NHẬT TỤNG THIỀN MÔN

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Những kinh văn và bài tụng mới

MỤC LỤC

Những kinh văn và bài tụng mới

Kinh Sự Thật Ðích Thực

Kinh Nghĩa Lý Siêu Việt về Không

Kinh Bốn Loại Thức Ăn

Ái Ngữ Lắng Nghe

Kệ Thỉnh Chuông Đại Hồng

Văn thỉnh linh

Quán niệm trước buổi họp

Quán niệm trước buổi soi sáng

Mười Bốn Bài Kệ Chỉ Quán


Kinh Sự Thật Ðích Thực

Kẻ nào còn ôm ấp tư kiến, xem nhận thức của mình là cao nhất thế gian, cho rằng ‘kiến giải này là tối thượng’ và công kích mọi nhận thức khác, kẻ ấy còn được xem là chưa thoát khỏi vòng tranh chấp.

Khi thấy, nghe hoặc cảm nhận được một điều gì rồi nghĩ rằng điều đó là cái duy nhất có thể đem lại lợi lạc và tiện nghi cho cá nhân và đoàn thể mình, người ta dễ có khuynh hướng bám víu vào điều ấy rồi cho rằng tất cả mọi kẻ khác so với mình đều là thua kém.

Bị lệ thuộc vào chủ thuyết mình đang theo và xem thường tất cả những kiến giải khác, điều này được kẻ trí nhận thức là một sự ràng buộc, là một sự đánh mất tự do. Kẻ hành giả đứng đắn không nên vội tin vào những gì mình nghe, thấy và cảm nhận, kể cả những cấm giới và lễ nghi.

Vị hành giả chân chính không có nhu yếu tạo ra một chủ thuyết mới cho thế gian, hoặc bằng kiến thức đã thu nhặt được, hoặc bằng những cấm giới và lễ lược đã được học hỏi, không tự cho mình là ‘hơn người’, ‘thua người’ hay ‘bằng người’.

Bậc thức giả là kẻ đã buông bỏ ý niệm về ‘ta’ và không còn giữ thái độ nắm bắt. Vị ấy không bị lệ thuộc vào bất cứ một cái gì, kể cả kiến thức, không đứng về phía nào khi có một cuộc tranh chấp và không còn duy trì một tư kiến hoặc một giáo điều nào nữa cả.

Vị ấy hoàn toàn không còn tìm cầu và nắm bắt, hoặc cái này hay cái kia, hoặc trong đời này hay trong đời khác. Vị ấy đã chấm dứt mọi tư kiến và không còn đi tìm sự nương náu hoặc an ủi và vỗ về trong bất cứ một chủ thuyết nào.

Bậc thức giả chân chính là người không còn tư kiến đối với những gì mình thấy, nghe và cảm nhận. Làm sao còn có thể phê phán hoặc nắm bắt được bằng khái niệm một bậc hành giả thanh tịnh đã từ bỏ mọi tư kiến?

Bậc ấy quả không còn nhu yếu thiết lập một giáo điều hoặc chọn lựa một ý thức hệ. Mọi giáo điều và ý thức hệ đều đã bị bậc ấy buông bỏ. Kẻ cao sĩ không hề bị cấm giới và lễ nghi ràng buộc. Kẻ ấy đang đi từng bước vững chãi đến bờ giải thoát và không bao giờ còn trở lại chốn trầm luân.

Kinh Nghĩa Lý Siêu Việt về Không

Ðây là những điều tôi được nghe một thời hồi Bụt còn cư trú với những người thuộc bộ tộc Kuru trong làng Kalmasadamya. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các vị khất sĩ: “Bây giờ tôi muốn nói cho các thầy nghe về một giáo pháp mà nghĩa lý cũng như khí vị được xem như là tốt đẹp từ chặng đầu, qua chặng giữa, tới chặng cuối; một giáo pháp thuần nhất và thanh tịnh có thể giúp các thầy thực tập được cuộc sống phạm hạnh thanh tịnh của người tu. Các thầy hãy lắng tai nghe và chiêm nghiệm cho khéo léo, tôi sẽ nói.

“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả. Như vậy con mắt phát sanh không phải như một thực thể chắc thật, và khi đã phát sanh thì phải hoại diệt sau đó. Có nghiệp, có báo mà không có tác giả. Uẩn này diệt thì nhường chỗ cho uẩn khác tiếp tục, nhìn kỹ thì các pháp chỉ là những cái giả danh mà thôi. Ðối với tai, mũi, lưỡi, thân và ý, sự thật cũng như thế. Chúng không phải là những thực tại chắc thật mà chỉ là những giả danh.

“Thế nào là giả danh. Giả danh nghĩa là vì cái này có nên cái kia có, vì cái này sanh nên cái kia sanh. Như vô minh mà có hành, do hành mà có thức, v.v..., cho đến khi cả khối khổ đau phát hiện. Giả danh cũng có nghĩa là vì cái này không nên cái kia không, vì cái này diệt nên cái kia diệt. Như do vô minh diệt mà hành diệt, do hành diệt mà thức diệt, v.v..., cho đến khi cả khối khổ đau hoại diệt.

“Này các thầy, đó gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không.”

Bụt nói kinh này xong, các thầy nghe Bụt lòng rất hoan hỷ, đem áp dụng liền lời dạy của Ngài vào sự thực tập.

(Tạp A Hàm, Kinh số 335)

Kinh Bốn Loại Thức Ăn

Ðây là những điều tôi đã được nghe vào một thời mà Bụt còn đang ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc gần thành Xá Vệ. Hôm ấy, Bụt bảo các thầy khất sĩ: “Có bốn loại thức ăn giúp các loài sinh vật lớn lên và sống còn. Bốn loại thức ăn ấy là gì? Thứ nhất là đoàn thực, thứ hai là xúc thực, thứ ba là ý tư thực và thứ tư là thức thực.

“Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về đoàn thực như thế nào? Ví dụ có một cặp vợ chồng kia có một đứa con trai nhỏ, thường chăm sóc nuôi dưỡng nó với rất nhiều thương yêu, một hôm muốn đem con (đến xứ khác sanh sống) đi qua một vùng sa mạc đầy nguy hiểm và tai nạn. Giữa đường hết lương thực, sa vào tình trạng đói khát cùng cực, không có cách nào giải quyết, họ mới bàn với nhau: “Chúng ta chỉ có một đứa con mà chúng ta thương yêu hết mực. Nếu ăn thịt nó thì ta sẽ sống sót và vượt qua khỏi cơn hiểm nạn này, còn nếu không thì cả ba người sẽ cùng chết”. Bàn tánh như vậy xong, họ giết đứa con, xót thương rơi lệ và gắng gượng ăn thịt con để sống còn mà vượt qua miền sa mạc.

“Này các thầy, các thầy có nghĩ rằng cặp vợ chồng kia ăn thịt con vì muốn thưởng thức hương vị của thịt ấy hoặc vì muốn cho thân thể họ có nhiều chất bổ dưỡng mà trở thành xinh đẹp thêm?

“Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, không”. Bụt lại hỏi: “Có phải cặp vợ chồng ấy bị bắt buộc ăn thịt con để có thể sống sót mà vượt qua khỏi chặng đường hiểm nguy và hoang vắng?” Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy.”

Bụt dạy: “Này các thầy, mỗi khi tiếp nhận đoàn thực, ta phải tập quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt tới được cái thấy và cái hiểu rạch ròi (đoạn tri) về đoàn thực. Có được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về đoàn thực rồi thì tâm vướng mắc vào ái dục sẽ được tiêu tán. Tâm vướng mắc đã được tiêu tán thì không còn một kiết sử nào về năm đối tượng ái dục mà không tiêu tán trong con người của vị thánh đệ tử có tu có học. Còn kết sử trói buộc thì mới còn phải trở lại trong cõi đời này.

“Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về xúc thực như thế nào? Ví dụ có một con bò bị lột da và đi đâu con bò ấy cũng bị các loài côn trùng sống trong đất cát, bụi bặm và cây cỏ bám vào và rúc rỉa. Nằm trên đất thì nó bị các loài côn trùng ở đất bám vào mà ăn, đi xuống dưới nước thì nó bị các loài côn trùng ở dưới nước bám vào mà ăn, đứng ở trong không nó cũng bị các loài côn trùng trong hư không bám vào mà ăn, nằm xuống hay đứng lên nó cũng cảm thấy bức xúc, đau đớn nơi thân thể. Này các thầy, khi tiếp nhận xúc thực, ta cũng phải thực tập quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt tới cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về xúc thực. Có được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về xúc thực rồi thì ta hết còn bị vướng mắc vào ba loại cảm thọ. Không còn bị vướng mắc vào ba loại cảm thọ thì các vị thánh đệ tử có học có tu đâu còn phải dụng công gì nữa, bởi vì tất cả những gì cần làm đã được làm xong.

“Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về ý tư thực như thế nào? Ví dụ có một đô thị hay một thôn làng gần bên bốc cháy, cháy cho đến khi không còn thấy khói lửa. Lúc bấy giờ có một trang sĩ phu thông minh, có trí tuệ, không muốn đi về phía khổ đau chỉ muốn đi về phía an lạc, không muốn đi về nẻo chết, chỉ muốn hướng về nẻo sống. Người ấy nghĩ rằng: nơi chốn kia có cháy lớn, tuy không còn khói, không còn ngọn lửa nhưng nếu ta không tránh mà lại đi vào trong chốn ấy thì chắc chắn sẽ chết, không còn nghi ngờ gì nữa. Suy tư như thế, người kia quyết định bỏ đô thị hoặc thôn làng ấy mà đi. Về ý tư thực, vị khất sĩ cũng phải quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về ý tư thực. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về ý tư thực rồi thì ba loại tham ái sẽ được đoạn trừ. Ba loại tham ái đoạn trừ rồi thì vị thánh đệ tử có tu có học kia đâu còn phải lao tác gì nữa, vì cái gì cần làm đã được làm xong.

“Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ quán chiếu về thức thực như thế nào? Ví dụ quân lính canh tuần của vị quốc vương kia vừa bắt được một tên đạo tặc, trói người ấy lại và điệu tới nơi vua. Vì tội trộm cướp, kẻ đạo tặc bị phạt bằng cách để cho người ta đâm qua thân hình mình ba trăm mũi giáo, đau đớn khổ sở suốt cả đêm ngày. Về thức thực vị khất sĩ cũng phải quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về thức thực. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về thức thực rồi thì cũng sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về danh sắc. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về danh sắc rồi thì vị thánh đệ tử có tu có học kia đâu còn phải dụng công gì nữa, vì cái gì cần làm đã được làm xong.”

Bụt nói kinh này xong, các vị khất sĩ đều hoan hỷ phụng hành.

Ái Ngữ Lắng Nghe

Con đã trở về

Quỳ dưới đài sen quý

Nhìn lên con quan chiêm và ngưỡng mộ

Nét tâm linh rạng rỡ

Tỏa chiếu trên vầng trán Thế Tôn

Thế Tôn là ánh sáng bình minh

Là không gian bao la bát ngát

Là hành tinh vững chãi

Chuyên chở chúng con

Trong cuộc hành trình

Từ thế giới u minh

Trở về cõi viên dung vô ngại. (C)

Từ vô lượng kiếp xa xưa

Chúng con đã gây lầm lỗi

Ðã tạo nhiều khổ đau

Mỗi chúng con đều ôm đầy nội kết

Có khi không nhìn được mặt nhau

Không còn khả năng lắng nghe

Không còn nói được với nhau những lời hòa ái

Sự truyền thông giữa chúng con

Ðã trở nên khó khăn vì bao chướng ngại

Khổ đau không có đường giải tỏa

Hiểu và thương càng ngày càng vắng mặt

Tình trạng nặng nề bế tắc

Làm tắt lịm mọi niềm vui

Nay con xin đem đầu lạy xuống

Với tâm dạ chí thành

Nguyện vâng lời chỉ dạy đức Thế Tôn

Bắt đầu thực tập pháp lắng nghe

Và nói lời ái ngữ

Theo pháp môn lợi hành và đồng sự

Ðể mau chóng tái lập được truyền thông. (C)

Xin chuyên cần thực tập

Hộ trì thân tâm

Bằng hơi thở chánh niệm

Bằng bước chân ý thức

Ðể có khả năng nhận diện

Ðể có khả năng ôm ấp

Những giận hờn và bực bội trong tâm

Ðể có thể ngồi lắng nghe

Với tất cả tâm từ bi

Và để người kia có dịp nói ra

Những khổ đau uất ức

Xin tập ngồi lắng nghe

Với niềm cảm thương thao thức

Ðể giúp cho người kia bớt khổ

Con xin hứa với Bụt

Là dù người kia có nói

Những điều không phù hợp với sự thực

Dù lời nói người kia

Có hàm ý buộc tội và trách móc

Con cũng sẽ chăm chú ngồi nghe.

Con sẽ biết đợi chờ

Cho đến khi thuận lợi

Mới tìm ra phương cách

Ðể nói cho người kia nghe

Những gì đã thật sự xảy ra

Ðể người kia có dịp

Ðiều chỉnh nhận thức mình.

Con nguyện sẽ thực tập

Dùng ngôn từ hòa ái

Ðể giúp người đối diện

Có thể nghe và hiểu

Những gì con muốn nói

Mỗi khi trong lòng bực bội

Con sẽ chỉ tập thở

Tập đi thiền hành

Và nhất thiết tránh việc luận tranh

Con nguyện con chỉ nói

Mỗi khi con làm chủ được tâm mình. (C)

Con xin đức Thế Tôn

Ðức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Ðại Trí

Ðức Bồ Tát Phổ Hiền Ðại Hạnh

Và đức Bồ Tát Quán Âm Ðại Bi

Gia hộ và soi sáng cho con

Ðể con mau chóng thành công

Trên con đường thực tập.

Kệ Thỉnh Chuông Đại Hồng

1. Ba nghiệp lắng thanh tịnh

Gửi lòng theo tiếng chuông

Nguyện người nghe tỉnh thức

Vượt thoát nẻo đau buồn.

2. Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe

Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.

3. Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới

Khắp nơi u tối mọi loài nghe

Siêu nhiên vượt thoát vòng sanh tử

Giác ngộ tâm tư một hướng về.

4. Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới

Xa xôi tăm tối cũng đều nghe

Những ai lạc bước mau dừng lại

Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về.

5. Nghe chuông phiền não tan mây khói

Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười

Hơi thở nương chuông về chánh niệm

Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi.

6. Nghe tiếng chuông Lòng nhẹ buông

Tâm tĩnh lặng

Hết sầu thương

Tập buông thả

Thôi vấn vương

Lắng nghe thấu

Tận nguồn cơn

Học nhìn lại

Hiểu và thương.

7. Chuông đại hồng mới vọng

Tiếng kệ xướng đã vang

Trên vọng tới thiên đường

Dưới thông về địa phủ.

8. Nam Mô Bụt Tỳ Lô Giá Na, Pháp Thân Thanh Tịnh.

9. Nam Mô Bụt Lô Xá Na, Báo Thân Viên Mãn

10. Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni, Hóa Thân ngàn muôn ức.

11. Nam Mô Bụt A Di Ðà cõi nước Tịnh Ðộ.

12. Nam Mô Bụt Di Lặc hạ sanh trong tương lai.

13. Nam Mô Bụt Dược Sư Lưu Ly.

14. Nam Mô Bụt Bất Ðộng cõi nước Diệu Hỷ.

15. Nam Mô Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi.

16. Nam Mô Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền.

17. Nam Mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm.

18. Nam Mô Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.

19. Nguyện ngày an lành đêm an lành Ngày đêm sáu thời đều an lành

An lành trong mỗi giây mỗi phút

Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở.

20. Bốn loài sinh lên đất Tịnh

Ba cõi thác hóa tòa Sen

Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền

Vạn loại hữu tình lên Thập Ðịa.

21. Tám nạn ba đường đều thoát khỏi

Bốn ân ba cõi thấm hồng ân

Thế giới khắp nơi không chiến tranh

Gió hòa mưa thuận dân an lạc.

22. Ðại chúng chuyên tu càng tinh tiến

Mười địa đi lên không khó khăn

Tăng thân an lạc sống tươi vui

Mọi giới quy y thêm phước tuệ.

23. Nguyện chúc đạo Bụt sáng thêm

Pháp môn càng ngày càng tỏ rạng

Gió hòa mưa thuận Ðất nước bình an.

24. Khắp nơi thành thị nông thôn

Mọi giới biết noi theo đường tu tập.

25. Thiên nhiên được bảo vệ an lành

Xã hội được tự do bình đẳng.

26. Xin thổi ngọn gió từ bi thanh lương vào thế gian nóng bức

Ðem mặt trời trí tuệ rạng rỡ về ngự giữa không gian âm u.

27. Khắp nơi đạo giải thoát được tuyên dương

Mưa pháp thấm nhuần chúng sanh đều lợi lạc.

28. Hiện tiền đại chúng tu tập tinh chuyên

Biết thương yêu nhau như ruột thịt

Chuyển hóa nội tâm trang nghiêm Tịnh Ðộ.

29. Nguyện noi gương Phổ Hiền và Quán Tự Tại Cùng các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

30. Lạy đức Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Ngài, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ.

31. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến.

32. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu.

33. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói.

34. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi.

35. Nam Mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế Âm.

36. Nam Mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế Âm.

37. Nam Mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế Âm.

38. Lạy đức Bồ Tát Ðịa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Ngài, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát.

39. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng.

40. Xin nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người.

41. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế.

42. Chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt.

43. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Ðất, để có thể trở thành trung kiên và không kỳ thị như Ðất.

44. Và cũng được như Ðất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.

45. Nam Mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.

46. Nam Mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.

47. Nam Mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.

48. Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.

49. Ðã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Ðã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Ðã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập.

50. Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Ðề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài.

51. Nghe chuông phiền não tan mây khói

Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười

Hơi thở nương chuông về chánh niệm

Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi.

52. Nghe tiếng chuông

Lòng nhẹ buông

Tâm tĩnh lặng

Hết sầu thương

Tập buông thả

Thôi vấn vương

Lắng nghe thấu

Tận nguồn cơn

Học nhìn lại

Hiểu và thương.

53. Thỉnh chuông pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Ðệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sanh mọi miền.

54. Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên.

Văn thỉnh linh

1. Hào quang chiếu rạng nơi tăm tối

Bụt đã phân thân xuống đạo tràng

Xin độ hương linh về cõi Tịnh

Ngồi sen chín phẩm đến Tây Phương...

Nam mô Bồ Tát Tiến Vãng Sanh.

2. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Chúng sanh độ hết mới chứng bồ đề

Ðịa ngục chưa không nguyền chưa dừng nghỉ

Nam mô đức Bồ Tát Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương giáo chủ cõi U Minh

Xin đừng quên lời thề nguyện năm xưa

Có mặt nơi này hướng dẫn hương linh cùng các loại cô hồn về đây nơi chốn đàn trai tham gia pháp hội...

3. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Ðại sĩ Quan Âm thật tuyệt vời

Cánh tay cứu độ hiện ngàn nơi

Không đâu cầu thỉnh mà không ứng

Biển khổ thuyền giong cứu độ người Nam mô đức Bồ Tát Ðại Bi Quán Thế Âm bậc đại từ cứu khổ cứu nạn thường xuyên hạnh lắng nghe

Xin đừng quên lời thề nguyện năm xưa

Có mặt nơi này hướng dẫn hương linh cùng các loại cô hồn về đây nơi chốn đàn trai tham gia pháp hội...

4. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Biển khổ mênh mông nghiệp đã mang

Hôn mê chưa tỉnh giấc kê vàng

Hãy mau trì niệm hồng danh Bụt

Rời bỏ bờ mê, bến giác sang.

Một nén danh hương

Một phen triệu thỉnh...

Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố trong bảy đời qua cùng với thân nhân quyến thuộc và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng nương tựa chơn Ngôn giờ phút này đây trở về phó hội tham dự đàn chay nghe kinh chuyển hóa hưởng nguồn Cam lộ.

5. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Ác vàng vừa lặn

Thỏ ngọc đã lên Dù cốt nhục cũng phân ly

Mặt mũi xưa đâu còn thấy?

Hai nén danh hương

Hai phen triệu thỉnh...

Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố trong bảy đời qua cùng với thân nhân quyến thuộc và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng nương tựa chơn Ngôn giờ phút này đây trở về phó hội tham dự đàn chay nghe kinh chuyển hóa hưởng nguồn Cam lộ.

6. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Hình hài chỉ như mộng

Kiếp sống mãi vô thường

Nương sức Từ Tam Bảo

Mở được lối thanh lương.

Ba nén danh hương

Ba phen triệu thỉnh...

Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố trong bảy đời qua cùng với thân nhân quyến thuộc và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng nương tựa chơn Ngôn giờ phút này đây trở về phó hội tham dự đàn chay nghe kinh chuyển hóa hưởng nguồn Cam lộ.

7. Tuyên đọc chơn Ngôn xin triệu thỉnh

Hương linh đã tỉnh và đã nghe

Sức thiêng Tam Bảo nguyện gia trì

Tất cả giờ đây về pháp hội

Hương linh nghe triệu, nghe triệu thỉnh đến ngay đây.

8. Triệu thỉnh, hương linh đã đến đây

Tiếp nhận hương hoa phẩm cúng dường

Hãy xin ngồi lại lắng nghe kinh

Lắng nghe kinh, Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (3 lần)

9. Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thụ trì Xin nguyện đi vào biển tuệ tinh thông giáo nghĩa huyền vi.

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Ða

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Ðộ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Ðều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn.

“Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành, thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc.

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Ðộ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Ðạt Niết Bàn tuyệt đối.

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Ðộ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật”.

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (3 lần)

10. Tổ chức đàn trai

Thầy A Nan khởi xướng

Ðại sĩ Quan Âm

Tiêu Diện mang hình tướng

Niệm Bụt nhất tâm

Ðọc chơn Ngôn cứu khổ

Vạn loại cô hồn

Ðều được cùng siêu độ.

11. Chẩn tế đàn khai

Mọi loài xin mời tới

Uổng tử vong thân

Hồn về đây đủ loại

Tám nạn ba đường

Hiểm nguy đều thoát khỏi

Nương bóng Từ Bi

Ngồi yên nghe pháp thoại.

12. Bụt A Di Ðà

Không quên lời thề cũ

Sanh chúng mê lầm

Ðắm chìm trong biển khổ

Duỗi cánh tay vàng

Giong thuyền Từ cứu độ

Vớt hết muôn loài

Ðưa về nơi tịnh thổ.

Nam mô Bụt và Bồ Tát trên hội Liên Trì. (3 lần)

Quán niệm trước buổi họp

(Một phép thực tập ở Làng Mai, được vị chủ tọa đọc lên trước các buổi họp chúng hay các buổi họp giáo thọ để đại chúng cùng thực tập trong suốt buổi họp)

“Lạy Bụt, lạy Tổ, chúng con xin nguyện họp buổi họp hôm nay trong tinh thần Ý Hòa Đồng Duyệt và Kiến Hòa Đồng Giải. Nguyện sử dụng ái ngữ và đế thính để buổi họp đưa lại kết quả tốt đẹp nhất làm phẩm vật cúng dường Tam Bảo. Chúng con nguyện không ngần ngại chia sẻ cái thấy và tuệ giác của chúng con, nhưng chúng con cũng nguyện sẽ không mở lời nếu chúng con nhận thấy trong tâm còn có tâm hành bực bội. Chúng con quyết tâm không để cho sự căng thẳng xảy ra trong buổi họp, và lỡ nếu trong số chúng con có người nhận thấy có sự căng thẳng, chúng con xin lập tức ngừng lại để sám hối tại chỗ và trả lại cho đại chúng không khí Ý Hòa Đồng Duyệt.”

Quán niệm trước buổi soi sáng

(Một phép thực tập ở Làng Mai, được đọc lên trước mỗi buổi soi sáng để đại chúng cùng thực tập)

Lạy Bụt, lạy Tổ, hôm nay chúng con thực tập soi sáng cho các sư anh/sư chị và sư em của chúng con. Chúng con biết tất cả chúng con đều là những thành phần của cùng một tăng thân, tất cả chúng con đều là xương thịt của cùng một tăng thân. Vì vậy chúng con ý thức rằng soi sáng cho bất cứ ai trong tăng thân cũng là tự soi sáng cho chính mình. Chúng con nguyện sẽ đem hết tình thương và sự hiểu biết của chúng con để thực tập công việc soi sáng. Chúng con nguyện tất cả những gì chúng con nói ra đều phát sinh từ thiện ý muốn đi tới một cái thấy chính xác về đối tượng soi sáng và cống hiến cho đương sự những đề nghị thực tập thực tế để có thể đưa tới những chuyển hóa tốt đẹp cho đối tượng soi sáng. Chúng con nguyện cố gắng không để cho sự buồn giận và những thành kiến làm sai lệch cái thấy của chúng con. Chúng con nguyện bất cứ một lời nào của chúng con cũng đều phát xuất từ tình thương. Chúng con biết trong khi soi sáng cho một thành phần của tăng thân, chúng con cũng đang soi sáng cho bản thân chúng con, vì vậy việc thực tập soi sáng cũng đem lợi lạc cho bản thân của mỗi chúng con. Lạy Bụt và Chư Tổ gia hộ cho chúng con để buổi thực tập soi sáng này được thành công viên mãn.

Mười Bốn Bài Kệ Chỉ Quán

1. Như chim có hai cánh
Thiền tập có chỉ, quán
Hai cánh chim nương nhau
Chỉ và quán song hành

2. Chỉ là tập dừng lại
Ðể nhận diện, tiếp xúc
Nuôi dưỡng và trị liệu
Lắng dịu và chú tâm

3. Quán là tập nhìn sâu
Vào bản chất năm uẩn
Làm phát khởi tuệ giác
Chuyển hóa mọi sầu đau

4. Hơi thở và bước chân
Chế tác nguồn chánh niệm
Ðể nhận diện, tiếp xúc
Với sự sống mầu nhiệm

5. Làm lắng dịu thân, tâm
Nuôi dưỡng và trị liệu
Hộ trì được sáu căn
Và duy trì chánh định

6. Nhìn sâu vào thực tại
Thấy tự tánh các pháp
Quán giúp ta buông bỏ
Mọi tìm cầu sợ hãi

7. An trú trong hiện tại
Chuyển hóa các tập khí
Làm phát sanh tuệ giác
Giải thoát mọi phiền não

8. Vô thường là vô ngã
Vô ngã là duyên sanh
Là không, là giả danh
Là trung đạo, tương tức

9. Không, vô tướng, vô tác
Giải tỏa mọi sầu đau
Trong nhật dụng công phu
Không kẹt vào lý giải

10. Niết bàn là vô đắc
Ðốn, tiệm không phải hai
Chứng đạt sống thảnh thơi
Ngay trong giờ hiện tại

11. Các thiền kinh căn bản
Như An Ban, Niệm Xứ
Chỉ đường đi nước bước
Chuyển hóa thân và tâm

12. Các kinh luận Ðại Thừa
Mở thêm nhiều cửa lớn
Giúp ta thấy chiều sâu
Của dòng thiền Nguyên Thỉ

13. Như Lai và Tổ Sư
Thiền chẳng nên cách biệt
Bốn đế phải nương nhau
Làm nền tảng truyền thừa

14. Có tăng thân yểm trợ
Thực tập dễ thành công
Chí nguyện lớn độ sanh
Lên đường mau thành tựu.


[][Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục][