-Đẳng Giác.
* Người nào xây cất chỗ ở dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.
* Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo:Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người xây dựng chỗ ở dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương.
* Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có tác-ý đại-thiện-tâm trong sạch thọ trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo.
* Người hành-giả nào thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả chúng-sinh, trong khoảng thời gian khoảnh khắc ngửi mùi thơm, thì người hành-giả ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người có đức-tin trong sạch thọ trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn.
* Và người nào thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trong khoảng thời gian khoảnh khắc bằng búng đầu ngón tay, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tiến hành-thiền định với đề-mục rải tâm-từ vô-lượng đến tất cả chúng-sinh, trong khoảng thời gian khoảnh khắc ngửi mùi thơm.
Nhận xét về bài kinh Velāmasutta
Qua bài kinh Velāmasutta để có sự nhận thức so sánh về phước-thiện và quả của phước-thiện như sau:
* Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí trong Phật-giáo dù ít với thời gian ngắn, vẫn có nhiều phước-thiện bố-thí cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện bố-thí cao quý hơn thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí ngoài Phật-giáo dù nhiều với thời gian lâu dài, vẫn có ít phước-thiện bố-thí, có ít quả báu của phước-thiện bố-thí.
* Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường dù ít đến một bậc có giới-đức cao thượng, vẫn có nhiều phước-thiện bố-thí cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện bố-thí cao quý hơn thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí dù nhiều đến nhiều người không có giới-đức.
* Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường dù ít đến một bậc có ân-đức càng cao thượng thì càng có nhiều phước-thiện bố-thí cao quý hơn nữa, có nhiều quả báu của phước-thiện bố-thí cao quý hơn nữa.
* Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo là quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo, có phước-thiện cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện cao quý hơn thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí dù nhiều trong thời gian lâu dài, hoặc xây dựng chỗ ở to lớn, rồi làm lễ dâng cúng-dường đến chư tỳ-khưu-Tăng tứ phương thọ nhận.
* Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, có phước-thiện giữ giới cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện giữ giới cao quý.
* Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô-lượng dù trong thời gian khoảnh khắc ngửi mùi thơm, cũng có nhiều phước-thiện cao quý, có nhiều quả báu cao quý hơn phước-thiện thọ trì giữ-giới được trong sạch và trọn vẹn.
* Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp, … dù trong thời gian khoảnh khắc búng đầu ngón tay, cũng có nhiều phước-thiện cao quý, có nhiều quả báu cao quý hơn phước-thiện thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô-lượng.
Như vậy, người thiện nào tạo phước-thiện nào, có được nhiều hoặc ít phước-thiện ấy, có quả báu nhiều hoặc ít của phước-thiện ấy là hoàn toàn tùy thuộc vào đối-tượng với đại-thiện-tâm bậc cao hoặc đại-thiện-tâm bậc thấp đối với người thiện ấy trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:
- Pubbacetanā: tác-ý trước khi tạo phước-thiện ấy.
- Muñcacetanā: tác-ý đang khi tạo phước-thiện ấy.
- Aparacetanā: tác-ý sau khi tạo phước-thiện ấy.
Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu.
Đại-thiện-tâm (mahākusalacitta) có 8 tâm:
1- Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
2- Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
3- Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
4- Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
5- Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
6- Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
7- Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
8- Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
- 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
-4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.
1- Pubbacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy (có thời gian lâu hoặc mau không nhất định).
2- Muñcacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện ấy (trong thời hiện-tại).
3- Aparacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy (với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm).
Mỗi thời-kỳ tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tạo phước-thiện nào có vai trò quan trọng thành-tựu mỗi đại-thiện-nghiệp như sau:
Năng lực muñcacetanā
* Thời-kỳ muñcacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện nào được thành-tựu đại-thiện-nghiệp như sau:
- Nếu người thiện nào tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành tihetukakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp.
- Nếu người thiện nào tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có nhị-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành dvihetukakusala-kamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.
Năng lực pubbacetanā và aparacetanā
Tam-nhân đại-thiện-nghiệp và nhị-nhân đại-thiện-nghiệp phân-loại theo năng lực tác-ý trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nên mỗi loại đại-thiện-nghiệp có 2 bậc:
- Ukkaṭṭhakusala: đại-thiện-nghiệp bậc cao.
- Omakakusala: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
1- Ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao như thế nào?
Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào, v.v…trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn; và nhất là trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, thì người thiện ấy đã tạo được phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy, v.v… trở thành ukkaṭṭha-kusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao, nên có 2 loại đại-thiện-nghiệp bậc cao là:
- Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
2- Omakakusalakamma: Đại-thiện-nghiệp bậc thấp như thế nào?
Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào, v.v…trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm; và nhất là trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì người thiện ấy đã tạo được phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy, v.v trở thành omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nên có 2 loại đại-thiện-nghiệp bậc thấp là:
- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
- Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Tuy nhiên, trong 2 thời-kỳ tác-ý (cetanā): thời kỳ: pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy và thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, để quyết-định phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp, thì thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi có vai trò quan trọng để quyết-định phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp hơn là thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì chưa thành-tựu phước-thiện ấy.
Thật vậy, dù cho thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm; nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trong phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, không làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy vẫn trở thành ukkaṭṭhakusala-kamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.
Dù cho thời-kỳ pubbacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy trở thành omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Cho nên, thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm có tầm quan trọng quyết-định đại-thiện-nghiệp ấy trở thành loại ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc loại omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Phân loại đại-thiện-nghiệp theo Ukkaṭṭhakusalakamma và omakakusalakamma
Phân loại tihetukakusalakamma và dvihetukakusala-kamma theo ukkaṭṭhakusalakamma và omakakusala-kamma có 4 bậc như sau:
* Tihetukakusalakamma có 2 bậc:
1- Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
2- Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
* Dvihetukakusalakamma có 2 bậc:
1- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
2- Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi đại-thiện-nghiệp có tầm quan trọng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người hoặc làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại của loài người hoặc của chư vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới.
Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp
1-Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện nghiệp bậc cao.
2- Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
3- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
4- Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Paṭisandhikāla Và Pavattikāla
Đại-thiện-nghiệp có 4 loại là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao và nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi bậc đại-thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả trong 2 thời-kỳ:
- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
Đại-thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai làm người, có 3 hạng người trong đời này, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, cũng có 3 hạng chư-thiên.
1-Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao
Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ-hội cho quả trong 2 thời-kỳ:
- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
a- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, ...
Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthu-
rūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân[9] (tihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy vốn có trí-tuệ.
- Nếu người tam-nhân ấy có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông (lokiya abhiññā).[10]
- Nếu người tam-nhân ấy có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
b- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại có 16 quả-tâm đó là:
- Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 quả-tâm và
- Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.
* Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 tâm
Hữu-nhân đại-quả-tâm đó là đại-quả-tâm có 8 tâm mà mỗi tâm tương xứng với mỗi tâm trong 8 đại-thiện-tâm như sau:
1- Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
2- Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
3- Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
4- Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
5- Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
6- Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
7- Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
8- Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
* Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm:
Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm:
1. Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.
2. Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh hay đáng hài lòng.
3. Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.
4. Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.
5. Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc an-lạc, đáng hài lòng.
6. Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
7. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
8. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân trên 1 trong 6 cõi trời dục-giới. Và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại gồm có 16 quả-tâm là 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy, hoặc của vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trong cõi trời dục-giới ấy.
1- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp với
2- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao
-Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với
- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong 2 thời-kỳ:
-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
a- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền,…
Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthu-rūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân[11] (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.
- Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào cả.
- Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
b- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, có 12 quả-tâm đó là:
- Hữu-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ có 4 quả-tâm và
- Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.
Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên 1 trong 6 cõi trời dục-giới. Và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại gồm có 12 quả-tâm là 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng không tốt không xấu trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người nhị-nhân ấy trong cõi người, hoặc của vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân ấy trên cõi trời dục-giới ấy.
Nhận xét về tihetuka-omakakusalakamma với dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma
Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, không đủ năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên bị tuột xuống tương đương với dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) là đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau làm người thuộc về hạng người dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân từ khi tái-sinh đầu thai làm người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới.
3- Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp
Dvihetuka-omakakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong 2 thời-kỳ:
- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
a- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền,…
Sau khi người thiện ấy chết, nếu nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người vô-nhân cõi thiện-giới [12] (sugati ahetuka-puggala) là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, … từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người vô-nhân ấy vốn là người đui mù, câm điếc, tật nguyền,… chỉ biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.
Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân trong nhóm bhummaṭṭhadevatā: chư-thiên ở trên mặt đất thuộc về cõi trời tứ Đại-Thiên-vương.
b- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả chỉ có 8 thiện quả vô-nhân-tâm mà thôi, tiếp xúc với các đối-tượng tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.
Tuy nhiên, nếu đứa trẻ ấy bị đui mù, câm điếc, tật nguyền trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, do ác-nghiệp nào cho quả thì không thể gọi là người vô-nhân cõi thiện-giới được, bởi vì, đứa trẻ ấy có thể có năng khiếu đặc biệt.
Nhận xét về 3 hạng người trong đời
Trong đời này có 3 hạng người là người tam-nhân (tihetukapuggala), người nhị-nhân (dvihetukapuggala), người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) trong kiếp hiện-tại đều là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu, (hoặc tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý) trong kiếp quá-khứ của mỗi chúng-sinh.
1-* Tihetukapuggala: Hạng người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) đó là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ có đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người tam-nhân từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, hạng người tam-nhân vốn dĩ có trí-tuệ:
- Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép thần-thông thế gian (lokiya abhiññā).
- Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Tiền-kiếp của người tam-nhân
Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp hiện-tại này trở thành người tam-nhân như vậy?
* Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy là người có giới của mình trong sạch trọn vẹn, đã từng tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc tạo phước-thiện nào trong 10 phước-thiện puññakriyāvatthu đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý như sau:
1- Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ trước khi tạo phước-thiện ấy (thời gian lâu hoặc mau không nhất định).
2- Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa, khi đang tạo phước-thiện ấy (thời gian trong lúc hiện-tại) có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ có đủ 3 thiện-nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành tihetukakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp.
3- Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nếu khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm phát sinh vô cùng hoan-hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, không làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
* Sau khi tiền-kiếp của người tam-nhân ấy chết, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy vốn có trí-tuệ.
* Ví dụ: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã từng tạo 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng suốt thời gian 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất đã được đầy đủ trọn vẹn.
* Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu cuti: chuyển kiếp (chết) từ cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên), sau khi chết, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào lòng mẫu-hậu Mahāmayādevī, Chánh-cung-hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana, vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm-lịch).
Tròn đủ 10 tháng sau, đúng vào ngày rằm tháng 4, Đức-Bồ-tát Siddhattha đản-sinh ra đời tại khu vườn Lumbinī (nay thuộc về nước Nepal).
Đức-Bồ-tát Siddhattha có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, đó là quả báu của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Siddhattha.
- Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama vào ngày rằm tháng 4, tròn đúng 35 tuổi, tại cội cây Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā. (nay gọi là Buddhagayā, India).
- Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh suốt 45 năm. Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn vào ngày rằm tháng 4, tròn đúng 80 tuổi, tại khu rừng Kusinārā nước Ấn-Độ (India).
* Kiếp chót của chư Bồ-tát Độc-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala), để trở thành Đức-Phật Độc-Giác, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn.
* Chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác chắc chắn là hạng người tam-nhân, để trở thành các bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi tuần tự sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Kiếp hiện-tại của người tam-nhân phàm-nhân
* Sau khi người tam-nhân còn là phàm-nhân chết, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau như thế nào?
Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào còn là phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) đã tạo nghiệp nào rồi, sau khi người tam-nhân ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau như sau:
- Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào là hành-giả phàm-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định, nếu có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chắc chắn chỉ có thiện-nghiệp trong bậc thiền thiện-tâm nào cao nhất mới có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền quả-tâm cao nhất ấy đó là đệ tứ thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là phi-tưởng phi-phi-tưởng xứ thiền quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Phi-tưởng phi-phi-tưởng xứ thiên tột đỉnh, chư phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới tột đỉnh này có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất lâu dài nhất trong tam-giới.
Còn lại thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho quả được nữa.
- Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào còn là phàm-nhân nếu tạo tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, sau khi người tam-nhân ấy chết, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân trong cõi người, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy cho đến khi hết tuổi thọ.
- Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào còn là phàm-nhân nếu tạo nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, sau khi người tam-nhân ấy chết, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân trong cõi người, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy cho đến khi hết tuổi thọ.
* Trong kiếp hiện-tại, nếu người tam-nhân nào còn là phàm-nhân thất-niệm (dể-duôi) không biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, phạm điều-giới nào, tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, sau khi người tam-nhân ấy chết, thì ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là ác-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.
Ví dụ: * Trường-hợp tỳ-khưu Devadatta vốn là người tam-nhân đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông, nhưng về sau tỳ-khưu Deva-datta dể duôi, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng tội đó là ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng và làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật.
Sau khi tỳ-khưu Devadatta chết, chính ác-nghiệp vô-gián trọng-tội chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi địa-ngục Avīci, bị hành hạ thiêu đốt suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.
“Từ kiếp trái đất này rồi trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta thoát ra khỏi cõi địa-ngục, có tam-nhân đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, khi sinh ra đời, lúc trưởng thành đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara [13].
* Trường-hợp Đức-vua Ajātasattu vốn là hạng người tam-nhân dể duôi, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức-phụ-vương Bimbisāra.
Về sau, Đức-vua Ajātasattu biết ăn năn hối lỗi, ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, Đức-Phật thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta để tế độ Đức-vua Ajātasattu, sau khi nghe bài kinh ấy xong, Đức-vua Ajātasattu phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, Đức-vua Ajātasattu kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, kính xin Đức-Phật công nhận Đức-vua là người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời. Khi ấy, Đức-vua Ajātasattu thành tâm sám hối về tội lỗi giết Đức Phụ-vương của mình, kính xin Đức-Phật chứng minh.
Đức-Phật truyền dạy: Nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương, thì sau khi nghe bài kinh Sāmaññaphalasutta xong, Đức-vua có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, nhưng Đức-vua Ajātasattu đã phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương, ác-nghiệp trọng-tội ấy ngăn cản, nên không thể trở thành bậc Thánh nhập-lưu được.
Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hết lòng phụng sự Tam-bảo.
Thật vậy, sau khi Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn, khoảng 3 tháng 4 ngày, Ngài Đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất gồm có 500 vị Thánh A-ra-hán tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành Rājagaha.
Đức-vua Ajātasattu đã hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (giết Đức Phụ-vương) cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ có đại-thiện-nghiệp quy-y Tam-bảo và các đại-thiện-nghiệp khác nhất là đại-thiện-nghiệp hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, có Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì, nhờ các đại-thiện-nghiệp ấy có khả năng làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, nên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (nồi đồng sôi), chịu khổ trong cõi tiểu-địa-ngục nồi đồng sôi ấy suốt 60.000 năm.
Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu địa-ngục Lohakumbhī (nồi đồng sôi) từ miệng chìm xuống đến đáy nồi khoảng thời gian suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi khoảng thời gian suốt 30.000 năm, mới mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy.
Do nhờ tam-nhân đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người. Hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vịjitāvi [14].
2-* Dvihetukapuggala: Hạng người nhị-nhân là người chỉ có 2 thiện-nhân: vô-tham và vô-sân mà thôi, không có vô-si, từ khi tái-sinh đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, hạng người nhị-nhân vốn dĩ không có trí-tuệ.
- Nếu hạng người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì người ấy không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào cả.
- Nếu hạng người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người ấy cũng không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Tiền-kiếp của người nhị-nhân
* Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp hiện-tại này trở thành người nhị-nhân như vậy?
* Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy là người có giới của mình trong sạch trọn vẹn, đã từng tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc tạo phước-thiện nào trong 10 phước-thiện puññakriyāvatthu đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý như sau:
1- Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ trước khi tạo phước-thiện ấy (thời gian lâu hoặc mau không nhất định).
2- Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa, khi đang tạo phước-thiện ấy không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ, chỉ có 2 thiện-nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ), phước-thiện ấy trở thành dvihetukakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.
3- Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nếu khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm phát sinh vô cùng hoan-hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, không làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
* Sau khi tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy chết, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāya-rūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm)
làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân[15](dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.
- Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định, thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào.
- Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Kiếp hiện-tại của người nhị-nhân
* Sau khi người nhị-nhân chết, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau như thế nào?
* Kiếp hiện-tại, nếu người nhị-nhân nào có khả năng tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, thực-hành pháp-hành thiền-định mà không thể chứng đắc bậc thiền nào, tạo tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, thì sau khi người nhị-nhân ấy chết, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân trong cõi người, hưởng quả an-lạc cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi người.
* Kiếp hiện-tại, nếu người nhị-nhân nào có khả năng tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, thực-hành pháp-hành thiền-định mà không thể chứng đắc bậc thiền nào, tạo được nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, thì sau khi người nhị-nhân ấy chết, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân trong cõi người, hưởng quả an-lạc cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi người.
* Kiếp hiện-tại, nếu người nhị-nhân nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, phạm điều-giới, đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, thì sau khi người nhị-nhân ấy chết, nếu ác-nghiệp trong ác-tâm ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.
3-* Sugati-ahetukapuggala: hạng người vô-nhân cõi thiện-giới là người khi tái-sinh kiếp sau với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người đui mù, câm điếc, tật nguyền,… từ khi đầu thai làm người trong lòng mẹ.
Tiền-kiếp-của người vô-nhân cõi thiện-giới
Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp hiện-tại này trở thành người vô-nhân cõi thiện-giới như vậy?
* Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy là người có giới, đã từng tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc tạo phước-thiện nào trong 10 phước-thiện puññakriyāvatthu đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý như sau:
1- Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy (thời gian lâu hoặc mau không nhất định).
2- Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ khi đang tạo phước-thiện ấy (thời gian trong lúc hiện-tại) không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ chỉ có 2 thiện-nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành dvihetukakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.
3- Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nếu khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm phát sinh ít năng lực, và có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
* Sau khi tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadaya-vatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người vô-nhân cõi
thiện-giới [16](sugati ahetukapuggala) đui mù, câm điếc, tật nguyền, … từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời đến lúc trưởng thành, người vô-nhân cõi thiện-giới ấy là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, … si-mê biết bình thường trong cuộc sống hằng ngày.
* Tuy nhiên, thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) tái-sinh tâm (paṭisandhicitta) chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, nếu thai-nhi bị đui mù, câm điếc, tật nguyền gì do ác-nghiệp nào cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh thì không thể gọi người ấy là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới, bởi vì có những đứa bé có năng khiếu đặc biệt.
Kiếp hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới
* Sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau như thế nào?
Mặc dù kiếp hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới không tạo đại-thiện-nghiệp đặc biệt nào hoặc ác-nghiệp đặc biệt nào, nhưng vô số kiếp quá-khứ đã từng tạo những đại-thiện-nghiệp và những ác-nghiệp được lưu-trữ ở trong tâm của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy.
Cho nên, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, nếu nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có quả-tâm của nghiệp ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau như sau:
* Trong kiếp hiện-tại, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới chết, nếu có đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ trong kiếp quá-khứ của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ.
* Trong kiếp hiện-tại, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới chết, nếu có đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ trong kiếp quá-khứ của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ.
- Trong kiếp hiện-tại, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới chết, nếu có ác-nghiệp trong ác-tâm trong kiếp quá-khứ của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.
Nếu đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội thì đại-thiện-nghiệp ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
Nếu ác-nghiệp nào có cơ hội thì ác-nghiệp ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
Bản tóm lược tam-nhân, nhị nhân bậc cao, bậc thấp
Tóm lược tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp hiện-tại như sau:
Tam-nhân, Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp |
Thời-kỳ tái-sinh |
Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh |
1-Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao |
4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ |
8 đại-quả-tâm + 8 thiện-quả vô-nhân-tâm, có 16 quả-tâm |
2-Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp và nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao |
4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ |
4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ + 8 thiện-quả vô-nhân-tâm, có 12 quả-tâm |
3-Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp |
1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện- nghiệp |
8 thiện-quả vô-nhân-tâm |
Năng lực của muñcacetanā
* Phước-thiện nào trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp là do năng lực của muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện ấy như sau:
Nếu muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ khi đang tạo phước-thiện nào, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp (tihetukakusalakamma).
Nếu muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ khi đang tạo phước-thiện nào, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp (dvihetukakusalakamma).
Năng lực của aparacetanā
* Phước-thiện nào trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp là do năng lực của aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi như sau:
Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp
- Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước-thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan-hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên không làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma).
Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp
- Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước-thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan-hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên không làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma).
- Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước-thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp (dvihetuka-omakakusalakamma).
Cho nên, mọi người thiện nên gần gũi thân cận với chư bậc thiện-trí, để có cơ hội học hỏi, lắng nghe lời giáo huấn của chư bậc thiện-trí, để hiểu biết cách tạo phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma), đó là đại-thiện-nghiệp cao quý có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân cao quý (tihetukapuggala) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc và vô số kiếp, nhất là làm nhân-duyên dắt dẫn đến sự thành-tựu Nibbānasampatti, thì hạnh phúc biết dường nào!
Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu
-Dục-giới có 11 cõi-giới.
- Sắc-giới có 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên.
- Vô-sắc-giới có 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Cõi người (manussabhūmi) là 1 trong 31 cõi-giới, cõi người là nơi sinh sống của loài người (manussa).
1- Pubbavidesadīpa: Đông-thắng-thần-châu.
2- Aparagoyānadīpa: Tây-ngưu-hoá-châu.
3- Jambūdīpa: Nam-thiện-bộ-châu.
4- Uttarakurudīpa: Bắc-cưu-lưu-châu.
Con người ở trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có tính chất đặc biệt hơn loài người trong 3 châu khác nói riêng, và cũng có tính chất đặc biệt hơn tất cả chúng-sinh trong các cõi-giới khác nói chung.
Con người ở trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có tính chất đặc biệt như thế nào?
* Con người (manussa) sinh sống trong cõi Nam-thiện-bộ-châu (trái đất của chúng ta) này có tâm dũng mãnh trong thiện-nghiệp thì đạt đến cực-thiện, trong ác-nghiệp thì đến cực-ác như sau:
- Trong thiện-nghiệp thì đạt đến cực-thiện nghĩa là tâm của con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có đức tính đặc biệt như sau:
• Có khả năng đặc biệt thuận lợi tạo 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị trong toàn cõi-giới chúng-sinh muôn loài.
• Có khả năng đặc biệt thuận lợi tạo 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác cao thượng, có nhiều Đức-Phật Độc-Giác trong cùng thời.
• Có khả năng thuận lợi tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, đầy đủ trọn vẹn, để trở thành 2 bậc Thánh A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, chư bậc Thánh A-ra-hán Đại-thanh-văn đệ-tử, chư bậc Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác,…
- Trong ác-pháp thì đến cực-ác nghĩa là tâm con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có thể tạo 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội đó là ác-nghiệp giết cha, ác-nghiệp giết mẹ, ác-nghiệp giết bậc Thánh A-ra-hán, ác-nghiệp làm bầm máu ngón chân cái của Đức-Phật, tỳ-khưu có thể tạo ác-nghiệp chia rẽ tỳ-khưu-Tăng.
* Con người ở trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này, mỗi người có khả năng thuận lợi tạo mọi đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, tạo đầy đủ 10 phước-thiện puññakriyāvatthu, và cũng có cơ hội tạo mọi ác-nghiệp; tất cả mọi đại-thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp dù nặng, dù nhẹ đều được lưu trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm sinh rồi diệt của mỗi người nói riêng, mỗi chúng-sinh nói chung, từ kiếp này sang kiếp kia trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, từ vô thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại, mặc dù mỗi kiếp thân bị thay đổi do năng lực quả của nghiệp, còn tâm vẫn có phận sự lưu trữ đầy đủ trọn vẹn tất cả mọi đại-thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp dù nặng dù nhẹ không hề bị mất mát một mảy may nào cả.
* Tất cả mọi người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có tính chất đặc biệt hơn tất cả mọi chúng-sinh trong các cõi-giới khác về vấn đề nghiệp cho quả như sau:
-Tất cả chúng-sinh trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, loài a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh phần nhiều chỉ có ác-nghiệp có cơ hội cho quả khổ mà thôi, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới mong thoát khỏi cõi ác-giới ấy. Còn mọi đại-thiện-nghiệp ít có cơ hội cho quả an-lạc. Ngoại trừ có một số loài súc-sinh như voi báu, ngựa báu, con chó, con mèo tinh khôn, con chim nói tiếng người, … Các con súc vật ấy tuy ác-nghiệp đã có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm loài súc-sinh, nhưng trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, có đại-thiện-nghiệp của chúng trong kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả an-lạc, nên các con súc vật ấy được mọi người thương yêu quý mến, được chăm lo săn sóc nuôi dưỡng đặc biệt.
-Chư vị thiên-nam hoặc chư vị thiên-nữ trong 6 cõi trời dục-giới, chỉ đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả an-lạc mà thôi, còn mọi ác-nghiệp không có cơ hội cho quả khổ.
-Chư phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên và trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp có cơ hội cho quả an-lạc mà thôi, tuyệt đối mọi ác-nghiệp không có cơ hội cho quả khổ được.
* Tất cả mọi người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này, nếu đại-thiện-nghiệp nào gặp thuận-duyên (sampatti) có cơ hội cho quả an-lạc đến cho người nào, thì người ấy được hưởng mọi sự an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, hoặc nếu ác-nghiệp nào gặp nghịch-duyên (vipatti) có cơ hội cho quả khổ đến cho người nào, thì người ấy phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Cho nên, mỗi người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này, khi thì đại-thiện-nghiệp gặp thuận duyên (sampatti) có cơ hội cho quả an-lạc, khi thì ác-nghiệp gặp nghịch duyên (vipatti) có cơ hội cho quả khổ.
Vì vậy, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này, đều tuỳ thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mình, hoàn toàn không có số mệnh hoặc định mệnh do một ai có khả năng an bài được cả.
Thật vậy, giả sử mỗi người nói riêng, mỗi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ nói chung đều có mỗi số-mệnh hoặc mỗi định-mệnh đã được an bài định sẵn.
Nếu đúng như vậy thì ai có khả năng an bài mỗi số-mệnh hoặc mỗi định-mệnh của mỗi người nói riêng, mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ nói chung trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới chúng-sinh này ???
Cho nên, chắc chắn không có số-mệnh hoặc định-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ, mà chỉ có nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ mà thôi.
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃvā, tassa dāyādo bhavissāmi.” [17]
Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta, ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp ấy hoặc chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, như người thừa kế quả của nghiệp của mình (kammadāyādo).
(Xong phần 10 phước-thiện puññakriyāvatthu)
[1] Aṅg. Pañcakanipāta, Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭhānasutta.
[2] Dī. Sīlakkhandhavagga, Brahmajālasutta và Sāmaññaphalasutta.
[3] Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.
[4] Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.
[5] Aṅguttaranikāya, Dukanipātapāḷi, Āsāduppajahavagga.
[6] Bộ Dhammapadagāthā bài kệ thứ 354.
[7] Bộ Dī.Pāthikavaggaṭṭhakathā, Saṅgītisuttavaṇṇanā.
[8] Aṅg. Phần Navakanipātapāḷi, Velāmasutta.
[9] Người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm đủ 3 thiện-nhân.
[10] Xem bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX Pháp-Hành Thiền-Định; và quyển X Pháp-Hành Thiền-Tuệ.
[11] Người nhị-nhân có tái-sinh-tâm chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô-sân (không có vô-si).
[12] Người vô-nhân là người có tái-sinh-tâm không có thiện-nhân nào.
[13] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Devadattavatthu.
[14] Dī. Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, đoạn cuối Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
[15] Người nhị-nhân là người có tái-sinh-tâm có 2 thiện-nhân.
[16] Người vô-nhân cõi thiện-giới là người có tái-sinh-tâm không có thiện-nhân.
[17] Aṅg., phần Pañcakanipāta, kinh Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭhānasutta.
Mục lục quyển 5 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10